SlideShare a Scribd company logo
1 of 132
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
VÕ THỊ KHÁNH HOÀI
nguyªn t¾c b¶o ®¶m quyÒn bµo ch÷a
trong luËt tè tông h×nh sù viÖt nam
(Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh §¾k L¾k)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
VÕ THỊ KHÁNH HOÀI
nguyªn t¾c b¶o ®¶m quyÒn bµo ch÷a
trong luËt tè tông h×nh sù viÖt nam
(Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh §¾k L¾k)
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. TRỊNH QUỐC TOẢN
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu khoa học
của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn bảo đảm
độ tin cậy, tính chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học
của luận văn đều được rút ra từ kết quả nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Tác giả luận văn
Võ Thị Khánh Hoài
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng, biểu đồ
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC BẢO
ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ......... 8
1.1. Khái quát về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố
tụng hình sự ........................................................................................ 8
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa
trong TTHS........................................................................................... 8
1.1.2. Chủ thể của quyền bào chữa ..............................................................12
1.1.3. Hình thức thực hiện quyền bào chữa .................................................13
1.1.4. Cơ sở của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong TTHS............14
1.1.5. Ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự......................................16
1.2. Mối quan hệ giữa nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa với
một số nguyên tắc khác của luật tố tụng hình sự và bảo đảm
quyền con người trong tố tụng hình sự..........................................18
1.2.1. Mối quan hệ giữa nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa với một
số nguyên tắc khác của luật tố tụng hình sự.......................................18
1.2.2. Mối quan hệ giữa nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa với việc
bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự................................25
1.3. Quá trình hình thành và phát triển của nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa của người bị tam giữ, bị can, bị cáo ở Việt Nam......27
1.3.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng Tám 1945 đến trước khi Bộ
luật TTHS năm 1988 có hiệu lực thi hành.........................................27
1.3.2. Giai đoạn từ khi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 có hiệu lực
thi hành đến năm 2003 .......................................................................31
1.3.3. Giai đoạn từ khi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 có hiệu lực
thi hành đến nay .................................................................................33
1.4. Quy định về bảo đảm quyền bào chữa trong pháp luật quốc tế.......35
Chương 2: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM
QUYỀN BÀO CHỮA TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK.......42
2.1. Nội dung cơ bản của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa
trong tố tụng hình sự........................................................................42
2.1.1. Bảo đảm quyền tự bào chữa...............................................................42
2.1.2. Bảo đảm quyền nhờ người khác bào chữa.........................................54
2.1.3. Trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc bảo
đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào
chữa của họ theo quy định của pháp luật...........................................63
2.2. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa
trong tố tụng hình sự trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk..........................67
2.2.1. Đối với quyền tự bào chữa.................................................................67
2.2.2. Đối với quyền nhờ người khác bào chữa...........................................71
2.2.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong việc áp dụng
nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo...........................................................................................82
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN NGUYÊN TẮC
BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA VÀ NÂNG CAO HIỆU
QUẢ ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC NÀY TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH ĐẮK LẮK..............................................................................89
3.1. Sự cần thiết và phương hướng hoàn thiện các quy định
pháp luật về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố
tụng hình sự trước yêu cầu cải cách tư pháp.................................89
3.1.1. Sự cần thiết hoàn thiện các quy định pháp luật về nguyên tắc
bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự .................................89
3.1.2. Phương hướng hoàn thiện các quy định pháp luật về nguyên tắc
bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự .................................92
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện quy định của luật tố tụng hình
sự về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa....................................94
3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng nguyên
tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự trên địa
bàn tỉnh Đắk Lắk............................................................................107
3.3.1. Về giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật ....................................107
3.3.2. Về nhận thức ....................................................................................108
3.3.3. Về tổ chức ........................................................................................110
3.3.4. Về cơ chế kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm về bảo đảm quyền
bào chữa ...........................................................................................116
KẾT LUẬN..................................................................................................119
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................121
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự
HĐXX : Hội đồng xét xử
TAND : Tòa án nhân dân
TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao
THTT : Tiến hành tố tụng
TTHS : Tố tụng hình sự
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Số hiệu
bảng, biểu đồ
Tên bảng, biểu đồ Trang
Bảng 2.1:
Tình hình thụ lý, giải quyết án hình sự của Tòa án
nhân dân hai cấp tỉnh Đắk Lắk trong giai đoạn từ
năm 2009 đến năm 2013
68
Bảng 2.2:
Số lượng vụ án hình sự của Tòa án hai cấp tỉnh Đắk
Lắk bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của Thẩm phán
trong giai đoạn 2009 - 2013
69
Bảng 2.3:
Tình hình thụ lý, giải quyết án hình sự sơ thẩm của
Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Đắk Lắk trong giai
đoạn từ năm 2009 đến năm 2013
71
Bảng 2.4:
Số liệu các vụ án hình sự luật sư thuộc Đoàn luật sư
tỉnh tham gia bào chữa trong giai đoạn từ năm 2009
đến năm 2013
72
Bảng 2.5:
Số luật sư, tổ chức hành nghề luật sư thuộc Đoàn
luật sư tỉnh Đắk Lắk giai đoạn từ năm 2009 đến
năm 2013
84
Biểu 2.1.
Số vụ án có luật sư tham gia bào chữa và số vụ án
Tòa án hai cấp tỉnh Đắk Lắk đã thụ lý, giải quyết
giai đoạn 2009 – 2013
71
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền bào chữa là một trong những nội dung cơ bản của quyền được
xét xử công bằng - một lĩnh vực cơ bản của quyền con người trong tố tụng
hình sự; việc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự có vai trò quan
trọng, góp phần bảo đảm quyền con người, một tiêu chí cơ bản trong tiến
trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Nhiều văn kiện của Đảng và nhà nước ta đã khẳng định tầm quan trọng
của quyền bào chữa trong hoạt động tố tụng trong công cuộc cải cách tư pháp
như: Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới xác định:
Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả
tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các
chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, người bào chữa, bị cáo, nhân
chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp
pháp. Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để luật sư
tham gia vào quá trình tố tụng: tham gia hỏi cung bị can, nghiên
cứu hồ sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên tòa [1];
Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về
“Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” khẳng định “nâng cao chất
lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt
động tư pháp” [3].
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự là nguyên
tắc Hiến định, được ghi nhận tại tất cả các bản Hiến pháp của Việt Nam. Việc
ghi nhận, thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự
đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
2
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đồng thời giúp các cơ quan tiến hành tố tụng
giải quyết vụ án hình sự đúng đắn, khách quan, đúng pháp luật, không bỏ lọt
tội phạm, không làm oan người không có tội; góp phần nâng cao chất lượng
tranh tụng tại phiên tòa, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp.
Tuy nhiên, thực tiễn thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa
trong thời gian qua đã bộc lộ nhiều hạn chế do nhiều nguyên nhân như: các
quy định của pháp luật tố tụng hình sự về bảo đảm quyền bào chữa còn vướng
mắc, bất cập; nhận thức của người tiến hành tố tụng, người bào chữa và bản
thân người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về quyền bào chữa chưa đầy đủ đã ảnh
hưởng không nhỏ đến hiệu quả công tác điều tra, truy tố, xét xử của các cơ
quan tiến hành tố tụng. Dẫn đến còn tình trạng oan, sai, bỏ lọt tội phạm, xâm
phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của nhà nước, xã hội và công dân.
Là một tỉnh nằm ở vị trí trung tâm khu vực Tây Nguyên, có diện tích tự
nhiên rộng (trên 13.125 km2
), địa hình đồi núi phức tạp; nhiều dân tộc cùng
chung sống (47 dân tộc, trong đó người dân tộc thiểu số chiếm hơn 33%); trình
độ dân trí thấp, tình hình kinh tế, xã hội còn nhiều khó khăn; nhận thức của
người dân về quyền bào chữa trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự còn
nhiều hạn chế. Theo thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk thì từ năm
2009 đến năm 2013, chỉ có 792 vụ án hình sự có sự tham gia của người bào
chữa trên tổng số 7.570 vụ án mà Tòa án hai cấp tỉnh Đắk Lắk thụ lý để giải
quyết theo trình tự sơ thẩm, chiếm tỷ lệ tương đối thấp 10,46%.
Do đó việc tiếp tục nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ thêm về mặt lý luận
các quy định về bảo đảm quyền bào chữa trong pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam và thực tiễn áp dụng để đề ra các giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao
hiệu quả thực hiện nguyên tắc đóng vai trò rất quan trọng trước yêu cầu cải
cách tư pháp, góp phần trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã
3
hội chủ nghĩa. Từ những lý do trên, tôi chọn nghiên cứu đề tài “Nguyên tắc
bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, trên cơ sơ số
liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ chuyên
ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Bảo đảm quyền bào chữa là nguyên tắc cơ bản của pháp luật tố tụng
hình sự, là nội dung quan trọng trong việc bảo đảm quyền con người. Đến nay
đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết về quyền bào chữa trong tố tụng
hình sự của các nhà nghiên cứu như:
Về tài liệu nghiên cứu là luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ, đề tài
nghiên cứu khoa học gồm có công trình: Luận văn thạc sĩ “Nguyên tắc bảo
đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo” của tác giả Bùi
Bảo Trâm, 2008; Luận án tiến sĩ luật học “Thực hiện quyền bào chữa của bị
can, bị cáo trong luật tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Hoàng Thị Sơn,
2003; Đề tài nghiên cứu khoa học “Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự
nhằm nâng cao hiệu quả xét xử theo tinh thần cải cách tư pháp” của nhóm tác
giả do tiến sĩ Hoàng Thị Minh Sơn chủ nhiệm đề tài, 2009.
Tài liệu nghiên cứu là bài viết tạp chí gồm có: “Thực trạng thực hiện
nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo” của tác giả Hoàng Thị
Sơn, Tạp chí Luật học, 2002; “Về khái niệm quyền bào chữa và việc bảo đảm
quyền bào chữa của bị can, bị cáo” của tác giả Hoàng Thị Sơn đăng trên Tạp
chí Luật học, 2000; “Người bào chữa và vấn đề bảo đảm quyền của người bào
chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Trần Văn Bảy, Tạp chí
KHPL, 2001; “Những điểm mới về trách nhiệm, nghĩa vụ của người bào chữa
trong Bộ luật TTHS năm 2003” của tác giả Phạm Hồng Hải, Tạp chí Nhà nước
và pháp luật, 2004; “Vấn đề thực hiện quyền của người bào chữa trong tố tụng
hình sự” của tác giả Lê Hồng Sơn, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, 2002.
4
Các công trình, bài viết đã nghiên cứu về nguyên tắc bảo đảm quyền
bào chữa ở nhiều góc độ khác nhau nhưng chỉ dừng ở mức nghiên cứu pháp
luật thực định, đi sâu vào các nội dung quyền bào chữa mà chưa nghiên cứu
một cách toàn diện, hệ thống về bảo đảm quyền bào chữa dưới khía cạnh
nguyên tắc trong tố tụng hình sự trước yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập
quốc tế. Hiện nay chưa có công trình, bài viết nào nghiên cứu về bảo đảm
quyền bào chữa trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Mặt khác, nhiều công trình đã
công bố trong thời gian khá lâu khi một số quy định pháp luật liên quan đến
bảo đảm quyền bào chữa chưa được ban hành nên cần được tiếp tục nghiên
cứu một cách sâu sắc, toàn diện hơn trên tinh thần của chiến lược cải cách tư
pháp và thực tiễn áp dụng hiện nay để đưa ra những giải pháp phù hợp với
thực tiễn nhất.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là tiếp tục làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về
nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong
tố tụng hình sự Việt Nam; chỉ ra những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn
chế trong thực tiễn áp dụng nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa ở nước ta nói
chung và trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk nói riêng. Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra
một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định về nguyên tắc bảo đảm quyền
bào chữa trong tố tụng hình sự và các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện
nguyên tắc theo tinh thần cải cách tư pháp.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn phải tập trung thực hiện
các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa
như khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa
5
trong tố tụng hình sự; chủ thể của quyền bào chữa và hình thức thực hiện; quá
trình hình thành và phát triển của nguyên tắc từ năm 1945 đến nay ở Việt
Nam; quy định về bảo đảm quyền bào chữa trong pháp luật quốc tế.
- Nghiên cứu các nội dung cơ bản của nguyên tắc trong tố tụng hình sự
Việt Nam; thực tiễn áp dụng nguyên tắc trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, từ đó chỉ
ta những tồn tại, hạn chế trong việc áp dụng nguyên tắc và nguyên nhân của
những tồn tại, hạn chế đó. Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng
cao hiệu quả áp dụng nguyên tắc này trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, đáp ứng yêu
cầu cải cách tư pháp.
4. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu
4.1. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các vấn đề về nguyên tắc bảo đảm quyền bào
chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong luật tố tụng hình sự Việt Nam;
các quy định liên quan đến nguyên tắc này trong pháp luật Việt Nam và pháp
luật quốc tế; đánh giá thực tiễn áp dụng nguyên tắc trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
trong giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2013; trên cơ sở đó đề xuất các giải
pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng nguyên tắc trên
địa bàn tỉnh trước yêu cầu cải cách tư pháp.
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn về
nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong
tố tụng hình sự Việt Nam, cụ thể: khái niệm, ý nghĩa của nguyên tắc, chủ thể
thực hiện quyền bào chữa, phương thức thực hiện; nội dung của nguyên tắc
trong tố tụng hình sự Việt Nam kết hợp với thực tiễn áp dụng nguyên tắc trên
địa bàn tỉnh Đắk Lắk để chỉ ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao
hiệu quả áp dụng nguyên tắc này.
6
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-
Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về
nhà nước và pháp luật; quan điểm về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, về cải cách tư pháp của Đảng và nhà nước ta thể hiện qua các văn
kiện đại hội Đảng; nghị quyết của Đảng, Quốc hội.
Các phương pháp chủ yếu được sử dụng để nghiên cứu đề tài là:
phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp đối chiếu, so sánh; phương
pháp thống kê
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Về mặt lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm những vấn
đề lý luận và thực tiễn của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng
hình sự trước yêu cầu cải cách tư pháp trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk hiện nay.
Các nghiên cứu của luận văn là tài liệu tham khảo cần thiết cho cán bộ nghiên
cứu khoa học, thực tiễn; các sinh viên, học viên cao học chuyên ngành tư
pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật trong quá trình học tập, nghiên cứu,
giảng dạy cũng như hoạt động thực tiễn bảo đảm quyền bào chữa trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự.
6.2. Về mặt thực tiễn
Luận văn góp phần làm rõ thực trạng áp dụng nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong công tác điều tra,
truy tố, xét xử trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Trên cơ sở đó đưa ra môt số kiến
nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền bào
chữa trong hoạt động tố tụng, góp phần thực thi nhiệm vụ bảo đảm quyền con
người trước yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay.
7
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về nguyên tắc bảo đảm quyền bào
chữa trong tố tụng hình sự.
Chương 2: Nội dung của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố
tụng hình sự và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa trong tố tụng hình sự và nâng cao hiệu quả
áp dụng nguyên tắc này trên địa bàn tỉnh Đắk lắk.
8
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC BẢO
ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Khái quát về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố
tụng hình sự
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa
trong TTHS
Quyền con người là thành tựu chung của cả loài người, là kết tinh của
nền văn minh nhân loại. Những thành tựu pháp lý quốc tế về quyền con người
hiện nay là sản phẩm của cuộc đấu tranh hết sức lâu dài, gian khổ của toàn thể
nhân loại tiến bộ, chống áp bức, bất công, xây dựng cuộc sống tự do, bình
đẳng và hạnh phúc [43]. Quyền con người được bảo đảm như thế nào, ở mức
độ nào là một trong những thước đo, tiêu chí quan trọng để đánh giá sự phát
triển của một quốc gia. Trong bất kỳ một nhà nước nào đặc biệt là nhà nước
pháp quyền thì quyền con người và quyền công dân được đặc biệt coi trọng,
là giá trị cao quý nhất được bảo vệ.
Tại Lời nói đầu Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 đã
khẳng định:
Việc thừa nhận phẩm giá vốn có, các quyền bình đẳng và
không thể tách rời của mọi thành viên trong gia đình nhân loại là cơ sở
cho tự do, công bằng và hòa bình trên thế giới... Các quốc gia thành
viên đã cam kết, cùng với Liên Hợp quốc, phấn đấu thúc đẩy sự tôn
trọng và tuân thủ chung các quyền và tự do cơ bản của con người.
Như vậy, việc tôn trọng và bảo vệ quyền con người là nhiệm vụ của tất
cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Đặc biệt trong thời đại ngày nay, quyền
con người luôn là vấn đề cấp thiết, có tính thời sự trên thế giới. Việt Nam
9
đang trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với sự phát triển
mạnh về kinh tế. Cùng với phát triển về kinh tế, Đảng và Nhà nước chú trọng
phát triển toàn diện về con người trên mọi mặt, đặc biệt là phát huy bảo đảm
quyền con người, quyền công dân.
Trong tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và
công cuộc cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, vấn đề bảo đảm quyền con
người trong đó có quyền bào chữa là một trong những nội dung quan trọng,
được đặt lên hàng đầu. Bởi vì “cải cách tư pháp trong giai đoạn xây dựng nhà
nước pháp quyền phải nhằm hướng tới việc bảo vệ một cách hữu hiệu các
quyền và tự do của con người và của công dân” [6]. Việc bảo đảm quyền bào
chữa góp phần quan trọng trong bảo đảm quyền con người.
Theo từ điển tiếng Việt thì “Bào chữa là dùng lời lẽ, chứng cớ để bênh
vực một việc” Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản từ điển Bách Khoa [38, tr.133].
Hiện nay, trong khoa học luật tố tụng hình sự có một số quan điểm
khác nhau về quyền bào chữa. Có quan điểm cho rằng:
Quyền bào chữa trong BLTTHS là tổng hoà các hành vi tố
tụng do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án thực hiện
trên cơ sở phù hợp với quy định của pháp luật nhằm phủ nhận một
phần hay toàn bộ sự buộc tội của cơ quan THTT, làm giảm nhẹ hoặc
loại trừ trách nhiệm hình sự của mình trong vụ án hình sự [16, tr.29].
Có quan điểm cho rằng “Quyền bào chữa là quyền sử dụng tất cả
những biện pháp gì mà pháp luật không cấm để chống lại, bác bỏ, phủ nhận
lời buộc tội của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc để giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự của mình trong vụ án” [19].
Có quan điểm cho rằng quyền bào chữa chỉ thuộc về bị can, bị cáo [36].
Quan điểm này là chưa đầy đủ, bởi đối với những trường hợp chưa bị khởi tố
về mặt hình sự nhưng thuộc diện bị tình nghi, đã bị bắt, bị tạm giữ, họ đang
10
phải đối mặt với sự nghi ngờ, các bước điều tra sơ bộ của cơ quan điều tra.
Trong trường hợp này những người bị tình nghi đã bị áp dụng các biện pháp
cưỡng chế; quyền, lợi ích của họ đã bị hạn chế, xâm phạm. Họ cần phải được
thực hiện những hành vi nhất định để bảo vệ tối đa quyền và lợi ích của họ
trước các cơ quan tiến hành tố tụng, việc pháp luật quy định cho họ quyền bào
chữa là cần thiết và phù hợp.
Có quan điểm cho rằng quyền bào chữa thuộc về người bị tình nghi và
bị can (phạm vi bị can trong trường hợp này bao gồm cả bị can, bị cáo và
người bị kết án) [41]. Cũng có quan điểm cho rằng: “Không chỉ bị cáo mà cả
người bị hại cũng cần đến việc bào chữa. Nhân chứng, giám định viên và cả
những người khác cũng vậy, nếu quyền lợi của họ bị xâm hại”. Các cách hiểu
như trên lại quá rộng bởi bào chữa gắn liền với buộc tội. Đối với những người
bị kết án là những người đã bị kết tội, đang chấp hành quyết định của bản án,
quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Ở giai đoạn thi hành án,
người bị kết án không chịu bất cứ sự buộc tội nào từ phía các cơ quan pháp
luật Nhà nước nên việc quy định cho họ quyền bào chữa là không cần thiết.
Tại Điều 11 BLTTHS năm 2003 quy định:
Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc
nhờ người khác bào chữa.
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án có nhiệm vụ bảo
đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa
của họ theo quy định của Bộ luật này [24, tr.15].
Theo quy định này thì Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam ghi nhận
quyền bào chữa đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Nội dung quyền bào
chữa bao gồm quyền tự bào chữa và quyền nhờ người khác bào chữa. Quy
định như trên đã ghi nhận quyền bào chữa của đầy đủ các đối tượng có khả
năng bị hạn chế quyền, lợi ích; đối mặt với sự nghi ngờ, khả năng bị buộc tội
bởi các cơ quan pháp luật Nhà nước.
11
Như vậy có thể đưa ra khái niệm quyền bào chữa như sau: “Quyền bào
chữa trong tố tụng hình sự là tổng hợp các hành vi tố tụng của người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo được pháp luật quy định cho họ nhằm đưa ra các chứng cứ
để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của họ trước các cơ quan tiến hành tố
tụng trong các quá trình khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự”.
Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 ghi nhận việc bảo đảm quyền bào chữa là
nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự Việt Nam, trở thành phương
châm, quan điểm chủ đạo chi phối toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự trong
quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật tố tụng hình sự.
Nguyên tắc của tố tụng hình sự là những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo
đối với toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự hoặc đối với một giai đoạn tố tụng
nhất định và được các văn bản pháp luật tố tụng hình sự ghi nhận; là yêu cầu
khách quan bảo đảm cho hoạt động tố tụng hình sự đạt được mục đích.
Nên chúng ta có thể hiểu “Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố
tụng hình sự là phương châm, định hướng chi phối toàn bộ quá trình khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự, trong đó xác định người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa và Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát, Toà án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của pháp luật”.
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự có những
đặc điểm sau:
Thứ nhất, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa là nguyên tắc cơ bản,
đặc trưng của Luật tố tụng hình sự Việt Nam, áp dụng trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự; trở thành phương châm, định hướng chi phối toàn bộ quá
trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự; thể hiện quan điểm của
Đảng và Nhà nước về hoạt động tố tụng hình sự. Theo đó, trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự, các chủ thể phải tuân thủ nghiêm, đồng thời phải áp dụng
12
chính xác và viện dẫn ở mức tối đa các quy định về việc bảo đảm quyền bào
chữa. Nếu có bất kỳ vi phạm nào về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa thì
hoạt động tố tụng đó không được công nhận tính pháp lý.
Thứ hai, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa có hai nội dung cơ bản
là xác định nội dung quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
bao gồm quyền tự bào chữa và quyền nhờ người khác bào chữa; đồng thời
quy định cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa
án) trên cơ sở quy định của Luật tố tụng hình sự có trách nhiệm trong việc
bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
1.1.2. Chủ thể của quyền bào chữa
Từ những phân tích, khái niệm nêu ở phần trên có thể thấy chủ thể của
quyền bào chữa trong tố tụng hình sự là người bị tạm giữ, bị can và bị cáo.
Trong tố tụng hình sự, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có vai trò trung
tâm. Bởi suy đến cùng thì mọi hoạt động của các chủ thể trong tố tụng hình sự
như buộc tội, bào chữa hoặc xét xử đều nhằm đến việc tìm kiếm, đánh giá các
chứng cứ gỡ tội, các chứng cứ buộc tội đối với người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo. Mục đích của hoạt động bào chữa là nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trước các cơ quan tiến hành tố tụng.
Hiến pháp 2013 ghi nhận người có quyền bào chữa là người bị bắt, tạm
giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử [23, tr.12].
Trong suốt quá trình tố tụng, chủ thể của quyền bào chữa là những
người bị các cơ quan tiến hành tố tụng nghi ngờ thực hiện tội phạm, đang bị
buộc tội. Quyền, lợi ích hợp pháp của họ đang bị những hạn chế nhất định và
dễ bị xâm phạm bởi các cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó họ phải có quyền
thực hiện các biện pháp, đưa ra các chứng cứ để chứng minh sự vô tội, bác bỏ
một phần sự buộc tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của họ trước các cơ quan tiến hành tố tụng. Chủ thể
có quyền bào chữa bao gồm:
13
+ Người bị tạm giữ: là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm
tội quả tang, người bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú,
đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ (khoản 1 Điều 48 BLTTHS).
Người bị tạm giữ bị các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng biện pháp
cưỡng chế là tạm giữ do hành vi của họ có dấu hiệu tội phạm mà nếu không
bị tạm giữ thì họ có thể tiếp tục phạm tội hoặc cản trở việc giải quyết vụ án.
Do đó các cơ quan tiến hành tố tụng quyết định tạm giữ để ngăn chặn và làm
rõ hành vi của họ để đưa ra quyết định tố tụng phù hợp. Họ chỉ bị nghi ngờ
phạm tội mà chưa phải là người phạm tội, nên họ phải có quyền bào chữa
bảo vệ cho họ.
+ Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự (khoản 1 Điều 49 BLTTHS).
Cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định khởi tố bị can đối với người
mà cơ quan tiến hành tố tụng đã xác định hành vi của người đó có dấu hiệu tội
phạm. Quyết định khởi tố bị can là biện pháp điều tra nhằm thu thập chứng cứ
chứng minh tội phạm và hành vi của người phạm tội, những tình tiết liên quan
đến trách nhiệm hình sự của bị can và các tình tiết khác có liên quan.
+ Bị cáo là người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử (khoản 1 Điều
50 BLTTHS).
Đối với bị can, bị cáo là những người đang bị Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát buộc tội. Để bảo đảm xác định sự thật khách quan, giải quyết vụ án
công minh, đúng người, đúng tội, bị can, bị cáo đã được quy định quyền bào
chữa nhằm bảo vệ quyền lợi cho họ đồng thời giúp cho việc giải quyết vụ án
nhanh chóng, công minh, đúng pháp luật, tránh làm oan người vô tội và bỏ
lọt tội phạm.
1.1.3. Hình thức thực hiện quyền bào chữa
Quyền bào chữa là tổng hợp các hành vi tố tụng mà người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo được thực hiện trên cơ sở quy định của pháp luật để bảo vệ
14
quyền và lợi ích của mình trước các cơ quan pháp luật. Thông qua việc thực
hiện các hành vi tố tụng cụ thể, được pháp luật ghi nhận, người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo bảo vệ quyền lợi của mình. Theo quy định tại Điều 11 BLTTHS
2003 thì các chủ thể có thể thực hiện quyền bào chữa thông qua hai hình thức
là tự mình thực hiện việc bào chữa (tự bào chữa) hoặc thực hiện thông qua
người khác (nhờ người khác bào chữa).
+ Tự bào chữa: là việc người bị tạm giữ, bị can, bị cáo tự mình thực
hiện các quyền tố tụng được pháp luật quy định cho họ nhằm đưa ra các
chứng cứ để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của họ trước các cơ quan
tiến hành tố tụng trong các quá trình giải quyết vụ án hình sự.
+ Nhờ người khác bào chữa: là việc người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
thông qua người khác để thực hiện các quyền tố tụng được pháp luật quy định
nhằm đưa ra các chứng cứ để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của họ
trước các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
1.1.4. Cơ sở của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong TTHS
+ Về cơ sở lý luận: Quyền con người là đặc quyền tự nhiên vốn có của
con người, được nhiều văn kiện quốc tế, pháp luật của quốc gia ghi nhận. Ý
thức về bảo vệ quyền con người có lịch sử phát triển gắn với sự phát triển của
xã hội loài người. Trải qua các giai đoạn lịch sử khác nhau của xã hội loài
người, cùng với quá trình đấu tranh lâu dài của các dân tộc trên thế giới,
quyền con người ngày càng được tôn trọng, bảo đảm. Suy đến cùng các cuộc
đấu tranh của con người trên thế giới đều hướng tới việc đòi hỏi bảo đảm bảo
vệ tốt hơn quyền con người. Xuất phát từ quan điểm con người là một thực
thể “sinh vật - con người” của Mác, quyền con người được ghi nhận là sự
thống nhất biện chứng giữa “quyền tự nhiên” (đặc quyền vốn có và chỉ con
người mới có) và “quyền xã hội” - sự chế định bằng các quy chế pháp lý
nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội.
15
Tố tụng hình sự là một lĩnh vực đặc thù, gồm toàn bộ các hoạt động của
các chủ thể tố tụng hình sự nhằm giải quyết vụ án hình sự khách quan, công
bằng, góp phần đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong đó có người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Đây là lĩnh vực khá nhạy cảm mà ở đó quyền con
người dễ bị xâm phạm nhất. Xuất phát từ yêu cầu bảo đảm quyền con người
trong nhà nước pháp quyền, bảo đảm quyền bào chữa được ghi nhận là
nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự.
Theo quy định thì không ai bị coi là có tội trước khi có bản án kết tội
của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Mặc dù người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
đang chịu sự nghi ngờ, sự buộc tội thực hiện tội phạm từ phía các cơ quan nhà
nước nhưng về mặt pháp lý họ chưa có tội. Do đó họ phải được bảo đảm tối
thiểu các quyền công dân, quyền con người theo quy định của pháp luật như
các công dân khác. Tuy nhiên khi người bị tạm giữ, bị can, bị cáo bị các cơ
quan tiến hành tố tụng áp dụng các biện pháp cưỡng chế như bị bắt, tạm giữ
thì họ đã phải chịu những hạn chế, xâm phạm nhất định về quyền của họ như
quyền tự do, quyền bảo hộ về danh dự, nhân phẩm... Để bảo đảm sự đúng
đắn, khách quan trong quá trình các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ
án, hạn chế tối đa việc xâm phạm đến quyền con người trong tố tụng hình sự,
pháp luật đã quy định quyền bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và
trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong
việc bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện các quyền này.
+ Về cơ sở thực tiễn: Mục đích chính của pháp luật tố tụng hình sự là
nhằm chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh
chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội
phạm, không làm oan người vô tội hướng tới mục đích “góp phần bảo vệ chế
độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
16
của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, đồng thời
giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và
chống tội phạm.
Để xác định sự thật khách quan trong vụ án hình sự, cần thiết phải có
đầy đủ các yếu tố, chứng cứ ở nhiều khía cạnh khác nhau, trên cơ sở đó mới
đánh giá, nhìn nhận toàn diện các tình tiết trong vụ án. Việc xác định sự thật
khách quan sẽ không thể thực hiện được hoàn chỉnh nếu chỉ nghe ý kiến từ
một phía buộc tội, bởi ý kiến mang tính chủ quan của mỗi con người nên dễ bị
phiến diện. Trong tố tụng hình sự chức năng bào chữa tồn tại song song cùng
chức năng buộc tội. Việc giải quyết một vụ án hình sự sẽ không bảo đảm tính
chính xác, khách quan khi chỉ coi trọng chức năng buộc tội mà không bảo
đảm chức năng bào chữa. Khi đó, trong các hoạt động tố tụng sẽ mang nặng ý
chí chủ quan của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Họ
chỉ chú ý đến việc thu thập các chứng cứ buộc tội mà bỏ lơ các chứng cứ gỡ
tội nên không đánh giá được toàn diện các chứng cứ để xác định chân lý
khách quan. Trên thực tế, việc áp dụng nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa
đã bộc lộ nhiều hạn chế, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả công tác điều tra,
truy tố, xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng dẫn đến tình trạng làm oan
người không có tội hoặc bỏ lọt tội phạm; xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp
pháp của nhà nước, xã hội và công dân.
Xuất phát từ yêu cầu bảo đảm quyền con người và thực tiễn tố tụng
hình sự, cho thấy tính cấp thiết của việc quy định nguyên tắc bảo đảm quyền
bào chữa trong tố tụng hình sự.
1.1.5. Ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự
Quyền bào chữa là một quyền lợi đặc thù, cơ bản của công dân, được
ghi nhận tại tất cả các bản Hiến pháp của nước ta. Việc ghi nhận bảo đảm
17
quyền bào chữa là một trong những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động tố
tụng hình sự có ý nghĩa to lớn về mọi mặt, là một biểu hiện của tư tưởng bảo
vệ quyền con người, quyền công dân. Với tư cách là nguyên tắc cơ bản trong
tố tụng hình sự, việc bảo đảm quyền bào chữa là tiêu chuẩn, yêu cầu trong
hoạt động tố tụng; là cơ chế để bị can, bị cáo, người bị tạm giữ tự bảo vệ mình
và được bảo vệ trong tố tụng.
Việc ghi nhận nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình
sự thể hiện tính nhân đạo của pháp luật Việt Nam. Tại Điều 57 BLTTHS đã
quy định các trường hợp bào chữa bắt buộc. Theo đó trong trường hợp bị can,
bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình theo quy định
tại Bộ luật hình sự hoặc bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có
nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà họ hoặc người đại diện hợp pháp
của họ không mời người bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc
Tòa án phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào
chữa cho họ hoặc đề nghị Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành
viên của mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình.
Nguyên tắc là biểu hiện của tính dân chủ trong tố tụng hình sự. Việc
ghi nhận nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự đã tạo cơ
sở pháp lý cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện việc chứng minh sự
vô tội của mình, bác bỏ sự nghi ngờ phạm tội, bác bỏ buộc tội của người, cơ
quan có thẩm quyền và làm giảm trách nhiệm hình sự đối với tội phạm mà
người đó đã thực hiện.
Việc ghi nhận nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình
sự không chỉ có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà còn là điều kiện bảo đảm cho
hoạt động tố tụng hình sự khách quan, công bằng, dân chủ, công khai; giúp cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng xác định sự thật khách quan,
18
giải quyết vụ án một cách đúng đắn, làm giảm đến mức tối đa khả năng làm
oan người không có tội hoặc bỏ lọt tội phạm. Là cơ sở phát sinh trách nhiệm
của các cơ quan và người tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm quyền bào
chữa trong suốt các giai đoạn tố tụng, giúp họ nâng cao ý thức trách nhiệm
trong quá trình thi hành công vụ.
Tại khoản 4 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 quy định “Người bị bắt, tạm
giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật
sư hoặc người khác bào chữa”. Việc Hiến pháp và các văn bản pháp luật tố
tụng ghi nhận nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự đã
thể hiện chủ trương, quan điểm của Đảng, Nhà nước trong vấn đề bảo đảm
quyền con người; góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, củng cố lòng
tin của nhân dân vào hoạt động của các cơ quan tư pháp trong tố tụng hình sự.
1.2. Mối quan hệ giữa nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa với một
số nguyên tắc khác của luật tố tụng hình sự và bảo đảm quyền con người
trong tố tụng hình sự
Quyền bào chữa là một trong những chế định quan trọng của luật tố
tụng hình sự. Cùng với chức năng buộc tội, bào chữa cũng là một chức năng
cơ bản trong tố tụng hình sự. Yêu cầu bảo đảm quyền bào chữa xuất phát từ
yêu cầu bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự và bảo đảm nguyên tắc
xác định sự thật của vụ án. Với tư cách là nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng
hình sự, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa chi phối đến toàn bộ quá trình
giải quyết vụ án và có mối quan hệ mật thiết với các nguyên tắc khác của luật
tố tụng hình sự và với bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự.
1.2.1. Mối quan hệ giữa nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa với một
số nguyên tắc khác của luật tố tụng hình sự
Tố tụng hình sự là quá trình giải quyết vụ án hình sự, quá trình này có
nhiều chủ thể, nhiều giai đoạn khác nhau phù hợp với tính chất, đặc điểm của
19
các cơ quan tiến hành tố tụng, là cơ chế mà qua đó tội phạm được điều tra làm
rõ, bị truy tố, xét xử và bị áp dụng hình phạt. Với tư cách là một nguyên tắc
của luật tố tụng hình sự, việc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự
trở thành yêu cầu, đòi hỏi xuyên suốt các giai đoạn của quá trình giải quyết vụ
án, tác động lên toàn bộ các hoạt động tố tụng và có mối quan hệ với các
nguyên tắc khác của luật tố tụng hình sự. Trong phạm vi bài viết, tác giả chỉ
đưa ra mối quan hệ giữa nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa với một số
nguyên tắc của luật tố tụng hình sự như sau:
- Với nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa cũng là nguyên tắc cơ
bản, xuyên suốt các giai đoạn tố tụng hình sự. Nguyên tắc pháp chế đòi hỏi
mọi hoạt động tố tụng, trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi
hành án hình sự; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ
quan tiến hành tố tụng; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của những người
tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng, của
các cơ quan, tổ chức và công dân phải được quy định trong Luật Tố tụng hình
sự một cách chặt chẽ, rõ ràng, thống nhất, phù hợp với điều kiện kinh tế, xã
hội. Điều 3 của BLTTHS quy định “Mọi hoạt động tố tụng hình sự của cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng
phải được tiến hành theo quy định của Bộ luật này”.
Nguyên tắc này đòi hỏi các chủ thể trong tố tụng hình sự nhất thiết phải
tự giác tuân thủ nghiêm, triệt để các quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Việc tuân thủ thủ nghiêm nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa
bảo đảm cho việc phát hiện nhanh chóng, chính xác và xử lý công minh, kịp
thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội
đồng thời bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa nhằm bảo đảm các quyền, lợi ích
20
hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng và bảo đảm tính
khách quan trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Để việc áp dụng nguyên
tắc bảo đảm quyền bào chữa có hiệu quả, đạt được mục đích ban đầu khi đặt
ra nguyên tắc thì bên cạnh việc pháp luật quy định đầy đủ, phù hợp các nội
dung của nguyên tắc, các nội dung liên quan đến việc áp dụng nguyên tắc thì
các chủ thể trong tố tụng phải tuân thủ nghiêm các quy định của pháp luật -
tuân thủ nghiêm nguyên tắc pháp chế. Và khi quyền bào chữa được thực hiện
tốt trên thực tế, có nghĩa các quy định của Luật tố tụng hình sự liên quan đến
quyền bào chữa đã được xây dựng chặt chẽ, thống nhất, phù hợp với thực tế
khách quan và được các cơ quan, tổ chức, công dân tuân thủ nghiêm chỉnh,
thể hiện tính pháp chế xã hội chủ nghĩa, góp phần bảo đảm thực hiện tốt
nguyên tắc pháp chế.
- Với nguyên tắc xác định sự thật của vụ án.
Xác định sự thật khách quan là mục đích của quá trình giải quyết vụ án
hình sự, là một nguyên tắc cơ bản xuyên suốt các giai đoạn tố tụng hình sự.
Theo quy định tại Điều 10 BLTTHS thì “Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và
Tòa án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án
một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định
có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình
tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.
Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố
tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không có nghĩa vụ phải chứng minh là
mình không có tội”.
Quá trình giải quyết vụ án hình sự với các giai đoạn khác nhau, các cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện nhiều hoạt động tố
tụng bằng nhiều biện pháp khác nhau. Nhưng xét đến cùng thì tất cả các hoạt
động ấy đều nhằm một mục đích là tìm ra sự thật của vụ án, chứng minh làm
21
sáng tỏ bản chất và các tình tiết của vụ án như: có hành vi phạm tội xảy ra hay
không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội, yếu
tố lỗi, năng lực trách nhiệm hình sự, mục đích, động cơ phạm tội. Để thực
hiện được nhiệm vụ đó, đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành
tố tụng tiến hành thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ một cách khách quan,
toàn diện trên cơ sở quy định của pháp luật để rút ra kết luận về việc giải
quyết vụ án.
Việc thực hiện tốt nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng
hình sự (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện tốt quyền bào chữa và cơ
quan tiến hành tố tụng thực hiện tốt trách nhiệm bảo đảm quyền bào chữa) là
cơ sở giúp cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thu thập, kiểm
tra, đánh giá chứng cứ được toàn diện, khách quan nhất, góp phần xác định
sự thật của vụ án. Muốn xác định được sự thật vụ án thì việc bảo đảm quyền
bào chữa cho bị can, bị cáo là yếu tố rất quan trọng, cần thiết. Nếu quyền bào
chữa không được bảo đảm thì mục đích xác định sự thật khách quan của vụ án
không thể đạt được.
Trách nhiệm xác định sự thật của vụ án thuộc về các cơ quan tiến hành
tố tụng, người tiến hành tố tụng. Còn bị can, bị cáo có quyền đưa ra các chứng
cứ và yêu cầu chứng minh họ không phạm tội. Do đó, các cơ quan tiến hành
tố tụng phải tạo điều kiện để bị can, bị cáo đưa ra các chứng cứ, các yêu cầu
và xem xét, giải quyết một cách khách quan, không được có thái độ thiên vị.
Việc áp dụng các biện pháp để xác định sự thật vụ án phải bảo đảm
tuân thủ đúng và trong giới hạn quy định của pháp luật, trong đó có yêu cầu
về bảo đảm quyền bào chữa. Trên cơ sở đó mới bảo đảm xử lý vụ án một cách
khách quan, không làm oan người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm.
- Với nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án
Quyền được bình đẳng trước Tòa án là quyền pháp lý cơ bản của mỗi
22
công dân khi tham gia tố tụng hình sự. Trong cùng một vai trò của người
tham gia tố tụng thì họ có quyền, nghĩa vụ như nhau theo quy định của pháp
luật tố tụng hình sự. Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn và thu thập chứng
cứ của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải dựa trên
các quy định của pháp luật. Quá trình giải quyết vụ án phải tuân thủ trình tự,
thủ tục thống nhất theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Sự bình đẳng này được thể hiện ở việc các bên trong tố tụng hình sự
(Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người đại diện hợp pháp
của họ, người bảo vệ quyền lợi của đương sự) bình đẳng, có cơ hội, khả năng,
điều kiện ngang nhau trong việc đưa ra ý kiến, chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên
quan đến vụ án; tìm hiểu các thông tin có trong hồ sơ vụ án và tranh luận dân
chủ trước Tòa án. Tòa án có trách nhiệm bảo đảm của họ thực hiện quyền này
nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
Nếu việc quyền bình đẳng trước Tòa án được bảo đảm (các bên được
bảo đảm các điều kiện cần thiết theo quy định của pháp luật về nắm bắt, tiếp
cận thông tin vụ án, đưa ra các tài liệu, chứng cứ và các ý kiến về vụ án) sẽ là
cơ sở, tiền đề bảo đảm cho việc thực hiện quyền bào chữa của các bên có hiệu
quả. Và ngược lại khi quyền bào chữa trong tố tụng hình sự được bảo đảm
thực hiện có nghĩa đang góp phần bảo đảm thực hiện nguyên tắc bình đẳng
trước Tòa án.
Theo quy định tại Điều 19 Bộ luật Tố tụng hình sự thì Kiểm sát viên, bị
cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp của họ,
người bảo vệ quyền lợi của đương sự thực hiện quyền bình đẳng trong việc
đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ trước
Tòa án nhằm xác định sự thật của vụ án, nâng cao tính dân chủ, công bằng
23
trong TTHS. Và Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho Viện Kiểm Sát, bị cáo,
người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp của họ,
người bảo vệ quyền lợi của đương sự đều có quyền bảo đảm trong việc đưa ra
chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu và tranh luận dân chủ trước tòa.
- Với nguyên tắc không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Trước đây, nguyên tắc không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết
tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật chưa được Luật Tố tụng hình sự ghi
nhận; địa vị pháp lý của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự chưa được xác
định rõ ràng nên mặc dù họ chưa bị kết tội bởi một bản án đã có hiệu lực pháp
luật của Tòa án nhưng họ thường bị coi là có tội, nhiều quyền công dân cơ
bản của họ không được bảo đảm khi đáng lẽ phải được tôn trọng. Việc pháp
luật tố tụng hình sự ghi nhận nguyên tắc này đã xác định bị can, bị cáo là
những người chưa có tội, và hầu hết các quyền công dân của họ được bảo
đảm trong các giai đoạn tố tụng.
Nguyên tắc không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa
án được ghi nhận tại Điều 9 Bộ luật TTHS năm 2003 “Không ai bị coi là có tội
khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” [22]. Theo đó
một người chỉ bị coi là có tội và bị áp dụng hình phạt khi Tòa án đã xem xét,
đánh giá chứng cứ tại phiên tòa và kết luận hành vi của họ đủ yếu tố cấu
thành tội phạm theo các điều, khoản của Bộ luật hình sự bằng một bản án đã
có hiệu lực pháp luật. Vì vậy tuy những người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có
hành vi có dấu hiệu của tội phạm nhưng chưa bị coi là có tội. Nguyên tắc này
cũng được ghi nhận tại khoản 1 Điều 31 Hiến pháp 2013 “Người bị buộc tội
được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định
và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” [21].
24
Trong tố tụng hình sự nguyên tắc không ai bị coi là có tội khi chưa có
bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa có mối quan hệ mật thiết với nhau. Việc ghi nhận và thực
hiện nguyên tắc không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án
đã có hiệu lực pháp luật đã khắc phục định kiến của các cơ quan tiến hành tố
tụng cho rằng bị can, bị cáo là người phạm tội nên trong quá trình giải quyết
vụ án sẽ chú ý nhiều đến thu thập các chứng cứ buộc tội, chứng cứ làm tăng
nặng trách nhiệm hình sự mà không chú trọng đến các chứng cứ gỡ tội, chứng
cứ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của họ, dẫn tới việc giải quyết vụ án không
khách quan. Nguyên tắc này là tiền đề, tạo điều kiện cho bị can, bị cáo thực
hiện quyền bào chữa của họ. Do vậy, pháp luật TTHS quy định cho họ có
quyền sử dụng tất cả biện pháp để chứng minh sự vô tội hoặc để làm giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự của họ trước các cơ quan tiến hành tố tụng.
Việc ghi nhận nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng là một
biểu hiện cụ thể của nguyên tắc không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án
kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Trên cơ sở tôn trọng, bảo đảm
quyền bào chữa của người bị buộc tội, các cơ quan tiến hành tố tụng buộc
phải thận trọng hơn trong các hoạt động tố tụng nhất là khi đưa ra quyết định
có thể gây bất lợi cho người bị buộc tội. Vì vậy các hoạt động điều tra, truy
tố, xét xử sẽ được khách quan, công bằng, dân chủ hơn và khi đó nguyên tắc
không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật sẽ được bảo đảm. Việc không ghi nhận hoặc hạn chế quyền bào
chữa của người bị buộc tội không những vi phạm nguyên tắc không ai bị coi
là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà sẽ
dễ khiến các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trở nên độc
đoán, lạm quyền và khi đó toàn bộ hoạt động TTHS sẽ trở thành hoạt động có
tính chất áp đặt, phiến diện, không đạt được mục đích của hoạt động này.
25
Theo đó, mọi sự nghi ngờ về lỗi của người bị buộc tội nếu như không
thể loại trừ được theo trình tự luật định, cũng như mọi sự nghi ngờ xuất hiện
trong việc giải thích và áp dụng các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự và và
pháp luật tố tụng hình sự đều phải được giải thích theo hướng có lợi cho họ.
Các quy định pháp luật tố tụng hình sự được đặt ra nhằm bảo đảm cho
việc giải quyết vụ án hình sự được công minh, khách quan, nhanh chóng;
tránh làm oan người vô tội và bỏ lọt người phạm tội; bảo đảm quyền và lợi
ích chính đáng của người bị tình nghi phạm tội. Đồng thời các quy định này
đòi hỏi các cơ quan và những người tiến hành tố tụng phải có sự thận trọng,
vô tư và đề cao tinh thần trách nhiệm trong việc điều tra, thu thập, làm rõ các
chứng cứ buộc tội, gỡ tội nhằm làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án.
Việc tăng cường bảo đảm nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị
cáo góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật;
ghi nhận trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng, các tổ chức xã hội,
cơ quan nhà nước khác trong việc tạo điều kiện cho bị can, bị cáo thực hiện
quyền bào chữa.
1.2.2. Mối quan hệ giữa nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa với việc
bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự
Ý thức về quyền con người xuất hiện từ rất sớm. Khái niệm nhân quyền
có nguồn gốc từ thời Hy lạp cổ dưới dạng các quyền tự nhiên của con người.
Lần đầu tiên các quyền con người được chính thức ghi nhận trong các văn
kiện quan trọng như Tuyên ngôn độc lập của Mỹ, Tuyên ngôn về quyền con
người và quyền công dân của Pháp 1789,... Cùng với sự phát triển kinh tế-xã
hội của loài người, trải qua quá trình đấu tranh gian khổ, lâu dài thì quyền con
người ngày càng được ghi nhận rộng rãi, đầy đủ và phát triển.
Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự luôn là vấn đề được quan
tâm, là tiêu chí quan trọng để đánh giá sự phát triển của xã hội. TTHS là quá
26
trình nhà nước đưa một người ra xử lý trước pháp luật từ khi họ bị nghi ngờ
thực hiện tội phạm, quá trình này luôn thể hiện đậm nét tính quyền lực nhà
nước với sức mạnh cưỡng chế nhà nước, với sự thiếu bình đẳng về thế và lực
của các bên tham gia quan hệ TTHS mà thế yếu luôn thuộc về những người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo. Chính vì vậy, hoạt động tố tụng hình sự, trong bất cứ
nhà nước nào đều được xếp vào “nhóm nguy cơ cao” khi người ta nói đến vấn
đề bảo vệ quyền con người [39].
Với nhiệm vụ “chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện
chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội,
không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội” hướng tới mục đích “góp
phần bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật XHCN, đồng thời giáo
dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội
phạm” [22]. Các quy định của pháp luật tố tụng hình sự đã trao cho con người
các phương tiện cần thiết để bảo vệ quyền của mình trong tố tụng hình sự
đồng thời đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm áp dụng đúng
quy định pháp luật để bảo đảm cho các quyền này được thực hiện hiệu quả.
Xuất phát từ yêu cầu bảo đảm quyền con người, nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa trong tố tụng hình sự được ghi nhận là nguyên tắc cơ bản của
luật tố tụng hình sự, thể hiện phương châm, định hướng chi phối hoạt động tố
tụng hình sự đồng thời thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong
việc bảo vệ quyền con người trên phương diện bảo đảm quyền an toàn thân
thể, danh dự, nhân phẩm của người bị tình nghi phạm tội.
Đối với những người bị tạm giữ, bị can, bị cáo khi tham gia tố tụng
có thể đang bị các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng các biện pháp cưỡng
chế tuy nhiên theo quy định của pháp luật thì họ vẫn chưa bị coi là người
phạm tội “Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã
27
có hiệu lực pháp luật” do đó họ vẫn được pháp luật bảo vệ những quyền
thiết thân của con người.
1.3. Quá trình hình thành và phát triển của nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa của người bị tam giữ, bị can, bị cáo ở Việt Nam
1.3.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng Tám 1945 đến trước khi
Bộ luật TTHS năm 1988 có hiệu lực thi hành
Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công đã chấm dứt sự tồn tại
của chế độ thực dân nửa phong kiến ở Việt Nam, lập nên nhà nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa, nhà nước đầu tiên của giai cấp công nhân và nông dân ở
Đông Nam Á. Ngay sau khi thành lập, bên cạnh việc kiện toàn chính quyền
non trẻ, Nhà nước đã chú ý đến việc xây dựng, củng cố hệ thống pháp luật nói
chung và pháp luật tố tụng hình sự nói riêng. Quyền bào chữa trong tố tụng
hình sự được pháp luật Việt Nam ghi nhận và bảo đảm thực hiện từ rất sớm.
Ngày 13/9/1945, Chủ tịch lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ký
ban hành Sắc lệnh số 33c về việc thành lập Tòa án quân sự ở một số tỉnh
thuộc Bắc bộ, Trung bộ và Nam bộ. Tại Điều 5 Sắc lệnh đã quy định về
quyền bào chữa cho bị cáo “Bị cáo có thể tự bào chữa hay nhờ một người
khác bênh vực cho”.
Tiếp đó quyền bào chữa trong tố tụng hình sự đã được ghi nhận và dần
được hoàn thiện hơn qua nhiều văn bản pháp luật khác như: Sắc lệnh số 46-SL
ngày 10/10/1945 về việc quy định tổ chức các đoàn thể luật sư ghi nhận “Các
luật sư có quyền bào chữa ở tất cả các Toà án hàng tỉnh trở lên và trước các
Toà án quân sự” (Điều 2); Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946 về cách tổ chức các
toà án và các ngạch thẩm phán quy định về bào chữa chỉ định (Điều 44) và
phạm vi quyền biện hộ của luật sư (Điều 46); Sắc lệnh số 21 ngày 14/02/1946
quy định về tổ chức các Tòa án quân sự quy định cụ thể hơn về quyền bào chữa
của bị cáo; Sắc lệnh số 40/SL ngày 29/03/1946 của Chủ tịch Chính phủ Việt
28
Nam dân chủ cộng hòa về việc bảo vệ tự do cá nhân đã mở rộng phạm vi thực
hiện quyền bào chữa thông qua việc nhờ người khác; Sắc lệnh số 163-SL ngày
23/08/1946 về việc tổ chức Toà án binh lâm thời đặt tại Hà Nội đã có quy định
Tòa án yêu cầu chỉ định luật sư bào chữa cho bị cáo.
Như vậy có thể thấy, ngay sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra
đời, pháp luật Việt Nam đã ghi nhận nhằm tạo cơ sở pháp lý trong việc củng
cố, bảo vệ các quyền của công dân trong đó có quyền bào chữa trong tố tụng
hình sự. Tuy nhiên vào thời kỳ này bảo đảm quyền bào chữa chưa được coi là
nguyên tắc trong tố tụng hình sự; phạm vi quyền bào chữa ở thời kỳ này
tương đối hẹp. Việc thực hiện quyền bào chữa mới chỉ dùng lại ở mức tự bào
chữa và nhờ luật sư bào chữa tại phiên tòa.
Bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được
Quốc hội thông qua vào ngày 09/11/1946 tại kỳ họp thứ hai Quốc hội khoá 1
đã quy định nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo: “Người bị cáo
được quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn luật sư” (Điều thứ 67). Quyền
bào chữa được Hiến pháp 1946 xác định gồm quyền tự bào chữa và nhờ
luật sư bào chữa, là cơ sở pháp lý vững chắc cho bảo đảm quyền bào chữa
trong tố tụng hình sự.
Sau khi Hiến pháp được ban hành, quyền bào chữa tiếp tục được hoàn
thiện. Sắc lệnh số 69 ngày 18/6/1949 và Sắc lệnh số 144 ngày 22/12/1949 đã
cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp, đặc biệt là phạm vi quyền nhờ người
khác bào chữa. Điều thứ 1 Sắc lệnh số 69 quy định:
Từ nay đến khi nào có thể lệ khác, trước các Tòa án thường
và các Tòa án đặc biệt xử việc tiểu hình và đại hình, trừ Tòa án binh
mặt trận, bị can có thể nhờ một công dân không phải là luật sư bào
chữa cho. Công dân do bị can đã tự chọn để bênh vực mình phải
được ông Chánh án thừa nhận [21].
29
Điều thứ hai quy định: “Nếu bị can không có ai bênh vực, ông Chánh
án có thể, tự mình hay theo lời yêu cầu của bị can, cử ra một người bào chữa
cho bị can”. Sắc lệnh này đã được sửa đổi bổ sung bởi sắc lệnh số 144-SL
ngày 22/12/1949. Có thể nói sắc lệnh 69-SL và sắc lệnh 144-SL đã bước đầu
đặt nền móng cho việc xây dựng chế độ bào chữa viên nhân dân ở nước ta.
Tiếp đó nghị định số 01/NĐ ngày 02/01/1950 của Bộ Tư pháp đã quy
định về việc tham gia tố tụng của bào chữa viên nhân dân; “Đề án về quyền
bào chữa của bị cáo” được thông qua tại hội nghị tư pháp toàn quốc ngày
20/06/1956 đã có những quy định tương đối cụ thể về quyền của người bào
chữa khi tham gia tố tụng, thời điểm tham gia tố tụng. Các quy định đã tạo
bước phát triển mới trong việc bảo đảm quyền bào chữa, tạo tiền đề cho việc
hình thành, phát triển nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong TTHS.
Ngày 24/10/1956 Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư 2225/HCCP trong
đó quy định “việc giao bản cáo trạng cho bị cáo chậm nhất là 3 ngày
trước khi mở phiên toà”. Quy định này đã tạo điều kiện cho bị cáo và người
bào chữa của họ có đủ thời gian chuẩn bị cho bào chữa tại phiên toà về tài
liệu, chứng cứ phục vụ cho việc bào chữa, bài bào chữa.
Hiến pháp 1959 ra đời và tiếp tục ghi nhận quyền bào chữa trong tố
tụng hình sự. Cụ thể, tại Điều 101 Hiến pháp 1959 quy định “Quyền bào
chữa của người bị cáo được bảo đảm”. Như vậy, không chỉ dừng lại ở việc
quy định quyền bào chữa cho bị cáo như Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959 đã
khẳng định cả cơ chế bảo đảm quyền bào chữa cho người bị cáo mặc dù quy
định này vẫn chưa thể hiện cụ thể việc bị cáo có được tự bào chữa hay mời
người bào chữa hay không; khái niệm “quyền bào chữa” chưa làm rõ.
Ngày 15/07/1960 Quốc hội thông qua Luật Tổ chức Tòa án Nhân dân,
trong đó quy định chi tiết, cụ thể quyền bào chữa. Tòa án nhân dân tối cao đã
ban hành Thông tư số 06/TC ngày 09/09/1967 hướng dẫn việc bảo đảm quyền
30
bào chữa cho bị cáo. Thông tư có nhiều quy định mới, tiến bộ hơn so với các
văn bản trước đây như: đã quy định cho bị cáo được quyền yêu cầu Toà án
thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân; quyền trình bày lời bào chữa nếu
họ không có người bào chữa. Thông tư cũng quy định về việc bảo đảm thời
gian cần thiết cho việc bào chữa; các trường hợp Toà án phải chỉ định người
bào chữa cho bị cáo; chế độ bào chữa chữa viên nhân dân nhằm thu hút sự
tham gia của nhân dân vào việc bào chữa cho bị cáo như: bị cáo có thể yêu
cầu Toà án chấp nhận một công dân không có tên trong danh sách bào chữa
viên nhân dân do các đoàn thể nhân dân giới thiệu để bào chữa cho mình [32].
Ngày 27/08/1974, Tòa án nhân dân tối cao ban hành Thông tư số 16-
TATC hướng dẫn về trình tự, thủ tục xét xử sơ thẩm. Thông tư đã hướng dẫn
cụ thể những trường hợp TAND phải chỉ định người bào chữa cho bị cáo và
quy định điều kiện bảo đảm quyền bào chữa cho bị cáo như thời gian giao
bản cáo trạng cho bị cáo.
Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng vào ngày 30/4/1975, kế
thừa và phát triển Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 tiếp
tục khẳng định quyền bào chữa của bị cáo. Điều 133 Hiến pháp năm 1980 quy
định “Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm. Tổ chức luật sự được thành
lập để giúp bị cáo và các đương sự khác về mặt pháp lý”. Quy định này đã
khẳng định vai trò cần thiết của luật sư trong việc bảo vệ các quyền, lợi ích
hợp pháp của bị cáo và các đương sự khác.
Ngày 18/12/1987, Pháp lệnh tổ chức luật sư, văn bản pháp luật đầu tiên
về tổ chức luật sư được ban hành, đã góp phần quan trọng vào việc bảo đảm
quyền bào chữa của bị cáo.
Như vậy, giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng Tám 1945 đến trước khi
Bộ luật TTHS năm 1988 có hiệu lực thi hành là giai đoạn với nhiều bước
ngoặt lớn trong lịch sử. Đất nước trải qua hai cuộc chiến tranh khốc liệt để
31
giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước; điều kiện kinh tế xã hội của đất
nước vô cùng khó khăn đã có những ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển
của việc thực hiện pháp luật nói chung và bảo đảm quyền bào chữa trong tố
tụng hình sự nói riêng. Pháp luật thời kỳ này chưa ghi nhận bảo đảm quyền
bào chữa là một nguyên tắc trong tố tụng hình sự; các quy định chưa phản ánh
đầy đủ các nội dung bảo đảm quyền bào chữa. Pháp luật chỉ mới ghi nhận
quyền bào chữa của bị cáo ở giai đoạn xét xử (tại phiên tòa) mà chưa ghi nhận
ở các giai đoạn tố tụng khác.
Mặc dù có rất nhiều khó khăn nhưng việc bảo đảm quyền bào chữa
trong TTHS vẫn được phát triển theo hướng dân chủ và ngày càng hoàn thiện.
Pháp luật đã ghi nhận và có cơ chế bảo đảm việc thực hiện quyền bào chữa
thông qua người bào chữa. Pháp luật đã có quy định về tổ chức luật sư tạo
điều kiện cho hoạt động bào chữa phát triển. Do đó, quyền bào chữa của bị
cáo đã được mở rộng, phát triển và được bảo đảm thể hiện tính nhân đạo và
dân chủ trong pháp luật TTHS nước ta. Các quy định về bảo đảm quyền bào
chữa ngày càng hoàn thiện tạo cơ sở cho việc phát triển và hoàn thiện nguyên
tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự sau này.
1.3.2. Giai đoạn từ khi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 có hiệu lực
thi hành đến năm 2003
Cùng với sự phát triển, đổi mới về mọi mặt của đời sống xã hội; trên cơ
sở kế thừa và phát triển của pháp luật tố tụng hình sự từ giai đoạn Cách mạng
tháng Tám, ngày 28/6/1988, Bộ luật Tố tụng hình sự đầu tiên của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được Quốc hội đã thông qua và có hiệu lực
thi hành kể từ ngày 01/01/1989. Đây là Bộ luật đầu tiên của Việt Nam quy
định trình tự, thủ tục tiến hành các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
và thi hành án hình sự. Bộ luật đã quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của các cơ quan tiến hành tố tụng, đề cao vai trò của các tổ chức xã hội và
32
công dân trong việc tham gia tố tụng, kết hợp sức mạnh của pháp chế xã hội
chủ nghĩa với sức mạnh của quần chúng nhân dân trong đấu tranh chống và
phòng ngừa tội phạm. Nhận thức được ý nghĩa to lớn của chức năng bào chữa
trong hoạt động tố tụng hình sự, Bộ luật TTHS 1988 đã cụ thể hóa quyền bào
chữa - quyền hiến định của bị cáo, được bổ sung thêm bị can và ghi nhận yêu
cầu bảo đảm quyền bào chữa cho các chủ thể này là một trong những nguyên
tắc cơ bản trong TTHS nước ta. Tại Điều 12 thuộc Chương các nguyên tắc cơ
bản của Bộ luật quy định “Bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ
người khác bào chữa. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án có nhiệm vụ
bảo đảm cho bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ”. Quy định này
cũng ghi rõ trách nhiệm bảo đảm quyền bào chữa cho bị can, bị cáo là Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án. Bên cạnh đó BLTTHS đã có quy định
về việc bảo đảm quyền bào chữa trong một số trường hợp cụ thể (bào chữa
bắt buộc). Đối với những trường hợp này, nếu bị can, bị cáo hoặc người đại
diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát hoặc Tòa án phải yêu cầu Đoàn luật sư cử người bào chữa cho họ.
Tiếp đó Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam (được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 51/2001/QH10
ngày 25/12/2001 của Quốc hội) quy định:
Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm. Bị cáo có thể tự
bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình. Tổ chức luật sư
được thành lập để giúp bị cáo và các đương sự khác bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình và góp phần bảo vệ pháp chế xã hội
chủ nghĩa (Điều 132).
Tóm lại, các quy định của pháp luật Việt Nam về quyền bào chữa trong
tố tụng hình sự phần nào đã phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Theo những
chuẩn mực quốc tế này, các bị cáo phải được hưởng những bảo đảm tối thiểu
33
bao gồm quyền có đủ thời gian và phương tiện để chuẩn bị bào chữa và được
quyền liên lạc với luật sư do mình lựa chọn; được tham dự phiên tòa để tự bào
chữa hoặc nhờ luật sư bài chữa do họ lựa chọn; được thông báo về quyền này
trong trường hợp tự bào chữa; và được quyền có luật sư bào chữa miễn phí vì
nhu cầu công lý nếu bị cáo không có đủ khả năng nhờ luật sư.
1.3.3. Giai đoạn từ khi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 có hiệu lực
thi hành đến nay
Trong tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Đảng
và Nhà nước ta đã chủ trương đẩy mạnh công cuộc cải cách tư pháp nhằm xây
dựng một nền tư pháp trong sạch, bảo đảm tốt hơn các quyền của công dân.
Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm
vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới xác định:
Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả
tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các
chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, người bào chữa, bị cáo, nhân
chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp
pháp. Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để luật sư
tham gia vào quá trình tố tụng: tham gia hỏi cung bị can, nghiên
cứu hồ sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên tòa.
Đến Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về
“Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” khẳng định “nâng cao chất
lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt
động tư pháp” [2].
Để bảo đảm phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp
thời mọi hành vi phạm tội, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội
và bảo vệ tối đa quyền, lợi ích của công dân, tổ chức, Bộ luật tố tụng hình sự
đã trải qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện các quy định của pháp
34
luật cho phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội, yêu cầu cải cách tư pháp và hội
nhập quốc tế. Ngày 26/11/2003 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 được Quốc
hội khóa XI thông qua tại kỳ họp thứ tư và có hiệu lực thi hành kể từ ngày
01/7/2004. So với Bộ luật Tố tụng hình sự 1988 được sửa đổi, bổ sung vào
các năm 1990, 1993, 2000 thì BLTTHS năm 2003 có nhiều điểm mới đáp ứng
yêu cầu cải cách tư pháp, bảo đảm tốt hơn quyền con người.
Điều 11 BLTTHS năm 2003 quy định:
Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc
nhờ người khác bào chữa.
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án có nhiệm vụ bảo
đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa
của họ theo quy định của Bộ luật này [22].
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 tiếp tục ghi nhận việc bảo đảm
quyền bào chữa là nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự, bên cạnh việc ghi
nhận quyền bào chữa cho bị can, bị cáo như Bộ luật Tố tụng hình sự năm
1988 và các quy định pháp luật trước đó thì Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2003 đã ghi nhận nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa theo hướng mở rộng
hơn. Theo Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 thì quyền bào chữa được mở rộng
cho đối tượng mới là người bị tạm giữ. Việc bổ sung quyền này đối với người
bị tạm giữ xuất phát từ quan điểm cho rằng người bị tạm giữ được xác định là
người bị tình nghi thực hiện tội phạm đối với vụ án hình sự, do vậy, họ có
quyền được bào chữa [38]. Đồng thời Bộ luật cũng quy định rõ trách nhiệm
của cơ quan tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm quyền bào chữa cho người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo và các quy định nhằm tạo điều kiện cho họ thực hiện
quyền bào chữa theo quy định, thể hiện sự phát triển của nguyên tắc như quy
định cho người bào chữa quyền thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến
việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc người thân của họ hoặc
từ tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
35
Việc pháp luật ghi nhận quyền bào chữa cho người bị tạm giữ đã tạo cơ
sở pháp lý, điều kiện cho họ có khả năng bảo vệ quyền lợi của mình tốt hơn
thông qua việc tự mình hoặc thông qua người bào chữa có thể thu thập các
chứng cứ cần thiết bảo đảm cho việc gỡ tội tốt hơn, góp phần xác định nhanh
chóng sự thật vụ án.
Năm 2006, Luật luật sư và Luật Trợ giúp pháp lý được Quốc hội thông
qua đã củng cố, hoàn thiện và phát triển quyền bào chữa, nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa trong tố tụng hình sự ở nước ta.
Tại khoản 4 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 quy định “Người bị bắt, tạm
giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật
sư hoặc người khác bào chữa”. Như vậy, theo Hiến pháp 2013 thì phạm vi
các đối tượng được bảo đảm quyền bào chữa được mở rộng cho cả người bị
bắt. Theo đó ngay từ khi một người bị bắt đã phát sinh quyền bào chữa đối
với họ và quyền này được bảo đảm bởi đạo luật có giá trị pháp lý cao nhất là
Hiến pháp.
Như vậy, trong tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, quyền con người và việc bảo đảm thực hiện quyền con người
trong đó có quyền bào chữa trong tố tụng hình sự được ghi nhận một cách
nhất quán giữa Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác (tính ổn định) và trải
qua các thời kỳ lịch sử khác nhau, việc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng
hình sự được ghi nhận và ngày càng được hoàn thiện để phù hợp với từng giai
đoạn lịch sử và khả năng thực tế của các cơ quan tiến hành tố tụng và người
tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án.
1.4. Quy định về bảo đảm quyền bào chữa trong pháp luật quốc tế
Quyền bào chữa là một quyền cơ bản của người bị buộc tội trong tố tụng
hình sự và vấn đề bảo đảm quyền bào chữa được ghi nhận từ rất sớm ở hầu hết
các văn bản pháp lý quốc tế và pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới.
36
Quyền bào chữa được ghi nhận dựa trên nền tảng về học thuyết tố tụng
công bằng (Due process of law) và nguyên tắc xét xử công bằng (Right to a
fair trial). Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 (UDHR) đã ghi
nhận các nguyên tắc cơ bản về quyền của con người phải đối mặt với những
cáo buộc hình sự. Tại Điều 10 của UDHR ghi nhận “Mọi người đều bình
đẳng về quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một Toà án độc lập và
khách quan để xác định các quyền và nghĩa vụ của họ, cũng như về bất cứ sự
buộc tội nào đối với họ”. Và Điều 11 của Tuyên ngôn đã ghi nhận các khía
cạnh cụ thể “Bất cứ ai bị cáo buộc về một hành vi phạm tội đều được quyền
suy đoán vô tội cho đến khi được chứng minh là phạm tội trước một phiên tòa
công khai, nơi mà anh ta được cung cấp những bảo đảm cần thiết cho việc
bào chữa”. Mặc dù không quy định trực tiếp quyền bào chữa nhưng quy định
trên đã xác định quyền được có những bảo đảm hợp lý cho việc bào chữa của
người bị buộc tội là một trong những tiêu chí cơ bản của xét xử công bằng.
Theo tinh thần chung của UDHR thì các quy định về bảo đảm quyền bào chữa
đã được ghi nhận và cụ thể hóa ở nhiều văn kiện quốc tế khác. Cụ thể:
- Điều 14 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, 1966
(ICCPR) được thông qua và để ngỏ cho các quốc gia ký, phê chuẩn và gia
nhập theo Nghị quyết số 2200 (XXI) ngày 16/12/1966 của Đại hội đồng Liên
Hợp Quốc; có hiệu lực ngày 23/3/1976 (căn cứ theo Điều 49) Việt Nam gia
nhập Công ước vào ngày 24/9/1982. Khoản 3 Điều 14 của Công ước quy định
các quyền cơ bản hay những bảo đảm tối thiểu mà một người được hưởng
trong quá trình tố tụng nhằm bảo đảm việc xét xử công bằng, trong đó có
quyền bào chữa. Theo đó trong quá trình xét xử hình sự, mọi người đều có
quyền được hưởng một cách đầy đủ và hoàn toàn bình đẳng những bảo đảm
tối thiểu sau đây:
(a) Được thông báo không chậm trễ và chi tiết bằng một ngôn ngữ mà
người đó hiểu về bản chất và lý do buộc tội mình;
37
(b) Có đủ thời gian và điều kiện để chuẩn bị bào chữa và liên hệ với
người bào chữa do chính mình lựa chọn;
Tại Bình luận chung số 32 của Ủy ban giám sát thực hiện Công ước
quốc tế về các quyền dân sự, chính trị về quyền bình đẳng trước Tòa án và
quyền được xét xử công bằng đã hướng dẫn cụ thể về các bảo đảm tối thiểu
được quy định tại Điều 14 Công ước. Chẳng hạn như tại Đoạn 32 và 33 của
Bình luận chung số 32, HRC đã làm rõ thêm về thuật ngữ “thời gian đầy đủ
(hay thời gian thích đáng)” như sau:
32. “Thời gian đầy đủ” cho việc chuẩn bị phụ thuộc vào từng
vụ việc. Luật sư có thể trong một số trường hợp xin hoãn xét xử nếu
thấy chưa đủ thời gian chuẩn bị việc bào chữa... Tòa án chỉ có thể ra
quyết định hoãn xét xử khi bị đơn bị kết tội hình sự nghiêm trọng
và cần thời gian chuẩn bị cho việc bào chữa.
33. “Các điều kiện đầy đủ” bao gồm quyền tìm kiếm các tài
liệu, chứng cứ khác; việc tiếp cận này bao gồm các tài liệu liên
quan đến việc khởi tố và thông tin có thể dùng để bào chữa.
(c) Được xét xử mà không bị trì hoãn một cách vô lý;
(d) Được có mặt trong khi xét xử và được tự bào chữa hoặc thông qua
sự trợ giúp pháp lý theo sự lựa chọn của mình; được thông báo về quyền này
nếu chưa có sự trợ giúp pháp lý; và được nhận sự trợ giúp pháp lý theo chỉ
định trong trường hợp lợi ích của công lý đòi hỏi và không phải trả tiền cho
sự trợ giúp đó nếu không có đủ điều kiện trả;
Bình luận chung số 32 hướng dẫn cụ thể một số quy định như: bị cáo
có quyền có mặt trong khi bị xét xử, nhưng trong một số trường hợp bị cáo có
thể vắng mặt nếu sự vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến công lý và bị cáo
đã được cơ quan tư pháp thông báo kịp thời cho họ về thời gian, địa điểm xét
xử và yêu cầu họ tham gia trước đó nhưng họ vẫn từ chối thực hiện quyền có
mặt trong phiên tòa (Đoạn 36).
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY

More Related Content

What's hot

Thẩm quyền của tòa án
Thẩm quyền của tòa ánThẩm quyền của tòa án
Thẩm quyền của tòa ánHương Chu
 

What's hot (17)

Đề tài: Vai trò của Viện kiểm sát trong bảo vệ quyền công dân
Đề tài: Vai trò của Viện kiểm sát trong bảo vệ quyền công dânĐề tài: Vai trò của Viện kiểm sát trong bảo vệ quyền công dân
Đề tài: Vai trò của Viện kiểm sát trong bảo vệ quyền công dân
 
Luận án: Quyền của người bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Quyền của người bị hại trong tố tụng hình sự Việt NamLuận án: Quyền của người bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Quyền của người bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam
 
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 
Luận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOT
 
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luậtNhững căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
 
Luận văn: Cấp, thông báo, tống đạt văn bản tố tụng, HAY, 9đ
Luận văn: Cấp, thông báo, tống đạt văn bản tố tụng, HAY, 9đLuận văn: Cấp, thông báo, tống đạt văn bản tố tụng, HAY, 9đ
Luận văn: Cấp, thông báo, tống đạt văn bản tố tụng, HAY, 9đ
 
Luận văn: Quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án, HOT
Luận văn: Quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án, HOTLuận văn: Quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án, HOT
Luận văn: Quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án, HOT
 
Luận văn: Thời hạn tố tụng dân sự theo pháp luật, HOT
Luận văn: Thời hạn tố tụng dân sự theo pháp luật, HOTLuận văn: Thời hạn tố tụng dân sự theo pháp luật, HOT
Luận văn: Thời hạn tố tụng dân sự theo pháp luật, HOT
 
Luận án: Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự, HAY
Luận án: Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự, HAYLuận án: Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự, HAY
Luận án: Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự, HAY
 
Thẩm quyền của tòa án
Thẩm quyền của tòa ánThẩm quyền của tòa án
Thẩm quyền của tòa án
 
Đề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAY
Đề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAYĐề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAY
Đề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người được thi hành án
Luận văn: Bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người được thi hành ánLuận văn: Bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người được thi hành án
Luận văn: Bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người được thi hành án
 
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật tố tụng
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật tố tụng Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật tố tụng
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật tố tụng
 
Đề tài: Bảo đảm quyền con người của phạm nhân theo pháp luật
Đề tài: Bảo đảm quyền con người của phạm nhân theo pháp luậtĐề tài: Bảo đảm quyền con người của phạm nhân theo pháp luật
Đề tài: Bảo đảm quyền con người của phạm nhân theo pháp luật
 
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOTLuận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
 
Luận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án trong Luật Tố tụng
Luận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án trong Luật Tố tụng Luận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án trong Luật Tố tụng
Luận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án trong Luật Tố tụng
 
Luận văn: Quyền của người bị tạm giam trước khi xét xử, HOT
Luận văn: Quyền của người bị tạm giam trước khi xét xử, HOTLuận văn: Quyền của người bị tạm giam trước khi xét xử, HOT
Luận văn: Quyền của người bị tạm giam trước khi xét xử, HOT
 

Similar to Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY

Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay
 Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay
Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nayhieu anh
 
Luận văn: Vai trò người bào chữa trong điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Vai trò người bào chữa trong điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn phí ...Luận văn: Vai trò người bào chữa trong điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Vai trò người bào chữa trong điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn phí ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

Similar to Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY (20)

Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dân
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dânLuận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dân
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dân
 
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án, HAYLuận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án, HAY
 
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt NamLuận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
 
Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay
 Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay
Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay
 
Đề tài: Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người, HOT
Đề tài: Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người, HOTĐề tài: Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người, HOT
Đề tài: Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người, HOT
 
Đề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
Đề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sátĐề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
Đề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
 
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAYLuận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
 
Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụng
Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụngNgười tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụng
Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụng
 
Đề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Đề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAYĐề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Đề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAY
 
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
 
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự, HAYLuận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt NamLuận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
 
Quyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do
Quyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự doQuyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do
Quyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do
 
Luận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOT
Luận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOTLuận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOT
Luận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOT
 
Luận văn: Căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
Luận văn: Căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nướcLuận văn: Căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
Luận văn: Căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
 
Luận văn: Vai trò người bào chữa trong điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Vai trò người bào chữa trong điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn phí ...Luận văn: Vai trò người bào chữa trong điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Vai trò người bào chữa trong điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn phí ...
 
Luận văn: Sự độc lập của thẩm phán, HAY, HOT
Luận văn: Sự độc lập của thẩm phán, HAY, HOTLuận văn: Sự độc lập của thẩm phán, HAY, HOT
Luận văn: Sự độc lập của thẩm phán, HAY, HOT
 
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt NamLuận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
 
luan van khang nghi giam doc tham tai tham trong phap luat, hay
luan van khang nghi giam doc tham tai tham trong phap luat, hayluan van khang nghi giam doc tham tai tham trong phap luat, hay
luan van khang nghi giam doc tham tai tham trong phap luat, hay
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docDịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhdtlnnm
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢImyvh40253
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfhoangtuansinh1
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfNguyen Thanh Tu Collection
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-KhnhHuyn546843
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...hoangtuansinh1
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...Nguyen Thanh Tu Collection
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảohoanhv296
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanmyvh40253
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 

Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VÕ THỊ KHÁNH HOÀI nguyªn t¾c b¶o ®¶m quyÒn bµo ch÷a trong luËt tè tông h×nh sù viÖt nam (Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh §¾k L¾k) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VÕ THỊ KHÁNH HOÀI nguyªn t¾c b¶o ®¶m quyÒn bµo ch÷a trong luËt tè tông h×nh sù viÖt nam (Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh §¾k L¾k) Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. TRỊNH QUỐC TOẢN HÀ NỘI - 2015
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn bảo đảm độ tin cậy, tính chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn đều được rút ra từ kết quả nghiên cứu. Tôi xin chân thành cảm ơn! Tác giả luận văn Võ Thị Khánh Hoài
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng, biểu đồ MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ......... 8 1.1. Khái quát về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự ........................................................................................ 8 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong TTHS........................................................................................... 8 1.1.2. Chủ thể của quyền bào chữa ..............................................................12 1.1.3. Hình thức thực hiện quyền bào chữa .................................................13 1.1.4. Cơ sở của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong TTHS............14 1.1.5. Ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự......................................16 1.2. Mối quan hệ giữa nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa với một số nguyên tắc khác của luật tố tụng hình sự và bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự..........................................18 1.2.1. Mối quan hệ giữa nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa với một số nguyên tắc khác của luật tố tụng hình sự.......................................18 1.2.2. Mối quan hệ giữa nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa với việc bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự................................25
  • 5. 1.3. Quá trình hình thành và phát triển của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tam giữ, bị can, bị cáo ở Việt Nam......27 1.3.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng Tám 1945 đến trước khi Bộ luật TTHS năm 1988 có hiệu lực thi hành.........................................27 1.3.2. Giai đoạn từ khi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 có hiệu lực thi hành đến năm 2003 .......................................................................31 1.3.3. Giai đoạn từ khi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 có hiệu lực thi hành đến nay .................................................................................33 1.4. Quy định về bảo đảm quyền bào chữa trong pháp luật quốc tế.......35 Chương 2: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK.......42 2.1. Nội dung cơ bản của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự........................................................................42 2.1.1. Bảo đảm quyền tự bào chữa...............................................................42 2.1.2. Bảo đảm quyền nhờ người khác bào chữa.........................................54 2.1.3. Trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của pháp luật...........................................63 2.2. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk..........................67 2.2.1. Đối với quyền tự bào chữa.................................................................67 2.2.2. Đối với quyền nhờ người khác bào chữa...........................................71 2.2.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong việc áp dụng nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo...........................................................................................82
  • 6. Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC NÀY TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK..............................................................................89 3.1. Sự cần thiết và phương hướng hoàn thiện các quy định pháp luật về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự trước yêu cầu cải cách tư pháp.................................89 3.1.1. Sự cần thiết hoàn thiện các quy định pháp luật về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự .................................89 3.1.2. Phương hướng hoàn thiện các quy định pháp luật về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự .................................92 3.2. Một số giải pháp hoàn thiện quy định của luật tố tụng hình sự về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa....................................94 3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk............................................................................107 3.3.1. Về giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật ....................................107 3.3.2. Về nhận thức ....................................................................................108 3.3.3. Về tổ chức ........................................................................................110 3.3.4. Về cơ chế kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm về bảo đảm quyền bào chữa ...........................................................................................116 KẾT LUẬN..................................................................................................119 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................121
  • 7. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự HĐXX : Hội đồng xét xử TAND : Tòa án nhân dân TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao THTT : Tiến hành tố tụng TTHS : Tố tụng hình sự XHCN : Xã hội chủ nghĩa
  • 8. DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ Số hiệu bảng, biểu đồ Tên bảng, biểu đồ Trang Bảng 2.1: Tình hình thụ lý, giải quyết án hình sự của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Đắk Lắk trong giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2013 68 Bảng 2.2: Số lượng vụ án hình sự của Tòa án hai cấp tỉnh Đắk Lắk bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của Thẩm phán trong giai đoạn 2009 - 2013 69 Bảng 2.3: Tình hình thụ lý, giải quyết án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Đắk Lắk trong giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2013 71 Bảng 2.4: Số liệu các vụ án hình sự luật sư thuộc Đoàn luật sư tỉnh tham gia bào chữa trong giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2013 72 Bảng 2.5: Số luật sư, tổ chức hành nghề luật sư thuộc Đoàn luật sư tỉnh Đắk Lắk giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2013 84 Biểu 2.1. Số vụ án có luật sư tham gia bào chữa và số vụ án Tòa án hai cấp tỉnh Đắk Lắk đã thụ lý, giải quyết giai đoạn 2009 – 2013 71
  • 9. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quyền bào chữa là một trong những nội dung cơ bản của quyền được xét xử công bằng - một lĩnh vực cơ bản của quyền con người trong tố tụng hình sự; việc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự có vai trò quan trọng, góp phần bảo đảm quyền con người, một tiêu chí cơ bản trong tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhiều văn kiện của Đảng và nhà nước ta đã khẳng định tầm quan trọng của quyền bào chữa trong hoạt động tố tụng trong công cuộc cải cách tư pháp như: Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới xác định: Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp. Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để luật sư tham gia vào quá trình tố tụng: tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên tòa [1]; Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” khẳng định “nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp” [3]. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự là nguyên tắc Hiến định, được ghi nhận tại tất cả các bản Hiến pháp của Việt Nam. Việc ghi nhận, thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
  • 10. 2 người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đồng thời giúp các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án hình sự đúng đắn, khách quan, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người không có tội; góp phần nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. Tuy nhiên, thực tiễn thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong thời gian qua đã bộc lộ nhiều hạn chế do nhiều nguyên nhân như: các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về bảo đảm quyền bào chữa còn vướng mắc, bất cập; nhận thức của người tiến hành tố tụng, người bào chữa và bản thân người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về quyền bào chữa chưa đầy đủ đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả công tác điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng. Dẫn đến còn tình trạng oan, sai, bỏ lọt tội phạm, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của nhà nước, xã hội và công dân. Là một tỉnh nằm ở vị trí trung tâm khu vực Tây Nguyên, có diện tích tự nhiên rộng (trên 13.125 km2 ), địa hình đồi núi phức tạp; nhiều dân tộc cùng chung sống (47 dân tộc, trong đó người dân tộc thiểu số chiếm hơn 33%); trình độ dân trí thấp, tình hình kinh tế, xã hội còn nhiều khó khăn; nhận thức của người dân về quyền bào chữa trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự còn nhiều hạn chế. Theo thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk thì từ năm 2009 đến năm 2013, chỉ có 792 vụ án hình sự có sự tham gia của người bào chữa trên tổng số 7.570 vụ án mà Tòa án hai cấp tỉnh Đắk Lắk thụ lý để giải quyết theo trình tự sơ thẩm, chiếm tỷ lệ tương đối thấp 10,46%. Do đó việc tiếp tục nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ thêm về mặt lý luận các quy định về bảo đảm quyền bào chữa trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng để đề ra các giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc đóng vai trò rất quan trọng trước yêu cầu cải cách tư pháp, góp phần trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã
  • 11. 3 hội chủ nghĩa. Từ những lý do trên, tôi chọn nghiên cứu đề tài “Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, trên cơ sơ số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Bảo đảm quyền bào chữa là nguyên tắc cơ bản của pháp luật tố tụng hình sự, là nội dung quan trọng trong việc bảo đảm quyền con người. Đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết về quyền bào chữa trong tố tụng hình sự của các nhà nghiên cứu như: Về tài liệu nghiên cứu là luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ, đề tài nghiên cứu khoa học gồm có công trình: Luận văn thạc sĩ “Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo” của tác giả Bùi Bảo Trâm, 2008; Luận án tiến sĩ luật học “Thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong luật tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Hoàng Thị Sơn, 2003; Đề tài nghiên cứu khoa học “Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự nhằm nâng cao hiệu quả xét xử theo tinh thần cải cách tư pháp” của nhóm tác giả do tiến sĩ Hoàng Thị Minh Sơn chủ nhiệm đề tài, 2009. Tài liệu nghiên cứu là bài viết tạp chí gồm có: “Thực trạng thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo” của tác giả Hoàng Thị Sơn, Tạp chí Luật học, 2002; “Về khái niệm quyền bào chữa và việc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo” của tác giả Hoàng Thị Sơn đăng trên Tạp chí Luật học, 2000; “Người bào chữa và vấn đề bảo đảm quyền của người bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Trần Văn Bảy, Tạp chí KHPL, 2001; “Những điểm mới về trách nhiệm, nghĩa vụ của người bào chữa trong Bộ luật TTHS năm 2003” của tác giả Phạm Hồng Hải, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, 2004; “Vấn đề thực hiện quyền của người bào chữa trong tố tụng hình sự” của tác giả Lê Hồng Sơn, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, 2002.
  • 12. 4 Các công trình, bài viết đã nghiên cứu về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa ở nhiều góc độ khác nhau nhưng chỉ dừng ở mức nghiên cứu pháp luật thực định, đi sâu vào các nội dung quyền bào chữa mà chưa nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống về bảo đảm quyền bào chữa dưới khía cạnh nguyên tắc trong tố tụng hình sự trước yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế. Hiện nay chưa có công trình, bài viết nào nghiên cứu về bảo đảm quyền bào chữa trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Mặt khác, nhiều công trình đã công bố trong thời gian khá lâu khi một số quy định pháp luật liên quan đến bảo đảm quyền bào chữa chưa được ban hành nên cần được tiếp tục nghiên cứu một cách sâu sắc, toàn diện hơn trên tinh thần của chiến lược cải cách tư pháp và thực tiễn áp dụng hiện nay để đưa ra những giải pháp phù hợp với thực tiễn nhất. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là tiếp tục làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam; chỉ ra những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn áp dụng nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa ở nước ta nói chung và trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk nói riêng. Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự và các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc theo tinh thần cải cách tư pháp. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn phải tập trung thực hiện các nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu các vấn đề lý luận về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa như khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa
  • 13. 5 trong tố tụng hình sự; chủ thể của quyền bào chữa và hình thức thực hiện; quá trình hình thành và phát triển của nguyên tắc từ năm 1945 đến nay ở Việt Nam; quy định về bảo đảm quyền bào chữa trong pháp luật quốc tế. - Nghiên cứu các nội dung cơ bản của nguyên tắc trong tố tụng hình sự Việt Nam; thực tiễn áp dụng nguyên tắc trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, từ đó chỉ ta những tồn tại, hạn chế trong việc áp dụng nguyên tắc và nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế đó. Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu quả áp dụng nguyên tắc này trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. 4. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu 4.1. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu các vấn đề về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong luật tố tụng hình sự Việt Nam; các quy định liên quan đến nguyên tắc này trong pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế; đánh giá thực tiễn áp dụng nguyên tắc trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk trong giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2013; trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng nguyên tắc trên địa bàn tỉnh trước yêu cầu cải cách tư pháp. 4.2. Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam, cụ thể: khái niệm, ý nghĩa của nguyên tắc, chủ thể thực hiện quyền bào chữa, phương thức thực hiện; nội dung của nguyên tắc trong tố tụng hình sự Việt Nam kết hợp với thực tiễn áp dụng nguyên tắc trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk để chỉ ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu quả áp dụng nguyên tắc này.
  • 14. 6 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về nhà nước và pháp luật; quan điểm về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về cải cách tư pháp của Đảng và nhà nước ta thể hiện qua các văn kiện đại hội Đảng; nghị quyết của Đảng, Quốc hội. Các phương pháp chủ yếu được sử dụng để nghiên cứu đề tài là: phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp đối chiếu, so sánh; phương pháp thống kê 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Về mặt lý luận Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự trước yêu cầu cải cách tư pháp trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk hiện nay. Các nghiên cứu của luận văn là tài liệu tham khảo cần thiết cho cán bộ nghiên cứu khoa học, thực tiễn; các sinh viên, học viên cao học chuyên ngành tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật trong quá trình học tập, nghiên cứu, giảng dạy cũng như hoạt động thực tiễn bảo đảm quyền bào chữa trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. 6.2. Về mặt thực tiễn Luận văn góp phần làm rõ thực trạng áp dụng nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong công tác điều tra, truy tố, xét xử trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Trên cơ sở đó đưa ra môt số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền bào chữa trong hoạt động tố tụng, góp phần thực thi nhiệm vụ bảo đảm quyền con người trước yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay.
  • 15. 7 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 03 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự. Chương 2: Nội dung của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự và thực tiễn áp dụng. Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự và nâng cao hiệu quả áp dụng nguyên tắc này trên địa bàn tỉnh Đắk lắk.
  • 16. 8 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1. Khái quát về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong TTHS Quyền con người là thành tựu chung của cả loài người, là kết tinh của nền văn minh nhân loại. Những thành tựu pháp lý quốc tế về quyền con người hiện nay là sản phẩm của cuộc đấu tranh hết sức lâu dài, gian khổ của toàn thể nhân loại tiến bộ, chống áp bức, bất công, xây dựng cuộc sống tự do, bình đẳng và hạnh phúc [43]. Quyền con người được bảo đảm như thế nào, ở mức độ nào là một trong những thước đo, tiêu chí quan trọng để đánh giá sự phát triển của một quốc gia. Trong bất kỳ một nhà nước nào đặc biệt là nhà nước pháp quyền thì quyền con người và quyền công dân được đặc biệt coi trọng, là giá trị cao quý nhất được bảo vệ. Tại Lời nói đầu Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 đã khẳng định: Việc thừa nhận phẩm giá vốn có, các quyền bình đẳng và không thể tách rời của mọi thành viên trong gia đình nhân loại là cơ sở cho tự do, công bằng và hòa bình trên thế giới... Các quốc gia thành viên đã cam kết, cùng với Liên Hợp quốc, phấn đấu thúc đẩy sự tôn trọng và tuân thủ chung các quyền và tự do cơ bản của con người. Như vậy, việc tôn trọng và bảo vệ quyền con người là nhiệm vụ của tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Đặc biệt trong thời đại ngày nay, quyền con người luôn là vấn đề cấp thiết, có tính thời sự trên thế giới. Việt Nam
  • 17. 9 đang trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với sự phát triển mạnh về kinh tế. Cùng với phát triển về kinh tế, Đảng và Nhà nước chú trọng phát triển toàn diện về con người trên mọi mặt, đặc biệt là phát huy bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Trong tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và công cuộc cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, vấn đề bảo đảm quyền con người trong đó có quyền bào chữa là một trong những nội dung quan trọng, được đặt lên hàng đầu. Bởi vì “cải cách tư pháp trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền phải nhằm hướng tới việc bảo vệ một cách hữu hiệu các quyền và tự do của con người và của công dân” [6]. Việc bảo đảm quyền bào chữa góp phần quan trọng trong bảo đảm quyền con người. Theo từ điển tiếng Việt thì “Bào chữa là dùng lời lẽ, chứng cớ để bênh vực một việc” Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản từ điển Bách Khoa [38, tr.133]. Hiện nay, trong khoa học luật tố tụng hình sự có một số quan điểm khác nhau về quyền bào chữa. Có quan điểm cho rằng: Quyền bào chữa trong BLTTHS là tổng hoà các hành vi tố tụng do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án thực hiện trên cơ sở phù hợp với quy định của pháp luật nhằm phủ nhận một phần hay toàn bộ sự buộc tội của cơ quan THTT, làm giảm nhẹ hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự của mình trong vụ án hình sự [16, tr.29]. Có quan điểm cho rằng “Quyền bào chữa là quyền sử dụng tất cả những biện pháp gì mà pháp luật không cấm để chống lại, bác bỏ, phủ nhận lời buộc tội của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của mình trong vụ án” [19]. Có quan điểm cho rằng quyền bào chữa chỉ thuộc về bị can, bị cáo [36]. Quan điểm này là chưa đầy đủ, bởi đối với những trường hợp chưa bị khởi tố về mặt hình sự nhưng thuộc diện bị tình nghi, đã bị bắt, bị tạm giữ, họ đang
  • 18. 10 phải đối mặt với sự nghi ngờ, các bước điều tra sơ bộ của cơ quan điều tra. Trong trường hợp này những người bị tình nghi đã bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế; quyền, lợi ích của họ đã bị hạn chế, xâm phạm. Họ cần phải được thực hiện những hành vi nhất định để bảo vệ tối đa quyền và lợi ích của họ trước các cơ quan tiến hành tố tụng, việc pháp luật quy định cho họ quyền bào chữa là cần thiết và phù hợp. Có quan điểm cho rằng quyền bào chữa thuộc về người bị tình nghi và bị can (phạm vi bị can trong trường hợp này bao gồm cả bị can, bị cáo và người bị kết án) [41]. Cũng có quan điểm cho rằng: “Không chỉ bị cáo mà cả người bị hại cũng cần đến việc bào chữa. Nhân chứng, giám định viên và cả những người khác cũng vậy, nếu quyền lợi của họ bị xâm hại”. Các cách hiểu như trên lại quá rộng bởi bào chữa gắn liền với buộc tội. Đối với những người bị kết án là những người đã bị kết tội, đang chấp hành quyết định của bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Ở giai đoạn thi hành án, người bị kết án không chịu bất cứ sự buộc tội nào từ phía các cơ quan pháp luật Nhà nước nên việc quy định cho họ quyền bào chữa là không cần thiết. Tại Điều 11 BLTTHS năm 2003 quy định: Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của Bộ luật này [24, tr.15]. Theo quy định này thì Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam ghi nhận quyền bào chữa đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Nội dung quyền bào chữa bao gồm quyền tự bào chữa và quyền nhờ người khác bào chữa. Quy định như trên đã ghi nhận quyền bào chữa của đầy đủ các đối tượng có khả năng bị hạn chế quyền, lợi ích; đối mặt với sự nghi ngờ, khả năng bị buộc tội bởi các cơ quan pháp luật Nhà nước.
  • 19. 11 Như vậy có thể đưa ra khái niệm quyền bào chữa như sau: “Quyền bào chữa trong tố tụng hình sự là tổng hợp các hành vi tố tụng của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được pháp luật quy định cho họ nhằm đưa ra các chứng cứ để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của họ trước các cơ quan tiến hành tố tụng trong các quá trình khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự”. Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 ghi nhận việc bảo đảm quyền bào chữa là nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự Việt Nam, trở thành phương châm, quan điểm chủ đạo chi phối toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự trong quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật tố tụng hình sự. Nguyên tắc của tố tụng hình sự là những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đối với toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự hoặc đối với một giai đoạn tố tụng nhất định và được các văn bản pháp luật tố tụng hình sự ghi nhận; là yêu cầu khách quan bảo đảm cho hoạt động tố tụng hình sự đạt được mục đích. Nên chúng ta có thể hiểu “Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự là phương châm, định hướng chi phối toàn bộ quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự, trong đó xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa và Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của pháp luật”. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự có những đặc điểm sau: Thứ nhất, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa là nguyên tắc cơ bản, đặc trưng của Luật tố tụng hình sự Việt Nam, áp dụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự; trở thành phương châm, định hướng chi phối toàn bộ quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự; thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước về hoạt động tố tụng hình sự. Theo đó, trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, các chủ thể phải tuân thủ nghiêm, đồng thời phải áp dụng
  • 20. 12 chính xác và viện dẫn ở mức tối đa các quy định về việc bảo đảm quyền bào chữa. Nếu có bất kỳ vi phạm nào về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa thì hoạt động tố tụng đó không được công nhận tính pháp lý. Thứ hai, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa có hai nội dung cơ bản là xác định nội dung quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo bao gồm quyền tự bào chữa và quyền nhờ người khác bào chữa; đồng thời quy định cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án) trên cơ sở quy định của Luật tố tụng hình sự có trách nhiệm trong việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. 1.1.2. Chủ thể của quyền bào chữa Từ những phân tích, khái niệm nêu ở phần trên có thể thấy chủ thể của quyền bào chữa trong tố tụng hình sự là người bị tạm giữ, bị can và bị cáo. Trong tố tụng hình sự, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có vai trò trung tâm. Bởi suy đến cùng thì mọi hoạt động của các chủ thể trong tố tụng hình sự như buộc tội, bào chữa hoặc xét xử đều nhằm đến việc tìm kiếm, đánh giá các chứng cứ gỡ tội, các chứng cứ buộc tội đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Mục đích của hoạt động bào chữa là nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trước các cơ quan tiến hành tố tụng. Hiến pháp 2013 ghi nhận người có quyền bào chữa là người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử [23, tr.12]. Trong suốt quá trình tố tụng, chủ thể của quyền bào chữa là những người bị các cơ quan tiến hành tố tụng nghi ngờ thực hiện tội phạm, đang bị buộc tội. Quyền, lợi ích hợp pháp của họ đang bị những hạn chế nhất định và dễ bị xâm phạm bởi các cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó họ phải có quyền thực hiện các biện pháp, đưa ra các chứng cứ để chứng minh sự vô tội, bác bỏ một phần sự buộc tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của họ trước các cơ quan tiến hành tố tụng. Chủ thể có quyền bào chữa bao gồm:
  • 21. 13 + Người bị tạm giữ: là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ (khoản 1 Điều 48 BLTTHS). Người bị tạm giữ bị các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng biện pháp cưỡng chế là tạm giữ do hành vi của họ có dấu hiệu tội phạm mà nếu không bị tạm giữ thì họ có thể tiếp tục phạm tội hoặc cản trở việc giải quyết vụ án. Do đó các cơ quan tiến hành tố tụng quyết định tạm giữ để ngăn chặn và làm rõ hành vi của họ để đưa ra quyết định tố tụng phù hợp. Họ chỉ bị nghi ngờ phạm tội mà chưa phải là người phạm tội, nên họ phải có quyền bào chữa bảo vệ cho họ. + Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự (khoản 1 Điều 49 BLTTHS). Cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định khởi tố bị can đối với người mà cơ quan tiến hành tố tụng đã xác định hành vi của người đó có dấu hiệu tội phạm. Quyết định khởi tố bị can là biện pháp điều tra nhằm thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm và hành vi của người phạm tội, những tình tiết liên quan đến trách nhiệm hình sự của bị can và các tình tiết khác có liên quan. + Bị cáo là người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử (khoản 1 Điều 50 BLTTHS). Đối với bị can, bị cáo là những người đang bị Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát buộc tội. Để bảo đảm xác định sự thật khách quan, giải quyết vụ án công minh, đúng người, đúng tội, bị can, bị cáo đã được quy định quyền bào chữa nhằm bảo vệ quyền lợi cho họ đồng thời giúp cho việc giải quyết vụ án nhanh chóng, công minh, đúng pháp luật, tránh làm oan người vô tội và bỏ lọt tội phạm. 1.1.3. Hình thức thực hiện quyền bào chữa Quyền bào chữa là tổng hợp các hành vi tố tụng mà người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được thực hiện trên cơ sở quy định của pháp luật để bảo vệ
  • 22. 14 quyền và lợi ích của mình trước các cơ quan pháp luật. Thông qua việc thực hiện các hành vi tố tụng cụ thể, được pháp luật ghi nhận, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo bảo vệ quyền lợi của mình. Theo quy định tại Điều 11 BLTTHS 2003 thì các chủ thể có thể thực hiện quyền bào chữa thông qua hai hình thức là tự mình thực hiện việc bào chữa (tự bào chữa) hoặc thực hiện thông qua người khác (nhờ người khác bào chữa). + Tự bào chữa: là việc người bị tạm giữ, bị can, bị cáo tự mình thực hiện các quyền tố tụng được pháp luật quy định cho họ nhằm đưa ra các chứng cứ để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của họ trước các cơ quan tiến hành tố tụng trong các quá trình giải quyết vụ án hình sự. + Nhờ người khác bào chữa: là việc người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thông qua người khác để thực hiện các quyền tố tụng được pháp luật quy định nhằm đưa ra các chứng cứ để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của họ trước các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. 1.1.4. Cơ sở của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong TTHS + Về cơ sở lý luận: Quyền con người là đặc quyền tự nhiên vốn có của con người, được nhiều văn kiện quốc tế, pháp luật của quốc gia ghi nhận. Ý thức về bảo vệ quyền con người có lịch sử phát triển gắn với sự phát triển của xã hội loài người. Trải qua các giai đoạn lịch sử khác nhau của xã hội loài người, cùng với quá trình đấu tranh lâu dài của các dân tộc trên thế giới, quyền con người ngày càng được tôn trọng, bảo đảm. Suy đến cùng các cuộc đấu tranh của con người trên thế giới đều hướng tới việc đòi hỏi bảo đảm bảo vệ tốt hơn quyền con người. Xuất phát từ quan điểm con người là một thực thể “sinh vật - con người” của Mác, quyền con người được ghi nhận là sự thống nhất biện chứng giữa “quyền tự nhiên” (đặc quyền vốn có và chỉ con người mới có) và “quyền xã hội” - sự chế định bằng các quy chế pháp lý nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội.
  • 23. 15 Tố tụng hình sự là một lĩnh vực đặc thù, gồm toàn bộ các hoạt động của các chủ thể tố tụng hình sự nhằm giải quyết vụ án hình sự khách quan, công bằng, góp phần đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong đó có người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Đây là lĩnh vực khá nhạy cảm mà ở đó quyền con người dễ bị xâm phạm nhất. Xuất phát từ yêu cầu bảo đảm quyền con người trong nhà nước pháp quyền, bảo đảm quyền bào chữa được ghi nhận là nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự. Theo quy định thì không ai bị coi là có tội trước khi có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Mặc dù người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang chịu sự nghi ngờ, sự buộc tội thực hiện tội phạm từ phía các cơ quan nhà nước nhưng về mặt pháp lý họ chưa có tội. Do đó họ phải được bảo đảm tối thiểu các quyền công dân, quyền con người theo quy định của pháp luật như các công dân khác. Tuy nhiên khi người bị tạm giữ, bị can, bị cáo bị các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng các biện pháp cưỡng chế như bị bắt, tạm giữ thì họ đã phải chịu những hạn chế, xâm phạm nhất định về quyền của họ như quyền tự do, quyền bảo hộ về danh dự, nhân phẩm... Để bảo đảm sự đúng đắn, khách quan trong quá trình các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án, hạn chế tối đa việc xâm phạm đến quyền con người trong tố tụng hình sự, pháp luật đã quy định quyền bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện các quyền này. + Về cơ sở thực tiễn: Mục đích chính của pháp luật tố tụng hình sự là nhằm chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội hướng tới mục đích “góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
  • 24. 16 của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Để xác định sự thật khách quan trong vụ án hình sự, cần thiết phải có đầy đủ các yếu tố, chứng cứ ở nhiều khía cạnh khác nhau, trên cơ sở đó mới đánh giá, nhìn nhận toàn diện các tình tiết trong vụ án. Việc xác định sự thật khách quan sẽ không thể thực hiện được hoàn chỉnh nếu chỉ nghe ý kiến từ một phía buộc tội, bởi ý kiến mang tính chủ quan của mỗi con người nên dễ bị phiến diện. Trong tố tụng hình sự chức năng bào chữa tồn tại song song cùng chức năng buộc tội. Việc giải quyết một vụ án hình sự sẽ không bảo đảm tính chính xác, khách quan khi chỉ coi trọng chức năng buộc tội mà không bảo đảm chức năng bào chữa. Khi đó, trong các hoạt động tố tụng sẽ mang nặng ý chí chủ quan của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Họ chỉ chú ý đến việc thu thập các chứng cứ buộc tội mà bỏ lơ các chứng cứ gỡ tội nên không đánh giá được toàn diện các chứng cứ để xác định chân lý khách quan. Trên thực tế, việc áp dụng nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa đã bộc lộ nhiều hạn chế, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả công tác điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng dẫn đến tình trạng làm oan người không có tội hoặc bỏ lọt tội phạm; xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của nhà nước, xã hội và công dân. Xuất phát từ yêu cầu bảo đảm quyền con người và thực tiễn tố tụng hình sự, cho thấy tính cấp thiết của việc quy định nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự. 1.1.5. Ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Quyền bào chữa là một quyền lợi đặc thù, cơ bản của công dân, được ghi nhận tại tất cả các bản Hiến pháp của nước ta. Việc ghi nhận bảo đảm
  • 25. 17 quyền bào chữa là một trong những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động tố tụng hình sự có ý nghĩa to lớn về mọi mặt, là một biểu hiện của tư tưởng bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Với tư cách là nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự, việc bảo đảm quyền bào chữa là tiêu chuẩn, yêu cầu trong hoạt động tố tụng; là cơ chế để bị can, bị cáo, người bị tạm giữ tự bảo vệ mình và được bảo vệ trong tố tụng. Việc ghi nhận nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự thể hiện tính nhân đạo của pháp luật Việt Nam. Tại Điều 57 BLTTHS đã quy định các trường hợp bào chữa bắt buộc. Theo đó trong trường hợp bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình theo quy định tại Bộ luật hình sự hoặc bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà họ hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình. Nguyên tắc là biểu hiện của tính dân chủ trong tố tụng hình sự. Việc ghi nhận nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự đã tạo cơ sở pháp lý cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện việc chứng minh sự vô tội của mình, bác bỏ sự nghi ngờ phạm tội, bác bỏ buộc tội của người, cơ quan có thẩm quyền và làm giảm trách nhiệm hình sự đối với tội phạm mà người đó đã thực hiện. Việc ghi nhận nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự không chỉ có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà còn là điều kiện bảo đảm cho hoạt động tố tụng hình sự khách quan, công bằng, dân chủ, công khai; giúp cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng xác định sự thật khách quan,
  • 26. 18 giải quyết vụ án một cách đúng đắn, làm giảm đến mức tối đa khả năng làm oan người không có tội hoặc bỏ lọt tội phạm. Là cơ sở phát sinh trách nhiệm của các cơ quan và người tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm quyền bào chữa trong suốt các giai đoạn tố tụng, giúp họ nâng cao ý thức trách nhiệm trong quá trình thi hành công vụ. Tại khoản 4 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 quy định “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa”. Việc Hiến pháp và các văn bản pháp luật tố tụng ghi nhận nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự đã thể hiện chủ trương, quan điểm của Đảng, Nhà nước trong vấn đề bảo đảm quyền con người; góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, củng cố lòng tin của nhân dân vào hoạt động của các cơ quan tư pháp trong tố tụng hình sự. 1.2. Mối quan hệ giữa nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa với một số nguyên tắc khác của luật tố tụng hình sự và bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự Quyền bào chữa là một trong những chế định quan trọng của luật tố tụng hình sự. Cùng với chức năng buộc tội, bào chữa cũng là một chức năng cơ bản trong tố tụng hình sự. Yêu cầu bảo đảm quyền bào chữa xuất phát từ yêu cầu bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự và bảo đảm nguyên tắc xác định sự thật của vụ án. Với tư cách là nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa chi phối đến toàn bộ quá trình giải quyết vụ án và có mối quan hệ mật thiết với các nguyên tắc khác của luật tố tụng hình sự và với bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự. 1.2.1. Mối quan hệ giữa nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa với một số nguyên tắc khác của luật tố tụng hình sự Tố tụng hình sự là quá trình giải quyết vụ án hình sự, quá trình này có nhiều chủ thể, nhiều giai đoạn khác nhau phù hợp với tính chất, đặc điểm của
  • 27. 19 các cơ quan tiến hành tố tụng, là cơ chế mà qua đó tội phạm được điều tra làm rõ, bị truy tố, xét xử và bị áp dụng hình phạt. Với tư cách là một nguyên tắc của luật tố tụng hình sự, việc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự trở thành yêu cầu, đòi hỏi xuyên suốt các giai đoạn của quá trình giải quyết vụ án, tác động lên toàn bộ các hoạt động tố tụng và có mối quan hệ với các nguyên tắc khác của luật tố tụng hình sự. Trong phạm vi bài viết, tác giả chỉ đưa ra mối quan hệ giữa nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa với một số nguyên tắc của luật tố tụng hình sự như sau: - Với nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa cũng là nguyên tắc cơ bản, xuyên suốt các giai đoạn tố tụng hình sự. Nguyên tắc pháp chế đòi hỏi mọi hoạt động tố tụng, trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng, của các cơ quan, tổ chức và công dân phải được quy định trong Luật Tố tụng hình sự một cách chặt chẽ, rõ ràng, thống nhất, phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội. Điều 3 của BLTTHS quy định “Mọi hoạt động tố tụng hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng phải được tiến hành theo quy định của Bộ luật này”. Nguyên tắc này đòi hỏi các chủ thể trong tố tụng hình sự nhất thiết phải tự giác tuân thủ nghiêm, triệt để các quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Việc tuân thủ thủ nghiêm nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa bảo đảm cho việc phát hiện nhanh chóng, chính xác và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội đồng thời bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa nhằm bảo đảm các quyền, lợi ích
  • 28. 20 hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng và bảo đảm tính khách quan trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Để việc áp dụng nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa có hiệu quả, đạt được mục đích ban đầu khi đặt ra nguyên tắc thì bên cạnh việc pháp luật quy định đầy đủ, phù hợp các nội dung của nguyên tắc, các nội dung liên quan đến việc áp dụng nguyên tắc thì các chủ thể trong tố tụng phải tuân thủ nghiêm các quy định của pháp luật - tuân thủ nghiêm nguyên tắc pháp chế. Và khi quyền bào chữa được thực hiện tốt trên thực tế, có nghĩa các quy định của Luật tố tụng hình sự liên quan đến quyền bào chữa đã được xây dựng chặt chẽ, thống nhất, phù hợp với thực tế khách quan và được các cơ quan, tổ chức, công dân tuân thủ nghiêm chỉnh, thể hiện tính pháp chế xã hội chủ nghĩa, góp phần bảo đảm thực hiện tốt nguyên tắc pháp chế. - Với nguyên tắc xác định sự thật của vụ án. Xác định sự thật khách quan là mục đích của quá trình giải quyết vụ án hình sự, là một nguyên tắc cơ bản xuyên suốt các giai đoạn tố tụng hình sự. Theo quy định tại Điều 10 BLTTHS thì “Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không có nghĩa vụ phải chứng minh là mình không có tội”. Quá trình giải quyết vụ án hình sự với các giai đoạn khác nhau, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện nhiều hoạt động tố tụng bằng nhiều biện pháp khác nhau. Nhưng xét đến cùng thì tất cả các hoạt động ấy đều nhằm một mục đích là tìm ra sự thật của vụ án, chứng minh làm
  • 29. 21 sáng tỏ bản chất và các tình tiết của vụ án như: có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội, yếu tố lỗi, năng lực trách nhiệm hình sự, mục đích, động cơ phạm tội. Để thực hiện được nhiệm vụ đó, đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng tiến hành thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ một cách khách quan, toàn diện trên cơ sở quy định của pháp luật để rút ra kết luận về việc giải quyết vụ án. Việc thực hiện tốt nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện tốt quyền bào chữa và cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện tốt trách nhiệm bảo đảm quyền bào chữa) là cơ sở giúp cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ được toàn diện, khách quan nhất, góp phần xác định sự thật của vụ án. Muốn xác định được sự thật vụ án thì việc bảo đảm quyền bào chữa cho bị can, bị cáo là yếu tố rất quan trọng, cần thiết. Nếu quyền bào chữa không được bảo đảm thì mục đích xác định sự thật khách quan của vụ án không thể đạt được. Trách nhiệm xác định sự thật của vụ án thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Còn bị can, bị cáo có quyền đưa ra các chứng cứ và yêu cầu chứng minh họ không phạm tội. Do đó, các cơ quan tiến hành tố tụng phải tạo điều kiện để bị can, bị cáo đưa ra các chứng cứ, các yêu cầu và xem xét, giải quyết một cách khách quan, không được có thái độ thiên vị. Việc áp dụng các biện pháp để xác định sự thật vụ án phải bảo đảm tuân thủ đúng và trong giới hạn quy định của pháp luật, trong đó có yêu cầu về bảo đảm quyền bào chữa. Trên cơ sở đó mới bảo đảm xử lý vụ án một cách khách quan, không làm oan người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm. - Với nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án Quyền được bình đẳng trước Tòa án là quyền pháp lý cơ bản của mỗi
  • 30. 22 công dân khi tham gia tố tụng hình sự. Trong cùng một vai trò của người tham gia tố tụng thì họ có quyền, nghĩa vụ như nhau theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn và thu thập chứng cứ của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải dựa trên các quy định của pháp luật. Quá trình giải quyết vụ án phải tuân thủ trình tự, thủ tục thống nhất theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Sự bình đẳng này được thể hiện ở việc các bên trong tố tụng hình sự (Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người đại diện hợp pháp của họ, người bảo vệ quyền lợi của đương sự) bình đẳng, có cơ hội, khả năng, điều kiện ngang nhau trong việc đưa ra ý kiến, chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án; tìm hiểu các thông tin có trong hồ sơ vụ án và tranh luận dân chủ trước Tòa án. Tòa án có trách nhiệm bảo đảm của họ thực hiện quyền này nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Nếu việc quyền bình đẳng trước Tòa án được bảo đảm (các bên được bảo đảm các điều kiện cần thiết theo quy định của pháp luật về nắm bắt, tiếp cận thông tin vụ án, đưa ra các tài liệu, chứng cứ và các ý kiến về vụ án) sẽ là cơ sở, tiền đề bảo đảm cho việc thực hiện quyền bào chữa của các bên có hiệu quả. Và ngược lại khi quyền bào chữa trong tố tụng hình sự được bảo đảm thực hiện có nghĩa đang góp phần bảo đảm thực hiện nguyên tắc bình đẳng trước Tòa án. Theo quy định tại Điều 19 Bộ luật Tố tụng hình sự thì Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp của họ, người bảo vệ quyền lợi của đương sự thực hiện quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ trước Tòa án nhằm xác định sự thật của vụ án, nâng cao tính dân chủ, công bằng
  • 31. 23 trong TTHS. Và Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho Viện Kiểm Sát, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp của họ, người bảo vệ quyền lợi của đương sự đều có quyền bảo đảm trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu và tranh luận dân chủ trước tòa. - Với nguyên tắc không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Trước đây, nguyên tắc không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật chưa được Luật Tố tụng hình sự ghi nhận; địa vị pháp lý của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự chưa được xác định rõ ràng nên mặc dù họ chưa bị kết tội bởi một bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhưng họ thường bị coi là có tội, nhiều quyền công dân cơ bản của họ không được bảo đảm khi đáng lẽ phải được tôn trọng. Việc pháp luật tố tụng hình sự ghi nhận nguyên tắc này đã xác định bị can, bị cáo là những người chưa có tội, và hầu hết các quyền công dân của họ được bảo đảm trong các giai đoạn tố tụng. Nguyên tắc không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án được ghi nhận tại Điều 9 Bộ luật TTHS năm 2003 “Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” [22]. Theo đó một người chỉ bị coi là có tội và bị áp dụng hình phạt khi Tòa án đã xem xét, đánh giá chứng cứ tại phiên tòa và kết luận hành vi của họ đủ yếu tố cấu thành tội phạm theo các điều, khoản của Bộ luật hình sự bằng một bản án đã có hiệu lực pháp luật. Vì vậy tuy những người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có hành vi có dấu hiệu của tội phạm nhưng chưa bị coi là có tội. Nguyên tắc này cũng được ghi nhận tại khoản 1 Điều 31 Hiến pháp 2013 “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” [21].
  • 32. 24 Trong tố tụng hình sự nguyên tắc không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa có mối quan hệ mật thiết với nhau. Việc ghi nhận và thực hiện nguyên tắc không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật đã khắc phục định kiến của các cơ quan tiến hành tố tụng cho rằng bị can, bị cáo là người phạm tội nên trong quá trình giải quyết vụ án sẽ chú ý nhiều đến thu thập các chứng cứ buộc tội, chứng cứ làm tăng nặng trách nhiệm hình sự mà không chú trọng đến các chứng cứ gỡ tội, chứng cứ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của họ, dẫn tới việc giải quyết vụ án không khách quan. Nguyên tắc này là tiền đề, tạo điều kiện cho bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ. Do vậy, pháp luật TTHS quy định cho họ có quyền sử dụng tất cả biện pháp để chứng minh sự vô tội hoặc để làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của họ trước các cơ quan tiến hành tố tụng. Việc ghi nhận nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng là một biểu hiện cụ thể của nguyên tắc không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Trên cơ sở tôn trọng, bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, các cơ quan tiến hành tố tụng buộc phải thận trọng hơn trong các hoạt động tố tụng nhất là khi đưa ra quyết định có thể gây bất lợi cho người bị buộc tội. Vì vậy các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử sẽ được khách quan, công bằng, dân chủ hơn và khi đó nguyên tắc không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật sẽ được bảo đảm. Việc không ghi nhận hoặc hạn chế quyền bào chữa của người bị buộc tội không những vi phạm nguyên tắc không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà sẽ dễ khiến các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trở nên độc đoán, lạm quyền và khi đó toàn bộ hoạt động TTHS sẽ trở thành hoạt động có tính chất áp đặt, phiến diện, không đạt được mục đích của hoạt động này.
  • 33. 25 Theo đó, mọi sự nghi ngờ về lỗi của người bị buộc tội nếu như không thể loại trừ được theo trình tự luật định, cũng như mọi sự nghi ngờ xuất hiện trong việc giải thích và áp dụng các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự và và pháp luật tố tụng hình sự đều phải được giải thích theo hướng có lợi cho họ. Các quy định pháp luật tố tụng hình sự được đặt ra nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hình sự được công minh, khách quan, nhanh chóng; tránh làm oan người vô tội và bỏ lọt người phạm tội; bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của người bị tình nghi phạm tội. Đồng thời các quy định này đòi hỏi các cơ quan và những người tiến hành tố tụng phải có sự thận trọng, vô tư và đề cao tinh thần trách nhiệm trong việc điều tra, thu thập, làm rõ các chứng cứ buộc tội, gỡ tội nhằm làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Việc tăng cường bảo đảm nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật; ghi nhận trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng, các tổ chức xã hội, cơ quan nhà nước khác trong việc tạo điều kiện cho bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa. 1.2.2. Mối quan hệ giữa nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa với việc bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự Ý thức về quyền con người xuất hiện từ rất sớm. Khái niệm nhân quyền có nguồn gốc từ thời Hy lạp cổ dưới dạng các quyền tự nhiên của con người. Lần đầu tiên các quyền con người được chính thức ghi nhận trong các văn kiện quan trọng như Tuyên ngôn độc lập của Mỹ, Tuyên ngôn về quyền con người và quyền công dân của Pháp 1789,... Cùng với sự phát triển kinh tế-xã hội của loài người, trải qua quá trình đấu tranh gian khổ, lâu dài thì quyền con người ngày càng được ghi nhận rộng rãi, đầy đủ và phát triển. Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự luôn là vấn đề được quan tâm, là tiêu chí quan trọng để đánh giá sự phát triển của xã hội. TTHS là quá
  • 34. 26 trình nhà nước đưa một người ra xử lý trước pháp luật từ khi họ bị nghi ngờ thực hiện tội phạm, quá trình này luôn thể hiện đậm nét tính quyền lực nhà nước với sức mạnh cưỡng chế nhà nước, với sự thiếu bình đẳng về thế và lực của các bên tham gia quan hệ TTHS mà thế yếu luôn thuộc về những người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Chính vì vậy, hoạt động tố tụng hình sự, trong bất cứ nhà nước nào đều được xếp vào “nhóm nguy cơ cao” khi người ta nói đến vấn đề bảo vệ quyền con người [39]. Với nhiệm vụ “chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội” hướng tới mục đích “góp phần bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật XHCN, đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm” [22]. Các quy định của pháp luật tố tụng hình sự đã trao cho con người các phương tiện cần thiết để bảo vệ quyền của mình trong tố tụng hình sự đồng thời đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm áp dụng đúng quy định pháp luật để bảo đảm cho các quyền này được thực hiện hiệu quả. Xuất phát từ yêu cầu bảo đảm quyền con người, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự được ghi nhận là nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự, thể hiện phương châm, định hướng chi phối hoạt động tố tụng hình sự đồng thời thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong việc bảo vệ quyền con người trên phương diện bảo đảm quyền an toàn thân thể, danh dự, nhân phẩm của người bị tình nghi phạm tội. Đối với những người bị tạm giữ, bị can, bị cáo khi tham gia tố tụng có thể đang bị các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng các biện pháp cưỡng chế tuy nhiên theo quy định của pháp luật thì họ vẫn chưa bị coi là người phạm tội “Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã
  • 35. 27 có hiệu lực pháp luật” do đó họ vẫn được pháp luật bảo vệ những quyền thiết thân của con người. 1.3. Quá trình hình thành và phát triển của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tam giữ, bị can, bị cáo ở Việt Nam 1.3.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng Tám 1945 đến trước khi Bộ luật TTHS năm 1988 có hiệu lực thi hành Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công đã chấm dứt sự tồn tại của chế độ thực dân nửa phong kiến ở Việt Nam, lập nên nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nhà nước đầu tiên của giai cấp công nhân và nông dân ở Đông Nam Á. Ngay sau khi thành lập, bên cạnh việc kiện toàn chính quyền non trẻ, Nhà nước đã chú ý đến việc xây dựng, củng cố hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật tố tụng hình sự nói riêng. Quyền bào chữa trong tố tụng hình sự được pháp luật Việt Nam ghi nhận và bảo đảm thực hiện từ rất sớm. Ngày 13/9/1945, Chủ tịch lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ký ban hành Sắc lệnh số 33c về việc thành lập Tòa án quân sự ở một số tỉnh thuộc Bắc bộ, Trung bộ và Nam bộ. Tại Điều 5 Sắc lệnh đã quy định về quyền bào chữa cho bị cáo “Bị cáo có thể tự bào chữa hay nhờ một người khác bênh vực cho”. Tiếp đó quyền bào chữa trong tố tụng hình sự đã được ghi nhận và dần được hoàn thiện hơn qua nhiều văn bản pháp luật khác như: Sắc lệnh số 46-SL ngày 10/10/1945 về việc quy định tổ chức các đoàn thể luật sư ghi nhận “Các luật sư có quyền bào chữa ở tất cả các Toà án hàng tỉnh trở lên và trước các Toà án quân sự” (Điều 2); Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946 về cách tổ chức các toà án và các ngạch thẩm phán quy định về bào chữa chỉ định (Điều 44) và phạm vi quyền biện hộ của luật sư (Điều 46); Sắc lệnh số 21 ngày 14/02/1946 quy định về tổ chức các Tòa án quân sự quy định cụ thể hơn về quyền bào chữa của bị cáo; Sắc lệnh số 40/SL ngày 29/03/1946 của Chủ tịch Chính phủ Việt
  • 36. 28 Nam dân chủ cộng hòa về việc bảo vệ tự do cá nhân đã mở rộng phạm vi thực hiện quyền bào chữa thông qua việc nhờ người khác; Sắc lệnh số 163-SL ngày 23/08/1946 về việc tổ chức Toà án binh lâm thời đặt tại Hà Nội đã có quy định Tòa án yêu cầu chỉ định luật sư bào chữa cho bị cáo. Như vậy có thể thấy, ngay sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, pháp luật Việt Nam đã ghi nhận nhằm tạo cơ sở pháp lý trong việc củng cố, bảo vệ các quyền của công dân trong đó có quyền bào chữa trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên vào thời kỳ này bảo đảm quyền bào chữa chưa được coi là nguyên tắc trong tố tụng hình sự; phạm vi quyền bào chữa ở thời kỳ này tương đối hẹp. Việc thực hiện quyền bào chữa mới chỉ dùng lại ở mức tự bào chữa và nhờ luật sư bào chữa tại phiên tòa. Bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được Quốc hội thông qua vào ngày 09/11/1946 tại kỳ họp thứ hai Quốc hội khoá 1 đã quy định nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo: “Người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn luật sư” (Điều thứ 67). Quyền bào chữa được Hiến pháp 1946 xác định gồm quyền tự bào chữa và nhờ luật sư bào chữa, là cơ sở pháp lý vững chắc cho bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự. Sau khi Hiến pháp được ban hành, quyền bào chữa tiếp tục được hoàn thiện. Sắc lệnh số 69 ngày 18/6/1949 và Sắc lệnh số 144 ngày 22/12/1949 đã cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp, đặc biệt là phạm vi quyền nhờ người khác bào chữa. Điều thứ 1 Sắc lệnh số 69 quy định: Từ nay đến khi nào có thể lệ khác, trước các Tòa án thường và các Tòa án đặc biệt xử việc tiểu hình và đại hình, trừ Tòa án binh mặt trận, bị can có thể nhờ một công dân không phải là luật sư bào chữa cho. Công dân do bị can đã tự chọn để bênh vực mình phải được ông Chánh án thừa nhận [21].
  • 37. 29 Điều thứ hai quy định: “Nếu bị can không có ai bênh vực, ông Chánh án có thể, tự mình hay theo lời yêu cầu của bị can, cử ra một người bào chữa cho bị can”. Sắc lệnh này đã được sửa đổi bổ sung bởi sắc lệnh số 144-SL ngày 22/12/1949. Có thể nói sắc lệnh 69-SL và sắc lệnh 144-SL đã bước đầu đặt nền móng cho việc xây dựng chế độ bào chữa viên nhân dân ở nước ta. Tiếp đó nghị định số 01/NĐ ngày 02/01/1950 của Bộ Tư pháp đã quy định về việc tham gia tố tụng của bào chữa viên nhân dân; “Đề án về quyền bào chữa của bị cáo” được thông qua tại hội nghị tư pháp toàn quốc ngày 20/06/1956 đã có những quy định tương đối cụ thể về quyền của người bào chữa khi tham gia tố tụng, thời điểm tham gia tố tụng. Các quy định đã tạo bước phát triển mới trong việc bảo đảm quyền bào chữa, tạo tiền đề cho việc hình thành, phát triển nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong TTHS. Ngày 24/10/1956 Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư 2225/HCCP trong đó quy định “việc giao bản cáo trạng cho bị cáo chậm nhất là 3 ngày trước khi mở phiên toà”. Quy định này đã tạo điều kiện cho bị cáo và người bào chữa của họ có đủ thời gian chuẩn bị cho bào chữa tại phiên toà về tài liệu, chứng cứ phục vụ cho việc bào chữa, bài bào chữa. Hiến pháp 1959 ra đời và tiếp tục ghi nhận quyền bào chữa trong tố tụng hình sự. Cụ thể, tại Điều 101 Hiến pháp 1959 quy định “Quyền bào chữa của người bị cáo được bảo đảm”. Như vậy, không chỉ dừng lại ở việc quy định quyền bào chữa cho bị cáo như Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959 đã khẳng định cả cơ chế bảo đảm quyền bào chữa cho người bị cáo mặc dù quy định này vẫn chưa thể hiện cụ thể việc bị cáo có được tự bào chữa hay mời người bào chữa hay không; khái niệm “quyền bào chữa” chưa làm rõ. Ngày 15/07/1960 Quốc hội thông qua Luật Tổ chức Tòa án Nhân dân, trong đó quy định chi tiết, cụ thể quyền bào chữa. Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư số 06/TC ngày 09/09/1967 hướng dẫn việc bảo đảm quyền
  • 38. 30 bào chữa cho bị cáo. Thông tư có nhiều quy định mới, tiến bộ hơn so với các văn bản trước đây như: đã quy định cho bị cáo được quyền yêu cầu Toà án thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân; quyền trình bày lời bào chữa nếu họ không có người bào chữa. Thông tư cũng quy định về việc bảo đảm thời gian cần thiết cho việc bào chữa; các trường hợp Toà án phải chỉ định người bào chữa cho bị cáo; chế độ bào chữa chữa viên nhân dân nhằm thu hút sự tham gia của nhân dân vào việc bào chữa cho bị cáo như: bị cáo có thể yêu cầu Toà án chấp nhận một công dân không có tên trong danh sách bào chữa viên nhân dân do các đoàn thể nhân dân giới thiệu để bào chữa cho mình [32]. Ngày 27/08/1974, Tòa án nhân dân tối cao ban hành Thông tư số 16- TATC hướng dẫn về trình tự, thủ tục xét xử sơ thẩm. Thông tư đã hướng dẫn cụ thể những trường hợp TAND phải chỉ định người bào chữa cho bị cáo và quy định điều kiện bảo đảm quyền bào chữa cho bị cáo như thời gian giao bản cáo trạng cho bị cáo. Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng vào ngày 30/4/1975, kế thừa và phát triển Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 tiếp tục khẳng định quyền bào chữa của bị cáo. Điều 133 Hiến pháp năm 1980 quy định “Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm. Tổ chức luật sự được thành lập để giúp bị cáo và các đương sự khác về mặt pháp lý”. Quy định này đã khẳng định vai trò cần thiết của luật sư trong việc bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo và các đương sự khác. Ngày 18/12/1987, Pháp lệnh tổ chức luật sư, văn bản pháp luật đầu tiên về tổ chức luật sư được ban hành, đã góp phần quan trọng vào việc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo. Như vậy, giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng Tám 1945 đến trước khi Bộ luật TTHS năm 1988 có hiệu lực thi hành là giai đoạn với nhiều bước ngoặt lớn trong lịch sử. Đất nước trải qua hai cuộc chiến tranh khốc liệt để
  • 39. 31 giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước; điều kiện kinh tế xã hội của đất nước vô cùng khó khăn đã có những ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển của việc thực hiện pháp luật nói chung và bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự nói riêng. Pháp luật thời kỳ này chưa ghi nhận bảo đảm quyền bào chữa là một nguyên tắc trong tố tụng hình sự; các quy định chưa phản ánh đầy đủ các nội dung bảo đảm quyền bào chữa. Pháp luật chỉ mới ghi nhận quyền bào chữa của bị cáo ở giai đoạn xét xử (tại phiên tòa) mà chưa ghi nhận ở các giai đoạn tố tụng khác. Mặc dù có rất nhiều khó khăn nhưng việc bảo đảm quyền bào chữa trong TTHS vẫn được phát triển theo hướng dân chủ và ngày càng hoàn thiện. Pháp luật đã ghi nhận và có cơ chế bảo đảm việc thực hiện quyền bào chữa thông qua người bào chữa. Pháp luật đã có quy định về tổ chức luật sư tạo điều kiện cho hoạt động bào chữa phát triển. Do đó, quyền bào chữa của bị cáo đã được mở rộng, phát triển và được bảo đảm thể hiện tính nhân đạo và dân chủ trong pháp luật TTHS nước ta. Các quy định về bảo đảm quyền bào chữa ngày càng hoàn thiện tạo cơ sở cho việc phát triển và hoàn thiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự sau này. 1.3.2. Giai đoạn từ khi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 có hiệu lực thi hành đến năm 2003 Cùng với sự phát triển, đổi mới về mọi mặt của đời sống xã hội; trên cơ sở kế thừa và phát triển của pháp luật tố tụng hình sự từ giai đoạn Cách mạng tháng Tám, ngày 28/6/1988, Bộ luật Tố tụng hình sự đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được Quốc hội đã thông qua và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/1989. Đây là Bộ luật đầu tiên của Việt Nam quy định trình tự, thủ tục tiến hành các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Bộ luật đã quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan tiến hành tố tụng, đề cao vai trò của các tổ chức xã hội và
  • 40. 32 công dân trong việc tham gia tố tụng, kết hợp sức mạnh của pháp chế xã hội chủ nghĩa với sức mạnh của quần chúng nhân dân trong đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm. Nhận thức được ý nghĩa to lớn của chức năng bào chữa trong hoạt động tố tụng hình sự, Bộ luật TTHS 1988 đã cụ thể hóa quyền bào chữa - quyền hiến định của bị cáo, được bổ sung thêm bị can và ghi nhận yêu cầu bảo đảm quyền bào chữa cho các chủ thể này là một trong những nguyên tắc cơ bản trong TTHS nước ta. Tại Điều 12 thuộc Chương các nguyên tắc cơ bản của Bộ luật quy định “Bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án có nhiệm vụ bảo đảm cho bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ”. Quy định này cũng ghi rõ trách nhiệm bảo đảm quyền bào chữa cho bị can, bị cáo là Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án. Bên cạnh đó BLTTHS đã có quy định về việc bảo đảm quyền bào chữa trong một số trường hợp cụ thể (bào chữa bắt buộc). Đối với những trường hợp này, nếu bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án phải yêu cầu Đoàn luật sư cử người bào chữa cho họ. Tiếp đó Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25/12/2001 của Quốc hội) quy định: Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm. Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình. Tổ chức luật sư được thành lập để giúp bị cáo và các đương sự khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình và góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa (Điều 132). Tóm lại, các quy định của pháp luật Việt Nam về quyền bào chữa trong tố tụng hình sự phần nào đã phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Theo những chuẩn mực quốc tế này, các bị cáo phải được hưởng những bảo đảm tối thiểu
  • 41. 33 bao gồm quyền có đủ thời gian và phương tiện để chuẩn bị bào chữa và được quyền liên lạc với luật sư do mình lựa chọn; được tham dự phiên tòa để tự bào chữa hoặc nhờ luật sư bài chữa do họ lựa chọn; được thông báo về quyền này trong trường hợp tự bào chữa; và được quyền có luật sư bào chữa miễn phí vì nhu cầu công lý nếu bị cáo không có đủ khả năng nhờ luật sư. 1.3.3. Giai đoạn từ khi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 có hiệu lực thi hành đến nay Trong tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương đẩy mạnh công cuộc cải cách tư pháp nhằm xây dựng một nền tư pháp trong sạch, bảo đảm tốt hơn các quyền của công dân. Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới xác định: Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp. Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để luật sư tham gia vào quá trình tố tụng: tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên tòa. Đến Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” khẳng định “nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp” [2]. Để bảo đảm phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội và bảo vệ tối đa quyền, lợi ích của công dân, tổ chức, Bộ luật tố tụng hình sự đã trải qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện các quy định của pháp
  • 42. 34 luật cho phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội, yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế. Ngày 26/11/2003 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 được Quốc hội khóa XI thông qua tại kỳ họp thứ tư và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2004. So với Bộ luật Tố tụng hình sự 1988 được sửa đổi, bổ sung vào các năm 1990, 1993, 2000 thì BLTTHS năm 2003 có nhiều điểm mới đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, bảo đảm tốt hơn quyền con người. Điều 11 BLTTHS năm 2003 quy định: Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của Bộ luật này [22]. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 tiếp tục ghi nhận việc bảo đảm quyền bào chữa là nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự, bên cạnh việc ghi nhận quyền bào chữa cho bị can, bị cáo như Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 và các quy định pháp luật trước đó thì Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đã ghi nhận nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa theo hướng mở rộng hơn. Theo Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 thì quyền bào chữa được mở rộng cho đối tượng mới là người bị tạm giữ. Việc bổ sung quyền này đối với người bị tạm giữ xuất phát từ quan điểm cho rằng người bị tạm giữ được xác định là người bị tình nghi thực hiện tội phạm đối với vụ án hình sự, do vậy, họ có quyền được bào chữa [38]. Đồng thời Bộ luật cũng quy định rõ trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm quyền bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và các quy định nhằm tạo điều kiện cho họ thực hiện quyền bào chữa theo quy định, thể hiện sự phát triển của nguyên tắc như quy định cho người bào chữa quyền thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc người thân của họ hoặc từ tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
  • 43. 35 Việc pháp luật ghi nhận quyền bào chữa cho người bị tạm giữ đã tạo cơ sở pháp lý, điều kiện cho họ có khả năng bảo vệ quyền lợi của mình tốt hơn thông qua việc tự mình hoặc thông qua người bào chữa có thể thu thập các chứng cứ cần thiết bảo đảm cho việc gỡ tội tốt hơn, góp phần xác định nhanh chóng sự thật vụ án. Năm 2006, Luật luật sư và Luật Trợ giúp pháp lý được Quốc hội thông qua đã củng cố, hoàn thiện và phát triển quyền bào chữa, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự ở nước ta. Tại khoản 4 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 quy định “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa”. Như vậy, theo Hiến pháp 2013 thì phạm vi các đối tượng được bảo đảm quyền bào chữa được mở rộng cho cả người bị bắt. Theo đó ngay từ khi một người bị bắt đã phát sinh quyền bào chữa đối với họ và quyền này được bảo đảm bởi đạo luật có giá trị pháp lý cao nhất là Hiến pháp. Như vậy, trong tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền con người và việc bảo đảm thực hiện quyền con người trong đó có quyền bào chữa trong tố tụng hình sự được ghi nhận một cách nhất quán giữa Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác (tính ổn định) và trải qua các thời kỳ lịch sử khác nhau, việc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự được ghi nhận và ngày càng được hoàn thiện để phù hợp với từng giai đoạn lịch sử và khả năng thực tế của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án. 1.4. Quy định về bảo đảm quyền bào chữa trong pháp luật quốc tế Quyền bào chữa là một quyền cơ bản của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự và vấn đề bảo đảm quyền bào chữa được ghi nhận từ rất sớm ở hầu hết các văn bản pháp lý quốc tế và pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới.
  • 44. 36 Quyền bào chữa được ghi nhận dựa trên nền tảng về học thuyết tố tụng công bằng (Due process of law) và nguyên tắc xét xử công bằng (Right to a fair trial). Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 (UDHR) đã ghi nhận các nguyên tắc cơ bản về quyền của con người phải đối mặt với những cáo buộc hình sự. Tại Điều 10 của UDHR ghi nhận “Mọi người đều bình đẳng về quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một Toà án độc lập và khách quan để xác định các quyền và nghĩa vụ của họ, cũng như về bất cứ sự buộc tội nào đối với họ”. Và Điều 11 của Tuyên ngôn đã ghi nhận các khía cạnh cụ thể “Bất cứ ai bị cáo buộc về một hành vi phạm tội đều được quyền suy đoán vô tội cho đến khi được chứng minh là phạm tội trước một phiên tòa công khai, nơi mà anh ta được cung cấp những bảo đảm cần thiết cho việc bào chữa”. Mặc dù không quy định trực tiếp quyền bào chữa nhưng quy định trên đã xác định quyền được có những bảo đảm hợp lý cho việc bào chữa của người bị buộc tội là một trong những tiêu chí cơ bản của xét xử công bằng. Theo tinh thần chung của UDHR thì các quy định về bảo đảm quyền bào chữa đã được ghi nhận và cụ thể hóa ở nhiều văn kiện quốc tế khác. Cụ thể: - Điều 14 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, 1966 (ICCPR) được thông qua và để ngỏ cho các quốc gia ký, phê chuẩn và gia nhập theo Nghị quyết số 2200 (XXI) ngày 16/12/1966 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc; có hiệu lực ngày 23/3/1976 (căn cứ theo Điều 49) Việt Nam gia nhập Công ước vào ngày 24/9/1982. Khoản 3 Điều 14 của Công ước quy định các quyền cơ bản hay những bảo đảm tối thiểu mà một người được hưởng trong quá trình tố tụng nhằm bảo đảm việc xét xử công bằng, trong đó có quyền bào chữa. Theo đó trong quá trình xét xử hình sự, mọi người đều có quyền được hưởng một cách đầy đủ và hoàn toàn bình đẳng những bảo đảm tối thiểu sau đây: (a) Được thông báo không chậm trễ và chi tiết bằng một ngôn ngữ mà người đó hiểu về bản chất và lý do buộc tội mình;
  • 45. 37 (b) Có đủ thời gian và điều kiện để chuẩn bị bào chữa và liên hệ với người bào chữa do chính mình lựa chọn; Tại Bình luận chung số 32 của Ủy ban giám sát thực hiện Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị về quyền bình đẳng trước Tòa án và quyền được xét xử công bằng đã hướng dẫn cụ thể về các bảo đảm tối thiểu được quy định tại Điều 14 Công ước. Chẳng hạn như tại Đoạn 32 và 33 của Bình luận chung số 32, HRC đã làm rõ thêm về thuật ngữ “thời gian đầy đủ (hay thời gian thích đáng)” như sau: 32. “Thời gian đầy đủ” cho việc chuẩn bị phụ thuộc vào từng vụ việc. Luật sư có thể trong một số trường hợp xin hoãn xét xử nếu thấy chưa đủ thời gian chuẩn bị việc bào chữa... Tòa án chỉ có thể ra quyết định hoãn xét xử khi bị đơn bị kết tội hình sự nghiêm trọng và cần thời gian chuẩn bị cho việc bào chữa. 33. “Các điều kiện đầy đủ” bao gồm quyền tìm kiếm các tài liệu, chứng cứ khác; việc tiếp cận này bao gồm các tài liệu liên quan đến việc khởi tố và thông tin có thể dùng để bào chữa. (c) Được xét xử mà không bị trì hoãn một cách vô lý; (d) Được có mặt trong khi xét xử và được tự bào chữa hoặc thông qua sự trợ giúp pháp lý theo sự lựa chọn của mình; được thông báo về quyền này nếu chưa có sự trợ giúp pháp lý; và được nhận sự trợ giúp pháp lý theo chỉ định trong trường hợp lợi ích của công lý đòi hỏi và không phải trả tiền cho sự trợ giúp đó nếu không có đủ điều kiện trả; Bình luận chung số 32 hướng dẫn cụ thể một số quy định như: bị cáo có quyền có mặt trong khi bị xét xử, nhưng trong một số trường hợp bị cáo có thể vắng mặt nếu sự vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến công lý và bị cáo đã được cơ quan tư pháp thông báo kịp thời cho họ về thời gian, địa điểm xét xử và yêu cầu họ tham gia trước đó nhưng họ vẫn từ chối thực hiện quyền có mặt trong phiên tòa (Đoạn 36).