Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Luận văn thạc sĩ ngành luật: Pháp luật tố tụng hình sự về kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm
luan van khang nghi giam doc tham tai tham trong phap luat, hay
1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN NHƯ THẮNG
KHÁNG NGHỊ GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN NGỌC CHÍ
HÀ NỘI - 2014
2. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Như Thắng
3. MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHÁNG NGHỊ GIÁM
ĐỐC THẨM, TÁI THẨM.................................................................. 8
1.1. Khái niệm kháng nghị tố tụng và kháng nghị giám đốc thẩm,
tái thẩm................................................................................................. 8
1.1.1. Khái niệm kháng nghị tố tụng.............................................................11
1.1.2. Khái niệm kháng nghị giám đốc thẩm................................................12
1.1.3. Khái niệm kháng nghị tái thẩm...........................................................13
1.2. Đặc điểm của kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm ......................14
1.3. Mục đích, ý nghĩa của kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm........20
1.3.1. Mục đích của kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm............................20
3.1.2. Ý nghĩa của kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm ..............................21
1.4. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của luật TTHS
Việt Nam về kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm từ năm
1945 đến nay ......................................................................................22
1.4.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi
ban hành BLTTHS Việt Nam năm 1988 ............................................22
1.4.2. Quy định của BLTTHS Việt Nam năm 1988 và năm 2003 về
kháng nghị giám đốc thẩm .................................................................24
1.4.3. Quy định của BLTTHS Việt Nam năm 1988 và năm 2003 về
kháng nghị tái thẩm ............................................................................28
4. 1.5. Kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trong luật TTHS một số
nước trên thế giới ..............................................................................30
1.5.1. BLTTHS Liên bang Nga ....................................................................30
1.5.2. Luật TTHS nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa .............................34
1.5.3. BLTTHS Cộng hòa Liên bang Đức ...................................................36
Kết luận chương 1 .........................................................................................41
Chương 2: KHÁNG NGHỊ GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM
THEO QUY ĐỊNH CỦA BLTTHS NĂM 2003 VÀ THỰC
TIỄN THI HÀNH.............................................................................42
2.1. Quy định của BLTTHS về kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm....42
2.1.1. Kháng nghị giám đốc thẩm.................................................................42
2.1.2. Kháng nghị tái thẩm............................................................................68
2.2. Thực tiễn kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm.............................78
2.2.1. Kết quả đạt được trong kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm.............78
2.2.2. Một số tồn tại trong công tác kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm.......83
2.2.3. Nguyên nhân của những tồn tại trên ...................................................87
Kết luận chương 2 .........................................................................................91
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ KHÁNG
NGHỊ GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM...........................................92
3.1. Sự cần thiết, định hướng và nguyên tắc hoàn thiện pháp luật
về kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm...........................................92
3.1.1. Sự cần thiết hoàn thiện pháp luật về kháng nghị giám đốc thẩm,
tái thẩm................................................................................................92
3.1.2. Định hướng, nguyên tắc hoàn thiện pháp luật về kháng nghị giám
đốc thẩm, tái thẩm................................................................................93
3.2. Hoàn thiện các quy định của BLTTHS Việt Nam về kháng
nghị giám đốc thẩm, tái thẩm...........................................................94
5. 3.3. Các giải pháp khác..........................................................................100
3.3.1. Tăng cường kiểm tra hoạt động xét xử của Tòa án các cấp..............100
3.3.2. Tăng cường giải quyết đơn khiếu nại giám đốc thẩm, tái thẩm........101
3.3.3. Tăng cường trách nhiệm của người có thẩm quyền kháng nghị
giám đốc thẩm, tái thẩm....................................................................102
3.3.4. Đổi mới công tác tổ chức, cán bộ, nâng cao trình độ chuyên môn,
bản lĩnh chính trị và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ làm công
tác kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm ...........................................102
3.3.5. Phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, đặc biệt là
giữa Tòa án với VKS trong công tác kháng nghị giám đốc thẩm,
tái thẩm..............................................................................................104
3.3.6. Nâng cao nhận thức pháp luật trong nhân dân..................................105
Kết luận chương 3 .......................................................................................106
KẾT LUẬN..................................................................................................107
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................109
6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS: Bộ luật hình sự
BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
HLPL: Hiệu lực pháp luật
TAND: Tòa án nhân dân
TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao
TAQS: Tòa án quân sự
TTHS: Tố tụng hình sự
VKS: Viện kiểm sát
VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao
VKSQS: Viện kiểm sát quân sự
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
7. DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Số lượng kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm của Chánh án
Tòa án và Viện trưởng VKS các cấp đã được giải quyết ...........80
Bảng 2.2. Tỷ lệ kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm giữa Chánh án
Tòa án và Viện trưởng VKS các cấp ..........................................81
Bảng 2.3. Kháng nghị giám đốc thẩm của Chánh án Tòa án các cấp .........82
Bảng 2.4. Kháng nghị giámđốc thẩm, tái thẩmcủa Viện trưởng VKS các cấp ...83
8. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN và
công cuộc cải cách tư pháp hiện nay thì việc phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm,
phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh mọi hành vi phạm tội, không để lọt
tội phạm, nhưng cũng không làm oan người vô tội, góp phần bảo vệ pháp chế
XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân,
là những định hướng quan trọng của pháp luật TTHS Việt Nam.
Để nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp, Đảng ta đã có những quan
điểm chỉ đạo về cải cách tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, đặc
biệt tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-06-2005 về chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020, Bộ chính trị đã xác định mục tiêu là:
Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ,
nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân
dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam XHCN; hoạt động tư pháp mà
trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu
lực cao [4].
Trong những năm qua, công tác tư pháp nói chung và công tác giải
quyết án hình sự nói riêng đã đạt được những thành tựu đáng kể. Theo đó, các
hoạt động TTHS được tiến hành một cách minh bạch hơn, khách quan hơn,
quyền lợi của người tham gia tố tụng được đảm bảo hơn, xu thế mở rộng
tranh tụng tiếp tục được khẳng định. Tuy vậy, vẫn còn một số bản án, quyết
định sau khi có HLPL mới phát hiện ra có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp
dụng pháp luật, vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng hoặc có tình tiết mới
có thể làm thay đổi cơ bản nội dung bản án, quyết định đó, làm ảnh hưởng
đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng, nên phải kháng nghị
giám đốc thẩm hoặc kháng nghị tái thẩm.
9. 2
Thực tiễn cho thấy, kháng nghị giám đốc thẩm là một hoạt động để
kiểm tra lại tính hợp pháp, tính đúng đắn của bản án hoặc quyết định của Tòa
án đã có HLPL. Từ đó, Tòa án cấp trên kịp thời sửa chữa những sai lầm trong
việc áp dụng pháp luật của Tòa án cấp dưới, hướng dẫn Tòa án cấp dưới khắc
phục những sai lầm, thiếu sót và áp dụng thống nhất pháp luật. Vì thế, có thể
nói kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trong TTHS có vai trò, ý nghĩa đặc
biệt quan trọng nhằm đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được đúng quy định
của pháp luật, đảm bảo pháp chế XHCN.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, công tác kháng nghị giám đốc
thẩm, tái thẩm vẫn còn nhiều hạn chế như: chất lượng kháng nghị chưa cao,
điều này thể hiện ở một số bản kháng nghị không nêu được căn cứ kháng
nghị, dẫn đến phải rút kháng nghị hoặc không được Hội đồng giám đốc thẩm,
tái thẩm chấp nhận; nhiều trường hợp phát hiện căn cứ kháng nghị giám đốc
thẩm, tái thẩm chưa kịp thời nên không còn thời hạn kháng nghị; việc kiểm
tra bản án, quyết định đã có HLPL, cũng như việc giải quyết đơn đề nghị
giám đốc thẩm, tái thẩm chưa triệt để nên số lượng vụ án có kháng nghị giám
đốc thẩm, tái thẩm còn quá ít… Một trong những nguyên nhân của tình trạng
trên là do nhiều quy định của BLTTHS liên quan đến kháng nghị giám đốc
thẩm, tái thẩm chưa thật sự phù hợp, chưa cụ thể và rõ ràng, như các quy định
về căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm; đối tượng kháng nghị; thời
hạn kháng nghị; bổ sung kháng nghị, rút kháng nghị; hệ quả của kháng
nghị… nhưng lại chưa có hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền, nên trong
quá trình áp dụng còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Mặt khác, trình độ,
năng lực của một số cán bộ làm công tác giám đốc thẩm, tái thẩm có phần hạn
chế, cũng làm ảnh hưởng đến chất lượng của hoạt động kháng nghị nói trên.
Vì thế, việc nghiên cứu làm sáng tỏ về mặt lý luận và các quy định của
pháp luật TTHS về kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm; chỉ ra những hạn
10. 3
chế, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng và nguyên nhân của những hạn chế
đó, từ đó đề ra những giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện các quy định của
pháp luật TTHS về kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, là một yêu cầu cấp
thiết trong tình hình hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian qua, việc nghiên cứu các quy định của BLTTHS về
kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm đã được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên
cứu lý luận, nhà khoa học pháp lý, luật gia và cán bộ thực tiễn, nhưng nhiều
vấn đề về mặt lý luận liên quan đến công tác này còn có những quan điểm khác
nhau; mặt khác trong thực tiễn kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm còn gặp
nhiều khó khăn, vướng mắc, nên cần được tiếp tục nghiên cứu, làm rõ hơn.
Hiện nay, ở các mức độ khác nhau, trực tiếp và gián tiếp đã có một số
công trình nghiên cứu được công bố, như các giáo trình đại học giảng dạy về
luật TTHS ở Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Luật Hà Nội, Đại
học Cảnh sát nhân dân... đã nghiên cứu khái quát những vấn đề cơ bản về
kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm.
Một số công trình nghiên cứu chuyên sâu về thủ tục giám đốc thẩm và
đã được công nhận là đề tài cấp Bộ, luận án, luận văn, bình luận khoa học,
sách chuyên khảo. Trong đó phải kể đến đề tài khoa học cấp Bộ của
TANDTC “Nâng cao hiệu quả công tác giám đốc việc xét xử các vụ án hình
sự”, do Ths. Đinh Văn Quế chủ biên, năm 2005 [37]; luận án Tiến sĩ của tác
giả Phan Thị Thanh Mai với đề tài “Giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự
Việt Nam”, năm 2007 [30]; luận văn Thạc sĩ của tác giả Quản Thị Ngọc
Thảo với đề tài “Giám đốc thẩm: một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, năm
2007 [67]; luận văn Thạc sĩ của tác giả Nguyễn Văn Trượng với đề tài
“Giám đốc thẩm trong TTHS”, năm 1996 [70]; sách chuyên khảo “Giám
đốc thẩm, tái thẩm về hình sự - những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác
giả Đinh Văn Quế, năm 1997 [33]...
11. 4
Một số công trình chỉ nghiên cứu ở phạm vi hẹp, có liên quan một phần
đến quy định về kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm đã được công bố trên các
tạp chí, báo chuyên ngành. Chẳng hạn, bài viết của các tác giả như: Nguyễn
Văn Hiện,“Vấn đề thực tiễn, lý luận và yêu cầu hoàn thiện thẩm quyền xét xử
giám đốc thẩm các vụ án hình sự của Tòa án các cấp”, Tạp chí TAND, tháng
3 năm 1997 [19]; Nguyễn Quang Hiền, “Một số vấn đề về thủ tục giám đốc
thẩm”, Tạp chí TAND, số 7 năm 2009 [17]; Vũ Gia Lâm, “Về căn cứ kháng
nghị theo thủ tục tái thẩm trong BLTTHS năm 2003”, Tạp chí Luật học, số 10
năm 2006 [26]; Lê Kim Quế, “Một số vấn đề về giám đốc thẩm hình sự”, Tạp
chí TAND, số 14 năm 2006 [40]; Nguyễn Văn Trượng, “Thực trạng thi hành
quy định của BLTTHS về phạm vi giám đốc thẩm và những vấn đề cần hoàn
thiện”, Tạp chí TAND, số 7 năm 2011 [72]; Đinh Văn Quế, “Vấn đề kháng
nghị giám đốc thẩm về “dân sự” trong vụ án hình sự”, Tạp chí TAND, số 9
năm 2005 [36]; Đinh Văn Quế, “Căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm theo
BLTTHS năm 2003”, Tạp chí TAND, số 22 năm 2004 [35]...
Qua nội dung các công trình nghiên cứu, các bài viết cũng như các giáo
trình giảng dạy nêu trên cho thấy: các tác giả đã nghiên cứu những vấn đề cơ
bản về giám đốc thẩm, tái thẩm và có những kiến nghị, đề xuất có giá trị về mặt
lý luận và thực tiễn. Nhưng một số công trình có phạm vi nghiên cứu quá rộng,
ngược lại một số công trình chỉ nghiên cứu một số khía cạnh nhất định liên
quan đến kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trong TTHS. Chẳng hạn, luận án
Tiến sĩ của tác giả Phan Thị Thanh Mai, luận văn Thạc sĩ của tác giả Nguyễn
Văn Trượng đã nghiên cứu chuyên sâu về lý luận giám đốc thẩm, nhưng không
nghiên cứu về kháng nghị tái thẩm, đề cập rất ít đến thực tiễn kháng nghị giám
đốc thẩm và chủ yếu xem xét đánh giá pháp luật để kiến nghị một số giải pháp
nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về giám đốc thẩm. Ngược lại, đề tài cấp
Bộ “Nâng cao hiệu quả công tác giám đốc việc xét xử các vụ án hình sự” của
12. 5
TANDTC do Ths. Đinh Văn Quế chủ biên và các công trình nghiên cứu khác
của tác giả này đều mang tính ứng dụng cao, nhưng lại đề cập rất ít về mặt lý
luận, mà chủ yếu là giải thích pháp luật, liên hệ những quy định của pháp luật
với thực tiễn áp dụng pháp luật của Tòa án, Viện kiểm sát trong công tác giám
đốc thẩm, tái thẩm từ đó đưa ra một số đề xuất, giải pháp để hoàn thiện các quy
định của pháp luật về giám đốc thẩm, tái thẩm. Một số công trình khoa học
khác chỉ nghiên cứu trên phạm vi hẹp, đã làm sáng tỏ phần nào về mặt lý luận
cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật liên quan đến kháng nghị giám đốc thẩm,
tái thẩm, như về tính chất giám đốc thẩm, tái thẩm; căn cứ, thẩm quyền, thời
hạn, hệ quả pháp lý... của kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm và đưa ra những
giải pháp để hoàn thiện các quy định trên.
Tuy nhiên, một số vấn đề về mặt lý luận liên quan đến công tác kháng
nghị giám đốc thẩm, tái thẩm chưa được làm rõ, cần phải tiếp tục nghiên cứu
một cách toàn diện và sâu sắc hơn, để đưa ra các khái niệm hoàn chỉnh, đầy
đủ và chính xác về kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm. Mặt khác, như đã
trình bày ở trên, thực tiễn hoạt động kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm
trong TTHS chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra, một phần là do các quy định
của pháp luật TTHS liên quan đến vấn đề này còn nhiều bất cập, không còn
phù hợp trong tình hình hiện nay, cần phải tiếp tục nghiên cứu, làm rõ.
Xuất phát từ lý do trên, tác giả đã chọn đề tài: “Kháng nghị giám đốc
thẩm, tái thẩm trong TTHS Việt Nam” làm luận văn Thạc sĩ Luật học của mình.
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện về những vấn đề
pháp lý cơ bản của việc kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trong TTHS Việt
Nam như: khái niệm kháng nghị tố tụng, kháng nghị giám đốc thẩm và kháng
nghị tái thẩm; đặc điểm của kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm; quá trình
13. 6
hình thành, phát triển các quy định của pháp luật về kháng nghị giám đốc
thẩm, tái thẩm; căn cứ, thẩm quyền, thời hạn, hệ quả pháp lý… của kháng
nghị giám đốc thẩm và tái thẩm; đồng thời đi sâu phân tích hoạt động thực
tiễn kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm. Trên cơ sở đó, tác giả chỉ ra một số
vướng mắc, bất cập về mặt lý luận và thực tiễn thi hành; nguyên nhân của
những tồn tại đó và đề xuất một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp
luật TTHS về kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, góp phần nâng cao hiệu
quả hoạt động kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trong TTHS Việt Nam.
3.2. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên
cứu của đề tài là các quy định của BLTTHS Việt Nam năm 2003 về kháng
nghị giám đốc thẩm, tái thẩm và thực tiễn công tác kháng nghị giám đốc
thẩm, tái thẩm.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những chủ trương, đường lối của
Đảng, Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Quá trình nghiên cứu đề tài còn sử dụng phương pháp phân tích, so
sánh, tổng hợp; phương pháp thống kê hình sự; nghiên cứu thực tiễn công tác
kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm... để làm luận chứng cho các vấn đề khoa
học cần nghiên cứu trong luận văn. Trong quá trình thực hiện đề tài luận văn,
tác giả có nghiên cứu, tham khảo các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật
liên quan đến phạm vi đề tài; tiếp thu có chọn lọc kết quả của các công trình
đã công bố, tổng kết, đánh giá của các cơ quan chuyên môn và ý kiến của các
chuyên gia có liên quan đến các vấn đề nghiên cứu trong luận văn.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Về lý luận, kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện về lý
luận kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trong khoa học luật TTHS Việt Nam
14. 7
như: làm rõ khái niệm kháng nghị tố tụng, đặc biệt là khái niệm kháng nghị
giám đốc thẩm và kháng nghị tái thẩm; phân tích khái quát lịch sử hình thành
và phát triển các quy định pháp luật TTHS về kháng nghị giám đốc thẩm, tái
thẩm từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay; làm sáng tỏ các quy
định của BLTTHS năm 2003 về căn cứ kháng nghị, thẩm quyền, thời hạn, hệ
quả pháp lý... của kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm; phân tích thực tiễn
công tác kháng nghị giám đốc thẩm và tái thẩm để đánh giá. Qua đó chỉ ra
những mâu thuẫn, bất cập trong các quy định của pháp luật hiện hành; những
hạn chế, vướng mắc trong quá trình áp dụng các quy định đó, cũng như chỉ ra
nguyên nhân của những tồn tại, để đề xuất một số giải pháp hoàn thiện các
quy định của BLTTHS về kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm.
Về thực tiễn, luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo, phục vụ
hoạt động nghiên cứu và học tập. Những đề xuất, kiến nghị của tác giả luận
văn sẽ cung cấp những luận cứ khoa học phục vụ cho công tác lập pháp và
hoạt động thực tiễn áp dụng BLTTHS Việt Nam liên quan đến hoạt động
kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm
Chương 2: Kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của
BLTTHS năm 2003 và thực tiễn thi hành
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả kháng nghị giám đốc
thẩm, tái thẩm
15. 8
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
KHÁNG NGHỊ GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM
1.1. Khái niệm kháng nghị tố tụng và kháng nghị giám đốc thẩm,
tái thẩm
Theo quy định của pháp luật TTHS Việt Nam thì nghĩa vụ chứng minh
tội phạm, làm sáng tỏ bản chất của vụ án thuộc về trách nhiệm của các cơ
quan tiến hành tố tụng, đó là Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án. Kết
quả của cả quá trình tố tụng được thể hiện qua bản án, quyết định của Tòa án
có HLPL. Khi đó, mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân phải tôn trọng và thi hành
bản án, quyết định đó. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, không phải mọi bản án,
quyết định của Tòa án có HLPL đều đảm bảo tính khách quan và đúng quy
định của pháp luật. Vì thế, để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của người bị
kết án và những người tham gia tố tụng khác, BLTTHS có những quy định về
trình tự, thủ tục xem xét lại các bản án, quyết định đã có HLPL.
Luật TTHS các nước trên thế giới cũng như Việt Nam đều quy định thủ
tục xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL. Nhưng khác với
luật TTHS đa số các nước trên thế giới chỉ quy định một thủ tục xem xét lại
bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL, đó là thủ tục tái thẩm (như Đức
[80], Hàn Quốc, Na Uy [Dẫn theo 30, tr.15]...) hoặc thủ tục giám đốc thẩm
(như Trung Quốc [82], Đan Mạch [Dẫn theo 30, tr.15]...); luật TTHS Việt
Nam lại quy định hai thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có HLPL là thủ tục
giám đốc thẩm và thủ tục tái thẩm. Thủ tục giám đốc thẩm là thủ tục tố tụng
đặc biệt, để xét lại bản án hoặc quyết định đã có HLPL nhưng bị kháng nghị
vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc xử lý vụ án. Thủ
tục tái thẩm cũng xét lại bản án hoặc quyết định đã có HLPL, nhưng bị kháng
16. 9
nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội
dung của bản án hoặc quyết định mà Tòa án không biết được khi ra bản án
hoặc quyết định đó [48, Điều 272 và 290].
Hiện nay, trong nghiên cứu khoa học pháp lý và trong thực tiễn áp dụng
pháp luật còn có các quan điểm khác nhau về khái niệm giám đốc thẩm như:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, giám đốc thẩm là một giai đoạn TTHS,
trong đó Tòa án cấp trên trực tiếp xét lại vụ án mà bản án đã có HLPL về vụ
án đó bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật trong việc xử lý vụ án,
nhằm khắc phục sai lầm của Tòa án cấp dưới, bảo đảm cho việc áp dụng
thống nhất pháp luật... [70, tr.23].
Quan điểm thứ hai cho rằng, giám đốc thẩm là hình thức đặc thù để kiểm
tra tính hợp hiến và hợp pháp của các quyết định, bản án của Tòa án [76, tr.734].
Quan điểm thứ ba cho rằng, giám đốc thẩm trong TTHS là thủ tục do
Tòa án có thẩm quyền xét lại những bản án hoặc quyết định hình sự đã có
HLPL bị người có thẩm quyền kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật
nghiêm trọng trong hoạt động xét xử của Tòa án, nhằm đảm bảo pháp luật
được áp dụng đúng đắn và thống nhất [30, tr.35].
Quan điểm thứ tư cho rằng, giám đốc thẩm là một thủ tục của luật
TTHS nhằm xác định và khắc phục vi phạm, sai lầm nghiêm trọng trong bản
án, quyết định đã có HLPL của Tòa án dựa trên những căn cứ kháng nghị của
người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật [67, tr.14].
Như vậy, hầu hết các quan điểm trên đều cho rằng giám đốc thẩm là
việc xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL, nhưng có quan điểm
thì cho rằng giám đốc thẩm là một giai đoạn TTHS, quan điểm khác thì cho là
một thủ tục tố tụng. Nhìn chung mỗi quan điểm đều có góc độ tiếp cận khác
nhau, với phạm vi nghiên cứu khác nhau; tuy chưa phản ánh đầy đủ các dấu
hiệu đặc trưng của giám đốc thẩm, nhưng ở mức độ nào đó thì mỗi quan điểm
đều có nhân tố phù hợp nhất định.
17. 10
Theo chúng tôi để làm rõ nội hàm khái niệm giám đốc thẩm, thì cần
phân biệt giám đốc thẩm với xét xử lại và giám đốc việc xét xử. Tại Điều 20
BLTTHS quy định: “Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử... Đối với bản
án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải được xét xử
phúc thẩm” [48]. Như vậy, Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xét xử lại những vấn đề,
nội dung đã được Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết, nhưng có kháng cáo, kháng
nghị. Còn Tòa án xét xử giám đốc thẩm không phải là một cấp xét xử, mà là
thủ tục tố tụng đặc biệt, kiểm tra tính hợp pháp, tính có căn cứ của bản án,
quyết định đã có HLPL. Theo Điều 21 BLTTHS thì “Giám đốc việc xét xử là
việc Tòa án cấp trên giám đốc việc xét xử của Tòa án cấp dưới, TANDTC
giám đốc việc xét xử của TAND và TAQS các cấp để đảm bảo việc áp dụng
pháp luật được nghiêm chỉnh và thống nhất” [48]. Hoạt động giám đốc việc
xét xử của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dưới bao gồm cả hoạt động giải
quyết khiếu nại, tố cáo của người tham gia tố tụng, cơ quan Nhà nước, tổ
chức xã hội và mọi công dân; kiểm tra, phát hiện các vi phạm pháp luật trong
hoạt động xét xử để sửa chữa, khắc phục kịp thời; kháng nghị bản án, quyết
định đã có HLPL theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm; xét xử giám đốc thẩm,
tái thẩm và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong công tác xét xử. Do
đó, giám đốc thẩm chỉ là một hoạt động của công tác giám đốc việc xét xử và
có phạm vi hẹp hơn giám đốc việc xét xử.
Trên cơ sở nghiên cứu về lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định của
BLTTHS về giám đốc thẩm, tái thẩm, chúng tôi cho rằng: Giám đốc thẩm, tái
thẩm là thủ tục tố tụng đặc biệt để xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có
HLPL, nhưng bị người có thẩm quyền kháng nghị vì phát hiện có vi phạm
pháp luật nghiêm trọng trong việc xử lý vụ án hoặc có tình tiết mới có thể làm
thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định đã có HLPL mà Tòa án
không biết được khi ra bản án, quyết định đó, nhằm đảm bảo cho việc giải
quyết vụ án được đúng quy định của pháp luật.
18. 11
Như vậy, để giải quyết vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm thì
trước hết phải có kháng nghị của người có thẩm quyền, được ban hành theo
một trình tự, thủ tục chặt chẽ, trên cơ sở căn cứ do BLTTHS quy định. Văn
bản kháng nghị phải có những lập luận, đánh giá về các tình tiết của vụ án
và phải chỉ ra được sai lầm trong áp dụng pháp luật của Tòa án cấp sơ thẩm,
Tòa án cấp phúc thẩm; vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong quá trình
giải quyết vụ án hoặc có tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ
bản nội dung của bản án, quyết định đã có HLPL. Đây là văn bản tố tụng
mang tính chất pháp lý và là cơ sở để xét lại vụ án theo thủ tục giám đốc
thẩm hoặc tái thẩm.
1.1.1. Khái niệm kháng nghị tố tụng
Theo quan niệm chung nhất được ghi nhận trong Từ điển tiếng Việt của Nhà
xuất bản Từ điển Bách Khoa thì “Kháng nghị là tỏ lòng phản đối” [73, tr.569].
Trong TTHS thì khái niệm kháng nghị gắn liền với việc ra bản án và
các quyết định của Tòa án hoặc các cơ quan tiến hành tố tụng. Như vậy, khi
kháng nghị sẽ bao gồm đối tượng, nội dung kháng nghị và hệ quả của việc
kháng nghị. Trong cuốn “Sổ tay thuật ngữ pháp lý thông dụng”, tác giả
Nguyễn Duy Lãm đưa ra khái niệm kháng nghị như sau: “Kháng nghị là việc
người có thẩm quyền bằng văn bản của mình gửi đến Tòa án có thẩm quyền,
làm ngừng hiệu lực phán quyết của Tòa án trong bản án hoặc quyết định để
xét xử theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm nhằm làm cho vụ
án được xét xử chính xác, khách quan và đúng pháp luật” [25, tr.192]. Tuy
nhiên, quan điểm này không hoàn toàn chính xác, vì theo quy định của
BLTTHS thì kháng nghị giám đốc thẩm và kháng nghị tái thẩm không mặc
nhiên làm ngừng HLPL của bản án, quyết định bị kháng nghị, trừ khi người
đã kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm ra quyết định tạm đình chỉ thi
hành bản án, quyết định đó. Theo cuốn Từ điển Luật học của Viện khoa học
19. 12
pháp lý - Bộ Tư pháp thì “Kháng nghị trong TTHS là việc VKS cùng cấp và
VKS cấp trên trực tiếp yêu cầu Tòa án xét lại bản án, quyết định sơ thẩm
chưa có HLPL theo thủ tục phúc thẩm, xét lại bản án hoặc quyết định đã có
HLPL theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm” [78, tr.420]. Mặc dù đã đưa
ra khái niệm về kháng nghị trong TTHS, nhưng định nghĩa trên lại không bao
gồm mục đích của kháng nghị và chưa phản ánh đầy đủ chủ thể của kháng
nghị giám đốc thẩm, vì ngoài VKS thì Tòa án cũng có thẩm quyền kháng nghị
giám đốc thẩm.
Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những quan điểm trên và nghiên cứu
thực tiễn về kháng nghị, chúng tôi cho rằng: Kháng nghị trong TTHS là hoạt
động tố tụng của người có thẩm quyền, thể hiện bằng văn bản bày tỏ sự phản
đối bản án, quyết định của Tòa án và đề nghị Tòa án có thẩm quyền xem xét
lại bản án, quyết định đó, nhằm làm cho việc giải quyết vụ án được đúng quy
định của pháp luật.
1.1.2. Khái niệm kháng nghị giám đốc thẩm
Để giám đốc thẩm một vụ án hình sự có nhiều hoạt động tố tụng như
phát hiện vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL,
kháng nghị giám đốc thẩm, tạm đình chỉ thi hành bản án hoặc quyết định bị
kháng nghị, xét xử giám đốc thẩm... Trong đó, kháng nghị giám đốc thẩm là
hoạt động quan trọng nhất, vì không có kháng nghị giám đốc thẩm thì cũng
không có thủ tục giám đốc thẩm.
Theo quy định của BLTTHS Việt Nam thì kháng nghị giám đốc thẩm
thuộc thẩm quyền của cả Chánh án Tòa án và Viện trưởng VKS, nhằm khắc
phục những vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong các bản án hoặc quyết định
đã có HLPL, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, thống
nhất, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tập thể và công dân.
Phạm vi của kháng nghị giám đốc thẩm có thể là kháng nghị toàn bộ hoặc
20. 13
một phần bản án hoặc quyết định có HLPL và việc kháng nghị giám đốc thẩm
phải còn thời hạn kháng nghị theo quy định tại Điều 278 BLTTHS.
Khi nghiên cứu về kháng nghị giám đốc thẩm, Ths. Đinh Văn Quế cho
rằng “Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là quyết định của người có
thẩm quyền đối với một phần hoặc toàn bộ bản án hay quyết định đã có
HLPL để Tòa án có thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm” [41, tr.318]. Quan
điểm này đã nêu được một cách khái quát về kháng nghị giám đốc thẩm,
nhưng chưa phản ánh đầy đủ, chính xác các dấu hiệu đặc trưng của kháng
nghị giám đốc thẩm, như về hình thức kháng nghị; căn cứ kháng nghị và mục
đích của kháng nghị giám đốc thẩm.
Từ sự phân tích trên, chúng tôi cho rằng: Kháng nghị theo thủ tục giám
đốc thẩm về hình sự là một quyền năng mang tính đặc thù của Tòa án và
VKS, do người có thẩm quyền thực hiện bằng một văn bản pháp lý, trong đó
nêu rõ lý do của việc kháng nghị và đề nghị Hội đồng giám đốc thẩm xét lại
bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL, nhưng có vi phạm nghiêm trọng
về thủ tục tố tụng hoặc vi phạm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật,
nhằm làm cho việc giải quyết vụ án được đúng quy định của pháp luật.
1.1.3. Khái niệm kháng nghị tái thẩm
Theo quy định của BLTTHS thì thủ tục giám đốc thẩm và thủ tục tái
thẩm đều là thủ tục tố tụng đặc biệt và cùng xét lại bản án hoặc quyết định
của Tòa án đã có HLPL. Tuy nhiên, điểm khác nhau cơ bản giữa hai thủ tục tố
tụng này là ở căn cứ kháng nghị, nếu kháng nghị giám đốc thẩm dựa trên cơ
sở phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án thì
kháng nghị tái thẩm dựa vào việc phát hiện tình tiết mới có thể làm thay đổi
cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định đã có HLPL. “Chính sự khác biệt
này của hai thủ tục đã quyết định nội dung việc xem xét và phán quyết của
bản án tái thẩm và giám đốc thẩm. Nếu như quyết định tái thẩm liên quan đến
21. 14
nội dung của bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực của Tòa án thì bản án
quyết định giám đốc thẩm chỉ xác định có hay không có vi phạm pháp luật
trong quá trình giải quyết vụ án” [67, tr.10].
Khác với thủ tục giám đốc thẩm, kháng nghị tái thẩm chỉ thuộc thẩm
quyền của Viện trưởng VKS, còn Chánh án Tòa án không có thẩm quyền
kháng nghị tái thẩm. Người có thẩm quyền kháng nghị tái thẩm có thể kháng
nghị một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định đã có HLPL; việc kháng nghị
phải được thể hiện bằng văn bản, nêu rõ lý do của việc kháng nghị và phải còn
thời hạn kháng nghị theo quy định tại Điều 295 BLTTHS. Thông qua kháng
nghị tái thẩm, VKS thực hiện hoạt động kiểm sát công tác xét xử của Tòa án.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về kháng nghị và thực tiễn công tác
kháng nghị tái thẩm, chúng tôi cho rằng: Kháng nghị theo thủ tục tái thẩm về
hình sự là một quyền năng mang tính đặc thù của VKS, do người có thẩm
quyền thực hiện bằng một văn bản pháp lý, trong đó nêu rõ lý do của việc
kháng nghị và đề nghị Hội đồng tái thẩm xét lại bản án, quyết định của Tòa
án đã có HLPL, nhưng có tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ
bản nội dung của bản án, quyết định đó mà Tòa án không biết được khi ra
bản án hoặc quyết định này, nhằm làm cho việc giải quyết vụ án được đúng
quy định của pháp luật.
1.2. Đặc điểm của kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm
(1). Kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm bao giờ cũng được thể hiện
bằng văn bản
Khác với quy định tại khoản 2 Điều 233 BLTTHS về việc kháng nghị
theo thủ tục phúc thẩm phải được thể hiện bằng văn bản, BLTTHS lại không
quy định về hình thức của kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm. Theo tinh
thần của quy định tại Điều 277 BLTTHS “Kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm phải nêu rõ lý do và được gửi cho Tòa án đã ra bản án hoặc quyết định
22. 15
bị kháng nghị, Tòa án sẽ xét xử giám đốc thẩm, người bị kết án...” [48] và
khoản 4 Điều 293 BLTTHS “Bản kháng nghị của những người quy định tại
Điều này phải được gửi cho người bị kết án và những người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến việc kháng nghị” [48], thì kháng nghị giám đốc thẩm,
tái thẩm bao giờ cũng thể hiện bằng văn bản. Văn bản kháng nghị phải nêu
được các căn cứ để kháng nghị, trong đó có sự phân tích về các tình tiết của
vụ án liên quan đến nội dung kháng nghị để làm rõ những vi phạm pháp luật
nghiêm trọng trong bản án, quyết định đã có HLPL hoặc tình tiết mới được phát
hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định đó. Từ đó,
người có thẩm quyền quyết định kháng nghị một phần hay toàn bộ bản án hoặc
quyết định đã có HLPL. Đây là văn bản mang tính chất pháp lý, làm cơ sở phát
sinh thủ tục tố tụng đặc biệt, là thủ tục giám đốc thẩm hoặc thủ tục tái thẩm.
(2). Chủ thể kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm
Việc kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm chỉ được thực hiện bởi
những chủ thể có thẩm quyền mà BLTTHS quy định. Thông qua đó, các chủ
thể thực hiện quyền kháng nghị của mình một cách hợp pháp. Theo quy định
tại Điều 275 BLTTHS thì việc kháng nghị giám đốc thẩm do cả Chánh án
Tòa án và Viện trưởng VKS thực hiện; cụ thể là Chánh án TANDTC, Chánh
án TAQS Trung ương, Chánh án TAND cấp tỉnh, Chánh án TAQS cấp quân
khu, Viện trưởng VKSNDTC, Viện trưởng VKSQS Trung ương, Viện
trưởng VKSND cấp tỉnh và Viện trưởng VKSQS cấp quân khu, đều có thẩm
quyền kháng nghị giám đốc thẩm đối với bản án, quyết định của Tòa án đã
có HLPL [48], nhưng được phân cấp cụ thể. Khác với quy định của
BLTTHS năm 1988, BLTTHS năm 2003 đã bỏ thẩm quyền kháng nghị giám
đốc thẩm của Phó Chánh án TANDTC và Phó Viện trưởng VKSNDTC. Tuy
nhiên, trong dự thảo sửa đổi BLTTHS lại quy định thẩm quyền kháng nghị
giám đốc thẩm của những người này đối với bản án, quyết định đã có HLPL
của Tòa án cấp dưới [64, tr.419].
23. 16
Theo Điều 293 BLTTHS thì việc kháng nghị tái thẩm chỉ thuộc thẩm
quyền của Viện trưởng VKSNDTC, Viện trưởng VKSQS Trung ương, Viện
trưởng VKSND cấp tỉnh và Viện trưởng VKSQS cấp quân khu thực hiện
[48]; còn Chánh án Tòa án không có thẩm quyền kháng nghị tái thẩm.
(3). Đối tượng của kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm
Mặc dù, BLTTHS không có điều luật nào quy định về đối tượng của
kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm nhưng theo các Điều 272 và 290
BLTTHS về tính chất của giám đốc thẩm, tái thẩm thì đối tượng của kháng
nghị giám đốc thẩm, tái thẩm là bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có
HLPL. Bản án là văn bản do Hội đồng xét xử sơ thẩm hoặc Hội đồng xét xử
phúc thẩm ban hành nhằm giải quyết một vụ án hình sự cụ thể, trong đó kết
luận về hành vi bị truy tố có phải tội phạm không, người phạm tội là ai, tội
danh, hình phạt, biện pháp chấp hành hình phạt, bồi thường thiệt hại, án phí...
Những bản án là đối tượng của kháng nghị giám đốc thẩm bao gồm: bản án sơ
thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm và bản án phúc
thẩm. Theo quy định tại khoản 3 Điều 248 và Điều 240 BLTTHS thì bản án
phúc thẩm có HLPL kể từ ngày tuyên án; còn bản án, quyết định sơ thẩm và
những phần của bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị
thì có HLPL kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị [48].
BLTTHS cũng chưa quy định cụ thể về quyết định nào đã có HLPL là
đối tượng của kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, nên trong nghiên cứu
khoa học và thực tiễn áp dụng còn có nhiều quan điểm khác nhau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, tất cả các quyết định của Tòa án có
HLPL đều là đối tượng của kháng nghị giám đốc thẩm, không kể quyết định
đó là do Hội đồng xét xử, Chánh án, Phó Chánh án hay của Thẩm phán ban
hành [Dẫn theo 37, tr.14].
Quan điểm thứ hai cho rằng, chỉ có quyết định đình chỉ vụ án đã có
HLPL mới là đối tượng kháng nghị giám đốc thẩm [30, tr.143].
24. 17
Quan điểm thứ ba cho rằng, không phải tất cả quyết định của Tòa án đã
có HLPL đều là đối tượng kháng nghị giám đốc thẩm mà chỉ một số quyết
định có tính chất như một bản án và những quyết định này theo quy định của
pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm mới là đối tượng
của kháng nghị giám đốc thẩm [38, tr.96].
Quan điểm thứ tư cho rằng, các quyết định về hình sự đã có HLPL
được xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm bao gồm: quyết định về áp dụng
pháp luật; quyết định về mức hình phạt và biện pháp chấp hành hình phạt;
quyết định áp dụng các biện pháp tư pháp như kê biên tạm giữ tài sản, tịch thu
vật và tiền bạc trực tiếp liên quan đến tội phạm và bồi thường thiệt hại; các
quyết định giám đốc thẩm [12, tr.194].
Nhìn chung các quan điểm trên có nhận thức rất khác nhau về phạm vi
đối tượng kháng nghị giám đốc thẩm. Theo quan điểm thứ nhất thì đối tượng
của kháng nghị giám đốc thẩm có phạm vi quá rộng; ngược lại quan điểm thứ
hai lại quá hẹp, không phù hợp với thực tiễn kháng nghị giám đốc thẩm; còn
các quyết định theo quan điểm thứ tư đều đã thể hiện trong bản án (trừ quyết
định giám đốc thẩm). Theo chúng tôi, quan điểm thứ ba là phù hợp hơn cả,
nhưng vẫn còn chung chung, chưa nêu được cụ thể quyết định nào đã có
HLPL là đối tượng của kháng nghị giám đốc thẩm. Khi nghiên cứu về vấn đề
này, tác giả Nguyễn Văn Hiện cho rằng: “đối tượng kháng nghị giám đốc
thẩm như quy định của BLTTHS là quá rộng dẫn đến việc quá tải cho hoạt
động giám đốc thẩm hoặc bỏ sót nhiều vụ việc nghiêm trọng lẽ ra cần phải
được kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm” [21, tr.3].
Qua nghiên cứu quy định của BLTTHS và thực tiễn kháng nghị giám
đốc thẩm, chúng tôi nhận thấy chỉ nên quy định các quyết định của Tòa án đã
có HLPL là đối tượng của kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm bao gồm:
quyết định đình chỉ vụ án, quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm, quyết định
25. 18
giám đốc thẩm và quyết định tái thẩm (trừ quyết định của Hội đồng Thẩm
phán TANDTC).
(4). Nội dung của kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm
BLTTHS không có quy định về nội dung của kháng nghị giám đốc
thẩm, tái thẩm, nhưng qua nghiên cứu thực tiễn công tác này ở TANDTC thì
quyết định kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm ngoài các yếu tố về thể thức
văn bản, còn có các phần chủ yếu như: lý lịch người bị kết án, nhận thấy, xét
thấy và quyết định.
Trong phần lý lịch người bị kết án, kháng nghị phản ánh đầy đủ các vấn
đề thuộc về nhân thân của người đó như: ngày tháng năm sinh, nơi thường
trú, nghề nghiệp, con ai, có vợ, chồng hay con chưa, đặc biệt là có tiền án,
tiền sự hay không, bị tạm giam hay tại ngoại.
Phần nhận thấy tóm tắt nội dung có thật về vụ án, như hoàn cảnh,
nguyên nhân, điều kiện phạm tội; hành vi phạm tội cụ thể của người bị kết án;
hậu quả xảy ra; kết luận của các cơ quan chuyên môn về mức độ tổn hại sức
khỏe của người bị hại, cơ chế hình thành thương tích, nguyên nhân chết
người, giá trị tài sản bị chiếm đoạt... Tiếp đó là kết quả giải quyết của Tòa án
cấp sơ thẩm; nội dung kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm (nếu có)
và quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm.
Trong phần xét thấy là những lập luận, đánh giá về các tình tiết của vụ
án phục vụ cho phần quyết định của văn bản kháng nghị, như đánh giá về thủ
tục tố tụng; nguyên nhân, động cơ, mục đích phạm tội; hậu quả của vụ án; tính
chất, mức độ của hành vi phạm tội; các tình tiết về tăng nặng, giảm nhẹ, vai trò,
nhân thân của bị cáo trong vụ án; các vấn đề về bồi thường thiệt hại... Từ đó, có
nhận định, đánh giá về tội danh, hình phạt, bồi thường thiệt hại... mà Tòa án
các cấp đã áp dụng đối với bị cáo là có căn cứ pháp luật hay không.
Trên cơ sở những đánh giá, nhận định trong phần xét thấy, người có
thẩm quyền quyết định kháng nghị một phần hay toàn bộ bản án, quyết định
26. 19
đã có HLPL; đề nghị Hội đồng giám đốc thẩm, Hội đồng tái thẩm xét xử theo
thủ tục giám đốc thẩm hoặc thủ tục tái thẩm, hủy một phần hay toàn bộ bản
án, quyết định đó để điều tra lại, xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm hay phúc
thẩm hoặc đình chỉ vụ án.
(5). Hệ quả của kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm.
Khác với kháng nghị phúc thẩm là bản án, quyết định bị kháng nghị
theo thủ tục phúc thẩm chưa có HLPL nên chưa được thi hành, nhưng kháng
nghị giám đốc thẩm, tái thẩm thì không mặc nhiên làm ngừng việc thi hành
bản án, quyết định đã có HLPL, trừ khi người đã kháng nghị giám đốc thẩm,
tái thẩm ra quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án hoặc quyết định bị kháng
nghị và gửi cho cơ quan có thẩm quyền theo đúng quy định của BLTTHS.
Theo quy định tại Điều 276 và Điều 294 BLTTHS thì những người đã
kháng nghị bản án hoặc quyết định đã có HLPL có quyền quyết định tạm đình
chỉ thi hành bản án hoặc quyết định đó [48]. Như vậy, việc tạm đình chỉ thi
hành bản án hoặc quyết định đã có HLPL chỉ được thực hiện khi bản án hoặc
quyết định đó đã bị kháng nghị giám đốc thẩm hoặc kháng nghị tái thẩm. Mặc
dù, hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể trong trường hợp nào thì được
tạm đình chỉ thi hành bản án đã có HLPL, nhưng có thể tham khảo hướng dẫn
tại Thông tư số 01/TTLT ngày 08-12-1988 của TANDTC, VKSNDTC là:
Trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt tù, chỉ nên tạm đình
chỉ thi hành án khi đã có kháng giám đốc thẩm theo hướng: đình chỉ vụ án,
tuyên bố không phạm tội, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, cho
hưởng án treo hoặc áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù [57].
BLTTHS không quy định trong trường hợp cần thiết, người có thẩm
quyền kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm có quyền hoãn thi hành bản án hoặc
quyết định đã có HLPL để xem xét, quyết định việc kháng nghị giám đốc thẩm
hoặc tái thẩm; vì thế, theo chúng tôi cần thiết phải quy định vấn đề này trong
27. 20
BLTTHS. Ngoài ra, thực tiễn kháng nghị giám đốc thẩm cho thấy, có trường
hợp sau khi nhận được kháng nghị theo hướng không có lợi cho người bị kết
án, thì người bị kết án đã bỏ trốn, tẩu tán tài sản... gây khó khăn cho việc xử lý
tiếp theo của các cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, chúng tôi cho rằng, cần bổ
sung quy định trong trường hợp cần thiết thì người đã kháng nghị giám đốc
thẩm, tái thẩm có quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn hoặc kê biên tài sản
đối với người bị kết án cho đến khi có quyết định giám đốc thẩm.
Theo quy định tại Điều 276 BLTTHS thì “Quyết định tạm đình chỉ thi
hành bản án phải gửi cho Tòa án, VKS nơi đã xử sơ thẩm và cơ quan thi hành
án có thẩm quyền” [48]. Như vậy, việc gửi quyết định tạm đình chỉ thi hành bản
án cho Tòa án, VKS cấp sơ thẩm và cơ quan thi hành án có thẩm quyền là bắt
buộc. Tuy nhiên, Điều 294 BLTTHS lại không quy định về việc phải gửi quyết
định tạm đình chỉ thi hành bản án hoặc quyết định bị kháng nghị theo thủ tục tái
thẩm cho Tòa án, VKS cấp sơ thẩm và cơ quan thi hành án có thẩm quyền.
1.3. Mục đích, ý nghĩa của kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm
1.3.1. Mục đích của kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm
Trong hoạt động TTHS, kháng nghị giám đốc thẩm là nhằm khắc phục,
sửa chữa những sai lầm, vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án,
đảm bảo tính hợp pháp của bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL, tính
thống nhất trong hoạt động xét xử và tính pháp chế XHCN trong TTHS. Để
đạt được mục đích đó, pháp luật nước ta có những quy định về sự kiểm tra,
giám sát đối với hoạt động xét xử của Tòa án, như Tòa án phải báo cáo công
tác, chịu sự giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch
nước, Ủy ban Tư pháp của Quốc hội; chịu sự kiểm sát của VKS và sự giám
sát của toàn dân đối với công tác xét xử. Trong hệ thống Tòa án, thì Tòa án
cấp trên kiểm tra, giám đốc hoạt động xét xử của Tòa án cấp dưới, hướng dẫn
Tòa án cấp dưới áp dụng thống nhất pháp luật, nếu phát hiện có vi phạm pháp
28. 21
luật hoặc phát hiện tình tiết mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản
án, quyết định đã có HLPL thì người có thẩm quyền ra quyết định kháng nghị
giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Trên cơ sở đó, Hội đồng giám đốc thẩm, tái
thẩm xem xét, đánh giá việc áp dụng pháp luật trong việc giải quyết vụ án đó
có đúng hay không, tức là xem xét tính hợp pháp của bản án, quyết định đã có
HLPL, mà không xét xử lại vụ án.
3.1.2. Ý nghĩa của kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm
Về mặt chính trị, xã hội: kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm góp phần
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng; nâng cao kiến
thức pháp luật, kinh nghiệm xét xử đối với các cán bộ Tòa án, cũng như ý
thức pháp luật của người tham gia tố tụng trong vụ án và nhân dân nói chung.
Kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm còn góp phần đảm bảo nguyên tắc mọi
công dân đều bình đẳng trước pháp luật, đảm bảo công bằng xã hội, củng cố
lòng tin của nhân dân vào hoạt động xét xử của Tòa án và nâng cao uy tín của
các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Về mặt pháp lý: thông qua kháng nghị giám đốc thẩm, Tòa án cấp trên
khắc phục những sai lầm, vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, mà cụ thể là
khắc phục, loại bỏ những vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định đã có
HLPL, hướng dẫn Tòa án cấp dưới áp dụng thống nhất pháp luật. Trên cơ sở
đó, kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm không những góp phần thực hiện các
nguyên tắc cơ bản của BLTTHS, như nguyên tắc xác định sự thật của vụ án,
nguyên tắc bảo đảm pháp chế XHCN trong TTHS, nguyên tắc bảo đảm quyền
bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật, nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ
các quyền cơ bản của công dân, nguyên tắc giám đốc xét xử..., mà còn có ý
nghĩa to lớn trong công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật TTHS. Thông qua
thực tiễn kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, Tòa án phát hiện nguyên nhân
29. 22
dẫn đến vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định đã có HLPL, như quy
định của pháp luật chưa đầy đủ, chưa rõ ràng dẫn đến nhận thức pháp luật
khác nhau giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng... Từ
đó, Tòa án đưa ra những kiến nghị, giải pháp để đề xuất với cơ quan có thẩm
quyển sửa đổi, hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự, pháp luật
TTHS và các ngành luật khác có liên quan.
1.4. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của luật TTHS Việt
Nam về kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm từ năm 1945 đến nay
1.4.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước
khi ban hành BLTTHS Việt Nam năm 1988
Sau khi giành được chính quyền, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
đã ban hành Sắc lệnh số 33C ngày 13-9-1945 về thành lập TAQS, trong đó
quy định Tòa án chỉ xét xử một cấp, bản án, quyết định của Tòa án được thi
hành ngay; Sắc lệnh số 13/SL ngày 24-01-1946 quy định về tổ chức Tòa án
và ngạch Thẩm phán đã ghi nhận nguyên tắc Tòa án thực hiện hai cấp xét xử.
Ngày 09-11-1946, Quốc hội thông qua Hiến pháp năm 1946 tạo cơ sở pháp lý
cho tổ chức và hoạt động của Bộ máy nhà nước, trong đó có Tòa án. Ngày
22-5-1950, Sắc lệnh số 85/SL về cải cách bộ máy tư pháp và tố tụng được ban
hành, trong đó đã quy định về thủ tục tiêu án. Ngày 29-5-1957, Bộ Tư pháp
ban hành Thông tư số 2037-HCTP cũng quy định: “Nếu bản án đã có HLPL
nhưng phát hiện có sai lầm thì cần phải thi hành thủ tục tiêu án”. Tiếp đó, Bộ
Tư pháp ban hành Thông tư số 002/TT ngày 13-01-1959 và Thông tư số
04/TT ngày 03-02-1959 quy định về thủ tục xét lại bản án đã có HLPL, nhưng
phát hiện có sai lầm đối với các can phạm đang bị giam giữ thi hành án trong
ba trường hợp là: bị xử oan, tội nặng xử nhẹ hoặc tội nhẹ xử nặng; khi xét
thấy bản án đã có HLPL có sai lầm thì Tòa án tỉnh báo cáo lên Tòa án tối cao
xem xét và quyết định việc tiêu án hay không. Nói chung, các văn bản trong
30. 23
giai đoạn này đều không có quy định về thủ tục kháng nghị giám đốc thẩm,
tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có HLPL.
Sau khi ban hành Hiến pháp năm 1959, ngày 14-7-1960, Quốc hội thông
qua Luật tổ chức TAND, trong đó Điều 10 quy định: “Đối với bản án và quyết
định của các TAND địa phương đã có HLPL, nhưng phát hiện có sai lầm thì
TANDTC có quyền xét lại hoặc giao cho TAND cấp dưới xét lại...” [51]. Ngày
15-7-1960, Quốc hội ban hành Luật tổ chức VKSND, trong đó Điều 18 cũng
quy định: “Khi VKSNDTC thấy các bản án hoặc quyết định đã có HLPL của
TAND các cấp là sai lầm thì có quyền kháng nghị; khi VKSND địa phương
thấy các bản án hoặc quyết định đã có HLPL của TAND cấp mình hoặc cấp
dưới là sai lầm thì báo cáo lên VKSNDTC để kháng nghị” [52].
Để cụ thể hóa quy định trên, tại Điều 6 Pháp lệnh ngày 23-3-1961 về tổ
chức của TAND các cấp quy định: “Chánh án TANDTC có nhiệm vụ kháng
nghị những bản án hoặc quyết định đã có HLPL của TAND các cấp, nhưng
phát hiện có sai lầm”. Ngoài ra, TANDTC còn có các văn bản hướng dẫn liên
quan đến công tác giám đốc thẩm như Thông tư số 2397-TC ngày 22-12-1961
hướng dẫn thi hành Luật tổ chức TAND năm 1960; Thông tư số 06-TC ngày
23-7-1964 giải thích về trình tự giám đốc xét xử, trong đó quy định
“TANDTC sẽ xét xử theo trình tự giám đốc khi có kháng nghị của Chánh án
TANDTC hoặc Viện trưởng VKSNDTC” [56].
Như vậy, việc xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án, quyết
định đã có HLPL tập trung chủ yếu ở TANDTC và việc kháng nghị đối với
bản án, quyết định đó chính thức được luật hóa, thuộc thẩm quyền của cả
Chánh án TANDTC và Viện trưởng VKSNDTC. Tuy nhiên, các văn bản liên
quan đến thủ tục giám đốc thẩm ở giai đoạn này chưa quy định rõ thế nào là
“sai lầm” trong bản án, quyết định đã có HLPL, chưa quy định về thời hạn
kháng nghị, hệ quả của kháng nghị giám đốc thẩm...
31. 24
Sau khi Hiến pháp năm 1980 được ban hành, ngày 03-7-1981 Quốc hội
thông qua Luật tổ chức TAND, trong đó đã phân biệt thủ tục giám đốc thẩm
với thủ tục tái thẩm và tại các Điều 29, 30, 35 đã quy định về thẩm quyền
kháng nghị giám đốc thẩm của Chánh án TANDTC, Phó Chánh án TANDTC
và Chánh án Tòa án cấp tỉnh. Ngày 04-7-1981, Luật tổ chức VKSND được
ban hành, trong đó Điều 13 quy định:
Khi thực hiện công tác kiểm sát xét xử, các VKSND có
quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm các bản án và quyết
định đã có HLPL của TAND cấp dưới khi thấy có vi phạm pháp
luật; VKSNDTC có quyền kháng nghị các bản án và quyết định đã
có HLPL của TAND các cấp theo thủ tục giám đốc thẩm khi thấy
có vi phạm pháp luật hoặc theo thủ tục tái thẩm khi thấy có tình
tiết mới [44].
Các quy định nêu trên là tiền đề quan trọng trong việc xây dựng và ban
hành BLTTHS năm 1988 về kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm.
1.4.2. Quy định của BLTTHS Việt Nam năm 1988 và năm 2003 về
kháng nghị giám đốc thẩm [46, 48]
Về tính chất của giám đốc thẩm: nếu Điều 241 BLTTHS năm 1988 chỉ
quy định: “Giám đốc thẩm là xét lại bản án hoặc quyết định đã có HLPL
nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật trong việc xử lý vụ án”
[46], thì Điều 272 BLTTHS năm 2003 quy định: “Giám đốc thẩm là xét lại
bản án hoặc quyết định đã có HLPL nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi
phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc xử lý vụ án” [48].
BLTTHS năm 1988 không dùng thuật ngữ “có sai lầm” như các văn
bản trước đó mà dùng thuật ngữ “có vi phạm pháp luật” là đầy đủ hơn và
chính xác hơn. BLTTHS năm 2003 không chỉ quy định “có vi phạm pháp
luật” mà còn quy định cụ thể là “vi phạm pháp luật nghiêm trọng” mới bị
32. 25
kháng nghị giám đốc thẩm. Như vậy, không phải cứ có vi phạm pháp luật
trong các bản án, quyết định đã có HLPL là kháng nghị giám đốc thẩm, mà
phải là vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án mới bị
kháng nghị giám đốc thẩm và vi phạm đó chính là những căn cứ kháng nghị
theo quy định tại Điều 273 BLTTHS.
Về căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm: tại Điều 242 BLTTHS năm 1988
và Điều 273 BLTTHS năm 2003 đều quy định:
Bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có HLPL bị kháng nghị theo thủ
tục giám đốc thẩm, khi có một trong những căn cứ sau đây:
1. Việc điều tra xét hỏi tại phiên tòa phiến diện hoặc
không đầy đủ;
2. Kết luận trong bản án hoặc quyết định không phù hợp với
những tình tiết khách quan của vụ án;
3. Có sự vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong khi điều
tra, truy tố hoặc xét xử;
4. Có những sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng
BLHS [46, 48].
Các căn cứ kháng nghị nêu trên đều là những vi phạm pháp luật nghiêm
trọng cả về hình thức (thủ tục tố tụng) lẫn nội dung trong quá trình giải quyết
vụ án hình sự. Trước khi có BLTTHS năm 1988, chưa có văn bản nào đề ra
được căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm. Thông tư số 06-TC ngày 23-7-1964
của TANDTC cũng chỉ quy định: “Những bản án hoặc quyết định của Tòa án
đã có HLPL bị kháng nghị là những bản án hoặc quyết định phát hiện có sai
lầm” [56], nhưng không nêu cụ thể sai lầm là gì. Tuy nhiên, đây là cơ sở pháp
lý rất quan trọng, là tiền đề cho việc xây dựng, đề ra các căn cứ kháng nghị
nói trên. Đó là một bước phát triển lớn trong việc xây dựng, hoàn thiện các
quy định về kháng nghị giám đốc thẩm trong TTHS.
33. 26
Việc phát hiện bản án hoặc quyết định đã có HLPL cần xét lại theo thủ
tục giám đốc thẩm: nếu Điều 243 BLTTHS năm 1988 quy định: “Người bị
kết án, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân có quyền phát hiện
những vi phạm pháp luật trong các bản án và quyết định của Tòa án đã có
HLPL với những người quy định tại Điều 244 Bộ luật này” [46], thì Điều 274
BLTTHS năm 2003 quy định cụ thể hơn “... phát hiện và thông báo cho
những người có quyền kháng nghị...” [48]. Như vậy, bất cứ ai cũng có quyền
phát hiện vi phạm pháp luật trong các bản án hoặc quyết định đã có HLPL để
thông báo cho người có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm xem xét,
quyết định việc kháng nghị bản án hoặc quyết định đó.
Ngoài ra, đối với Tòa án, VKS, trong quá trình thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của mình nếu phát hiện có vi phạm pháp luật trong bản án hoặc
quyết định đã có HLPL thì phải báo cho người có thẩm quyền kháng nghị
giám đốc thẩm biết để xem xét, quyết định có kháng nghị hay không.
Về thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm: theo quy định
tại Điều 244 BLTTHS năm 1988 thì những người có quyền kháng nghị theo
thủ tục giám đốc thẩm là:
1. Chánh án TANDTC và Viện trưởng VKSNDTC có quyền
kháng nghị bản án hoặc quyết định đã có HLPL của Tòa án các cấp;
2. Phó Chánh án TANDTC và Phó Viện trưởng VKSNDTC
có quyền kháng nghị những bản án hoặc quyết định đã có HLPL
của Tòa án cấp dưới;
3. Chánh án TAQS cấp cao và Viện trưởng VKSQS Trung
ương có quyền kháng nghị những bản án hoặc quyết định đã có
HLPL của TAQS cấp dưới;
4. Chánh án TAND cấp tỉnh và Viện trưởng VKSND cấp
tỉnh, Chánh án TAQS cấp quân khu và Viện trưởng VKSQS cấp
quân khu có quyền kháng nghị những bản án hoặc quyết định đã có
HLPL của Tòa án cấp dưới [46].
34. 27
Tại Điều 275 BLTTHS năm 2003 [48] bỏ quy định về thẩm quyền
kháng nghị giám đốc thẩm của Phó Chánh án TANDTC và Phó Viện trưởng
VKSNDTC; ngoài ra, còn quy định bổ sung cụm từ “trừ quyết định của Hội
đồng Thẩm phán TANDTC” vào khoản 1 Điều 275 BLTTHS và cụm từ “theo
thủ tục giám đốc thẩm” vào sau các cụm từ “kháng nghị”, thay cụm từ
“Chánh án TAQS cấp cao” thành cụm từ “Chánh án TAQS Trung ương” so
với quy định tại Điều 244 BLTTHS năm 1988. Như vậy, BLTTHS năm 2003
quy định chặt chẽ hơn và khẳng định không ai có quyền kháng nghị đối với
quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán TANDTC.
Việc tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định bị kháng nghị: nếu Điều
245 BLTTHS năm 1988 chỉ quy định những người đã kháng nghị bản án hoặc
quyết định đã có HLPL có quyền tạm đình chỉ thi hành bản án hoặc quyết
định đó [46], thì Điều 276 BLTTHS năm 2003 còn quy định bổ sung là phải
gửi quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án cho Tòa án, VKS nơi đã xét xử sơ
thẩm và cơ quan thi hành án có thẩm quyền [48]. Việc quy định bổ sung này
là rất cần thiết và hoàn toàn phù hợp với thực tiễn kháng nghị giám đốc thẩm,
vì nếu quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án hoặc quyết định đã có HLPL
không được gửi cho Tòa án, VKS cấp sơ thẩm, cơ quan thi hành án thì những
cơ quan này không biết và vẫn thi hành bản án, quyết định đó.
Về thông báo kháng nghị, bổ sung kháng nghị và rút kháng nghị:
BLTTHS năm 1988 và năm 2003 đều quy định về kháng nghị giám đốc
thẩm phải nêu rõ lý do và được gửi cho Tòa án đã ra bản án hoặc quyết định
bị kháng nghị, Tòa án sẽ xét xử giám đốc thẩm, người bị kết án và những
người có quyền và lợi ích liên quan đến việc kháng nghị [46, 48]. Theo quy
định của BLTTHS năm 1988 thì khi không có căn cứ để kháng nghị giám
đốc thẩm, người có quyền kháng nghị phải trả lời cho người hoặc cơ quan,
tổ chức đã phát hiện biết rõ lý do; BLTTHS năm 2003 quy định bổ sung là
35. 28
nếu không có căn cứ kháng nghị thì trước khi hết thời hạn kháng nghị, người
có quyền kháng nghị phải trả lời cho cơ quan, tổ chức, người phát hiện biết
lý do của việc không kháng nghị.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 246 BLTTHS năm 1988 thì trước khi
bắt đầu phiên tòa giám đốc thẩm, người đã kháng nghị có quyền bổ sung hoặc
rút kháng nghị. Tại khoản 3 Điều 277 BLTTHS năm 2003 quy định thêm là
việc bổ sung kháng nghị nếu chưa hết thời hạn kháng nghị quy định tại Điều
278 BLTTHS.
Về thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm: BLTTHS năm 1988 và năm
2003 đều quy định về việc kháng nghị theo hướng không có lợi cho người bị
kết án chỉ được tiến hành trong thời hạn một năm kể từ ngày bản án hoặc
quyết định có HLPL; còn kháng nghị theo hướng có lợi cho người bị kết án
có thể được tiến hành bất cứ lúc nào, kể cả trường hợp người bị kết án đã chết
mà cần minh oan cho họ [46, 48]. Điều 278 BLTTHS năm 2003 còn bổ sung
quy định về thời hạn kháng nghị về dân sự trong vụ án hình sự đối với nguyên
đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án
được tiến hành theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự [48].
1.4.3. Quy định của BLTTHS Việt Nam năm 1988 và năm 2003 về
kháng nghị tái thẩm [46, 48]
Về tính chất của tái thẩm: BLTTHS năm 1988 và năm 2003 đều quy
định thủ tục tái thẩm được áp dụng đối với bản án hoặc quyết định đã có
HLPL nhưng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể
làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định mà Tòa án không
biết được khi ra bản án quyết định đó.
Về căn cứ kháng nghị tái thẩm: Điều 261 BLTTHS năm 1988 quy định
những tình tiết được dùng làm căn cứ để kháng nghị tái thẩm là:
36. 29
1. Lời khai của người làm chứng, kết luận giám định hoặc lời
dịch của người phiên dịch có những điểm quan trọng được phát
hiện là không đúng sự thật;
2. Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân
dân đã có kết luận không đúng làm cho vụ án bị xét xử sai;
3. Vật chứng hoặc những tài liệu khác trong vụ án bị giả mạo
hoặc không đúng sự thật [46].
Ngoài các căn cứ trên, tại Điều 291 BLTTHS năm 2003 còn quy định
bổ sung các căn cứ như: biên bản điều tra, biên bản các hoạt động tố tụng
khác bị giả mạo hoặc không đúng sự thật và những tình tiết khác làm cho việc
giải quyết vụ án không đúng sự thật [48].
Việc thông báo và xác minh những tình tiết mới được phát hiện: cả
BLTTHS năm 1988 và năm 2003 đều quy định người bị kết án, cơ quan, tổ
chức xã hội và mọi công dân có quyền phát hiện những tình tiết mới của vụ
án và báo cho VKS hoặc Tòa án. Viện trưởng VKS có thẩm quyền kháng
nghị tái thẩm ra quyết định xác minh những tình tiết đó. Nếu có một trong
những căn cứ kháng nghị tái thẩm thì Viện trưởng VKS ra quyết định kháng
nghị tái thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án có thẩm quyền; nếu không
có căn cứ thì Viện trưởng VKS trả lời cho cơ quan, tổ chức hoặc người đã
phát hiện biết [46, 48].
Về thẩm quyền kháng nghị tái thẩm: BLTTHS năm 1988 và năm 2003
quy định chỉ những người sau đây mới có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục
tái thẩm, nhưng BLTTHS năm 2003 quy định cụ thể là quyết định của Hội
đồng Thẩm phán TANDTC không ai có quyền kháng nghị tái thẩm:
1. Viện trưởng VKSNDTC có quyền kháng nghị theo thủ tục
tái thẩm đối với những bản án hoặc quyết định đã có HLPL của Tòa
án các cấp, trừ quyết định của Hội đồng Thẩm phán TANDTC.
37. 30
2. Viện trưởng VKSQS Trung ương có quyền kháng nghị
theo thủ tục tái thẩm đối với những bản án hoặc quyết định đã có
HLPL của TAQS cấp dưới.
3. Viện trưởng VKSND cấp tỉnh có quyền kháng nghị theo
thủ tục tái thẩm đối với những bản án hoặc quyết định đã có HLPL
của TAND cấp huyện. Viện trưởng VKSQS cấp quân khu có quyền
kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với những bản án hoặc quyết
định đã có HLPL của TAQS khu vực [48].
Giống như thủ tục giám đốc thẩm, những người đã kháng nghị theo
thủ tục tái thẩm cũng có quyền tạm đình chỉ thi hành bản án hoặc quyết
định bị kháng nghị.
Về thời hạn kháng nghị tái thẩm, cả BLTTHS năm 1988 và năm 2003
đều quy định việc tái thẩm theo hướng không có lợi cho người bị kết án phải
tiến hành trong thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và thời hạn kháng nghị
không được quá một năm, kể từ ngày VKS nhận được tin báo về tình tiết mới
được phát hiện; còn tái thẩm theo hướng có lợi cho người bị kết án thì không
hạn chế về thời gian và được tiến hành trong cả trường hợp người bị kết án đã
chết mà cần minh oan cho họ [46, 48]. Ngoài ra, BLTTHS năm 2003 còn quy
định bổ sung việc kháng nghị về dân sự trong vụ án hình sự đối với nguyên
đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án
được tiến hành theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự [48].
1.5. Kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trong luật TTHS một số
nước trên thế giới
1.5.1. BLTTHS Liên bang Nga [81]
Tương tự như pháp luật TTHS Việt Nam, BLTTHS Liên bang Nga
cũng quy định hai thủ tục xem xét lại bản án, quyết định đã có HLPL là thủ
tục giám đốc thẩm và thủ tục tái thẩm.
38. 31
*. Về thủ tục giám đốc thẩm:
Theo quy định tại Điều 402 thì những đương sự trong vụ án hình sự
như: người bị tình nghi, bị can, bị cáo, người được Tòa án tuyên vô tội, người
bào chữa của họ hoặc người đại diện hợp pháp của họ; người bị hại, người đại
diện của họ; nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự hoặc người đại diện của họ,
đều có quyền kháng cáo yêu cầu xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã
có HLPL theo thủ tục giám đốc thẩm. Ngoài ra, Kiểm sát viên VKS có quyền
kháng nghị yêu cầu xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL
theo thủ tục giám đốc thẩm.
Như vậy, khác với quy định của BLTTHS Liên bang Nga, pháp luật
TTHS Việt Nam không quy định quyền kháng cáo của những người tham gia
tố tụng đối với bản án, quyết định đã có HLPL, mà những người này hoặc các
cơ quan, tổ chức xã hội và mọi công dân chỉ có quyền phát hiện vi phạm pháp
luật trong bản án, quyết định có HLPL để thông báo cho người có thẩm quyền
kháng nghị giám đốc thẩm xem xét, quyết định việc kháng nghị.
Về thủ tục, theo Điều 404 thì kháng cáo, kháng nghị giám đốc thẩm
được gửi trực tiếp cho Tòa án cấp giám đốc thẩm có thẩm quyền và kèm theo
kháng cáo, kháng nghị giám đốc thẩm là các tài liệu sau:
1. Bản sao bản án hoặc quyết định của Tòa án cấp chống án,
quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm, quyết định của Tòa án cấp
giám đốc thẩm, nếu chúng được ban hành đối với vụ án đó;
2. Bản sao bản án hoặc quyết định của Tòa án chống án,
quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm, quyết định của Tòa án cấp
giám đốc thẩm, nếu chúng được ban hành trong vụ án này;
3. Trong những trường hợp cần thiết là bản sao những tài liệu
tố tụng khác mà theo quan điểm của người kháng cáo, kháng nghị
khẳng định những lý lẽ được thể hiện trong kháng cáo, kháng nghị
giám đốc thẩm [81].
39. 32
BLTTHS Liên bang Nga quy định nguyên tắc của việc xem xét lại bản
án, quyết định đã có HLPL theo thủ tục giám đốc thẩm là không được phép
làm xấu hơn tình trạng ban đầu của người bị kết án, cụ thể:
Việc xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm bản án kết tội cũng như
quyết định của Tòa án liên quan đến sự cần thiết phải áp dụng luật hình sự về tội
nặng hơn do hình phạt quá nhẹ hoặc do những căn cứ khác dẫn đến làm xấu hơn
tình trạng của người bị kết án, cũng như việc xét lại bản án vô tội hoặc quyết
định của Tòa án về việc đình chỉ vụ án là không được phép [81, Điều 405].
Theo Điều 406 thì kháng cáo, kháng nghị giám đốc thẩm được Tòa án
cấp giám đốc thẩm giải quyết trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được
kháng cáo, kháng nghị. Sau khi nghiên cứu kháng cáo, kháng nghị giám đốc
thẩm, Thẩm phán ra một trong những quyết định sau: 1). Không chấp nhận
kháng cáo, kháng nghị giám đốc thẩm; 2). Chấp nhận giải quyết theo thủ tục
giám đốc thẩm và chuyển kháng cáo, kháng nghị giám đốc thẩm để giải quyết
tại Tòa án cấp giám đốc thẩm cùng với hồ sơ vụ án nếu thấy cần thiết.
Chánh án Tòa án tối cao nước cộng hòa, Tòa án vùng hoặc khu vực, Tòa
án thành phố trực thuộc Liên bang, Tòa án vùng hoặc khu vực tự trị, Chánh án
Tòa án tối cao Liên bang Nga hoặc cấp phó của họ có quyền không đồng ý với
quyết định của Thẩm phán về việc không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị
giám đốc thẩm. Trong trường hợp này những người nói trên huỷ bỏ quyết định
đó và ra quyết định chấp nhận giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm [81].
Trường hợp Tòa án cấp giám đốc thẩm không chấp nhận kháng cáo,
kháng nghị thì việc kháng cáo, kháng nghị tiếp theo đến Tòa án cấp giám đốc
thẩm đã bác là không được phép [81, Điều 412].
*. Về thủ tục tái thẩm:
Theo quy định tại Điều 413 thì căn cứ để tiến hành tố tụng theo thủ tục
tái thẩm là bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL có những tình tiết mới
hoặc những tình tiết mới được phát hiện, cụ thể:
40. 33
Tình tiết mới được phát hiện là những tình tiết đã tồn tại ở thời điểm
bản án hoặc quyết định khác của Tòa án có HLPL mà Tòa án không biết
được, sau khi bản án của Tòa án có HLPL mới phát hiện ra, đó là:
1. Việc khai báo gian dối của người bị hại hoặc người làm
chứng, kết luận giám định gian dối, những vật chứng, biên bản điều
tra, biên bản các hoạt động xét xử và những tài liệu khác là giả mạo
hoặc việc dịch gian dối dẫn đến việc ra bản án trái pháp luật, không
có căn cứ hoặc không công bằng, ra quyết định trái pháp luật hoặc
không có căn cứ;
2. Hành vi phạm tội của Điều tra viên, Dự thẩm viên hoặc
Kiểm sát viên dẫn đến việc ra bản án trái pháp luật, không có căn
cứ hoặc không công bằng, ra quyết định trái pháp luật hoặc không
có căn cứ; hoặc hành vi phạm tội của Thẩm phán được thực hiện
khi xét xử vụ án đó.
Tình tiết mới là những tình tiết loại trừ tội phạm và tính phải chịu hình
phạt của hành vi mà Tòa án không biết được ở thời điểm ra quyết định, đó là:
1. Tòa án Hiến pháp Liên bang Nga xác định rằng luật được áp
dụng trong vụ án đó không phù hợp với Hiến pháp Liên bang Nga;
2. Tòa án châu Âu về quyền con người xác định rằng có vi
phạm những quy định của Công ước bảo vệ quyền con người và các
quyền tự do cơ bản khi Tòa án Liên bang Nga xét xử vụ án hình sự
liên quan tới:
a. Việc áp dụng Luật liên bang không phù hợp với các quy định
của Công ước bảo vệ quyền con người và các quyền tự do cơ bản;
b. Những vi phạm khác vi phạm các quy định của Công ước
bảo vệ quyền con người và các quyền tự do cơ bản.
3. Những tình tiết mới khác [81].
41. 34
Về thời hạn tái thẩm, theo quy định tại Điều 414 thì việc xét lại bản án
theo thủ tục tái thẩm theo hướng có lợi cho người bị kết án là không bị hạn
chế về thời gian, kể cả trường hợp người bị kết án đã chết mà cần minh oan
cho họ; nhưng nếu xét lại bản án tuyên bị cáo vô tội hoặc quyết định đình chỉ
vụ án hoặc bản án kết tội có hình phạt quá nhẹ hoặc cần áp dụng luật hình sự
đối với người bị kết án về tội nặng hơn thì chỉ được tiến hành trong thời hiệu
truy cứu trách nhiệm hình sự và trong thời hạn không quá 01 năm kể từ ngày
phát hiện được những tình tiết mới.
Như vậy, pháp luật TTHS Liên bang Nga có nhiều quy định tương tự
như pháp luật TTHS Việt Nam, như đều quy định về hai thủ tục xem xét lại
bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL là giám đốc thẩm, tái thẩm; quy
định về căn cứ kháng nghị tái thẩm, thời hạn kháng nghị tái thẩm..., nhưng
khác với pháp luật TTHS Việt Nam, pháp luật TTHS Liên bang Nga không
quy định cụ thể về căn cứ, thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm và việc xét lại
bản án theo thủ tục giám đốc thẩm theo hướng không có lợi cho người bị kết
án là không được phép.
1.5.2. Luật TTHS nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa [82]
Khác với pháp luật TTHS Việt Nam và Liên bang Nga xây dựng hai
thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có HLPL là thủ tục giám đốc thẩm và thủ
tục tái thẩm, Luật TTHS nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chỉ quy định
thủ tục xét xử giám đốc thẩm đối với bản án hoặc quyết định đã có HLPL.
Theo quy định tại các Điều 203 và 204 thì đương sự hoặc người đại
diện pháp lý hoặc người thân thích của họ có thể nộp đơn yêu cầu đến Tòa án
hoặc VKS liên quan đến hiệu lực pháp lý của bản án, quyết định nhưng không
được đình chỉ việc thi hành bản án hoặc quyết định. TAND phải xét xử lại vụ
án nếu đơn yêu cầu của những người trên có một trong những căn cứ sau:
42. 35
1. Có chứng cứ mới chứng minh việc xác định các tình tiết
trong bản án hoặc quyết định ban đầu rõ ràng là sai;
2. Chứng cứ làm căn cứ cho việc buộc tội và tuyên phạt là
không đáng tin cậy và không đầy đủ, hoặc những chứng cứ quan
trọng để chứng minh trong vụ án có mâu thuẫn với nhau;
3. Việc áp dụng pháp luật khi ra bản án hoặc quyết định ban
đầu rõ ràng là sai; hoặc
4. Thẩm phán trong khi xét xử vụ án đã có hành vi tham ô,
hối lộ, hoặc lợi dụng chức vụ, quyền hạn để thu lợi cá nhân hoặc
làm sai lệch pháp luật khi ra bản án [82].
Theo quy định tại Điều 205 thì trường hợp VKSNDTC phát hiện những
sai sót trong bản án hoặc quyết định đã có HLPL của TAND các cấp hoặc
VKS cấp trên phát hiện những sai sót trong bản án hoặc quyết định đã có
HLPL của TAND cấp dưới thì có quyền kháng nghị bản án hoặc quyết định
đó đến Tòa án cùng cấp theo thủ tục giám đốc thẩm. TAND đã nhận kháng
nghị phải thành lập hội đồng xét xử lại; nếu các tình tiết làm cơ sở cho phán
quyết ban đầu là không rõ ràng hoặc chứng cứ không đầy đủ thì có thể yêu
cầu Tòa án cấp dưới xét xử lại.
Đối với Tòa án, nếu phát hiện thấy bản án và quyết định đã có HLPL
có sai sót trong khi đánh giá các tình tiết hoặc áp dụng pháp luật thì Chánh án
TAND các cấp có quyền yêu cầu Ủy ban Thẩm phán giải quyết. Nếu
TANDTC phát hiện thấy những sai sót trong bản án hoặc quyết định đã có
HLPL của TAND cấp dưới, hoặc nếu Tòa án cấp cao hơn phát hiện thấy
những sai sót trong bản án hoặc quyết định đã có HLPL của TAND cấp dưới
thì có quyền lấy vụ án lên để xét xử hoặc yêu cầu Tòa án cấp dưới xét xử lại.
Như vậy, luật TTHS nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quy định
VKS có thẩm quyền kháng nghị bản án hoặc quyết định đã có HLPL, nhưng
43. 36
không quy định về thời hạn kháng nghị theo hướng có lợi hay không có lợi
đối với người bị kết án, hệ quả pháp lý của việc kháng nghị như quy định của
pháp luật TTHS Việt Nam.
1.5.3. BLTTHS Cộng hòa Liên bang Đức [80]
BLTTHS Cộng hòa Liên bang Đức chỉ quy định một thủ tục duy nhất
để xét lại bản án của Tòa án đã có HLPL là thủ tục tái thẩm. Trên cơ sở lợi
ích của người bị kết án, BLTTHS Đức có sự phân biệt căn cứ kháng nghị tái
thẩm theo hai trường hợp sau:
Một là, vì lợi ích của người bị kết án, Điều 359 quy định Tòa án tiến
hành thủ tục tái thẩm khi có một trong những căn cứ sau đây:
1. Nếu một tài liệu được đưa ra có giá trị như là một tài liệu
nguyên gốc tác động xấu đến người bị kết án tại phiên tòa chính
thức là tài liệu bị sai hoặc bị làm giả;
2. Nếu người làm chứng hoặc người giám định, khi đưa ra lời
khai hoặc quan điểm tác động xấu đến người bị kết án, cố ý làm trái
hoặc vi phạm cẩu thả nghĩa vụ đưa ra lời khai, lời khai không được
đảm bảo;
3. Nếu Thẩm phán hoặc Thẩm phán không chuyên đã tham
gia vào việc dự thảo bản án mà vi phạm nghĩa vụ Thẩm phán đến
mức cấu thành tội phạm đối với vụ án đó, trừ khi vi phạm đó bắt
nguồn từ chính người bị kết án;
4. Nếu bản án của Tòa án dân sự mà bản án hình sự dựa vào
bản án này bị hủy bỏ bằng một bản án khác có hiệu lực;
5. Nếu có tình tiết mới hoặc chứng cứ mới được đưa ra là
chứng cứ hoàn toàn độc lập hoặc có liên quan tới những chứng
trước đây đã được đưa ra chứng minh cho sự vô tội của người bị kết
44. 37
án hoặc chứng minh việc cần phải áp dụng quy định hình sự ít
nghiêm khắc, hình phạt nhẹ hơn hoặc một quyết định hoàn toàn
khác về biện pháp cải tạo và phòng ngừa;
6. Nếu Tòa án nhân quyền châu Âu chứng minh được rằng đã
có những vi phạm Công ước châu Âu về việc bảo vệ quyền con
người và tự do hoặc vi phạm nghị định thư của Công ước đó và nếu
bản án đã đưa ra dựa trên những vi phạm đó [80].
Hai là, đối với những thiệt hại của bị cáo, Điều 362 quy định Tòa án
tiến hành thủ tục tái thẩm khi có một trong những căn cứ sau đây:
1. Nếu một tài liệu nguyên gốc được đưa ra liên quan tới lợi ích
của người bị kết án tại phiên tòa chính thức đã bị sai hoặc bị giả mạo;
2. Nếu người làm chứng hoặc người giám định, khi đưa ra lời
khai hoặc quan điểm tác động xấu đến người bị kết án, cố ý làm trái
hoặc vi phạm cẩu thả nghĩa vụ đưa ra lời khai, lời khai không được
đảm bảo;
3. Nếu Thẩm phán hoặc Thẩm phán không chuyên đã tham
gia vào việc dự thảo bản án mà vi phạm nghĩa vụ Thẩm phán đến
mức cấu thành tội phạm đối với vụ án đó, trừ khi vi phạm đó bắt
nguồn từ chính người bị kết án;
4. Nếu người được tuyên vô tội đưa ra lời thú tội tin cậy
trong hoặc ngoài Tòa án rằng người đó đã phạm tội [80].
Như vậy, mục đích của thủ tục tái thẩm là vì lợi ích của người bị kết án,
đòi hỏi phải có những căn cứ do luật định để chứng minh phán quyết của Tòa
án đã có HLPL là sai lầm, nên cần phải huỷ phán quyết đó. Khác với
BLTTHS Việt Nam phân biệt căn cứ mở thủ tục giám đốc thẩm và căn cứ mở
thủ tục tái thẩm, BLTTHS Đức chỉ xây dựng một thủ tục xét lại phán quyết đã
có HLPL nên các căn cứ mở thủ tục tái thẩm bao gồm cả sai lầm trong việc áp
dụng pháp luật và các tình tiết mới được phát hiện sau khi bản án có HLPL,
45. 38
tác động đến tình trạng pháp lý của người bị kết án theo chiều hướng có lợi và
phù hợp với mục đích của việc tái thẩm.
Điều 365 BLTTHS Đức công nhận quyền kháng cáo tái thẩm của người
bị kết án và quyền kháng nghị tái thẩm của cơ quan công tố, nhưng lại không
quy định quyền kháng cáo tái thẩm của người bị hại. Người bào chữa của
người bị kết án có thể thay mặt họ thực hiện quyền kháng cáo, nhưng không
được trái với ý chí của người bị kết án. Cơ quan công tố chỉ được kháng nghị
tái thẩm để bảo vệ lợi ích của người bị kết án và kháng nghị này không được
phép huỷ bỏ nếu không có sự đồng ý của người bị kết án. Theo Điều 361 thì
thủ tục tái thẩm cũng có thể được mở để bảo vệ lợi ích cho người bị kết án
ngay cả khi người bị kết án đã chết. Trong trường hợp này, vợ, chồng, anh, chị,
em của người chết có quyền đưa ra yêu cầu mở thủ tục tái thẩm [80].
Tương tự như pháp luật TTHS Việt Nam quy định việc kháng nghị theo
thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm không mặc nhiên làm mất hiệu lực thi hành
của bản án, quyết định đã có HLPL, trừ khi người đã kháng nghị tạm đình chỉ
thi hành bản án, quyết định đó. Điều 360 BLTTHS Đức cũng quy định việc
yêu cầu mở thủ tục tái thẩm không ảnh hưởng đến hiệu lực thi hành của bản
án đã có HLPL, nhưng Tòa án có thể ra lệnh hoãn hoặc tạm đình chỉ việc thi
hành bản án đã có HLPL nếu thấy bản án này có thể sẽ bị huỷ hoặc sửa, nếu
tiếp tục thi hành sẽ làm cho việc tái thẩm không đạt được mục đích bảo vệ lợi
ích cho người bị kết án.
Về hình thức yêu cầu mở thủ tục tái thẩm có thể được trình bày bằng
văn bản hoặc bằng lời (khoản 2 Điều 366). Kháng nghị tái thẩm của cơ quan
công tố phải làm thành văn bản. Người kháng cáo tái thẩm có thể nộp đơn
theo mẫu, có chữ ký của luật sư hoặc người bào chữa, nếu họ kháng cáo bằng
lời thì Thư ký Tòa án phải ghi âm lại.
Nội dung yêu cầu mở thủ tục tái thẩm phải thể hiện rõ các căn cứ pháp