Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Luận văn thạc sĩ ngành luật: Đại diện theo pháp luật của đương sự trong tố tụng dân sự Việt Nam, cho các bạn tham khảo
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của đương sự, HOT, HAY
1. i
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM THỊ THU HOÀI
ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA ĐƢƠNG
SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội – 2017
2. ii
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM THỊ THU HOÀI
ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA ĐƢƠNG
SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số : 60 38 01 03
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TRẦN ANH TUẤN
Hà Nội – 2017
3. i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng
tôi.Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực.Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
PHẠM THỊ THU HOÀI
4. ii
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1....................................................................................................... 8
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƢỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT
CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ............................................ 8
1.1. Khái niệm, đặc điểm về ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự trong
tố tụng dân sự.........................................................................................................8
1.1.1. Khái niệm về người đại diện theo pháp luật của đương sự...................... 8
1.1.2 Đặc điểm của người đại diện theo pháp luật của đương sự....................12
1.2. Cơ sở khoa học của việc xây dựng các quy định về ngƣời đại diện
theopháp luật của đƣơng sự trong tố tụng dân sự...............................................15
1.2.1. Đảm bảo quyền tiếp cận công lý của công dân......................................16
1.2.2. Đảm bảo quyền tranh tụng của đương sự...............................................16
1.2.3. Đảm bảo người đại diện có đủ khả năng bảo vệ quyền và lợi ích cho
đương sự ..........................................................................................................18
1.2.4. Mối liên hệ giữa pháp luật nội dung và pháp luật tố tụng dân sự trong
việc xây dựng các quy định về người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân
sự .....................................................................................................................19
1.2.5. Đảm bảo điều chỉnh phù hợp đối với từng loại đại diện........................21
1.3. Vai trò của ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự trong tố tụng dân
sự Việt Nam.........................................................................................................22
1.4. Lƣợc sử về sự hình thành và phát triển các quy định về ngƣời đại diện
theo pháp luật của đƣơng sự trong tố tụng dân sự...........................................23
1.4.1. Nguồn gốc xuất hiện của quy định về đại diện....................................23
1.4.2. Quy định về đại diện theo Luật Hồng Đức và Luật Gia Long................24
1.4.3. Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám 1945 .......................................25
1.4.4. Giai đoạn từ Cách Mạng tháng Tám 1945 đến năm 2004.....................26
1.4.5. Giai đoạn từ năm 2004 đến nay.............................................................27
5. iii
1.5. Pháp luật một số nƣớc trên thế giới về ngƣời đại diện theo pháp luật của
đƣơng sự trong tố tụng dân sự.............................................................................29
1.5.1. Quy định về người đại diện của đương sự trong BLTTDS của Cộng hòa
Pháp.................................................................................................................30
Bộ Luật Tố tụng Dân sự Việt Nam năm 2004 (BLTTDS) về cơ bản cũng đƣợc
xây dựng trên cơ sở thủ tục tố tụng xét hỏi của các nƣớc theo hệ thống luật
châu Âu lục địa nhƣ BLTTDS mới của Pháp năm 1975 nhƣng có kết hợp các
yếu tố của thủ tục tố tụng tranh tụng của các nƣớc theo hệ thống pháp luật án
lệ. Việt Nam cũng chịu ảnh hƣởng ít nhiều quy định về đại diện theo quy định
của BLTTDS pháp, đặc biệt là những quy định về ngƣời đại diện của đƣơng sự
cụ thể là các quy định của BLTTDS Pháp về phạm vi những ngƣời đại diện:
cha, mẹ, ngƣời trực thuộc bàng hệ, hay ngƣời thân thích. Quy định về chấm dứt
đại diện cũng đƣợc Bộ Luật tố tụng dân sự 2004 áp dụng và đƣợc thay thế bằng
BLTTDS năm 2015. ........................................................................................30
1.5.2. Quy định về người đại diện của đương sự trong BLTTDS của Liên
Bang Nga.........................................................................................................31
1.5.3. Quy định về người đại diện của đương sự trong BLTTDS của Cộng
hòa nhân dân Trung Hoa ..............................................................................32
NGƢỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ
TỤNG DÂN SỰ THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH.......35
2.1. Các quy định về chủ thể đại diện.................................................................35
2.2. Các quy định về điều kiện của ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự
trong tố tụng dân sự..............................................................................................42
2.2.1. Căn cứ pháp lý xác lập quyền đại diện ...................................................43
2.2.2. Điều kiện về chủ thể ................................................................................44
2.2.3. Điều kiện về hình thức ...........................................................................50
2.3. Quy định về phạm vi tham gia tố tụng của ngƣời đại diện theo pháp luật
của đƣơng sự trong tố tụng dân sự......................................................................51
2.3.1. Phạm vi tham gia tố tụng của người đại diện theo pháp luật ................51
2.3.2. Vượt quá phạm vi đại diện và hậu quả pháp lý......................................53
2.4. Quy định về quyền và nghĩa vụ của ngƣời đại diện theo pháp luật của
đƣơng sự trong tố tụng dân sự.............................................................................53
6. iv
2.4.1.Quyền và nghĩa vụ chung của người đại diện theo pháp luật ...............53
2.4.1.1. Quyền của người đại diện theo pháp luật của đương sự...................53
2.4.1.2. Nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của đương sự.................58
2.4.2. Về quyền và nghĩa vụ tố tụng cụ thể của người đại diện........................59
2.5. Các quy định về chấm dứt đại diện và hậu quả pháp lý..............................61
2.5.1. Về các trường hợp chấm dứt đại diện theo pháp luật............................61
2.5.2. Về hậu quả pháp lý của việc chấm dứt đại diện theo pháp luật.............63
CHƢƠNG 3.....................................................................................................65
THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ NGƢỜI ĐẠI DIỆN THEO
PHÁP LUẬT CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VÀ KIẾN
NGHỊ...............................................................................................................65
3.1. Thực tiễn thực hiện các quy định về đại diện theo pháp luật của đƣơng sự
trong tố tụng dân sự.............................................................................................65
3.1.1. Về kết quả thực thi pháp luật .................................................................65
3.1.2. Về hạn chế, vướng mắc trong thực hiện quy định về người đại diện theo
pháp luật của đương sự ...................................................................................68
3.1.3. Về nguyên nhân của hạn chế trong thực tiễn thực hiện các quy định về
người đại diện theo pháp luật của đương sự ...................................................80
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định về ngƣời đại diện theo
pháp luật của đƣơng sự trong tố tụng dân sự......................................................81
KẾT LUẬN CHUNG......................................................................................89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................91
7. v
DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT
Số
thứ tự
Tên viết tắt Tên viết đầy đủ
1 BLDS Bộ luật dân sự
2 BLTTDS Bộ luật tổ tụng dân sự
3 UBND Ủy ban nhân dân
4 NLHVDS Năng lực hành vi dân sự
8. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngƣời đại diện là một chế định quan trọng trong pháp luật tố tụng dân sự Việt
Nam.Và với xu thế phát triển của xã hội văn minh, đại diện luôn là một nhu cầu
không thể thiếu trong đời sống xã hội cũng nhƣ trong môi trƣờng pháp lý. Điều 16
Hiến pháp 2013 quy định: “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Không ai bị
phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế văn hóa xã hội”. Đó cũng là
một trong những nguyên tắc quan trọng của tố tụng dân sự theo đó mọi cá nhân, tổ
chức đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự. Điều 8 Bộ luật Tố
tụng dân sự 2015 cũng đã quy định về nguyên tắcbình đẳng về quyền và nghĩa vụ
trong tố tụng dân sự. Theo đó, trong tố tụng dân sự mọi ngƣời đều bình đẳng trƣớc
pháp luật, không phân biệt dân tộc, giới tính, tín ngƣỡng, tôn giáo, thành phần xã hội,
trình độ văn hoá, nghề nghiệp, địa vị xã hội.Mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân đều bình
đẳng trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng trƣớc Tòa án.Tòa án có trách
nhiệm bảo đảm nguyên tắc bình đẳng trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của cơ
quan, tổ chức, cá nhân trong tố tụng dân sự. Các đƣơng sự đều đƣợc pháp luật trao
cho các quyền tố tụng dân sự làm phƣơng tiện để bảo vệ quyền lợi của mình trƣớc
Tòa án, đồng thời phải thực hiện các nghĩa vụ tố tụng nhất định, hợp tác với Tòa án
trong giải quyết vụ việc dân sự. Tuy nhiên, trong những trƣờng hợp đƣơng sự là cá
nhân không có năng lực hành vi tố tụng dân sự thì bản thân họ không thể tự mình
thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng. Trƣờng hợp đƣơng sự là cơ quan, tổ chức thì
việc tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi của họ cũng cần phải đƣợc thực hiện thông
những chủ thể đại diện đƣợc pháp luật thừa nhận. Do vậy, cần có cơ chế đại diện để
bảo đảm cho các quyền và nghĩa vụ tố tụng của đƣơng sự đƣợc thực hiện trên thực tế.
Quan hệ tố tụng dân sự là quan hệ hình thức phản ánh các quan hệ pháp
luật nội dung thuộc các ngành luật khác nhƣ luật dân sự, hôn nhân và gia đình, lao
động, thƣơng mại nên quan hệ tố tụng dân sự phản ánh thuộc tính của các quan hệ
pháp luật nội dung nhƣ tính bình đẳng, thoả thuận, tự do, tự nguyện và quyền tự định
9. 2
đoạt của các đƣơng sự. Việc đặt đƣơng sự vào vị trí trung tâm của toàn bộ quá trình
giải quyết các vụ việc dân sự, xác định tƣ cách của các đƣơng sự, quyền và nghĩa vụ
của các đƣơng sự, mối quan hệ giữa ngƣời tham gia tố tụng với cơ quan tiến hành tố
tụng, với ngƣời tiến hành tố tụng đƣợc xem là vấn đề trọng tâm của ngành luật tố
tụng dân sự. Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015 đƣợc Quốc hội khóa XIII
thông qua ngày 25/11/2015 thay thế sửa đổi BLTTDS năm 2004, đƣợc sửa đổi bổ
sung năm 2011. Bộ luật này đƣợc xây dựng trong quá trình nƣớc ta có những chuyển
biến mạnh mẽ về kinh tế, xã hội, nhằm thể chế hóa những đƣờng lối chính sách, quan
điểm, tƣ tƣởng trong xây dựng pháp luật và cải cách tƣ pháp của Đảng, trên cơ sở kế
thừa có chọn lọc và phát triển các nguyên tắc cơ bản của pháp luật tố tụng trƣớc đây.
Ngƣời đại diện theo pháp luật là một trong những bộ phận không thể thiếu trong
tố tụng dân sự. Việc xác định đúng ngƣời đại diện theo pháp luật, quyền và nghĩa vụ
của ngƣời đại diện theo pháp luật là một điều hết sức quan trọng. Vai trò và các hoạt
động của ngƣời đại diện theo pháp luật có ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với
đƣơng sự mà còn có vai trò quan trọng đối với cơ quan tiến hành tố tụng, góp phần
giải quyết vụ việc một cách nhanh chóng, đảm bảo quyền lợi của đƣơng sự. Chế định
về ngƣời đại diện hợp pháp của đƣơng sự trong BLTTDS năm 2015 kế thừa và phát
triển các quy định về ngƣời đại diện hợp pháp trong các văn bản pháp luật trƣớc đó
nhƣ Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989, Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án kinh tế năm 1994, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao
động năm 1996, Bộ luật dân sự 1995, Bộ luật dân sự 2005 và Bộ luật tố tụng dân sự
2004, BLTTDS sửa đổi năm 2011. Ngƣời đại diện của đƣơng sự đƣợc quy định tại
Mục 2 Chƣơng VI (từ Điều 85 tới Điều 90) và tại Phần thứ sáu Chƣơng XXIII (Điều
367, Điều 368, Điều 369, 370) của BLTTDS năm 2015. Các quy định về ngƣời đại
diện của đƣơng sự tại BLTTDS năm 2015 đã khắc phục đƣợc đáng kể những hạn
chế, bất cập trong các văn bản tố tụng trƣớc đó. Tuy nhiên, một số quy định về ngƣời
đại diện của đƣơng sự trong BLTTDS năm 2015 còn chƣa đầy đủ, nhiều quy định
còn thiếu tính cụ thể, rõ ràng, có những vấn đề cần thiết nhƣng chƣa đƣợc luật
hóa…Các quy định về đại diện theo pháp luật của đƣơng sự trong tố tụng dân sự của
BLTTDS năm 2015 chủ yếu đƣợc dẫn chiếu tới các quy định chung về đại diện theo
10. 3
pháp luật trong Bộ luật dân sự 2015. Nhìn chung các quy định về đại diện theo pháp
luật trong BLTTDS năm 2015 vẫn giữ nguyên các quy định trong Bộ luật Tố tụng dân
sự 2004 và phát triển trên cơ sở các quy định về đại diện trong Bộ luật dân sự 2015.
Trong thực tiễn tố tụng đã phát sinh rất nhiều bất cập liên quan đến ngƣời đại
diện theo pháp luật của đƣơng sự nhƣ xác định sai về địa vị pháp lý của ngƣời đại
diện theo pháp luật, quyền và nghĩa vụ của ngƣời đƣợc đại diện chƣa cụ thể, chƣa có
các quy định rõ ràng về ngƣời đại diện theo pháp luật của pháp nhân, đại diện giữa vợ
và chồng khi ly hôn mà một bên bị mắc bệnh tâm thần, các quy định về vấn đề này có
có nhiều mâu thuẫn với các quy định trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2014,
chƣa quy định rõ các nội dung mà ngƣời đại diện theo pháp luật đại diện cho đƣơng
sự khi tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi cho họ, quyền kháng cáo, kháng nghị của
ngƣời đại diện theo pháp luật dẫn đến ảnh hƣởng trực tiếp đến quá trình tố tụng, đến
quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia tố tụng dân sự.Đây có phải là do các
quy định của pháp luật tố tụng dân sự chƣa đầy đủ hay do ý thức, sự hiểu biết pháp
luật của các chủ thể tham gia tố tụng, các cơ quan, ngƣời tiến hành tố tụng.
Xuất phát từ vai trò của ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự, thực tiễn
pháp luật và thực tiễn trong quá trình tố tụng, vì vậy việc nghiên cứu về chế định ngƣời
đại diện theo pháp luật của đƣơng sự là nhu cầu cần thiết. Các quy định của pháp luật
hầu nhƣ chƣa có công trình nào nghiên cứu về đại diện theo pháp luật của đƣơng sự, cần
phải có một sự nghiên cứu rõ ràng về chế định ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng
sự. Vì vậy luận văn đã đi vào nghiên cứu một cách chi tiết và cụ thể về đại diện theo
pháp luật của đƣơng sự trong tố tụng dân sự Việt Nam, từ lý luận đến thực tiễn để nghiên
cứu và hoàn thiện hơn các quy định về ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đã có một số công trình nghiên cứu của các tác giả về ngƣời đại diện của
đƣơng sự nói chung, và ngƣời đại diện theo ủy quyền. Chẳng hạn nhƣ Luận văn thạc
sỹ luật học “Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự” của tác giả Nguyễn
Thị Ngọc Hà năm 2012 đã khái quát một cách chung nhất về đại diện theo pháp luật
và đại diện theo ủy quyền của đƣơng sự; Khóa luận tốt nghiệp “Chế định người đại
11. 4
diện của đương sự trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam” của Hồ Nguyên Bình
năm 2012; Bài viết in trên trang chủ của Bộ tƣ pháp - Mục nghiên cứu trao đổi về đề
tài: “Đại diện của đương sự-một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Minh Nhất đã
phân tích rõ đƣợc vai trò của ngƣời đại diện khi tham gia vào quá trình tố tụng; bài
viết “Bố mẹ có quyền đại diện cho con bị tâm thần khởi kiện xin li hôn hay không”
của Tƣởng Duy Lƣợng, đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, số 6/2006; “Người mù
không có người đạidiện có quyền khởi kiện dân sự” của Từ Văn Thiết, đăng trên Tạp
chí Tòa án nhân dân, số 18/2006; các bài viết này đã đề cập đến các quy định trong
trƣờng hợp một trong các đƣơng sự bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự hoặc
không có ngƣời đại diện thì ai là ngƣời đại diện cho họ. Bài viết "Đại diện theo ủy
quyền, từ pháp luật nội dung đến tố tụng dân sự", của Nguyễn Minh. Hằng, đăng trên
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 5/2005. Bài viết “Một số suy nghĩ về Đại diện của
đương sự trong tố tụng dân sự” của Tƣởng Duy Lƣợng, đăng trên Tạp chí khoa học
pháp luật, số 01(38), 2007; “Chế định đại diện theo quy định của pháp luật Việt Nam
- nhìn từ góc độ Luật so sánh”, của tác giả Ngô Huy Cƣơng, đăng trên Tạp chí Nhà
nƣớc và pháp luật số 4/2009 đã phân tích khái niệm đại diện, so sánh quy định về đại
diện trong pháp luật Việt Nam với các quy định của pháp luật các nƣớc trong cùng hệ
thống pháp luật từ đó rút ra những điểm mạnh và hạn chế của quy định đó.
Các công trình nghiên cứu về ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự còn
có nhiều hạn chế đã có một số bài viêt sau: “Một số vấn đề về người đại diện theo ủy
quyền và người đại diện do tòa án chỉ định trong tố tụng dân sự” của tác giả Nguyễn
Thị Hạnh- GV Học viện tƣ pháp đăng trên Tạp chí Nghề Luật số 06/2010; bài viết
“Giám hộ, đại diện trong Bộ luật dân sự và Bộ luật tố tụng dân sự” của Thạc sỹ
Nguyễn Việt Cƣờng - Chánh tòa Lao động TANDTC năm 2010, một số bài viết khác
liên quan đến đại diện giữa vợ và chồng khi li hôn, đại diện theo pháp luật của pháp
nhân….Cáccông trình trên đƣợc thực hiện trƣớc khi có BLDS năm 2015 và BLTTDS
năm 2015 và chủ yếu khai thác dƣới góc độ bảo đảm quyền bảo vệ của đƣơng sự
hoặc mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu một số khía cạnh về ngƣời đại diện theo
pháp luật của đƣơng sự, chỉ ra một số vƣớng mắc nhất định khi thực hiện quy định về
đại diện theo pháp luật tham gia tố tụng, chƣ́ chƣa nghiên c ứu một cách toàn di ện
12. 5
và chuyên sâu về đại diện theo pháp luật của đƣơng sự trong tố tụng dân sự. Mới
đây nhất có tác phẩm Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 do
Thạc sỹ luật Đoàn Tấn Minh và luật gia Nguyễn Ngọc Điệp là những ngƣời có
nhiều kinh nghiệm trong công tác xét xử đối với án dân sự biên soạn. Tác phẩm đã
phân tích đƣợc những điểm mới về đại diện theo pháp luật của đƣơng sự trong tố
tụng dân sự và những hạn chế của khi áp dụng thực tiễn các quy định. Kết quả
nghiên cứu của các công trình này là cơ sở, tiền đề quan trọng cho việc thực hiện
một công trình nghiên cứu chuyên sâu về đại diện theo pháp luật của đƣơng sự
theo tinh thần của BLDS năm 2015 và BLTTDS năm 2015.
Trên tình hình thực tế nhƣ vậy, Luận văn muốn đƣa ra một nghiên cứu
chuyên sâu và toàn diện quy định về đại diện theo pháp luật của đƣơng sự trong tố
tụng dân sự từ lý luận đến thực tiễn, để từ đó đƣa ra các kiến nghị để bổ sung và
hoàn thiện hơn nữa các quy định của pháp luật hiên hành về đại diện theo pháp
luật của đƣơng sự, và làm tài liệu tham khảo cho các công trình nghiên cứu về sau.
3. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ các vấn đề lý luận liên quan đến ngƣời đại diện, ngƣời đại diện theo
pháp luật của đƣơng sự và các quy định của pháp luật có liên quan;
Phân tích, đánh giá các quy định pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về
ngƣời đại diện của đƣơng sự trong tố tụng dân sự;
Nghiên cứu thực tiễn trong giải quyết các vụ việc liên quan đến ngƣời đại
diện theo pháp luật của đƣơng sự, phân tích sự bất cập và hạn chế giữa các văn
bản pháp luật khác nhau và áp dụng nó trên thực tiễn;
Tìm ra nguyên nhân và đƣa ra những giải pháp, đề xuất các kiến nghị nhằm
xác định và nâng cao vai trò của ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự trong
tố tụng dân sự.
4. Tính mới và đóng góp của đề tài
13. 6
Hiện nay chƣa có công trình nghiên cứu cụ thể quy định về ngƣời đại diện theo
pháp luật của đƣơng sự trong tố tụng dân sự. Các công trình chỉ dừng lại ở một mức độ
khái quát về chế định ngƣời đại diện nói chung.
Luận văn phân tích toàn diện, chuyên sâu về khái niệm, đặc điểm, vai trò của
ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự trong tố tụng dân sự, việc phân loại đại
diện, cơ sở xây dựng các quy định về ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự
trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam.
Luận văn đã phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về ngƣời đại diện
theo pháp luật của đƣơng sự cũng nhƣ thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật,
từ đó rút ra những hạn chế và đề xuất một số giải pháp nhằm kiến nghị và hoàn thiện
pháp luật về ngƣời đại diện theo ủy quyền của đƣơng sự trong tố tụng dân sự. Luận văn
còn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho hoạt động giảng dạy và nghiên cứu.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự. Luận văn không nghiên cứu về
đại diện theo pháp luật trong hoạt động thi hành án, mà chỉ tập trung nghiên cứu về
đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự tại Toà án. Luận văn không nghiên cứu
sâu toàn bộ các quy định về đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự từ trƣớc đến
nay, không nghiên cứu chuyên sâu về ngƣời đại diện của đƣơng sự trong việc dân sự
mà chỉ tập trung nghiên cứu về ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự trong vụ
án dân sự, đặc biệt là các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Bộ luật dân
sự 2015 (có hiệu lực thi hành ngày 01/01/2017) và một số văn bản pháp luật khác có
liên quan đến ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự trong vụ án dân sự.
Tuy nhiên, để có thể triển khai đề tài một cách sâu sắc, việc nghiên cứu về
lƣợc sử các quy định có liên quan đến vấn đề nghiên cứu cũng đƣợc tiến hành. Bên
cạnh đó, Luận văn cũng nghiên cứu kinh nghiệm lập pháp một số nƣớc về ngƣời đại
diện theo pháp luật nhƣ pháp luật Pháp, Nga, Trung Quốc để so sánh, tham khảo.
Ngoài ra, Luận văn còn nghiên cứu về thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật
về đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự tại một số Tòa án nhằm làm rõ hơn
14. 7
những hạn chế, vƣớng mắc, làm cơ sở cho việc đề xuất giải pháp hoàn thiện và thực
hiện pháp luật về ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở phƣơng pháp luận đề nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử của học thuyết Mác-Lê Nin, gắn kết tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và quan
điểm, đƣờng lối của đảng và pháp luật của Nhà nƣớc về Hôn nhân và gia đình nói
chung và việc chế định ngƣời đại diện theo pháp luật.
Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài bao gồm một số phƣơng pháp nhƣ phƣơng pháp
phân loại pháp lý, so sánh pháp luật, phân tích quy phạm, mô hình hóa và điểm hình
hóa các quan hệ xã hội, phƣơng pháp phân tích lịch sử, phân tích quan điểm, quan
niệm, hệ thống hóa, thống kê, điều tra xã hội học.Phƣơng pháp phân loại pháp lý đƣợc
sử dụng để xác định vấn đề cần làm rõ thuộc điều chỉnh của ngành luật nào, chế định
nào đƣợc sử dụng để xác minh tính đúng đắn của vấn đề mà đề tài đang nghiên cứu.
Phƣơng pháp phân tích lịch sử, so sánh pháp luật đƣợc sử dụng trong nghiên
cứu đề tài. Bởi lẽ, chế định đại diện theo pháp luật của đƣơng sự, phải đƣợc đặt trong
mối liên hệ với lịch sử, với các quan điểm khác nhau về nó, so sánh với pháp luật mỗi
quốc gia, để nhận thấy những giá trị đích thực của các quy phạm điều chỉnh về vấn đề
đại diện theo pháp luật của đƣơng sự.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Nội dung của Luận văn gồm ba chƣơng:
Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự
trong tố tụng dân sự
Chƣơng 2: Ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự trong tố tụng dân sự theo
pháp luật hiện hành
Chƣơng 3: Thực tiễn thực hiện các quy định về ngƣời đại diện theo pháp luật của
đƣơng sự trong tố tụng dân sự và kiến nghị.
15. 8
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƢỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT
CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm về ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự
trong tố tụng dân sự
1.1.1. Khái niệm về người đại diện theo pháp luật của đương sự
Thuật ngữ “Tố tụng dân sự” đƣợc hiểu là trình tự, thủ tục hoạt động do pháp
luật quy định cho việc xem xét giải quyết và thi hành các vụ việc dân sự. Trong tố
tụng dân sự, các chủ thể tham gia tố tụng bao gồm đƣơng sự, ngƣời bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đƣơng sự, ngƣời đại diện của đƣơng sự, ngƣời làm chứng, ngƣời
phiên dịch, ngƣời giám định. Trong đó, ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự
trong pháp luật tố tụng dân sự là một chủ thể đóng một vai trò hết sức quan trọng
trong tố tụng dân sự. Để tìm hiểu rõ khái niệm ngƣời đại diện theo pháp luật của
đƣơng sự trong tố tụng dân sự thì trƣớc hết cần phải làm rõ bản chất của đại diện chủ
thể có thể là ngƣời đại diện của đƣơng sự.
“Đương sự” là một khái niệm cơ bản khi tiếp cận dƣới nhiều góc độ. Đã có
nhiều khái niệm về đƣơng sự đƣợc đƣa ra nhƣng theo Từ điển Tiếng Việt thì “đƣơng
sự là ngƣời, là đối tƣợng trực tiếp của một việc đang giải quyết” [24, tr.346], còn theo
Từ điển Từ và ngữ Hán Việt thì đƣơng sự là ngƣời có liên quan trực tiếp đến một
việc. Trong khoa học pháp lý thì đƣơng sự đƣợc hiểu “là ngƣời có quyền, nghĩa vụ
đƣợc giải quyết trong một việc khiếu nại hoặc một vụ án” [7, tr.165].Trong lĩnh vực
tố tụng dân sự, đƣơng sự đƣợc hiểu là ngƣời tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình hoặc bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của nhà nƣớc thuộc lĩnh
vực mình phụ trách. Về phƣơng diện pháp luật, Khoản 1 Điều 68 BLTTDS năm 2015
đã đi theo hƣớng liệt kê các chủ thể có thể đƣợc coi là đƣơng sự. Theo đó, đƣơng sự
trong vụ án dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bao gồm nguyên đơn, bị đơn, ngƣời
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; đƣơng sự trong việc dân sự là cơ quan, tổ chức cá
nhân bao gồm ngƣời yêu cầu giải quyết việc dân sự và ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ
16. 9
liên quan. BLTTDS năm 2015 đã quy định rõ hơn về đƣơng sự so với BLTTDS sửa
đổi năm 2011 theo hƣớng có sự phân biệt đƣơng sự trong việc dân sự và trong vụ án
dân sƣ. Khi tham gia vào quan hệ pháp luật, các chủ thể thƣờng tự mình thực hiện các
quyền và nghĩa vụ của họ.Tuy vậy, trong một số trƣờng hợp, các chủ thể khác có thể
thay mặt đƣơng sự để thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ và từ đó hình
thành quan hệ đại diện.Xét về lý luận thì yếu tố quyền, lợi ích là yếu tố chủ yếu để
phân biệt đƣơng sự với ngƣời đại diện của họ.
Đại diện là một quan hệ pháp lý theo đó ngƣời đại diện độc lập thực hiện sự
thể hiện ý chí làm phát sinh hậu quả pháp lý trực tiếp đối với ngƣời đƣợc đại diện.
Xét từ góc độ lý luận có thể thấy đại diện là một chế định pháp lý thể hiện sự linh
hoạt, mềm dẻo trong cách thức tham gia vào giao dịch dân sự của các chủ thể.Vấn đề
đại diện trong dân sự đã đƣợc đề cập trong một số giáo trình giảng dạy của các cơ sở
đào tạo luật học. Trang 157, Giáo trình Luật Dân sự của Trƣờng Đại học Luật Hà
Nội, nhà xuất bản Công an nhân dân năm 2002 định nghĩa “Đại diện là một quan hệ
pháp luật”. Chủ thể của quan hệ pháp luật đó bao gồm ngƣời đại diện và ngƣời đƣợc
đại diện.Ngƣời đại diện nhân danh ngƣời đƣợc đại diện xác lập quan hệ với ngƣời thứ
ba vì lợi ích của ngƣời đƣợc đại diện. Ngƣời đƣợc đại diện tiếp nhận những hậu quả
pháp lý từ quan hệ do ngƣời đƣợc đại diện xác lập, thực hiện đúng thẩm quyền đại
diện.
Nghiên cứu pháp luật cho thấy BLDS năm 2015 đã định nghĩa “Đại diện là
việc cá nhân, pháp nhân (sau đây gọi chung là người đại diện) nhân danh và vì lợi
ích của người khác (sau đây gọi chung là người được đại diện) xác lập và thực hiện
giao dịch dân sự” (Điều 134, khoản 1 BLDS 2015). Định nghĩa đại diện theo quy
định của BLDS 2015 đã chỉ rõ chủ thể đại diện là cá nhân và pháp nhân, khác với
BLDS 2005 chỉ xác định đại diện là “một ngƣời”. Nếu hiểu theo nghĩa hẹp của BLDS
năm 2005 trƣớc đây thì chỉ có cá nhân đƣợc tham gia đại diện cho chủ thể khác khi
tham gia quan hệ pháp luật dân sự. BLDS 2015 đã mở rộng hơn chủ thể về đại diện,
theo đó pháp nhân cũng là ngƣời đại diện, nhân danh cá nhân hoặc pháp nhân để
tham gia quan hệ pháp luật. Tuy nhiên, định nghĩa về đại diện trong Điều 139 BLDS
17. 10
năm 2005 và Điều 134 BLDS năm 2015 đều đi theo hƣớng đại diện là việc chủ thể
này nhân danh và vì lợi ích của chủ thể khác. Khi bình luận quy định của BLDS năm
2005 về đại diện, TS.Ngô Huy Cƣơng đã nhận định nếu phân tích theo đúng chữ
nghĩa của định nghĩa này, thì hành động của ngƣời đƣợc đại diện vƣợt ra ngoài phạm
vi đại diện, và việc gây thiệt hại cho ngƣời khác do phạm vi của ngƣời đại diện trong
khi thực hiện đại diện có thể không nằm trong phạm vi điều chỉnh của chế định đại
diện.Ngƣời đại diện thực hiện hành vi nhân danh ngƣời đƣợc đại diện nên cần phải có
một giới hạn nhất định cho hành vi đó.
Dƣới góc độ tố tụng dân sự thì ngƣời đại diện của đƣơng sự là ngƣời tham gia
tố tụng thay mặt đƣơng sự thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp cho đƣơng sự trƣớc tòa án. Việc tham gia tố tụng dân sự của ngƣời đại
diện của đƣơng sự có ý nghĩa rất lớn đối với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đƣơng sự trong trƣờng hợp họ là ngƣời bị hạn chế hoặc bị mất năng lực hành vi
tố tụng, giúp cho đƣơng sự, cơ quan tiến hành tố tụng làm rõ đƣợc sự thật của vụ
việc, vụ án dân sự.
Việc nghiên cứu cho thấy pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam thƣờng không có
các quy định chi tiết về việc đại diện trong tố tụng dân sự. Vấn đề đại diện trong tố
tụng dân sự đƣợc dẫn chiếu theo các quy định của pháp luật dân sự. Xét về bản chất
thì đại diện trong tố tụng dân sự đƣợc thiết lập trên nguyên lý của đại diện trong quan hệ
dân sự.Theo đó, ngƣời đại diện trong tố tụng dân sự phải nhân danh và vì lợi ích của
đƣơng sự trong phạm vi đại diện. Đƣơng sự đƣợc đại diện trong tố tụng dân sự có thể là
nguyên đơn, bị đơn hoặc ngƣời có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Họ là ngƣời đại diện
theo pháp luật, tiếp nhận các hậu quả pháp lý từ quan hệ đại diện trong phạm vi thẩm
quyền đại diện. Đƣơng sự đƣợc đại diện có thể là cá nhân không có năng lực hành vi tố
tụng dân sự chƣa đủ hoặc bị hạn chế năng lực hành vi tố tụng nên theo quy định của
pháp luật phải có ngƣời đại diện. Các chủ thể là pháp nhân, tổ chức đại diện tập thể lao
động đều hoạt động thông qua hành vi của những ngƣời có thẩm quyền đại diện cho chủ
thể đó. Cơ quan cá nhân, tổ chức khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
18. 11
ngƣời khác cũng đƣợc coi là đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự của ngƣời
đƣợc bảo vệ (khoản 2 Điều 85 BLTTDS năm 2015).
Pháp luật tố tụng dân sự không quy định nhƣ thế nào là ngƣời đại diện theo
pháp luật của đƣơng sự mà chỉ liệt kê ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự.
Theo Từ điển Luật học thì ngƣời đại diện là cá nhân, pháp nhân nhân danh và vì lợi
ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây gọi chung là ngƣời đƣợc đại diện)
xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.Việc nghiên cứu cho thấy BLDS năm 2015
không quy định trực tiếp về khái niệm ngƣời đại diện theo pháp luật nhƣ đã đƣợc quy
định tại Điều 140 BLDS năm 2005: “Đại diện theo pháp luật là đại diện do pháp luật
quy định hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định”. Tuy nhiên, Điều 135 Bộ
luật này đã có quy định về căn cứ xác lập đại diện: “Quyền đại diện được xác lập
theo ủy quyền giữa người được đại diện và người đại diện (sau đây gọi là đại diện
theo ủy quyền); theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, theo điều lệ
của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật (sau đây gọi chung là đại diện theo
pháp luật)”.
BLDS năm 2015 đã chia các loại đại diện theo pháp luật thành hai Điều khoản
riêng biệt là đại diện theo pháp luật của pháp nhân (Điều 136 BLDS năm 2015) và
đại diện theo pháp luật của pháp nhân (Điều 137 BLDS năm 2015). Theo đó, ngƣời đại
diện theo pháp luật đối với cá nhân bao gồm cha, mẹ đối với con chƣa thành niên; ngƣời
giám hộ đối với ngƣời đƣợc giám hộ. Ngƣời giám hộ của ngƣời có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi là ngƣời đại diện theo pháp luật nếu đƣợc Tòa án chỉ định. Ngƣời
đại diện theo pháp luật đối với cá nhân còn có thể bao gồm ngƣời do Tòa án chỉ định
trong trƣờng hợp không xác định đƣợc ngƣời đại diện cho ngƣời chƣa thành niên, ngƣời
đƣợc giám hộ, ngƣời do Tòa án chỉ định đối với ngƣời bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự. Ngƣời đại diện theo pháp luật của pháp nhân bao gồm ngƣời đƣợc pháp nhân chỉ
định theo điều lệ; ngƣời có thẩm quyền đại diện theo quy định của pháp luật; ngƣời do
Tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng tại Tòa án. BLDS năm 2015 đã bỏ quy định về tại
Khoản 5, khoản 6 Điều 141 BLDS năm 2005 về đại diện của chủ hộ gia đình đối với gia
đình, tổ trƣởng tổ hợp tác đối với tổ hợp tác.
19. 12
Các quy định về ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự trong Điều 85
BLTTDS năm 2015 đã dẫn chiếu tới các quy định về ngƣời đại diện theo pháp luật trong
quan hệ dân sự đƣợc quy định tại Khoản 2 Điều 85 BLDS năm 2015. Theo quy định tại
Điều 85 BLTTDS năm 2015 thì ngƣời đại diện theo pháp luật đƣợc quy định trong Bộ
luật dân sự là ngƣời đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự, trừ trƣờng hợp bị hạn
chế quyền đại diện theo quy định của pháp luật; Cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời khác cũng là ngƣời đại diện theo pháp luật
trong tố tụng dân sự của ngƣời đƣợc bảo vệ. BLTTDS năm 2015 có những quy định cụ
thể hơn về ngƣời đại diện so với quy định tại Điều 75 BLTTDS 2004 sửa đổi bổ sung
năm 2011, Bộ luật này đã quy định rõ hơn về tổ chức đại diện tập thể ngƣời lao động tại
Khoản 3 Điều 85 BLTTDS năm 2015: “Tổ chức đại diện tập thể lao động là người đại
diện theo pháp luật cho tập thể người lao động khởi kiện vụ án lao động, tham gia tố
tụng tại Tòa án khi quyền, lợi ích hợp pháp của tập thể người lao động bị xâm phạm; tổ
chức đại diện tập thể lao động đại diện cho người lao động khởi kiện vụ án lao động,
tham gia tố tụng khi được người lao động ủy quyền”.
Với những luận giải trên có thể nhận thấy về bản chất thì ngƣời đại diện theo
pháp luật của đƣơng sự trong tố tụng dân sự là cá nhân, pháp nhân tham gia tố tụng
nhân danh và vì lợi ích của đƣơng sự, thay mặt đƣơng sự trƣớc Tòa án để thực hiện
các quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ theo quy định của pháp luật.
Ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự khi tham gia vào quá trình tố tụng
có một vai trò rất quan trọng. Một là, việc tham gia tố tụng của ngƣời đại diện theo
pháp luật của đƣơng sự có tác dụng đối với việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
đƣơng sự, nhất là trong trƣờng hợp họ là những ngƣời bị hạn chế hoặc bị mất năng lực
hành vi tố tụng dân sự. Hai là, việc tham gia tố tụng của ngƣời đại diện theo pháp luật
của đƣơng sự còn có tác dụng nhất định trong việc làm rõ sự thật về vụ việc dân sự.
1.1.2 Đặc điểm của người đại diện theo pháp luật của đương sự
Ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự mang đầy đủ các đặc điểm của
đƣơng sự - Ngƣời tham gia tố tụng, ngoài ra còn có một số đặc trƣng:
20. 13
+ Người đại diện theo pháp luật của đương sự nhân danh đương sự tham gia
tố tụng dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
Ngƣời đại diện theo pháp luật cho đƣơng sự không phải là chủ thể quan hệ
của pháp luật nội dung đang tranh chấp, nên họ tham gia với tƣ cách là ngƣời thay
mặt đƣơng sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự. Tuy nhiên, khác với
ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự là tham gia tố tụng song song
cùng đƣơng sự và có vị trí pháp lý độc lập và không thay mặt cho đƣơng sự, thì ngƣời
đại diện theo pháp luật của đƣơng sự thƣờng tham gia tố tụng dân sự khi đƣơng sự không
tham gia tố tụng đƣợc hoặc không đủ khả năng để tham gia tố tụng tại Tòa án để nhân
danh ngƣời đƣợc đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời đƣợc đại diện.
+ Người đại diện theo pháp luật của đương sự tham gia tố tụng trên cơ sở
quan hệ đại diện.
Ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự đồng thời tham gia hai mối quan
hệ: quan hệ đại diện và quan hệ tố tụng. Quan hệ đại diện là cơ sở để ngƣời đại diện
của đƣơng sự tham gia vào quan hệ tố tung. Quan hệ đại diện có thể đƣợc xác lập
trƣớc hoặc sau khi Toà án tiến hành tố tụng. Quan hệ đại diện là cơ sở để ngƣời đại
diện của đƣơng sự tham gia vào quan hệ tố tụng. Quan hê ̣đa ̣i diê ̣n này có thể đƣợc
hình thành trên cơ sở thỏa thuận ý chí giữa các bên(đa ̣i diê ̣n theo ủy quyền) hoặc theo
quy đi ̣nh của pháp luâ ̣t(đa ̣i diê ̣n theo pháp luâ ̣t).
Đối với đa ̣i diê ̣n theo pháp luâ ̣t thì ph ạm vi các trƣờng hợp ngƣời đại diện
trong tố tụng dân sự đƣợc xác định theo pháp luật là tƣơng đối rộng. Quan hệ đại diện
trong tố tụng dân sự có thể hình thành trên cơ sở quan hệ đại diện trong các quan hệ
pháp luật nội dung hoặc đƣợc hình thành thông qua quyết định của Toà án. Quan hệ đại
diện trong tố tụng dân sự có thể mang tính đƣơng nhiên do chủ thể đại diện đã là ngƣời
đại diện trƣớc đó trong quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân gia đình, thƣơng mại, lao
động (trên cơ sở quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân, quan hệ giám hộ hoặc đại diện)
hoặc có thể mới đƣợc Toà án chỉ định là ngƣời đại diện thay mặt cho đƣong sự trong tố
tụng dân sự.
21. 14
Đây là một trong những đặc điểm quan trọng để phân biệt ngƣời đại diện với
ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự - một chủ thể tham gia tố tụng
cũng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đƣơng sự nhƣng không thay mặt cho
đƣơng sự nhƣ ngƣời đại diện.Khác với ngƣời đại diện, ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đƣơng sự tham gia tố tụng với vị trí pháp lý tƣơng đối độc lập với đƣơng sự.Họ
tham gia tố tụng trên cơ sở hợp đồng ký kết với đƣơng sự hoặc ngƣời đại diện của đƣơng
sự và đƣợc sự chấp thuận của Tòa án.
+ Quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của đương sự phụ thuộc
vào quyền và nghĩa vụ của đương sự và bản chất của quan hệ đại diện.
Ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự là ngƣời thay mặt đƣơng sự thực hiện
những quyền và nghĩa vụ mà bản thân đƣơng sự đáng lẽ ra phải thực hiện. Chính vì vậy
quyền và nghĩa vụ của họ phụ thuộc vào đƣơng sự và bản chất của quan hệ đại
diện.Ngƣời đại diện của đƣơng sự không tự nhiên có các quyền, nghĩa vụ tố tụng của
đƣơng sự. Họ có các quyền, nghĩa vụ này là do pháp luật quy định hoặc do đƣơng sự
quyết định thông qua hợp đồng ủy quyền.
Đối với đại diện theo pháp luật thì quyền, nghĩa vụ của ngƣời đại diện của đƣơng
sự là quyền, nghĩa vụ của đƣơng sự; còn đối với ngƣời đại diện theo ủy quyền thì họ chỉ
có các quyền, nghĩa vụ theo hợp đồng ủy quyền. Nhƣ vậy, dù là đại diện theo pháp luật
hay đại diện theo ủy quyền thì quyền và nghĩa vụ của ngƣời đại diện cũng đều phụ thuộc
vào quyền, nghĩa vụ của đƣơng sự và không vƣợt quá phạm vi các quyền và nghĩa vụ đó.
Trong khi đó, vì có tƣ cách độc lập nên ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đƣơng sự có các quyền và nghĩa vụ tố tụng riêng và đƣợc pháp luật quy
định cụ thể. Các quyền và nghĩa vụ tố tụng của ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đƣơng sự không phụ thuộc vào hợp đồng pháp lý giữa họ với đƣơng sự
hoặc ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự. Sở dĩ họ có các quyền, nghĩa vụ
riêng biệt là do họ có tƣ cách độc lập, tham gia tố tụng nhân danh mình chứ không
nhƣ ngƣời đại diện - nhân danh ngƣời khác.
+ Đương sự là cơ quan tổ chức
22. 15
Ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự là cơ quan tổ chức khi tham gia tố
tụng đối với những vụ việc mà đƣơng sự đó tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự, kinh
doanh thƣơng mại, lao động. Còn đối với đƣơng sự là cá nhân thì phạm vi tham gia tố
tụng của họ không bị hạn chế trong bất cứ loại việc nào, bao gồm cả các quan hệ về hôn
nhân gia đình. Vì vậy, ngƣời đại diện theo pháp luật có toàn quyền khởi kiện và tham gia
tố tụng để bảo vệ quyền cho ngƣời đƣợc đại diện, kể cả quan hệ về nhân thân.
Để thực hiện việc đại diện thì ngƣời đại diện của đƣơng sự phải là ngƣời có
năng lực hành vi tố tụng dân sự. Năng lực hành vi tố tụng dân sự là khả năng cá nhân
bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự. Năng
lực hành vi tố tụng dân sự có mối quan hệ mật thiết với năng lực hành vi dân sự. Một
chủ thể đƣợc xác định là có năng lực hành vi tố tụng dân sự nếu chủ thể có năng lực
hành vi dân sự. Ngƣời không có năng lực hành vi tố tụng dân sự thì không thể thực
hiện đƣợc các quyền, nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đƣơng sự trƣớc Tòa án đƣợc. Theo quy định của pháp luật hiện hành, ngƣời có năng
lực hành vi tố tụng dân sự là ngƣời từ đủ 18 tuổi trở lên. Vì vậy, chỉ những ngƣời này
mới có thể trở thành ngƣời đại diện cho đƣơng sự trong tố tụng dân sự.
Cá nhân có năng lực dân sự từ khi sinh ra, pháp nhân có năng lực từ khi đƣợc
thành lập hoặc đăng ký hoạt động. Tuy nhiên, không phải cứ có năng lực pháp luật dân
sự là cá nhân, pháp nhân có thể xác lập, thực hiện các quyền, nghĩa vụ dân sự của mình
ngay đƣợc mà phải đáp ứng đƣợc một số yêu cầu nhất định về độ tuổi, trí tuệ (đối với cá
nhân); ngƣời đại diện (đối với pháp nhân). Ngoài ra, quyền và nghĩa vụ của ngƣời đại
diện luôn gắn với quyền và nghĩa vụ của ngƣời đƣợc đại diện theo pháp luật, phụ thuộc
vào ngƣời đƣợc đại diện. Bởi lẽ, ngƣời đại diện theo pháp luật là ngƣời “thay mặt” cho
đƣơng sự thực hiện những quyền và nghĩa vụ của đƣơng sự. Chính là “thay mặt” nên
ngƣời đại diện theo pháp luật chỉ có thể thực hiện các quyền, nghĩa vụ của đƣơng sự.
Ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự trong tố tụng dân sự không tự nhiên có các
quyền, nghĩa vụ khác ngoài quyền, nghĩa vụ tố tụng của đƣơng sự.
1.2. Cơ sở khoa học của việc xây dựng các quy định về ngƣời đại diện
theopháp luật của đƣơng sự trong tố tụng dân sự
23. 16
1.2.1. Đảm bảo quyền tiếp cận công lý của công dân
Quyền tiếp cận công lý là quyền của cá nhân, cơ quan, tổ chức đƣợc biết về quá
trình giải quyết các tranh chấp kinh tế, dân sự, hành chính, lao động và các vụ án của cơ
quan nhà nƣớc có thẩm quyền. Nhƣng nếu chỉ dừng lại ở việc quyền đƣợc biết quá trình
giải quyết các vụ việc hoặc vụ án của cơ quan nhà nƣớc thì quyền tiếp cận công lý chỉ là
quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực tƣ pháp và chƣa cho thấy mục đích của tiếp cận
công lý. Nếu chỉ là sự tiếp cận các quy trình tố tụng thì quyền tiếp cận công lý đồng nhất
với quyền tham gia tố tụng của công dân, cơ quan, tổ chức.Những quyền này chỉ đƣợc
thực hiện và đảm bảo thực hiện khi quá trình tố tụng đã đƣợc phát động.
Quyền tiếp cận công lý với tƣ cách là quyền con ngƣời, đó là khả năng của
chủ thể yêu cầu nhà nƣớc tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để sử dụng pháp luật nhằm
mục đích bảo vệ quyền lợi của mình tại cơ quan nhà nƣớc khi có tranh chấp hoặc xử
lý vi phạm pháp luật, thể hiện ở những mặt sau: quyền tiếp cận thông tin pháp luật;
quyền trợ giúp pháp lý, quyền tiếp cận giáo dục đào tạo pháp luật các quyền này đƣợc
thực hiện bởi một hệ thống tƣ pháp công bằng và hiệu quả.
Muốn tiếp cận công lý một cách dễ dàng, dân chúng phải có trình độ hiểu biết
nhất định về pháp luật. Quyền tiếp cận công lý của ngƣời dân là một trong những yếu
tố cơ bản để xây dựng quy định về ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự; ngƣời
đại diện theo pháp luật của đƣơng sự có tham gia vào quá trình tố tụng, hiểu biết đƣợc
pháp luật và những quy tắc xử sự khi áp dụng để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp
của ngƣời đƣợc đại diện. Vì vậy, việc có những quy định rõ ràng về ngƣời đại diện
theo pháp luật của đƣơng sự trong tố tụng dân sự, góp phần dảm bảo quyền và lợi ích
của đƣơng sự, đảm bảo các quyền tiếp cận công lý của công dân.
1.2.2. Đảm bảo quyền tranh tụng của đương sự
Khi xét xử, Tòa án phải đảm bảo mọi công dân đều bình đẳng trƣớc pháp luật,
thực sự dân chủ, khách quan. Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết
quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến
của kiểm sát viên… nguyên đơn, bị đơn và những ngƣời có quyền, lợi ích hợp pháp,
24. 17
ngƣời đại diện để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và
trong thời hạn pháp luật quy định. Các cơ quan tƣ pháp có trách nhiệm tạo điều kiện
ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự tham gia vào quá trình tố tụng. Để thực hiện
nhiệm vụ nay, BLTTDS đã có nhiều quy định đề cao vai trò của đƣơng sự trong việc xác
định sự thật khách quan của vụ án cũng nhƣ các quy định bảo đảm cho các bên đƣơng sự
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình nhƣ nguyên tắc cung cấp chứng cứ vào
chứng minh (Điều 6, Điều 7 BLTTDS năm 2015), nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của
các đƣơng sự (Điều 9 BLTTDS năm 2015), các quy định về quyền và nghĩa vụ tố tụng
của đƣơng sự (từ Điều 70 đến Điều 74 BLTTDS năm 2015)…
Quyền tranh tụng của đƣơng sự đã đƣợc quy định tại khoản 20 Điều 70
BLTTDS năm 2015 và nguyên tắc đảm bảo tranh tụng trong xét xử đƣợc quy định tại
Điều 24 BLTTDS năm 2015. Theo quy định này thì các đƣơng sự, ngƣời bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự có quyền tranh luận trong suốt quá trình Tòa
án giải quyết vụ án dân sự kể từ khi đƣơng sự có yêu cầu và Tòa án thụ lý cho đến
khi xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.
Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc dân sự, các đƣơng sự, ngƣời bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự có quyền đƣa ra yêu cầu; có quyền và nghĩa vụ
cung cấp chứng cứ, chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; có
quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lƣu trữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung
cấp tài liệu, chứng cứ đó cho mình để giao nộp cho Tòa án; có quyền yêu cầu Tòa án áp
dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc các biện pháp cần thiết để bảo đảm chứng cứ
trong trƣờng hợp chứng cứ đang bị tiêu hủy, có nguy cơ bị tiêu hủy hoặc say này khó có
thể thu thập đƣợc; có quyền đề nghị Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ của vụ
án mà tự mình không thể thực hiện đƣợc hoặc đề nghị Tòa án triệu tập ngƣời làm chứng,
trƣng cầu giám định, định giá, thẩm định giá…Các đƣơng sự đƣợc bình đẳng trong việc
thực hiện quyền tranh luận nên Tòa án không đƣợc phân biệt đối xử giữa họ.
Ngoài ra, Tòa án còn có trách nhiệm áp dụng các biện pháp cần thiết theo quy
định của pháp luật tạo điều kiện cho đƣơng sự, ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đƣơng sự thực hiện quyền tranh luận để ra bản án, quyết định đúng pháp luật nhƣ các
25. 18
đƣơng sự đều phải đƣợc Tòa án triệu tập tham gia tố tụng, giải thích cho đƣơng sự quyền
tranh luận của họ, tạo điều kiện cho họ biết, sao chụp các chứng cứ, tài liệu do ngƣời
khác cung cấp hoặc Tòa án thu thập.
Ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự đại diện cho đƣơng sự tham gia
vào quá trình tố tụng, nhân danh đƣơng sự thực hiện các hoạt động hành vi liên quan
đến vụ kiện, vì vậy ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự có đầy đủ các quyền
và nghĩa vụ giống nhƣ đƣơng sự, có quyền tranh tụng nhƣ đƣơng sự, tham gia vào
quá trình tranh tụng để đảm bảo Tòa án có thể đƣa ra bản án đúng pháp luật, đảm bảo
quyền và lợi ích của đƣơng sự theo đúng quy định của pháp luật.
1.2.3. Đảm bảo người đại diện có đủ khả năng bảo vệ quyền và lợi ích cho
đương sự
Quá trình tố tụng nói chung và quá trình tố tụng dân sự nói riêng khá phức tạp,
vì vậy không phải ai cũng có thể làm tốt việc bảo vệ quyền và lợi ích cho ngƣời khác.
Do vậy, về chủ quan ngƣời đại diện của đƣơng sự phải có đủ năng lực cần thiết, có
những mối liên hệ nhất định đủ tin cậy để có thể suy đoán việc tham gia tố tụng của
họ là vì quyền lợi của đƣơng sự và về khách quan, họ cần phải đƣợc pháp luật trao
cho các quyền và nghĩa vụ tố tụng nhất định để thực thi vai trò của mình. Cụ thể nhƣ sau:
- Về mặt chủ quan:
Ngƣời đại diện phải là ngƣời có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự, nếu có
hiểu biết pháp luật thì càng tốt. Việc ngƣời đại diện có đủ năng lực hành vi tố tụng
dân sự là để họ có đủ khả năng đại diện, tự mình thay mặt đƣơng sự thực hiện các
quyền, nghĩa vụ tố tụng, không bị phụ thuộc vào chủ thể khác. Và đây cũng là lý do
để cơ quan, tổ chức không thể là ngƣời đại diện cho đƣơng sự. Hơn nữa; cơ quan, tổ
chức là thực thể pháp lý; các hoạt động của nó đều phải thông qua một con ngƣời cụ
thể, nên việc quy định cơ quan, tổ chức làm đại diện sẽ làm phức tạp hóa mối quan hệ
(Đại diện hai lần). Ngoài ra, không phải ai cũng có thể làm một việc (tham gia tố
tụng) vì lợi ích của ngƣời khác nên thƣờng thì ngƣời đại diện phải là ngƣời đƣợc
đƣơng sự tin tƣởng, giao phó hoặc có một mối liên hệ nhất định với đƣơng sự nhƣ là
26. 19
cha mẹ, ngƣời giám hộ, ngƣời đại diện của cơ quan, tổ chức, trong các quan hệ pháp
luật dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thƣơng mại, lao động.v.v. Góc tiếp cận
này là cơ sở để xây dựng các quy định về điều kiện của chủ thể có thể tham gia tố
tụng dân sự với tƣ cách ngƣời đại diện của đƣơng sự.
- Về mặt khách quan:
Ngƣời đại diện theo pháp luật thay mặt đƣơng sự tham gia tố tụng, họ phải bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự. Về mặt logic, ngƣời ta chỉ có thể đối đáp
lại những gì mà họ biết; do đó để bảo vệ đƣợc quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng
sự, ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự phải biết đƣợc đầy đủ và toàn diện các
yêu cầu, chứng cứ và lý lẽ của những ngƣời tham gia tố tụng khác.
Nhƣ vậy, trong quá trình tranh tụng ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng
sự phải đƣợc biết tất cả các giấy tờ, tài liệu, chứng cứ, căn cứ pháp lý và lý lẽ chứng
minh của đối phƣơng hoặc chứng cứ do Tòa án thu thập. Ngƣời đại diện theo pháp
luật phải cung cấp chứng cứ của vụ kiện trong thời gian nhất định, hợp lý do Thẩm
phán ấn định đủ để các bên tìm kiếm, thu thập chứng cứ và chuẩn bị cho việc biện hộ.
Góc tiếp cận này chính là nền tảng quan trọng để xác lập và xây dựng các quy định về
quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự của ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự.
1.2.4. Mối liên hệ giữa pháp luật nội dung và pháp luật tố tụng dân sự trong
việc xây dựng các quy định về người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự
Việc xây dựng các quy định về đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự
dựa trên bản chất của quan hệ pháp luật nội dung. Quan hệ đại diện ra đời là để bảo
vệ những đối tƣợng thiệt thòi trong xã hội nhƣ ngƣời bị mất năng lực hành vi dân sự,
ngƣời bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, hay những ngƣời chƣa thành niên đồng
thời xác định cá nhân có thể đại diện cho một tổ chức tham gia tố tụng. Cùng là quan
hệ đại diện, đại diện trong tố tụng dân sự và đại diện trong dân sự đều phải thể hiện
đƣợc mục đích này.Chính vì vậy, các quy định về đại diện trong tố tụng dân sự sẽ có
những điểm tƣơng đồng với các quy định về đại diện trong luật dân sự.
27. 20
Khác với các quan hệ hình sự hay hành chính thƣờng manh tính chất áp đặt, bất
bình đẳng giữa một bên mang và nhân danh quyền lực Nhà nƣớc với một bên bị buộc
phải tuân theo những quyết định mà không thể nhờ ngƣời khác làm thay, quan hệ đại
diện theo pháp luật chủ yếu có mục đích bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho những
ngƣời không có đủ điều kiện thực hiện những hành vi nhất định để tự bảo vệ, hay đem
lại quyền lợi cho chính mình. Đại diện theo pháp luật trong dân sự hay đại diện theo
pháp luật trong tố tụng dân sự đều thể hiện đƣợc mục đích này.
Hơn nữa, hoạt động tố tụng dân sự có mục đích là giải quyết các tranh chấp
trong dân sự, nên các chủ thể đại diện cho các chủ thể có quyền, lợi ích hợp pháp trong
các quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thƣơng mại, lao động
thông thƣờng sẽ tiếp tục là chủ thể đại diện trong quan hệ tố tụng dân sự, trừ trƣờng
hợp đại diện mang tính chất vụ việc. Ngoài ra, quan hệ đại diện theo pháp luật của
đƣơng sự trong tố tụng dân sự chỉ xuất hiện khi có căn cứ nhất định, có thể trong quá
trình tố tụng quan hệ đại diện mới phát sinh, và khi đó đại diện trong tố tụng dân sự sẽ
không đồng nhất với đại diện trong quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh,
thƣơng mại, lao động.
Với đặc trƣng của hoạt động TTDS, ngƣời đại diện theo pháp luật trong tố tụng
dân sự phải thỏa mãn những điều kiện riêng. Nếu nhƣ trong giao dịch dân sự các chủ
thể đƣợc bình đẳng với nhau thì trong hoạt động tố tụng dân sự, với sự tham gia của
chủ thể mang quyền lực nhà nƣớc là Toà án thì sự bình đẳng chỉ giới hạn trong số
những ngƣời tham gia tố tụng. Cần phải đảm bảo cho hoạt động của Toà án đƣợc khách
quan, vô tƣ vì quyền lợi hợp pháp của đƣơng sự.
Do vậy, ngƣời đại diện của đƣơng sự không thể đồng thời là Thẩm phán, Hội
thẩm nhân dân giải quyết vụ việc, Toà án cần là chủ thể đƣợc trao quyền trong việc xác
định điều kiện trở thành ngƣời đại diện của đƣơng sự. Đây là cơ sở cho việc xây dựng
các quy định về phạm vi đại diện theo pháp luật của đƣơng sự trong tố tụng dân sự.
28. 21
1.2.5. Đảm bảo điều chỉnh phù hợp đối với từng loại đại diện
Việc phân loại đại diện đƣợc thiết lập dựa trên cơ sở của việc hình thành quan
hệ đại diện là theo ý chí của đƣơng sự hay theo quy định của pháp luật. Đối với các
quan hệ đại diện đƣợc xác lập do pháp luật quy định trƣớc là ngƣời đại diện theo
pháp luật. Quan hệ đại diện đƣợc xác lập trên cơ sở nào sẽ quyết định ai sẽ là ngƣời
có thể đại diện, quyền và nghĩa vụ tố tụng của chủ thể này và sự chấm dứt của quan
hệ đại diện. Chính vì vậy, căn cứ vào cơ sở của việc hình thành quan hệ đại diện là
theo ý chí của đƣơng sự hay theo quy định của pháp luật sẽ có hai loại đại diện tƣơng
ứng là ngƣời đại diện theo pháp luật và ngƣời đại diện theo uỷ quyền.
Với mục đích bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho cá nhân không có năng lực
hành vi tố tụng dân sự, pháp luật xác định cụ thể chủ thể có thể là ngƣời đại diện của
đƣơng sự hoặc cho phép một cơ quan có thẩm quyền quyết định theo trình tự, thủ tục
luật định mà không xét đến ý chí của đƣơng sự. Trong trƣờng hợp này, ngƣời đƣợc
đại diện không có đủ năng lực hành vi nên pháp luật quy định cho ngƣời đại diện toàn
quyền, nghĩa vụ của đƣơng sự mà họ đại diện. Đối với các chủ thể khác thuộc quan
hệ pháp luật nội dung thì chủ thể đại diện trong tố tụng dân sự đƣợc xác định là chủ
thể đại diện trong quan hệ pháp luật nội dung trƣớc đó.
Nhƣ phân tích ở phần “Đảm bảo mối liên hệ giữa các quy định về ngƣời đại
diện trong quan hệ nội dung và ngƣời đại diện trong tố tụng dân sự” thì ngoài trƣờng
hợp ngƣời đại diện trong quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình, thƣơng mại, lao động
đƣơng nhiên trở thành ngƣời đại diện cho đƣơng sự trong tố tụng dân sự, trong tố
tụng còn xuất hiện một loại đại diện theo pháp luật đó là đại diện do Toà án chỉ định
khi đƣơng sự chƣa có ngƣời đại diện hoặc ngƣời đại diện thuộc trƣờng hợp bị giới
hạn (không đƣợc làm đại diện trong tố tụng dân sự).
Nhƣ vậy, nếu dựa trên sự khác biệt về cơ sở hình thành đại diện nhƣ tính chất
đƣơng nhiên của quan hệ đại diện hay theo ý chí của Toà án, sự khác biệt về thời
điểm hình thành và chấm dứt việc đại diện có thể phân chia đại diện theo pháp luật
trong tố tụng dân sự làm hai loại là đại diện đƣơng nhiên và đại diện do Toà án chỉ
định. Tuy nhiên, nếu căn cứ vào những điểm tƣơng đồng nhƣ việc hình thành quan hệ
29. 22
đại diện không dựa theo ý chí của đƣơng sự mà theo quy định của pháp luật, sự tƣơng
đồng về quyền và nghĩa vụ tố tụng đƣợc xác lập thì có thể coi ngƣời đại diện theo
pháp luật bao hàm cả ngƣời đại diện đƣơng nhiên và đại diện do Toà án chỉ định.
1.3. Vai trò của ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự trong tố tụng
dân sự Việt Nam
Theo cách giải thích trong Từ điển tiềng Việt của Nhà xuất bản Đà Nẵng năm
2003 thì khái niệm “vai trò” đƣợc hiểu là “tác dụng, chức năng của một vật, một cá
thể, một sự kiện một cái gì đó” [24, tr.1095].
Nhƣ vậy nói đến vai trò của ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự trong
tố tụng dân sự là nói đến những tác động, ảnh hƣởng của ngƣời đại diện theo pháp
luật đối với từng cá nhân tổ chức trong tố tụng dân sự, thông qua hoạt động đại diện
của mình, nói đến những tác động, ảnh hƣởng của ngƣời đại diện đối với từng cá
nhân tổ chức trong tố tụng dân sự thông qua hoạt động đại diện của mình, là nói đến
những tác động, ảnh hƣởng của đại diện đối với quá trình xây dựng và phát triển tạo
lập công bằng xá hội. Vai trò của ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự đƣợc
thể hiện ở những đặc điểm sau:
Một là, việc tham gia tố tụng của họ có tác dụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đƣơng sự, nhất là trong các trƣờng hợp họ không có, bị hạn chế hoặc mất
năng lực hành vi tố tụng dân sự.
Hai là, việc tham gia tố tụng của họ còn có tác dụng nhất định trong việc là rõ sự
thật của vụ việc dân sự.Bên cạnh đó hoạt động của họ còn thúc đẩy sự dân chủ tiến bộ
của xã hội, góp phần hoàn thiện, bảo vệ nên pháp chế xã hội chủ nghĩa. Việc xác
định đúng đắn vai trò của ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự là một việc
làm cần thiết và có ý nghĩa quan trọng. Các hoạt động của ngƣời đại diện theo pháp
luật của đƣơng sự trong tố tụng dân sự có tác động không chỉ đến hoạt động của
những ngƣời tham gia tố tụng mà đến cả hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng.
Đối với đƣơng sự, việc xác định đúng vị trí, vai trò của ngƣời đại diện sẽ giúp
cho họ phân biệt đƣợc tƣ cách tham gia tố tụng của ngƣời đại diện (chủ thể thay mặt
30. 23
đƣơng sự) và ngƣời bảo vệ quyền lợi của đƣơng sự (chủ thể giúp đỡ, hỗ trợ đƣơng sự
về mặt pháp lý).Từ đó họ có thể nhận thức và lựa chọn đƣợc cách thức bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình cho phù hợp. Ngoài ra, thông qua việc lựa chọn ngƣời
đại diện của đƣơng sự là những ngƣời am hiểu pháp luật nhƣ luật sƣ sẽ giúp đƣơng sự
có thể bảo vệ một cách tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Ngƣời đại diện
của đƣơng sự không có năng lực hành vi tố tụng dân sự sẽ có năng lực cần thiết để
thay mặt đƣơng sự thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng đƣợc pháp luật quy định để
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đƣơng sự.
Đối với cơ quan tiến hành tố tụng thì việc đánh giá đúng vai trò của ngƣời
đại diện sẽ tạo ra sự phối hợp cần thiết giữa Tòa án và ngƣời đại diện trong việc đi
tìm ra sự thật, qua đó đảm bảo những quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự mà
mình đại diện. Đối với đƣơng sự, việc xác định đúng vai trò của ngƣời đại diện
theo pháp luật của đƣơng sự sẽ giúp cho họ biết đƣợc cách thức bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình. Qua ngƣời đại diện theo pháp luật, không những họ
bảo vệ đƣợc quyền và lợi ích hợp pháp của mình mà còn nâng cao đƣợc hiểu biết
về pháp luật, tôn trọng, tuân thủ pháp luật. Ngoài ra, chính bản thân ngƣời đại diện
theo pháp luật của đƣơng sự cũng cần đƣợc xác định đúng vai trò của mình trong
tố tụng dân sự. Nếu xác định đúng vị trí, vai trò của mình, họ sẽ tự tin chủ động
hơn trong việc thay mặt đƣơng sự thực hiện những quyền và nghĩa vụ nhất
định.Họ biết mình sẽ phải làm gì và làm nhƣ thế nào để thực hiện tốt chức trách
của họ - những ngƣời bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đƣơng sự.
1.4. Lƣợc sử về sự hình thành và phát triển các quy định về ngƣời đại
diện theo pháp luật của đƣơng sự trong tố tụng dân sự
1.4.1. Nguồn gốc xuất hiện của quy định về đại diện
Chế định đại diện xuất hiện đầu tiên trong luật La Mã. Nhƣng vào thời gian
trao đổi buôn bán đã phát triển mạnh, Luật La Mã vào thời kỳ phát triển nhất vẫn
chƣa có việc một ngƣời đại diện cho ngƣời khác ký kết một hợp đồng, nguyên nhân
Luật La Mã vẫn không chấp nhận vấn đề đại diện do tính cách trọng hình thức đối
31. 24
với hợp đồng và thời kỳ đó đã tồn tại một quy tắc mà theo đó hợp đồng phải do chính
cá nhân ký kết “ai không tham gia vào quan hệ trách nhiệm thì trách nhiệm không
ảnh hưởng tới người đó”. Những mầm mống đầu tiên về đại diện đã xuất hiện trong
việc: “Những người phụ thuộc gia chủ không bao giờ có thể làm đại diện. Gia chủ có
quyền hạn và trách nhiệm từ những hợp đồng do họ ký kết không phụ thuộc vào ý chí
của người được ủy quyền và tất cả do người ủy quyền. Trách nhiệm từ những hợp
đồng này trước hết thuộc về người ký (gia chủ), còn những người phụ thuộc gia chủ
chỉ nhận một phần trách nhiệm mà thôi”.Điều này thể hiện việc gia chủ sẽ đại diện
cho những ngƣời phụ thuộc thực hiện các giao dịch, ngƣời phụ thuộc thực hiện các
giao dịch, ngƣời phụ thuộc tuy chỉ nhận phần nhỏ nhƣng vẫn sẽ ảnh hƣởng đến quyền
lợi và chịu trách nhiệm từ giao dịch này. Xã hội ngày càng phát triển thì việc đại diện
càng quang trọng và có ý nghĩa to lớn thúc đẩy giao lƣu dân sự phát triển và đại diện
cũng là một thƣớc đo đánh giá sự phát triển của một xã hội. Do đó các nƣớc trên thế
giới đã đƣa chế định đại diện vào hệ thống pháp luật của mình trong đó có Việt Nam.
1.4.2. Quy định về đại diện theo Luật Hồng Đức và Luật Gia Long
Nƣớc Âu Lạc là nhà nƣớc đầu tiên của chúng ta xuất hiện trên lịch sử. Nhà
nƣớc phong kiến tự chủ của ta do các nhà Ngô - Đinh - Lê - Lý xây dựng dần dần
thành nƣớc Đại Việt ở thời nhà Lý. Tuy nhiêm chƣa có tài liệu nào ghi chép đƣợc sự
ban hành pháp luật trong các thời vua nói trên Ngô, Đinh và Tiền Lê.
Thời đại triều Lý (1010 - 1225) mở ra một giai đoạn mới của lịch sử dân tộc
và dƣới triều lý đã có Luật thành văn. Do đó, nên pháp luật thành văn đầu tiên ở nƣớc
ta là nền pháp luật nhà Lý. Mặc dù còn sơ khai nhƣng cách thức giải quyết tranh chấp
phát sinh từ các lĩnh vực của đời sống xã hội đã đƣợc nhà Lý quy định. Luật pháp
thời Lý cũng chƣa có các quy định về ngƣời đại diện theo pháp luật.
- Chế định đại diện theo Luật Hồng Đức:
Giai đoạn này là thời kỳ đỉnh cao của chế độ phong kiến tập quyền, nhiều lĩnh
vực đƣợc chú trong phát triển đặc biệt là sự quan tâm đến hoạt động lập pháp với mục
đích đáp ứng nhu cầu phát triển của bộ máy nhà nƣớc phong kiến vào thế kỷ XV.
32. 25
Đánh dấu mốc phát triển của hoạt động lập pháp trong giai đoạn này Bộ luật
Hồng Đức đã giành hẳn hai chƣơng: hôn độ và điền sản để quy định các mối quan hệ
trong đời sống nhƣ thừa kế, hợp đồng, nghĩa vụ…chƣa kể các quy định liên quan đến
quan hệ pháp luật còn nằm rải rác ở các chƣơng khác hoặc các văn bản luật riêng lẻ mà
không đƣa vào bộ luật. Dù chịu ảnh hƣởng của văn hóa Trung Quốc các nhà làm luật
nhà Lê vẫn xây dựng những đặc điểm riêng biệt của đời sống pháp luật Việt Nam.
- Chế định đại diện theo Luật Gia Long:
Thời nhà Nguyễn đã bị ảnh hƣởng, phụ thuộc nhiều vào chế độ phong kiến
phƣơng Bắc cho nên về Luật dân sự Bộ luật Gia Long hầu nhƣ chỉ lấy lại câu chữ của
các quy định liên quan trong Bộ luật nhà Thanh. Cho nên về cấu trúc thì Bộ luật Gia
Long hoàn toàn khác với Bộ luật Hồng Đức.
1.4.3. Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám 1945
Trƣớc thời Pháp thuộc, pháp luật Việt Nam dƣờng nhƣ không có sự phân biệt
rạch ròi giữa dân sự và hình sự, cơ quan tài phán và cơ quan quản lý. Các tranh chấp
về dân sự đƣợc giải quyết bởi ngƣời đứng đầu bộ máy cai trị các cấp theo các quy tắc
chung về tố tụng đƣợc thiết lập để giải quyết các việc kiện cáo trong dân. Dƣới thời
Lê (1428 – 1788) các quy định này đƣợc ghi nhận trong Quốc triều Hình luật (1483)
và Quốc triều khám tụng điều lệ (1777).Đến thời Nguyễn (1802 – 1858 và 1858 –
1945) các quy định này tiếp tục đƣợc kế thừa trong bộ Hoàng Việt luật lệ (1812). Do
chịu ảnh hƣởng sâu sắc của nho giáo nên pháp luật về tố tụng trong thời kỳ này đã
hạn chế quyền đi kiện của một số thành viên trong gia đình.
Việc nghiên cứu cho thấy các quy định về thủ tục tố tụng dân sự với tƣ cách là
một thủ tục tố tụng riêng biệt có lẽ chỉ chính thức đƣợc du nhập vào miền Nam Việt
Nam dƣới thời Pháp thuộc bằng Nghị định 16/3/1910. Tiếp theo đó là Bộ dân sự tố
tụng Bắc ban hành năm 1917 và Bộ Hộ sự thƣơng sự tố tụng Trung Việt năm 1942,
áp dụng tại Bắc Kỳ và Trung Kỳ. BLDS Bắc kỳ và Dân luật Trung Kỳ quy định:
“Người ta phải chịu trách nhiệm không những tổn hại tự mình làm ra mà cả về sự tổn
33. 26
hại do những người mà mình phải bảo lãnh hay do những vật mình phải trông coi
nữa”.
Đoạn điều luật trên quy định về nguyên tắc chịu trách nhiệm dân sự của ngƣời
giám hộ (bảo lãnh) nếu ngƣời đƣợc giám hộ gây thiệt hại, vì ngƣời giám hộ không
thực hiện tốt nghĩa vụ giám hộ của mình nên phải chịu thay cho ngƣời đƣợc giám hộ.
Có thể nhận xét rằng các quy định về tố tụng dân sự của Việt Nam dƣới thời Pháp
thuộc đƣợc xây dựng trên cơ sở tham chiếu và giản lƣợc các quy định của BLTTDS
Pháp 1807 cho phù hợp với đời sống của ngƣời dân bản địa. Do vậy, các quy định về
tố tụng dân sự trong những bộ luật này chịu nhiều ảnh hƣởng của pháp luật tố tụng
dân sự Pháp.
1.4.4. Giai đoạn từ Cách Mạng tháng Tám 1945 đến năm 2004
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nƣớc Việt Nam dân chủ
cộng hòa ra đời, bộ máy tƣ pháp đƣợc tổ chức lại; Chủ tịch nƣớc Hồ Chí Minh là
ngƣời luôn quan tâm đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Trong
giai đoạn này các quy định về đại diện của đƣơng sự nói chung và đại diện theo pháp
luật của đƣơng sự nói riêng không đƣợc quy định cụ thể rõ ràng. Từ năm 1989 trở đi
với sự đổi mới cơ chế và mở cửa đất nƣớc đã thúc đẩy sự ra đời của các văn bản về
thủ tục tố tụng trong lĩnh vực tƣ pháp dân sự. Vấn đề đại diện theo pháp luật của
đƣơng sự đƣợc quy định trong một số văn bản mới ban hành mặc dù vẫn còn rời rạc
chƣa thống nhất nhƣ: Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án dân sự 1989; Pháp lênh thủ
tục giải quyết các vụ án kinh tế 1994, BLDS năm 1995; Pháp lệnh thủ tục giải quyết
các tranh chấp lao động 1996. Theo Khoản 3 Điều 21 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các
vụ án dân sự, trong trƣờng hợp đƣơng sự là ngƣời vì có nhƣợc điểm về thể chất hoặc
tâm thần mà không thể tham gia tố tụng đƣợc thì phải có ngƣời đại diện tham gia tố
tụng hoặc nếu không có ai đại diện cho ngƣời chƣa thành niên, ngƣời có nhƣợc điểm
về thể chất hoặc tâm thần, ngƣời vắng mặt không có tin tức thì TA cử một ngƣời thân
thích của đƣơng sự hoặc một thành viên của một tổ chức xã hội làm ngƣời đại diện cho
họ [47]. Quy định này đã trở thành tiền đề quan trọng để các nhà làm luật Việt Nam
xây dựng các quy định về ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự trong BLTTDS.
34. 27
Theo Điều 22 Pháp lệnh này thì đƣơng sự là công dân, ngƣời đại diện của đƣơng sự theo
quy định tại Điều 21 của Pháp lệnh có thể làm giấy ủy quyền cho luật sƣ hoặc ngƣời
khác thay mặt mình trong tố tụng, trừ việc ly hôn và hủy việc kết hôn trái pháp luật.
Đây là những văn bản quan trọng về TTDS, trong đó có các quy định về ngƣời
đại diện của đƣơng sự. Nếu những quy định về ngƣời đại diện của đƣơng sự trong
giai đoạn trƣớc quy định chƣa cụ thể về chủ thể đại diện, quyền và nghĩa vụ của họ,
việc thay đổi chấm dứt đại diện thì đến các văn bản này, những quy định về ngƣời đại
diện của đƣơng sự đã đƣợc sửa đổi và bổ sung khá nhiều, tạo điều kiện cho việc áp
dụng trong thực tế.BLDS năm 1995 đƣợc Quốc hội thông qua ngày 28/10/1995 và có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/06/2996. Có thể nói rằng BLDS 1995 là thành tựu lớn
nhất của mƣời năm xây dựng hệ thống pháp luật dân sự Việt Nam thời hiện đại. Từ
khi BLDS năm 1995 có hiệu lực đã hoàn thiện về chế định đại diện đƣợc quy định
trƣớc đó, cơ sở pháp lý đƣợc quy định cụ thể từ Điều 148 đến Điều 157.
Đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự chƣa đƣợc quy định bằng một văn
bản có hệ thống và hoàn chỉnh, chỉ đƣợc áp dụng chủ yếu những văn bản của chế độ cũ
(ở miền Nam), hoặc các văn bản hƣớng dẫn của TANDTC và một số cơ quan khác ở
miền Bắc. Khi áp dụng một số quy định mang tính chung nhất về đại diện theo pháp
luật của BLDS năm 1995 vào thực tiễn đã bộc lộ nhiều thiếu sót bất cập, chƣa cụ thể,
chi tiết còn mang tính tổng hợp của nhiều ngành luật và văn bản hƣớng dẫn.
Đến năm 2001, để phát triển đội ngũ luật sƣ đáp ứng nhu cầu bào chữa của bị
can, bị cáo; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự; ngày 25/07/2001, Nhà nƣớc
đã ban hành Pháp lệnh Luật sƣ thay thế Pháp lệnh Luật sƣ năm 1987, Pháp lệnh này
khẳng định luật sƣ tham gia tố tụng với tƣ cách ngƣời đại diện hoặc ngƣời bảo vệ lợi ích
hợp pháp cho các đƣơng sự trong các vụ án dân sự, kinh tế, lao động và hành chính.
1.4.5. Giai đoạn từ năm 2004 đến nay
Với những thiếu sót và sự không nhất quán của các Pháp lệnh trong giai đoạn
từ 1989 đến 2004, quá trình áp dụng pháp luật về ngƣời đại diện của đƣơng sự đã gặp
không ít khó khăn. Trên cơ sở kế thừa và phát triển ba Pháp lệnh về thủ tục tố tụng
35. 28
trƣớc đó đồng thời tiếp thu những thành tựu lập pháp của nhiều nƣớc trên thế giới
nhƣ Cộng hoà Pháp, Nga, Trung Quốc. Năm 2004 các nhà lập pháp đã xây dựng
BLTTDS chung thống nhất đƣợc Quốc hội thông qua ngày 15/05/2004, tại kỳ họp
thứ năm. BLTTDS 2004 đã đƣợc công bố vào ngày 24/06/2004 và có hiệu lực thi
hành từ ngày 01/01/2005.
BLTTDS 2004 đã dành 6 Điều (từ Điều 73 đến Điều 78) để quy định về vấn
đề ngƣời đại diện của đƣơng sự. Nhà nƣớc ta cũng ban hành nhiều văn bản hƣớng
dẫn thi hành nhƣ Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP hƣớng dẫn thi hành một số quy
định về phần thứ nhất “Những quy định chung” của BLTTDS 2004; Nghị quyết Số
02/2005/NQ-HĐTP hƣớng dẫn thi hành một số quy định tại Chƣơng VIII “Các biện
pháp khẩn cấp tạm thời” của BLTTDS; Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP hƣớng dẫn
thi hành một số quy định của BLTTDS về “Chứng minh và chứng cứ”; Nghị quyết số
02/2006/NQ-HĐTP hƣớng dẫn thi hành các quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục
giải quyết vụ án tại Toà án cấp sơ thẩm của BLTTDS”…Trong đó, đặc biệt là các
quy định tại Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP và Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP
có hƣớng dẫn áp dụng các quy định về ngƣời đại diện của đƣơng sự trong BLTTDS.
Qua một thời gian thi hành BLTTDS năm 2004 đã xảy ra nhiều bất cập về xác
định ngƣời đại diện, pháp nhân có đƣợc coi là ngƣời đại diện theo pháp luật cho cơ quan
tổ chức hay không, quyền và nghĩa vụ của ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự
còn bị hạn chế trong nhiều loại việc. Để kịp thời thực hiện công tác kiểm sát giải quyết
các vụ án dân sự theo đúng quy định của pháp luật, hạn chế những vƣớng mắc của Luật
cũ Quốc Hội ban hành Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011. Nghị quyết số:
60/2011/QH12 Nghị quyết về việc thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ
luật tố tụng dân sự 65/2011/QH12. Nghị quyết 01/2012 Hƣớng dẫn thi hành một số quy
định trong phần thứ nhất “những quy định chung” của Bộ luật dân sự đã đƣợc sửa đổi bổ
sung theo Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự. Đã quy định và
hƣớng dẫn giải thích các quy định về đại diện của đƣơng sự.
Ngày 25 tháng 11 năm 2015, tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XII đã thông qua
BLTTDS năm 2015. BLTTDS năm 2015 ra đời trên cơ sở kế thừa sửa đổi và bổ sung
36. 29
BLTTDS 2004 (sửa đổi bổ sung năm 2011). BLTTDS năm 2015 đã dành 6 Điều ( từ
Điều 86 đến Điều 90) để quy định về vấn đề ngƣời đại diện của đƣơng sự. So với những
quy định của pháp luật tố tụng trƣớc đây, vấn đề ngƣời đại diện của đƣơng sự trong
BLTTDS năm 2015 đƣợc quy định rõ ràng, cụ thể và có nhiều điểm mới, tiến bộ hơn
nhƣng cũng dựa trên các quy định về đại diện trong BLTTDS năm 2004. Theo Bộ Luật
tó tụng dân sự 2015, ngƣời đại diện của đƣơng sự gồm có ngƣời đại diện theo pháp luật
và ngƣời đại diện theo ủy quyền. Ngƣời đại diện theo pháp luật đƣợc thực hiện các
quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự của đƣơng sự mà mình đại diện. BLTTDS năm 2015
đã cho phép cha mẹ, ngƣời thân thích của ngƣời vợ hoặc ngƣời chồng làm đại diện khi
một trong hai bên mất năng lực hành vi dân sự. Ngoài ra, Bộ luật này còn có quy định cả
về những trƣờng hợp không đƣợc làm ngƣời đại diện, việc chỉ định ngƣời đại diện trong
tố tụng dân sự, chấm dứt đại diện và hậu quả pháp lý của việc chấm dứt đại diện, bổ sung
các quy định về phạm vi đại diện hơn so với quy định về phạm vi đại diện trong
BLTTDS năm 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011.
BLTTDS năm 2015 ra đời, chƣa có nhiều văn bản hƣớng dẫn thi hành, Nhà nƣớc
ta cũng ban hành văn bản hƣớng dẫn thi hành nhƣ Nghị quyết số 103/2015/QH13 Nghị
quyết về việc thi hành BLTTDSBLTTDS năm 2015; Nghị quyết 02/2016/NQ-HĐTP
Hƣớng dẫn thi hành một số quy định của Nghị quyết 103/2015/QH13 ngày 25/11/2015
của Quốc Hội về việc thi hành BLTTDS và Nghị quyết số 104/2015/QH13 ngày
25/11/2015 của Quốc Hội về thi hành Luật tố tụng hành chính.
BLTTDS năm 2015 đã quy định cụ thể hơn các quy định về đại diện đã quy định
chi tiết và đầy đủ hơn so với BLTTDS 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011. Nhƣng vẫn có
nhiều quy định chƣa rõ ràng, có những vấn đề cần thiết nhƣng chƣa đƣợc luật hóa. Chƣa
có nhiều các văn bản hƣớng dẫn chi tiết về quy định đại diện theo pháp luật của đƣơng
sự. Tuy nhiên, vấn đề này sẽ đƣợc trình bày cụ thể và sâu sắc hơn tại Chƣơng 2 của
luận văn.Dƣới đây chúng ta sẽ tìm hiểu kinh nghiệm lập pháp một số nƣớc về ngƣời
đại diện để có thêm cơ sở cho việc đánh giá luật thực định của Việt Nam về ngƣời đại
diện của đƣơng sự và đƣa ra những kiến nghị cho phù hợp.
1.5. Pháp luật một số nƣớc trên thế giới về ngƣời đại diện theo pháp luật
37. 30
của đƣơng sự trong tố tụng dân sự
1.5.1. Quy định về người đại diện của đương sự trong BLTTDS của Cộng
hòa Pháp
BLTTDS của Cộng hòa Pháp với 1507 điều, ban hành năm 1806 và liên tục
đƣợc sửa đổi, bổ sung nhiều lần cho tới nay. Theo quy định tại Điều 18 Mục 7
Chƣơng I, Thiên I BLTTDS Pháp: “Các đƣơng sự có thể tự bào chữa cho mình, trừ
các trƣờng hợp phải có đại diện bắt buộc (BLTTDS mới – các Điều 751; 797; 813;
867; 950; 959; 973). Các trƣờng hợp đại diện bắt buộc đó là các vụ việc đƣợc giải
quyết tại Tòa sơ thẩm thẩm quyền rộng, Tòa thƣơng mại sơ thẩm và Tòa phá án. Nội
dung cụ thể của chế định đại diện đƣợc quy định từ Điều 411 đến Điều 420 của Bộ
luật này dƣới tên gọi “Đại diện và trợ giúp tại Tòa án”.
Pháp luật tố tụng dân sự Pháp quy định, “Một bên đƣơng sự chỉ có thể nhờ một
trong những ngƣời, thể nhân hoặc pháp nhân, có đủ tƣ cách theo quy định của pháp luật
để đại diện cho mình tại Tòa án” (Điều 414). Nhƣ vậy, Pháp luật tố tụng dân sự Pháp xác
định rõ là một bên đƣơng sự chỉ có thể có một đại diện, cá nhân hoặc pháp nhân.
BLTTDS Pháp quy định cụ thể ngƣời đƣợc ủy quyền đại diện tại Tòa án đƣợc
coi nhƣ có quyền hạn đặc biệt để rút đơn hoặc chấp nhận việc rút đơn, để đề xuất
hoặc chấp nhận một lời đề nghị, một lời tự thú, một sự thỏa thuận (Điều 417). Tuy
nhiên, quy định này có phần làm hạn chế quyền tự định đoạt của đƣơng sự.Ngoài ra,
Điều 419 Bộ luật này còn quy định về việc chấm dứt đại diện. Theo đó, nếu muốn
chấm dứt việc đại diện, ngƣời đại diện chỉ đƣợc miễn nhiệm sau khi đã thông báo ý
định của mình cho ngƣời ủy quyền, cho thẩm phán và bên tranh chấp kia biết. Trong
trƣờng hợp việc đại diện là bắt buộc, luật sƣ bào chữa hoặc luật sƣ đại diện chỉ đƣợc
miễn nhiệm kể từ ngày có ngƣời thay thế do đƣơng sự chọn hoặc do chủ nhiệm đoàn
luật sƣ chỉ định (Điều 419).
Bộ Luật Tố tụng Dân sự Việt Nam năm 2004 (BLTTDS) về cơ bản cũng đƣợc
xây dựng trên cơ sở thủ tục tố tụng xét hỏi của các nƣớc theo hệ thống luật châu Âu
lục địa nhƣ BLTTDS mới của Pháp năm 1975 nhƣng có kết hợp các yếu tố của thủ