SlideShare a Scribd company logo
1 of 110
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN VĂN THÁI
VẤN ĐỀ LOẠI BỎ HÌNH PHẠT TỬ HÌNH
TRONG CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ
VÀ CÁC TỘI PHẠM VỀ CHỨC VỤ
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2014
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN VĂN THÁI
VẤN ĐỀ LOẠI BỎ HÌNH PHẠT TỬ HÌNH
TRONG CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ
VÀ CÁC TỘI PHẠM VỀ CHỨC VỤ
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Khắc Hải
Hà nội - 2014
3
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Văn Thái
4
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đồ
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÌNH PHẠT TỬ HÌNH 6
1.1. Khái niệm và mục đích hình phạt tử hình 6
1.1.1. Khái niệm hình phạt tử hình 6
1.1.2. Mục đích hình phạt tử hình 10
1.2. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển luật hình sự Việt
Nam về hình phạt tử hình
11
1.2.1. Giai đoạn sau Cách mạng tháng 8/1945 đến trước khi pháp
điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật hình sự năm 1985
12
1.2.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến
trước khi ban hành Luật sửa đổi bổ sung Bộ luật hình sự
năm 2009
17
1.3. Thực trạng về hình phạt tử hình tại Việt Nam hiện nay và xu
hướng quốc tế về hình phạt tử hình
20
1.3.1. Thực trạng pháp luật về hình phạt tử hình tại Việt Nam hiện nay 20
1.3.2. Thực trạng áp dụng hình phạt tử hình tại Việt Nam hiện nay 27
1.3.3. Xu hướng quốc tế về hình phạt tử hình 28
5
Chương 2: CƠ SỞ LOẠI BỎ HÌNH PHẠT TỬ HÌNH TRONG CÁC
TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ VÀ
CÁC TỘI PHẠM VỀ CHỨC VỤ Ở VIỆT NAM
34
2.1. Cơ sở quyền con người và nguyên tắc nhân đạo trong pháp
luật hình sự
34
2.1.1. Nguyên tắc nhân đạo trong pháp luật Việt Nam 34
2.1.2. Vấn đề quyền con người 37
2.1.3. Vấn đề oan sai khi áp dụng - thi hành hình phạt tử hình 41
2.2. Các cơ sở phòng ngừa tội phạm 48
2.2.1. Mục đích của hình phạt tử hình 48
2.2.2. Những nét đặc thù của nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý
kinh tế và tội phạm về chức vụ
54
2.2.3. Hệ thống hình phạt đang áp dụng đối với các tội xâm phạm
trật tự quản lý kinh tế và các tội phạm về chức vụ
60
2.2.4. Các biện pháp phòng ngừa tội phạm ngoài hình phạt 61
2.3. Cơ sở trách nhiệm nhà nước - xã hội và hội nhập quốc tế của
Việt Nam
62
2.3.1. Nâng cao trách nhiệm của Nhà nước và xã hội đối với quản lý
xã hội và người phạm tội
62
2.3.2. Xu hướng hội nhập quốc tế của Việt Nam về loại bỏ hình phạt
tử hình
64
Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ VẤN ĐỀ LOẠI BỎ HÌNH PHẠT
TỬ HÌNH TRONG CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN
LÝ KINH TẾ VÀ CÁC TỘI PHẠM VỀ CHỨC VỤ
67
3.1. Kiến nghị về hoàn thiện hệ thống hình phạt trong Bộ luật hình
sự
67
3.1.1. Hình phạt chính 67
6
3.1.2. Hình phạt bổ sung 71
3.2. Kiến nghị về hoạt động áp dụng hình phạt tử hình 77
3.2.1. Giữ quy định hình phạt tử hình trong hệ thống hình phạt, có
thể áp dụng nhưng không tiến hành thi hành án
78
3.2.2. Giữ quy định hình phạt tử hình trong hệ thống hình phạt,
nhưng không áp dụng
80
3.2.3. Loại bỏ quy định hình phạt tử hình theo lộ trình đối với từng
tội danh và nhóm tội
80
3.3. Một số kiến nghị khác 83
3.3.1. Kiến nghị về hoạt động phòng ngừa tội phạm - trách nhiệm
của xã hội; phòng ngừa tội phạm từ góc nhìn tôn giáo và nâng
cao nhận thức pháp luật của nhân dân
83
3.3.2. Kiến nghị về hoạt động kiểm tra, kiểm soát, luân chuyển trong
hoạt động công tác
89
3.3.3. Kiến nghị về hoạt động thay thế hình phạt cùng khung hình
phạt qua quyết định của Hội đồng xét xử
91
KẾT LUẬN 93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 95
7
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS : Bộ luật hình sự
PLHS : Pháp luật hình sự
TAND : Tòa án nhân dân
TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
8
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
1.1 Thống kê án và số bị cáo bị áp dụng hình phạt tử hình
trong các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và tội
phạm về chức vụ
27
1.2 Thống kế án tử hình tại một số nước trên thế giới từ năm
2007 đến năm 2012
32
DANH MỤC CÁC BIỀU ĐỒ
Số hiệu
biểu đồ
Tên biểu đồ Trang
1.1 Các quốc gia có số vụ hành quyết cao nhất trong năm 2009 31
9
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trên cơ sở điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, tình hình tội phạm ở
Việt Nam trong những năm qua và dự báo trong thời gian tiếp theo, ngày
02/06/2005 Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành Nghị quyết 49/NQ-TW về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 trong đó nêu rõ định hướng chính
sách hình sự của chúng ta: duy trì hình phạt tử hình nhưng "hạn chế áp dụng
hình phạt tử hình theo hướng chỉ áp dụng đối với một số ít loại tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng" [16]. Đây là một chủ trương đúng đắn, phù hợp với điều
kiện của nước ta và xu hướng giảm dần tới mức tối đa áp dụng hình phạt tử
hình, tiến tới xóa bỏ hoàn toàn hình phạt tử hình là xu hướng chung thế giới.
Trước những quan tâm của quốc tế và thể chế hóa chủ trương, chính
sách của Đảng, ngày 19/06/2009 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
(XHCN) Việt Nam đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Bộ luật
hình sự (BLHS) 1999, trong đó đã loại bỏ hình phạt tử hình ra khỏi chế tài
của 08 tội danh đang được quy định và bổ sung 01 tội danh có khung hình
phạt cao nhất là tử hình (Điều 230a - Tội khủng bố). Theo đó, số tội danh còn
giữ lại hình phạt tử hình trên tổng số các tội danh tại Phần các tội phạm của
BLHS là 22/276 điều luật, chiếm tỷ lệ 7,97%.
Ngày 12/11/2013, Việt Nam trúng cử thành viên của Hội đồng Nhân
quyền Liên hợp quốc với số phiếu tán thành cao nhất trong số 14 nước cùng được
bỏ phiếu. Đáp ứng những yêu cầu của quốc tế và biến chuyển của đất nước, ngày
28/11/2013, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp mới, trong đó đề cao quyền con
người, quyền công dân khi chuyển từ Chương V Hiến pháp 1992 thành Chương II
của Hiến pháp 2013. Theo đó, những quyền cơ bản của con người được pháp
luật ghi nhận rất rõ và bảo hộ, cụ thể Hiến pháp 2013 đã ghi nhận rõ: "Mọi người
có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ …" [40, Điều 19].
10
Với những thay đổi hiến định về quyền con người, kinh tế, xã hội …, ngày
15/03/2014 Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã chủ trì Hội nghị toàn quốc
tổng kết thi hành BLHS năm 1999, tại đây các đại biểu đại diện Lãnh đạo Bộ,
Ngành, Ủy ban nhân dân đã có các ý kiến tham luận tổng kết và đề xuất, kiến
nghị sửa đổi, bổ sung BLHS, đặc biệt cùng có quan điểm: "Cần nghiên cứu
bỏ một số tội tử hình thể hiện chính sách nhân đạo, khoan hồng của Đảng,
Nhà nước và đáp ứng tính nhân đạo chung của thế giới" [6].
Xuất phát từ những yêu cầu cấp thiết về lý luận khoa học và tổng hợp
thông tin thực tiễn nhằm bảo vệ quyền con người; thực tiễn công tác về phòng
ngừa, đấu tranh chống tội phạm; truyền thống văn hóa nhân đạo của dân tộc;
yêu cầu thực thi những cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết và yêu
cầu hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung toàn diện BLHS Việt Nam, tại luận văn này,
tác giả đi sâu và nghiên cứu những cơ sở để loại bỏ hình phạt tử hình ra khỏi
nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và tội phạm về chức vụ. Cụ
thể, với đề tài: "Vấn đề loại bỏ hình phạt tử hình trong các tội xâm phạm
trật tự quản lý kinh tế và các tội phạm về chức vụ".
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Dưới góc độ khoa học pháp lý, trong thời gian qua đã có rất nhiều
diễn đàn, hội thảo, công trình nghiên cứu về hình phạt tử hình, áp dụng và thi
hành hình phạt tử hình. Đề tài loại bỏ hình phạt tử hình cũng đã được bàn
luận, phân tích rất nhiều trong thời gian soạn thảo, lấy ý kiến đóng góp dự
thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS 1999 như: Một số vấn đề về
hình phạt tử hình và thi hành hình phạt tử hình - thực trạng và giải pháp, Đề
tài khoa học cấp Bộ, do Bộ Tư pháp chủ trì, năm 2003; Hội thảo Việt Nam -
EU về án tử hình, Bộ Ngoại Giao Việt Nam, Liên minh Châu Âu và Viện
Nhân quyền Đan Mạch đồng tổ chức năm 2004; Hình phạt tử hình trong luật
hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Phạm Văn Beo, năm 2007; Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn về hình phạt tử hình trong luật hình sự Việt Nam,
Luận văn thạc sĩ Luật học, Trần Thu Huyền, năm 2004; Hội thảo khoa học:
11
Vấn đề giới hạn hình phạt án tử hình trong một số tội phạm tại Việt Nam,
Viện Nhà nước và Pháp luật tổ chức năm 2008; Tờ trình số 155/TTr-CP ngày
09/10/2008 của Chính phủ về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
BLHS năm 1999 gửi tới Quốc hội; Hội thảo khoa học: Nhận thức tác động
của các quy định trong Bộ luật hình sự Việt Nam, Khoa Luật, Đại học Quốc
gia Hà Nội tổ chức năm 2011. Hội nghị toàn quốc tổng kết thi hành BLHS
năm 1999 do Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc trực tiếp tham gia chỉ đạo.
Tuy nhiên, đa số các tài liệu này chỉ đề cập một cách khái quát, tổng kết lại
những vấn đề lý luận chung về hình phạt tử hình và kiến nghị, đề xuất loại bỏ
hình phạt tử hình đối với từng tội phạm riêng rẽ, mà chưa đưa ra được các cơ
sở, căn cứ toàn diện cho việc loại bỏ hình phạt tử hình nói chung, cũng như
loại bỏ tử hình trong các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và các tội phạm
về chức vụ nói riêng.
Chính vì vậy, việc chọn đề tài "Vấn đề loại bỏ hình phạt tử hình
trong các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và các tội phạm về chức vụ"
làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ luật học là rất có ý nghĩa, có thể
phục vụ cho việc học tập, nghiên cứu khoa học, cũng như công tác thực tiễn,
đáp ứng một phần yêu cầu của Hội nghị toàn quốc tổng kết thi hành BLHS
năm 1999 và tạo tiền đề lý luận cho hoạt động tiến tới xóa bỏ hoàn toàn hình
phạt tử hình trong tương lai.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu luận văn nhằm làm sáng tỏ nguyên nhân, điều kiện
hình thành, cơ sở khoa học, cơ sở thực tiễn, xu hướng áp dụng hình phạt tử
hình của các nước trên thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng đối với
các tội phạm có tính chất kinh tế và chức vụ. Qua đó, đưa ra, phân tích tổng
thể những cơ sở có tính thuyết phục nhằm "loại bỏ hình phạt tử hình trong
các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và các tội phạm về chức vụ".
12
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở các vấn đề lý luận và thực tiễn của "Vấn đề loại bỏ hình
phạt tử hình trong các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và các tội phạm về
chức vụ", luận văn sẽ đi sâu làm sáng tỏ các vấn đề sau:
- Phân tích và làm sáng tỏ một số vấn đề chung về hình phạt tử hình;
thực trạng pháp luật về hình phạt tử hình và thực trạng áp dụng hình phạt tử
hình về các tội xâm phạm trật tử quản lý kinh tế và tội phạm về chức vụ tại
Việt Nam; Xu hướng quốc tế về hình phạt tử hình;
- Phân tích những cơ sở lý luận và thực tiễn của việc loại bỏ hình phạt
tử hình đối với các tội phạm có tính chất kinh tế và chức vụ ở Việt Nam;
- Phân tích một số kiến nghị về pháp luật, xây dựng bộ máy Nhà nước,
nâng cao nhận thức pháp luật của nhân dân khi loại bỏ hình phạt tử hình đối
với các tội phạm có tính chất kinh tế và chức vụ ở Việt Nam.
3.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Với mục đích và nhiệm vụ nêu trên, luận văn có đối tượng và phạm vi
nghiên cứu là một số vấn đề lý luận chung về hình phạt tử hình, thực trạng
hình phạt tử hình tại Việt Nam và những cơ sở lý luận và thực tiễn để loại bỏ
hình phạt tử hình đối với nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và
các tội phạm về chức vụ. Những vấn đề này được nghiên cứu trên cơ sở khoa
học pháp lý về pháp luật hình sự (PLHS), quy định của BLHS, các quan điểm
về chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước, cũng như thực tiễn áp dụng
hình phạt này tại Việt Nam trong mối tương quan với xu hướng chung của các
nước trên thế giới.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt được những mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu trên, luận văn sử
dụng các phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.
13
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa
học như: So sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê, suy luận lôgic v.v…
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
5.1. Về mặt khoa học
- Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên đi sâu nhằm kiến nghị
loại bỏ hoàn toàn hình phạt tử hình ra khỏi hai nhóm tội của BLHS.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể góp phần làm rõ thêm các
quan điểm lý luận khoa học về định hướng xóa bỏ hay không xóa hình phạt tử
hình trong hệ thống PLHS Việt Nam.
- Ngoài ra luận văn còn có thể dùng làm tài liệu tham khảo, phục vụ
cho việc nghiên cứu, học tập khoa học luật hình sự.
5.2. Về mặt thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể là nhưng ý kiến hữu ích trong
hoạt động lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng PLHS trong việc đấu tranh
phòng chống tội phạm, cũng như giáo dục, cải tạo người phạm tội ở nước ta
hiện nay. Đồng thời, đây cũng là tài liệu tham khảo hữu ích đối với các luật
gia quan tâm đến những đề tài tương tự.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về hình phạt tử hình.
Chương 2: Cơ sở loại bỏ hình phạt tử hình trong các tội xâm phạm trật
tự quản lý kinh tế và các tội phạm về chức vụ ở Việt Nam.
Chương 3: Một số kiến nghị về vấn đề loại bỏ hình phạt tử hình trong
các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và các tội phạm về chức vụ.
14
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÌNH PHẠT TỬ HÌNH
1.1. KHÁI NIỆM VÀ MỤC ĐÍCH HÌNH PHẠT TỬ HÌNH
1.1.1. Khái niệm hình phạt tử hình
Tử hình là một loại hình phạt truyền thống, có từ lâu đời. Thuật ngữ
hình phạt tử hình có tên tiếng Anh là "death penalty" hay là "capital punishment".
Trong tiếng Pháp hình phạt này có tên "peine de mort" hay còn gọi là "peine
capitale"; trong tiếng Đức nó có tên gọi là "todesstrafe". "Capital punishment"
có nguồn gốc từ capitalis (tiếng Latin) trong đó có gốc của từ kaput, có nghĩa
là đầu, là một hình phạt mà khi áp dụng, người bị áp dụng sẽ bị mất đầu. Vì
thế, hình phạt tử hình lúc khởi thủy, ở phương Tây, người ta thường dùng để
chỉ hình phạt chém đầu. Còn theo Từ điển Lịch sử chế độ chính trị Trung
Quốc, "tử" ở đây được hiểu là chết, "hình" là hình phạt tội, bao gồm chữ
"tỉnh" (giếng) và chữ "đao" (dao) ghép lại. Từ đó, có thể hiểu tử hình là hình
phạt giết chết bằng cách thả xuống giếng hoặc chém bằng đao. Theo Từ điển
tiếng Việt "tử hình" là "hình phạt phải chịu tội chết" [32].
Điều 35 BLHS 1999 quy định về hình phạt tử hình như sau:
Tử hình là hình phạt đặc biệt chỉ áp dụng đối với người
phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, nhằm tước bỏ mạng sống của
người phạm tội. Không áp dụng hình phạt tử hình đối với người
chưa thành niên phạm tội, đối với phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang
nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi bị xét xử. Không
thi hành án tử hình đối với phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con
dưới 36 tháng tuổi. Trong trường hợp này hình phạt tử hình chuyển
thành tù chung thân. Trong trường hợp người bị kết án tử hình được
ân giảm, thì hình phạt tử hình chuyển thành tù chung thân [37].
15
Theo quan điểm của một số nhà nghiên cứu khoa học pháp lý thì tử
hình còn được hiểu là: "hình phạt đặc biệt, nghiêm khắc nhất trong tất cả các
loại hình phạt và chỉ được quyết định trong bản án kết tội có hiệu lực pháp
luật của Tòa án nhằm tước bỏ sinh mạng của người bị kết án về tội đặc biệt
nghiêm trọng theo quy định của pháp luật hình sự" [24], [9].
* Đặc điểm
Từ các định nghĩa về hình phạt tử hình trên đây, chúng ta có thể hiểu
hình phạt tử hình có các đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất: Là hình phạt nghiêm khắc nhất. Tử hình là hình phạt duy
nhất tước đoạt trực tiếp đối với quyền được sống của người bị kết án theo Bản
án có hiệu lực pháp luật. Do đó, hình phạt tử hình chỉ có tác dụng trừng trị,
răn đe và phòng ngừa, mà không thể giáo dục, cải tạo đối với người phạm tội
bị thi hành hình phạt này. Hình phạt tử hình có vẻ như mâu thuẫn với nguyên
tắc nhân đạo - nguyên tắc xuyên suốt của Hiến pháp và pháp luật Việt Nam
nhưng thực chất hình phạt này vẫn đáp ứng được tính nhân đạo, thể hiện ở
khía cạnh xã hội của nó, đó là tác dụng răn đe, phòng ngừa người khác phạm
tội. Nhưng, đối với chính người thực hiện hành vi tội phạm thì đại đa số ý
kiến vẫn cho rằng là vô nhân đạo, vi phạm quyền con người.
Thứ hai: Là hình phạt được quy định trong BLHS. Giống như các hình
phạt khác, tử hình là hình phạt được quy định trong BLHS - thể hiện tính hợp
pháp và pháp chế của loại hình phạt này. Việc quy định này, được thể hiện rõ
ở Điều 26 và Điều 35 BLHS hiện hành.
Đồng thời, hình phạt tử hình được quy định cụ thể tại mỗi điều luật,
tương ứng với mỗi tội danh có thể áp dụng như: Điều 78, khoản 1 - Tội phản
bội tổ quốc; Điều 79, khoản 1 - Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân
dân, Điều 80, khoản 1- Tội gián điệp v.v...
Thứ ba: Là hình phạt chỉ do Tòa án nhân danh Nhà nước áp dụng.
Đặc điểm này được quy định rõ ở Điều 26 BLHS 1999: "Hình phạt do Tòa án
16
quyết định" [37]. Ngoài Tòa án, không có bất cứ cơ quan nhà nước có thẩm
quyền nào khác được phép quyết định áp dụng hình phạt tử hình với người phạm
tội và chỉ khi Chủ tịch nước xem xét để ân xá cho người bị kết án tử hình theo
quy định của pháp luật thì người đó mới không phải chịu hình phạt này.
Thứ tư: Tước bỏ hoàn toàn khả năng tái phạm hay khắc phục hậu quả
của người phạm tội. Khi một người bị áp dụng thi hành hình phạt tử hình thì
đương nhiên người này không thể tái phạm ở bất kỳ tình huống nào và bản
thân họ cũng không thể tự mình khắc phục đối với những hậu quả đặc biệt
nghiêm trọng mà mình đã gây ra, mặc dù có thể họ đã rất hối hận và mong
muốn khắc phục hậu quả. Việc khắc phục hậu quả đối với những trường hợp
này, thường được thực hiện trước khi thi hành hình phạt, thậm chí trước khi
Tòa án án tuyên án và thường được thân nhân của người bị kết án thực hiện
nhằm mục đích tạo tình tiết giảm nhẹ cho người thân của mình và cũng giảm
bớt mặc cảm tội lỗi cho người đã thực hiện hành vi phạm tội gây ra hậu quả
đặc biệt nghiêm trọng.
* Bản chất
Trước hết, khi nghiên cứu hình phạt tử hình, tác giả nhận thấy hình
phạt tử hình mang bản chất giai cấp sâu sắc. Từ hình là một trong những hình
phạt có lịch sử phát triển lâu dài trong quá trình phát triển của xã hội có phân
chia giai cấp, tồn tại, đồng hành và phát triển cùng với sự phát triển của Nhà
nước và Pháp luật. Tử hình được sử dụng như một công cụ để đấu tranh với
các loại tội phạm khác nhau nhằm bảo vệ chế độ xã hội, bảo vệ hệ thống
chính trị của mỗi Nhà nước nhất định. Hình phạt tử hình tồn tại và phát triển
khách quan cùng với Pháp luật và Nhà nước qua mỗi thời kỳ lịch sử nhằm
bảo vệ, duy trì quyền lực của giai cấp thống trị trong xã hội. Điều này được
thể hiện ở mỗi hình thái kinh tế - xã hội có giai cấp đều có một hệ thống hình
phạt tương ứng. Bản chất, nội dung và vai trò của hình phạt, của hệ thống
hình phạt nói chung, của từng hình phạt nói riêng do các điều kiện kinh tế,
17
chính trị, văn hóa, xã hội, hệ tư tưởng, đạo đức, lối sống của hình thái kinh tế -
xã hội trong đó hình phạt tồn tại quyết định. Do đó, bản chất, nội dung và vai
trò của hình phạt nói chung, của hình phạt tử hình nói riêng được thay đổi tùy
thuộc vào sự thay đổi của các hình thái kinh tế xã hội, vào sự thay đổi trong
quan điểm, cách nhìn nhận, đánh giá của các giai cấp thống trị.
Dù hình phạt tử hình tồn tại trong xã hội nào đi nữa thì nó vẫn luôn
luôn phản ánh các quan điểm của giai cấp thống trị trong xã hội đó về các
biện pháp đấu tranh với tội phạm. Hình phạt tử hình bao giờ cũng xuất phát
và dựa trên các quan điểm thống trị cơ bản trong xã hội. Mặt khác, hình phạt
tử hình do các điều kiện xã hội, các quyền và lợi ích kinh tế, chính trị và các
lợi ích khác của giai cấp thống trị quyết định và phù hợp với các lợi ích đó.
Khi nói về hình phạt, C.Mác viết: "Hình phạt không phải là cái gì
khác là biện pháp tự vệ của xã hội với những hành vi xâm phạm điều kiện tồn
tại của nó, không kể đó là những điều kiện tồn tại như thế nào" [28]. Như vậy,
C. Mác đã chỉ ra tính giai cấp sâu sắc của hình phạt, trong đó hình phạt tử
hình là một trong những công cụ của giai cấp thống trị được dùng để đấu
tranh với tội phạm. Tính giai cấp của hình phạt tử hình còn được thể hiện ở
chỗ nó bảo vệ quyền và lợi ích của giai cấp thống trị. Giai cấp nào, Nhà nước
nào quy định và áp dụng hình phạt tử hình cũng vì quyền và lợi ích của giai
cấp đó. Trong xã hội Việt Nam hiện nay, hình phạt tử hình được quy định và
áp dụng là nhằm bảo vệ lợi ích của nhân dân, dân tộc của Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam.
Khác với Nhà nước bóc lột, Nhà nước XHCN tiến hành đấu tranh với
tội phạm bằng nhiều phương thức, nhiều biện pháp khác nhau: kinh tế, văn
hóa, xã hội, tổ chức, giáo dục, pháp luật và kêu gọi rộng rãi quần chúng nhân
dân cùng tham gia đầu tranh, bảo vệ trật tự của pháp luật. Trong xã hội Việt
Nam hiện nay, hình phạt tử hình vẫn mang tính giai cấp, nhưng tính giai cấp
của chúng ta có nhiều điểm khác biệt với tính giai cấp của hình phạt tử hình
18
trong các xã hội bóc lột, cụ thể xã hội ta hình phạt tử hình được quy định để
bảo vệ thành quả và lợi ích của toàn thể nhân dân lao động.
1.1.2. Mục đích hình phạt tử hình
Mục đích của hình phạt nói chung và hình phạt tử hình nói riêng là
một trong những vấn đề quan trọng của lý luận về hình phạt. Trong lịch sử
nhân loại đã từng có những quan điểm, quan niệm khác nhau về bản chất, nội
dung và mục đích của hình phạt nói chung, của hình phạt tử hình nói riêng.
Chúng ta có thể chia các quan niệm, quan điểm đó thành hai loại. Loại thứ
nhất, coi hình phạt nói chung, hình phạt tử hình nói riêng là công cụ trả thù
người phạm tội, đáp lại những hành vi vi phạm những quy tắc xử sự chung
của người phạm tội. Loại quan điểm thứ hai coi hình phạt nói chung, hình
phạt tử hình nói riêng là công cụ phòng ngừa tội phạm.
Quan điểm thứ nhất, hình phạt là biện pháp được Nhà nước cho phép
lấy oán trả oán, tương tự như giết người phải đền mạng, từ đó dẫn tới nỗi
khiếp sợ của người phạm tội đối với sự trả thù, sự trừng trị đối với họ, khiến
việc áp dụng các hình phạt cứng rắn trở lên rộng rãi như tử hình, tù chung
thân, tù có thời hạn dài. Điều này được thể hiện rất rõ trong lịch sử các chế
độ bóc lột qua các biện pháp nhục hình man rợ như tùng xẻo, voi dày, đóng
cọc vào ruột, đánh bằng trượng, tứ mã phanh thây,... Quan niệm trên đã phai
dần qua các thời kỳ phát triển của xã hội và nhường chỗ cho những học
thuyết tiến bộ, nhân đạo hơn, khi các quan niệm này nhìn nhận hình phạt
như một trong những biện pháp giáo dục, cải tạo người phạm tội, phòng
ngừa tội phạm (phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung). Quan niệm đó là
thành quả của sự phát triển vật chất và sự giải phóng về tinh thần của nhân
loại. Khoa học luật hình sự, PLHS nước ta đã dựa trên cơ sở vững chắc của
những thành tựu đó. Đồng thời đó cũng là nền tảng tư tưởng và lý luận cho
việc xây dựng quan niệm về mục đích của hình phạt, trong đó có mục đích
của hình phạt tử hình.
19
Mục đích của hình phạt tử hình là kết quả thực tế cuối cùng mà Nhà
nước mong muốn đạt được khi quy định hình phạt tử hình đối với tội phạm
và áp dụng hình phạt tử hình đối với cá nhân người phạm tội. Đối với Nhà
nước ta, việc áp dụng hình phạt nói chung và hình phạt tử hình nói riêng
không nhằm mục đích trừng trị là chủ yếu, mà nhằm mục đích ngăn ngừa
người bị kết án phạm tội mới (phòng ngừa riêng) và ngăn ngừa người khác
phạm tội (phòng ngừa chung).
Nếu so sánh mối tương quan giữa mục đích phòng ngừa riêng và mục
đích phòng ngừa chung của hình phạt tử hình, thì cần phải khẳng định rằng
vai trò và chức năng chính của hình phạt tử hình là phòng ngừa riêng. Bởi lẽ
các nguyên tắc của luật hình sự như: pháp chế XHCN, bình đẳng trước pháp
luật, trách nhiệm cá nhân … không cho phép chúng ta lấy việc trừng trị người
này là phương tiện chính để răn đe người khác, mà chỉ nhằm mục đích tuyên
truyền, giáo dục và phổ biến rộng rãi trong xã hội về hậu quả của việc thực
hiện tội phạm.
1.2. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN LUẬT HÌNH
SỰ VIỆT NAM VỀ HÌNH PHẠT TỬ HÌNH
Cùng với sự ra đời của Nhà nước, pháp luật xuất hiện là hiện tượng
mang tính tất yếu khách quan với hai đặc tính: Là một phạm trù chủ quan (ý
chí của giai cấp thống trị được đề lên thành luật) và nội dung của pháp luật
được xác định bởi phạm trù khách quan (các điều kiện kinh tế - xã hội). Nói
cách khác, pháp luật với ý nghĩa là nhân tố cơ bản của thượng tầng kiến trúc
luôn chịu sự tác động bởi điều kiện kinh tế - xã hội với vai trò là các yếu tố
của hạ tầng cơ sở. Điều đó lý giải tại sao trong tiến trình lập pháp hình sự Việt
Nam, các quy định về hình phạt tử hình mặc dù xuất hiện rất sớm, song mức
độ ghi nhận chúng là không giống nhau qua các thời kỳ lịch sử, thậm chí là có
sự khác nhau trên từng miền lãnh thổ trong cùng một thời kỳ lịch sử.
20
1.2.1. Giai đoạn sau Cách mạng tháng 8/1945 đến trƣớc khi pháp
điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật hình sự năm 1985
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đưa tới sự ra đời của
Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, mở một trang sử mới cho lịch sử phát
triển dân tộc. Tuy nhiên, ngày 23/9/1945, thực dân Pháp quay trở lại xâm
chiếm nước ta một lần nữa và tiếp theo là sự nối gót của đế quốc Mỹ (năm
1954). Do đặc điểm lịch sử này, trước cuộc tổng tiến công nổi dậy Mùa xuân
năm 1975, đất nước ta bị chia cắt thành hai miền với hai chế độ chính trị khác
nhau. Hệ thống PLHS ở hai miền vì vậy càng có sự khác biệt. Những quy
định về hình phạt tử hình không nằm ngoài sự thay đổi chung đó.
* Giai đoạn 1945 - 1954
Sau tháng 8/1945, Nhà nước công nông non trẻ đã tích cực tiến hành
hoạt động lập pháp hình sự, làm cơ sở để trấn áp bọn phản động, bảo vệ
những thành quả của cách mạng. Song song với các quy phạm pháp luật mới
được ban hành, Sắc lệnh số 47-SL ngày 10/10/1945 của Nhà nước cho phép
tạm thời giữ các luật lệ cũ (gồm Luật hình An Nam, Hoàng Việt hình luật và
Bộ hình luật Pháp tu chính) với điều kiện "không trái với nguyên tắc độc lập
của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa".
Pháp luật hình sự trong giai đoạn này, chưa có văn bản nào chính thức
quy định về hệ thống hình phạt. Tuy nhiên có thể thấy rằng hình phạt bao
gồm hai loại là các hình phạt chính và các hình phạt phụ (hình phạt bổ sung).
Tử hình là một hình phạt chính, áp dụng đối với tội phạm có tính chất đặc biệt
nghiêm trọng. Sắc lệnh số 133-SL ngày 20/01/1953 trừng trị những tội xâm
phạm đến an toàn Nhà nước, đối nội và đối ngoại. Sắc lệnh số 146-SL ngày
02/03/1948 quy định xử lý nghiêm khắc những người phạm tội gián điệp, tội
phản bội tổ quốc. Ngoài ra, đối với các tội phạm về bảo vệ đê điều, công trình
thủy nông nếu hậu quả gây ra là thiệt hại cho nhiều tỉnh (Điều 8 Sắc lệnh số
68-SL ngày 16/11/1949); tội đầu hàng quân địch nếu người đầu hàng là một
21
nhân viên thuộc cấp chỉ huy; tội thông với địch (Điều 7 Sắc lệnh số 163-SL
ngày 23/8/1946) đều có mức cao nhất của khung hình phạt là tử hình.
Cùng với hoạt động đấu tranh chống thực dân Pháp và bọn tay sai
phản động, Nhà nước ta càng hết sức chú trọng việc giữ gìn trật tự an toàn xã
hội trong kháng chiến. Các hành vi cướp bóc, nhũng nhiễu dân chúng trong
khi có chiến sự đều bị Tòa án binh xử nặng như các tội gián điệp, tội phản
quốc và có thể bị tuyên đến án tử hình (Thông lệnh số 60-TT ngày 23/5/1947
của liên Bộ Quốc phòng - Tư pháp).
Hình thức thi hành án tử hình có những thay đổi quan trọng: theo
Thông tư số 498 P4 ngày 31/10/1946 của Bộ Tư pháp thì "cho thi hành án tử
hình từ nay dùng súng thay cho máy chém". Để đảm bảo thực hiện quyền
của người bị kết án, PLHS thời kỳ này cũng có quy định cho người bị kết án
có quyền gửi đơn lên Chủ tịch nước xin ân giảm án tử hình. Thông tư số
335/TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc báo cáo thỉnh thị các vụ án tử hình
có nêu: "Sau khi tòa án nhân dân đã tuyên án tử hình, phạm nhân vẫn có
quyền đệ đơn lên Chủ tịch nước xin ân xá, ân giảm. Đơn xin ân xá, ân giảm
do Ủy ban kháng chiến hành chính liên khu chuyển lên Bộ Tư pháp. Bộ Tư
pháp làm tờ trình lên Chủ tịch nước quyết định" [47].
* Giai đoạn 1954 - 1975
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, đất nước ta tạm thời bị chia
cắt thành hai miền với hai chế độ kinh tế - xã hội khác nhau. Ở miền Bắc,
song song với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội còn phải thực hiện vai trò
của một "hậu phương lớn" để chi viện cho tiền tuyến Miền Nam và trở thành
căn cứ vững mạnh của cách mạng cả nước. Miền Nam tiếp tục tiến hành cuộc
cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân nhằm giải phóng khỏi ách thống trị của
đế quốc Mỹ và tay sai, thống nhất đất nước. PLHS giai đoạn này cũng phải
góp phần thực hiện thắng lợi hai chiến lược cách mạng của hai miền.
22
Ở miền Bắc, pháp luật chưa có quy định riêng về hệ thống hình phạt.
Tử hình vẫn giữ vai trò là một hình phạt chính và được quy định trong nhiều
văn bản về PLHS.
Ngày 30/10/1967, Hồ Chủ tịch ký Lệnh số 117 công bố Pháp lệnh
trừng trị các tội phản cách mạng. Ngoài Điều 1 và Điều 2 quy định những
nguyên tắc về chính sách hình sự của Nhà nước ta, 15 điều luật còn lại được
mô tả rõ ràng, chặt chẽ với cấu thành tội phạm, các tội có áp dụng hình phạt
tử hình chiếm một tỷ lệ lớn (11/15 tội) như tội phản quốc (Điều 3); tội âm
mưu lật đổ chính quyền nhân dân (Điều 4); tội gián điệp (Điều 5); tội xâm
phạm an ninh lãnh thổ (Điều 6); tội bạo loạn (Điều 7)... Pháp lệnh trừng trị
các tội phản cách mạng là cơ sở pháp lý quan trọng để tăng cường chuyên
chính đối với những kẻ thù dân tộc và là một bước tiến về kỹ thuật lập pháp
hình sự Việt Nam.
Ngày 21/10/1970, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đồng thời thông qua
Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và Pháp lệnh
trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân. Trong đó, nhóm tội
xâm phạm chế độ sở hữu XHCN bị áp dụng hình phạt rất nghiêm khắc. Các
tội cướp tài sản XHCN (Điều 4); tội cố ý hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản
XHCN (Điều 6); tội trộm cắp tài sản XHCN (Điều 7); tội tham ô tài sản
XHCN (Điều 8) đều có mức cao nhất của khung hình phạt là tử hình.
Điều 9 Luật số 18 ngày 14/7/1960 của Tổ chức Tòa án nhân dân (TAND)
quy định thủ tục "duyệt lại" bản án tử hình để đảm bảo tính chính xác của
quyết định đó:
Các bản án tử hình phải được Hội đồng toàn thể thẩm phán
của Tòa án nhân dân tối cao duyệt lại trước khi thi hành. Phải có 2/3
tổng số thẩm phán của Tòa án nhân dân tối cao tham dự phiên họp
của Hội đồng và quá nửa tổng số thẩm phán tán thành thì quyết nghị
của Hội đồng mới có giá trị.
23
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền tham
dự phiên họp của Hội đồng toàn thể thẩm phán của Tòa án nhân dân
tối cao. Nếu Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao không
đồng ý với quyết nghị của Hội đồng toàn thể thẩm phán của Tòa án
nhân dân tối cao thì báo cáo lên Ủy ban Thường vụ Quốc hội xét [47].
Ngày 12/3/1974, Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) ra Chỉ thị số
07/TATC hướng dẫn nhiệm vụ của TAND về việc thi hành án tử hình, trong
đó quy định cụ thể nhiệm vụ của TAND tống đạt cho phạm nhân quyết định
của Hội đồng toàn thể thẩm phán, TAND duyệt án tử hình (trường hợp phạm
nhân không xin ân giảm) và công bố tóm tắt tội trạng của phạm nhân trước
khi phạm nhân bị đem hành hình.
Ở miền Nam, trước năm 1972, các quy định của PLHS nhìn chung
không có sự thay đổi nhiều so với thời kỳ trước đó. Đến năm 1972, BLHS
mới của chế độ Việt Nam Cộng hòa được ban hành đã đóng góp những giá trị
nhất định, góp phần làm phong phú hơn hệ thống PLHS nước ta. Theo đó,
hình phạt gồm chính hình, phụ hình và bổ túc hình (Điều 20); Chính hình là:
Đại hình, tiểu hình và vi cảnh. Chính hình về đại hình theo thứ tự nặng nhẹ
gồm có: tử hình; khổ sai chung thân; phát lưu; khổ sai hữu hạn; biệt giam;
cấm cố (Điều 21). Tương tự như PLHS các giai đoạn trước, nhóm tội xâm
phạm an ninh quốc gia (tội gián điệp, tội phản nghịch, các tội quấy rối quốc
gia bằng cách gây nội chiến, dùng quân lực trái phép...) đều bị áp dụng hình
phạt tử hình. Ngoài ra, tội nhận hối lộ, tội cố sát... càng bị trừng trị rất nghiêm
khắc với mức cao nhất của khung hình phạt là tử hình.
Bộ luật hình sự năm 1972 có các điều luật quy định những trường hợp
khoan miễn và trường hợp giảm khinh (Điều 84 đến Điều 94, Chương thứ tư),
đồng thời quy định những trường hợp gia trọng - tái phạm (Điều 95 đến Điều 101,
Chương thứ năm). Đây là những trường hợp làm giảm nhẹ, hoặc tăng nặng
đáng kể trách nhiệm hình sự của người phạm tội.
24
Hình phạt tử hình được thi hành bằng xử bắn: "Tội nhân bị án tử hình
sẽ bị giam trong lao thất cho đến lúc bị hành hình. Tử tội sẽ bị bắn" (Điều 22).
Kế thừa truyền thống nhân đạo, luật này càng quy định về việc hoãn thi hành
án tử hình đối với phụ nữ có thai: "Nếu nữ tội nhân bị án tử hình có thai thì
100 ngày sau khi sanh đẻ mới bị hành quyết" (đoạn 2 Điều 23). Ngoài ra để
giảm bớt thủ tục của cơ quan thi hành án, giảm chi phí của việc thi hành án,
đồng thời đáp ứng được nguyện vọng của thân nhân người bị kết án, luật quy
định: "Tử thi kẻ bị hành quyết sẽ được giao trả cho gia quyến nếu có lời xin,
nhưng đám tang phải đơn giản và không có công chúng dự lễ" (Điều 24).
Có thể nói, luật hình sự Việt Nam qua 30 năm tồn tại và phát triển
(1945-1975) đã có những bước tiến bộ rất lớn về kỹ thuật lập pháp và góp
phần quan trọng thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ chiến lược của cách
mạng. Những quy định về hình phạt nói chung, hình phạt tử hình nói riêng
không ngừng được hoàn thiện, trở thành cơ sở để xây dựng BLHS sau này.
Tuy nhiên, do được quy định trong nhiều văn bản đơn hành, gây khó khăn
trong việc áp dụng thống nhất pháp luật. Điểm hạn chế này đã được khắc
phục khi Nhà nước pháp điển hóa BLHS.
* Từ năm 1975 đến trước năm 1985
Với Đại thắng Mùa xuân năm 1975, miền Nam được hoàn toàn giải
phóng, đánh dấu một bước ngoặt trọng đại trong lịch sử phát triển của dân tộc
ta. Đất nước được thống nhất, bước vào thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội.
Năm 1976, sau khi thực hiện thắng lợi cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội
chung cho cả nước, Quốc hội đã họp kỳ thứ nhất và ra Nghị quyết giao cho
Hội đồng Nhà nước chịu trách nhiệm hướng dẫn pháp luật thống nhất trên
toàn quốc. Những văn bản PLHS trước đây được ban hành ở miền Bắc tiếp
tục có hiệu lực và áp dụng trong phạm vi cả nước.
Để đảm bảo vững chắc an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội ở
nửa đất nước mới được giải phóng, Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam
25
Việt Nam đã ban hành Sắc luật số 03-SL/76 ngày 13/5/1976 quy định các tội
phạm và hình phạt. Sắc luật bao gồm 4 chương, 12 điều quy định 7 loại tội
phạm. Trong đó tử hình vẫn được quy định là một hình phạt chính và là hình
phạt nghiêm khắc nhất. Ngày 27/5/1976, Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền
Nam Việt Nam ra Quyết định số 29/QĐ/76 về việc trừng trị các tên tư sản mại
bản phạm tội lũng loạn, đầu cơ tích trữ, phá rối trị trường. Trong Quyết định
này có nêu: "án tử hình phải được trình lên Chủ tịch Hội đồng cố vấn để xét
duyệt trước khi thi hành".
Ngày 20/5/1981, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh
trừng trị tội hối lộ. Nội dung Pháp lệnh cho thấy tinh thần đấu tranh kiên
quyết và triệt để đối với tội này. Mọi hình thức nhận hội lộ, đưa hối lộ, môi
giới hối lộ đều bị áp dụng chế tài rất nghiêm khắc. Trường hợp phạm tội đặc
biệt nghiêm trọng có thể bị áp dụng hình phạt tử hình.
Như vậy, PLHS giai đoạn này vẫn tiếp tục phát huy vai trò quan trọng
của mình, phục vụ kịp thời các yêu cầu, nhiệm vụ chính trị mà Nhà nước đề
ra. Sự ra đời của Pháp lệnh trừng trị tội hối lộ và Pháp lệnh trừng trị các tội
đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép được xem như là tiền đề
cho việc xây dựng các quy định tương ứng trong BLHS năm 1985.
1.2.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến
trƣớc khi ban hành Luật sửa đổi bổ sung Bộ luật hình sự năm 2009
* Từ năm 1985 đến trước năm 1999
Ngày 27/6/1985, Quốc hội thông qua BLHS đầu tiên của nước ta và
chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1986, đã đánh dấu bước phát
triển mới trong tiến trình lập pháp hình sự Việt Nam. BLHS năm 1985 bao
gồm 280 điều, chia thành hai phần: Phần chung (71 điều) và Phần các tội
phạm (209 điều).
Với 13 điều luật (từ Điều 20 đến Điều 32), lần đầu tiên vấn đề hình
phạt và các chế định liên quan được quy định một cách có hệ thống, đầy đủ,
26
rõ ràng. Hình phạt tử hình được quy định riêng tại một điều trong Phần chung
của BLHS (Điều 27 BLHS năm 1985) với các điều kiện, phạm vi áp dụng và
không áp dụng:
Tử hình là hình phạt đặc biệt được áp dụng đối với người
phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Không áp dụng hình phạt tử hình
đối với người chưa thành niên phạm tội, đối với phụ nữ có thai khi
phạm tội hoặc khi bị xét xử. Tử hình được hoãn thi hành đối với
phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 12 tháng. Trường hợp
người bị kết án tử hình được ân giảm thì tử hình chuyển thành tù
chung thân. Chỉ trong trường hợp đặc biệt có luật quy định riêng thì
tử hình mới được thi hành ngay sau khi xét xử [35].
Trong phần các tội phạm của BLHS năm 1985, hình phạt tử hình được
quy định tại 44 điều (chiếm tỷ lệ khoảng 20,5% tổng số tội phạm). Hình phạt
tử hình chủ yếu được quy định tại các chương: Các tội xâm phạm an ninh
quốc gia (Tội phản bội tổ quốc, Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân
dân, Tội gián điệp, Tội bạo loạn, Tội khủng bố, …); Các tội phạm về ma túy,
các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh, các tội
xâm phạm sở hữu XHCN (Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản XHCN, Tội hủy
hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản XHCN …); Một số tội xâm phạm tài sản
riêng của công dân và xâm phạm tính mạng, danh dự nhân phẩm con người
(Tội giết người, tội hiếp dâm, tội hiếp dâm trẻ em,...).
Trong những lần bổ sung sau, do yêu cầu đấu tranh phòng chống tội
phạm trong điều kiện mới, một số loại tội phạm mới được bổ sung với mức
hình phạt cao nhất là tử hình như: bổ sung Điều 96a "Tội sản xuất, tàng trữ,
vận chuyển trái phép các chất ma túy" (sửa đổi, bổ sung lần thứ nhất, 1989);
Bổ sung Chương VIIA "Các tội phạm về ma túy", trong đó có điều 185b,
Điều 185c, Điều 185d, Điều 185đ, Điều 185e, Điều 185i, và Điều 185m có
quy định mức hình phạt cao nhất là tử hình (bổ sung lần thứ tư, 1997).
27
Bộ luật hình sự năm 1985 ra đời có ý nghĩa rất quan trọng trong đời
sống chính trị - pháp lý của nước ta. Nếu như PLHS các giai đoạn trước đó
bao gồm các quy phạm pháp luật đơn hành thì việc pháp điển hóa lần này đã
đánh dấu sự phát triển vượt bậc của kỹ thuật lập pháp hình sự Việt Nam.
Những quy định về hình phạt tử hình trong BLHS năm 1985 tương đối đầy
đủ, chặt chẽ, tạo cơ sở pháp lý cho việc áp dụng pháp luật một cách thống
nhất. Việc quy định điều kiện áp dụng và phạm vi áp dụng hình phạt tử hình
cũng thể hiện một cách rõ nét nguyên tắc nhân đạo của luật hình sự Việt Nam.
* Thời kỳ từ 1999 đến trước khi ban hành Luật sửa đổi bổ sung
BLHS năm 2009
Ngày 21/12/1999, Quốc hội thông qua BLHS năm 1999, có hiệu lực
từ ngày 01/7/2000 thay thế BLHS năm 1985. Bộ luật này bao gồm 344 điều,
chia thành hai phần: Phần chung (có 77 điều) và Phần các tội phạm (có 267
điều). Hình phạt tử hình vẫn được quy định trong BLHS năm 1999 "là hình
phạt đặc biệt chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng"
(Điều 35 BLHS năm 1999). Tuy nhiên, so với BLHS năm 1985, các quy định
về tử hình trong BLHS năm 1999 có một số thay đổi cơ bản như sau:
Thứ nhất: Mở rộng phạm vi đối tượng không áp dụng hình phạt tử
hình, Điều 35 BLHS năm 1999 quy định:
Không áp dụng hình phạt tử hình đối với người chưa thành
niên phạm tội, đối với phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con
dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi bị xét xử. Không thi hành
án tử hình đối với phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36
tháng tuổi. Trong trường hợp này hình phạt tử hình chuyển thành tù
chung thân [37].
Điều đó đã thể hiện tính nhân đạo sâu sắc và tiến bộ của PLHS nước ta.
Thứ hai: Trong các điều quy định về tội phạm của BLHS năm 1999 có
29 điều luật có hình phạt cao nhất là tử hình, chiếm tỷ lệ 11% số điều luật quy
28
định tội danh (so với số tương ứng là 44 điều chiếm tỷ lệ 21% trong BLHS
năm 1985). Trong số 15 điều luật bỏ tử hình có: Tội xâm phạm an ninh lãnh thổ;
Tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới; Tội chống phá trại
giam; Tội trộm cắp tài sản; Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản; Tội
sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc
thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi,… Trong số 29 điều
luật còn quy định hình phạt tử hình thì các tội xâm phạm an ninh quốc gia có
7 điều; các tội xâm phạm tính mạng sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con
người có 3 điều; các tội xâm phạm quyền sở hữu có 2 điều; các tội phạm về ma
túy có 3 điều; các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng có 2 điều;
các tội phạm về chức vụ có 3 điều; các tội xâm phạm nghĩa vụ trách nhiệm
của quân nhân có 3 điều; các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội
phạm chiến tranh có 3 điều.
1.3. THỰC TRẠNG VỀ HÌNH PHẠT TỬ HÌNH TẠI VIỆT NAM HIỆN
NAY VÀ XU HƢỚNG QUỐC TẾ VỀ HÌNH PHẠT TỬ HÌNH
1.3.1. Thực trạng pháp luật về hình phạt tử hình tại Việt Nam
hiện nay
Ngày 16/9/2009 Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi bổ sung một số
điều của BLHS, trong đó vẫn giữ nguyên các quy định tại phần chung, nhưng
có những thay đổi rõ nét đối với phần các tội phạm.
Cụ thể, BLHS các quy định về đối tượng có thể bị áp dụng và căn cứ
áp dụng hình phạt tử hình, tác giả xin được phân tích cụ thể dưới đây:
a. Các quy định về đối tượng và căn cứ áp dụng hình phạt tử hình
* Đối tượng có thể bị áp dụng hình phạt tử hình
Hình phạt tử hình có thể áp dụng đối với bất kỳ người nào thực hiện
một hoặc nhiều tội đặc biệt nghiêm trọng được quy định bởi BLHS, ngoại trừ
một số trường hợp được quy định tại Điều 35 BLHS:
29
Không áp dụng án tử hình đối với người chưa thành niên
phạm tội, đối với phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36
tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi bị xét xử. Không thi hành án tử
hình đối với phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng
tuổi. Trong trường hợp này hình phạt tử hình chuyển thành tù chung
thân [37].
Người chưa thành niên phạm tội là người chưa đủ 18 tuổi khi phạm tội
nhưng đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (từ đủ 14 tuổi trở lên). Phụ nữ có
thai khi phạm tội hoặc khi bị xét xử là người phụ nữ trước khi phạm tội hoặc
trước khi bị đưa ra xét xử đã có thai và hiện vẫn chưa sinh con, sẽ không bị áp
dụng hình phạt tử hình. Phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi là đối tượng
không bị áp dụng hình phạt tử hình. Nếu sau khi tuyên án tử hình mới có cơ sở
kết luận người phụ nữ có thai hoặc người phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng
tuổi thì không thi hành án tử hình và chuyển hình phạt tử hình thành hình phạt
tù chung thân.
Vậy, tại sao những đối tượng nêu trên không bị áp dụng hình phạt tử
hình? Ta biết rằng người chưa thành niên, phụ nữ mang thai hoặc phụ nữ
đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi là những đối tượng đặc biệt trong chính
sách hình sự của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Do đặc điểm tâm -
sinh lý của người chưa thành niên, phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con nhỏ và
ảnh hưởng của những đặc điểm này đến khả năng nhận thức và điều khiển
hành vi của họ; đồng thời, cân nhắc khả năng cải tạo, giáo dục của người chưa
thành niên phạm tội và hậu quả của hình phạt đối với phụ nữ có thai hoặc
đang nuôi con nhỏ mà Luật quy định không áp dụng cũng như không thi hành
án tử hình đối với các đối tượng này trong các trường hợp cụ thể nêu trên.
Các quy định nêu trên của BLHS là phù hợp với các chuẩn mực pháp
lý của thế giới, cũng như các Công ước Quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ký
kết hoặc công nhận. Điểm 5, Điều 6 phần III Công ước quốc tế về những
30
quyền dân sự và chính trị năm 1966 cũng ghi nhận: "án tử hình không được
tuyên đối với các bị cáo chưa đủ 18 tuổi khi phạm pháp và càng không được
thi hành đối với các phụ nữ mang thai".
Về phạm vi đối tượng không bị áp dụng án tử hình của BLHS năm
1999 được mở rộng hơn rất nhiều so với BLHS năm 1985, cho thấy tính nhân
đạo biểu hiện rõ nét hơn. Trong BLHS năm 1985, hình phạt tử hình chỉ được
quy định không áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội, phụ nữ có
thai khi phạm tội hoặc khi bị đưa ra xét xử thì trong BLHS, ngoài những đối
tượng nêu trên, luật còn loại trừ hình phạt này đối với phụ nữ đang nuôi con
dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi bị xét xử. Theo quy định của BLHS
năm 1985, nếu phụ nữ có thai và phụ nữ đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi chỉ
được phép "hoãn" thi hành hình phạt tử hình, thì theo BLHS, không những họ
không phải thi hành (được chuyển thành hình phạt tù chung thân) mà những
phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi cũng được áp dụng quy định này.
Mặt khác, BLHS đã bỏ quy định về việc thi hành án tử hình ngay sau khi xét
xử. Đoạn 4 Điều 27 BLHS năm 1985 quy định: "Chỉ trong trường hợp đặc biệt có
luật quy định riêng thì tử hình mới được thi hành ngay sau khi xét xử" [35].
Do bản chất của hình phạt tử hình liên quan trực tiếp đến cuộc sống của con
người và sẽ không thể khắc phục được hậu quả nếu bản án đã thi hành trên
thực tế nên việc bỏ quy định thi hành án tử hình ngay sau khi xét xử là phù
hợp, đảm bảo thực hiện pháp chế XHCN.
Trong BLHS, so sánh về đối tượng bị áp dụng giữa hình phạt tù chung
thân và tử hình ta thấy điểm giống nhau giữa chúng là cả hai hình phạt này
đều không áp dụng nếu đối tượng là người chưa thành niên phạm tội. Điểm
khác nhau giữa chúng là: hình phạt tử hình chỉ có thể được áp dụng nếu người
phụ nữ không phải là người có thai khi phạm tội, hoặc khi bị đưa ra xét xử,
càng không phải là người phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi. Hình phạt
tù chung thân không loại trừ các trường hợp nêu trên.
31
Mở rộng việc so sánh với đối tượng bị áp dụng hình phạt tử hình trong
PLHS một số nước trên thế giới, ta sẽ thấy sự đa dạng trong chính sách hình
sự của các quốc gia. Xuất phát từ tư tưởng nhân đạo, đa số các quốc gia đều
không áp dụng hình phạt tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội,
hoặc phụ nữ có thai. Điều 48 và Điều 49 BLHS Cộng hòa nhân dân Trung
Hoa quy định: "Tử hình chỉ được áp dụng đối với những người phạm tội
nghiêm trọng nhất, trừ người phạm tội là người chưa đủ 18 tuổi hoặc là phụ
nữ có thai khi xét xử" [19]. BLHS Liên bang Nga mở rộng một cách đặc biệt
đối tượng không bị áp dụng hình phạt tử hình: "Tử hình không áp dụng đối
với phụ nữ, cũng như những người phạm tội chưa đủ 18 tuổi, nam giới trên 65
tuổi" [53]. Như vậy, theo pháp luật của Liên bang Nga ngoài phụ nữ và người
chưa thành niên thì nam giới trên 65 tuổi nếu phạm tội cũng không phải chấp
hành hình phạt nghiêm khắc nhất này. Điều đó thể hiện tính nhân đạo sâu sắc
và sự tiến bộ của luật hình sự Liên bang Nga.
* Căn cứ áp dụng hình phạt tử hình
Hình phạt tử hình được áp dụng dựa trên các căn cứ sau:
- Mức độ phạm tội của người phạm tội:
Một trong những điểm mới của BLHS là việc phân chia các tội phạm
thành 4 loại: tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất
nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Trong đó căn cứ vào tính
chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, thì tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng là "tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao
nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung
thân hoặc tử hình" [37, Điều 8].
Điều 35 BLHS quy định: "Tử hình là hình phạt đặc biệt chỉ áp dụng
đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng" [37]. Tính "đặc biệt" của hình
phạt tử hình trước hết được thể hiện ở việc theo pháp luật và bằng pháp luật
tước bỏ quyền sống của người phạm tội. Nếu so sánh với tất cả các hình phạt
32
khác trong hệ thống hình phạt ta thấy đối với các hình phạt này thì người
phạm tội hoặc bị cách ly hoặc không bị cách ly khỏi xã hội nhưng luật pháp
vẫn mở ra những khả năng khuyến khích quá trình cải tạo, giáo dục người bị
kết án để họ có thể tái hòa nhập vào cộng đồng. Riêng đối với hình phạt tử
hình, người phạm tội sau khi thi hành án sẽ bị loại bỏ vĩnh viễn khỏi đời sống
xã hội.
- Hậu quả của hành vi phạm tội:
Là hình phạt nghiêm khắc nhất, tử hình chỉ được áp dụng đối với
người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Tuy nhiên không phải bất cứ người
nào phạm tội đặc biệt nghiêm trọng đều bị áp dụng hình phạt tử hình. Thực
tiễn xét xử cho thấy, hình phạt này chỉ có thể áp dụng trong trường hợp người
phạm tội gây ra hậu quả đặc biệt nghiêm trọng đối với an ninh quốc gia, hoặc
phạm một trong các tội như tội hiếp dâm trẻ em, tội giết người, tội tham ô...
gây ảnh hưởng rất xấu đối với xã hội, bị dư luận kịch liệt lên án.
- Tình thiết của vụ án và nhân thân của người phạm tội.
Khi cân nhắc giữa hình phạt tù chung thân với hình phạt tử hình mà
thấy còn băn khoăn, thì Tòa án sẽ không áp dụng hình phạt tử hình. Trên cơ
sở xem xét, đánh giá một cách toàn diện tất cả các tình tiết của vụ án, khi
không còn khả năng nào khác, thì Tòa án mới áp dụng hình phạt tử hình đối
với người phạm tội. Nói cách khác, hình phạt tử hình chỉ được áp dụng nếu
toàn bộ tình tiết của vụ án và những đặc điểm thuộc về nhân thân của người
phạm tội đó phủ nhận hoàn toàn khả năng cải tạo, giáo dục đối với họ. Việc
đánh giá người phạm tội còn hay không còn khả năng giáo dục là một yếu tố
"định tính" mà người "Thẩm phán" phải dựa trên tổng thể các dấu hiệu để
quyết định như họ có thuộc đối tượng tái phạm, tội phạm nguy hiểm hay
không? bản thân họ có phạm nhiều tội hoặc phạm tội nhiều lần hay không?...
Căn cứ áp dụng hình phạt tử hình của BLHS năm 1999 có nội dung
tương đồng với quy định tại khoản 1 Điều 60 BLHS Liên bang Nga (có hiệu
33
lực từ ngày 01/3/1996). Theo đó, "Tử hình là hình phạt đặc biệt chỉ có thể áp
dụng đối với các tội đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm tính mạng" [53]. BLHS
Liên bang Nga cũng phân chia tội phạm thành 4 loại như BLHS Việt Nam.
Trong đó, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là "những hành vi cố ý mà Bộ luật
này quy định hình phạt đối với chúng là trên 10 năm tù hoặc hình phạt nghiêm
khắc hơn" [53, khoản 5 Điều 15]. Tuy nhiên, khả năng áp dụng hình phạt tử
hình của BLHS Liên bang Nga rất hạn chế, cụ thể là chỉ tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng xâm phạm tính mạng mới có thể bị áp dụng hình phạt tử hình.
Trong số những tội xâm phạm tính mạng cũng chỉ có duy nhất một điều luật
quy định hình phạt này, đó là tội giết người. Hình phạt tử hình được quy định
là chế tài lựa chọn với hình phạt tù chung thân hoặc tù có thời hạn.
b. Một số quy định mới về phần các tội phạm
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều BLHS đã thu hẹp đáng kể các loại
tội phạm và đối tượng bị áp dụng hình phạt tử hình khi đã loại bỏ chế tài tử
hình ra khỏi 08 tội danh được quy định trong BLHS năm 1999 và bổ sung
thêm 01 tội danh có chế tài tử hình, cụ thể bỏ các hình phạt tử hình đối với các
tội danh: Tội hiếp dâm (Điều 111), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 139),
Tội buôn lậu (Điều 153), Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy (Điều
197), Tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công
trái giả (Điều 180), Tội chiếm đoạt tàu bay, tàu thủy (Điều 221), Tội đưa hối
lộ (Điều 289), Tội hủy hoại vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự
(Điều 334) và bổ sung Tội khủng bố (Điều 230a). Như vậy, sau lần sửa, đổi
bổ sung này, BLHS có 22 tội danh quy định hình phạt tử hình. So với tổng số
các tội danh quy định về các tội phạm cụ thể tại phần các tội phạm của BLHS
(22/272 điều luật) thì số điều luật có quy định hình phạt tử hình chiếm tỷ lệ
khoảng 8%, giảm khoảng 3% so với quy định của BLHS năm 1999, trong đó
tập trung nhiều nhất tại Chương 11 (các tội xâm phạm an ninh quốc gia) và
Chương 24 (các tội phá hoại hòa bình, chống lại loài người và tội phạm chiến
tranh. Cụ thể:
34
* Chương 11. Các tội xâm phạm an ninh quốc gia có 07 điều: Điều 78
(tội phản bội Tổ quốc); Điều 79 (tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân
dân); Điều 80 (tội gián điệp); Điều 82 (tội bạo loạn); Điều 83 (tội hoạt động
phỉ); Điều 84 (tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân); Điều 85 (tội
phá hoại cơ sở vật chất - kỹ thuật của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam).
* Chương 12. Các tội xâm phạm tính mạng , sứ c khỏe, danh dự, nhân
phẩm của con ngườ i có 02 điều: Điều 93 (tội giết người ) và Điều 112 (tội
hiếp dâm trẻ em).
* Chương 14. Các tội xâm phạm sở hữu có 01 điều là Điều 133 (tội
cướp tài sản).
* Chương 16. Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế có 01 điều là
Điều 157 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc
chữa bệnh, thuốc phòng bệnh).
* Chương 18. Các tội phạm về ma túy có 02 điều: Điều 193 (tội sản
xuất trái phép chất ma túy ) và Điều 194 (tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán
trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy).
* Chương 19. Các tội xâm phạm an toà n công cộng, trật tự công cộng
có 02 điều: Điều 230a (tội khủng bố ) và Điều 231 (tội phá huỷ công trình,
phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia).
* Chương 21. Các tội phạm về chức vụ có 02 điều: Điều 278 (tội tham
ô) và Điều 279 (tội nhâ ̣n hối lô ̣).
* Chương 23. Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
có 02 điều: Điều 316 (tội chống mê ̣nh lê ̣nh) và Điều 322 (tội đầu hàng đi ̣ch).
* Chương 24. Các tội phá hoại hòa bình , chống loà i ngườ i và tội
phạm chiến tranh có 03 điều: Điều 341 (tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh
xâm lược); Điều 342 (tội chống loài người); Điều 343 (tội phạm chiến tranh).
35
Như vậy, sau lần sửa đổi gần nhất, BLHS hiện hành còn 02 tội danh
thuộc nhóm các tội phạm về chức vụ còn giữ hình phạt tử hình là Tội tham ô
(Điều 278), Tội nhận hối lộ (Điều 279) và 01 tội danh thuộc nhóm các tội
xâm hại trật tự quản lý kinh tế là Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương
thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh (Điều 157).
1.3.2. Thực trạng áp dụng hình phạt tử hình tại Việt Nam hiện nay
Từ năm 2005 đến nam 2010, theo số liệu thống kê của TANDTC thì
số vụ án về nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trên toàn quốc có
6.138 vụ, trong đó chỉ có 3 bị cáo bị áp dụng hình phạt tử hình và đối với
nhóm các tội phạm về chức vụ có tổng số 3121 vụ, trong đó chỉ có 3 bị cáo bị
áp dụng hình phạt tử hình. Theo đó, để có thể hiểu rõ được thực trạng và thực
tiễn áp dụng hình phạt tử hình đối với các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
và các tội phạm về chức vụ trên toàn quốc, tác giả xin được thể hiện thông
qua Bảng thống kê số liệu dưới đây:
Bảng 1.1: Thống kê án và số bị cáo bị áp dụng hình phạt tử hình
trong các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và các tội phạm về chức vụ
Năm
Các tội xâm phạm trật tự kinh tế Các tội phạm về chức vụ
Tổng (tất cả các
loại tội phạm)
Số vụ
Tỷ lệ
(%)
Số bị
cáo bị
áp dụng
hình
phạt tử
hình
Tỷ lệ
(%)
Số vụ
Tỷ lệ
(%)
Số bị
cáo bị
áp dụng
hình
phạt tử
hình
Tỷ lệ
(%)
Số vụ
Số bị
cáo bị
áp dụng
hình
phạt tử
hình
2005 1.057 1.92 0 0.00 414 0.75 0 0.00 55112 208
2006 1.084 1.74 0 0.00 539 0.87 0 0.00 62166 198
2007 931 1.51 0 0.00 622 1.01 2 0.97 61813 206
2008 1.007 1.56 3 1.42 585 0.91 1 0.47 64381 212
2009 1.088 1.63 0 0.00 524 0.78 0 0.00 66919 119
2010 971 1.66 0 0.00 437 0.75 0 0.00 58370 178
Tổng 6.138 1.66 3 0.27% 3.121 0.85 3 0.27% 368.761 1.121
Nguồn: TANDTC.
36
Qua bảng 1.1, chúng ta đã nhận thấy số bị can và tỷ lệ bị cáo bị áp
dụng hình phạt tử hình đối với nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
và các tội phạm về chức vụ ở nước ta trong những năm gần đây là rất thấp,
thậm chí nhiều năm không áp dụng. Trên thực tế, đại đa số Tòa án trên toàn
quốc từ nhiều năm qua đã không áp dụng hình phạt tử hình đối với 02 nhóm
tội phạm này (như: TAND tỉnh Bắc Giang; TAND tỉnh Hải Dương; TAND
tỉnh Hưng Yên, TAND tỉnh Sơn La, TAND tỉnh Hà Tây cũ, TAND tỉnh Ninh
Bình …). Riêng trong năm 2013, TAND thành phố Hà Nội có áp dụng hình
phạt tử hình trong 01 vụ án liên quan tới Tổng Công ty Tàu thủy Việt Nam
với hình phạt tử hình được áp dụng đối với Ông Dương Chí Dũng và Ông
Mai Văn Phúc về Tội tham ô tài sản, nhưng Ông Dũng kêu oan về hành vi
này và ngày 07/05/2014, Tòa Phúc thẩm - TANDTC tại Hà Nội đã tuyên giữ
nguyên hình phạt tử hình đối với Ông Dũng và Ông Phúc. TAND Thành phố
Hồ Chí Minh có áp dụng hình phạt tử hình đối với Ông Vũ Quốc Hảo và Ông
Đặng Văn Hai về Tội tham ô tài sản trong vụ án xảy ra tại Công ty Cho thuê tài
chính II - Agribank và cũng đang trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm.
Như vậy, về mặt thực tiễn việc áp dụng hình phạt tử hình đối với
nhóm các tội xâm phạm trật tự về kinh tế và các tội phạm về chức vụ ở Việt
Nam trong những năm vừa qua là rất ít so với tổng số các tội phạm nói chung
và nhóm các tội phạm tương ứng nói riêng.
1.3.3. Xu hƣớng quốc tế về hình phạt tử hình
Sau khi Tuyên ngôn nhân quyền được Liên hợp quốc thông qua
năm 1948, chỉ có 14 nước đã bãi bỏ án tử hình và 7 trong số đó đã bãi bỏ
án tử hình cho tất các loại tội phạm mà phần lớn là các nước Nam Mỹ. 7
quốc gia trong cộng đồng Châu Âu đã bãi bỏ án tử hình đối với tội giết
người và một số loại tội phạm khác, nhưng vẫn áp dụng đối với tội phản
quốc và một số tội phạm chiến tranh. Đến năm 1966, Công ước Quốc tế về
các Quyền Dân sự và Chính trị được thông qua bởi Đại hội đồng Liên hợp
37
quốc thì vẫn chỉ có 26 quốc gia xóa bỏ hình phạt tử hình ra khỏi hệ thống
hình phạt của mình [42].
Những năm 1970 trở lại đây, xu hướng xóa bỏ hình phạt tử hình ở các
quốc gia trên thế giới ngày càng gia tăng rõ nét. Trong thập niên 1970, trên
thế giới có thêm 07 quốc gia xóa bỏ hình phạt tử hình, thập niên 1980 có 11
quốc gia; đến thập niên 1990, con số này tăng lên là 34 quốc gia (riêng năm
1990 có 9 quốc gia) và từ năm 2000 đến tháng 8/2006, có 15 quốc gia xóa bỏ
hình phạt tử hình. Sở dĩ từ năm 1990 có sự gia tăng số lượng các quốc gia xóa
bỏ hình phạt tử hình, một phần vì năm 1989 Đại hội đồng Liên hợp quốc đã
thông qua Nghị định thư không bắt buộc thứ hai của Công ước quốc tế về các
quyền dân sự, chính trị và việc hủy bỏ án tử hình (tính đến ngày 20/9/2006,
Nghị định thư này đã có 58 quốc gia thành viên và 8 quốc gia đã ký nhưng
chưa phê chuẩn). Hơn nữa, phần lớn các quốc gia xóa bỏ hình phạt tử hình
trong thời kỳ này thuộc Liên minh Châu Âu, vì theo quy chế của Tổ chức này,
việc xóa bỏ hình phạt tử hình trong luật hình sự là một trong những tiêu chí
quan trọng để xét gia nhập. Vì vậy, sau năm 1990, một loạt các nước Đông Âu
trước đây khi gia nhập Liên minh Châu Âu đã xóa bỏ hình phạt tử hình (Croatia,
Cộng hòa Czech, Hungary, Cộng hòa Slovakia, Bulgaria, Moldova...). Hiến
chương về các quyền cơ bản của Liên minh Châu Âu năm 2000 tuyên bố:
"Nhân phẩm của con người là bất khả xâm phạm. Nó phải được tôn trọng và
bảo vệ" [76, Điều 1]; "Tất cả mọi người có quyền được sống, không ai có thể
bị kết án tử hình hoặc thi hành án tử hình" [76, Điều 2].
Theo báo cáo của Tổ chức Ân xá quốc tế (AI), tính đến ngày
06/8/2006, trên thế giới có 88/197 (45%) quốc gia và vùng lãnh thổ đã xóa bỏ
hình phạt tử hình đối với tất cả các tội phạm; 11/197 (6%) quốc gia xóa bỏ
hình phạt tử hình đối với các tội phạm thường, chỉ quy định hình phạt tử hình
đối với các tội phạm chiến tranh; 30/197 (15%) quốc gia tuy vẫn quy định
hình phạt tử hình trong luật hình sự nhưng từ năm 1999 đến nay không áp
38
dụng hình phạt tử hình trên thực tế; 68/197 (34%) quốc gia vẫn duy trì hình
phạt tử hình trong luật và áp dụng trên thực tế.
Gần đây nhất, cũng theo thống kê của Tổ chức Ân xá Quốc tế, cho đến
ngày 31/12/2013, đã có hơn 2/3 (140 quốc gia) đã xóa bỏ hình phạt tử hình
trong pháp luật hoặc trên thực tế, trong đó: 96 quốc gia đã bãi bỏ hình phạt tử
hình đối với tất cả các tội phạm, 09 quốc gia bãi bỏ hình phạt tử hình đối với
các tội phạm thông thường, 35 quốc gia bãi bỏ hình phạt tử hình trên thực tế.
Tổng số quốc gia đã bãi bỏ hình phạt tử hình tính tới hết ngày 31/12/2013 trên
toàn thế giới là 140 quốc gia, còn lại 58 quốc gia vẫn duy trì và áp dụng hình
phạt tử hình [70].
Tại châu Âu, tất cả các quốc gia đã bỏ hình phạt tử hình, trừ
Belarus [64]. Tại châu Mỹ, chỉ còn Mỹ và Saint Kitts and Nevis là hai nước
còn duy trì hình phạt tử hình [65]. Trong số các nền dân chủ tiên tiến trên
thế giới, chỉ còn lại Mỹ, Nhật Bản và Hàn Quốc giữ hình phạt từ hình. Tại
Mỹ, mỗi bang có bộ luật riêng và trong số đó có Bang đã bỏ hình phạt tử
hình và có bang vẫn duy trì hình phạt tử hình. Hiện tại có 18/50 bang đã bỏ
hình phạt tử hình [72].
Tại Châu Á, Philippines, Nepal, Papua New Guinea, và Gambia là
bốn nước đã bỏ hình phạt tử hình nhưng sau đó đã khôi phục lại. Hai nước
Philippines và Nepal, sau khi khôi phục hình phạt, đã bỏ hình phạt lần nữa.
Hai nước còn lại không có vụ hành quyết nào kể từ sau khi hình phạt được
khôi phục [76], và trên thực tế Brunei, Maldives, Sri Lanka, Lào, Myanmar và
Hàn Quốc cũng là các quốc gia đã bãi bỏ hình phạt tử hình.
Tại khu vực Đông Nam Á hiện nay chỉ còn Indonesia, Malaysia,
Singapore, Thái Lan và Việt Nam là những quốc gia vẫn đang thực thi hình
phạt này. Ngoài trừ Việt Nam là quốc gia hiện nay chưa có con số thống kê
về việc đã thực thi bao nhiêu hình phạt tử hình, thì không có quốc gia nào kể
39
trên hiện nay vẫn đang thực thi một số lượng đáng kể các vụ hành quyết
hàng năm. Cả Thái Lan và Việt Nam bỏ phiếu trắng tại Đại Hội đồng Liên
hợp quốc về việc giải quyết lệnh tạm ngừng các vụ hành quyết vào tháng
12/2010 và Thái Lan là quốc gia thực thi vụ hành quyết cuối cùng năm
2009. Singapore vào giữa những năm 1990 là nước có tỷ lệ hành quyết cao
nhất trên thế giới tính theo đầu người, tuy nhiên con số này giảm xuống chỉ
còn 1 người năm 2009 và không có trường hợp tử hình nào năm 2010.
Indonesia không thực thi bất kỳ vụ hành quyết nào kể từ sau khi 10 người bị
xử tử năm 2008 [76].
Biểu đồ 1.1: Các quốc gia có số vụ hành quyết cao nhất trong năm 2009
Nguồn: Tổ chức Ân xá quốc tế.
Nhiều nước trong các nước bỏ hình phạt tử hình đã có quy định cấm
hình phạt trong Hiến pháp. Theo một báo cáo của AI đưa ra vào ngày
04/4/2005, có ít nhất 42 nước đã đưa vào Hiến pháp quy định cấm hình phạt
tử hình [59].
Thống kê những năm gần đây của AI, cũng cho thấy tại các nước còn
giữ hình phạt tử hình, số các vụ hành quyết được thực thi cũng đã có chiều
hướng giảm dần tại nhiều nước.
40
Bảng 1.2: Thống kê án tử hình tại một số nước trên thế giới
từ năm 2007 đến năm 2012
Một số quốc gia
áp dụng
Số vụ hành quyết
2007 2008 2009 2010 2011 2012
Bangladesh 6+ 5 3+ 9+ 5+ 1
Trung Quốc 470+ 1718+ 1000+ 1000+ 1000+ 1000+
Ai Cập 0+ 2+ 5+ 4 1+ 0
Iran 317+ 346+ 388+ 252+ 360+ 314+
Iraq 33+ 34+ 120+ 1+ 68+ 129+
Nhật Bản 9 15 7 2 0 7
Libya 9+ 8+ 4+ 18+ 0 5+
Malaysia 0+ 1+ 0+ 1+ 0 0
Saudi Arabia 143+ 102+ 69+ 27+ 82+ 79+
Singapore 2 1+ 1 0+ 0+ 2+
Sudan 7+ 1+ 9+ 6+ 7+ 19+
Syria 7+ 1+ 8+ 17+ 0+ 0+
Thái Lan 0+ 0+ 2 0+ 0+ 0+
Hoa Kỳ 42 37 52 46 43 43
Việt Nam 25+ 19+ 9+ 0+ 5+ 0
Yemen 15+ 13+ 3+. 53+ 41+ 28+
Nguồn: Tổ chức Ân xá Quốc tế (AI).
Từ những viện dẫn và thống kê trên đây cho thấy số lượng các nước
loại bỏ hoàn toàn hình phạt tử hình ra khỏi hệ thống hình phạt, cũng như loại
bỏ trên thực tế đã tăng dần theo thời gian, đặc biệt số lượng loại bỏ tăng mạnh
trong những năm từ 1990 đến 2010. Điều đó cho thấy vấn đề đảm bảo quyền
được sống của con người và xu hướng loại bỏ hình phạt tử hình ra khỏi hệ
thống hình phạt chung của cộng đồng Quốc tế là một xu hướng tất yếu. Trong
số đó, có nhiều nước đã yêu cầu Việt Nam loại bỏ hình phạt tử hình ra khỏi hệ
thống pháp luật và đảm bảo các quyền con người tại phiên báo cáo của Việt Nam
tại Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc được thông qua ngày 12/5/2009 [74].
41
Tóm lại, hình phạt tử hình là một hình phạt chính, đồng thời là hình
phạt nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt. Những quy định về hình
phạt tử hình (từ các Bộ luật thời kỳ phong kiến đến trước khi ban hành BLHS
năm 1985) cho thấy hình phạt này xuất hiện rất sớm và xuyên suốt trong các
văn bản PLHS của Việt Nam. Cùng với sự phát triển của tiến trình lập pháp
hình sự Việt Nam, những quy định về hình phạt tử hình ngày càng hoàn thiện
hơn. Sự tiến bộ đó thể hiện ở các điều kiện áp dụng hình phạt được quy định
cụ thể, chặt chẽ hơn; phạm vi đối tượng bị áp dụng hình phạt ngày càng thu
hẹp và đặc biệt là luật hình hiện đại đã loại bỏ hoàn toàn những cách thức thi
hành hình phạt tử hình không chỉ gây đau đớn mà còn chà đạp lên nhân phẩm,
danh dự con người như pháp luật thời kỳ phong kiến.
Hình phạt tử hình mặc dù thể hiện mức độ nghiêm khắc tối đa song việc
quy định hình phạt này vẫn mang tính nhân đạo, trở thành một nguyên tắc
quan trọng của luật hình sự Việt Nam. Nguyên tắc này tiếp tục được phát triển
và mở rộng sau khi Quốc hội thông qua BLHS năm 1999 và Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều BLHS năm 2009. Trong tương lai phạm vi áp dụng và thi
hành hình phạt tử hình trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng sẽ được
thu hẹp và tiến tới xóa bỏ hoàn toàn. Để có thể thực hiện được hoạt động này,
tác giả xin được diễn giải một số cơ sở để loại bỏ hình phạt tử hình nói chung
và loại bỏ hình phạt tử hình đối với nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý
kinh tế và các tội phạm về chức vụ nói riêng tại Chương 2.
42
Chương 2
CƠ SỞ LOẠI BỎ HÌNH PHẠT TỬ HÌNH
TRONG CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ
VÀ CÁC TỘI PHẠM VỀ CHỨC VỤ Ở VIỆT NAM
2.1. CƠ SỞ QUYỀN CON NGƢỜI VÀ NGUYÊN TẮC NHÂN ĐẠO
TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
2.1.1. Nguyên tắc nhân đạo trong pháp luật Việt Nam
Theo Từ điển Triết học thì nhân đạo được hiểu là tổng hợp những
quan điểm thể hiện sự tôn trọng phẩm giá và quyền của con người, sự chăm lo
đến hạnh phúc, sự phát triển toàn diện, chăm lo đến việc tạo ra những điều
kiện sinh hoạt xã hội thuận lợi cho nó. Ở nước ta, tư tưởng nhân đạo luôn
được thể hiện rõ nét trong đường lối, chính sách của Đảng và được thể chế
hóa trong Hiến pháp, cũng như các văn bản pháp luật. Đối với luật hình sự
Việt Nam, tư tưởng nhân đạo được biểu hiện xuyên suốt trong hệ thống các
quy phạm PLHS, hình thành nên nguyên tắc nhân đạo XHCN. Điều này đã
được thể hiện rất rõ nét ngay trong các quy định của BLHS Việt Nam (Điều 35
BLHS năm 1999, quy định về quyền xin ân giảm theo quy định tại Khoản 1
Điều 258 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003).
Ngoài ra, trong hệ thống các quan điểm khoa học pháp lý, PGS. TSKH Lê
Cảm có quan điểm: "không được áp dụng hình phạt tử hình đối với người bị
kết án là phụ nữ, người chưa thành niên hoặc nam giới trên 70 tuổi" [8]. Tác
giả nhận thấy đây là một quan điểm rất nhân đạo và phù hợp với tình hình
kinh tế, chính trị, xã hội Việt Nam trong thời kỳ hiện nay và cần được xem
xét để đưa vào luật thực định.
Khi quyết định hình phạt nói chung, hình phạt tử hình nói riêng, Tòa
án không chỉ căn cứ vào quy định của BLHS mà còn cân nhắc tính chất và
43
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm
tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự. Do đó, khi một
người thực hiện hành vi đặc biệt nguy hiểm cho xã hội nhưng chưa đến mức
cần phải cách ly vĩnh viễn khỏi đời sống xã hội thì Tòa án sẽ không áp dụng
hình phạt tử hình. Ngoài những quy định của luật hình sự (nội dung) thì việc
áp dụng hình phạt tử hình còn phải tuân thủ một trình tự đặc biệt của luật tố
tụng hình sự (hình thức), để đảm bảo việc thực thi bản án được chính xác,
tránh làm oan người vô tội. Có thể nói rằng đây chính là những biểu hiện cụ
thể của tư tưởng nhân đạo. Tiến sĩ Hồ Sỹ Sơn đã từng có kết luận về mối
liên hệ giữa hình phạt tử hình với nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự
như sau:
Thứ nhất, tử hình là hình phạt trái với nội dung của nguyên
tắc nhân đạo trong luật hình sự, vì vậy, quan điểm bãi bỏ hình phạt
tử hình vốn xuất hiện ở Châu Âu vào các thế kỷ 17 và 18, ngày
càng mang tính phổ quát, trở thành xu hướng và chuẩn mực nhân
đạo mang tính toàn cầu bắt buộc chung.
Thứ hai, vì hình phạt tử hình, như đã nhấn mạnh là trái với
nội dung của nguyên tắc nhận đạo trong luật hình sự, nên việc bãi
bỏ loại hình phạt này là phù hợp với nguyên tắc nhân đạo nói
chung, với nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự nói riêng, hay nói
cách khác là đưa nhân đạo và nguyên tắc nhân đạo vào cuộc sống.
Thứ ba, do sự khác nhau về những điều kiện lịch sử cụ thể
của từng quốc gia, hay nói chính xác hơn là có sự khác nhau về cơ
sở kinh tế hạ tầng mà cốt lõi quyết định là lực lượng sản xuất của
mỗi quốc gia mà có quốc gia đã bãi bỏ hoàn toàn, có quốc gia vẫn
duy trì (mặc dù có xu hướng bỏ), song cũng có quốc gia đã bãi bỏ
lại tái áp dụng hình phạt tử hình (trường hợp của Philiphin)… Rõ
ràng việc bãi bỏ, duy trì hay tái áp dụng hình phạt tử hình chỉ có thể
44
giải thích được khi chúng ta thấy rằng cơ sở kinh tế hạ tầng mà cốt
lõi quyết định là lực lượng sản xuất của các quốc gia còn rất chênh
lệch. Đó chính là cơ sở để chúng ta có thể hiểu được tại sao có quốc
gia đã xóa bỏ hoàn toàn hình phạt tử hình, có quốc gia vẫn duy trì
và có quốc gia lại tái áp dụng nó.
Thứ tư, bởi tính không nhân đạo đối với người phạm tội của
hình phạt tử hình, mà các quốc gia đang duy trì hay tái áp dụng loại
hình phạt này đều có xu hướng giảm số lượng những tội phạm có
hình phạt tử hình, có quy định nhưng rất ít áp dụng bằng cách quy
định thêm những điều kiện thuộc về nhân thân người phạm tội,
thuộc về hành vi phạm tội… thông qua đó nhằm giảm đến mức tối
đa mức độ áp dụng loại hình nghiêm khắc này [44].
Xu hướng phát triển chung của PLHS ở nước ta cũng như các nước
khác trên thế giới là nguyên tắc nhân đạo ngày càng được đề cao và mở rộng.
Điều đó ảnh hưởng đến việc quy định và áp dụng hình phạt tử hình trong pháp
luật. Nếu như BLHS năm 1985 quy định hình phạt tử hình ở 44/209 điều luật
(Phần các tội phạm) thì BLHS năm 1999 chỉ còn 29/267 điều luật quy định
hình phạt này và trong lần sửa đổi BLHS năm 1999 vừa qua, số lượng tội
phạm còn duy trì hình phạt tử hình chỉ còn 22/273 điều luật. Việc giảm đáng
kể số lượng các điều luật có quy định hình phạt tử hình cho thấy rằng nguyên
tắc nhân đạo ngày càng được thể hiện rõ rệt hơn trong PLHS Việt Nam.
Ngoài ra, việc áp dụng hình phạt tử hình đối với một con người sẽ ảnh
hưởng trực tiếp tới cuộc sống, sinh hoạt và giá trị tinh thần của thân nhân
người phạm tội. Những đứa con sẽ mất cha, vợ mất chồng, cha mẹ mất con,…
đặc biệt bị cáo có thể là lao động chính trong gia đình. Việc tước bỏ mạng
sống của họ có thể dẫn đến hệ lụy kéo theo hàng loạt người khác rơi vào tình
cảnh túng quẫn, khổ cực và kéo theo hoàn cảnh đó là nguy cơ thế hệ tiếp theo
sẽ đi vào con đường phạm tội.
45
Có rất nhiều ý kiến tại Hội thảo khoa học Khoa luật - Đại học Quốc
gia Hà Nội "Nhận thức tác động của các quy định trong BLHS Việt Nam"
đồng tình và nhất trí với quan điểm áp dụng hình phạt tử hình với bất kỳ
người nào đều vi phạm nguyên tắc nhân đạo. Có quan điểm cho rằng:
Không áp dụng hình phạt tử hình đối với người từ đủ 70
tuổi trở lên, bởi những người từ 70 tuổi trở lên được coi là những
người già trong xã hội. Ở độ tuổi này, nhận thức và khả năng xử lý
tình huống của con người có thể không còn tốt như khi còn trẻ, khả
năng gây nguy hiểm cho xã hội của họ thông thường cũng không
cao. Việc bảo vệ quyền sống của họ là một phần tư tưởng bảo vệ
nhân quyền và đồng thời là sự thể hiện đạo lý truyền thống của con
người Việt Nam [31].
Trên thực tiễn áp dụng pháp luật Việt Nam, Tòa án chưa bao giờ áp
dụng hình phạt tử hình với người nào trên 70 tuổi.
Theo luận giải của Socrat, Platon, Pitago: "hãy dùng biện pháp khác
để cứu một con người" hay Nguyễn Trãi cũng có câu: "lấy nhân nghĩa mà
thắng hung tàn". Do đó, việc không áp dụng hình phạt tử hình đối với các tội
xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và tội phạm về chức vụ nói riêng, tiến tới
không áp dụng hình phạt tử hình nói chung cũng là phù hợp với tinh thần
nhân đạo của dân tộc Việt Nam đã lưu truyền từ ngàn đời và cũng là nguyên
tắc trong chính sách PLHS Việt Nam.
2.1.2. Vấn đề quyền con ngƣời
Trong bản tuyên ngôn thế giới về quyền con người được Đại hội đồng
Liên hợp quốc thông qua và tuyên bố theo Nghị quyết số 217A ngày
10/12/1948 có quy định rõ tại Điều 3: "Mọi người đều có quyền sống, quyền
tự do và an ninh cá nhân" và ngay trong Tuyên ngôn độc lập ngày 02/09/1945
khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa, Bác Hồ đã khẳng định: "Tất
cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền
46
không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống,
quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc" [29]. Hơn nữa tại Điều 71 Hiến
pháp năm 1992 cũng quy định: "Công dân có quyền bất khả xâm phạm về
thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân
phẩm" [36]. Tiếp tục kế thừa tinh thần này, Điều 19 Hiến pháp 2013 quy định:
"Mọi người có quyền sống . Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ .
Không ai bi ̣tước đ oạt tính mạng trái luật " [40], Khoản 1 Điều 20 Hiến pháp
2013 cũng quy định: "Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được
pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo
lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân
thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm" [40]. Do đó, việc áp dụng hình
phạt tử hình đối với bất kỳ con người nào cũng là xâm hại trực tiếp tới quyền
được sống của họ và đây là lý do cơ bản khiến 140 Quốc gia trên thế giới hiện
nay đã xóa bỏ hoàn toàn hình phạt tử hình trong hệ thống hình phạt của họ.
Điều 6 của Công ước quốc tế về những quyền dân sự và chính trị năm
1966 quy định:
1. Mọi người đều có quyền sống. Đây là một quyền bẩm
sinh được luật pháp bảo vệ. Không ai có thể bị tước đoạt quyền
sống một cách độc đoán.
2. Trong các quốc gia chưa bãi bỏ hình phạt tử hình, tòa án
chỉ được tuyên án tử hình đối với những tội hình sự nghiêm trọng
nhất chiếu theo luật pháp áp dụng trong thời gian phạm pháp và
không trái với những điều khoản của Công Ước này và của Công
Ước Ngăn Ngừa và Trừng Phạt Tội Diệt Chủng. Hình phạt tử hình
chỉ có thể được thi hành chiếu theo một bản án chung thẩm của một
tòa án có thẩm quyền.
4. Các bị cáo bị tuyên án tử hình có quyền xin ân xá hay ân
giảm hình phạt. Lệnh đại xá, ân xá hay ân giảm hình phạt có thể
được ban hành trong mọi trường hợp.
47
5. Án tử hình không được tuyên đối với các bị cáo chưa đủ
18 tuổi khi phạm pháp, và cũng không được thi hành đối với các
phụ nữ mang thai [52].
Tại Bình luận chung số 6 khuyến nghị của Ủy ban công ước Liên hợp
quốc nhận định: tuy các quy định trong Điều 6 cho thấy các quốc gia không
bắt buộc phải xóa bỏ hoàn toàn hình phạt tử hình, các quốc gia có nghĩa vụ
phải hạn chế sử dụng hình phạt này; cụ thể là chỉ sử dụng hình phạt này với
"những tội ác nghiêm trọng nhất". Theo đó, các quốc gia phải rà soát, sửa đổi
luật hình sự của nước mình theo hướng này và trong bất kỳ hoàn cảnh nào
cũng phải giới hạn việc áp dụng hình phạt tử hình với "những tội ác nghiêm
trọng nhất". Điều này cũng bao gồm gợi ý rõ ràng trong khoản 2 rằng việc
xóa bỏ hình phạt tử hình là đáng mong muốn. Ủy ban kết luận rằng tất cả các
biện pháp nhằm xóa bỏ hình phạt tử hình cần được các quốc gia cân nhắc
trong quá trình bảo đảm quyền sống nêu ở Điều 40, và cần được báo cáo với
Ủy ban. Ủy ban lưu ý rằng một số quốc gia đã xóa bỏ hình phạt tử hình hay
hoãn việc áp dụng nó.
Ủy ban ủng hộ các quan điểm cho rằng việc diễn giải cụm từ "những
tội ác nghiêm trọng nhất" phải được hiểu một cách nghiêm túc theo nghĩa
hình phạt tử hình chỉ nên là một biện pháp ngoại lệ. Cũng từ cách diễn đạt các
cụm từ ở Điều 6 cho thấy hình phạt này chỉ có thể được áp dụng theo quy
định pháp luật đang có hiệu lực pháp luật tại thời điểm phạm tội và không đi
ngược lại với các quy định khác của công ước.
Cũng có ý kiến cho rằng:
Suy cho cùng, một người khi đã thực hiện một tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng, tức người đó đã đem quyền sống của mình ra
đánh đổi vì anh ta nhận thức được rằng, hành vi của mình đã tước đi
bao nhiêu mạng sống của đồng loại. Vì thế, trong trường hợp này,
không ai vi phạm quyền sống của bị cáo mà chính bị cáo đã tự
khước từ quyền được sống của mình [4].
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế

More Related Content

What's hot

Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hìnhLuận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hìnhDịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

What's hot (20)

Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hìnhLuận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
 
Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Luật
Luận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo LuậtLuận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Luật
Luận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Luật
 
Luận văn: Vấn đề để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình, HOT
Luận văn: Vấn đề để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình, HOTLuận văn: Vấn đề để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình, HOT
Luận văn: Vấn đề để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình, HOT
 
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam ĐịnhLuận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
 
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại Quảng Ninh
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại Quảng NinhLuận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại Quảng Ninh
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại Quảng Ninh
 
Luận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOT
Luận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOTLuận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOT
Luận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOT
 
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hotluan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
 
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAYLuận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOTLuận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tội giết người trong pháp luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội giết người trong pháp luật hình sự Việt Nam, HAYLuận văn: Tội giết người trong pháp luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội giết người trong pháp luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sựLuận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng NaiLuận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
 
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sựLuận văn: Tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự
 
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
 
Đề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
Đề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOTĐề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
Đề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
 
Đề tài: Vai trò của Thẩm phán Toà án trong hoạt động xét xử, HAY
Đề tài: Vai trò của Thẩm phán Toà án trong hoạt động xét xử, HAYĐề tài: Vai trò của Thẩm phán Toà án trong hoạt động xét xử, HAY
Đề tài: Vai trò của Thẩm phán Toà án trong hoạt động xét xử, HAY
 
Luận văn: Tái thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT, HAY
Luận văn: Tái thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT, HAYLuận văn: Tái thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT, HAY
Luận văn: Tái thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT, HAY
 
Luận án: Giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở nước ta, HAY
Luận án: Giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở nước ta, HAYLuận án: Giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở nước ta, HAY
Luận án: Giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở nước ta, HAY
 
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOTLuận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
 

Similar to Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế

Luận văn: Xóa án tích theo pháp luật hình sự tỉnh Phú Thọ, HAY - Gửi miễn phí...
Luận văn: Xóa án tích theo pháp luật hình sự tỉnh Phú Thọ, HAY - Gửi miễn phí...Luận văn: Xóa án tích theo pháp luật hình sự tỉnh Phú Thọ, HAY - Gửi miễn phí...
Luận văn: Xóa án tích theo pháp luật hình sự tỉnh Phú Thọ, HAY - Gửi miễn phí...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật trong luật hình sự Việt Nam.pdf
Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật trong luật hình sự Việt Nam.pdfTội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật trong luật hình sự Việt Nam.pdf
Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật trong luật hình sự Việt Nam.pdfTieuNgocLy
 

Similar to Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế (20)

Luận văn: Hình phạt cảnh cáo theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt cảnh cáo theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Hình phạt cảnh cáo theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt cảnh cáo theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docxNguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
 
Luận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo luật, HOT
Luận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo luật, HOTLuận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo luật, HOT
Luận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo luật, HOT
 
Luận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo Luật hình sự
Luận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo Luật hình sựLuận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo Luật hình sự
Luận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo Luật hình sự
 
Luận văn: Chế định án tích trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Chế định án tích trong luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Chế định án tích trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Chế định án tích trong luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Vấn đề về chế định án tích trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Vấn đề về chế định án tích trong luật hình sự, HAYLuận văn: Vấn đề về chế định án tích trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Vấn đề về chế định án tích trong luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HAYLuận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAYĐề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam - vấn đề lý luận và thực tiễn
Lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam - vấn đề lý luận và thực tiễnLỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam - vấn đề lý luận và thực tiễn
Lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam - vấn đề lý luận và thực tiễn
 
Luận văn: Xóa án tích theo pháp luật hình sự tỉnh Phú Thọ, HAY - Gửi miễn phí...
Luận văn: Xóa án tích theo pháp luật hình sự tỉnh Phú Thọ, HAY - Gửi miễn phí...Luận văn: Xóa án tích theo pháp luật hình sự tỉnh Phú Thọ, HAY - Gửi miễn phí...
Luận văn: Xóa án tích theo pháp luật hình sự tỉnh Phú Thọ, HAY - Gửi miễn phí...
 
Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án xâm phạm tính mạng con người
Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án xâm phạm tính mạng con ngườiThẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án xâm phạm tính mạng con người
Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án xâm phạm tính mạng con người
 
Luận văn: Nguyên tắc xử lý về hình sự trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc xử lý về hình sự trong luật hình sự Việt NamLuận văn: Nguyên tắc xử lý về hình sự trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc xử lý về hình sự trong luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Nguyên tắc xử lý về hình sự trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Nguyên tắc xử lý về hình sự trong luật hình sự, HAYLuận văn: Nguyên tắc xử lý về hình sự trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Nguyên tắc xử lý về hình sự trong luật hình sự, HAY
 
Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật trong luật hình sự Việt Nam.pdf
Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật trong luật hình sự Việt Nam.pdfTội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật trong luật hình sự Việt Nam.pdf
Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật trong luật hình sự Việt Nam.pdf
 
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sựBiện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật hình sự việt nam
Luận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật hình sự việt namLuận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật hình sự việt nam
Luận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật hình sự việt nam
 
Luận văn: Các hình phạt chính không tước tự do tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Các hình phạt chính không tước tự do tỉnh Đồng NaiLuận văn: Các hình phạt chính không tước tự do tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Các hình phạt chính không tước tự do tỉnh Đồng Nai
 
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tùQuyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
 
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAYLuận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docDịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgsNmmeomeo
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfNguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảohoanhv296
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanmyvh40253
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...hoangtuansinh1
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhdtlnnm
 
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh choCD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh chonamc250
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-KhnhHuyn546843
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxNhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxhoangvubaongoc112011
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢImyvh40253
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 

Recently uploaded (20)

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh choCD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxNhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 

Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế

  • 1. 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN VĂN THÁI VẤN ĐỀ LOẠI BỎ HÌNH PHẠT TỬ HÌNH TRONG CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ VÀ CÁC TỘI PHẠM VỀ CHỨC VỤ LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014
  • 2. 2 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN VĂN THÁI VẤN ĐỀ LOẠI BỎ HÌNH PHẠT TỬ HÌNH TRONG CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ VÀ CÁC TỘI PHẠM VỀ CHỨC VỤ Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Khắc Hải Hà nội - 2014
  • 3. 3 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Nguyễn Văn Thái
  • 4. 4 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng Danh mục các biểu đồ MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÌNH PHẠT TỬ HÌNH 6 1.1. Khái niệm và mục đích hình phạt tử hình 6 1.1.1. Khái niệm hình phạt tử hình 6 1.1.2. Mục đích hình phạt tử hình 10 1.2. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển luật hình sự Việt Nam về hình phạt tử hình 11 1.2.1. Giai đoạn sau Cách mạng tháng 8/1945 đến trước khi pháp điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật hình sự năm 1985 12 1.2.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước khi ban hành Luật sửa đổi bổ sung Bộ luật hình sự năm 2009 17 1.3. Thực trạng về hình phạt tử hình tại Việt Nam hiện nay và xu hướng quốc tế về hình phạt tử hình 20 1.3.1. Thực trạng pháp luật về hình phạt tử hình tại Việt Nam hiện nay 20 1.3.2. Thực trạng áp dụng hình phạt tử hình tại Việt Nam hiện nay 27 1.3.3. Xu hướng quốc tế về hình phạt tử hình 28
  • 5. 5 Chương 2: CƠ SỞ LOẠI BỎ HÌNH PHẠT TỬ HÌNH TRONG CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ VÀ CÁC TỘI PHẠM VỀ CHỨC VỤ Ở VIỆT NAM 34 2.1. Cơ sở quyền con người và nguyên tắc nhân đạo trong pháp luật hình sự 34 2.1.1. Nguyên tắc nhân đạo trong pháp luật Việt Nam 34 2.1.2. Vấn đề quyền con người 37 2.1.3. Vấn đề oan sai khi áp dụng - thi hành hình phạt tử hình 41 2.2. Các cơ sở phòng ngừa tội phạm 48 2.2.1. Mục đích của hình phạt tử hình 48 2.2.2. Những nét đặc thù của nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và tội phạm về chức vụ 54 2.2.3. Hệ thống hình phạt đang áp dụng đối với các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và các tội phạm về chức vụ 60 2.2.4. Các biện pháp phòng ngừa tội phạm ngoài hình phạt 61 2.3. Cơ sở trách nhiệm nhà nước - xã hội và hội nhập quốc tế của Việt Nam 62 2.3.1. Nâng cao trách nhiệm của Nhà nước và xã hội đối với quản lý xã hội và người phạm tội 62 2.3.2. Xu hướng hội nhập quốc tế của Việt Nam về loại bỏ hình phạt tử hình 64 Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ VẤN ĐỀ LOẠI BỎ HÌNH PHẠT TỬ HÌNH TRONG CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ VÀ CÁC TỘI PHẠM VỀ CHỨC VỤ 67 3.1. Kiến nghị về hoàn thiện hệ thống hình phạt trong Bộ luật hình sự 67 3.1.1. Hình phạt chính 67
  • 6. 6 3.1.2. Hình phạt bổ sung 71 3.2. Kiến nghị về hoạt động áp dụng hình phạt tử hình 77 3.2.1. Giữ quy định hình phạt tử hình trong hệ thống hình phạt, có thể áp dụng nhưng không tiến hành thi hành án 78 3.2.2. Giữ quy định hình phạt tử hình trong hệ thống hình phạt, nhưng không áp dụng 80 3.2.3. Loại bỏ quy định hình phạt tử hình theo lộ trình đối với từng tội danh và nhóm tội 80 3.3. Một số kiến nghị khác 83 3.3.1. Kiến nghị về hoạt động phòng ngừa tội phạm - trách nhiệm của xã hội; phòng ngừa tội phạm từ góc nhìn tôn giáo và nâng cao nhận thức pháp luật của nhân dân 83 3.3.2. Kiến nghị về hoạt động kiểm tra, kiểm soát, luân chuyển trong hoạt động công tác 89 3.3.3. Kiến nghị về hoạt động thay thế hình phạt cùng khung hình phạt qua quyết định của Hội đồng xét xử 91 KẾT LUẬN 93 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 95
  • 7. 7 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật hình sự PLHS : Pháp luật hình sự TAND : Tòa án nhân dân TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao XHCN : Xã hội chủ nghĩa
  • 8. 8 DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang 1.1 Thống kê án và số bị cáo bị áp dụng hình phạt tử hình trong các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và tội phạm về chức vụ 27 1.2 Thống kế án tử hình tại một số nước trên thế giới từ năm 2007 đến năm 2012 32 DANH MỤC CÁC BIỀU ĐỒ Số hiệu biểu đồ Tên biểu đồ Trang 1.1 Các quốc gia có số vụ hành quyết cao nhất trong năm 2009 31
  • 9. 9 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trên cơ sở điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, tình hình tội phạm ở Việt Nam trong những năm qua và dự báo trong thời gian tiếp theo, ngày 02/06/2005 Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành Nghị quyết 49/NQ-TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 trong đó nêu rõ định hướng chính sách hình sự của chúng ta: duy trì hình phạt tử hình nhưng "hạn chế áp dụng hình phạt tử hình theo hướng chỉ áp dụng đối với một số ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng" [16]. Đây là một chủ trương đúng đắn, phù hợp với điều kiện của nước ta và xu hướng giảm dần tới mức tối đa áp dụng hình phạt tử hình, tiến tới xóa bỏ hoàn toàn hình phạt tử hình là xu hướng chung thế giới. Trước những quan tâm của quốc tế và thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng, ngày 19/06/2009 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Bộ luật hình sự (BLHS) 1999, trong đó đã loại bỏ hình phạt tử hình ra khỏi chế tài của 08 tội danh đang được quy định và bổ sung 01 tội danh có khung hình phạt cao nhất là tử hình (Điều 230a - Tội khủng bố). Theo đó, số tội danh còn giữ lại hình phạt tử hình trên tổng số các tội danh tại Phần các tội phạm của BLHS là 22/276 điều luật, chiếm tỷ lệ 7,97%. Ngày 12/11/2013, Việt Nam trúng cử thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc với số phiếu tán thành cao nhất trong số 14 nước cùng được bỏ phiếu. Đáp ứng những yêu cầu của quốc tế và biến chuyển của đất nước, ngày 28/11/2013, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp mới, trong đó đề cao quyền con người, quyền công dân khi chuyển từ Chương V Hiến pháp 1992 thành Chương II của Hiến pháp 2013. Theo đó, những quyền cơ bản của con người được pháp luật ghi nhận rất rõ và bảo hộ, cụ thể Hiến pháp 2013 đã ghi nhận rõ: "Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ …" [40, Điều 19].
  • 10. 10 Với những thay đổi hiến định về quyền con người, kinh tế, xã hội …, ngày 15/03/2014 Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã chủ trì Hội nghị toàn quốc tổng kết thi hành BLHS năm 1999, tại đây các đại biểu đại diện Lãnh đạo Bộ, Ngành, Ủy ban nhân dân đã có các ý kiến tham luận tổng kết và đề xuất, kiến nghị sửa đổi, bổ sung BLHS, đặc biệt cùng có quan điểm: "Cần nghiên cứu bỏ một số tội tử hình thể hiện chính sách nhân đạo, khoan hồng của Đảng, Nhà nước và đáp ứng tính nhân đạo chung của thế giới" [6]. Xuất phát từ những yêu cầu cấp thiết về lý luận khoa học và tổng hợp thông tin thực tiễn nhằm bảo vệ quyền con người; thực tiễn công tác về phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm; truyền thống văn hóa nhân đạo của dân tộc; yêu cầu thực thi những cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết và yêu cầu hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung toàn diện BLHS Việt Nam, tại luận văn này, tác giả đi sâu và nghiên cứu những cơ sở để loại bỏ hình phạt tử hình ra khỏi nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và tội phạm về chức vụ. Cụ thể, với đề tài: "Vấn đề loại bỏ hình phạt tử hình trong các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và các tội phạm về chức vụ". 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Dưới góc độ khoa học pháp lý, trong thời gian qua đã có rất nhiều diễn đàn, hội thảo, công trình nghiên cứu về hình phạt tử hình, áp dụng và thi hành hình phạt tử hình. Đề tài loại bỏ hình phạt tử hình cũng đã được bàn luận, phân tích rất nhiều trong thời gian soạn thảo, lấy ý kiến đóng góp dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS 1999 như: Một số vấn đề về hình phạt tử hình và thi hành hình phạt tử hình - thực trạng và giải pháp, Đề tài khoa học cấp Bộ, do Bộ Tư pháp chủ trì, năm 2003; Hội thảo Việt Nam - EU về án tử hình, Bộ Ngoại Giao Việt Nam, Liên minh Châu Âu và Viện Nhân quyền Đan Mạch đồng tổ chức năm 2004; Hình phạt tử hình trong luật hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Phạm Văn Beo, năm 2007; Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hình phạt tử hình trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trần Thu Huyền, năm 2004; Hội thảo khoa học:
  • 11. 11 Vấn đề giới hạn hình phạt án tử hình trong một số tội phạm tại Việt Nam, Viện Nhà nước và Pháp luật tổ chức năm 2008; Tờ trình số 155/TTr-CP ngày 09/10/2008 của Chính phủ về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 1999 gửi tới Quốc hội; Hội thảo khoa học: Nhận thức tác động của các quy định trong Bộ luật hình sự Việt Nam, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức năm 2011. Hội nghị toàn quốc tổng kết thi hành BLHS năm 1999 do Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc trực tiếp tham gia chỉ đạo. Tuy nhiên, đa số các tài liệu này chỉ đề cập một cách khái quát, tổng kết lại những vấn đề lý luận chung về hình phạt tử hình và kiến nghị, đề xuất loại bỏ hình phạt tử hình đối với từng tội phạm riêng rẽ, mà chưa đưa ra được các cơ sở, căn cứ toàn diện cho việc loại bỏ hình phạt tử hình nói chung, cũng như loại bỏ tử hình trong các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và các tội phạm về chức vụ nói riêng. Chính vì vậy, việc chọn đề tài "Vấn đề loại bỏ hình phạt tử hình trong các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và các tội phạm về chức vụ" làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ luật học là rất có ý nghĩa, có thể phục vụ cho việc học tập, nghiên cứu khoa học, cũng như công tác thực tiễn, đáp ứng một phần yêu cầu của Hội nghị toàn quốc tổng kết thi hành BLHS năm 1999 và tạo tiền đề lý luận cho hoạt động tiến tới xóa bỏ hoàn toàn hình phạt tử hình trong tương lai. 3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Việc nghiên cứu luận văn nhằm làm sáng tỏ nguyên nhân, điều kiện hình thành, cơ sở khoa học, cơ sở thực tiễn, xu hướng áp dụng hình phạt tử hình của các nước trên thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng đối với các tội phạm có tính chất kinh tế và chức vụ. Qua đó, đưa ra, phân tích tổng thể những cơ sở có tính thuyết phục nhằm "loại bỏ hình phạt tử hình trong các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và các tội phạm về chức vụ".
  • 12. 12 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Trên cơ sở các vấn đề lý luận và thực tiễn của "Vấn đề loại bỏ hình phạt tử hình trong các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và các tội phạm về chức vụ", luận văn sẽ đi sâu làm sáng tỏ các vấn đề sau: - Phân tích và làm sáng tỏ một số vấn đề chung về hình phạt tử hình; thực trạng pháp luật về hình phạt tử hình và thực trạng áp dụng hình phạt tử hình về các tội xâm phạm trật tử quản lý kinh tế và tội phạm về chức vụ tại Việt Nam; Xu hướng quốc tế về hình phạt tử hình; - Phân tích những cơ sở lý luận và thực tiễn của việc loại bỏ hình phạt tử hình đối với các tội phạm có tính chất kinh tế và chức vụ ở Việt Nam; - Phân tích một số kiến nghị về pháp luật, xây dựng bộ máy Nhà nước, nâng cao nhận thức pháp luật của nhân dân khi loại bỏ hình phạt tử hình đối với các tội phạm có tính chất kinh tế và chức vụ ở Việt Nam. 3.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Với mục đích và nhiệm vụ nêu trên, luận văn có đối tượng và phạm vi nghiên cứu là một số vấn đề lý luận chung về hình phạt tử hình, thực trạng hình phạt tử hình tại Việt Nam và những cơ sở lý luận và thực tiễn để loại bỏ hình phạt tử hình đối với nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và các tội phạm về chức vụ. Những vấn đề này được nghiên cứu trên cơ sở khoa học pháp lý về pháp luật hình sự (PLHS), quy định của BLHS, các quan điểm về chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước, cũng như thực tiễn áp dụng hình phạt này tại Việt Nam trong mối tương quan với xu hướng chung của các nước trên thế giới. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Để đạt được những mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu trên, luận văn sử dụng các phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.
  • 13. 13 Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học như: So sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê, suy luận lôgic v.v… 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 5.1. Về mặt khoa học - Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên đi sâu nhằm kiến nghị loại bỏ hoàn toàn hình phạt tử hình ra khỏi hai nhóm tội của BLHS. - Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể góp phần làm rõ thêm các quan điểm lý luận khoa học về định hướng xóa bỏ hay không xóa hình phạt tử hình trong hệ thống PLHS Việt Nam. - Ngoài ra luận văn còn có thể dùng làm tài liệu tham khảo, phục vụ cho việc nghiên cứu, học tập khoa học luật hình sự. 5.2. Về mặt thực tiễn Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể là nhưng ý kiến hữu ích trong hoạt động lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng PLHS trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm, cũng như giáo dục, cải tạo người phạm tội ở nước ta hiện nay. Đồng thời, đây cũng là tài liệu tham khảo hữu ích đối với các luật gia quan tâm đến những đề tài tương tự. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về hình phạt tử hình. Chương 2: Cơ sở loại bỏ hình phạt tử hình trong các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và các tội phạm về chức vụ ở Việt Nam. Chương 3: Một số kiến nghị về vấn đề loại bỏ hình phạt tử hình trong các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và các tội phạm về chức vụ.
  • 14. 14 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÌNH PHẠT TỬ HÌNH 1.1. KHÁI NIỆM VÀ MỤC ĐÍCH HÌNH PHẠT TỬ HÌNH 1.1.1. Khái niệm hình phạt tử hình Tử hình là một loại hình phạt truyền thống, có từ lâu đời. Thuật ngữ hình phạt tử hình có tên tiếng Anh là "death penalty" hay là "capital punishment". Trong tiếng Pháp hình phạt này có tên "peine de mort" hay còn gọi là "peine capitale"; trong tiếng Đức nó có tên gọi là "todesstrafe". "Capital punishment" có nguồn gốc từ capitalis (tiếng Latin) trong đó có gốc của từ kaput, có nghĩa là đầu, là một hình phạt mà khi áp dụng, người bị áp dụng sẽ bị mất đầu. Vì thế, hình phạt tử hình lúc khởi thủy, ở phương Tây, người ta thường dùng để chỉ hình phạt chém đầu. Còn theo Từ điển Lịch sử chế độ chính trị Trung Quốc, "tử" ở đây được hiểu là chết, "hình" là hình phạt tội, bao gồm chữ "tỉnh" (giếng) và chữ "đao" (dao) ghép lại. Từ đó, có thể hiểu tử hình là hình phạt giết chết bằng cách thả xuống giếng hoặc chém bằng đao. Theo Từ điển tiếng Việt "tử hình" là "hình phạt phải chịu tội chết" [32]. Điều 35 BLHS 1999 quy định về hình phạt tử hình như sau: Tử hình là hình phạt đặc biệt chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, nhằm tước bỏ mạng sống của người phạm tội. Không áp dụng hình phạt tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội, đối với phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi bị xét xử. Không thi hành án tử hình đối với phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi. Trong trường hợp này hình phạt tử hình chuyển thành tù chung thân. Trong trường hợp người bị kết án tử hình được ân giảm, thì hình phạt tử hình chuyển thành tù chung thân [37].
  • 15. 15 Theo quan điểm của một số nhà nghiên cứu khoa học pháp lý thì tử hình còn được hiểu là: "hình phạt đặc biệt, nghiêm khắc nhất trong tất cả các loại hình phạt và chỉ được quyết định trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhằm tước bỏ sinh mạng của người bị kết án về tội đặc biệt nghiêm trọng theo quy định của pháp luật hình sự" [24], [9]. * Đặc điểm Từ các định nghĩa về hình phạt tử hình trên đây, chúng ta có thể hiểu hình phạt tử hình có các đặc điểm cơ bản sau đây: Thứ nhất: Là hình phạt nghiêm khắc nhất. Tử hình là hình phạt duy nhất tước đoạt trực tiếp đối với quyền được sống của người bị kết án theo Bản án có hiệu lực pháp luật. Do đó, hình phạt tử hình chỉ có tác dụng trừng trị, răn đe và phòng ngừa, mà không thể giáo dục, cải tạo đối với người phạm tội bị thi hành hình phạt này. Hình phạt tử hình có vẻ như mâu thuẫn với nguyên tắc nhân đạo - nguyên tắc xuyên suốt của Hiến pháp và pháp luật Việt Nam nhưng thực chất hình phạt này vẫn đáp ứng được tính nhân đạo, thể hiện ở khía cạnh xã hội của nó, đó là tác dụng răn đe, phòng ngừa người khác phạm tội. Nhưng, đối với chính người thực hiện hành vi tội phạm thì đại đa số ý kiến vẫn cho rằng là vô nhân đạo, vi phạm quyền con người. Thứ hai: Là hình phạt được quy định trong BLHS. Giống như các hình phạt khác, tử hình là hình phạt được quy định trong BLHS - thể hiện tính hợp pháp và pháp chế của loại hình phạt này. Việc quy định này, được thể hiện rõ ở Điều 26 và Điều 35 BLHS hiện hành. Đồng thời, hình phạt tử hình được quy định cụ thể tại mỗi điều luật, tương ứng với mỗi tội danh có thể áp dụng như: Điều 78, khoản 1 - Tội phản bội tổ quốc; Điều 79, khoản 1 - Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, Điều 80, khoản 1- Tội gián điệp v.v... Thứ ba: Là hình phạt chỉ do Tòa án nhân danh Nhà nước áp dụng. Đặc điểm này được quy định rõ ở Điều 26 BLHS 1999: "Hình phạt do Tòa án
  • 16. 16 quyết định" [37]. Ngoài Tòa án, không có bất cứ cơ quan nhà nước có thẩm quyền nào khác được phép quyết định áp dụng hình phạt tử hình với người phạm tội và chỉ khi Chủ tịch nước xem xét để ân xá cho người bị kết án tử hình theo quy định của pháp luật thì người đó mới không phải chịu hình phạt này. Thứ tư: Tước bỏ hoàn toàn khả năng tái phạm hay khắc phục hậu quả của người phạm tội. Khi một người bị áp dụng thi hành hình phạt tử hình thì đương nhiên người này không thể tái phạm ở bất kỳ tình huống nào và bản thân họ cũng không thể tự mình khắc phục đối với những hậu quả đặc biệt nghiêm trọng mà mình đã gây ra, mặc dù có thể họ đã rất hối hận và mong muốn khắc phục hậu quả. Việc khắc phục hậu quả đối với những trường hợp này, thường được thực hiện trước khi thi hành hình phạt, thậm chí trước khi Tòa án án tuyên án và thường được thân nhân của người bị kết án thực hiện nhằm mục đích tạo tình tiết giảm nhẹ cho người thân của mình và cũng giảm bớt mặc cảm tội lỗi cho người đã thực hiện hành vi phạm tội gây ra hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. * Bản chất Trước hết, khi nghiên cứu hình phạt tử hình, tác giả nhận thấy hình phạt tử hình mang bản chất giai cấp sâu sắc. Từ hình là một trong những hình phạt có lịch sử phát triển lâu dài trong quá trình phát triển của xã hội có phân chia giai cấp, tồn tại, đồng hành và phát triển cùng với sự phát triển của Nhà nước và Pháp luật. Tử hình được sử dụng như một công cụ để đấu tranh với các loại tội phạm khác nhau nhằm bảo vệ chế độ xã hội, bảo vệ hệ thống chính trị của mỗi Nhà nước nhất định. Hình phạt tử hình tồn tại và phát triển khách quan cùng với Pháp luật và Nhà nước qua mỗi thời kỳ lịch sử nhằm bảo vệ, duy trì quyền lực của giai cấp thống trị trong xã hội. Điều này được thể hiện ở mỗi hình thái kinh tế - xã hội có giai cấp đều có một hệ thống hình phạt tương ứng. Bản chất, nội dung và vai trò của hình phạt, của hệ thống hình phạt nói chung, của từng hình phạt nói riêng do các điều kiện kinh tế,
  • 17. 17 chính trị, văn hóa, xã hội, hệ tư tưởng, đạo đức, lối sống của hình thái kinh tế - xã hội trong đó hình phạt tồn tại quyết định. Do đó, bản chất, nội dung và vai trò của hình phạt nói chung, của hình phạt tử hình nói riêng được thay đổi tùy thuộc vào sự thay đổi của các hình thái kinh tế xã hội, vào sự thay đổi trong quan điểm, cách nhìn nhận, đánh giá của các giai cấp thống trị. Dù hình phạt tử hình tồn tại trong xã hội nào đi nữa thì nó vẫn luôn luôn phản ánh các quan điểm của giai cấp thống trị trong xã hội đó về các biện pháp đấu tranh với tội phạm. Hình phạt tử hình bao giờ cũng xuất phát và dựa trên các quan điểm thống trị cơ bản trong xã hội. Mặt khác, hình phạt tử hình do các điều kiện xã hội, các quyền và lợi ích kinh tế, chính trị và các lợi ích khác của giai cấp thống trị quyết định và phù hợp với các lợi ích đó. Khi nói về hình phạt, C.Mác viết: "Hình phạt không phải là cái gì khác là biện pháp tự vệ của xã hội với những hành vi xâm phạm điều kiện tồn tại của nó, không kể đó là những điều kiện tồn tại như thế nào" [28]. Như vậy, C. Mác đã chỉ ra tính giai cấp sâu sắc của hình phạt, trong đó hình phạt tử hình là một trong những công cụ của giai cấp thống trị được dùng để đấu tranh với tội phạm. Tính giai cấp của hình phạt tử hình còn được thể hiện ở chỗ nó bảo vệ quyền và lợi ích của giai cấp thống trị. Giai cấp nào, Nhà nước nào quy định và áp dụng hình phạt tử hình cũng vì quyền và lợi ích của giai cấp đó. Trong xã hội Việt Nam hiện nay, hình phạt tử hình được quy định và áp dụng là nhằm bảo vệ lợi ích của nhân dân, dân tộc của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Khác với Nhà nước bóc lột, Nhà nước XHCN tiến hành đấu tranh với tội phạm bằng nhiều phương thức, nhiều biện pháp khác nhau: kinh tế, văn hóa, xã hội, tổ chức, giáo dục, pháp luật và kêu gọi rộng rãi quần chúng nhân dân cùng tham gia đầu tranh, bảo vệ trật tự của pháp luật. Trong xã hội Việt Nam hiện nay, hình phạt tử hình vẫn mang tính giai cấp, nhưng tính giai cấp của chúng ta có nhiều điểm khác biệt với tính giai cấp của hình phạt tử hình
  • 18. 18 trong các xã hội bóc lột, cụ thể xã hội ta hình phạt tử hình được quy định để bảo vệ thành quả và lợi ích của toàn thể nhân dân lao động. 1.1.2. Mục đích hình phạt tử hình Mục đích của hình phạt nói chung và hình phạt tử hình nói riêng là một trong những vấn đề quan trọng của lý luận về hình phạt. Trong lịch sử nhân loại đã từng có những quan điểm, quan niệm khác nhau về bản chất, nội dung và mục đích của hình phạt nói chung, của hình phạt tử hình nói riêng. Chúng ta có thể chia các quan niệm, quan điểm đó thành hai loại. Loại thứ nhất, coi hình phạt nói chung, hình phạt tử hình nói riêng là công cụ trả thù người phạm tội, đáp lại những hành vi vi phạm những quy tắc xử sự chung của người phạm tội. Loại quan điểm thứ hai coi hình phạt nói chung, hình phạt tử hình nói riêng là công cụ phòng ngừa tội phạm. Quan điểm thứ nhất, hình phạt là biện pháp được Nhà nước cho phép lấy oán trả oán, tương tự như giết người phải đền mạng, từ đó dẫn tới nỗi khiếp sợ của người phạm tội đối với sự trả thù, sự trừng trị đối với họ, khiến việc áp dụng các hình phạt cứng rắn trở lên rộng rãi như tử hình, tù chung thân, tù có thời hạn dài. Điều này được thể hiện rất rõ trong lịch sử các chế độ bóc lột qua các biện pháp nhục hình man rợ như tùng xẻo, voi dày, đóng cọc vào ruột, đánh bằng trượng, tứ mã phanh thây,... Quan niệm trên đã phai dần qua các thời kỳ phát triển của xã hội và nhường chỗ cho những học thuyết tiến bộ, nhân đạo hơn, khi các quan niệm này nhìn nhận hình phạt như một trong những biện pháp giáo dục, cải tạo người phạm tội, phòng ngừa tội phạm (phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung). Quan niệm đó là thành quả của sự phát triển vật chất và sự giải phóng về tinh thần của nhân loại. Khoa học luật hình sự, PLHS nước ta đã dựa trên cơ sở vững chắc của những thành tựu đó. Đồng thời đó cũng là nền tảng tư tưởng và lý luận cho việc xây dựng quan niệm về mục đích của hình phạt, trong đó có mục đích của hình phạt tử hình.
  • 19. 19 Mục đích của hình phạt tử hình là kết quả thực tế cuối cùng mà Nhà nước mong muốn đạt được khi quy định hình phạt tử hình đối với tội phạm và áp dụng hình phạt tử hình đối với cá nhân người phạm tội. Đối với Nhà nước ta, việc áp dụng hình phạt nói chung và hình phạt tử hình nói riêng không nhằm mục đích trừng trị là chủ yếu, mà nhằm mục đích ngăn ngừa người bị kết án phạm tội mới (phòng ngừa riêng) và ngăn ngừa người khác phạm tội (phòng ngừa chung). Nếu so sánh mối tương quan giữa mục đích phòng ngừa riêng và mục đích phòng ngừa chung của hình phạt tử hình, thì cần phải khẳng định rằng vai trò và chức năng chính của hình phạt tử hình là phòng ngừa riêng. Bởi lẽ các nguyên tắc của luật hình sự như: pháp chế XHCN, bình đẳng trước pháp luật, trách nhiệm cá nhân … không cho phép chúng ta lấy việc trừng trị người này là phương tiện chính để răn đe người khác, mà chỉ nhằm mục đích tuyên truyền, giáo dục và phổ biến rộng rãi trong xã hội về hậu quả của việc thực hiện tội phạm. 1.2. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ HÌNH PHẠT TỬ HÌNH Cùng với sự ra đời của Nhà nước, pháp luật xuất hiện là hiện tượng mang tính tất yếu khách quan với hai đặc tính: Là một phạm trù chủ quan (ý chí của giai cấp thống trị được đề lên thành luật) và nội dung của pháp luật được xác định bởi phạm trù khách quan (các điều kiện kinh tế - xã hội). Nói cách khác, pháp luật với ý nghĩa là nhân tố cơ bản của thượng tầng kiến trúc luôn chịu sự tác động bởi điều kiện kinh tế - xã hội với vai trò là các yếu tố của hạ tầng cơ sở. Điều đó lý giải tại sao trong tiến trình lập pháp hình sự Việt Nam, các quy định về hình phạt tử hình mặc dù xuất hiện rất sớm, song mức độ ghi nhận chúng là không giống nhau qua các thời kỳ lịch sử, thậm chí là có sự khác nhau trên từng miền lãnh thổ trong cùng một thời kỳ lịch sử.
  • 20. 20 1.2.1. Giai đoạn sau Cách mạng tháng 8/1945 đến trƣớc khi pháp điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật hình sự năm 1985 Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đưa tới sự ra đời của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, mở một trang sử mới cho lịch sử phát triển dân tộc. Tuy nhiên, ngày 23/9/1945, thực dân Pháp quay trở lại xâm chiếm nước ta một lần nữa và tiếp theo là sự nối gót của đế quốc Mỹ (năm 1954). Do đặc điểm lịch sử này, trước cuộc tổng tiến công nổi dậy Mùa xuân năm 1975, đất nước ta bị chia cắt thành hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau. Hệ thống PLHS ở hai miền vì vậy càng có sự khác biệt. Những quy định về hình phạt tử hình không nằm ngoài sự thay đổi chung đó. * Giai đoạn 1945 - 1954 Sau tháng 8/1945, Nhà nước công nông non trẻ đã tích cực tiến hành hoạt động lập pháp hình sự, làm cơ sở để trấn áp bọn phản động, bảo vệ những thành quả của cách mạng. Song song với các quy phạm pháp luật mới được ban hành, Sắc lệnh số 47-SL ngày 10/10/1945 của Nhà nước cho phép tạm thời giữ các luật lệ cũ (gồm Luật hình An Nam, Hoàng Việt hình luật và Bộ hình luật Pháp tu chính) với điều kiện "không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa". Pháp luật hình sự trong giai đoạn này, chưa có văn bản nào chính thức quy định về hệ thống hình phạt. Tuy nhiên có thể thấy rằng hình phạt bao gồm hai loại là các hình phạt chính và các hình phạt phụ (hình phạt bổ sung). Tử hình là một hình phạt chính, áp dụng đối với tội phạm có tính chất đặc biệt nghiêm trọng. Sắc lệnh số 133-SL ngày 20/01/1953 trừng trị những tội xâm phạm đến an toàn Nhà nước, đối nội và đối ngoại. Sắc lệnh số 146-SL ngày 02/03/1948 quy định xử lý nghiêm khắc những người phạm tội gián điệp, tội phản bội tổ quốc. Ngoài ra, đối với các tội phạm về bảo vệ đê điều, công trình thủy nông nếu hậu quả gây ra là thiệt hại cho nhiều tỉnh (Điều 8 Sắc lệnh số 68-SL ngày 16/11/1949); tội đầu hàng quân địch nếu người đầu hàng là một
  • 21. 21 nhân viên thuộc cấp chỉ huy; tội thông với địch (Điều 7 Sắc lệnh số 163-SL ngày 23/8/1946) đều có mức cao nhất của khung hình phạt là tử hình. Cùng với hoạt động đấu tranh chống thực dân Pháp và bọn tay sai phản động, Nhà nước ta càng hết sức chú trọng việc giữ gìn trật tự an toàn xã hội trong kháng chiến. Các hành vi cướp bóc, nhũng nhiễu dân chúng trong khi có chiến sự đều bị Tòa án binh xử nặng như các tội gián điệp, tội phản quốc và có thể bị tuyên đến án tử hình (Thông lệnh số 60-TT ngày 23/5/1947 của liên Bộ Quốc phòng - Tư pháp). Hình thức thi hành án tử hình có những thay đổi quan trọng: theo Thông tư số 498 P4 ngày 31/10/1946 của Bộ Tư pháp thì "cho thi hành án tử hình từ nay dùng súng thay cho máy chém". Để đảm bảo thực hiện quyền của người bị kết án, PLHS thời kỳ này cũng có quy định cho người bị kết án có quyền gửi đơn lên Chủ tịch nước xin ân giảm án tử hình. Thông tư số 335/TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc báo cáo thỉnh thị các vụ án tử hình có nêu: "Sau khi tòa án nhân dân đã tuyên án tử hình, phạm nhân vẫn có quyền đệ đơn lên Chủ tịch nước xin ân xá, ân giảm. Đơn xin ân xá, ân giảm do Ủy ban kháng chiến hành chính liên khu chuyển lên Bộ Tư pháp. Bộ Tư pháp làm tờ trình lên Chủ tịch nước quyết định" [47]. * Giai đoạn 1954 - 1975 Sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, đất nước ta tạm thời bị chia cắt thành hai miền với hai chế độ kinh tế - xã hội khác nhau. Ở miền Bắc, song song với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội còn phải thực hiện vai trò của một "hậu phương lớn" để chi viện cho tiền tuyến Miền Nam và trở thành căn cứ vững mạnh của cách mạng cả nước. Miền Nam tiếp tục tiến hành cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân nhằm giải phóng khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, thống nhất đất nước. PLHS giai đoạn này cũng phải góp phần thực hiện thắng lợi hai chiến lược cách mạng của hai miền.
  • 22. 22 Ở miền Bắc, pháp luật chưa có quy định riêng về hệ thống hình phạt. Tử hình vẫn giữ vai trò là một hình phạt chính và được quy định trong nhiều văn bản về PLHS. Ngày 30/10/1967, Hồ Chủ tịch ký Lệnh số 117 công bố Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng. Ngoài Điều 1 và Điều 2 quy định những nguyên tắc về chính sách hình sự của Nhà nước ta, 15 điều luật còn lại được mô tả rõ ràng, chặt chẽ với cấu thành tội phạm, các tội có áp dụng hình phạt tử hình chiếm một tỷ lệ lớn (11/15 tội) như tội phản quốc (Điều 3); tội âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân (Điều 4); tội gián điệp (Điều 5); tội xâm phạm an ninh lãnh thổ (Điều 6); tội bạo loạn (Điều 7)... Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng là cơ sở pháp lý quan trọng để tăng cường chuyên chính đối với những kẻ thù dân tộc và là một bước tiến về kỹ thuật lập pháp hình sự Việt Nam. Ngày 21/10/1970, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đồng thời thông qua Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân. Trong đó, nhóm tội xâm phạm chế độ sở hữu XHCN bị áp dụng hình phạt rất nghiêm khắc. Các tội cướp tài sản XHCN (Điều 4); tội cố ý hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản XHCN (Điều 6); tội trộm cắp tài sản XHCN (Điều 7); tội tham ô tài sản XHCN (Điều 8) đều có mức cao nhất của khung hình phạt là tử hình. Điều 9 Luật số 18 ngày 14/7/1960 của Tổ chức Tòa án nhân dân (TAND) quy định thủ tục "duyệt lại" bản án tử hình để đảm bảo tính chính xác của quyết định đó: Các bản án tử hình phải được Hội đồng toàn thể thẩm phán của Tòa án nhân dân tối cao duyệt lại trước khi thi hành. Phải có 2/3 tổng số thẩm phán của Tòa án nhân dân tối cao tham dự phiên họp của Hội đồng và quá nửa tổng số thẩm phán tán thành thì quyết nghị của Hội đồng mới có giá trị.
  • 23. 23 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền tham dự phiên họp của Hội đồng toàn thể thẩm phán của Tòa án nhân dân tối cao. Nếu Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao không đồng ý với quyết nghị của Hội đồng toàn thể thẩm phán của Tòa án nhân dân tối cao thì báo cáo lên Ủy ban Thường vụ Quốc hội xét [47]. Ngày 12/3/1974, Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) ra Chỉ thị số 07/TATC hướng dẫn nhiệm vụ của TAND về việc thi hành án tử hình, trong đó quy định cụ thể nhiệm vụ của TAND tống đạt cho phạm nhân quyết định của Hội đồng toàn thể thẩm phán, TAND duyệt án tử hình (trường hợp phạm nhân không xin ân giảm) và công bố tóm tắt tội trạng của phạm nhân trước khi phạm nhân bị đem hành hình. Ở miền Nam, trước năm 1972, các quy định của PLHS nhìn chung không có sự thay đổi nhiều so với thời kỳ trước đó. Đến năm 1972, BLHS mới của chế độ Việt Nam Cộng hòa được ban hành đã đóng góp những giá trị nhất định, góp phần làm phong phú hơn hệ thống PLHS nước ta. Theo đó, hình phạt gồm chính hình, phụ hình và bổ túc hình (Điều 20); Chính hình là: Đại hình, tiểu hình và vi cảnh. Chính hình về đại hình theo thứ tự nặng nhẹ gồm có: tử hình; khổ sai chung thân; phát lưu; khổ sai hữu hạn; biệt giam; cấm cố (Điều 21). Tương tự như PLHS các giai đoạn trước, nhóm tội xâm phạm an ninh quốc gia (tội gián điệp, tội phản nghịch, các tội quấy rối quốc gia bằng cách gây nội chiến, dùng quân lực trái phép...) đều bị áp dụng hình phạt tử hình. Ngoài ra, tội nhận hối lộ, tội cố sát... càng bị trừng trị rất nghiêm khắc với mức cao nhất của khung hình phạt là tử hình. Bộ luật hình sự năm 1972 có các điều luật quy định những trường hợp khoan miễn và trường hợp giảm khinh (Điều 84 đến Điều 94, Chương thứ tư), đồng thời quy định những trường hợp gia trọng - tái phạm (Điều 95 đến Điều 101, Chương thứ năm). Đây là những trường hợp làm giảm nhẹ, hoặc tăng nặng đáng kể trách nhiệm hình sự của người phạm tội.
  • 24. 24 Hình phạt tử hình được thi hành bằng xử bắn: "Tội nhân bị án tử hình sẽ bị giam trong lao thất cho đến lúc bị hành hình. Tử tội sẽ bị bắn" (Điều 22). Kế thừa truyền thống nhân đạo, luật này càng quy định về việc hoãn thi hành án tử hình đối với phụ nữ có thai: "Nếu nữ tội nhân bị án tử hình có thai thì 100 ngày sau khi sanh đẻ mới bị hành quyết" (đoạn 2 Điều 23). Ngoài ra để giảm bớt thủ tục của cơ quan thi hành án, giảm chi phí của việc thi hành án, đồng thời đáp ứng được nguyện vọng của thân nhân người bị kết án, luật quy định: "Tử thi kẻ bị hành quyết sẽ được giao trả cho gia quyến nếu có lời xin, nhưng đám tang phải đơn giản và không có công chúng dự lễ" (Điều 24). Có thể nói, luật hình sự Việt Nam qua 30 năm tồn tại và phát triển (1945-1975) đã có những bước tiến bộ rất lớn về kỹ thuật lập pháp và góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ chiến lược của cách mạng. Những quy định về hình phạt nói chung, hình phạt tử hình nói riêng không ngừng được hoàn thiện, trở thành cơ sở để xây dựng BLHS sau này. Tuy nhiên, do được quy định trong nhiều văn bản đơn hành, gây khó khăn trong việc áp dụng thống nhất pháp luật. Điểm hạn chế này đã được khắc phục khi Nhà nước pháp điển hóa BLHS. * Từ năm 1975 đến trước năm 1985 Với Đại thắng Mùa xuân năm 1975, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đánh dấu một bước ngoặt trọng đại trong lịch sử phát triển của dân tộc ta. Đất nước được thống nhất, bước vào thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội. Năm 1976, sau khi thực hiện thắng lợi cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung cho cả nước, Quốc hội đã họp kỳ thứ nhất và ra Nghị quyết giao cho Hội đồng Nhà nước chịu trách nhiệm hướng dẫn pháp luật thống nhất trên toàn quốc. Những văn bản PLHS trước đây được ban hành ở miền Bắc tiếp tục có hiệu lực và áp dụng trong phạm vi cả nước. Để đảm bảo vững chắc an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội ở nửa đất nước mới được giải phóng, Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam
  • 25. 25 Việt Nam đã ban hành Sắc luật số 03-SL/76 ngày 13/5/1976 quy định các tội phạm và hình phạt. Sắc luật bao gồm 4 chương, 12 điều quy định 7 loại tội phạm. Trong đó tử hình vẫn được quy định là một hình phạt chính và là hình phạt nghiêm khắc nhất. Ngày 27/5/1976, Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ra Quyết định số 29/QĐ/76 về việc trừng trị các tên tư sản mại bản phạm tội lũng loạn, đầu cơ tích trữ, phá rối trị trường. Trong Quyết định này có nêu: "án tử hình phải được trình lên Chủ tịch Hội đồng cố vấn để xét duyệt trước khi thi hành". Ngày 20/5/1981, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh trừng trị tội hối lộ. Nội dung Pháp lệnh cho thấy tinh thần đấu tranh kiên quyết và triệt để đối với tội này. Mọi hình thức nhận hội lộ, đưa hối lộ, môi giới hối lộ đều bị áp dụng chế tài rất nghiêm khắc. Trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng có thể bị áp dụng hình phạt tử hình. Như vậy, PLHS giai đoạn này vẫn tiếp tục phát huy vai trò quan trọng của mình, phục vụ kịp thời các yêu cầu, nhiệm vụ chính trị mà Nhà nước đề ra. Sự ra đời của Pháp lệnh trừng trị tội hối lộ và Pháp lệnh trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép được xem như là tiền đề cho việc xây dựng các quy định tương ứng trong BLHS năm 1985. 1.2.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trƣớc khi ban hành Luật sửa đổi bổ sung Bộ luật hình sự năm 2009 * Từ năm 1985 đến trước năm 1999 Ngày 27/6/1985, Quốc hội thông qua BLHS đầu tiên của nước ta và chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1986, đã đánh dấu bước phát triển mới trong tiến trình lập pháp hình sự Việt Nam. BLHS năm 1985 bao gồm 280 điều, chia thành hai phần: Phần chung (71 điều) và Phần các tội phạm (209 điều). Với 13 điều luật (từ Điều 20 đến Điều 32), lần đầu tiên vấn đề hình phạt và các chế định liên quan được quy định một cách có hệ thống, đầy đủ,
  • 26. 26 rõ ràng. Hình phạt tử hình được quy định riêng tại một điều trong Phần chung của BLHS (Điều 27 BLHS năm 1985) với các điều kiện, phạm vi áp dụng và không áp dụng: Tử hình là hình phạt đặc biệt được áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Không áp dụng hình phạt tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội, đối với phụ nữ có thai khi phạm tội hoặc khi bị xét xử. Tử hình được hoãn thi hành đối với phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 12 tháng. Trường hợp người bị kết án tử hình được ân giảm thì tử hình chuyển thành tù chung thân. Chỉ trong trường hợp đặc biệt có luật quy định riêng thì tử hình mới được thi hành ngay sau khi xét xử [35]. Trong phần các tội phạm của BLHS năm 1985, hình phạt tử hình được quy định tại 44 điều (chiếm tỷ lệ khoảng 20,5% tổng số tội phạm). Hình phạt tử hình chủ yếu được quy định tại các chương: Các tội xâm phạm an ninh quốc gia (Tội phản bội tổ quốc, Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, Tội gián điệp, Tội bạo loạn, Tội khủng bố, …); Các tội phạm về ma túy, các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh, các tội xâm phạm sở hữu XHCN (Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản XHCN, Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản XHCN …); Một số tội xâm phạm tài sản riêng của công dân và xâm phạm tính mạng, danh dự nhân phẩm con người (Tội giết người, tội hiếp dâm, tội hiếp dâm trẻ em,...). Trong những lần bổ sung sau, do yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong điều kiện mới, một số loại tội phạm mới được bổ sung với mức hình phạt cao nhất là tử hình như: bổ sung Điều 96a "Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển trái phép các chất ma túy" (sửa đổi, bổ sung lần thứ nhất, 1989); Bổ sung Chương VIIA "Các tội phạm về ma túy", trong đó có điều 185b, Điều 185c, Điều 185d, Điều 185đ, Điều 185e, Điều 185i, và Điều 185m có quy định mức hình phạt cao nhất là tử hình (bổ sung lần thứ tư, 1997).
  • 27. 27 Bộ luật hình sự năm 1985 ra đời có ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống chính trị - pháp lý của nước ta. Nếu như PLHS các giai đoạn trước đó bao gồm các quy phạm pháp luật đơn hành thì việc pháp điển hóa lần này đã đánh dấu sự phát triển vượt bậc của kỹ thuật lập pháp hình sự Việt Nam. Những quy định về hình phạt tử hình trong BLHS năm 1985 tương đối đầy đủ, chặt chẽ, tạo cơ sở pháp lý cho việc áp dụng pháp luật một cách thống nhất. Việc quy định điều kiện áp dụng và phạm vi áp dụng hình phạt tử hình cũng thể hiện một cách rõ nét nguyên tắc nhân đạo của luật hình sự Việt Nam. * Thời kỳ từ 1999 đến trước khi ban hành Luật sửa đổi bổ sung BLHS năm 2009 Ngày 21/12/1999, Quốc hội thông qua BLHS năm 1999, có hiệu lực từ ngày 01/7/2000 thay thế BLHS năm 1985. Bộ luật này bao gồm 344 điều, chia thành hai phần: Phần chung (có 77 điều) và Phần các tội phạm (có 267 điều). Hình phạt tử hình vẫn được quy định trong BLHS năm 1999 "là hình phạt đặc biệt chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng" (Điều 35 BLHS năm 1999). Tuy nhiên, so với BLHS năm 1985, các quy định về tử hình trong BLHS năm 1999 có một số thay đổi cơ bản như sau: Thứ nhất: Mở rộng phạm vi đối tượng không áp dụng hình phạt tử hình, Điều 35 BLHS năm 1999 quy định: Không áp dụng hình phạt tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội, đối với phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi bị xét xử. Không thi hành án tử hình đối với phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi. Trong trường hợp này hình phạt tử hình chuyển thành tù chung thân [37]. Điều đó đã thể hiện tính nhân đạo sâu sắc và tiến bộ của PLHS nước ta. Thứ hai: Trong các điều quy định về tội phạm của BLHS năm 1999 có 29 điều luật có hình phạt cao nhất là tử hình, chiếm tỷ lệ 11% số điều luật quy
  • 28. 28 định tội danh (so với số tương ứng là 44 điều chiếm tỷ lệ 21% trong BLHS năm 1985). Trong số 15 điều luật bỏ tử hình có: Tội xâm phạm an ninh lãnh thổ; Tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới; Tội chống phá trại giam; Tội trộm cắp tài sản; Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản; Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi,… Trong số 29 điều luật còn quy định hình phạt tử hình thì các tội xâm phạm an ninh quốc gia có 7 điều; các tội xâm phạm tính mạng sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người có 3 điều; các tội xâm phạm quyền sở hữu có 2 điều; các tội phạm về ma túy có 3 điều; các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng có 2 điều; các tội phạm về chức vụ có 3 điều; các tội xâm phạm nghĩa vụ trách nhiệm của quân nhân có 3 điều; các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh có 3 điều. 1.3. THỰC TRẠNG VỀ HÌNH PHẠT TỬ HÌNH TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ XU HƢỚNG QUỐC TẾ VỀ HÌNH PHẠT TỬ HÌNH 1.3.1. Thực trạng pháp luật về hình phạt tử hình tại Việt Nam hiện nay Ngày 16/9/2009 Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi bổ sung một số điều của BLHS, trong đó vẫn giữ nguyên các quy định tại phần chung, nhưng có những thay đổi rõ nét đối với phần các tội phạm. Cụ thể, BLHS các quy định về đối tượng có thể bị áp dụng và căn cứ áp dụng hình phạt tử hình, tác giả xin được phân tích cụ thể dưới đây: a. Các quy định về đối tượng và căn cứ áp dụng hình phạt tử hình * Đối tượng có thể bị áp dụng hình phạt tử hình Hình phạt tử hình có thể áp dụng đối với bất kỳ người nào thực hiện một hoặc nhiều tội đặc biệt nghiêm trọng được quy định bởi BLHS, ngoại trừ một số trường hợp được quy định tại Điều 35 BLHS:
  • 29. 29 Không áp dụng án tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội, đối với phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi bị xét xử. Không thi hành án tử hình đối với phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi. Trong trường hợp này hình phạt tử hình chuyển thành tù chung thân [37]. Người chưa thành niên phạm tội là người chưa đủ 18 tuổi khi phạm tội nhưng đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (từ đủ 14 tuổi trở lên). Phụ nữ có thai khi phạm tội hoặc khi bị xét xử là người phụ nữ trước khi phạm tội hoặc trước khi bị đưa ra xét xử đã có thai và hiện vẫn chưa sinh con, sẽ không bị áp dụng hình phạt tử hình. Phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi là đối tượng không bị áp dụng hình phạt tử hình. Nếu sau khi tuyên án tử hình mới có cơ sở kết luận người phụ nữ có thai hoặc người phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi thì không thi hành án tử hình và chuyển hình phạt tử hình thành hình phạt tù chung thân. Vậy, tại sao những đối tượng nêu trên không bị áp dụng hình phạt tử hình? Ta biết rằng người chưa thành niên, phụ nữ mang thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi là những đối tượng đặc biệt trong chính sách hình sự của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Do đặc điểm tâm - sinh lý của người chưa thành niên, phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con nhỏ và ảnh hưởng của những đặc điểm này đến khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của họ; đồng thời, cân nhắc khả năng cải tạo, giáo dục của người chưa thành niên phạm tội và hậu quả của hình phạt đối với phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con nhỏ mà Luật quy định không áp dụng cũng như không thi hành án tử hình đối với các đối tượng này trong các trường hợp cụ thể nêu trên. Các quy định nêu trên của BLHS là phù hợp với các chuẩn mực pháp lý của thế giới, cũng như các Công ước Quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ký kết hoặc công nhận. Điểm 5, Điều 6 phần III Công ước quốc tế về những
  • 30. 30 quyền dân sự và chính trị năm 1966 cũng ghi nhận: "án tử hình không được tuyên đối với các bị cáo chưa đủ 18 tuổi khi phạm pháp và càng không được thi hành đối với các phụ nữ mang thai". Về phạm vi đối tượng không bị áp dụng án tử hình của BLHS năm 1999 được mở rộng hơn rất nhiều so với BLHS năm 1985, cho thấy tính nhân đạo biểu hiện rõ nét hơn. Trong BLHS năm 1985, hình phạt tử hình chỉ được quy định không áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội, phụ nữ có thai khi phạm tội hoặc khi bị đưa ra xét xử thì trong BLHS, ngoài những đối tượng nêu trên, luật còn loại trừ hình phạt này đối với phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi bị xét xử. Theo quy định của BLHS năm 1985, nếu phụ nữ có thai và phụ nữ đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi chỉ được phép "hoãn" thi hành hình phạt tử hình, thì theo BLHS, không những họ không phải thi hành (được chuyển thành hình phạt tù chung thân) mà những phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi cũng được áp dụng quy định này. Mặt khác, BLHS đã bỏ quy định về việc thi hành án tử hình ngay sau khi xét xử. Đoạn 4 Điều 27 BLHS năm 1985 quy định: "Chỉ trong trường hợp đặc biệt có luật quy định riêng thì tử hình mới được thi hành ngay sau khi xét xử" [35]. Do bản chất của hình phạt tử hình liên quan trực tiếp đến cuộc sống của con người và sẽ không thể khắc phục được hậu quả nếu bản án đã thi hành trên thực tế nên việc bỏ quy định thi hành án tử hình ngay sau khi xét xử là phù hợp, đảm bảo thực hiện pháp chế XHCN. Trong BLHS, so sánh về đối tượng bị áp dụng giữa hình phạt tù chung thân và tử hình ta thấy điểm giống nhau giữa chúng là cả hai hình phạt này đều không áp dụng nếu đối tượng là người chưa thành niên phạm tội. Điểm khác nhau giữa chúng là: hình phạt tử hình chỉ có thể được áp dụng nếu người phụ nữ không phải là người có thai khi phạm tội, hoặc khi bị đưa ra xét xử, càng không phải là người phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi. Hình phạt tù chung thân không loại trừ các trường hợp nêu trên.
  • 31. 31 Mở rộng việc so sánh với đối tượng bị áp dụng hình phạt tử hình trong PLHS một số nước trên thế giới, ta sẽ thấy sự đa dạng trong chính sách hình sự của các quốc gia. Xuất phát từ tư tưởng nhân đạo, đa số các quốc gia đều không áp dụng hình phạt tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội, hoặc phụ nữ có thai. Điều 48 và Điều 49 BLHS Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định: "Tử hình chỉ được áp dụng đối với những người phạm tội nghiêm trọng nhất, trừ người phạm tội là người chưa đủ 18 tuổi hoặc là phụ nữ có thai khi xét xử" [19]. BLHS Liên bang Nga mở rộng một cách đặc biệt đối tượng không bị áp dụng hình phạt tử hình: "Tử hình không áp dụng đối với phụ nữ, cũng như những người phạm tội chưa đủ 18 tuổi, nam giới trên 65 tuổi" [53]. Như vậy, theo pháp luật của Liên bang Nga ngoài phụ nữ và người chưa thành niên thì nam giới trên 65 tuổi nếu phạm tội cũng không phải chấp hành hình phạt nghiêm khắc nhất này. Điều đó thể hiện tính nhân đạo sâu sắc và sự tiến bộ của luật hình sự Liên bang Nga. * Căn cứ áp dụng hình phạt tử hình Hình phạt tử hình được áp dụng dựa trên các căn cứ sau: - Mức độ phạm tội của người phạm tội: Một trong những điểm mới của BLHS là việc phân chia các tội phạm thành 4 loại: tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Trong đó căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, thì tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là "tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình" [37, Điều 8]. Điều 35 BLHS quy định: "Tử hình là hình phạt đặc biệt chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng" [37]. Tính "đặc biệt" của hình phạt tử hình trước hết được thể hiện ở việc theo pháp luật và bằng pháp luật tước bỏ quyền sống của người phạm tội. Nếu so sánh với tất cả các hình phạt
  • 32. 32 khác trong hệ thống hình phạt ta thấy đối với các hình phạt này thì người phạm tội hoặc bị cách ly hoặc không bị cách ly khỏi xã hội nhưng luật pháp vẫn mở ra những khả năng khuyến khích quá trình cải tạo, giáo dục người bị kết án để họ có thể tái hòa nhập vào cộng đồng. Riêng đối với hình phạt tử hình, người phạm tội sau khi thi hành án sẽ bị loại bỏ vĩnh viễn khỏi đời sống xã hội. - Hậu quả của hành vi phạm tội: Là hình phạt nghiêm khắc nhất, tử hình chỉ được áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Tuy nhiên không phải bất cứ người nào phạm tội đặc biệt nghiêm trọng đều bị áp dụng hình phạt tử hình. Thực tiễn xét xử cho thấy, hình phạt này chỉ có thể áp dụng trong trường hợp người phạm tội gây ra hậu quả đặc biệt nghiêm trọng đối với an ninh quốc gia, hoặc phạm một trong các tội như tội hiếp dâm trẻ em, tội giết người, tội tham ô... gây ảnh hưởng rất xấu đối với xã hội, bị dư luận kịch liệt lên án. - Tình thiết của vụ án và nhân thân của người phạm tội. Khi cân nhắc giữa hình phạt tù chung thân với hình phạt tử hình mà thấy còn băn khoăn, thì Tòa án sẽ không áp dụng hình phạt tử hình. Trên cơ sở xem xét, đánh giá một cách toàn diện tất cả các tình tiết của vụ án, khi không còn khả năng nào khác, thì Tòa án mới áp dụng hình phạt tử hình đối với người phạm tội. Nói cách khác, hình phạt tử hình chỉ được áp dụng nếu toàn bộ tình tiết của vụ án và những đặc điểm thuộc về nhân thân của người phạm tội đó phủ nhận hoàn toàn khả năng cải tạo, giáo dục đối với họ. Việc đánh giá người phạm tội còn hay không còn khả năng giáo dục là một yếu tố "định tính" mà người "Thẩm phán" phải dựa trên tổng thể các dấu hiệu để quyết định như họ có thuộc đối tượng tái phạm, tội phạm nguy hiểm hay không? bản thân họ có phạm nhiều tội hoặc phạm tội nhiều lần hay không?... Căn cứ áp dụng hình phạt tử hình của BLHS năm 1999 có nội dung tương đồng với quy định tại khoản 1 Điều 60 BLHS Liên bang Nga (có hiệu
  • 33. 33 lực từ ngày 01/3/1996). Theo đó, "Tử hình là hình phạt đặc biệt chỉ có thể áp dụng đối với các tội đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm tính mạng" [53]. BLHS Liên bang Nga cũng phân chia tội phạm thành 4 loại như BLHS Việt Nam. Trong đó, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là "những hành vi cố ý mà Bộ luật này quy định hình phạt đối với chúng là trên 10 năm tù hoặc hình phạt nghiêm khắc hơn" [53, khoản 5 Điều 15]. Tuy nhiên, khả năng áp dụng hình phạt tử hình của BLHS Liên bang Nga rất hạn chế, cụ thể là chỉ tội phạm đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm tính mạng mới có thể bị áp dụng hình phạt tử hình. Trong số những tội xâm phạm tính mạng cũng chỉ có duy nhất một điều luật quy định hình phạt này, đó là tội giết người. Hình phạt tử hình được quy định là chế tài lựa chọn với hình phạt tù chung thân hoặc tù có thời hạn. b. Một số quy định mới về phần các tội phạm Luật sửa đổi, bổ sung một số điều BLHS đã thu hẹp đáng kể các loại tội phạm và đối tượng bị áp dụng hình phạt tử hình khi đã loại bỏ chế tài tử hình ra khỏi 08 tội danh được quy định trong BLHS năm 1999 và bổ sung thêm 01 tội danh có chế tài tử hình, cụ thể bỏ các hình phạt tử hình đối với các tội danh: Tội hiếp dâm (Điều 111), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 139), Tội buôn lậu (Điều 153), Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 197), Tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả (Điều 180), Tội chiếm đoạt tàu bay, tàu thủy (Điều 221), Tội đưa hối lộ (Điều 289), Tội hủy hoại vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự (Điều 334) và bổ sung Tội khủng bố (Điều 230a). Như vậy, sau lần sửa, đổi bổ sung này, BLHS có 22 tội danh quy định hình phạt tử hình. So với tổng số các tội danh quy định về các tội phạm cụ thể tại phần các tội phạm của BLHS (22/272 điều luật) thì số điều luật có quy định hình phạt tử hình chiếm tỷ lệ khoảng 8%, giảm khoảng 3% so với quy định của BLHS năm 1999, trong đó tập trung nhiều nhất tại Chương 11 (các tội xâm phạm an ninh quốc gia) và Chương 24 (các tội phá hoại hòa bình, chống lại loài người và tội phạm chiến tranh. Cụ thể:
  • 34. 34 * Chương 11. Các tội xâm phạm an ninh quốc gia có 07 điều: Điều 78 (tội phản bội Tổ quốc); Điều 79 (tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân); Điều 80 (tội gián điệp); Điều 82 (tội bạo loạn); Điều 83 (tội hoạt động phỉ); Điều 84 (tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân); Điều 85 (tội phá hoại cơ sở vật chất - kỹ thuật của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam). * Chương 12. Các tội xâm phạm tính mạng , sứ c khỏe, danh dự, nhân phẩm của con ngườ i có 02 điều: Điều 93 (tội giết người ) và Điều 112 (tội hiếp dâm trẻ em). * Chương 14. Các tội xâm phạm sở hữu có 01 điều là Điều 133 (tội cướp tài sản). * Chương 16. Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế có 01 điều là Điều 157 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh). * Chương 18. Các tội phạm về ma túy có 02 điều: Điều 193 (tội sản xuất trái phép chất ma túy ) và Điều 194 (tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy). * Chương 19. Các tội xâm phạm an toà n công cộng, trật tự công cộng có 02 điều: Điều 230a (tội khủng bố ) và Điều 231 (tội phá huỷ công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia). * Chương 21. Các tội phạm về chức vụ có 02 điều: Điều 278 (tội tham ô) và Điều 279 (tội nhâ ̣n hối lô ̣). * Chương 23. Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân có 02 điều: Điều 316 (tội chống mê ̣nh lê ̣nh) và Điều 322 (tội đầu hàng đi ̣ch). * Chương 24. Các tội phá hoại hòa bình , chống loà i ngườ i và tội phạm chiến tranh có 03 điều: Điều 341 (tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược); Điều 342 (tội chống loài người); Điều 343 (tội phạm chiến tranh).
  • 35. 35 Như vậy, sau lần sửa đổi gần nhất, BLHS hiện hành còn 02 tội danh thuộc nhóm các tội phạm về chức vụ còn giữ hình phạt tử hình là Tội tham ô (Điều 278), Tội nhận hối lộ (Điều 279) và 01 tội danh thuộc nhóm các tội xâm hại trật tự quản lý kinh tế là Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh (Điều 157). 1.3.2. Thực trạng áp dụng hình phạt tử hình tại Việt Nam hiện nay Từ năm 2005 đến nam 2010, theo số liệu thống kê của TANDTC thì số vụ án về nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trên toàn quốc có 6.138 vụ, trong đó chỉ có 3 bị cáo bị áp dụng hình phạt tử hình và đối với nhóm các tội phạm về chức vụ có tổng số 3121 vụ, trong đó chỉ có 3 bị cáo bị áp dụng hình phạt tử hình. Theo đó, để có thể hiểu rõ được thực trạng và thực tiễn áp dụng hình phạt tử hình đối với các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và các tội phạm về chức vụ trên toàn quốc, tác giả xin được thể hiện thông qua Bảng thống kê số liệu dưới đây: Bảng 1.1: Thống kê án và số bị cáo bị áp dụng hình phạt tử hình trong các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và các tội phạm về chức vụ Năm Các tội xâm phạm trật tự kinh tế Các tội phạm về chức vụ Tổng (tất cả các loại tội phạm) Số vụ Tỷ lệ (%) Số bị cáo bị áp dụng hình phạt tử hình Tỷ lệ (%) Số vụ Tỷ lệ (%) Số bị cáo bị áp dụng hình phạt tử hình Tỷ lệ (%) Số vụ Số bị cáo bị áp dụng hình phạt tử hình 2005 1.057 1.92 0 0.00 414 0.75 0 0.00 55112 208 2006 1.084 1.74 0 0.00 539 0.87 0 0.00 62166 198 2007 931 1.51 0 0.00 622 1.01 2 0.97 61813 206 2008 1.007 1.56 3 1.42 585 0.91 1 0.47 64381 212 2009 1.088 1.63 0 0.00 524 0.78 0 0.00 66919 119 2010 971 1.66 0 0.00 437 0.75 0 0.00 58370 178 Tổng 6.138 1.66 3 0.27% 3.121 0.85 3 0.27% 368.761 1.121 Nguồn: TANDTC.
  • 36. 36 Qua bảng 1.1, chúng ta đã nhận thấy số bị can và tỷ lệ bị cáo bị áp dụng hình phạt tử hình đối với nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và các tội phạm về chức vụ ở nước ta trong những năm gần đây là rất thấp, thậm chí nhiều năm không áp dụng. Trên thực tế, đại đa số Tòa án trên toàn quốc từ nhiều năm qua đã không áp dụng hình phạt tử hình đối với 02 nhóm tội phạm này (như: TAND tỉnh Bắc Giang; TAND tỉnh Hải Dương; TAND tỉnh Hưng Yên, TAND tỉnh Sơn La, TAND tỉnh Hà Tây cũ, TAND tỉnh Ninh Bình …). Riêng trong năm 2013, TAND thành phố Hà Nội có áp dụng hình phạt tử hình trong 01 vụ án liên quan tới Tổng Công ty Tàu thủy Việt Nam với hình phạt tử hình được áp dụng đối với Ông Dương Chí Dũng và Ông Mai Văn Phúc về Tội tham ô tài sản, nhưng Ông Dũng kêu oan về hành vi này và ngày 07/05/2014, Tòa Phúc thẩm - TANDTC tại Hà Nội đã tuyên giữ nguyên hình phạt tử hình đối với Ông Dũng và Ông Phúc. TAND Thành phố Hồ Chí Minh có áp dụng hình phạt tử hình đối với Ông Vũ Quốc Hảo và Ông Đặng Văn Hai về Tội tham ô tài sản trong vụ án xảy ra tại Công ty Cho thuê tài chính II - Agribank và cũng đang trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm. Như vậy, về mặt thực tiễn việc áp dụng hình phạt tử hình đối với nhóm các tội xâm phạm trật tự về kinh tế và các tội phạm về chức vụ ở Việt Nam trong những năm vừa qua là rất ít so với tổng số các tội phạm nói chung và nhóm các tội phạm tương ứng nói riêng. 1.3.3. Xu hƣớng quốc tế về hình phạt tử hình Sau khi Tuyên ngôn nhân quyền được Liên hợp quốc thông qua năm 1948, chỉ có 14 nước đã bãi bỏ án tử hình và 7 trong số đó đã bãi bỏ án tử hình cho tất các loại tội phạm mà phần lớn là các nước Nam Mỹ. 7 quốc gia trong cộng đồng Châu Âu đã bãi bỏ án tử hình đối với tội giết người và một số loại tội phạm khác, nhưng vẫn áp dụng đối với tội phản quốc và một số tội phạm chiến tranh. Đến năm 1966, Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị được thông qua bởi Đại hội đồng Liên hợp
  • 37. 37 quốc thì vẫn chỉ có 26 quốc gia xóa bỏ hình phạt tử hình ra khỏi hệ thống hình phạt của mình [42]. Những năm 1970 trở lại đây, xu hướng xóa bỏ hình phạt tử hình ở các quốc gia trên thế giới ngày càng gia tăng rõ nét. Trong thập niên 1970, trên thế giới có thêm 07 quốc gia xóa bỏ hình phạt tử hình, thập niên 1980 có 11 quốc gia; đến thập niên 1990, con số này tăng lên là 34 quốc gia (riêng năm 1990 có 9 quốc gia) và từ năm 2000 đến tháng 8/2006, có 15 quốc gia xóa bỏ hình phạt tử hình. Sở dĩ từ năm 1990 có sự gia tăng số lượng các quốc gia xóa bỏ hình phạt tử hình, một phần vì năm 1989 Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua Nghị định thư không bắt buộc thứ hai của Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị và việc hủy bỏ án tử hình (tính đến ngày 20/9/2006, Nghị định thư này đã có 58 quốc gia thành viên và 8 quốc gia đã ký nhưng chưa phê chuẩn). Hơn nữa, phần lớn các quốc gia xóa bỏ hình phạt tử hình trong thời kỳ này thuộc Liên minh Châu Âu, vì theo quy chế của Tổ chức này, việc xóa bỏ hình phạt tử hình trong luật hình sự là một trong những tiêu chí quan trọng để xét gia nhập. Vì vậy, sau năm 1990, một loạt các nước Đông Âu trước đây khi gia nhập Liên minh Châu Âu đã xóa bỏ hình phạt tử hình (Croatia, Cộng hòa Czech, Hungary, Cộng hòa Slovakia, Bulgaria, Moldova...). Hiến chương về các quyền cơ bản của Liên minh Châu Âu năm 2000 tuyên bố: "Nhân phẩm của con người là bất khả xâm phạm. Nó phải được tôn trọng và bảo vệ" [76, Điều 1]; "Tất cả mọi người có quyền được sống, không ai có thể bị kết án tử hình hoặc thi hành án tử hình" [76, Điều 2]. Theo báo cáo của Tổ chức Ân xá quốc tế (AI), tính đến ngày 06/8/2006, trên thế giới có 88/197 (45%) quốc gia và vùng lãnh thổ đã xóa bỏ hình phạt tử hình đối với tất cả các tội phạm; 11/197 (6%) quốc gia xóa bỏ hình phạt tử hình đối với các tội phạm thường, chỉ quy định hình phạt tử hình đối với các tội phạm chiến tranh; 30/197 (15%) quốc gia tuy vẫn quy định hình phạt tử hình trong luật hình sự nhưng từ năm 1999 đến nay không áp
  • 38. 38 dụng hình phạt tử hình trên thực tế; 68/197 (34%) quốc gia vẫn duy trì hình phạt tử hình trong luật và áp dụng trên thực tế. Gần đây nhất, cũng theo thống kê của Tổ chức Ân xá Quốc tế, cho đến ngày 31/12/2013, đã có hơn 2/3 (140 quốc gia) đã xóa bỏ hình phạt tử hình trong pháp luật hoặc trên thực tế, trong đó: 96 quốc gia đã bãi bỏ hình phạt tử hình đối với tất cả các tội phạm, 09 quốc gia bãi bỏ hình phạt tử hình đối với các tội phạm thông thường, 35 quốc gia bãi bỏ hình phạt tử hình trên thực tế. Tổng số quốc gia đã bãi bỏ hình phạt tử hình tính tới hết ngày 31/12/2013 trên toàn thế giới là 140 quốc gia, còn lại 58 quốc gia vẫn duy trì và áp dụng hình phạt tử hình [70]. Tại châu Âu, tất cả các quốc gia đã bỏ hình phạt tử hình, trừ Belarus [64]. Tại châu Mỹ, chỉ còn Mỹ và Saint Kitts and Nevis là hai nước còn duy trì hình phạt tử hình [65]. Trong số các nền dân chủ tiên tiến trên thế giới, chỉ còn lại Mỹ, Nhật Bản và Hàn Quốc giữ hình phạt từ hình. Tại Mỹ, mỗi bang có bộ luật riêng và trong số đó có Bang đã bỏ hình phạt tử hình và có bang vẫn duy trì hình phạt tử hình. Hiện tại có 18/50 bang đã bỏ hình phạt tử hình [72]. Tại Châu Á, Philippines, Nepal, Papua New Guinea, và Gambia là bốn nước đã bỏ hình phạt tử hình nhưng sau đó đã khôi phục lại. Hai nước Philippines và Nepal, sau khi khôi phục hình phạt, đã bỏ hình phạt lần nữa. Hai nước còn lại không có vụ hành quyết nào kể từ sau khi hình phạt được khôi phục [76], và trên thực tế Brunei, Maldives, Sri Lanka, Lào, Myanmar và Hàn Quốc cũng là các quốc gia đã bãi bỏ hình phạt tử hình. Tại khu vực Đông Nam Á hiện nay chỉ còn Indonesia, Malaysia, Singapore, Thái Lan và Việt Nam là những quốc gia vẫn đang thực thi hình phạt này. Ngoài trừ Việt Nam là quốc gia hiện nay chưa có con số thống kê về việc đã thực thi bao nhiêu hình phạt tử hình, thì không có quốc gia nào kể
  • 39. 39 trên hiện nay vẫn đang thực thi một số lượng đáng kể các vụ hành quyết hàng năm. Cả Thái Lan và Việt Nam bỏ phiếu trắng tại Đại Hội đồng Liên hợp quốc về việc giải quyết lệnh tạm ngừng các vụ hành quyết vào tháng 12/2010 và Thái Lan là quốc gia thực thi vụ hành quyết cuối cùng năm 2009. Singapore vào giữa những năm 1990 là nước có tỷ lệ hành quyết cao nhất trên thế giới tính theo đầu người, tuy nhiên con số này giảm xuống chỉ còn 1 người năm 2009 và không có trường hợp tử hình nào năm 2010. Indonesia không thực thi bất kỳ vụ hành quyết nào kể từ sau khi 10 người bị xử tử năm 2008 [76]. Biểu đồ 1.1: Các quốc gia có số vụ hành quyết cao nhất trong năm 2009 Nguồn: Tổ chức Ân xá quốc tế. Nhiều nước trong các nước bỏ hình phạt tử hình đã có quy định cấm hình phạt trong Hiến pháp. Theo một báo cáo của AI đưa ra vào ngày 04/4/2005, có ít nhất 42 nước đã đưa vào Hiến pháp quy định cấm hình phạt tử hình [59]. Thống kê những năm gần đây của AI, cũng cho thấy tại các nước còn giữ hình phạt tử hình, số các vụ hành quyết được thực thi cũng đã có chiều hướng giảm dần tại nhiều nước.
  • 40. 40 Bảng 1.2: Thống kê án tử hình tại một số nước trên thế giới từ năm 2007 đến năm 2012 Một số quốc gia áp dụng Số vụ hành quyết 2007 2008 2009 2010 2011 2012 Bangladesh 6+ 5 3+ 9+ 5+ 1 Trung Quốc 470+ 1718+ 1000+ 1000+ 1000+ 1000+ Ai Cập 0+ 2+ 5+ 4 1+ 0 Iran 317+ 346+ 388+ 252+ 360+ 314+ Iraq 33+ 34+ 120+ 1+ 68+ 129+ Nhật Bản 9 15 7 2 0 7 Libya 9+ 8+ 4+ 18+ 0 5+ Malaysia 0+ 1+ 0+ 1+ 0 0 Saudi Arabia 143+ 102+ 69+ 27+ 82+ 79+ Singapore 2 1+ 1 0+ 0+ 2+ Sudan 7+ 1+ 9+ 6+ 7+ 19+ Syria 7+ 1+ 8+ 17+ 0+ 0+ Thái Lan 0+ 0+ 2 0+ 0+ 0+ Hoa Kỳ 42 37 52 46 43 43 Việt Nam 25+ 19+ 9+ 0+ 5+ 0 Yemen 15+ 13+ 3+. 53+ 41+ 28+ Nguồn: Tổ chức Ân xá Quốc tế (AI). Từ những viện dẫn và thống kê trên đây cho thấy số lượng các nước loại bỏ hoàn toàn hình phạt tử hình ra khỏi hệ thống hình phạt, cũng như loại bỏ trên thực tế đã tăng dần theo thời gian, đặc biệt số lượng loại bỏ tăng mạnh trong những năm từ 1990 đến 2010. Điều đó cho thấy vấn đề đảm bảo quyền được sống của con người và xu hướng loại bỏ hình phạt tử hình ra khỏi hệ thống hình phạt chung của cộng đồng Quốc tế là một xu hướng tất yếu. Trong số đó, có nhiều nước đã yêu cầu Việt Nam loại bỏ hình phạt tử hình ra khỏi hệ thống pháp luật và đảm bảo các quyền con người tại phiên báo cáo của Việt Nam tại Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc được thông qua ngày 12/5/2009 [74].
  • 41. 41 Tóm lại, hình phạt tử hình là một hình phạt chính, đồng thời là hình phạt nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt. Những quy định về hình phạt tử hình (từ các Bộ luật thời kỳ phong kiến đến trước khi ban hành BLHS năm 1985) cho thấy hình phạt này xuất hiện rất sớm và xuyên suốt trong các văn bản PLHS của Việt Nam. Cùng với sự phát triển của tiến trình lập pháp hình sự Việt Nam, những quy định về hình phạt tử hình ngày càng hoàn thiện hơn. Sự tiến bộ đó thể hiện ở các điều kiện áp dụng hình phạt được quy định cụ thể, chặt chẽ hơn; phạm vi đối tượng bị áp dụng hình phạt ngày càng thu hẹp và đặc biệt là luật hình hiện đại đã loại bỏ hoàn toàn những cách thức thi hành hình phạt tử hình không chỉ gây đau đớn mà còn chà đạp lên nhân phẩm, danh dự con người như pháp luật thời kỳ phong kiến. Hình phạt tử hình mặc dù thể hiện mức độ nghiêm khắc tối đa song việc quy định hình phạt này vẫn mang tính nhân đạo, trở thành một nguyên tắc quan trọng của luật hình sự Việt Nam. Nguyên tắc này tiếp tục được phát triển và mở rộng sau khi Quốc hội thông qua BLHS năm 1999 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều BLHS năm 2009. Trong tương lai phạm vi áp dụng và thi hành hình phạt tử hình trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng sẽ được thu hẹp và tiến tới xóa bỏ hoàn toàn. Để có thể thực hiện được hoạt động này, tác giả xin được diễn giải một số cơ sở để loại bỏ hình phạt tử hình nói chung và loại bỏ hình phạt tử hình đối với nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và các tội phạm về chức vụ nói riêng tại Chương 2.
  • 42. 42 Chương 2 CƠ SỞ LOẠI BỎ HÌNH PHẠT TỬ HÌNH TRONG CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ VÀ CÁC TỘI PHẠM VỀ CHỨC VỤ Ở VIỆT NAM 2.1. CƠ SỞ QUYỀN CON NGƢỜI VÀ NGUYÊN TẮC NHÂN ĐẠO TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ 2.1.1. Nguyên tắc nhân đạo trong pháp luật Việt Nam Theo Từ điển Triết học thì nhân đạo được hiểu là tổng hợp những quan điểm thể hiện sự tôn trọng phẩm giá và quyền của con người, sự chăm lo đến hạnh phúc, sự phát triển toàn diện, chăm lo đến việc tạo ra những điều kiện sinh hoạt xã hội thuận lợi cho nó. Ở nước ta, tư tưởng nhân đạo luôn được thể hiện rõ nét trong đường lối, chính sách của Đảng và được thể chế hóa trong Hiến pháp, cũng như các văn bản pháp luật. Đối với luật hình sự Việt Nam, tư tưởng nhân đạo được biểu hiện xuyên suốt trong hệ thống các quy phạm PLHS, hình thành nên nguyên tắc nhân đạo XHCN. Điều này đã được thể hiện rất rõ nét ngay trong các quy định của BLHS Việt Nam (Điều 35 BLHS năm 1999, quy định về quyền xin ân giảm theo quy định tại Khoản 1 Điều 258 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003). Ngoài ra, trong hệ thống các quan điểm khoa học pháp lý, PGS. TSKH Lê Cảm có quan điểm: "không được áp dụng hình phạt tử hình đối với người bị kết án là phụ nữ, người chưa thành niên hoặc nam giới trên 70 tuổi" [8]. Tác giả nhận thấy đây là một quan điểm rất nhân đạo và phù hợp với tình hình kinh tế, chính trị, xã hội Việt Nam trong thời kỳ hiện nay và cần được xem xét để đưa vào luật thực định. Khi quyết định hình phạt nói chung, hình phạt tử hình nói riêng, Tòa án không chỉ căn cứ vào quy định của BLHS mà còn cân nhắc tính chất và
  • 43. 43 mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự. Do đó, khi một người thực hiện hành vi đặc biệt nguy hiểm cho xã hội nhưng chưa đến mức cần phải cách ly vĩnh viễn khỏi đời sống xã hội thì Tòa án sẽ không áp dụng hình phạt tử hình. Ngoài những quy định của luật hình sự (nội dung) thì việc áp dụng hình phạt tử hình còn phải tuân thủ một trình tự đặc biệt của luật tố tụng hình sự (hình thức), để đảm bảo việc thực thi bản án được chính xác, tránh làm oan người vô tội. Có thể nói rằng đây chính là những biểu hiện cụ thể của tư tưởng nhân đạo. Tiến sĩ Hồ Sỹ Sơn đã từng có kết luận về mối liên hệ giữa hình phạt tử hình với nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự như sau: Thứ nhất, tử hình là hình phạt trái với nội dung của nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự, vì vậy, quan điểm bãi bỏ hình phạt tử hình vốn xuất hiện ở Châu Âu vào các thế kỷ 17 và 18, ngày càng mang tính phổ quát, trở thành xu hướng và chuẩn mực nhân đạo mang tính toàn cầu bắt buộc chung. Thứ hai, vì hình phạt tử hình, như đã nhấn mạnh là trái với nội dung của nguyên tắc nhận đạo trong luật hình sự, nên việc bãi bỏ loại hình phạt này là phù hợp với nguyên tắc nhân đạo nói chung, với nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự nói riêng, hay nói cách khác là đưa nhân đạo và nguyên tắc nhân đạo vào cuộc sống. Thứ ba, do sự khác nhau về những điều kiện lịch sử cụ thể của từng quốc gia, hay nói chính xác hơn là có sự khác nhau về cơ sở kinh tế hạ tầng mà cốt lõi quyết định là lực lượng sản xuất của mỗi quốc gia mà có quốc gia đã bãi bỏ hoàn toàn, có quốc gia vẫn duy trì (mặc dù có xu hướng bỏ), song cũng có quốc gia đã bãi bỏ lại tái áp dụng hình phạt tử hình (trường hợp của Philiphin)… Rõ ràng việc bãi bỏ, duy trì hay tái áp dụng hình phạt tử hình chỉ có thể
  • 44. 44 giải thích được khi chúng ta thấy rằng cơ sở kinh tế hạ tầng mà cốt lõi quyết định là lực lượng sản xuất của các quốc gia còn rất chênh lệch. Đó chính là cơ sở để chúng ta có thể hiểu được tại sao có quốc gia đã xóa bỏ hoàn toàn hình phạt tử hình, có quốc gia vẫn duy trì và có quốc gia lại tái áp dụng nó. Thứ tư, bởi tính không nhân đạo đối với người phạm tội của hình phạt tử hình, mà các quốc gia đang duy trì hay tái áp dụng loại hình phạt này đều có xu hướng giảm số lượng những tội phạm có hình phạt tử hình, có quy định nhưng rất ít áp dụng bằng cách quy định thêm những điều kiện thuộc về nhân thân người phạm tội, thuộc về hành vi phạm tội… thông qua đó nhằm giảm đến mức tối đa mức độ áp dụng loại hình nghiêm khắc này [44]. Xu hướng phát triển chung của PLHS ở nước ta cũng như các nước khác trên thế giới là nguyên tắc nhân đạo ngày càng được đề cao và mở rộng. Điều đó ảnh hưởng đến việc quy định và áp dụng hình phạt tử hình trong pháp luật. Nếu như BLHS năm 1985 quy định hình phạt tử hình ở 44/209 điều luật (Phần các tội phạm) thì BLHS năm 1999 chỉ còn 29/267 điều luật quy định hình phạt này và trong lần sửa đổi BLHS năm 1999 vừa qua, số lượng tội phạm còn duy trì hình phạt tử hình chỉ còn 22/273 điều luật. Việc giảm đáng kể số lượng các điều luật có quy định hình phạt tử hình cho thấy rằng nguyên tắc nhân đạo ngày càng được thể hiện rõ rệt hơn trong PLHS Việt Nam. Ngoài ra, việc áp dụng hình phạt tử hình đối với một con người sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc sống, sinh hoạt và giá trị tinh thần của thân nhân người phạm tội. Những đứa con sẽ mất cha, vợ mất chồng, cha mẹ mất con,… đặc biệt bị cáo có thể là lao động chính trong gia đình. Việc tước bỏ mạng sống của họ có thể dẫn đến hệ lụy kéo theo hàng loạt người khác rơi vào tình cảnh túng quẫn, khổ cực và kéo theo hoàn cảnh đó là nguy cơ thế hệ tiếp theo sẽ đi vào con đường phạm tội.
  • 45. 45 Có rất nhiều ý kiến tại Hội thảo khoa học Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội "Nhận thức tác động của các quy định trong BLHS Việt Nam" đồng tình và nhất trí với quan điểm áp dụng hình phạt tử hình với bất kỳ người nào đều vi phạm nguyên tắc nhân đạo. Có quan điểm cho rằng: Không áp dụng hình phạt tử hình đối với người từ đủ 70 tuổi trở lên, bởi những người từ 70 tuổi trở lên được coi là những người già trong xã hội. Ở độ tuổi này, nhận thức và khả năng xử lý tình huống của con người có thể không còn tốt như khi còn trẻ, khả năng gây nguy hiểm cho xã hội của họ thông thường cũng không cao. Việc bảo vệ quyền sống của họ là một phần tư tưởng bảo vệ nhân quyền và đồng thời là sự thể hiện đạo lý truyền thống của con người Việt Nam [31]. Trên thực tiễn áp dụng pháp luật Việt Nam, Tòa án chưa bao giờ áp dụng hình phạt tử hình với người nào trên 70 tuổi. Theo luận giải của Socrat, Platon, Pitago: "hãy dùng biện pháp khác để cứu một con người" hay Nguyễn Trãi cũng có câu: "lấy nhân nghĩa mà thắng hung tàn". Do đó, việc không áp dụng hình phạt tử hình đối với các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và tội phạm về chức vụ nói riêng, tiến tới không áp dụng hình phạt tử hình nói chung cũng là phù hợp với tinh thần nhân đạo của dân tộc Việt Nam đã lưu truyền từ ngàn đời và cũng là nguyên tắc trong chính sách PLHS Việt Nam. 2.1.2. Vấn đề quyền con ngƣời Trong bản tuyên ngôn thế giới về quyền con người được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua và tuyên bố theo Nghị quyết số 217A ngày 10/12/1948 có quy định rõ tại Điều 3: "Mọi người đều có quyền sống, quyền tự do và an ninh cá nhân" và ngay trong Tuyên ngôn độc lập ngày 02/09/1945 khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa, Bác Hồ đã khẳng định: "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền
  • 46. 46 không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc" [29]. Hơn nữa tại Điều 71 Hiến pháp năm 1992 cũng quy định: "Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm" [36]. Tiếp tục kế thừa tinh thần này, Điều 19 Hiến pháp 2013 quy định: "Mọi người có quyền sống . Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ . Không ai bi ̣tước đ oạt tính mạng trái luật " [40], Khoản 1 Điều 20 Hiến pháp 2013 cũng quy định: "Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm" [40]. Do đó, việc áp dụng hình phạt tử hình đối với bất kỳ con người nào cũng là xâm hại trực tiếp tới quyền được sống của họ và đây là lý do cơ bản khiến 140 Quốc gia trên thế giới hiện nay đã xóa bỏ hoàn toàn hình phạt tử hình trong hệ thống hình phạt của họ. Điều 6 của Công ước quốc tế về những quyền dân sự và chính trị năm 1966 quy định: 1. Mọi người đều có quyền sống. Đây là một quyền bẩm sinh được luật pháp bảo vệ. Không ai có thể bị tước đoạt quyền sống một cách độc đoán. 2. Trong các quốc gia chưa bãi bỏ hình phạt tử hình, tòa án chỉ được tuyên án tử hình đối với những tội hình sự nghiêm trọng nhất chiếu theo luật pháp áp dụng trong thời gian phạm pháp và không trái với những điều khoản của Công Ước này và của Công Ước Ngăn Ngừa và Trừng Phạt Tội Diệt Chủng. Hình phạt tử hình chỉ có thể được thi hành chiếu theo một bản án chung thẩm của một tòa án có thẩm quyền. 4. Các bị cáo bị tuyên án tử hình có quyền xin ân xá hay ân giảm hình phạt. Lệnh đại xá, ân xá hay ân giảm hình phạt có thể được ban hành trong mọi trường hợp.
  • 47. 47 5. Án tử hình không được tuyên đối với các bị cáo chưa đủ 18 tuổi khi phạm pháp, và cũng không được thi hành đối với các phụ nữ mang thai [52]. Tại Bình luận chung số 6 khuyến nghị của Ủy ban công ước Liên hợp quốc nhận định: tuy các quy định trong Điều 6 cho thấy các quốc gia không bắt buộc phải xóa bỏ hoàn toàn hình phạt tử hình, các quốc gia có nghĩa vụ phải hạn chế sử dụng hình phạt này; cụ thể là chỉ sử dụng hình phạt này với "những tội ác nghiêm trọng nhất". Theo đó, các quốc gia phải rà soát, sửa đổi luật hình sự của nước mình theo hướng này và trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng phải giới hạn việc áp dụng hình phạt tử hình với "những tội ác nghiêm trọng nhất". Điều này cũng bao gồm gợi ý rõ ràng trong khoản 2 rằng việc xóa bỏ hình phạt tử hình là đáng mong muốn. Ủy ban kết luận rằng tất cả các biện pháp nhằm xóa bỏ hình phạt tử hình cần được các quốc gia cân nhắc trong quá trình bảo đảm quyền sống nêu ở Điều 40, và cần được báo cáo với Ủy ban. Ủy ban lưu ý rằng một số quốc gia đã xóa bỏ hình phạt tử hình hay hoãn việc áp dụng nó. Ủy ban ủng hộ các quan điểm cho rằng việc diễn giải cụm từ "những tội ác nghiêm trọng nhất" phải được hiểu một cách nghiêm túc theo nghĩa hình phạt tử hình chỉ nên là một biện pháp ngoại lệ. Cũng từ cách diễn đạt các cụm từ ở Điều 6 cho thấy hình phạt này chỉ có thể được áp dụng theo quy định pháp luật đang có hiệu lực pháp luật tại thời điểm phạm tội và không đi ngược lại với các quy định khác của công ước. Cũng có ý kiến cho rằng: Suy cho cùng, một người khi đã thực hiện một tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, tức người đó đã đem quyền sống của mình ra đánh đổi vì anh ta nhận thức được rằng, hành vi của mình đã tước đi bao nhiêu mạng sống của đồng loại. Vì thế, trong trường hợp này, không ai vi phạm quyền sống của bị cáo mà chính bị cáo đã tự khước từ quyền được sống của mình [4].