SlideShare a Scribd company logo
1 of 97
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐỖ THỊ HẬU
N¡NG LùC HµNH VI D¢N Sù CñA C¸ NH¢N
THEO PH¸P LUËT VIÖT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐỖ THỊ HẬU
N¡NG LùC HµNH VI D¢N Sù CñA C¸ NH¢N
THEO PH¸P LUËT VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luật Dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 60 38 01 03
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN HẢI AN
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Đỗ Thị Hậu
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NĂNG LỰC HÀNH VI DÂN
SỰ CỦA CÁ NHÂN TRONG QUAN HỆ PHÁP LUẬT
DÂN SỰ............................................................................................... 7
1.1. Khái quát chung về năng lực chủ thể trong quan hệ pháp
luật dân sự........................................................................................... 7
1.1.1. Khái niệm năng lực chủ thể.................................................................. 7
1.1.2. Năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự của
người nước ngoài tại Việt Nam..........................................................19
1.1.3. Mối quan hệ giữa năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi
dân sự của cá nhân..............................................................................24
1.2. Khái lược quy định của pháp luật Việt Nam về năng lực
hành vi dân sự của cá nhân .............................................................24
1.2.1. Quy định của pháp luật phong kiến về năng lực hành vi dân sự
của cá nhân.........................................................................................24
1.2.2. Quy định của pháp luật thời kì Pháp thuộc về năng lực hành vi
dân sự của cá nhân..............................................................................27
1.2.3. Quy định của pháp luật từ năm 1954 đến 1995 về năng lực hành
vi dân sự của cá nhân .........................................................................29
1.2.4. Quy định của pháp luật từ năm 1995 đến nay về năng lực hành
vi dân sự của cá nhân .........................................................................30
1.3. Ý nghĩa của việc quy định năng lực hành vi dân sự của cá nhân.....31
1.3.1. Bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ thể khi tham gia quan hệ
dân sự..................................................................................................31
1.3.2. Góp phần nâng cao trách nhiệm của các bên khi tham gia kí kết
hợp đồng.............................................................................................31
1.3.3. Góp phần ngăn ngừa, răn đe các hành vi vi phạm pháp luật .............32
1.3.4. Cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp khi vụ việc dân sự liên
quan đến năng lực hành vi dân sự......................................................32
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ
NĂNG LỰC HÀNH VI DÂN SỰ CỦA CÁ NHÂN ......................33
2.1. Căn cứ xác định mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân......33
2.2. Các mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân........................35
2.2.1. Năng lực hành vi dân sự đầy đủ.........................................................35
2.2.2. Năng lực hành vi dân sự một phần.....................................................37
2.2.3. Người không có năng lực hành vi dân sự ..........................................40
2.2.4. Người mất năng lực hành vi dân sự ...................................................41
2.2.5. Năng lực hành vi dân sự bị hạn chế ...................................................42
2.3. Quy định của pháp luật về năng lực hành vi dân sự của cá
nhân trong một số quan hệ pháp luật dân sự cụ thể.....................43
2.3.1. Năng lực hành vi dân sự của người thành niên..................................43
2.3.2. Năng lực hành vi dân sự của người chưa thành niên.........................45
2.3.3. Người mất năng lực hành vi dân sự ...................................................52
2.3.4. Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.........................................55
Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ
NĂNG LỰC HÀNH VI DÂN SỰ CỦA CÁ NHÂN VÀ
NHỮNG GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
NĂNG LỰC HÀNH VI DÂN SỰ CỦA CÁ NHÂN ......................57
3.1. Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về năng lực hành vi
dân sự của cá nhân...........................................................................57
3.1.1. Những bất cập trong quy định pháp luật về năng lực hành vi
dân sự của cá nhân..............................................................................57
3.1.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về năng lực hành vi dân sự của cá
nhân qua một số vụ án........................................................................60
3.2. Những giải pháp hoàn thiện pháp luật về năng lực hành vi
dân sự của cá nhân...........................................................................76
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật dân sự về năng lực
hành vi dân sự cá nhân .......................................................................77
3.2.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự về năng lực hành
vi dân sự của cá nhân .........................................................................80
KẾT LUẬN....................................................................................................82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................83
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS: Bộ luật dân sự
BLTTDS: Bộ luật tố tụng dân sự
LHN & GĐ: Luật hôn nhân và gia đình
TAND: Tòa án nhân dân
UBND: Ủy ban nhân dân
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Để đáp ứng các nhu cầu trong đời sống, mỗi cá nhân phải không ngừng
tham gia các mối quan hệ xã hội, trong đó có các giao dịch Dân sự. Nhằm
đảm bảo sự ổn định và trật tự trong quá trình thiết lập và thực hiện các giao
dịch dân sự, hướng tới việc thực hiện lợi ích cho các chủ thể tham gia cũng
như lợi ích chung toàn xã hội, không phải bất cứ cá nhân nào cũng có quyền
tham gia vào các giao dịch dân sự. Pháp luật dân sự nước ta quy định chỉ có
những cá nhân có năng lực chủ thể mới có quyền tham gia những giao dịch
ấy. Năng lực chủ thể được tạo thành bởi hai thành tố, đó là năng lực pháp luật
dân sự và năng lực hành vi dân sự. Trong đó, năng lực pháp luật dân sự của cá
nhân có từ khi sinh ra và ai cũng có năng lực pháp luật như nhau. Còn năng
lực hành vi dân sự của cá nhân được hình thành khi có những điều kiện nhất
định và có nhiều mức độ khác nhau tương ứng với khả năng nhận thức và
điều khiển hành vi của cá nhân đó.
Hiện nay, các quyền tự do dân chủ dành cho cá nhân càng ngày càng
lớn và đời sống sinh hoạt của mỗi cá nhân rất đa dạng, phức tạp kéo theo sự
phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực giao lưu dân sự. Việc giải quyết những
tranh chấp liên quan đến vấn đề năng lực hành vi dân sự của cá nhân khi
tham gia quan hệ pháp luật dân sự không phải bao giờ cũng thỏa đáng. Bởi
vì, cá nhân muốn là chủ thể tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự cần
phải đạt đến một trình độ phát triển nhất định về thể lực và trí lực, trong khi
đó, không ít giao dịch dân sự diễn ra trên thực tế mà người tham gia không
thỏa mãn những điều kiện về năng lực chủ thể dẫn đến tranh chấp khi thực
hiện. Chẳng hạn, người tham gia giao dịch không có năng lực hành vi dân
sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc tình trạng lợi dụng người chưa
thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự để tiến thành giao dịch dân
2
sự... Bên cạnh đó, hệ thống các văn bản pháp luật có quy định liên quan đến
năng lực hành vi dân sự vẫn còn những mâu thuẫn, chồng chéo dẫn đến khó
khăn cho quá trình áp dụng luật như vẫn chưa có sự thống nhất về thuật ngữ
"trẻ em", "vị thành niên", "người chưa thành niên", hay quy định về các độ
tuổi tham gia quan hệ pháp luật dân sự còn chưa thống nhất giữa Bộ luật dân
sự, Luật Hôn nhân và Gia đình hay Bộ luật lao động… Chính sự thiếu đồng
bộ nêu trên cũng khiến cho các nhà làm luật khó khăn trong việc giải thích
và áp dụng pháp luật, dẫn đến tình trạng thực thi pháp luật kém hiệu quả,
quyền lợi hợp pháp của người dân khi tham gia quan hệ pháp luật dân sự ít
nhiều chưa được đảm bảo.
Nghiên cứu năng lực chủ thể nói chung và năng lực hành vi dân sự của
cá nhân nói riêng trong quan hệ pháp luật dân sự là việc làm có ý nghĩa quan
trọng về mặt lý luận và thực tiễn nhằm xác định tư cách chủ thể cũng như
trách nhiệm tài sản của cá nhân khi xác lập, thực hiện quan hệ pháp luật dân
sự cụ thể. Do đó, tác giả chọn đề tài "Năng lực hành vi dân sựcủa cá nhân
theo pháp luâ ̣t Viê ̣t Nam" là đề tài luận văn tha ̣c sỹ của mình nhằm tìm hiểu
thực tra ̣ng áp dụng các quy định pháp luật về năng lực hành vi dân sự của cá
nhân, qua đó đề xuất kiến nghị nhằm bổ sung và hoàn thiê ̣n quy định pháp
luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể không chỉ cho công
dân Viê ̣t Nam mà còn cho người nước ngoài cư trú ta ̣i Viê ̣t Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về năng lực hành vi dân sự của cá nhân đã được đề cập khá
nhiều trong một số luận văn và bài viết đăng trên các tạp chí. Cụ thể đó là các
bài viết và công trình nghiên cứu: Luận văn thạc sỹ Luật học: "Năng lực chủ
thể của cá nhân trong giao dịch dân sự" của tác giả Nguyễn Thị Thanh Hải,
năm 2013; Luận văn thạc sỹ Luật học: "Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường
ngoài hợp đồng của cá nhân - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" của tác giả
3
Nguyễn Minh Thư; Luận văn thạc sỹ Luật học: "Những quy định chung về
quyền thừa kế trong Bộ luật dân sự", người thực hiện Nguyễn Minh Tuấn; bài
viết: "Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về cử người giám hộ cho
người mất năng lực hành vi dân sự không có người giám hộ đương nhiên"
đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân số 01-2013, kỳ III của Th.s Nguyễn Thị
Hạnh; bài viết "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân
có năng lực hành vi dân sự đầy đủ" của tác giả Nguyễn Thị Thúy Hằng đăng
trên Tạp chí Tòa án nhân dân tháng 5/2013; bài viết: "Thực tiễn thi hành các
quy định của pháp luật về người chưa thành niên trong tố tụng dân sự -
Những khó khăn, vướng mắc và giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật
tố tụng dân sự đối với người chưa thành niên" của TS.Nguyễn Hải An tham
luận tại Hội thảo quốc tế của Ủy ban Tư pháp Quốc hội về xây dựng Tòa Gia
đình, người chưa thành niên và Luật Tổ chức Tòa án, Hải Phòng ngày 27,
28/2/2014; bài viết "Bàn về năng lực hành vi dân sự của cá nhân : Từ tuổi đã
thành niên đến tuổi kết hôn của nam giới " của TS. Nguyễn Thi ̣Hoài Phương
cùng diễn đàn trao đổi xung quanh vấn đề trên đã đề cập đến vấn đề có nên
thay đổi độtuổi thành niên liên quan đến viê ̣c kết hôn hay không . Bài viết
"Bàn về hợp đồng vô hiệu do được giao kết bởi người bị mất năng lực hành vi
dân sự qua một vụ á n " của TS.Đỗ Văn Đại được đăng trên Tạp chí khoa học
pháp lý số 4 năm 2007, cho thấy những khó khăn trong viê ̣c xác đi ̣nh một
người bi ̣mất năng lực hành vi dân sự k hi giao kết hợp đồng . Ngoài ra, Luâ ̣t
sư Trương Thanh Đứ c cũng đề câ ̣p đến hê ̣quả pháp lý cùng những vương
mắc từ viê ̣c sử dụng thiếu chính xác các cụm từ quy đi ̣nh "đô ̣tuổi" - căn cứ
xác nhận mức độ năng lực hành vi dân sự trong bài viết "Quản lý người chưa
thành niên" của trên Tạp chí Quản lý Nhà nước số 81+82 tháng 4+5/2010...
Các bài nghiên cứu trên chủ yếu phân tích một số khía ca ̣nh liên quan
đến quy đi ̣nh về năng lực hành vi dân sự của cá nhân . Do đó, trong toàn bộ
4
quá trình nghiên cứu luận văn, tác giả tiếp cận vấn đề năng lực hành vi dân sự
của cá nhân một cách toàn diê ̣n , xuyên suốt hệ thống các quy đi ̣nh trong hê ̣
thống văn bản pháp luâ ̣t Viê ̣t Nam , đồng thời so sánh với quy đi ̣nh của ph áp
luâ ̣t nước ngoài về năng lực hành vi dân sự. Kết quả nghiên cứ u của luâ ̣n văn
sẽ góp phần ho àn thiện Bộ luật dân sự , tạo sự đồng bộ về mặt pháp lý cũng
như thống nhất trong viê ̣c áp dụng các quy đi ̣nh pháp luật về năng lực hành vi
dân sự của cá nhân.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Trong khuôn khổ luận văn thạc sỹ, tác giả tập trung nghiên cứu, phân
tích để làm rõ các khía cạnh về năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo quy
định của pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng pháp luật về năng lực hành
vi dân sự của cá nhân trong sự so sánh, liên hệ với quy định của pháp luật Việt
Nam thời kì trước và quy định pháp luật của một số quốc gia trên thế giới.
4. Cơ sở lý luận về phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận tổng quan chung của toàn bộ luận văn tác giả
dựa trên nền tảng chủ nghĩa Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vâ ̣t li ̣ch sử cùng khoa học lý luận chung về Nhà nước và pháp luật.
Các phương pháp nghiên cứu cụthể được sử dụng để tiến hành nghiên
cứu luận văn bao gồm phương pháp phân tích, so sánh, chứng minh, thống kê
để từ những quy định chung đi đến giải quyết từng lĩnh vực cụ thể, sau đó
quay lại phân tích và khẳng định những quy định chung đó.
5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài giúp cho tác giả tiếp cận và đánh giá toàn diện
về vấn đề năng lực hành vi dân sự của cá nhân từ khái niệm đến các mức độ
năng lực hành vi dân sự của cá nhân , năng lực hành vi dân sự của cá nhân
trong các quan hệ pháp luật. Từ đó, tác giả đưa ra những lập luận, đánh giá ưu
điểm, hạn chế của các quy định năng lực hành vi dân sự của cá n hân về mă ̣t
5
pháp lý và thực tiễn áp dụng . Đặc biệt, trong quá trình nghiên cứu luận văn,
những kiến thức tìm hiểu được sẽ phục vụ hiệu quả cho công việc của tác giả
sau này. Để đạt được mục đích này, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài được xác
định trên những khía cạnh sau:
- Làm rõ khái niệm năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự
của cá nhân;
- Phân tích nội dung năng lực hành vi dân sự của cá nhân và các quy
đi ̣nh liên quan theo pháp luật Việt Nam hiện hành;
- Xem xét trách nhiệm, tư cách tố tụng của các chủ thể thông qua quy
định về năng lực hành vi dân sự.
- Thực tiễn áp dụng các quy định trên thực tế thông qua việc phân tích
những vụ án cụ thể, qua đó đề xuất kiến nghị góp hoàn thiê ̣n vướng mắc , bất
câ ̣p của quy đi ̣nh pháp luâ ̣t.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn là kết quả nghiên cứu khoa học, sự tìm tòi, học hỏi, hướng
dẫn của thầy cô và thực tiễn công tác xét xử về năng lực hành vi dân sự của cá
nhân, những đóng góp của luận văn được thể hiện cụ thể trên những phương
diện sau:
- Khái quát những vấn đề cơ bản về năng lực hành vi dân sự của cá
nhân trong hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung, pháp luật dân sự nói
riêng, giúp cho mọi người khi nghiên cứu về năng lực hành vi dân sự của cá
nhân có cách nhìn khái quát, toàn diện các vấn đề về năng lực hành vi dân sự
của cá nhân.
- Đánh giá thực tiễn thi hành các quy định về năng lực hành vi dân sự
của cá nhân thong qua một số vụ việc cụ thể.
- Phân tích những bất cập của các quy định pháp luật dân sự hiện hành
về năng lực chủ thể cũng như các vấn đề có liên quan đến năng lực hành vi
6
dân sự của cá nhân. Qua đó, đưa ra đề xuất, kiến nghị thiết thực để hoàn thiện
quy định pháp luật tương ứng.
- Luận văn là tài liệu quan trọng giúp cho cán bộ nghiên cứu, cán bộ
làm công tác thực tiễn hiểu rõ và xác định các mức độ năng lực hành vi dân
sự của cá nhân cũng như hiệu lực pháp lý của các quan hệ pháp luật dân sự
mà cá nhân tham gia.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn cao học với đề tài: "Năng lực hành vi dân sự của cá
nhân theo pháp luật Việt Nam" thuộc chuyên ngành Luật dân sự, ngoài
phần Tổng quan, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo còn được kết
cấu bởi ba chương:
Chương 1. Lý luận chung về năng lực hành vi dân sự của cá nhân
trong quan hệ pháp luật dân sự.
Chương 2. Quy định của pháp luật hiện hành về năng lực hành vi dân
sự của cá nhân.
Chương 3. Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về năng lực hành vi
dân sự của cá nhân và những giải pháp hoàn thiện pháp
luật về năng lực hành vi dân sự của cá nhân.
7
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NĂNG LỰC HÀNH VI DÂN SỰ
CỦA CÁ NHÂN TRONG QUAN HỆ PHÁP LUẬT DÂN SỰ
1.1. Khái quát chung về năng lực chủ thể trong quan hệ pháp luật
dân sự
1.1.1. Khái niệm năng lực chủ thể
Chủ thể là yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc hình thành các quan
hệ pháp luật. Việc xác định chủ thể của một ngành luật và các điều kiện liên
quan đến năng lực chủ thể của ngành luật đó là do đặc thù của quan hệ xã hội
thuộc đối tượng điều chỉnh của một ngành luật. Xuất phát từ tính đa dạng và
phong phú của các quan hệ dân sự phát sinh trong đời sống của xã hội nên
chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự rất đa dạng với đặc điểm riêng biệt của
từng loại chủ thể.
Chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự bao gồm: cá nhân là công dân
Việt Nam, người nước ngoài và người không quốc tịch; pháp nhân; hộ gia
đình; tổ hợp tác và trong nhiều trường hợp Nhà nước cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là chủ thể đặc biệt của quan hệ pháp luật dân sự. Dưới góc độ
khoa học pháp lý, cá nhân, tổ chức đáp ứng được những điều kiện do pháp
luật quy định trong từng loại quan hệ nhất định là chủ thể của quan hệ pháp
luật. Vì vậy, để trở thành chủ thể quan hệ pháp luật thì cá nhân, tổ chức phải
có năng lực chủ thể đầy đủ.
Không phải mọi cá nhân đều có thể tự mình tham gia vào quan hệ pháp
luật dân sự. Khi cá nhân muốn tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự cần
đáp ứng điều kiện quan trọng đầu tiên về năng lực chủ thể. Vậy năng lực chủ
thể là gì? Theo quan điểm của những nhà tâm lý học: năng lực chủ thể của cá
nhân là tổng hợp các đặc điểm, thuộc tính tâm lý của cá nhân phù hợp với yêu
8
cầu đặc trưng của một hoạt động nhất định nhằm đảm bảo cho hoạt động đó
đạt hiệu quả cao. Tâm lý học chia năng lực chủ thể của cá nhân thành các
dạng khác nhau như năng lực chung và năng lực chuyên môn. Còn hiểu theo
tính chất tâm sinh lý, năng lực chủ thể của cá nhân được hiểu là quá trình con
người tiếp thu kiến thức, kỹ năng có thể sử dụng khi hành động. Trong cùng
một điều kiện, hoàn cảnh nhưng mỗi cá nhân khác nhau có thể tiếp thu các
kiến thức, kỹ năng với mức độ khác nhau. Có người tiếp thu nhanh nhưng
cũng có người phải mất nhiều thời gian và sức lực mới tiếp thu được.
Cho đến nay, bộ luật dân sự vẫn chưa chính thức đưa ra khái niệm về
năng lực chủ thể. Tuy nhiên, căn cứ vào các quy định hiện hành của BLDS về
năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự của cá nhân, có thể rút ra khái
niệm về năng lực chủ thể như sau: Năng lực chủ thể của cá nhân là khả năng
của cá nhân bằng hành vi có ý chí của mình nhằm xác lập, thực hiện, thay
đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự khi được pháp luật trao quyền hoặc
phải gánh vác nghĩa vụ.
Năng lực chủ thể của cá nhân được tạo thành bởi hai thành tố là năng
lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự. Trong đó, năng lực pháp luật
dân sự là quyền xử sự của chủ thể do pháp luật ghi nhận và cho phép thực
hiện. Còn năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng tự có của chủ thể
trong việc thực hiện, kiểm soát và làm chủ hành vi. Mọi chủ thể đều có năng
lực pháp luật giống nhau nên cần xem xét yếu tố năng lực hành vi dân sự của
cá nhân để xác định tư cách chủ thể khi tham gia vào các quan hệ dân sự.
1.1.1.1. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân
Khoa học pháp lý không phân chia năng lực pháp luật dân sự của người
chưa thành niên hay người thành niên mà chỉ có khái niệm chung về năng lực
pháp luật dân sự của cá nhân. Năng lực pháp luật dân sự được coi điều kiện
cần không thể thiếu khi cá nhân tham gia quan hệ pháp luật dân sự. Bộ luật
9
dân sự các nước trên thế giới hầu hết không đưa ra khái niệm năng lực pháp
luật dân sự mà đưa ra quy định khẳng định năng lực pháp luật bắt đầu từ thời
điểm cá nhân được sinh ra. Tại BLDS Nhật Bản, quyền năng của một thể
nhân chính có từ khi con người sinh ra và không ai không có quyền năng.
Tương tự, Điều 15 Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan cũng quy định:
"Năng lực pháp luật bắt đầu từ khi một đứa trẻ ra đời và kết thúc bằng cái
chết" [38, Điều 15]. Như vậy, theo pháp luật các nước, năng lực pháp luật dân
sự chỉ khả năng hưởng quyền của cá nhân sau khi được sinh ra. Trong khi
đó, BLDS Việt Nam năm 2005 đưa ra một khái niệm cụ thể về năng lực
pháp luật dân sự:"Năng lực pháp luật dân sự cá nhân là khả năng của cá
nhân có quyền dân sự và có nghĩa vụ dân sự" [10, Điều 14]. Quy định này
của BLDS dẫn đến cách hiểu là năng lực pháp luật dân sự của cá nhân bao
gồm khả năng có cả quyền dân sự và cả nghĩa vụ dân sự, không phù hợp với
cách hiểu chung về năng lực pháp luật dân sự trong pháp luật dân sự của các
nước trên thế giới.
Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân được nhà nước ghi nhận trong
các văn bản pháp luật mà nội dung của nó phụ thuộc vào hình thái kinh tế - xã
hội tại mỗi thời điểm lịch sử nhất định. Điều này phụ thuộc vào đường lối,
chính sách của giai cấp thống trị trong xã hội trong từng thời kì lịch sử.
Chẳng hạn, theo pháp luật nước ta trước năm 1980, Nhà nước cho phép cá
nhân có quyền tư hữu về đất đai. Sau năm 1980 và đến Hiến pháp năm
1992 quy định: "đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do nhà nước làm đại diện
chủ sở hữu" [44, Điều 17], cá nhân có quyền chuyển dịch và sử dụng đất đai.
Hiện nay, Nhà nước ta không ngừng tạo ra những nền tảng vững chắc để đảm
bảo năng lực pháp luật của công dân được thực thi trên thực tế.
Các quốc gia có lịch sử phát triển, điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội
khác nhau thì quy định về năng lực chủ thể cũng khác nhau. Nhà nước của
10
mỗi quốc gia có quy định riêng về các quyền công dân được hưởng. Nếu như
Nhà nước tại Liên bang Mỹ, Cộng hòa liên bang Đức hay Cộng hòa Pháp
công nhận chế độ tư hữu đất đai thì nhà nước của Việt Nam không công nhận
quyền năng này.
Năng lực pháp luật dân sự không phải là thuộc tính tự nhiên, vốn có
của chủ thể. Nó do Nhà nước cầm quyền quy định và dành cho công dân nước
mình, Bởi vậy, năng lực pháp luật mang tính giai cấp. Mỗi hình thái kinh tế
xã hội khác nhau, năng lực pháp luật dân sự cũng được quy định khác
nhau.Trong lịch sử nhân loại đã từng có một nhóm người không được thừa
nhận là chủ thể của các quan hệ xã hội mà là khách thể của các quan hệ xã hội
đó. Điển hình như trong xã hội chiếm hữu nô lệ, những người nô lệ chỉ là
công cụ lao động bị chủ sở hữu mua đi bán lại như đồ vật.
Năng lực pháp luật dân sự luôn gắn liền với mỗi chủ thể, không thể
chuyển giao cho người khác. Trong lịch sử pháp lý ở nước ta đã từng sử dụng
khái niệm này khi xác định nội dụng nghĩa vụ dân sự của cá nhân. Chẳng hạn
Điều 676 Bộ luật dân sự Trung Kỳ 1936 định nghĩa:
Nghĩa vụ dân sự là mối liên lạc về luật thực tại hay luật thiên
nhiên, bó buộc một người hay nhiều người phải làm hay đừng làm
sự gì đối với một hay nhiều người nào đó", hay "Nghĩa vụ là cái
dây liên lạc về luật thực tại hay luật thiên nhiên bó buộc một hay
nhiều người phải làm hay đừng làm sự gì đối với một hay nhiều
người nào đó [20, Điều 641].
Tuy nhiên, nghĩa vụ về luật tự nhiên là nghĩa vụ mang tính luân lý,
được đưa vào trong khái niệm nghĩa vụ cho phù hợp với truyền thống, nhưng
chỉ mang tính hình thức, ngược lại với nghĩa vụ về luật thực tế:
Nghĩa vụ về luật thực tế là những nghĩa vụ mà có thể dùng các
cách về luật pháp và quan pháp, nhất là cách tố tụng trước tòa án để
11
bắt người mắc nợ phải thi hành. Nghĩa vụ về luật thiên nhiên thì
không thể tố tụng trước tòa án được. Luật pháp không can thiệp vào
sự thi hành các nghĩa vụ về luân lý cùng tôn giáo [20, Điều 642].
Khoản 1, khoản 3 Điều 14 BLDS năm 2005 quy định:
1. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá
nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự….
3. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người đó
sinh ra và chấm dứt khi người đó chết [10, Điều 14].
Như vậy, cá nhân không được phép tự hạn chế năng lực dân sự của
mình và của người khác. Một tuyên bố đơn phương về việc khước từ hay
hạn chế năng lực pháp luật dân sự của cá nhân đều không có hiệu lực pháp
lý. Tuy nhiên, Điều 16 BLDS năm 2005 quy định: "Năng lực pháp luật dân
sự của cá nhân không bị hạn chế, trừ trường hợp do pháp luật quy định"
[10, Điều 16]. Quy định này cho thấy năng lực pháp luật dân sự của cá nhân
mang tính chất "vừa tĩnh vừa động". Điều này có thể hiểu: Năng lực pháp
luật luôn luôn và chỉ do Nhà nước quy định cho cá nhân trong các văn bản
pháp luật, thể hiện dưới dạng các quy định pháp lý, tự cá nhân không thể
thay đổi và cũng không thể bị hạn chế:
Thứ nhất: Nếu nhìn một cách tổng quan, nội dung năng lực pháp luật là
một phạm trù mở và không bị hạn chế về sự vận động và phát triển. Nó có thể
được bổ sung nếu điều kiện thực tế cho phép thay đổi. Nội dung của năng lực
pháp luật là thuộc tính không thể tách rời của pháp luật, chịu sự tác động của
điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội.
Thứ hai: Năng lực pháp luật dân sự nếu xét về hình thức và cơ sở tồn
tại thực thế thì không thể nằm ngoài các quy định pháp luật cụ thể. Vì vậy,
năng lực pháp luật dân sự bị quy định bởi khả năng thực tế của quá trình xây
dựng pháp luật. Trên thực tế, vì nhiều lý do khác nhau mà nội dung năng lực
12
pháp luật dân sự của cá nhân có thể bị hạn chế. Điều này có thể thấy rõ trong
các trường hợp như: Khi có văn bản quy phạm pháp luật có tính chất bắt buộc
chung quy định cá nhân không được thiết lập các quan hệ pháp luật cụ thể
hoặc khi có quyết định áp dụng pháp luật của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền có tính chất cá biệt đối với một cá nhân trong điều kiện, thời hạn nhất
định. Ví dụ, cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an nhân dân quận A ban hành
lệnh cấm bị can C đi khỏi nơi cư trú, tức là đã hạn chế năng lực pháp luật cụ
thể của C trong một thời gian xác định.
Tuy nhiên, xét về bản chất, hai trường hợp nêu trên không phải là sự
tước bỏ năng lực pháp luật dân sự của cá nhân mà là tạm đình chỉ khả năng
hưởng quyền của chủ thể, khả năng biến quyền khách quan thành quyền
chủ quan của chủ thể riêng biệt. Biện pháp này sẽ được thay đổi nếu Nhà
nước thấy không cần thiết nữa và phục hồi khả năng hưởng quyền thực thế
cho cá nhân.
Mọi cá nhân đều bình đẳng về năng lực pháp luật dân sự, không phân
biệt già, trẻ, gái, trai, tôn giáo, dân tộc... Quy định này chưa hoàn toàn chính
xác vì thực chất năng lực pháp luật dân sự của cá nhân không hoàn toàn giống
nhau. Đặc biệt là khả năng để cá nhân có các quyền gắn với nhân thân và bản
chất sinh lý của con người như các quyền kết hôn. LHN&GĐ quy định giữa
những người cùng dòng máu trực hệ, giữa những người có họ trong phạm vi
ba đời hay giữ những người cùng giới tính không được phép kết hôn với
nhau. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân không đồng nghĩa với quyền dân
sự chủ quan của cá nhân mà bản thân năng lực dân sự chỉ là tiền đề để cho các
cá nhân có quyền dân sự cụ thể do Nhà nước quy định.
Thời điểm bắt đầu năng lực pháp luật dân sự của cá nhân được ghi nhận
trong BLDS năm 2005 có căn cứ xác định duy nhất là vào thời điểm cá nhân
được sinh ra. Có thể nói, quy định này tương đồng với nhiều bộ luật dân sự
13
của các quốc gia. Tuy nhiên khác với pháp luật Việt Nam, pháp luật một số
quốc gia còn quy định chính xác thời điểm cá nhân được sinh ra là thời điểm
thai nhi hoàn toàn tách ra khỏi cơ thể người mẹ: "Một đứa trẻ trong bụng mẹ
có thể được hưởng quyền miễn là nó sống, sau khi ra đời" [38, Điều 15]. Bên
cạnh quy định mang tính nguyên tắc chung về thời điểm bắt đầu năng lực
pháp luật dân sự, bộ luật dân sự hiện hành cũng đưa ra các trường hợp ngoại
lệ, theo đó, năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có hiệu lực hồi tố. Theo
quy định tại điều 635 BLDS năm 2005: "Người thừa kế là cá nhân phải là
người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời
điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người thừa kế để lại di sản
chết" [10, Điều 635] và khoản 1 Điều 685 BLDS năm 2005:
Khi phân chia di sản nếu có người thừa kế cùng hàng đã
thành thai nhưng chưa sinh ra thì phải dành lại một phần di sản
bằng phần mà người thừa kế khác được hưởng, để nếu người thừa
kế đó còn sống khi sinh ra, được hưởng, nếu chết trước khi sinh ra
thì những người thừa kế khác được hưởng [10, Điều 685].
Cả hai điều luật cho thấy cá nhân được xem là đã có năng lực pháp luật
dân sự kể từ thời điểm thành thai nếu được sinh ra và còn sống. Tuy nhiên, bộ
luật dân sự Việt Nam mới chỉ dừng lại ở hai quy định cụ thể nêu trên, chưa có
quy định mang tính nguyên tắc chung trong việc bảo vệ quyền của thai nhi.
Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân chấm dứt khi người đó chết.
Việc xác định thời điểm chết của một người rất quan trọng vì nó ảnh hưởng
đến tư cách pháp lý trong việc phát sinh, thay đổi hay chấm dứt một quan hệ
pháp luật dân sự. Chết có thể hiểu là chết về mặt sinh học hoặc chết theo
tuyên bố của Tòa án và theo quy định của pháp luật người đã chết phải được
khai tử. Bộ luật dân sự Việt Nam không đưa ra khái niệm về cái chết. Để xác
định thời điểm chết của một cá nhân rất khó khăn, nhất là trong trường hợp
14
tuyên bố chết theo quyết định của Tòa án: "Tùy từng trường hợp, Tòa án xác
định ngày chết của người bị tuyên bố chết là đã chết căn cứ vào các trường
hợp quy định tại khoản 1 điều này" [10, Điều 81], cụ thể như sau:
Nếu một người bị Tòa án tuyên bố là đã chết trong trường hợp quy định
tại điểm a, điểm d khoản 1 Điều 81 BLDS thì người đó được coi là đã chết là
ngày mà quyết định của Tòa án tuyên bố người đã chết có hiệu lực pháp luật.
Trường hợp một người bị Tòa án tuyên bố là đã chết do bị tai nạn, thảm
họa hoặc thiên tai mà sau một năm, kể từ ngày tai nạn, thảm họa, thiên tai đó
chấm dứt vẫn không có tin tức xác thực là còn sống thì ngày người đó được
coi là đã chết là ngày xảy ra tai nạn, thảm họa, thiên tai.
Trường hợp một người bị Tòa án tuyên bố là biệt tích trong chiến tranh
sau năm năm, kể từ ngày chiến tranh kết thúc mà vẫn không có tin tức xác
thực là còn sống thì ngày chết là ngày cuối cùng sau năm năm kể từ ngày
cuộc chiến tranh đó kết thúc.
Có thể nhận thấy, thời điểm chết của cá nhân không chỉ được xác định
là ngày quyết định của Tòa án tuyên bố cá nhân chết có hiệu lực pháp luật mà
còn là các thời điểm khác do Tòa án xác định trong quyết định tuyên bố cá
nhân chết. Do đó, tòa án cần xác định rõ thời điểm chết của cá nhân trong
quyết định. Nếu không xác định được thời điểm chết của người đó thì thời
điểm chết của người đó mới là ngày mà quyết định tuyên bố người đó chết
của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Trường hợp cá nhân chết theo nghĩa sinh học là "sự ngừng trao đổi
chất", thể hiện thông qua sự kiện người đó chết. Theo đó, quyền và nghĩa vụ
dân sự của chủ thể này trong quan hệ pháp luật đương nhiên chấm dứt. Nếu
cá nhân bị tuyên bố là đã chết được xác định bằng quyết định của Tòa án có
hiệu lực pháp luật thì các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh
thương mại, lao động... của người đó được giải quyết như đối với người đã
chết theo nghĩa sinh học.
15
Tuy nhiên, trên thực tế vấn đề khai sinh, khai tử cho một người được
sinh ra hoặc khai tử cho một người chết không được nhất quán, triệt để. Thời
gian tồn tại năng lực pháp luật dân sự của cá nhân từ lúc sinh ra cho đến lúc
chết so với thời gian được pháp luật xác nhận năng lực pháp luật từ thời điểm
có giấy khai sinh đến thời điểm có giấy khai tử không trùng nhau, dẫn đến
việc xác định thời điểm chấm dứt các quan hệ pháp luật trên thực tế rất khó
khăn. Chẳng hạn, theo quy định tại Điều 14 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP
của Chính Phủ ngày 27 tháng 12 năm 2005 về đăng ký và quản lý hộ tịch:
"Trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày sinh con, cha mẹ có trách nhiệm đi khai
sinh cho con, nếu không thể đi khai sinh, thì ông, bà hoặc những người thân
thích khác đi khai sinh cho trẻ em" [15, Điều 14], như vậy khoảng thời gian
thực hiện trách nhiệm đi khai sinh cho trẻ em có thời hạn là 60 ngày, đây là
một khoảng thời gian tương đối dài và có thể phát sinh rất nhiều sự kiện pháp
lý. Nếu những người có trách nhiệm chưa thực hiện nghĩa vụ đăng ký khai
sinh thì rõ ràng năng lực pháp luật dân sự của cá nhân chưa được xem là bắt
đầu (thời điểm sinh), đồng nghĩa với quyền và lợi ích của trẻ sơ sinh cũng như
những người có quyền, nghĩa vụ liên quan không được đảm bảo.
1.1.1.2. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân
Khả năng hưởng quyền của cá nhân là quyền khách quan mà pháp luật
quy định sẵn cho các chủ thể. Để khả năng ấy có thể biến thành hiện thực cần
phải có những điều kiện khách quan cũng như chủ quan nhất định. Điều kiện
khách quan chính là chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước,
điều kiện kinh tế - xã hội chính là yếu tố khách quan giúp cho các quyền và
nghĩa vụ mà pháp luật quy định được thực thi. Hiện nay với nền tảng kinh tế
và xã hội ngày càng phát triển sẽ là cơ sở vững chắc để nhà nước đảm bảo
năng lực hành vi dân sự của cá nhân được triển khai trên thực tế.
Năng lực của con người là điều kiện chủ quan để thực hiện quyền và
16
gánh vác nghĩa vụ thông qua hành vi cụ thể. Hành vi hiểu theo nghĩa chung
nhất là xử sự của con người dưới dạng hành động hoặc không hành động. Nói
cách khác, hành vi là cách cư xử biểu hiện ra bên ngoài của một con người
trong một hoàn cảnh cụ thể. Nhưng không phải mọi hành động của con người
biểu hiện ra bên ngoài đều được hiểu là hành vi. Bởi hành động, cư xử của
con người phải chứa dựng hai yếu tố lý trí và ý chí. Trong đó, lý trí là khả
năng nhận thức sự vật bằng suy luận, biểu hiện mức độ khả năng làm chủ của
mỗi cá nhân. Còn ý chí là mong muốn chủ quan, là sự theo đuổi một mục đích
nhất định nhưng thiên về cảm giác, tình cảm chủ quan của bản thân. Nếu hành
vi của một người chỉ được thực hiện bằng cảm giác, tình cảm mà không có
khả năng nhận thức hành vi đó bằng suy luận thì cá nhân đó không có khả
năng điều khiển hành vi. Chỉ khi thỏa mãn đầy đủ cả hai thuộc tính lý trí và ý
chí thì cá nhân mới có khả năng kiểm soát hành vi của mình và chịu trách
nhiệm về hành vi đó.
Khi cá nhân đạt đến sự phù hợp của hai yếu tố ý chí và lý chí sẽ được
coi là người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự. Họ có thể nhận thức và làm
chủ hành vi. Ngược lại, một cá nhân dù có lý trí nhưng chưa đạt đến sự phù
hợp của hai thuộc tính nêu trên thì cá nhân đó được coi là người có năng lực
hành vi dân sự nhưng chưa đầy đủ. Như vậy, có thể hiểu năng lực hành vi dân
sự của cá nhân là khả năng của cá nhân trong việc nhận thức và điều khiển
hành vi của mình sao cho phù hợp với quy định của pháp luật và khả năng tự
chịu trách nhiệm về hành vi do mình gây ra.
Cũng giống như năng lực pháp luật, trong bộ luật dân sự của hầu hết
các nước không đưa ra khái niệm năng lực hành vi. Chẳng hạn như quy định
của Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan khi một người đã đủ 20 tuổi sẽ không
còn là vị thành thành niên mà trở thành người thành niên, tự lập [38, Điều 19].
"Tự lập" được hiểu là năng lực của cá nhân thực hiện các quyền và nghĩa vụ.
17
Trong khi đó, BLDS Việt Nam năm 2005 đã đưa ra khái niệm năng lực hành
vi thông qua quy định tại điều 17: "Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là
khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa
vụ dân sự" [10, Điều 17]. Khả năng ở đây có thể hiểu là tố chất của một cá
nhân có thể hưởng quyền và gánh vác được nghĩa vụ khi tham gia các quan hệ
pháp luật trong hạn mức pháp luật cho phép. Mặt khác, khả năng còn được
hiểu là năng lực chịu trách nhiệm dân sự của cá nhân khi cá nhân đó vi phạm
nghĩa vụ đối với chủ thể mang quyền.
Pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật nhiều nước lấy độ tuổi làm tiêu
chí xác định năng lực hành vi dân sự của cá nhân. Tuy nhiên, đây không phải
là tiêu chí duy nhất để làm điều kiện công nhận năng lực hành vi dân sự của
một cá nhân cho tất cả các loại quan hệ pháp luật. Nếu như độ tuổi cho thấy
sự phát triển về thể chất thì khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của cá
nhân thể hiện sự phát triển về tinh thần. Cả hai yếu tố trên là cơ sở cần thiết
để nhà nước quy định năng lực hành vi dân sự. Bởi vì quá trình hình thành
nhân cách, khả năng nhận thức phải trải qua thời gian. Chỉ khi cá nhân đạt
đến một độ tuổi nhất định thì cá nhân mới hoàn thiện và đủ khả năng kiểm
soát hành vi của mình, chịu trách nhiệm pháp lý do hành vi mình gây ra.
Không giống như năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người
đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết. Năng lực hành vi của cá nhân không
tự nhiên có từ khi sinh ra, mà chỉ xuất hiện khi đạt đến độ tuổi nhất định.
Thông thường, để xác định khả năng của cá nhân trong việc xác lập, thực hiện
quyền, nghĩa vụ dân sự ngoài việc căn cứ vào độ tuổi còn phải căn cứ vào khả
năng nhận thức, điều khiển hành vi (tùy thuộc vào bản chất của mỗi quan hệ
pháp luật cá nhân đó tham gia mà đòi hỏi khả năng trong việc thực hiện quyền,
nghĩa vụ của cá nhân xuất hiện ở những độ tuổi khác nhau). Chẳng hạn, để có
năng lực hành vi tham gia vào quan hệ lao động, cá nhân chỉ cần đạt độ tuổi từ
18
đủ mười lăm trở lên: ''Người lao động là người ít nhất đủ 15 tuổi, có khả năng
lao động và có giao kết hợp đồng lao động" [46, Điều 6].
Tuy nhiên, pháp luật quy định độ tuổi có năng lực hành vi dân sự
không có nghĩa là trước khi đạt độ tuổi đó thì cá nhân không được tham gia
vào bất kỳ quan hệ pháp luật dân sự nào. Việc hạn chế độ tuổi để xác định
năng lực hành vi là cần thiết, vì quá trình phát triển nhân cách, tính cách con
người cần có thời gian nhất định. Khi cá nhân có khả năng kiểm soát hành vi
của mình thì hành vi đó mới là hành vi của xã hội và cần thiết chịu sự điều
chỉnh của pháp luật.
Về khả năng nhận thức của cá nhân, mặc dù con người sinh ra vốn đã
có cơ sở vật chất để phát triển ý thức - đó chính là bộ não người. Trong mỗi
con người đã chứa đựng khuynh hướng hình thành và phát triển khả năng
nhận thức của con người. Không phải khi con người sinh ra đã có nhận thức
về tự nhiên, về xã hội, về chính mình. Khả năng này không phải bẩm sinh đã
có, nó là kết quả của quá trình sống, hoạt động trong xã hội với một thời gian
nhất định. Quá trình đó, con người được hoạt động, được giáo dục, được quan
hệ giao lưu... sẽ tiếp thu và tích lũy những tri thức cùng kinh nghiệm sống.
Dần dần, năng lực nhận thức của con người được hình thành ngày một phong
phú. Khi con người đã có khả năng nhận thức nhất định thì họ mới nhận biết
quyền và nghĩa vụ của mình, mới biết được những yêu cầu, đòi hỏi của bản
thân và xã hội, từ đó mới có cơ sở đánh giá được ý nghĩa thực tế cũng như ý
nghĩa xã hội trong hành vi của mình.
Mỗi cá nhân được sinh ra và lớn lên trong những môi trường sống khác
nhau sẽ có khả năng nhận thức không giống nhau về hành vi và hậu quả của
hành vi họ thực hiện. Cho nên, người thì có năng lực hành vi dân sự đầy đủ,
người lại không có năng lực hành vi, năng lực hành vi không đầy đủ và người
bị mất năng lực hành vi.
19
1.1.2. Năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự của
người nước ngoài tại Việt Nam
Pháp luật dân sự có các quy định được áp dụng đối với các quan hệ có
yếu tố nước ngoài. Một trong những yếu tố nước ngoài chính là chủ thể của
quan hệ pháp luật dân sự - người nước ngoài. Theo Luật Quốc tịch Việt Nam
năm 2008: “ Người nước ngoài cư trú ở Việt Nam là công dân nước ngoài và
người không quốc tịch thường trú hoặc tạm trú ở Việt Nam” [53, Điều 3].
Như vậy, thuật ngữ “người nước ngoài” trong cụm “năng lực pháp luật dân sự
và năng lực hành vi dân sự của người nước ngoài” được hiểu là thuật ngữ
“người nước ngoài cư trú ở Việt Nam” theo Luật quốc tịch, đều là những
công dân nước ngoài hoặc người không có quốc tịch thường trú hoặc tạm trú
tại Việt Nam.
Căn cứ khái niệm chung về năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi
dân sự cùng quy định: “Bộ luật dân sự được áp dụng đối với quan hệ dân sự
có yếu tố nước ngoài, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác” [10, Điều 2], có thể đưa
ra khái niệm ngắn gọn về năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân
sự của người nước ngoài như sau:
Năng lực pháp luật dân sự của người nước ngoài là khả năng của cá
nhân người nước ngoài có quyền dân sự.
Năng lực hành vi dân sự của người nước ngoài là khả năng cá nhân
người nước ngoài đó bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền và
nghĩa vụ dân sự.
Mặc dù, về mặt khái niệm, năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân
sự của cá nhân là người nước ngoài không có nhiều điểm khác so với khái
niệm trong lý luận chung về năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự.
Tuy nhiên, chính sự khác biệt về mặt chủ thể đã kéo theo những nét khác biệt
khác, đặc biệt về nội dung.
20
Nhà nước quy định năng lực pháp luật dân sự của cá nhân song Nhà
nước không cho phép bất kì một cá nhân tự hạn chế năng lực pháp luật của
chính mình và của cá nhân khác. Vì vậy, đối với các công dân là người nước
ngoài, Nhà nước Việt Nam vẫn luôn có chính sách đảm bảo đầy đủ cho năng
lực pháp luật dân sự của họ được thực hiện. Điều này được thể hiện tại Điều
761 BLDS năm 2005:
1. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là người nước ngoài
được xác định theo pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch.
2. Người nước ngoài có năng lực pháp luật dân sự tại Việt
Nam như công dân Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quy định khác [10, Điều 761].
Đồng thời, Nghị định số 138/2006/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2006
của Chính Phủ quy định chi tiết thi hành các quy định của Bộ luật dân sự về
quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài nêu rõ:
1. Việc áp dụng pháp luật để xác định năng lực pháp luật dân
sự của cá nhân là người nước ngoài được xác định theo Điều 761
của Bộ luật dân sự. Trong trường hợp cá nhân là người nước ngoài
cư trú tại Việt Nam, thì năng lực pháp luật dân sự của cá nhân đó
được xác định theo các quy định từ Điều 14 đến Điều 16 của Bộ
luật dân sự.
2. Trong trường hợp người nước ngoài không có quốc tịch hoặc
có hai hay nhiều quốc tịch thì việc áp dụng pháp luật để xác định năng
lực pháp luật dân sự của người đó tuân theo quy định tại Điều 70 của
Bộ luật dân sự, Điều 5 và khoản 1 Điều 6 Nghị định này [16].
Việc xác định năng lực pháp luật dân sự của người nước ngoài sẽ theo
quy định của quốc gia nơi mà người đó mang quốc tịch. Đối với trường hợp
người nước ngoài có hai hay nhiều quốc tịch, năng lực pháp luật dân sự được
21
xác định sẽ căn cứ vào nguyên tắc quốc tịch và nơi người đó cư trú hoặc áp
dụng nguyên tác quốc tịch hữu hiệu (nơi người đó gắn bó nhất nếu người đó
không cư trú ở nước mà mình có quốc tịch) và trường hợp người không quốc
tịch, áp dụng luật nơi người đó cư trú hoặc nếu người đó không có nơi cư trú
thì áp dụng pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam [10, Điều 760].
Quy định này là hoàn toàn hợp lý và phù hợp với thông lệ tư pháp quốc tế và
cho thấy rõ quan điểm của pháp luật Việt Nam là tôn trọng pháp luật của
nước mà người nước ngoài đã lựa chọn mang quốc tịch.
Bên cạnh đó, người nước ngoài khi tạm trú hay thường trú tại Việt Nam
sẽ không bị hạn chế năng lực pháp luật dân sự, trừ trường hợp pháp luật Việt
Nam có quy định. Cá nhân là người nước ngoài được hưởng các quyền về
nhân thân, sở hữu tài sản, thừa kế, tham gia vào các quan hệ xã hội và phải có
nghĩa vụ tôn trọng pháp luật, tôn trọng tập quán, truyền thống tín ngưỡng của
Việt Nam. Tuy nhiên, không phải bất kỳ lĩnh vực nào, người nước ngoài cũng
có đầy đủ quyền và nghĩa vụ dân sự như đối với công dân Việt Nam như các
quyền về chính trị (quyền bầu cử, ứng cử…). Khi người nước ngoài vi phạm
pháp luật thì tùy theo tính chất hành vi vi phạm họ có thể bị xử phạt, bị trục
xuất trước thời hạn và thậm chí truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định
của pháp luật Việt Nam.
Đối với năng lực hành vi dân sự của người nước ngoài, căn cứ Điều
762 BLDS năm 2005 quy định:
1. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là người nước ngoài
được xác định theo pháp luật của nước mà người đó là công dân, trừ
trường hợp pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quy
định khác.
2. Trong trường hợp người nước ngoài xác lập, thực hiện các
giao dịch dân sự tại Việt Nam thì năng lực hành vi dân sự của người
22
nước ngoài được xác lập theo pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam [10, Điều 762].
Điều 7 Nghị định 136/2006/NĐ-CP có quy định hướng dẫn chi tiết thi
hành các quy định của Bộ luật dân sự về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài
thì việc xác định năng lực hành vi dân sự của người nước ngoài sẽ theo quy
định của quốc gia mà người đó mang quốc tịch. Riêng đối với trường hợp là
người có hai hay nhiều quốc tịch, năng lực hành vi dân sự được xác định sẽ
căn cứ vào nguyên tắc quốc tịch và người đó cư trú hoặc áp dụng nguyên tắc
quốc tịch hữu hiệu (tức là nơi người đó gắn bó nhất nếu người đó không cư
trú ở nước mà mình có quốc tịch). Trường hợp người không quốc tịch theo
quy định tại Điều 760 BLDS, áp dụng luật nơi người đó cư trú hoặc nếu
người đó không có nơi cư trú thì áp dụng pháp luật Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
Người nước ngoài khi tạm trú hay thường trú tại Việt Nam sẽ không
bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và chỉ chịu sự điều chỉnh theo quy
định của pháp luật Việt Nam khi người đó xác lập và thực hiện các giao
dịch dân sự tại Việt Nam.
Trong điều kiện hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ, quan hệ pháp luật
dân sự vượt ra khỏi phạm vi quốc gia có yếu tố nước ngoài là điều tất yếu và
quan hệ đó chịu sự tham gia của hai hay nhiều hệ thống pháp luật khác nhau.
Xuất phát từ quan điểm chính trị, phong tục tập quán, tình hình phát triển kinh
tế xã hội nên pháp luật dân sự của Việt Nam và pháp luật dân sự của các quốc
gia trên thế giới không bao giờ hoàn toàn giống nhau, thường có sự khác nhau
khi giải quyết những vấn đề cụ thể, điển hình như các quy phạm pháp luật dân
sự xung đột về năng lực hành vi dân sự của cá nhân trong việc lập di chúc.
Đối với những quốc gia theo nguyên tắc phân chia di sản thừa kế như
pháp luật Anh, Mỹ thì năng lực hành vi lập di chúc, hình thức di chúc đối với
23
di sản thừa kế là động sản do luật nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản
thừa kế điều chỉnh, đối với di sản thừa kế là bất động sản do luật của nước nơi
có tài sản điều chỉnh. Còn đối với những nước theo nguyên tắc phân chia di
sản thừa kế như Đức và một số nước Tây Âu khác thì năng lực hành vi lập và
hủy bỏ di chúc được xác định theo luật nơi cư trú cuối cùng của người lập di
chúc hoặc theo luật của nước nơi lập di chúc; hình thức di chúc được coi là
hợp pháp nếu nó đáp ứng được yêu cầu của một trong các hệ thống pháp luật
như luật quốc tịch của người lập di chúc, luật nơi cư trú của người lập di chúc,
đối với di sản thừa kế là bất động sản có thể áp dụng luật nơi có bất động sản
đó. Tại Việt Nam, khoản 1 Điều 768 BLDS năm 2005 xác định năng lực lập
di chúc của người lập di chúc phải tuân theo pháp luật của người lập di chúc
là công dân. Hệ thuộc được pháp luật Việt Nam lựa chọn áp dụng là Luật
quốc tịch để giải quyết xung đột. Quy định này chưa hoàn toàn phù hợp với
quy định tại khoản 2 Điều 762 BLDS năm 2005 bởi vì theo Điều 762 BLDS
năm 2005 những di chúc được lập tại Việt Nam thì năng lực pháp luật của họ
sẽ phải tuân theo pháp luật Việt Nam chứ không phải tuân theo pháp luật của
nước họ mang quốc tịch, nhằm đảm bảo việc quản lý nhà nước đối với di
chúc lập tại nước mình.
Về cơ bản, các quy định của pháp luật về năng lực hành vi dân sự của
cá nhân là người nước ngoài tại Việt Nam phù hợp thông lệ chung của quốc
tế, đáp ứng được yêu cầu quản lý, góp phần tạo sự ổn định về môi trường
pháp lý. Tuy nhiên, việc xác định và tuyên bố một người nước ngoài có bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự, bị mất năng lực hành vi dân sự của Tòa án trên
thực tế gặp nhiều khó khăn. Vì người nước ngoài là một chủ thể đặc biệt, họ
có thể thường xuyên qua lại giữa Việt Nam và nước mình đang mang quốc
tịch và nhận được sự bảo hộ nên việc xác định chính xác tình trạng năng lực
hành vi dân sự và tuyên bố tình trạng năng lực hành vi dân sự đối với người
nước ngoài có thể bị kéo dài, gây tổn thất cho các chủ thể khác.
24
1.1.3. Mối quan hệ giữa năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành
vi dân sự của cá nhân
Năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự có mối quan hệ
mật thiết với nhau. Những chủ thể chỉ có năng lực pháp luật dân sự mà không
có năng lực hành vi dân sự thì họ không thể tham gia một cách chủ động, tích
cực vào các quan hệ pháp luật. Chủ thể chỉ có thể giam gia thụ động vào các
quan hệ pháp luật thông qua hành vi của người thứ ba hoặc được Nhà nước
bảo vệ trong một số quan hệ pháp luật nhất định. Muốn trở thành chủ thể của
quan hệ pháp luật thì bên cạnh năng lực pháp luật dân sự, đòi hỏi cá nhân phải
có năng lực hành vi dân sự.
Năng lực pháp luật dân sự là tiền đề của năng lực hành vi dân sự nên
không thể có chủ thể pháp luật không có năng lực pháp luật dân sự mà lại có
năng lực hành vi dân sự. Vì khi không quy định các quyền, nghĩa vụ pháp lý
cho chủ thể thì Nhà nước cũng không cần phải tính đến các điều kiện để cá
nhân có thể thực hiện các quyền, nghĩa vụ pháp lý đó.
Đối với cá nhân, năng lực pháp luật và năng lực hành vi không xuất hiện
đồng thời, năng lực pháp luật có ngay từ khi sinh ra, còn năng lực hành vi chỉ
xuất hiện khi cá nhân đạt đến một độ tuổi nhất định. Năng lực pháp luật dân sự
của cá nhân cũng được mở rộng dần theo năng lực hành vi dân sự của họ. Trong
một số trường hợp, năng lực hành vi dân sự được xác định là cơ sở để xem xét,
bảo vệ một số quyền dân sự như quyền nuôi con, quyền nuôi con nuôi... Có thể
khẳng định, năng lực pháp luật là điều kiện cần, năng lực hành vi là điều kiện đủ
để tạo nên tư cách chủ thể cho cá nhân tham gia vào các quan hệ pháp luật.
1.2. Khái lược quy định của pháp luật Việt Nam về năng lực hành
vi dân sự của cá nhân
1.2.1. Quy định của pháp luật phong kiến về năng lực hành vi dân sự
của cá nhân
Quốc triều hình luật hay còn gọi là Bộ luật Hồng Đức là bộ luật thành
25
văn cổ xưa nhất còn lưu giữ được đầy đủ cho đến nay. Mặc dù trong luật
Hồng Đức chưa có quy định phân biệt giữa năng lực pháp luật và năng lực
hành vi nhưng các nhà làm luật đã có quy định nền tảng về năng lực chủ thể
nói chung. Năng lực chủ thể phụ thuộc vào độ tuổi, địa vị gia đình và tình
trạng tài sản. Không phải mọi cá nhân đều có quyền lập khế ước mà những
người tham gia khế ước phải có năng lực chủ thể nhất định. Những người
hàng dưới còn ít tuổi cùng ở với tôn trưởng không được tự ý dùng tiền mua
sắm, trừ trường hợp được sự đồng ý của người trên. Trong gia đình, cha mẹ
còn sống thì cha mẹ là người quản lý tài sản của các con, các con không được
phép bán trộm điền sản. Nếu ông bà cha mẹ chết hết mà thì người trưởng họ
sẽ quản lý tài sản của các con cháu và không được phép bán, trừ trường hợp
bán để trả nợ cũ [85, Điều 379]. Đối với con gái và trẻ mồ côi tự bán mình
phải có người bảo lãnh. Trường hợp không có người bảo lãnh thì người mua
phải viết khế ước. Những người từ mười lăm tuổi trở lên rơi vào tình cảnh cô
đơn khốn cùng mà tự nguyện bán mình thì được phép, trường hợp này được
coi là quá cấp thiết nên không vi phạm.
Bộ luật Hồng Đức quy định năng lực chủ thể còn phụ thuộc vào giới
tính, chẳng hạn con gái không thể tự bán mình cho người khác hoặc con gái
bán trộm điền sản của cha mẹ thì bị phạt nhẹ hơn con trai bán trộm điền sản
của cha mẹ.
Mặc dù không được đánh giá cao như Quốc triều hình luật, song Hoàng
Việt luật lệ (Bộ luật Gia Long) cũng được coi là Bộ luật có quy mô lớn của
Việt Nam trong thế kỉ XIX. Trong bộ luật thời kỳ này, không dành riêng một
điều luật cụ thể để quy định về năng lực hành vi dân sự của cá nhân. Hoàng
Việt luật lệ không có sự tách bạch nhiều trong điều chỉnh các vấn đề dân sự mà
hầu như chú trọng về điều chỉnh quan hệ mang tính chất hình sự. Năng lực chủ
thể được thể hiện thông qua vấn đề giao kết, phụ thuộc vào lứa tuổi, quan hệ tài
sản và quan hệ gia đình, xã hội của người đó. Con cháu kể cả người đã thành
26
niên hoặc chưa thành niên, ở dưới quyền của người gia trưởng không được
phép có tài sản riêng, do đó, họ không được giao kết khế ước có liên quan đến
tài sản của gia đình, nếu không có sự cho phép của người gia trưởng.
Những người không có khả năng nhận thức, điều khiển hành vi của
mình như người điên, thác loạn… cần có người trông nom cẩn thận nhằm
tránh gây thiệt hại cho người khác. Điều 261 Hoàng Việt luật lệ quy định các
đối tượng nêu trên không được giao kết khế ước, kể cả trong lúc còn tỉnh táo
và nhiều năm sau không còn dấu hiệu tâm thần vẫn không được giao kết khế
ước. Có thể nói, đây là quy định mang tính chất chặt chẽ quá mức cần thiết và
lạm quyền của chủ thể trong giao kết nhằm tổ chức cuộc sống của mình.
Ngoài ra, Hoàng Việt luật lệ còn có một vài điều luật đề cập đến khả
năng chịu trách nhiệm của một vài chủ thể đặc biệt trong xã hội như người
già, trẻ em, người tàn tật:
Phàm 70 tuổi trở lên, 15 tuổi trở xuống và người tàn phế
phạm tội lưu trở xuống, cho nhận giá chuộc (phạm tội chết và mưu
phản, phản nghịch, cắt bộ phận sinh dục của người khác, giết ba
mạng người trong một gia đình thì không áp dụng luật này)
Tám mươi tuổi trở lên, mười tuổi trở xuống và bệnh nặng,
phạm tội giết người phải tội chết thì nghị xử tâu lên vua (phạm phản
nghịch không áp dụng luật này) chờ quyết định của vua. Người
phạm tội ăn trộm, làm bị thương người ta cũng được nhận chuộc.
... 90 tuổi trở lên, 7 tuổi trở xuống, dù có phạm tội chết cũng
không phải chịu hình phạt nào [56].
Lời chú nói rằng:
90 tuổi trở lên mà phạm tội phản nghịch thì không dùng luật
này, thì vẫn xử tội, nhưng không xử kẻ dưới 7 tuổi trở xuống. 90 tuổi
sức không theo ý, nhưng góp trí dự mưu được, còn hạng 7 tuổi trở
27
xuống trí và lực đều chưa đủ nên dù có phản nghịch cũng không xử
tội. Nếu 90 tuổi trở lên, 7 tuổi trở xuống thì sự phạm của họ không
xuất phát từ ý chí mà là có người xúi giục, tội buộc vào kẻ xúi [56].
Dù không có quy định cụ thể về độ tuổi có khả năng chịu trách nhiệm
của cá nhân, nhưng thông qua một vài quy định của Bộ luật Gia Long, có thể
thấy các nhà làm luật thời kỳ này có chia ra các độ tuổi khác nhau, tương ứng
với mức độ chịu trách nhiệm. Người già và trẻ em, người tàn tật, bệnh nặng
phạm tội thì xử nhẹ hơn, có những tội không phải chịu trách nhiệm. Theo lí giải
hợp lý của các nhà lập pháp thời kỳ này là người từ bảy tuổi trở xuống nhận
thức và sức lực chưa đủ để thực hiện hành vi phạm tội nên không bị xử tội.
1.2.2. Quy định của pháp luật thời kì Pháp thuộc về năng lực hành vi
dân sự của cá nhân
Khi Việt Nam bị thực dân Pháp đô hộ thì các bộ luật dân sự được áp
dụng riêng rẽ ở ba kỳ lần lượt xuất hiện. Tại Nam Kỳ, có BLDS Nam Kỳ giản
yếu ra đời năm 1883, Bắc Kỳ có Bộ dân luật Bắc Kỳ ra đời năm 1931 và ở
Trung Kỳ là Bộ dân luật Trung Kỳ (Hoàng Việt Trung Kỳ hộ luật) ra đời năm
1936. Cả ba bộ luật này đều đề cập đến năng lực chủ thể khi tham gia khế
ước, Điều 667 Bộ dân luật Bắc Kỳ quy định:
Những người không có tư cách giao ước là người vị thành
niên, người bị cấm quyền, đàn bà có chồng mà không được chồng
cho phép. Những người đồng ước với người vô tư cách không thể
viện cớ người kia vô tư cách mà thoái thác những nghĩa vụ đã định
trong khế ước [20, Điều 667].
Tương tự vậy, Điều 706 Hoàng Việt Trung Kỳ hộ luật cũng nêu rõ:
"Phàn người nào không bị pháp luật tuyên cáo là vô tư cách thời có thể giao
ước cả" [32, Điều 706]. Vô năng cách được hiểu là không có năng lực chủ
thể. Những người vô năng cách bao gồm người vị thành niên, người bị cấm
quyền, đàn bà có chồng và một số người khác mà pháp luật cấm. Điều 221 Bộ
28
dân luật Bắc Kỳ quy định rõ:"Vị thành niên là con trai con gái chưa đủ hai
mươi mốt tuổi" [20, Điều 221], như vậy pháp luật dân sự thời kỳ này không
phân biệt nam nữ, miễn là đủ hai mốt tuổi được coi là người thành niên.
Đặc biệt, quy định của pháp luật thời kỳ này về tư cách chủ thể tham
gia khế ước có nhiều điểm tiến bộ như người giám hộ không được mua tài sản
của người thuộc quyền giám hộ của mình, người nhận ủy quyền không được
mua tài sản mà người ủy quyền do mình đứng tên... nhằm đảm bảo quyền lợi
của người được giám hộ, người ủy quyền.
Sau khi nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ký sắc lệnh 90 ngày 10/10/1945 quyết định giữ tạm thời các bộ dân
luật tại ba kỳ Bắc, Trung, Nam cho đến khi ban hành bộ luật pháp duy nhất
nếu những luật lệ ấy không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và
chính thể dân chủ cộng hòa. Trên tinh thần đó, cả ba bộ luật tiếp tục có hiệu
lực đến khi bị hủy bỏ năm 1959.
Ngày 19/11/1946, Quốc hội khóa I nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa
thông qua Hiến pháp năm 1946, trong đó Điều 18 quy định "Tất cả công dân
Việt Nam, từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt gái trai, đều có quyền bầu cử,
trừ trường hợp người mất trí và những người mất công quyền" [41, Điều 18].
Quy định này được coi là nền tảng cho các quy định của pháp luật dân sự tuân
theo, những người từ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự, trừ những
người mất trí.
Sau đó, đất nước ta lâm vào tình trạng chiến tranh rất khốc liệt. Để
điều hành công việc nhà nước và giao lưu dân sự Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
ký hàng trăm sắc lệnh, trong đó có sắc lệnh 97 ngày 22.5.1950 "sửa đổi
một số quy lệ và chế định trong luật dân sự" quy định rõ: "Người vị thành
niên là con trai hay con gái chưa đủ 18 tuổi. Khi đã đến tuổi thành niên thì
dù còn ở với cha mẹ, người con cũng có quyền tự lập" [18, Điều 7]. Qua
29
tinh thần của điều luật này ta thấy, những người từ mười tám tuổi trở lên có
năng lực hành vi dân sự và có quyền tự lập, tức là có khả năng thực hiện
quyền và gánh vác nghĩa vụ.
1.2.3. Quy định của pháp luật từ năm 1954 đến 1995 về năng lực
hành vi dân sự của cá nhân
Tại miền bắc Việt Nam, ngày 10 tháng 7 năm 1959, Tòa án tối cao ra
chỉ thị số 772/TATC để đình chỉ việc áp dụng pháp luật cũ của phong kiến đế
quốc. Bộ dân luật Bắc Kỳ năm 1931 không còn hiệu lực thi hành. Từ thời
điểm đó trở đi, tại miền Bắc bị thiếu các quy định của bộ luật dân sự.
Ngày 20 tháng 12 năm 1972, chính quyền Việt Nam cộng hòa có ban
hành bộ luật dân sự năm 1972. Vấn đề năng lực hành vi dân sự của cá nhân
được đề cập thông qua quy định về năng lực giao kết khế ước: "Người nào
cũng có quyền khế ước, chỉ trừ những người bị pháp luật coi là vô năng cách"
[8, Điều 674]. Vô năng cách (vô năng lực) được hiểu là những người trong độ
tuổi vị thành niên, những người bị cấm quyền và những người bị pháp luật
cấm kết ước trong một vài trường hợp. Luật còn quy định những người đủ
năng cách cộng ước với người khác không được viện sự vô năng cách của
những người ấy để tiêu hủy khế ước. Vô năng lực được phân thành hai loại:
vô năng lực hành xử và vô năng lực hưởng thụ.
Vô năng lực hành xử là trường hợp đương sự tuy là chủ thể của một
quyền lợi nhưng không thể sử dụng được quyền lợi ấy, bao gồm vô năng lực
hành xử tự nhiên và vô năng lực hành xử liên quan đến vị thành niên, những
người bị cấm quyền. Hậu quả của vô năng lực hành xử khiến các khế ước bị
vô hiệu tương đối. Mục đích vô hiệu để bảo vệ người vô năng lực và chỉ có
người này mới có quyền nại ra.
Còn vô năng lực hưởng thụ có nghĩa là đương sự không có quyền hành
xử và không thể làm chủ quyền lợi.
Như vậy, bộ luật dân sự năm 1972 đã chỉ ra được những trường hợp vô
30
năng cách - không có năng lực chủ thể và hậu quả của những kế ước do người
vô năng cách giao kết. Đây là điểm tiến bộ được các nhà làm luật sau này kế
thừa và phát triển.
1.2.4. Quy định của pháp luật từ năm 1995 đến nay về năng lực hành
vi dân sự của cá nhân
Bộ luật dân sự năm 1995 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thông qua ngày 28 tháng 10 năm 1995 là bộ luật dân sự đầu
tiên ở nước ta. Trong bộ luật này, các nhà lập pháp đã dành riêng một chương
để quy định về cá nhân, trong đó có mục quy định về năng lực pháp luật và
năng lực hành vi của cá nhân. Khái niệm năng lực hành vi dân sự của cá nhân
cũng như quy định về các mức độ năng lực hành vi lần đầu tiên được đề cập
từ điều 19 đến điều 25 của Bộ luật. Theo đó, năng lực hành vi dân sự của cá
nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện
quyền, nghĩa vụ dân sự và người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám
tuổi, người thành niên là người từ đủ mười tám tuổi. Người thành niên có
năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp quy định tại Điều 20 và 21
của Bộ luật này [10, Điều 19].
Sau 10 năm thi hành, BLDS năm 1995 đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất
cập. Một số quy định không rõ ràng, đầy đủ hoặc không phù hợp với sự
chuyển đổi của nền kinh tế thị trường thời kì hội nhập. Năm 2005, BLDS mới
đã ra đời khắc phục những hạn chế, bất cập của BLDS năm 1995. Vấn đề về
năng lực hành vi dân sự của cá nhân là vấn đề mang tính chất lý luận nên hầu
như các quy định được giữ nguyên, chỉ có điều 22 và điều 24 được sửa đổi,
bổ sung cho phù hợp hơn.
Như vậy, quá trình hình thành các quy định liên quan đến năng lực
hành vi dân sự cá nhân của pháp luật Việt Nam từ thời kỳ phong kiến đến nay
là sự kế thừa và pháp huy những mặt hợp lý và loại bỏ những điểm hạn chế
của thế hệ sau đối với thế hệ trước.
31
1.3. Ý nghĩa của việc quy định năng lực hành vi dân sự của cá nhân
1.3.1. Bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ thể khi tham gia quan hệ
dân sự
Những quy định về năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là công cụ
hữu hiệu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khi tham gia
quan hệ dân sự, đặc biệt khi có tranh chấp xảy ra. Chẳng hạn, khi một người
bị hạn chế năng lực hành vi dân sự tham gia giao dịch có giá trị tài sản lớn mà
không có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, thì người đại diện có
quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu. Như vậy, sẽ đảm bảo
quyền lợi cho gia đình và những người liên quan.
1.3.2. Góp phần nâng cao trách nhiệm của các bên khi tham gia kí
kết hợp đồng
Từ những quy định về năng lực hành vi dân sự của cá nhân, các chủ
thể khi sẽ trang bị cho mình những kiến thức pháp lý cơ bản đảm bảo giao
dịch dân sự họ tham gia không bị vô hiệu. Một trong những điều kiện quan
trọng làm phát sinh hiệu lực của giao dịch dân sự là điều kiện về chủ thể.
Bởi vì chỉ những người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì mới tham gia
được giao dịch dân sự với tư cách là chủ thể của quan hệ pháp luật đó. Còn
những người chưa có năng lực hành vi dân sự, bị mất năng lực hành vi dân
sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự muốn tham gia giao dịch phải có
người đại diện hoặc người giám hộ, trừ những giao dịch phụ vụ nhu cầu
hằng ngày. Nếu không có người đại diện thì những giao dịch họ tham gia có
thể bị tuyên vô hiệu. Do đó, khi muốn thực hiện giao dịch dân sự với một cá
nhân, điều đầu tiên phải xem xét cá nhân đó có năng lực hành vi dân sự đầy
đủ hay không, nếu không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì họ có mức
độ năng lực hành vi dân sự ở mức độ nào? Những vấn đề này đã được pháp
luật dân sự quy định cụ thể.
32
1.3.3. Góp phần ngăn ngừa, răn đe các hành vi vi phạm pháp luật
BLDS quy định rõ những người mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự, không có năng lực hành vi dân sự chỉ được tham
gia các giao dịch phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày. Còn các giao dịch
khác phải có sự đồng ý của người đại diện, người giám hộ. Điều này góp phần
ngăn ngừa tình trạng lợi dụng những người không có năng lực hành vi dân sự
đầy đủ nêu trên để kí kết hợp đồng nhằm chiếm đoạt tài sản.
1.3.4. Cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp khi vụ việc dân sự liên
quan đến năng lực hành vi dân sự
Các quy định về năng lực hành vi dân sự của cá nhân trong bộ luật dân
sự hiện hành là cơ sở pháp lý quan trọng để cá nhân khởi kiện ra tòa án khi
quyền và lợi ích của họ bị các chủ thể khác xâm phạm.
Từ những ý nghĩa thiết thực nêu trên đã minh chứng tầm quan trọng
của các quy định về năng lực hành vi dân sự của cá nhân. Vì vậy, cần phải
hoàn thiện hơn nữa các quy định này để phù hợp với thực tiễn cuộc sống.
33
Chương 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
VỀ NĂNG LỰC HÀNH VI DÂN SỰ CỦA CÁ NHÂN
2.1. Căn cứ xác định mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân
Pháp luật quy định khả năng hưởng quyền dân sự cho các cá nhân là
như nhau không phân biệt giới tính, độ tuổi, thành phần tôn giáo... nên năng
lực pháp luật dân sự của cá nhân là bình đẳng. Tuy nhiên, khả năng xác lập,
thực hiện các quyền, nghĩa vụ dân sự của mỗi cá nhân thông qua hành vi của
mình lại hoàn toàn khác nhau. Điều này được giải thích là mỗi cá nhân trong
xã hội được nuôi dưỡng, trưởng thành trong điều kiện vật chất và tinh thần
không giống nhau thì khả năng nhận thức, điều khiển hành vi cũng khác nhau.
Thực tế cho thấy có những đứa trẻ được mệnh danh là thần đồng vì có khả
năng đặc biệt trong việc lĩnh hội tri thức. Ngược lại, có người đã thành niên
nhưng nhận thức và hành động lại không như người trưởng thành.
Khi xác định năng lực hành vi dân sự của một cá nhân, độ tuổi chỉ là
điều kiện cần mà không phải là điều kiện đủ. Căn cứ vào độ tuổi của cá nhân,
cụ thể là các mốc tuổi là sáu tuổi, mười lăm tuổi và mười tám tuổi, khoa học
luật dân sự xác định năng lực hành vi dân sự của cá nhân.
Khác với pháp luật dân sự, chủ thể của vi phạm pháp luật hình sự (tội
phạm) là người có năng lực pháp luật hình sự và năng lực hành vi hình sự.
Theo quy định của Bộ luật hình sự hiện hành, người từ đủ mười bốn tuổi đến
dưới mười sáu tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội rất nghiêm trọng và
tội đặc biệt nghiêm trọng, người từ đủ mười sáu tuổi trở lên phải chịu trách
nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Vì quan hệ pháp luật hình sự là quan hệ pháp
luật giữa một bên chủ thể đặc biệt đó là Nhà nước với các cá nhân, được điều
chỉnh bởi các quy phạm pháp luật hình sự, do đó, nếu vi phạm hình sự xảy ra
34
thì mức độ nghiêm trọng của nó không chỉ gây nguy hại cho các cá nhân tổ
chức khác như vi phạm dân sự, mà nó còn gây nguy hại cho xã hội, cho nhà
nước. Chính vì vậy, độ tuổi quy định năng lực hành vi trong pháp luật hình sự
thấp hơn so với độ tuổi quy định năng lực hành vi dân sự.
Bên cạnh độ tuổi thì khả năng nhận thức và điều khiển hành vi cũng là
tiêu chí quan trọng không thể thiếu để xác định năng lực hành vi cá nhân
(điều kiện đủ). Đối với những cá nhân khác nhau thì khả năng nhận thức về
hành vi và hậu quả của hành vi do họ thực hiện không giống nhau. Việc nhận
thức và điều khiển hành vi của cá nhân phụ thuộc vào ý chí và lí trí của cá
nhân đó, phụ thuộc vào khả năng của cá nhân về nhận thức và điều khiển
hành vi của chính họ. Thông thường, khi phát triển đến một độ tuổi nhất định,
con người sẽ đạt đến sự phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần, có thể tự
nhận thức và điều khiển hành vi của mình. Do đó, năng lực hành vi dân sự
của một cá nhân được xác định theo độ tuổi và sự phát triển bình thường về
thể chất và tinh thần, năng lực hành vi dân sự được chia làm ba mức độ: Cá
nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; cá nhân có năng lực hành vi dân sự
một phần; cá nhân chưa có năng lực hành vi dân sự.
Bên cạnh đó, cũng có các trường hợp cá biệt, mặc dù đã đến tuổi
trưởng hành nhưng khả năng nhận thức không hề phát triển từ khi sinh ra do
trí não của cá nhân không bình thường như các cá nhân khác. Tại Việt Nam,
hậu quả để lại của các cuộc chiến tranh tàn khốc là nhiều người dân bị nhiễm
chất độc Đioxin. Khi họ sinh con, những đứa trẻ ấy có hình hài kì dị, trí não
không phát triển bình thường, không thể nhận thức và điều khiển hành vi của
mình. Chính vì thế BLDS quy định nếu cá nhân bị mắc bệnh tâm thần hoặc
bệnh khác không làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền,
lợi ích liên quan Tòa án sẽ tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự đối với
người đó. Hoặc trường hợp cá nhân bị nghiện ma túy hoặc chất kích thích
35
khác, theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án sẽ tuyên bố
hạn chế năng lực hành vi đối với họ.
Có nhiều quan điểm coi trường hợp mất năng lực hành vi dân sự và
hạn chế năng lực hành vi dân sự thuộc các mức độ năng lực hành vi dân sự.
Theo tôi, hai trường hợp trên không nằm trong các mức độ năng lực hành
vi dân sự của cá nhân mà được coi là những trường hợp các nhà làm luật
dự liệu để giải quyết trên thực tế. Hơn nữa, tình trạng trên có thể gặp ở bất
kỳ độ tuổi nào. Một người có thể từ bé đã bị mất năng lực hành vi dân sự
do họ bị bệnh tâm thần, cũng có những người đã thành niên mới bị mất
năng lực hành vi dân sự vì bị tai nạn hoặc bị các chấn động tâm lý không
thể nhận thức và làm chủ hành vi.
2.2. Các mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân
2.2.1. Năng lực hành vi dân sự đầy đủ
Để có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì một chủ thể phải đáp ứng hai
điều kiện. Thứ nhất, chủ thể đó phải là người thành niên theo quy định tại
Điều 18 BLDS năm 2005: "Người từ đủ mười tám tuổi trở lên là người
thành niên" [10, Điều 18]. Theo Từ điển tiếng Việt thì “thành niên” được
hiểu là đến tuổi được pháp luật công nhận là công dân với đầy đủ các quyền
lợi và nghĩa vụ.
Theo tổ chức Y tế thế giới WHO, lứa tuổi từ 10 đến 19 là độ tuổi vị
thành niên, do đó, người trên 19 tuổi sẽ được coi là thành niên. Tuy nhiên,
do điều kiện phát triển kinh tế, xã hội của các nước trên thế giới khác nhau
nên quy định về độ tuổi thành niên cũng không giống nhau. Một số nước
quy định độ tuổi được coi là thành niên khá cao như Nhật Bản, Hàn Quốc và
Đài Loan là 20 tuổi, của Úc, Canada, Ấn Độ, Philippines, Mỹ là 18 tuổi,
ngược lại, một số nước xác định tuổi trưởng thành để kết hôn lại thấp hơn,
chẳng hạn Angola là 12 tuổi, Senegal là 13 tuổi... Tại Việt Nam, gần đây có
36
nhiều quan điểm cho rằng cần thay đổi quy định độ tuổi thành niên để phù
hợp với tình hình thực tế phát triển của trẻ. Có ý kiến cho rằng: "Với sự phát
triển của xã hội, trẻ em hiện nay đã vượt trội hơn trẻ em ngày xưa rất nhiều
về thể chất và tâm sinh lý. Chiếc áo tuổi thành niên vì vậy không còn phù
hợp để khoác lên mình trẻ nữa" [40]. Theo quan điểm của tác giả cho rằng,
chúng ta vẫn nên giữ nguyên quy định về độ tuổi thành niên. Nền kinh tế, xã
hội ở Việt Nam những năm gần đây có những bước phát triển vượt bậc, trẻ
em được thụ hưởng điều kiện chăm sóc tốt hơn và trưởng thành cũng sớm
hơn nhưng tập trung chủ yếu là trẻ em ở các thành phố lớn. Mặt khác, xuất
phát từ đặc điểm thể chất của người Việt Nam cũng như trình độ phát triển
trí não, tâm sinh lý... các em vẫn chưa thể phát triển toàn diện như trẻ em
cùng trang lứa ở một quốc gia phát triển. Rõ ràng, các em vẫn cần được
pháp luật bảo vệ cho đến khi đủ mười tám tuổi.
Điều kiện thứ hai là người thành niên không bị rơi vào các trường hợp
bị Tòa án tuyên là mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành
vi dân sự. Như vậy, không phải tất cả những người thành niên đều có năng
lực hành vi dân sự đầy đủ.
Quy định của bộ luật dân sự về năng lực hành vi dân sự đầy đủ là kết
quả của sự nghiên cứu về luật học và khoa học kết hợp với đời sống thực tế.
Theo chứng minh khoa học của các ngành y tế, sinh học, tâm lý học..., thông
thường con người sẽ đạt đến ngưỡng phát triển toàn diện khi họ đã thành niên.
Con người trong khoảng thời gian mười tám năm được sinh ra và nuôi dưỡng
trưởng thành bởi gia đình, xã hội sẽ hình thành tính cách, phát triển nhận thức
cùng các kỹ năng sống cần thiết. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam cũng ghi nhận công dân đủ 18 tuổi có quyền bầu cử. Điều 19 BLDS
năm 2005 đã kế thừa Hiến pháp năm 1992 quy định cá nhân từ đủ mười tám
tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
37
Theo pháp luật dân sự Việt Nam, trường hợp duy nhất có năng lực
hành vi dân sự đầy đủ là trường hợp quy định tại Khoản 4 Điều 19 BLDS
năm 2005 mà không có một trường hợp ngoại lệ nào. Còn theo pháp luật một
số quốc gia có quy định các trường hợp ngoại lệ cho phép một người có thể
có năng lực hành vi dân sự đầy đủ trước độ tuổi luật định. Chẳng hạn như
trường hợp quy định tại Điều 735 BLDS Nhật Bản, Điều 467 BLDS Pháp thì
người chưa thành niên kết hôn thì coi như đã đạt độ tuổi trưởng thành; đặc
biệt hơn Điều 477 BLDS Pháp còn quy định người chưa thành niên có thể có
đầy đủ năng lực hành vi nếu đã đủ mười sáu tuổi, kể cả khi chưa kết hôn. Sau
khi nghe ý kiến của người chưa thành niên, thẩm phán phụ trách giám hộ
quyết định công nhận năng lực hành vi dân sự đầy đủ cho người chưa thành
niên đó. Nếu chỉ cha hoặc mẹ nộp đơn yêu cầu, thì thẩm phán quyết định sau
khi đã lắng nghe ý kiến của người mẹ hoặc người cha còn lại, trừ tường hợp
người đó không thể bày tỏ ý chí.
2.2.2. Năng lực hành vi dân sự một phần
Ngược lại với quy định về người thành niên, người chưa thành niên là
người chưa đủ mười tám tuổi. Người chưa thành niên là một thuật ngữ pháp
lý thường được các nhà lập pháp và quản lý xã hội sử dụng khi xác định giới
hạn về nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý của cá nhân trong những mối quan hệ
pháp luật. Thông qua việc xác định giới hạn đối tượng người chưa thành niên
để có những phương thức đặc thù và hợp lý để quản lý nhóm đối tượng này.
Ở độ tuổi dưới mười tám, tùy từng trường hợp cụ thể mà pháp luật quy
định năng lực trách nhiệm dân sự mà người chưa thành niên phải chịu khi
tham gia một số quan hệ pháp luật dân sự khác nhau. Đồng thời, việc phân
nhóm đối tượng dưới mười tám tuổi chỉ mang ý nghĩa tương đối vì trên thực
tế chúng ta không tìm được một sự đồng nhất hoàn toàn giữa các lớp lứa tuổi
khác nhau. Xuất phát từ những đặc điểm khác nhau về sự phát triển thể chất,
38
nhận thức cũng như tâm sinh lý, những người dưới mười tám tuổi còn có thể
được phân chia thành nhiều nhóm tuổi.
Trong thực tế, còn tồn tại những nhận thức và cách hiểu khác nhau giữa
khái niệm người chưa thành niên và vị thành niên. Có quan điểm cho rằng, về
mặt ngôn từ, khi người ta nói rằng chưa đạt đến một ngưỡng cửa nào đó thì
thường có nghĩa là đã gần đạt đến mức độ đó rồi. Theo đó, người chưa thành
niên có nghĩa là người đó cũng đã gần đến tuổi thành niên và người chưa
thành niên không thể là trẻ sơ sinh, mẫu giáo, nhi đồng. Với quan điểm trên,
người chưa thành niên được phân thành nhóm trẻ em và nhóm vị thành niên.
Mặc định nhóm vị thành niên chỉ là một bộ phận của người chưa thành niên,
hay nói một cách chính xác hơn, nhóm vị thành niên được hiểu là thế hệ lớn
tuổi hơn cả trong nhóm chưa thành niên. Thiết nghĩ, quan điểm trên chỉ nhằm
giới hạn phạm vi đối tượng nghiên cứu một bộ phận người chưa thành niên.
Bởi vì, theo khái niệm trong từ điển luật học thì vị thành niên (chưa thành
niên) là người chưa đến độ tuổi được pháp luật coi là đủ khả năng sử dụng
quyền, làm nghĩa vụ và chịu trách nhiệm. Người chưa đủ mười tám tuổi là vị
thành niên [55], đồng thời, Điều 18 BLDS năm 2005 quy định:“…Người
chưa đủ mười tám tuổi là người chưa thành niên” [10, Điều 18].
Như vậy, trong khoa học pháp lý nói chung và khoa học Luật dân sự
nói riêng thì khái niệm về người chưa thành niên được hiểu bao gồm tất cả
những người chưa đủ 18 tuổi.
Năng lực hành vi dân sự của người chưa thành niên, có sự phát triển bình
thường về nhận thức là năng lực hành vi dân sự chưa đầy đủ hay còn gọi là năng
lực hành vi dân sự một phần. Điều 20 BLDS năm 2005 quy định như sau:
1. Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi khi xác
lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp
luật đồng ý, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng
ngày phù hợp với lứa tuổi hoặc pháp luật có quy định khác
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOTĐề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOT
 
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAYLuận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
 
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối theo pháp luật, HAY
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối theo pháp luật, HAYLuận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối theo pháp luật, HAY
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối theo pháp luật, HAY
 
Đề tài: Trách nhiệm của công chức trong hoạt động công vụ, HOT
Đề tài: Trách nhiệm của công chức trong hoạt động công vụ, HOTĐề tài: Trách nhiệm của công chức trong hoạt động công vụ, HOT
Đề tài: Trách nhiệm của công chức trong hoạt động công vụ, HOT
 
Luận văn: Các hình thức xử lý kỷ luật lao động trong pháp luật, HOT
Luận văn: Các hình thức xử lý kỷ luật lao động trong pháp luật, HOTLuận văn: Các hình thức xử lý kỷ luật lao động trong pháp luật, HOT
Luận văn: Các hình thức xử lý kỷ luật lao động trong pháp luật, HOT
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sựLuận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận án: Giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở nước ta, HAY
Luận án: Giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở nước ta, HAYLuận án: Giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở nước ta, HAY
Luận án: Giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở nước ta, HAY
 
Luận văn: Thụ lý vụ án dân sự theo trình tự sơ thẩm, HAY
Luận văn: Thụ lý vụ án dân sự theo trình tự sơ thẩm, HAYLuận văn: Thụ lý vụ án dân sự theo trình tự sơ thẩm, HAY
Luận văn: Thụ lý vụ án dân sự theo trình tự sơ thẩm, HAY
 
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đLuận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
 
Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệuLuận văn: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
 
Luận văn: Pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình tại Đà Nẵng
Luận văn: Pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình tại Đà NẵngLuận văn: Pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình tại Đà Nẵng
Luận văn: Pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình tại Đà Nẵng
 
Luận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAY
Luận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAYLuận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAY
Luận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAY
 
Luận văn: Quyền của người khuyết tật trong pháp Luật, HOT
Luận văn: Quyền của người khuyết tật trong pháp Luật, HOTLuận văn: Quyền của người khuyết tật trong pháp Luật, HOT
Luận văn: Quyền của người khuyết tật trong pháp Luật, HOT
 
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn tại Hà Nội
Luận văn: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn tại Hà NộiLuận văn: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn tại Hà Nội
Luận văn: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn tại Hà Nội
 
200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Luật Tại Tòa Án, 9 Điểm
200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Luật Tại Tòa Án, 9 Điểm200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Luật Tại Tòa Án, 9 Điểm
200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Luật Tại Tòa Án, 9 Điểm
 
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sự
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sựLuận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sự
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sự
 
Luận văn: Văn bản quy phạm pháp luật - Vấn đề lý luận và thực tiễn
Luận văn: Văn bản quy phạm pháp luật - Vấn đề lý luận và thực tiễnLuận văn: Văn bản quy phạm pháp luật - Vấn đề lý luận và thực tiễn
Luận văn: Văn bản quy phạm pháp luật - Vấn đề lý luận và thực tiễn
 

Similar to Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT

Similar to Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT (20)

Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOTQuyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
 
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của đương sự, HOT, HAY
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của đương sự, HOT, HAYLuận văn: Đại diện theo pháp luật của đương sự, HOT, HAY
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của đương sự, HOT, HAY
 
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dân
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dânLuận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dân
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dân
 
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án, HAYLuận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án, HAY
 
Luận văn: Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự
Luận văn: Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sựLuận văn: Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự
Luận văn: Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự
 
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự, HOTLuận văn: Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự, HOT
 
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sựBảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
 
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOTLuận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
 
Vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam
Vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt NamVai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam
Vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam
 
Luận văn: Bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người được thi hành án
Luận văn: Bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người được thi hành ánLuận văn: Bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người được thi hành án
Luận văn: Bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người được thi hành án
 
Luận văn: Quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án
Luận văn: Quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành ánLuận văn: Quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án
Luận văn: Quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án
 
Luận văn: Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở, HOTLuận văn: Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở, HOT
 
Đề tài: Bảo đảm quyền của nhóm người yếu thế trong xã hội
Đề tài: Bảo đảm quyền của nhóm người yếu thế trong xã hộiĐề tài: Bảo đảm quyền của nhóm người yếu thế trong xã hội
Đề tài: Bảo đảm quyền của nhóm người yếu thế trong xã hội
 
Tính hợp pháp của văn bản quy phạm pháp luật của Bộ Văn hoá
Tính hợp pháp của văn bản quy phạm pháp luật của Bộ Văn hoáTính hợp pháp của văn bản quy phạm pháp luật của Bộ Văn hoá
Tính hợp pháp của văn bản quy phạm pháp luật của Bộ Văn hoá
 
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của người khác gây ra
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của người khác gây raTrách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của người khác gây ra
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của người khác gây ra
 
Giao Dịch Dân Sự Vô Hiệu Do Lừa Dối Theo Pháp Luật Việt Nam.doc
Giao Dịch Dân Sự Vô Hiệu Do Lừa Dối Theo Pháp Luật Việt Nam.docGiao Dịch Dân Sự Vô Hiệu Do Lừa Dối Theo Pháp Luật Việt Nam.doc
Giao Dịch Dân Sự Vô Hiệu Do Lừa Dối Theo Pháp Luật Việt Nam.doc
 
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAYLuận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
 
Luận văn: Các quan niệm phổ biến về pháp luật trên thế giới, HOT
Luận văn: Các quan niệm phổ biến về pháp luật trên thế giới, HOTLuận văn: Các quan niệm phổ biến về pháp luật trên thế giới, HOT
Luận văn: Các quan niệm phổ biến về pháp luật trên thế giới, HOT
 
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOTToà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
 
Luận văn: Bảo vệ quyền con người thông qua xét xử vụ án hình sự
Luận văn: Bảo vệ quyền con người thông qua xét xử vụ án hình sựLuận văn: Bảo vệ quyền con người thông qua xét xử vụ án hình sự
Luận văn: Bảo vệ quyền con người thông qua xét xử vụ án hình sự
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
mskellyworkmail
 

Recently uploaded (20)

XÂY DỰNG KẾ HOẠCH KINH DOANH CHO CÔNG TY KHÁCH SẠN SÀI GÒN CENTER ĐẾN NĂM 2025
XÂY DỰNG KẾ HOẠCH KINH DOANH CHO CÔNG TY KHÁCH SẠN SÀI GÒN CENTER ĐẾN NĂM 2025XÂY DỰNG KẾ HOẠCH KINH DOANH CHO CÔNG TY KHÁCH SẠN SÀI GÒN CENTER ĐẾN NĂM 2025
XÂY DỰNG KẾ HOẠCH KINH DOANH CHO CÔNG TY KHÁCH SẠN SÀI GÒN CENTER ĐẾN NĂM 2025
 
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...
 
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
 
NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...
NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...
NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...
 
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CA TRÙ (CỔ ĐẠM – NGHI XUÂN, HÀ ...
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CA TRÙ (CỔ ĐẠM – NGHI XUÂN, HÀ ...MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CA TRÙ (CỔ ĐẠM – NGHI XUÂN, HÀ ...
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CA TRÙ (CỔ ĐẠM – NGHI XUÂN, HÀ ...
 
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
 
Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...
Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...
Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
 
Trích dẫn theo Harvard với Microsoft Word
Trích dẫn theo Harvard với Microsoft WordTrích dẫn theo Harvard với Microsoft Word
Trích dẫn theo Harvard với Microsoft Word
 
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại khối cơ quan Tập đoàn Viễn thông Quân...
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại khối cơ quan Tập đoàn Viễn thông Quân...Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại khối cơ quan Tập đoàn Viễn thông Quân...
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại khối cơ quan Tập đoàn Viễn thông Quân...
 
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...
 
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
 
Kỹ năng khởi nghiệp Đổi mới sáng tạo cho sinh viên
Kỹ năng khởi nghiệp Đổi mới sáng tạo cho sinh viênKỹ năng khởi nghiệp Đổi mới sáng tạo cho sinh viên
Kỹ năng khởi nghiệp Đổi mới sáng tạo cho sinh viên
 
Luận văn 2024 Tuyển dụng nhân lực tại Công ty cổ phần in Hồng Hà
Luận văn 2024 Tuyển dụng nhân lực tại Công ty cổ phần in Hồng HàLuận văn 2024 Tuyển dụng nhân lực tại Công ty cổ phần in Hồng Hà
Luận văn 2024 Tuyển dụng nhân lực tại Công ty cổ phần in Hồng Hà
 
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
TIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌCTIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
 

Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐỖ THỊ HẬU N¡NG LùC HµNH VI D¢N Sù CñA C¸ NH¢N THEO PH¸P LUËT VIÖT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐỖ THỊ HẬU N¡NG LùC HµNH VI D¢N Sù CñA C¸ NH¢N THEO PH¸P LUËT VIÖT NAM Chuyên ngành: Luật Dân sự và tố tụng dân sự Mã số: 60 38 01 03 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN HẢI AN HÀ NỘI - 2014
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Đỗ Thị Hậu
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NĂNG LỰC HÀNH VI DÂN SỰ CỦA CÁ NHÂN TRONG QUAN HỆ PHÁP LUẬT DÂN SỰ............................................................................................... 7 1.1. Khái quát chung về năng lực chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự........................................................................................... 7 1.1.1. Khái niệm năng lực chủ thể.................................................................. 7 1.1.2. Năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự của người nước ngoài tại Việt Nam..........................................................19 1.1.3. Mối quan hệ giữa năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự của cá nhân..............................................................................24 1.2. Khái lược quy định của pháp luật Việt Nam về năng lực hành vi dân sự của cá nhân .............................................................24 1.2.1. Quy định của pháp luật phong kiến về năng lực hành vi dân sự của cá nhân.........................................................................................24 1.2.2. Quy định của pháp luật thời kì Pháp thuộc về năng lực hành vi dân sự của cá nhân..............................................................................27 1.2.3. Quy định của pháp luật từ năm 1954 đến 1995 về năng lực hành vi dân sự của cá nhân .........................................................................29 1.2.4. Quy định của pháp luật từ năm 1995 đến nay về năng lực hành vi dân sự của cá nhân .........................................................................30 1.3. Ý nghĩa của việc quy định năng lực hành vi dân sự của cá nhân.....31
  • 5. 1.3.1. Bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự..................................................................................................31 1.3.2. Góp phần nâng cao trách nhiệm của các bên khi tham gia kí kết hợp đồng.............................................................................................31 1.3.3. Góp phần ngăn ngừa, răn đe các hành vi vi phạm pháp luật .............32 1.3.4. Cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp khi vụ việc dân sự liên quan đến năng lực hành vi dân sự......................................................32 Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ NĂNG LỰC HÀNH VI DÂN SỰ CỦA CÁ NHÂN ......................33 2.1. Căn cứ xác định mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân......33 2.2. Các mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân........................35 2.2.1. Năng lực hành vi dân sự đầy đủ.........................................................35 2.2.2. Năng lực hành vi dân sự một phần.....................................................37 2.2.3. Người không có năng lực hành vi dân sự ..........................................40 2.2.4. Người mất năng lực hành vi dân sự ...................................................41 2.2.5. Năng lực hành vi dân sự bị hạn chế ...................................................42 2.3. Quy định của pháp luật về năng lực hành vi dân sự của cá nhân trong một số quan hệ pháp luật dân sự cụ thể.....................43 2.3.1. Năng lực hành vi dân sự của người thành niên..................................43 2.3.2. Năng lực hành vi dân sự của người chưa thành niên.........................45 2.3.3. Người mất năng lực hành vi dân sự ...................................................52 2.3.4. Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.........................................55 Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ NĂNG LỰC HÀNH VI DÂN SỰ CỦA CÁ NHÂN VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ NĂNG LỰC HÀNH VI DÂN SỰ CỦA CÁ NHÂN ......................57 3.1. Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về năng lực hành vi dân sự của cá nhân...........................................................................57
  • 6. 3.1.1. Những bất cập trong quy định pháp luật về năng lực hành vi dân sự của cá nhân..............................................................................57 3.1.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về năng lực hành vi dân sự của cá nhân qua một số vụ án........................................................................60 3.2. Những giải pháp hoàn thiện pháp luật về năng lực hành vi dân sự của cá nhân...........................................................................76 3.2.1. Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật dân sự về năng lực hành vi dân sự cá nhân .......................................................................77 3.2.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự về năng lực hành vi dân sự của cá nhân .........................................................................80 KẾT LUẬN....................................................................................................82 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................83
  • 7. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLDS: Bộ luật dân sự BLTTDS: Bộ luật tố tụng dân sự LHN & GĐ: Luật hôn nhân và gia đình TAND: Tòa án nhân dân UBND: Ủy ban nhân dân
  • 8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Để đáp ứng các nhu cầu trong đời sống, mỗi cá nhân phải không ngừng tham gia các mối quan hệ xã hội, trong đó có các giao dịch Dân sự. Nhằm đảm bảo sự ổn định và trật tự trong quá trình thiết lập và thực hiện các giao dịch dân sự, hướng tới việc thực hiện lợi ích cho các chủ thể tham gia cũng như lợi ích chung toàn xã hội, không phải bất cứ cá nhân nào cũng có quyền tham gia vào các giao dịch dân sự. Pháp luật dân sự nước ta quy định chỉ có những cá nhân có năng lực chủ thể mới có quyền tham gia những giao dịch ấy. Năng lực chủ thể được tạo thành bởi hai thành tố, đó là năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự. Trong đó, năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi sinh ra và ai cũng có năng lực pháp luật như nhau. Còn năng lực hành vi dân sự của cá nhân được hình thành khi có những điều kiện nhất định và có nhiều mức độ khác nhau tương ứng với khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của cá nhân đó. Hiện nay, các quyền tự do dân chủ dành cho cá nhân càng ngày càng lớn và đời sống sinh hoạt của mỗi cá nhân rất đa dạng, phức tạp kéo theo sự phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực giao lưu dân sự. Việc giải quyết những tranh chấp liên quan đến vấn đề năng lực hành vi dân sự của cá nhân khi tham gia quan hệ pháp luật dân sự không phải bao giờ cũng thỏa đáng. Bởi vì, cá nhân muốn là chủ thể tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự cần phải đạt đến một trình độ phát triển nhất định về thể lực và trí lực, trong khi đó, không ít giao dịch dân sự diễn ra trên thực tế mà người tham gia không thỏa mãn những điều kiện về năng lực chủ thể dẫn đến tranh chấp khi thực hiện. Chẳng hạn, người tham gia giao dịch không có năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc tình trạng lợi dụng người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự để tiến thành giao dịch dân
  • 9. 2 sự... Bên cạnh đó, hệ thống các văn bản pháp luật có quy định liên quan đến năng lực hành vi dân sự vẫn còn những mâu thuẫn, chồng chéo dẫn đến khó khăn cho quá trình áp dụng luật như vẫn chưa có sự thống nhất về thuật ngữ "trẻ em", "vị thành niên", "người chưa thành niên", hay quy định về các độ tuổi tham gia quan hệ pháp luật dân sự còn chưa thống nhất giữa Bộ luật dân sự, Luật Hôn nhân và Gia đình hay Bộ luật lao động… Chính sự thiếu đồng bộ nêu trên cũng khiến cho các nhà làm luật khó khăn trong việc giải thích và áp dụng pháp luật, dẫn đến tình trạng thực thi pháp luật kém hiệu quả, quyền lợi hợp pháp của người dân khi tham gia quan hệ pháp luật dân sự ít nhiều chưa được đảm bảo. Nghiên cứu năng lực chủ thể nói chung và năng lực hành vi dân sự của cá nhân nói riêng trong quan hệ pháp luật dân sự là việc làm có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận và thực tiễn nhằm xác định tư cách chủ thể cũng như trách nhiệm tài sản của cá nhân khi xác lập, thực hiện quan hệ pháp luật dân sự cụ thể. Do đó, tác giả chọn đề tài "Năng lực hành vi dân sựcủa cá nhân theo pháp luâ ̣t Viê ̣t Nam" là đề tài luận văn tha ̣c sỹ của mình nhằm tìm hiểu thực tra ̣ng áp dụng các quy định pháp luật về năng lực hành vi dân sự của cá nhân, qua đó đề xuất kiến nghị nhằm bổ sung và hoàn thiê ̣n quy định pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể không chỉ cho công dân Viê ̣t Nam mà còn cho người nước ngoài cư trú ta ̣i Viê ̣t Nam. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Nghiên cứu về năng lực hành vi dân sự của cá nhân đã được đề cập khá nhiều trong một số luận văn và bài viết đăng trên các tạp chí. Cụ thể đó là các bài viết và công trình nghiên cứu: Luận văn thạc sỹ Luật học: "Năng lực chủ thể của cá nhân trong giao dịch dân sự" của tác giả Nguyễn Thị Thanh Hải, năm 2013; Luận văn thạc sỹ Luật học: "Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng của cá nhân - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" của tác giả
  • 10. 3 Nguyễn Minh Thư; Luận văn thạc sỹ Luật học: "Những quy định chung về quyền thừa kế trong Bộ luật dân sự", người thực hiện Nguyễn Minh Tuấn; bài viết: "Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về cử người giám hộ cho người mất năng lực hành vi dân sự không có người giám hộ đương nhiên" đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân số 01-2013, kỳ III của Th.s Nguyễn Thị Hạnh; bài viết "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ" của tác giả Nguyễn Thị Thúy Hằng đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân tháng 5/2013; bài viết: "Thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật về người chưa thành niên trong tố tụng dân sự - Những khó khăn, vướng mắc và giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng dân sự đối với người chưa thành niên" của TS.Nguyễn Hải An tham luận tại Hội thảo quốc tế của Ủy ban Tư pháp Quốc hội về xây dựng Tòa Gia đình, người chưa thành niên và Luật Tổ chức Tòa án, Hải Phòng ngày 27, 28/2/2014; bài viết "Bàn về năng lực hành vi dân sự của cá nhân : Từ tuổi đã thành niên đến tuổi kết hôn của nam giới " của TS. Nguyễn Thi ̣Hoài Phương cùng diễn đàn trao đổi xung quanh vấn đề trên đã đề cập đến vấn đề có nên thay đổi độtuổi thành niên liên quan đến viê ̣c kết hôn hay không . Bài viết "Bàn về hợp đồng vô hiệu do được giao kết bởi người bị mất năng lực hành vi dân sự qua một vụ á n " của TS.Đỗ Văn Đại được đăng trên Tạp chí khoa học pháp lý số 4 năm 2007, cho thấy những khó khăn trong viê ̣c xác đi ̣nh một người bi ̣mất năng lực hành vi dân sự k hi giao kết hợp đồng . Ngoài ra, Luâ ̣t sư Trương Thanh Đứ c cũng đề câ ̣p đến hê ̣quả pháp lý cùng những vương mắc từ viê ̣c sử dụng thiếu chính xác các cụm từ quy đi ̣nh "đô ̣tuổi" - căn cứ xác nhận mức độ năng lực hành vi dân sự trong bài viết "Quản lý người chưa thành niên" của trên Tạp chí Quản lý Nhà nước số 81+82 tháng 4+5/2010... Các bài nghiên cứu trên chủ yếu phân tích một số khía ca ̣nh liên quan đến quy đi ̣nh về năng lực hành vi dân sự của cá nhân . Do đó, trong toàn bộ
  • 11. 4 quá trình nghiên cứu luận văn, tác giả tiếp cận vấn đề năng lực hành vi dân sự của cá nhân một cách toàn diê ̣n , xuyên suốt hệ thống các quy đi ̣nh trong hê ̣ thống văn bản pháp luâ ̣t Viê ̣t Nam , đồng thời so sánh với quy đi ̣nh của ph áp luâ ̣t nước ngoài về năng lực hành vi dân sự. Kết quả nghiên cứ u của luâ ̣n văn sẽ góp phần ho àn thiện Bộ luật dân sự , tạo sự đồng bộ về mặt pháp lý cũng như thống nhất trong viê ̣c áp dụng các quy đi ̣nh pháp luật về năng lực hành vi dân sự của cá nhân. 3. Phạm vi nghiên cứu đề tài Trong khuôn khổ luận văn thạc sỹ, tác giả tập trung nghiên cứu, phân tích để làm rõ các khía cạnh về năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng pháp luật về năng lực hành vi dân sự của cá nhân trong sự so sánh, liên hệ với quy định của pháp luật Việt Nam thời kì trước và quy định pháp luật của một số quốc gia trên thế giới. 4. Cơ sở lý luận về phương pháp nghiên cứu Cơ sở phương pháp luận tổng quan chung của toàn bộ luận văn tác giả dựa trên nền tảng chủ nghĩa Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vâ ̣t li ̣ch sử cùng khoa học lý luận chung về Nhà nước và pháp luật. Các phương pháp nghiên cứu cụthể được sử dụng để tiến hành nghiên cứu luận văn bao gồm phương pháp phân tích, so sánh, chứng minh, thống kê để từ những quy định chung đi đến giải quyết từng lĩnh vực cụ thể, sau đó quay lại phân tích và khẳng định những quy định chung đó. 5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài Việc nghiên cứu đề tài giúp cho tác giả tiếp cận và đánh giá toàn diện về vấn đề năng lực hành vi dân sự của cá nhân từ khái niệm đến các mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân , năng lực hành vi dân sự của cá nhân trong các quan hệ pháp luật. Từ đó, tác giả đưa ra những lập luận, đánh giá ưu điểm, hạn chế của các quy định năng lực hành vi dân sự của cá n hân về mă ̣t
  • 12. 5 pháp lý và thực tiễn áp dụng . Đặc biệt, trong quá trình nghiên cứu luận văn, những kiến thức tìm hiểu được sẽ phục vụ hiệu quả cho công việc của tác giả sau này. Để đạt được mục đích này, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài được xác định trên những khía cạnh sau: - Làm rõ khái niệm năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự của cá nhân; - Phân tích nội dung năng lực hành vi dân sự của cá nhân và các quy đi ̣nh liên quan theo pháp luật Việt Nam hiện hành; - Xem xét trách nhiệm, tư cách tố tụng của các chủ thể thông qua quy định về năng lực hành vi dân sự. - Thực tiễn áp dụng các quy định trên thực tế thông qua việc phân tích những vụ án cụ thể, qua đó đề xuất kiến nghị góp hoàn thiê ̣n vướng mắc , bất câ ̣p của quy đi ̣nh pháp luâ ̣t. 6. Những đóng góp mới của luận văn Luận văn là kết quả nghiên cứu khoa học, sự tìm tòi, học hỏi, hướng dẫn của thầy cô và thực tiễn công tác xét xử về năng lực hành vi dân sự của cá nhân, những đóng góp của luận văn được thể hiện cụ thể trên những phương diện sau: - Khái quát những vấn đề cơ bản về năng lực hành vi dân sự của cá nhân trong hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung, pháp luật dân sự nói riêng, giúp cho mọi người khi nghiên cứu về năng lực hành vi dân sự của cá nhân có cách nhìn khái quát, toàn diện các vấn đề về năng lực hành vi dân sự của cá nhân. - Đánh giá thực tiễn thi hành các quy định về năng lực hành vi dân sự của cá nhân thong qua một số vụ việc cụ thể. - Phân tích những bất cập của các quy định pháp luật dân sự hiện hành về năng lực chủ thể cũng như các vấn đề có liên quan đến năng lực hành vi
  • 13. 6 dân sự của cá nhân. Qua đó, đưa ra đề xuất, kiến nghị thiết thực để hoàn thiện quy định pháp luật tương ứng. - Luận văn là tài liệu quan trọng giúp cho cán bộ nghiên cứu, cán bộ làm công tác thực tiễn hiểu rõ và xác định các mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân cũng như hiệu lực pháp lý của các quan hệ pháp luật dân sự mà cá nhân tham gia. 7. Kết cấu của luận văn Luận văn cao học với đề tài: "Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật Việt Nam" thuộc chuyên ngành Luật dân sự, ngoài phần Tổng quan, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo còn được kết cấu bởi ba chương: Chương 1. Lý luận chung về năng lực hành vi dân sự của cá nhân trong quan hệ pháp luật dân sự. Chương 2. Quy định của pháp luật hiện hành về năng lực hành vi dân sự của cá nhân. Chương 3. Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về năng lực hành vi dân sự của cá nhân và những giải pháp hoàn thiện pháp luật về năng lực hành vi dân sự của cá nhân.
  • 14. 7 Chương 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ NĂNG LỰC HÀNH VI DÂN SỰ CỦA CÁ NHÂN TRONG QUAN HỆ PHÁP LUẬT DÂN SỰ 1.1. Khái quát chung về năng lực chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự 1.1.1. Khái niệm năng lực chủ thể Chủ thể là yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc hình thành các quan hệ pháp luật. Việc xác định chủ thể của một ngành luật và các điều kiện liên quan đến năng lực chủ thể của ngành luật đó là do đặc thù của quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của một ngành luật. Xuất phát từ tính đa dạng và phong phú của các quan hệ dân sự phát sinh trong đời sống của xã hội nên chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự rất đa dạng với đặc điểm riêng biệt của từng loại chủ thể. Chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự bao gồm: cá nhân là công dân Việt Nam, người nước ngoài và người không quốc tịch; pháp nhân; hộ gia đình; tổ hợp tác và trong nhiều trường hợp Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là chủ thể đặc biệt của quan hệ pháp luật dân sự. Dưới góc độ khoa học pháp lý, cá nhân, tổ chức đáp ứng được những điều kiện do pháp luật quy định trong từng loại quan hệ nhất định là chủ thể của quan hệ pháp luật. Vì vậy, để trở thành chủ thể quan hệ pháp luật thì cá nhân, tổ chức phải có năng lực chủ thể đầy đủ. Không phải mọi cá nhân đều có thể tự mình tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự. Khi cá nhân muốn tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự cần đáp ứng điều kiện quan trọng đầu tiên về năng lực chủ thể. Vậy năng lực chủ thể là gì? Theo quan điểm của những nhà tâm lý học: năng lực chủ thể của cá nhân là tổng hợp các đặc điểm, thuộc tính tâm lý của cá nhân phù hợp với yêu
  • 15. 8 cầu đặc trưng của một hoạt động nhất định nhằm đảm bảo cho hoạt động đó đạt hiệu quả cao. Tâm lý học chia năng lực chủ thể của cá nhân thành các dạng khác nhau như năng lực chung và năng lực chuyên môn. Còn hiểu theo tính chất tâm sinh lý, năng lực chủ thể của cá nhân được hiểu là quá trình con người tiếp thu kiến thức, kỹ năng có thể sử dụng khi hành động. Trong cùng một điều kiện, hoàn cảnh nhưng mỗi cá nhân khác nhau có thể tiếp thu các kiến thức, kỹ năng với mức độ khác nhau. Có người tiếp thu nhanh nhưng cũng có người phải mất nhiều thời gian và sức lực mới tiếp thu được. Cho đến nay, bộ luật dân sự vẫn chưa chính thức đưa ra khái niệm về năng lực chủ thể. Tuy nhiên, căn cứ vào các quy định hiện hành của BLDS về năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự của cá nhân, có thể rút ra khái niệm về năng lực chủ thể như sau: Năng lực chủ thể của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi có ý chí của mình nhằm xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự khi được pháp luật trao quyền hoặc phải gánh vác nghĩa vụ. Năng lực chủ thể của cá nhân được tạo thành bởi hai thành tố là năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự. Trong đó, năng lực pháp luật dân sự là quyền xử sự của chủ thể do pháp luật ghi nhận và cho phép thực hiện. Còn năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng tự có của chủ thể trong việc thực hiện, kiểm soát và làm chủ hành vi. Mọi chủ thể đều có năng lực pháp luật giống nhau nên cần xem xét yếu tố năng lực hành vi dân sự của cá nhân để xác định tư cách chủ thể khi tham gia vào các quan hệ dân sự. 1.1.1.1. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân Khoa học pháp lý không phân chia năng lực pháp luật dân sự của người chưa thành niên hay người thành niên mà chỉ có khái niệm chung về năng lực pháp luật dân sự của cá nhân. Năng lực pháp luật dân sự được coi điều kiện cần không thể thiếu khi cá nhân tham gia quan hệ pháp luật dân sự. Bộ luật
  • 16. 9 dân sự các nước trên thế giới hầu hết không đưa ra khái niệm năng lực pháp luật dân sự mà đưa ra quy định khẳng định năng lực pháp luật bắt đầu từ thời điểm cá nhân được sinh ra. Tại BLDS Nhật Bản, quyền năng của một thể nhân chính có từ khi con người sinh ra và không ai không có quyền năng. Tương tự, Điều 15 Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan cũng quy định: "Năng lực pháp luật bắt đầu từ khi một đứa trẻ ra đời và kết thúc bằng cái chết" [38, Điều 15]. Như vậy, theo pháp luật các nước, năng lực pháp luật dân sự chỉ khả năng hưởng quyền của cá nhân sau khi được sinh ra. Trong khi đó, BLDS Việt Nam năm 2005 đưa ra một khái niệm cụ thể về năng lực pháp luật dân sự:"Năng lực pháp luật dân sự cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và có nghĩa vụ dân sự" [10, Điều 14]. Quy định này của BLDS dẫn đến cách hiểu là năng lực pháp luật dân sự của cá nhân bao gồm khả năng có cả quyền dân sự và cả nghĩa vụ dân sự, không phù hợp với cách hiểu chung về năng lực pháp luật dân sự trong pháp luật dân sự của các nước trên thế giới. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân được nhà nước ghi nhận trong các văn bản pháp luật mà nội dung của nó phụ thuộc vào hình thái kinh tế - xã hội tại mỗi thời điểm lịch sử nhất định. Điều này phụ thuộc vào đường lối, chính sách của giai cấp thống trị trong xã hội trong từng thời kì lịch sử. Chẳng hạn, theo pháp luật nước ta trước năm 1980, Nhà nước cho phép cá nhân có quyền tư hữu về đất đai. Sau năm 1980 và đến Hiến pháp năm 1992 quy định: "đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do nhà nước làm đại diện chủ sở hữu" [44, Điều 17], cá nhân có quyền chuyển dịch và sử dụng đất đai. Hiện nay, Nhà nước ta không ngừng tạo ra những nền tảng vững chắc để đảm bảo năng lực pháp luật của công dân được thực thi trên thực tế. Các quốc gia có lịch sử phát triển, điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội khác nhau thì quy định về năng lực chủ thể cũng khác nhau. Nhà nước của
  • 17. 10 mỗi quốc gia có quy định riêng về các quyền công dân được hưởng. Nếu như Nhà nước tại Liên bang Mỹ, Cộng hòa liên bang Đức hay Cộng hòa Pháp công nhận chế độ tư hữu đất đai thì nhà nước của Việt Nam không công nhận quyền năng này. Năng lực pháp luật dân sự không phải là thuộc tính tự nhiên, vốn có của chủ thể. Nó do Nhà nước cầm quyền quy định và dành cho công dân nước mình, Bởi vậy, năng lực pháp luật mang tính giai cấp. Mỗi hình thái kinh tế xã hội khác nhau, năng lực pháp luật dân sự cũng được quy định khác nhau.Trong lịch sử nhân loại đã từng có một nhóm người không được thừa nhận là chủ thể của các quan hệ xã hội mà là khách thể của các quan hệ xã hội đó. Điển hình như trong xã hội chiếm hữu nô lệ, những người nô lệ chỉ là công cụ lao động bị chủ sở hữu mua đi bán lại như đồ vật. Năng lực pháp luật dân sự luôn gắn liền với mỗi chủ thể, không thể chuyển giao cho người khác. Trong lịch sử pháp lý ở nước ta đã từng sử dụng khái niệm này khi xác định nội dụng nghĩa vụ dân sự của cá nhân. Chẳng hạn Điều 676 Bộ luật dân sự Trung Kỳ 1936 định nghĩa: Nghĩa vụ dân sự là mối liên lạc về luật thực tại hay luật thiên nhiên, bó buộc một người hay nhiều người phải làm hay đừng làm sự gì đối với một hay nhiều người nào đó", hay "Nghĩa vụ là cái dây liên lạc về luật thực tại hay luật thiên nhiên bó buộc một hay nhiều người phải làm hay đừng làm sự gì đối với một hay nhiều người nào đó [20, Điều 641]. Tuy nhiên, nghĩa vụ về luật tự nhiên là nghĩa vụ mang tính luân lý, được đưa vào trong khái niệm nghĩa vụ cho phù hợp với truyền thống, nhưng chỉ mang tính hình thức, ngược lại với nghĩa vụ về luật thực tế: Nghĩa vụ về luật thực tế là những nghĩa vụ mà có thể dùng các cách về luật pháp và quan pháp, nhất là cách tố tụng trước tòa án để
  • 18. 11 bắt người mắc nợ phải thi hành. Nghĩa vụ về luật thiên nhiên thì không thể tố tụng trước tòa án được. Luật pháp không can thiệp vào sự thi hành các nghĩa vụ về luân lý cùng tôn giáo [20, Điều 642]. Khoản 1, khoản 3 Điều 14 BLDS năm 2005 quy định: 1. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự…. 3. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết [10, Điều 14]. Như vậy, cá nhân không được phép tự hạn chế năng lực dân sự của mình và của người khác. Một tuyên bố đơn phương về việc khước từ hay hạn chế năng lực pháp luật dân sự của cá nhân đều không có hiệu lực pháp lý. Tuy nhiên, Điều 16 BLDS năm 2005 quy định: "Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân không bị hạn chế, trừ trường hợp do pháp luật quy định" [10, Điều 16]. Quy định này cho thấy năng lực pháp luật dân sự của cá nhân mang tính chất "vừa tĩnh vừa động". Điều này có thể hiểu: Năng lực pháp luật luôn luôn và chỉ do Nhà nước quy định cho cá nhân trong các văn bản pháp luật, thể hiện dưới dạng các quy định pháp lý, tự cá nhân không thể thay đổi và cũng không thể bị hạn chế: Thứ nhất: Nếu nhìn một cách tổng quan, nội dung năng lực pháp luật là một phạm trù mở và không bị hạn chế về sự vận động và phát triển. Nó có thể được bổ sung nếu điều kiện thực tế cho phép thay đổi. Nội dung của năng lực pháp luật là thuộc tính không thể tách rời của pháp luật, chịu sự tác động của điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội. Thứ hai: Năng lực pháp luật dân sự nếu xét về hình thức và cơ sở tồn tại thực thế thì không thể nằm ngoài các quy định pháp luật cụ thể. Vì vậy, năng lực pháp luật dân sự bị quy định bởi khả năng thực tế của quá trình xây dựng pháp luật. Trên thực tế, vì nhiều lý do khác nhau mà nội dung năng lực
  • 19. 12 pháp luật dân sự của cá nhân có thể bị hạn chế. Điều này có thể thấy rõ trong các trường hợp như: Khi có văn bản quy phạm pháp luật có tính chất bắt buộc chung quy định cá nhân không được thiết lập các quan hệ pháp luật cụ thể hoặc khi có quyết định áp dụng pháp luật của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có tính chất cá biệt đối với một cá nhân trong điều kiện, thời hạn nhất định. Ví dụ, cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an nhân dân quận A ban hành lệnh cấm bị can C đi khỏi nơi cư trú, tức là đã hạn chế năng lực pháp luật cụ thể của C trong một thời gian xác định. Tuy nhiên, xét về bản chất, hai trường hợp nêu trên không phải là sự tước bỏ năng lực pháp luật dân sự của cá nhân mà là tạm đình chỉ khả năng hưởng quyền của chủ thể, khả năng biến quyền khách quan thành quyền chủ quan của chủ thể riêng biệt. Biện pháp này sẽ được thay đổi nếu Nhà nước thấy không cần thiết nữa và phục hồi khả năng hưởng quyền thực thế cho cá nhân. Mọi cá nhân đều bình đẳng về năng lực pháp luật dân sự, không phân biệt già, trẻ, gái, trai, tôn giáo, dân tộc... Quy định này chưa hoàn toàn chính xác vì thực chất năng lực pháp luật dân sự của cá nhân không hoàn toàn giống nhau. Đặc biệt là khả năng để cá nhân có các quyền gắn với nhân thân và bản chất sinh lý của con người như các quyền kết hôn. LHN&GĐ quy định giữa những người cùng dòng máu trực hệ, giữa những người có họ trong phạm vi ba đời hay giữ những người cùng giới tính không được phép kết hôn với nhau. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân không đồng nghĩa với quyền dân sự chủ quan của cá nhân mà bản thân năng lực dân sự chỉ là tiền đề để cho các cá nhân có quyền dân sự cụ thể do Nhà nước quy định. Thời điểm bắt đầu năng lực pháp luật dân sự của cá nhân được ghi nhận trong BLDS năm 2005 có căn cứ xác định duy nhất là vào thời điểm cá nhân được sinh ra. Có thể nói, quy định này tương đồng với nhiều bộ luật dân sự
  • 20. 13 của các quốc gia. Tuy nhiên khác với pháp luật Việt Nam, pháp luật một số quốc gia còn quy định chính xác thời điểm cá nhân được sinh ra là thời điểm thai nhi hoàn toàn tách ra khỏi cơ thể người mẹ: "Một đứa trẻ trong bụng mẹ có thể được hưởng quyền miễn là nó sống, sau khi ra đời" [38, Điều 15]. Bên cạnh quy định mang tính nguyên tắc chung về thời điểm bắt đầu năng lực pháp luật dân sự, bộ luật dân sự hiện hành cũng đưa ra các trường hợp ngoại lệ, theo đó, năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có hiệu lực hồi tố. Theo quy định tại điều 635 BLDS năm 2005: "Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người thừa kế để lại di sản chết" [10, Điều 635] và khoản 1 Điều 685 BLDS năm 2005: Khi phân chia di sản nếu có người thừa kế cùng hàng đã thành thai nhưng chưa sinh ra thì phải dành lại một phần di sản bằng phần mà người thừa kế khác được hưởng, để nếu người thừa kế đó còn sống khi sinh ra, được hưởng, nếu chết trước khi sinh ra thì những người thừa kế khác được hưởng [10, Điều 685]. Cả hai điều luật cho thấy cá nhân được xem là đã có năng lực pháp luật dân sự kể từ thời điểm thành thai nếu được sinh ra và còn sống. Tuy nhiên, bộ luật dân sự Việt Nam mới chỉ dừng lại ở hai quy định cụ thể nêu trên, chưa có quy định mang tính nguyên tắc chung trong việc bảo vệ quyền của thai nhi. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân chấm dứt khi người đó chết. Việc xác định thời điểm chết của một người rất quan trọng vì nó ảnh hưởng đến tư cách pháp lý trong việc phát sinh, thay đổi hay chấm dứt một quan hệ pháp luật dân sự. Chết có thể hiểu là chết về mặt sinh học hoặc chết theo tuyên bố của Tòa án và theo quy định của pháp luật người đã chết phải được khai tử. Bộ luật dân sự Việt Nam không đưa ra khái niệm về cái chết. Để xác định thời điểm chết của một cá nhân rất khó khăn, nhất là trong trường hợp
  • 21. 14 tuyên bố chết theo quyết định của Tòa án: "Tùy từng trường hợp, Tòa án xác định ngày chết của người bị tuyên bố chết là đã chết căn cứ vào các trường hợp quy định tại khoản 1 điều này" [10, Điều 81], cụ thể như sau: Nếu một người bị Tòa án tuyên bố là đã chết trong trường hợp quy định tại điểm a, điểm d khoản 1 Điều 81 BLDS thì người đó được coi là đã chết là ngày mà quyết định của Tòa án tuyên bố người đã chết có hiệu lực pháp luật. Trường hợp một người bị Tòa án tuyên bố là đã chết do bị tai nạn, thảm họa hoặc thiên tai mà sau một năm, kể từ ngày tai nạn, thảm họa, thiên tai đó chấm dứt vẫn không có tin tức xác thực là còn sống thì ngày người đó được coi là đã chết là ngày xảy ra tai nạn, thảm họa, thiên tai. Trường hợp một người bị Tòa án tuyên bố là biệt tích trong chiến tranh sau năm năm, kể từ ngày chiến tranh kết thúc mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống thì ngày chết là ngày cuối cùng sau năm năm kể từ ngày cuộc chiến tranh đó kết thúc. Có thể nhận thấy, thời điểm chết của cá nhân không chỉ được xác định là ngày quyết định của Tòa án tuyên bố cá nhân chết có hiệu lực pháp luật mà còn là các thời điểm khác do Tòa án xác định trong quyết định tuyên bố cá nhân chết. Do đó, tòa án cần xác định rõ thời điểm chết của cá nhân trong quyết định. Nếu không xác định được thời điểm chết của người đó thì thời điểm chết của người đó mới là ngày mà quyết định tuyên bố người đó chết của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Trường hợp cá nhân chết theo nghĩa sinh học là "sự ngừng trao đổi chất", thể hiện thông qua sự kiện người đó chết. Theo đó, quyền và nghĩa vụ dân sự của chủ thể này trong quan hệ pháp luật đương nhiên chấm dứt. Nếu cá nhân bị tuyên bố là đã chết được xác định bằng quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật thì các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động... của người đó được giải quyết như đối với người đã chết theo nghĩa sinh học.
  • 22. 15 Tuy nhiên, trên thực tế vấn đề khai sinh, khai tử cho một người được sinh ra hoặc khai tử cho một người chết không được nhất quán, triệt để. Thời gian tồn tại năng lực pháp luật dân sự của cá nhân từ lúc sinh ra cho đến lúc chết so với thời gian được pháp luật xác nhận năng lực pháp luật từ thời điểm có giấy khai sinh đến thời điểm có giấy khai tử không trùng nhau, dẫn đến việc xác định thời điểm chấm dứt các quan hệ pháp luật trên thực tế rất khó khăn. Chẳng hạn, theo quy định tại Điều 14 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP của Chính Phủ ngày 27 tháng 12 năm 2005 về đăng ký và quản lý hộ tịch: "Trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày sinh con, cha mẹ có trách nhiệm đi khai sinh cho con, nếu không thể đi khai sinh, thì ông, bà hoặc những người thân thích khác đi khai sinh cho trẻ em" [15, Điều 14], như vậy khoảng thời gian thực hiện trách nhiệm đi khai sinh cho trẻ em có thời hạn là 60 ngày, đây là một khoảng thời gian tương đối dài và có thể phát sinh rất nhiều sự kiện pháp lý. Nếu những người có trách nhiệm chưa thực hiện nghĩa vụ đăng ký khai sinh thì rõ ràng năng lực pháp luật dân sự của cá nhân chưa được xem là bắt đầu (thời điểm sinh), đồng nghĩa với quyền và lợi ích của trẻ sơ sinh cũng như những người có quyền, nghĩa vụ liên quan không được đảm bảo. 1.1.1.2. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân Khả năng hưởng quyền của cá nhân là quyền khách quan mà pháp luật quy định sẵn cho các chủ thể. Để khả năng ấy có thể biến thành hiện thực cần phải có những điều kiện khách quan cũng như chủ quan nhất định. Điều kiện khách quan chính là chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, điều kiện kinh tế - xã hội chính là yếu tố khách quan giúp cho các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định được thực thi. Hiện nay với nền tảng kinh tế và xã hội ngày càng phát triển sẽ là cơ sở vững chắc để nhà nước đảm bảo năng lực hành vi dân sự của cá nhân được triển khai trên thực tế. Năng lực của con người là điều kiện chủ quan để thực hiện quyền và
  • 23. 16 gánh vác nghĩa vụ thông qua hành vi cụ thể. Hành vi hiểu theo nghĩa chung nhất là xử sự của con người dưới dạng hành động hoặc không hành động. Nói cách khác, hành vi là cách cư xử biểu hiện ra bên ngoài của một con người trong một hoàn cảnh cụ thể. Nhưng không phải mọi hành động của con người biểu hiện ra bên ngoài đều được hiểu là hành vi. Bởi hành động, cư xử của con người phải chứa dựng hai yếu tố lý trí và ý chí. Trong đó, lý trí là khả năng nhận thức sự vật bằng suy luận, biểu hiện mức độ khả năng làm chủ của mỗi cá nhân. Còn ý chí là mong muốn chủ quan, là sự theo đuổi một mục đích nhất định nhưng thiên về cảm giác, tình cảm chủ quan của bản thân. Nếu hành vi của một người chỉ được thực hiện bằng cảm giác, tình cảm mà không có khả năng nhận thức hành vi đó bằng suy luận thì cá nhân đó không có khả năng điều khiển hành vi. Chỉ khi thỏa mãn đầy đủ cả hai thuộc tính lý trí và ý chí thì cá nhân mới có khả năng kiểm soát hành vi của mình và chịu trách nhiệm về hành vi đó. Khi cá nhân đạt đến sự phù hợp của hai yếu tố ý chí và lý chí sẽ được coi là người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự. Họ có thể nhận thức và làm chủ hành vi. Ngược lại, một cá nhân dù có lý trí nhưng chưa đạt đến sự phù hợp của hai thuộc tính nêu trên thì cá nhân đó được coi là người có năng lực hành vi dân sự nhưng chưa đầy đủ. Như vậy, có thể hiểu năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân trong việc nhận thức và điều khiển hành vi của mình sao cho phù hợp với quy định của pháp luật và khả năng tự chịu trách nhiệm về hành vi do mình gây ra. Cũng giống như năng lực pháp luật, trong bộ luật dân sự của hầu hết các nước không đưa ra khái niệm năng lực hành vi. Chẳng hạn như quy định của Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan khi một người đã đủ 20 tuổi sẽ không còn là vị thành thành niên mà trở thành người thành niên, tự lập [38, Điều 19]. "Tự lập" được hiểu là năng lực của cá nhân thực hiện các quyền và nghĩa vụ.
  • 24. 17 Trong khi đó, BLDS Việt Nam năm 2005 đã đưa ra khái niệm năng lực hành vi thông qua quy định tại điều 17: "Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự" [10, Điều 17]. Khả năng ở đây có thể hiểu là tố chất của một cá nhân có thể hưởng quyền và gánh vác được nghĩa vụ khi tham gia các quan hệ pháp luật trong hạn mức pháp luật cho phép. Mặt khác, khả năng còn được hiểu là năng lực chịu trách nhiệm dân sự của cá nhân khi cá nhân đó vi phạm nghĩa vụ đối với chủ thể mang quyền. Pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật nhiều nước lấy độ tuổi làm tiêu chí xác định năng lực hành vi dân sự của cá nhân. Tuy nhiên, đây không phải là tiêu chí duy nhất để làm điều kiện công nhận năng lực hành vi dân sự của một cá nhân cho tất cả các loại quan hệ pháp luật. Nếu như độ tuổi cho thấy sự phát triển về thể chất thì khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của cá nhân thể hiện sự phát triển về tinh thần. Cả hai yếu tố trên là cơ sở cần thiết để nhà nước quy định năng lực hành vi dân sự. Bởi vì quá trình hình thành nhân cách, khả năng nhận thức phải trải qua thời gian. Chỉ khi cá nhân đạt đến một độ tuổi nhất định thì cá nhân mới hoàn thiện và đủ khả năng kiểm soát hành vi của mình, chịu trách nhiệm pháp lý do hành vi mình gây ra. Không giống như năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết. Năng lực hành vi của cá nhân không tự nhiên có từ khi sinh ra, mà chỉ xuất hiện khi đạt đến độ tuổi nhất định. Thông thường, để xác định khả năng của cá nhân trong việc xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự ngoài việc căn cứ vào độ tuổi còn phải căn cứ vào khả năng nhận thức, điều khiển hành vi (tùy thuộc vào bản chất của mỗi quan hệ pháp luật cá nhân đó tham gia mà đòi hỏi khả năng trong việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của cá nhân xuất hiện ở những độ tuổi khác nhau). Chẳng hạn, để có năng lực hành vi tham gia vào quan hệ lao động, cá nhân chỉ cần đạt độ tuổi từ
  • 25. 18 đủ mười lăm trở lên: ''Người lao động là người ít nhất đủ 15 tuổi, có khả năng lao động và có giao kết hợp đồng lao động" [46, Điều 6]. Tuy nhiên, pháp luật quy định độ tuổi có năng lực hành vi dân sự không có nghĩa là trước khi đạt độ tuổi đó thì cá nhân không được tham gia vào bất kỳ quan hệ pháp luật dân sự nào. Việc hạn chế độ tuổi để xác định năng lực hành vi là cần thiết, vì quá trình phát triển nhân cách, tính cách con người cần có thời gian nhất định. Khi cá nhân có khả năng kiểm soát hành vi của mình thì hành vi đó mới là hành vi của xã hội và cần thiết chịu sự điều chỉnh của pháp luật. Về khả năng nhận thức của cá nhân, mặc dù con người sinh ra vốn đã có cơ sở vật chất để phát triển ý thức - đó chính là bộ não người. Trong mỗi con người đã chứa đựng khuynh hướng hình thành và phát triển khả năng nhận thức của con người. Không phải khi con người sinh ra đã có nhận thức về tự nhiên, về xã hội, về chính mình. Khả năng này không phải bẩm sinh đã có, nó là kết quả của quá trình sống, hoạt động trong xã hội với một thời gian nhất định. Quá trình đó, con người được hoạt động, được giáo dục, được quan hệ giao lưu... sẽ tiếp thu và tích lũy những tri thức cùng kinh nghiệm sống. Dần dần, năng lực nhận thức của con người được hình thành ngày một phong phú. Khi con người đã có khả năng nhận thức nhất định thì họ mới nhận biết quyền và nghĩa vụ của mình, mới biết được những yêu cầu, đòi hỏi của bản thân và xã hội, từ đó mới có cơ sở đánh giá được ý nghĩa thực tế cũng như ý nghĩa xã hội trong hành vi của mình. Mỗi cá nhân được sinh ra và lớn lên trong những môi trường sống khác nhau sẽ có khả năng nhận thức không giống nhau về hành vi và hậu quả của hành vi họ thực hiện. Cho nên, người thì có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, người lại không có năng lực hành vi, năng lực hành vi không đầy đủ và người bị mất năng lực hành vi.
  • 26. 19 1.1.2. Năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự của người nước ngoài tại Việt Nam Pháp luật dân sự có các quy định được áp dụng đối với các quan hệ có yếu tố nước ngoài. Một trong những yếu tố nước ngoài chính là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự - người nước ngoài. Theo Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008: “ Người nước ngoài cư trú ở Việt Nam là công dân nước ngoài và người không quốc tịch thường trú hoặc tạm trú ở Việt Nam” [53, Điều 3]. Như vậy, thuật ngữ “người nước ngoài” trong cụm “năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự của người nước ngoài” được hiểu là thuật ngữ “người nước ngoài cư trú ở Việt Nam” theo Luật quốc tịch, đều là những công dân nước ngoài hoặc người không có quốc tịch thường trú hoặc tạm trú tại Việt Nam. Căn cứ khái niệm chung về năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự cùng quy định: “Bộ luật dân sự được áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác” [10, Điều 2], có thể đưa ra khái niệm ngắn gọn về năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự của người nước ngoài như sau: Năng lực pháp luật dân sự của người nước ngoài là khả năng của cá nhân người nước ngoài có quyền dân sự. Năng lực hành vi dân sự của người nước ngoài là khả năng cá nhân người nước ngoài đó bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự. Mặc dù, về mặt khái niệm, năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự của cá nhân là người nước ngoài không có nhiều điểm khác so với khái niệm trong lý luận chung về năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự. Tuy nhiên, chính sự khác biệt về mặt chủ thể đã kéo theo những nét khác biệt khác, đặc biệt về nội dung.
  • 27. 20 Nhà nước quy định năng lực pháp luật dân sự của cá nhân song Nhà nước không cho phép bất kì một cá nhân tự hạn chế năng lực pháp luật của chính mình và của cá nhân khác. Vì vậy, đối với các công dân là người nước ngoài, Nhà nước Việt Nam vẫn luôn có chính sách đảm bảo đầy đủ cho năng lực pháp luật dân sự của họ được thực hiện. Điều này được thể hiện tại Điều 761 BLDS năm 2005: 1. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là người nước ngoài được xác định theo pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch. 2. Người nước ngoài có năng lực pháp luật dân sự tại Việt Nam như công dân Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quy định khác [10, Điều 761]. Đồng thời, Nghị định số 138/2006/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2006 của Chính Phủ quy định chi tiết thi hành các quy định của Bộ luật dân sự về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài nêu rõ: 1. Việc áp dụng pháp luật để xác định năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là người nước ngoài được xác định theo Điều 761 của Bộ luật dân sự. Trong trường hợp cá nhân là người nước ngoài cư trú tại Việt Nam, thì năng lực pháp luật dân sự của cá nhân đó được xác định theo các quy định từ Điều 14 đến Điều 16 của Bộ luật dân sự. 2. Trong trường hợp người nước ngoài không có quốc tịch hoặc có hai hay nhiều quốc tịch thì việc áp dụng pháp luật để xác định năng lực pháp luật dân sự của người đó tuân theo quy định tại Điều 70 của Bộ luật dân sự, Điều 5 và khoản 1 Điều 6 Nghị định này [16]. Việc xác định năng lực pháp luật dân sự của người nước ngoài sẽ theo quy định của quốc gia nơi mà người đó mang quốc tịch. Đối với trường hợp người nước ngoài có hai hay nhiều quốc tịch, năng lực pháp luật dân sự được
  • 28. 21 xác định sẽ căn cứ vào nguyên tắc quốc tịch và nơi người đó cư trú hoặc áp dụng nguyên tác quốc tịch hữu hiệu (nơi người đó gắn bó nhất nếu người đó không cư trú ở nước mà mình có quốc tịch) và trường hợp người không quốc tịch, áp dụng luật nơi người đó cư trú hoặc nếu người đó không có nơi cư trú thì áp dụng pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam [10, Điều 760]. Quy định này là hoàn toàn hợp lý và phù hợp với thông lệ tư pháp quốc tế và cho thấy rõ quan điểm của pháp luật Việt Nam là tôn trọng pháp luật của nước mà người nước ngoài đã lựa chọn mang quốc tịch. Bên cạnh đó, người nước ngoài khi tạm trú hay thường trú tại Việt Nam sẽ không bị hạn chế năng lực pháp luật dân sự, trừ trường hợp pháp luật Việt Nam có quy định. Cá nhân là người nước ngoài được hưởng các quyền về nhân thân, sở hữu tài sản, thừa kế, tham gia vào các quan hệ xã hội và phải có nghĩa vụ tôn trọng pháp luật, tôn trọng tập quán, truyền thống tín ngưỡng của Việt Nam. Tuy nhiên, không phải bất kỳ lĩnh vực nào, người nước ngoài cũng có đầy đủ quyền và nghĩa vụ dân sự như đối với công dân Việt Nam như các quyền về chính trị (quyền bầu cử, ứng cử…). Khi người nước ngoài vi phạm pháp luật thì tùy theo tính chất hành vi vi phạm họ có thể bị xử phạt, bị trục xuất trước thời hạn và thậm chí truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật Việt Nam. Đối với năng lực hành vi dân sự của người nước ngoài, căn cứ Điều 762 BLDS năm 2005 quy định: 1. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là người nước ngoài được xác định theo pháp luật của nước mà người đó là công dân, trừ trường hợp pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quy định khác. 2. Trong trường hợp người nước ngoài xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự tại Việt Nam thì năng lực hành vi dân sự của người
  • 29. 22 nước ngoài được xác lập theo pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam [10, Điều 762]. Điều 7 Nghị định 136/2006/NĐ-CP có quy định hướng dẫn chi tiết thi hành các quy định của Bộ luật dân sự về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài thì việc xác định năng lực hành vi dân sự của người nước ngoài sẽ theo quy định của quốc gia mà người đó mang quốc tịch. Riêng đối với trường hợp là người có hai hay nhiều quốc tịch, năng lực hành vi dân sự được xác định sẽ căn cứ vào nguyên tắc quốc tịch và người đó cư trú hoặc áp dụng nguyên tắc quốc tịch hữu hiệu (tức là nơi người đó gắn bó nhất nếu người đó không cư trú ở nước mà mình có quốc tịch). Trường hợp người không quốc tịch theo quy định tại Điều 760 BLDS, áp dụng luật nơi người đó cư trú hoặc nếu người đó không có nơi cư trú thì áp dụng pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Người nước ngoài khi tạm trú hay thường trú tại Việt Nam sẽ không bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và chỉ chịu sự điều chỉnh theo quy định của pháp luật Việt Nam khi người đó xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự tại Việt Nam. Trong điều kiện hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ, quan hệ pháp luật dân sự vượt ra khỏi phạm vi quốc gia có yếu tố nước ngoài là điều tất yếu và quan hệ đó chịu sự tham gia của hai hay nhiều hệ thống pháp luật khác nhau. Xuất phát từ quan điểm chính trị, phong tục tập quán, tình hình phát triển kinh tế xã hội nên pháp luật dân sự của Việt Nam và pháp luật dân sự của các quốc gia trên thế giới không bao giờ hoàn toàn giống nhau, thường có sự khác nhau khi giải quyết những vấn đề cụ thể, điển hình như các quy phạm pháp luật dân sự xung đột về năng lực hành vi dân sự của cá nhân trong việc lập di chúc. Đối với những quốc gia theo nguyên tắc phân chia di sản thừa kế như pháp luật Anh, Mỹ thì năng lực hành vi lập di chúc, hình thức di chúc đối với
  • 30. 23 di sản thừa kế là động sản do luật nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản thừa kế điều chỉnh, đối với di sản thừa kế là bất động sản do luật của nước nơi có tài sản điều chỉnh. Còn đối với những nước theo nguyên tắc phân chia di sản thừa kế như Đức và một số nước Tây Âu khác thì năng lực hành vi lập và hủy bỏ di chúc được xác định theo luật nơi cư trú cuối cùng của người lập di chúc hoặc theo luật của nước nơi lập di chúc; hình thức di chúc được coi là hợp pháp nếu nó đáp ứng được yêu cầu của một trong các hệ thống pháp luật như luật quốc tịch của người lập di chúc, luật nơi cư trú của người lập di chúc, đối với di sản thừa kế là bất động sản có thể áp dụng luật nơi có bất động sản đó. Tại Việt Nam, khoản 1 Điều 768 BLDS năm 2005 xác định năng lực lập di chúc của người lập di chúc phải tuân theo pháp luật của người lập di chúc là công dân. Hệ thuộc được pháp luật Việt Nam lựa chọn áp dụng là Luật quốc tịch để giải quyết xung đột. Quy định này chưa hoàn toàn phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 762 BLDS năm 2005 bởi vì theo Điều 762 BLDS năm 2005 những di chúc được lập tại Việt Nam thì năng lực pháp luật của họ sẽ phải tuân theo pháp luật Việt Nam chứ không phải tuân theo pháp luật của nước họ mang quốc tịch, nhằm đảm bảo việc quản lý nhà nước đối với di chúc lập tại nước mình. Về cơ bản, các quy định của pháp luật về năng lực hành vi dân sự của cá nhân là người nước ngoài tại Việt Nam phù hợp thông lệ chung của quốc tế, đáp ứng được yêu cầu quản lý, góp phần tạo sự ổn định về môi trường pháp lý. Tuy nhiên, việc xác định và tuyên bố một người nước ngoài có bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, bị mất năng lực hành vi dân sự của Tòa án trên thực tế gặp nhiều khó khăn. Vì người nước ngoài là một chủ thể đặc biệt, họ có thể thường xuyên qua lại giữa Việt Nam và nước mình đang mang quốc tịch và nhận được sự bảo hộ nên việc xác định chính xác tình trạng năng lực hành vi dân sự và tuyên bố tình trạng năng lực hành vi dân sự đối với người nước ngoài có thể bị kéo dài, gây tổn thất cho các chủ thể khác.
  • 31. 24 1.1.3. Mối quan hệ giữa năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự của cá nhân Năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự có mối quan hệ mật thiết với nhau. Những chủ thể chỉ có năng lực pháp luật dân sự mà không có năng lực hành vi dân sự thì họ không thể tham gia một cách chủ động, tích cực vào các quan hệ pháp luật. Chủ thể chỉ có thể giam gia thụ động vào các quan hệ pháp luật thông qua hành vi của người thứ ba hoặc được Nhà nước bảo vệ trong một số quan hệ pháp luật nhất định. Muốn trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật thì bên cạnh năng lực pháp luật dân sự, đòi hỏi cá nhân phải có năng lực hành vi dân sự. Năng lực pháp luật dân sự là tiền đề của năng lực hành vi dân sự nên không thể có chủ thể pháp luật không có năng lực pháp luật dân sự mà lại có năng lực hành vi dân sự. Vì khi không quy định các quyền, nghĩa vụ pháp lý cho chủ thể thì Nhà nước cũng không cần phải tính đến các điều kiện để cá nhân có thể thực hiện các quyền, nghĩa vụ pháp lý đó. Đối với cá nhân, năng lực pháp luật và năng lực hành vi không xuất hiện đồng thời, năng lực pháp luật có ngay từ khi sinh ra, còn năng lực hành vi chỉ xuất hiện khi cá nhân đạt đến một độ tuổi nhất định. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân cũng được mở rộng dần theo năng lực hành vi dân sự của họ. Trong một số trường hợp, năng lực hành vi dân sự được xác định là cơ sở để xem xét, bảo vệ một số quyền dân sự như quyền nuôi con, quyền nuôi con nuôi... Có thể khẳng định, năng lực pháp luật là điều kiện cần, năng lực hành vi là điều kiện đủ để tạo nên tư cách chủ thể cho cá nhân tham gia vào các quan hệ pháp luật. 1.2. Khái lược quy định của pháp luật Việt Nam về năng lực hành vi dân sự của cá nhân 1.2.1. Quy định của pháp luật phong kiến về năng lực hành vi dân sự của cá nhân Quốc triều hình luật hay còn gọi là Bộ luật Hồng Đức là bộ luật thành
  • 32. 25 văn cổ xưa nhất còn lưu giữ được đầy đủ cho đến nay. Mặc dù trong luật Hồng Đức chưa có quy định phân biệt giữa năng lực pháp luật và năng lực hành vi nhưng các nhà làm luật đã có quy định nền tảng về năng lực chủ thể nói chung. Năng lực chủ thể phụ thuộc vào độ tuổi, địa vị gia đình và tình trạng tài sản. Không phải mọi cá nhân đều có quyền lập khế ước mà những người tham gia khế ước phải có năng lực chủ thể nhất định. Những người hàng dưới còn ít tuổi cùng ở với tôn trưởng không được tự ý dùng tiền mua sắm, trừ trường hợp được sự đồng ý của người trên. Trong gia đình, cha mẹ còn sống thì cha mẹ là người quản lý tài sản của các con, các con không được phép bán trộm điền sản. Nếu ông bà cha mẹ chết hết mà thì người trưởng họ sẽ quản lý tài sản của các con cháu và không được phép bán, trừ trường hợp bán để trả nợ cũ [85, Điều 379]. Đối với con gái và trẻ mồ côi tự bán mình phải có người bảo lãnh. Trường hợp không có người bảo lãnh thì người mua phải viết khế ước. Những người từ mười lăm tuổi trở lên rơi vào tình cảnh cô đơn khốn cùng mà tự nguyện bán mình thì được phép, trường hợp này được coi là quá cấp thiết nên không vi phạm. Bộ luật Hồng Đức quy định năng lực chủ thể còn phụ thuộc vào giới tính, chẳng hạn con gái không thể tự bán mình cho người khác hoặc con gái bán trộm điền sản của cha mẹ thì bị phạt nhẹ hơn con trai bán trộm điền sản của cha mẹ. Mặc dù không được đánh giá cao như Quốc triều hình luật, song Hoàng Việt luật lệ (Bộ luật Gia Long) cũng được coi là Bộ luật có quy mô lớn của Việt Nam trong thế kỉ XIX. Trong bộ luật thời kỳ này, không dành riêng một điều luật cụ thể để quy định về năng lực hành vi dân sự của cá nhân. Hoàng Việt luật lệ không có sự tách bạch nhiều trong điều chỉnh các vấn đề dân sự mà hầu như chú trọng về điều chỉnh quan hệ mang tính chất hình sự. Năng lực chủ thể được thể hiện thông qua vấn đề giao kết, phụ thuộc vào lứa tuổi, quan hệ tài sản và quan hệ gia đình, xã hội của người đó. Con cháu kể cả người đã thành
  • 33. 26 niên hoặc chưa thành niên, ở dưới quyền của người gia trưởng không được phép có tài sản riêng, do đó, họ không được giao kết khế ước có liên quan đến tài sản của gia đình, nếu không có sự cho phép của người gia trưởng. Những người không có khả năng nhận thức, điều khiển hành vi của mình như người điên, thác loạn… cần có người trông nom cẩn thận nhằm tránh gây thiệt hại cho người khác. Điều 261 Hoàng Việt luật lệ quy định các đối tượng nêu trên không được giao kết khế ước, kể cả trong lúc còn tỉnh táo và nhiều năm sau không còn dấu hiệu tâm thần vẫn không được giao kết khế ước. Có thể nói, đây là quy định mang tính chất chặt chẽ quá mức cần thiết và lạm quyền của chủ thể trong giao kết nhằm tổ chức cuộc sống của mình. Ngoài ra, Hoàng Việt luật lệ còn có một vài điều luật đề cập đến khả năng chịu trách nhiệm của một vài chủ thể đặc biệt trong xã hội như người già, trẻ em, người tàn tật: Phàm 70 tuổi trở lên, 15 tuổi trở xuống và người tàn phế phạm tội lưu trở xuống, cho nhận giá chuộc (phạm tội chết và mưu phản, phản nghịch, cắt bộ phận sinh dục của người khác, giết ba mạng người trong một gia đình thì không áp dụng luật này) Tám mươi tuổi trở lên, mười tuổi trở xuống và bệnh nặng, phạm tội giết người phải tội chết thì nghị xử tâu lên vua (phạm phản nghịch không áp dụng luật này) chờ quyết định của vua. Người phạm tội ăn trộm, làm bị thương người ta cũng được nhận chuộc. ... 90 tuổi trở lên, 7 tuổi trở xuống, dù có phạm tội chết cũng không phải chịu hình phạt nào [56]. Lời chú nói rằng: 90 tuổi trở lên mà phạm tội phản nghịch thì không dùng luật này, thì vẫn xử tội, nhưng không xử kẻ dưới 7 tuổi trở xuống. 90 tuổi sức không theo ý, nhưng góp trí dự mưu được, còn hạng 7 tuổi trở
  • 34. 27 xuống trí và lực đều chưa đủ nên dù có phản nghịch cũng không xử tội. Nếu 90 tuổi trở lên, 7 tuổi trở xuống thì sự phạm của họ không xuất phát từ ý chí mà là có người xúi giục, tội buộc vào kẻ xúi [56]. Dù không có quy định cụ thể về độ tuổi có khả năng chịu trách nhiệm của cá nhân, nhưng thông qua một vài quy định của Bộ luật Gia Long, có thể thấy các nhà làm luật thời kỳ này có chia ra các độ tuổi khác nhau, tương ứng với mức độ chịu trách nhiệm. Người già và trẻ em, người tàn tật, bệnh nặng phạm tội thì xử nhẹ hơn, có những tội không phải chịu trách nhiệm. Theo lí giải hợp lý của các nhà lập pháp thời kỳ này là người từ bảy tuổi trở xuống nhận thức và sức lực chưa đủ để thực hiện hành vi phạm tội nên không bị xử tội. 1.2.2. Quy định của pháp luật thời kì Pháp thuộc về năng lực hành vi dân sự của cá nhân Khi Việt Nam bị thực dân Pháp đô hộ thì các bộ luật dân sự được áp dụng riêng rẽ ở ba kỳ lần lượt xuất hiện. Tại Nam Kỳ, có BLDS Nam Kỳ giản yếu ra đời năm 1883, Bắc Kỳ có Bộ dân luật Bắc Kỳ ra đời năm 1931 và ở Trung Kỳ là Bộ dân luật Trung Kỳ (Hoàng Việt Trung Kỳ hộ luật) ra đời năm 1936. Cả ba bộ luật này đều đề cập đến năng lực chủ thể khi tham gia khế ước, Điều 667 Bộ dân luật Bắc Kỳ quy định: Những người không có tư cách giao ước là người vị thành niên, người bị cấm quyền, đàn bà có chồng mà không được chồng cho phép. Những người đồng ước với người vô tư cách không thể viện cớ người kia vô tư cách mà thoái thác những nghĩa vụ đã định trong khế ước [20, Điều 667]. Tương tự vậy, Điều 706 Hoàng Việt Trung Kỳ hộ luật cũng nêu rõ: "Phàn người nào không bị pháp luật tuyên cáo là vô tư cách thời có thể giao ước cả" [32, Điều 706]. Vô năng cách được hiểu là không có năng lực chủ thể. Những người vô năng cách bao gồm người vị thành niên, người bị cấm quyền, đàn bà có chồng và một số người khác mà pháp luật cấm. Điều 221 Bộ
  • 35. 28 dân luật Bắc Kỳ quy định rõ:"Vị thành niên là con trai con gái chưa đủ hai mươi mốt tuổi" [20, Điều 221], như vậy pháp luật dân sự thời kỳ này không phân biệt nam nữ, miễn là đủ hai mốt tuổi được coi là người thành niên. Đặc biệt, quy định của pháp luật thời kỳ này về tư cách chủ thể tham gia khế ước có nhiều điểm tiến bộ như người giám hộ không được mua tài sản của người thuộc quyền giám hộ của mình, người nhận ủy quyền không được mua tài sản mà người ủy quyền do mình đứng tên... nhằm đảm bảo quyền lợi của người được giám hộ, người ủy quyền. Sau khi nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh 90 ngày 10/10/1945 quyết định giữ tạm thời các bộ dân luật tại ba kỳ Bắc, Trung, Nam cho đến khi ban hành bộ luật pháp duy nhất nếu những luật lệ ấy không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa. Trên tinh thần đó, cả ba bộ luật tiếp tục có hiệu lực đến khi bị hủy bỏ năm 1959. Ngày 19/11/1946, Quốc hội khóa I nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa thông qua Hiến pháp năm 1946, trong đó Điều 18 quy định "Tất cả công dân Việt Nam, từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt gái trai, đều có quyền bầu cử, trừ trường hợp người mất trí và những người mất công quyền" [41, Điều 18]. Quy định này được coi là nền tảng cho các quy định của pháp luật dân sự tuân theo, những người từ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự, trừ những người mất trí. Sau đó, đất nước ta lâm vào tình trạng chiến tranh rất khốc liệt. Để điều hành công việc nhà nước và giao lưu dân sự Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký hàng trăm sắc lệnh, trong đó có sắc lệnh 97 ngày 22.5.1950 "sửa đổi một số quy lệ và chế định trong luật dân sự" quy định rõ: "Người vị thành niên là con trai hay con gái chưa đủ 18 tuổi. Khi đã đến tuổi thành niên thì dù còn ở với cha mẹ, người con cũng có quyền tự lập" [18, Điều 7]. Qua
  • 36. 29 tinh thần của điều luật này ta thấy, những người từ mười tám tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự và có quyền tự lập, tức là có khả năng thực hiện quyền và gánh vác nghĩa vụ. 1.2.3. Quy định của pháp luật từ năm 1954 đến 1995 về năng lực hành vi dân sự của cá nhân Tại miền bắc Việt Nam, ngày 10 tháng 7 năm 1959, Tòa án tối cao ra chỉ thị số 772/TATC để đình chỉ việc áp dụng pháp luật cũ của phong kiến đế quốc. Bộ dân luật Bắc Kỳ năm 1931 không còn hiệu lực thi hành. Từ thời điểm đó trở đi, tại miền Bắc bị thiếu các quy định của bộ luật dân sự. Ngày 20 tháng 12 năm 1972, chính quyền Việt Nam cộng hòa có ban hành bộ luật dân sự năm 1972. Vấn đề năng lực hành vi dân sự của cá nhân được đề cập thông qua quy định về năng lực giao kết khế ước: "Người nào cũng có quyền khế ước, chỉ trừ những người bị pháp luật coi là vô năng cách" [8, Điều 674]. Vô năng cách (vô năng lực) được hiểu là những người trong độ tuổi vị thành niên, những người bị cấm quyền và những người bị pháp luật cấm kết ước trong một vài trường hợp. Luật còn quy định những người đủ năng cách cộng ước với người khác không được viện sự vô năng cách của những người ấy để tiêu hủy khế ước. Vô năng lực được phân thành hai loại: vô năng lực hành xử và vô năng lực hưởng thụ. Vô năng lực hành xử là trường hợp đương sự tuy là chủ thể của một quyền lợi nhưng không thể sử dụng được quyền lợi ấy, bao gồm vô năng lực hành xử tự nhiên và vô năng lực hành xử liên quan đến vị thành niên, những người bị cấm quyền. Hậu quả của vô năng lực hành xử khiến các khế ước bị vô hiệu tương đối. Mục đích vô hiệu để bảo vệ người vô năng lực và chỉ có người này mới có quyền nại ra. Còn vô năng lực hưởng thụ có nghĩa là đương sự không có quyền hành xử và không thể làm chủ quyền lợi. Như vậy, bộ luật dân sự năm 1972 đã chỉ ra được những trường hợp vô
  • 37. 30 năng cách - không có năng lực chủ thể và hậu quả của những kế ước do người vô năng cách giao kết. Đây là điểm tiến bộ được các nhà làm luật sau này kế thừa và phát triển. 1.2.4. Quy định của pháp luật từ năm 1995 đến nay về năng lực hành vi dân sự của cá nhân Bộ luật dân sự năm 1995 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 28 tháng 10 năm 1995 là bộ luật dân sự đầu tiên ở nước ta. Trong bộ luật này, các nhà lập pháp đã dành riêng một chương để quy định về cá nhân, trong đó có mục quy định về năng lực pháp luật và năng lực hành vi của cá nhân. Khái niệm năng lực hành vi dân sự của cá nhân cũng như quy định về các mức độ năng lực hành vi lần đầu tiên được đề cập từ điều 19 đến điều 25 của Bộ luật. Theo đó, năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự và người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi, người thành niên là người từ đủ mười tám tuổi. Người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp quy định tại Điều 20 và 21 của Bộ luật này [10, Điều 19]. Sau 10 năm thi hành, BLDS năm 1995 đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập. Một số quy định không rõ ràng, đầy đủ hoặc không phù hợp với sự chuyển đổi của nền kinh tế thị trường thời kì hội nhập. Năm 2005, BLDS mới đã ra đời khắc phục những hạn chế, bất cập của BLDS năm 1995. Vấn đề về năng lực hành vi dân sự của cá nhân là vấn đề mang tính chất lý luận nên hầu như các quy định được giữ nguyên, chỉ có điều 22 và điều 24 được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp hơn. Như vậy, quá trình hình thành các quy định liên quan đến năng lực hành vi dân sự cá nhân của pháp luật Việt Nam từ thời kỳ phong kiến đến nay là sự kế thừa và pháp huy những mặt hợp lý và loại bỏ những điểm hạn chế của thế hệ sau đối với thế hệ trước.
  • 38. 31 1.3. Ý nghĩa của việc quy định năng lực hành vi dân sự của cá nhân 1.3.1. Bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự Những quy định về năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là công cụ hữu hiệu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự, đặc biệt khi có tranh chấp xảy ra. Chẳng hạn, khi một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự tham gia giao dịch có giá trị tài sản lớn mà không có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, thì người đại diện có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu. Như vậy, sẽ đảm bảo quyền lợi cho gia đình và những người liên quan. 1.3.2. Góp phần nâng cao trách nhiệm của các bên khi tham gia kí kết hợp đồng Từ những quy định về năng lực hành vi dân sự của cá nhân, các chủ thể khi sẽ trang bị cho mình những kiến thức pháp lý cơ bản đảm bảo giao dịch dân sự họ tham gia không bị vô hiệu. Một trong những điều kiện quan trọng làm phát sinh hiệu lực của giao dịch dân sự là điều kiện về chủ thể. Bởi vì chỉ những người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì mới tham gia được giao dịch dân sự với tư cách là chủ thể của quan hệ pháp luật đó. Còn những người chưa có năng lực hành vi dân sự, bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự muốn tham gia giao dịch phải có người đại diện hoặc người giám hộ, trừ những giao dịch phụ vụ nhu cầu hằng ngày. Nếu không có người đại diện thì những giao dịch họ tham gia có thể bị tuyên vô hiệu. Do đó, khi muốn thực hiện giao dịch dân sự với một cá nhân, điều đầu tiên phải xem xét cá nhân đó có năng lực hành vi dân sự đầy đủ hay không, nếu không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì họ có mức độ năng lực hành vi dân sự ở mức độ nào? Những vấn đề này đã được pháp luật dân sự quy định cụ thể.
  • 39. 32 1.3.3. Góp phần ngăn ngừa, răn đe các hành vi vi phạm pháp luật BLDS quy định rõ những người mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, không có năng lực hành vi dân sự chỉ được tham gia các giao dịch phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày. Còn các giao dịch khác phải có sự đồng ý của người đại diện, người giám hộ. Điều này góp phần ngăn ngừa tình trạng lợi dụng những người không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ nêu trên để kí kết hợp đồng nhằm chiếm đoạt tài sản. 1.3.4. Cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp khi vụ việc dân sự liên quan đến năng lực hành vi dân sự Các quy định về năng lực hành vi dân sự của cá nhân trong bộ luật dân sự hiện hành là cơ sở pháp lý quan trọng để cá nhân khởi kiện ra tòa án khi quyền và lợi ích của họ bị các chủ thể khác xâm phạm. Từ những ý nghĩa thiết thực nêu trên đã minh chứng tầm quan trọng của các quy định về năng lực hành vi dân sự của cá nhân. Vì vậy, cần phải hoàn thiện hơn nữa các quy định này để phù hợp với thực tiễn cuộc sống.
  • 40. 33 Chương 2 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ NĂNG LỰC HÀNH VI DÂN SỰ CỦA CÁ NHÂN 2.1. Căn cứ xác định mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân Pháp luật quy định khả năng hưởng quyền dân sự cho các cá nhân là như nhau không phân biệt giới tính, độ tuổi, thành phần tôn giáo... nên năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là bình đẳng. Tuy nhiên, khả năng xác lập, thực hiện các quyền, nghĩa vụ dân sự của mỗi cá nhân thông qua hành vi của mình lại hoàn toàn khác nhau. Điều này được giải thích là mỗi cá nhân trong xã hội được nuôi dưỡng, trưởng thành trong điều kiện vật chất và tinh thần không giống nhau thì khả năng nhận thức, điều khiển hành vi cũng khác nhau. Thực tế cho thấy có những đứa trẻ được mệnh danh là thần đồng vì có khả năng đặc biệt trong việc lĩnh hội tri thức. Ngược lại, có người đã thành niên nhưng nhận thức và hành động lại không như người trưởng thành. Khi xác định năng lực hành vi dân sự của một cá nhân, độ tuổi chỉ là điều kiện cần mà không phải là điều kiện đủ. Căn cứ vào độ tuổi của cá nhân, cụ thể là các mốc tuổi là sáu tuổi, mười lăm tuổi và mười tám tuổi, khoa học luật dân sự xác định năng lực hành vi dân sự của cá nhân. Khác với pháp luật dân sự, chủ thể của vi phạm pháp luật hình sự (tội phạm) là người có năng lực pháp luật hình sự và năng lực hành vi hình sự. Theo quy định của Bộ luật hình sự hiện hành, người từ đủ mười bốn tuổi đến dưới mười sáu tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội rất nghiêm trọng và tội đặc biệt nghiêm trọng, người từ đủ mười sáu tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Vì quan hệ pháp luật hình sự là quan hệ pháp luật giữa một bên chủ thể đặc biệt đó là Nhà nước với các cá nhân, được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật hình sự, do đó, nếu vi phạm hình sự xảy ra
  • 41. 34 thì mức độ nghiêm trọng của nó không chỉ gây nguy hại cho các cá nhân tổ chức khác như vi phạm dân sự, mà nó còn gây nguy hại cho xã hội, cho nhà nước. Chính vì vậy, độ tuổi quy định năng lực hành vi trong pháp luật hình sự thấp hơn so với độ tuổi quy định năng lực hành vi dân sự. Bên cạnh độ tuổi thì khả năng nhận thức và điều khiển hành vi cũng là tiêu chí quan trọng không thể thiếu để xác định năng lực hành vi cá nhân (điều kiện đủ). Đối với những cá nhân khác nhau thì khả năng nhận thức về hành vi và hậu quả của hành vi do họ thực hiện không giống nhau. Việc nhận thức và điều khiển hành vi của cá nhân phụ thuộc vào ý chí và lí trí của cá nhân đó, phụ thuộc vào khả năng của cá nhân về nhận thức và điều khiển hành vi của chính họ. Thông thường, khi phát triển đến một độ tuổi nhất định, con người sẽ đạt đến sự phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần, có thể tự nhận thức và điều khiển hành vi của mình. Do đó, năng lực hành vi dân sự của một cá nhân được xác định theo độ tuổi và sự phát triển bình thường về thể chất và tinh thần, năng lực hành vi dân sự được chia làm ba mức độ: Cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; cá nhân có năng lực hành vi dân sự một phần; cá nhân chưa có năng lực hành vi dân sự. Bên cạnh đó, cũng có các trường hợp cá biệt, mặc dù đã đến tuổi trưởng hành nhưng khả năng nhận thức không hề phát triển từ khi sinh ra do trí não của cá nhân không bình thường như các cá nhân khác. Tại Việt Nam, hậu quả để lại của các cuộc chiến tranh tàn khốc là nhiều người dân bị nhiễm chất độc Đioxin. Khi họ sinh con, những đứa trẻ ấy có hình hài kì dị, trí não không phát triển bình thường, không thể nhận thức và điều khiển hành vi của mình. Chính vì thế BLDS quy định nếu cá nhân bị mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác không làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan Tòa án sẽ tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự đối với người đó. Hoặc trường hợp cá nhân bị nghiện ma túy hoặc chất kích thích
  • 42. 35 khác, theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án sẽ tuyên bố hạn chế năng lực hành vi đối với họ. Có nhiều quan điểm coi trường hợp mất năng lực hành vi dân sự và hạn chế năng lực hành vi dân sự thuộc các mức độ năng lực hành vi dân sự. Theo tôi, hai trường hợp trên không nằm trong các mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân mà được coi là những trường hợp các nhà làm luật dự liệu để giải quyết trên thực tế. Hơn nữa, tình trạng trên có thể gặp ở bất kỳ độ tuổi nào. Một người có thể từ bé đã bị mất năng lực hành vi dân sự do họ bị bệnh tâm thần, cũng có những người đã thành niên mới bị mất năng lực hành vi dân sự vì bị tai nạn hoặc bị các chấn động tâm lý không thể nhận thức và làm chủ hành vi. 2.2. Các mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân 2.2.1. Năng lực hành vi dân sự đầy đủ Để có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì một chủ thể phải đáp ứng hai điều kiện. Thứ nhất, chủ thể đó phải là người thành niên theo quy định tại Điều 18 BLDS năm 2005: "Người từ đủ mười tám tuổi trở lên là người thành niên" [10, Điều 18]. Theo Từ điển tiếng Việt thì “thành niên” được hiểu là đến tuổi được pháp luật công nhận là công dân với đầy đủ các quyền lợi và nghĩa vụ. Theo tổ chức Y tế thế giới WHO, lứa tuổi từ 10 đến 19 là độ tuổi vị thành niên, do đó, người trên 19 tuổi sẽ được coi là thành niên. Tuy nhiên, do điều kiện phát triển kinh tế, xã hội của các nước trên thế giới khác nhau nên quy định về độ tuổi thành niên cũng không giống nhau. Một số nước quy định độ tuổi được coi là thành niên khá cao như Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan là 20 tuổi, của Úc, Canada, Ấn Độ, Philippines, Mỹ là 18 tuổi, ngược lại, một số nước xác định tuổi trưởng thành để kết hôn lại thấp hơn, chẳng hạn Angola là 12 tuổi, Senegal là 13 tuổi... Tại Việt Nam, gần đây có
  • 43. 36 nhiều quan điểm cho rằng cần thay đổi quy định độ tuổi thành niên để phù hợp với tình hình thực tế phát triển của trẻ. Có ý kiến cho rằng: "Với sự phát triển của xã hội, trẻ em hiện nay đã vượt trội hơn trẻ em ngày xưa rất nhiều về thể chất và tâm sinh lý. Chiếc áo tuổi thành niên vì vậy không còn phù hợp để khoác lên mình trẻ nữa" [40]. Theo quan điểm của tác giả cho rằng, chúng ta vẫn nên giữ nguyên quy định về độ tuổi thành niên. Nền kinh tế, xã hội ở Việt Nam những năm gần đây có những bước phát triển vượt bậc, trẻ em được thụ hưởng điều kiện chăm sóc tốt hơn và trưởng thành cũng sớm hơn nhưng tập trung chủ yếu là trẻ em ở các thành phố lớn. Mặt khác, xuất phát từ đặc điểm thể chất của người Việt Nam cũng như trình độ phát triển trí não, tâm sinh lý... các em vẫn chưa thể phát triển toàn diện như trẻ em cùng trang lứa ở một quốc gia phát triển. Rõ ràng, các em vẫn cần được pháp luật bảo vệ cho đến khi đủ mười tám tuổi. Điều kiện thứ hai là người thành niên không bị rơi vào các trường hợp bị Tòa án tuyên là mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Như vậy, không phải tất cả những người thành niên đều có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Quy định của bộ luật dân sự về năng lực hành vi dân sự đầy đủ là kết quả của sự nghiên cứu về luật học và khoa học kết hợp với đời sống thực tế. Theo chứng minh khoa học của các ngành y tế, sinh học, tâm lý học..., thông thường con người sẽ đạt đến ngưỡng phát triển toàn diện khi họ đã thành niên. Con người trong khoảng thời gian mười tám năm được sinh ra và nuôi dưỡng trưởng thành bởi gia đình, xã hội sẽ hình thành tính cách, phát triển nhận thức cùng các kỹ năng sống cần thiết. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng ghi nhận công dân đủ 18 tuổi có quyền bầu cử. Điều 19 BLDS năm 2005 đã kế thừa Hiến pháp năm 1992 quy định cá nhân từ đủ mười tám tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
  • 44. 37 Theo pháp luật dân sự Việt Nam, trường hợp duy nhất có năng lực hành vi dân sự đầy đủ là trường hợp quy định tại Khoản 4 Điều 19 BLDS năm 2005 mà không có một trường hợp ngoại lệ nào. Còn theo pháp luật một số quốc gia có quy định các trường hợp ngoại lệ cho phép một người có thể có năng lực hành vi dân sự đầy đủ trước độ tuổi luật định. Chẳng hạn như trường hợp quy định tại Điều 735 BLDS Nhật Bản, Điều 467 BLDS Pháp thì người chưa thành niên kết hôn thì coi như đã đạt độ tuổi trưởng thành; đặc biệt hơn Điều 477 BLDS Pháp còn quy định người chưa thành niên có thể có đầy đủ năng lực hành vi nếu đã đủ mười sáu tuổi, kể cả khi chưa kết hôn. Sau khi nghe ý kiến của người chưa thành niên, thẩm phán phụ trách giám hộ quyết định công nhận năng lực hành vi dân sự đầy đủ cho người chưa thành niên đó. Nếu chỉ cha hoặc mẹ nộp đơn yêu cầu, thì thẩm phán quyết định sau khi đã lắng nghe ý kiến của người mẹ hoặc người cha còn lại, trừ tường hợp người đó không thể bày tỏ ý chí. 2.2.2. Năng lực hành vi dân sự một phần Ngược lại với quy định về người thành niên, người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi. Người chưa thành niên là một thuật ngữ pháp lý thường được các nhà lập pháp và quản lý xã hội sử dụng khi xác định giới hạn về nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý của cá nhân trong những mối quan hệ pháp luật. Thông qua việc xác định giới hạn đối tượng người chưa thành niên để có những phương thức đặc thù và hợp lý để quản lý nhóm đối tượng này. Ở độ tuổi dưới mười tám, tùy từng trường hợp cụ thể mà pháp luật quy định năng lực trách nhiệm dân sự mà người chưa thành niên phải chịu khi tham gia một số quan hệ pháp luật dân sự khác nhau. Đồng thời, việc phân nhóm đối tượng dưới mười tám tuổi chỉ mang ý nghĩa tương đối vì trên thực tế chúng ta không tìm được một sự đồng nhất hoàn toàn giữa các lớp lứa tuổi khác nhau. Xuất phát từ những đặc điểm khác nhau về sự phát triển thể chất,
  • 45. 38 nhận thức cũng như tâm sinh lý, những người dưới mười tám tuổi còn có thể được phân chia thành nhiều nhóm tuổi. Trong thực tế, còn tồn tại những nhận thức và cách hiểu khác nhau giữa khái niệm người chưa thành niên và vị thành niên. Có quan điểm cho rằng, về mặt ngôn từ, khi người ta nói rằng chưa đạt đến một ngưỡng cửa nào đó thì thường có nghĩa là đã gần đạt đến mức độ đó rồi. Theo đó, người chưa thành niên có nghĩa là người đó cũng đã gần đến tuổi thành niên và người chưa thành niên không thể là trẻ sơ sinh, mẫu giáo, nhi đồng. Với quan điểm trên, người chưa thành niên được phân thành nhóm trẻ em và nhóm vị thành niên. Mặc định nhóm vị thành niên chỉ là một bộ phận của người chưa thành niên, hay nói một cách chính xác hơn, nhóm vị thành niên được hiểu là thế hệ lớn tuổi hơn cả trong nhóm chưa thành niên. Thiết nghĩ, quan điểm trên chỉ nhằm giới hạn phạm vi đối tượng nghiên cứu một bộ phận người chưa thành niên. Bởi vì, theo khái niệm trong từ điển luật học thì vị thành niên (chưa thành niên) là người chưa đến độ tuổi được pháp luật coi là đủ khả năng sử dụng quyền, làm nghĩa vụ và chịu trách nhiệm. Người chưa đủ mười tám tuổi là vị thành niên [55], đồng thời, Điều 18 BLDS năm 2005 quy định:“…Người chưa đủ mười tám tuổi là người chưa thành niên” [10, Điều 18]. Như vậy, trong khoa học pháp lý nói chung và khoa học Luật dân sự nói riêng thì khái niệm về người chưa thành niên được hiểu bao gồm tất cả những người chưa đủ 18 tuổi. Năng lực hành vi dân sự của người chưa thành niên, có sự phát triển bình thường về nhận thức là năng lực hành vi dân sự chưa đầy đủ hay còn gọi là năng lực hành vi dân sự một phần. Điều 20 BLDS năm 2005 quy định như sau: 1. Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi hoặc pháp luật có quy định khác