SlideShare a Scribd company logo
1 of 136
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN NHƢ QUỲNH
B¶O §¶M QUYÒN CON NG¦êI
CñA nh÷ng NG¦êI BÞ H¹N CHÕ QUYÒN Tù DO
TRONG luËt Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN NHƢ QUỲNH
B¶O §¶M QUYÒN CON NG¦êI
CñA nh÷ng NG¦êI BÞ H¹N CHÕ QUYÒN Tù DO
TRONG luËt Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN ĐỨC PHÚC
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn
học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có
thể bảo vệ luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Nhƣ Quỳnh
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng, sơ đồ
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 1
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài............................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu................................................................ 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài....................................................... 5
5. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu ............................................. 5
6. Đóng góp khoa học của luận văn.................................................................. 6
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn..................................................... 6
8. Kết cấu của luận văn ..................................................................................... 6
Chƣơng 1. LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CON NGƢỜI VÀ BẢO ĐẢM
QUYỀN CON NGƢỜI CỦA NGƢỜI BỊ HẠN CHẾ QUYỀN TỰ DO
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ....................................................................... 7
1.1. Nhận thức về quyền con ngƣời của ngƣời bị hạn chế quyền tự do
trong tố tụng hình sự................................................................................... 7
1.1.1. Khái niệm và phân loại quyền con người ....................................... 7
1.1.2. Khái niệm quyền tự do và người bị hạn chế quyền tự do trong tố
tụng hình sự Việt Nam ............................................................................10
1.1.3. Khái niệm, đặc điểm quyền con người của người bị hạn chế quyền
tự do trong tố tụng hình sự......................................................................15
1.2. Khái niệm, nội dung, vai trò bảo đảm quyền con ngƣời của ngƣời
bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự ........................................18
1.2.1. Khái niệm bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế quyền
tự do trong tố tụng hình sự......................................................................18
1.2.2. Nội dung bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự
do trong tố tụng hình sự ..........................................................................20
1.2.3. Vai trò của việc bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế
quyền tự do trong tố tụng hình sự ...........................................................37
1.3. Bảo đảm quyền con ngƣời của ngƣời bị hạn chế quyền tự do ở một
số nƣớc trên thế giới và những giá trị có thể vận dụng ở Việt Nam ....39
1.3.1. Quy định về quyền con người ở một số nước trên thế giới ..........39
1.3.2. Những giá trị có thể vận dụng ở Việt Nam về bảo đảm quyền con
người của người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự..............41
Kết luận Chƣơng 1........................................................................................45
Chƣơng 2. QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM
QUYỀN CON NGƢỜI CỦA NGƢỜI BỊ HẠN CHẾ QUYỀN TỰ DO
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ...............................................46
2.1. Quy định pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền con ngƣời của
ngƣời bị hạn chế quyền tự do...................................................................46
2.1.1. Quy định pháp luật Việt Nam trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình
sự 2003 liên quan tới bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế quyền
tự do.........................................................................................................46
2.1.2. Quy định pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ khi ban hành bộ
luật tố tụng hình sự 2003 liên quan tới bảo đảm quyền con người của
người bị hạn chế quyền tự do..................................................................49
2.2. Thực trạng bảo đảm quyền con ngƣời của ngƣời bị hạn chế quyền
tự do trong tố tụng hình sự Việt Nam .....................................................60
2.2.1. Bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do thông
qua áp dụng các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự.........................60
2.2.2. Bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do trong
áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam.............................63
2.2.3. Bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do trong
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự........................................67
2.2.4. Bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do thông
qua áp dụng các quy định về quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và
quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng hình sự.....75
2.3. Nhận xét, đánh giá chung về bảo đảm quyền con ngƣời của ngƣời
bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự Việt Nam.......................77
2.3.1. Ưu điểm của bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế
quyền tự do trong tố tụng hình sự Việt Nam ..........................................77
2.3.2. Một số hạn chế trong bảo đảm quyền con người của người bị hạn
chế quyền tự do trong tố tụng hình sự Việt Nam....................................79
2.3.3. Nguyên nhân của một số hạn chế trong bảo đảm quyền con người
của người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự Việt Nam........80
Kết luận Chƣơng 2........................................................................................85
Chƣơng 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG BẢO ĐẢM
QUYỀN CON NGƢỜI CỦA NGƢỜI BỊ HẠN CHẾ QUYỀN TỰ DO
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ...............................................86
3.1. Quan điểm nhằm tăng cƣờng bảo đảm quyền con ngƣời của ngƣời
bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự Việt Nam.......................86
3.2. Giải pháp tăng cƣờng bảo đảm quyền con ngƣời của ngƣời bị hạn
chế quyền tự do trong tố tụng hình sự Việt Nam...................................91
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện những quy định của pháp luật tố tụng hình sự có liên
quan đến việc bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do.91
3.2.2. Nâng cao nhận thức, trình độ của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm
phán và Hội thẩm.....................................................................................98
3.2.3. Tăng cường hướng dẫn áp dụng bộ luật tố tụng hình sự, tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhân dân............................100
3.2.4. Tăng cường xử lý vi phạm, khắc phục kịp thời các hậu quả của vi
phạm quyền con người do hoạt động tố tụng hình sự gây ra................103
3.2.5. Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật trong tố tụng hình sự nhằm
bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do ..............106
3.2.6. Tăng cường vai trò của người bào chữa nhằm bảo đảm quyền con người
của người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự .............................. 109
3.2.7. Tăng cường công tác giám sát của các cơ quan tiến hành tố tụng,
các tổ chức, cá nhân trong bảo đảm quyền con người của người bị hạn
chế quyền tự do trong tố tụng hình sự...................................................109
3.2.8. Tăng cường hợp tác quốc tế và trao đổi về kinh nghiệm lập pháp
hình sự về bảo vệ quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do..109
Kết luận Chƣơng 3......................................................................................111
KẾT LUẬN..................................................................................................112
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................113
PHỤ LỤC.....................................................................................................117
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS: Bộ luật hình sự
BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
HĐTT: Hoạt động tố tụng
QCN: Quyền con người
TAND: Tòa án nhân dân
THTT: Tiến hành tố tụng
TTHS: Tố tụng hình sự
VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG, SƠ ĐỒ
Số hiệu
bảng, sơ đồ
Tên bảng, sơ đồ Trang
Bảng 2.1: Tình hình bắt, tạm giữ, tạm giam 126
Bảng 2.2: Tình hình khởi tố 126
Bảng 2.3: Số bị cáo Tòa án tuyên không tội 126
Bảng 2.4: Số bị cáo Tòa án tuyên không tội VKS đã kháng nghị 127
Bảng 2.5: Tình hình điêu tra của CQĐT 127
Sơ đồ 2.1: Hệ thống tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 124
Sơ đồ 2.2: Hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân 125
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người là thành quả phát triển của lịch sử lâu dài trong sự nghiệp
đấu tranh giải phóng, cải tạo xã hội và cải tạo thiên nhiên của cả nhân loại. Trong
xu hướng toàn cầu hóa về kinh tế, giao lưu hợp tác nhiều mặt đang luôn được mở
rộng, QCN ở mỗi quốc gia có giá trị chung giống nhau và là mục đích hướng tới
của nhân loại. Đảm bảo QCN là một trong những nội dung quan trọng, nhằm mục
đích xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Hiện nay, Đất
nước ta đang trên đường đổi mới để xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Để đạt được điều đó, một yêu cầu đặt ra
đối với pháp luật là phải bảo đảm QCN, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân trong đó đặc biệt bảo đảm QCN đối với nhóm yếu thế trong tố tụng hình
sự - người bị hạn chế quyền tự do.
Theo tinh thần Hiến pháp 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
quy định:
Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người,
quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được công
nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. quyền con
người, quyền công dân chỉ có thế bị hạn chế theo quy định của luật trong
trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn
xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng [39, Điều 14].
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ chính trị “Về chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020” cũng khẳng định:
Đòi hỏi của công dân và xã hội đối với cơ quan tư pháp ngày càng
cao; các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc
bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời phải là công cụ hữu hiệu bảo
vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các
loại tội phạm và vi phạm [3].
Việc tiến hành các hoạt động tố tụng hình sự bao giờ cũng tiềm ẩn trong nó
2
ít nhất hai loại nguy cơ. Nguy cơ thứ nhất là sự xung đột lợi ích giữa một bên là
lợi ích của số đông mà đại diện là các cơ quan tiến hành tố tụng, và bên kia là lợi
ích của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, những người bị tình nghi là đã thực hiện
hành vi phạm tội. Nguy cơ thứ hai là nguy cơ lạm dụng quyền lực của những cơ
quan và cá nhân được pháp luật giao cho rất nhiều quyền hành và công cụ. Chính
vì vậy, vấn đề bảo vệ QCN cơ bản của các đối tượng bị hạn chế quyền tự do là
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong quá trình tố tụng, trao cho họ những quyền
năng tố tụng để họ có thể tự bảo vệ mình thông qua việc đòi hỏi một sự phán xét
công minh từ phía Nhà nước là một vấn đề hết sức được chú trọng trong các văn
kiện quốc tế quan trọng nhất về QCN cũng như trong pháp luật TTHS của đa số
các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Hoạt động tố tụng hình sự là một mặt hoạt động của Nhà nước liên quan chặt
chẽ với QCN. Hoạt động TTHS là nơi các biện pháp cưỡng chế Nhà nước được áp
dụng phổ biến nhất; vì vậy là nơi QCN của các chủ thể tố tụng, đặc biệt là người bị hạn
chế quyền tự do có nguy cơ dễ bị xâm hại. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử trong
những năm qua cho thấy rằng cũng còn nhiều trường hợp vi phạm QCN đối với người
bị hạn chế quyền tự do trong quá trình tiến hành tố tụng.
Vì vậy, có thể nói nghiên cứu việc bảo đảm QCN đối với người bị hạn chế quyền
tự do trong TTHS từ góc độ lập pháp cũng như áp dụng pháp luật có vai trò quan trọng
trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói
chung, công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta nói riêng. Với lý do trên, tôi đã lựa chọn đề
tài “Bảo đảm quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do trong luật tố
tụng hình sự Việt Nam” làm luận văn Thạc sĩ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Quyền con người là sự kết tinh những giá trị cao đẹp nhất trong nền văn hóa
của nhân loại và được bảo vệ trong bất cứ hoàn cảnh nào, trên bất kỳ lĩnh vực nào
của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực pháp lý. Vì vậy, vấn đề bảo đảm QCN nói
chung, QCN trong hoạt động TTHS đã được nhiều tác giả nghiên cứu từ các góc độ
và với các mức độ khác nhau.
3
Ở góc độ nghiên cứu về bảo đảm QCN nói chung trong Nhà nước pháp
quyền, đã có các công trình "Quyền con người trong thế giới hiện đại" của nguyên
Giám đốc trung tâm QCN Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh GS.TS. Hoàng
Văn Hảo và Phạm Ích Khiêm; công trình "Triết học chính trị về Quyền con người "
của Nguyễn Văn Vĩnh; công trình " Quyền con người, quyền công dân trong Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” của GS.TS. Trần Ngọc Đường; bài
báo "Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với việc bảo đảm Quyền con
người " của TS. Tường Duy Kiên; chuyên khảo "Quyền lực Nhà nước và Quyền con
người " của PGS. TS. Đinh Văn Mậu; các công trình của GS. TSKH Lê Văn Cảm
về Nhà nước pháp quyền, về bảo đảm QCN trong Nhà nước pháp quyền; giáo trình
“Lý luận và pháp luật về Quyền con người” của PGS. TS. Nguyễn Đăng Dung,
ThS. Vũ Công Giao, ThS. Lã Khánh Tùng đồng chủ biên.
Góc độ pháp luật chuyên ngành nghiên cứu những đảm bảo QCN trong hoạt
động tư pháp cũng như trong hoạt động tố tụng sự có các công trình nghiên cứu sau:
Cấp độ luận án tiến sỹ luật học có các đề tài: "Bảo đảm Quyền con người
trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Huy Hoàn, 2005.
Bên cạnh đó, về giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận có các công trình
sau: Công trình nghiên cứu khoa học cấp Đại học quốc gia “ Bảo vệ Quyền con
người bằng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự trong giai đọan xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt Nam” do GS.TSKH. Lê Văn Cảm, TS. Nguyễn Ngọc
Chí, TS. Trịnh Quốc Tỏan đồng chủ trì; báo cáo "Bảo đảm Quyền con người trong
tố tụng hình sự trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam" tại Hội thảo về QCN trong TTHS (do VKSND tối cao và Ủy ban nhân
quyền Australia tổ chức tháng 3-2010) của PGS. TS. Nguyễn Thái Phúc; chuyên
khảo "Bảo vệ Quyền con người trong luật hình sự, luật tố tụng hình sự Việt Nam"
của TS. Trần Quang Tiệp; chuyên khảo "Những nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng
hình sự Việt Nam" của PGS.TS. Hòang Thị Sơn và TS. Bùi Kiên Điện; các bài báo
của GS.TSKH Lê Văn Cảm "Những vấn đề lý luận về bảo vệ Quyền con người
bằng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự"; bài báo “Thực hiện dân chủ trong
4
tố tụng hình sự trong bối cảnh cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay” của PGS.TS
Nguyễn Mạnh Kháng; bài báo "Nguyên tắc suy đoán vô tội" của PGS. TS. Nguyễn
Thái Phúc; v.v.
Ngoài ra, một số tác giả nghiên cứu ở các góc độ khác nhau, trong đó phải kể
đến: chuyên khảo “Bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương trong tố tụng hình sự” của
Trung tâm nghiên cứu quyền con người – quyền công dân và Trung tâm nghiên cứu
tội phạm học và Tư pháp hình sự, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội năm 2011.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, khảo sát trên đây cho thấy, ở nước ta đã có
một số công trình nghiên cứu cơ bản và trực tiếp về bảo đảm QCN nói chung, bảo
đảm QCN trong hoạt động tư pháp. Các công trình nghiên cứu trên đề cập đến
nhiều khía cạnh khác nhau về các quy định của pháp luật áp dụng (luật nội dung)
đối với một số đối tượng bị hạn chế quyền tự do, nhưng chưa có công trình nào
nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về bảo đảm QCN của người bị hạn
chế quyền tự do trong TTHS Việt Nam. Ðiều này cho thấy sự cần thiết phải tiếp tục
nghiên cứu sâu hơn, toàn diện hơn nữa để từng bước hoàn thiện quy định của pháp
luật TTHS Việt Nam để bảo vệ quyền cho người bị hạn chế quyền tự do là việc làm
cần thiết và có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận bảo đảm QCN trong TTHS nói
chung từ đó đánh giá một cách khách quan thực trạng quy định pháp luật cũng như
thực tiễn hoạt động TTHS trong bảo đảm QCN của người bị hạn chế quyền tự do.
Làm sáng tỏ những bất cập hạn chế, để đưa ra những kiến nghị và giải pháp tăng
cường bảo đảm QCN của người bị hạn chế quyền tự do trong TTHS Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, trong quá trình nghiên cứu luận văn
cần giải quyết những vấn đề sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về QCN, bảo đảm QCN và bảo đảm QCN của
người bị hạn chế quyền tự do trong TTHS;
5
- Phân tích quy định của Bộ luật TTHS Việt Nam liên quan đến bảo đảm
QCN của người bị hạn chế quyền tự do và thực tiễn áp dụng các quy định đó; tìm ra
những hạn chế và bất cập về bảo đảm QCN của người bị hạn chế quyền tự do trong
thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự.
- Đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS
Việt Nam và tăng cường bảo đảm QCN của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong
hoạt động TTHS.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài
4.1.Đối tượng nghiên cứu
Ðối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn bảo
đảm QCN của người bị hạn chế quyền tự do trong TTHS Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Nghiên cứu phạm vi cả nước liên quan đến bảo đảm
QCN của người bị hạn chế quyền tự do.
- Phạm vi thời gian: Thực tiễn tố tụng từ năm 2010 đến tháng 6/2015.
- Phạm vi nội dung: Tập trung chủ yếu vào bảo đảm QCN của người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo. Nội dung đảm bảo quyền tập trung vào bảo đảm pháp lý, bao
gồm các quy định pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về QCN của người bị
hạn chế quyền tự do trong TTHS.
Luận văn không đi sâu nghiên cứu các bảo đảm khác như bảo đảm về chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
5. Cơ sở lý luận và các phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Đường lối quan điểm của Đảng và
chính sách pháp luật của Nhà nước ta về bảo đảm QCN nói chung và bảo đảm QCN
của người bị hạn chế quyền tự do trong TTHS nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác-
6
Lênin (duy vật biện chứng và duy vật lịch sử), tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan
điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước và Pháp luật, về Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa, về bảo đảm QCN. Việc nghiên cứu được thực hiện từ góc độ lý
luận chung về QCN nói chung và từ góc độ TTHS nói riêng. Các phương pháp
nghiên cứu: Phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, lịch sử, logic, thống kê, so
sánh pháp luật, xã hội học.
6. Đóng góp khoa học của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống và tương đối toàn
diện về vấn đề bảo đảm QCN của người bị hạn chế quyền tự do trong TTHS ở Việt
Nam hiện nay. Vì vậy, luận văn có những đóng góp khoa học mới sau:
- Trên cơ sở hệ thống hoá, phân tích khái niệm QCN, làm rõ thêm khái niệm,
đặc trưng của QCN trong TTHS.
- Phân tích khái niệm, đặc trưng của bảo đảm QCN.
- Phân tích, làm rõ khái niệm, nội dung đảm bảo QCN của những người bị
hạn chế quyền tự do theo quy định của luật TTHS.
- Luận văn đánh giá toàn diện tìm ra những nguyên nhân tồn tại thiếu sót của
thực trạng đảm bảo QCN của người bị hạn chế quyền tự do theo quy định của luật
TTHS ở Việt Nam, đề xuất những quan điểm, giải pháp tăng cường đảm bảo QCN
của người bị hạn chế quyền tự do trong TTHS Việt Nam.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Nội dung và kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện hệ thống
pháp luật và đảm bảo QCN. Ngoài ra luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu
tham khảo cho việc tăng cường bảo đảm QCN trong TTHS ở Việt Nam hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội
dung của Luận văn gồm 03 chương 8 tiết.
7
Chương 1
LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CON NGƢỜI VÀ BẢO ĐẢM QUYỀN
CON NGƢỜI CỦA NGƢỜI BỊ HẠN CHẾ QUYỀN TỰ DO
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Nhận thức về quyền con ngƣời của ngƣời bị hạn chế quyền tự do
trong tố tụng hình sự
1.1.1. Khái niệm và phân loại quyền con người
1.1.1.1. Khái niệm quyền con người
Quan niệm về quyền con người, trong lịch sử chính trị- tư tưởng của nhân
loại, thuật ngữ QCN (nhân quyền) thường được sử dụng, nhưng cho đến nay
chưa có quan niệm thống nhất. Ngay từ thời cổ đại đã có sự bàn luận về các
quyền. Tuy nhiên, phải đến thế kỷ XVII, XVIII, quyền con người mới được các
nhà tư tưởng bàn đến như một học thuyết.
Khi bàn đến QCN, Jaeque Mourgeon trong cuốn "Các QCN" đã cho rằng:
QCN trước hết được hiểu là những đặc quyền tự nhiên mà con người có. Đó là khả
năng hành động có ý thức, trách nhiệm nhất là tự bảo vệ. Nhưng bản thân đặc quyền
(quyền tự nhiên) chưa phải là QCN. Mà để đạt đến cái gọi là "quyền" thì phải có yếu
tố thứ hai là pháp luật. Chỉ khi được pháp luật ghi nhận thì các đặc quyền của cá nhân
mới trở thành đối tượng điều chỉnh của pháp luật và như vậy mới trở thành QCN.
Trên cơ sở quan niệm đúng đắn và khoa học về con người, C. Mác đã xác
định con người là một thực thể thống nhất, một “sinh vật – xã hội”. Do đó, QCN là
sự thống nhất biện chứng giữa “quyền tự nhiên” (như một đặc quyền vốn có và chỉ
con người mới có) và “quyền xã hội” – sự chế định bằng các quy chế pháp lý nhằm
điều chính các mối quan hệ xã hội. Vì vậy trong điều kiện ngày nay, việc đưa ra
khái niệm đúng đắn về QCN phải giải quyết được các quan hệ giữa cá nhân với xã
hội, giữa tính nhân loại với tính giai cấp, giữa các giá trị đạo đức với pháp luật và
quyền lực, giữa quan hệ quốc tế với lợi ích quốc gia, giữa khả năng và nhu cầu tự
nhiên với những nỗ lực chủ quan.
8
Năm 1776, lần đầu tiên các QCN được ghi nhận trong Tuyên ngôn độc lập
của Mỹ: "Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng, tạo hóa cho họ những
quyền không ai có thể xâm phạm được, trong đó có quyền sống, quyền tự do và mưu
cầu hạnh phúc". Năm 1791, trong Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền Pháp,
QCN tiếp tục được xác định: "Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và
phải được tự do bình đẳng về quyền lợi"... Từ đó các tiêu chí về QCN từng bước
được các quốc gia thừa nhận và quy định trong pháp luật của nước mình.
Về khái niệm QCN, ở cấp độ quốc tế, có một định nghĩa của Văn phòng Cao
ủy Liên hợp quốc về QCN (Office of High Commissioner for Human Rights –
OHCHR) thường được trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu. Theo định nghĩa này,
QCN là những bảo đảm pháp lý toàn cầu (universal legal guarantees) có tác dụng
bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động (actions) hoặc sự bỏ
mặc (omissions) mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép (entitlements)
và tự do cơ bản (fundamental freedoms) của con người.
Bên cạnh định nghĩa kể trên, một định nghĩa khác cũng thường được trích
dẫn, theo đó, QCN là những sự được phép (entitlements) mà tất cả thành viên của
cộng đồng nhân loại, không phân biệt giới tính, chủng tộc, tôn giáo, địa vị xã hội...;
đều có ngay từ khi sinh ra, đơn giản chỉ vì họ là con người. Định nghĩa này mang
dấu ấn của học thuyết về các quyền tự nhiên. Trong ý nghĩa ban đầu, thuyết pháp
luật tự nhiên ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu tự do của con người; khẳng định QCN là
tự nhiên, vốn có, nhằm đối lập, phủ nhận quan niệm QCN tự do vương quyền và
thần quyền ban phát, tặng cho quyền tự nhiên.
Ở nước ta, vấn đề QCN đã được nghiên cứu và phản ánh một cách phong
phú và đa dạng thể hiện trong các tài liệu, văn kiện của Đảng, Nhà nước và các văn
bản pháp luật.
Theo Từ điển tiếng Việt 1992 thì quyền là “điều mà pháp luật hoặc xã hội
công nhận cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi”.
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ pháp lý thông dụng: "QCN là các quyền
tất yếu mà con người phải được hưởng và các quốc gia phải tôn trọng".
9
Như vậy, QCN là những điều mà pháp luật hoặc xã hội công nhận cho mỗi
con người được hưởng. QCN được đặt trong mối quan hệ với nghĩa vụ, trách nhiệm
của mỗi cá nhân đối với xã hội và được giải quyết trên cơ sở đảm bảo lợi ích xã hội.
Bảo đảm QCN là bảo đảm dân chủ, bảo đảm hiệu quả, hiệu lực nhà nước cũng như
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Đây là mục tiêu mà Đảng và Nhà nước ta
luôn hướng tới. Việc bảo đảm các QCN, quyền công dân phụ thuộc vào nhiều yếu
tố như: kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng... trong đó nhà nước bảo đảm về mặt
pháp lý, các cơ quan tố tụng bảo đảm thực thi pháp luật có hiệu quả là vấn đề cực
kỳ quan trọng.
Dù định nghĩa các chuyên gia, cơ quan nghiên cứu nêu ra không hoàn toàn
giống nhau, nhưng xét chung, QCN thường được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự
nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật
quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế.
1.1.1.2. Phân loại quyền con người
Trong khoa học pháp lý, căn cứ vào nội dung của nó, QCN được chia thành
các nhóm cơ bản sau đây:
- Các quyền chính trị bao gồm quyền tham gia quản lý Nhà nước và thảo
luận các vấn đề chung của cả nước, quyền bầu cử và ứng cử, quyền tự do ngôn luận,
quyền tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, quyền lập hội, quyền được thông tin, quyền
biểu tình, quyền bình đẳng nam nữ, quyền khiếu nại, tố cáo v.v…;
- Các quyền dân sự (các quyền tự do cá nhân) bao gồm quyền bất khả xâm
phạm về thân thể, về chỗ ở, quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe,
nhân phẩm, danh dự, quyền được bảo đảm an toàn và bí mật về thư tín, điện thoại,
điện tín, quyền tự do đi lại và cư trú v.v…;
- Các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội bao gồm quyền học tập, lao động, quyền
tự do kinh doanh, quyền sở hữu tài sản hợp pháp, quyền phát minh, sáng chế, quyền
được bảo vệ sức khỏe, quyền được bảo hộ về hôn nhân, gia đình, các quyền của các
đối tượng đặc biệt như thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, người già, trẻ em,
người tàn tật không nơi nương tựa v.v…
10
Ngoài ra, căn cứ vào mức độ điều chỉnh của pháp luật, QCN được phân
thành các quyền cơ bản và các quyền pháp lý khác:
- Quyền cơ bản của công dân (hay quyền hiến định) là các quyền quan trọng
nhất, cơ bản nhất thể hiện mối quan hệ cơ bản nhất giữa Nhà nước và công dân
được ghi nhận trong Hiến pháp, làm cơ sở cho việc cụ thể hóa các quyền pháp lý
khác. Trong Hiến pháp nước ta năm 1992, các quyền cơ bản của công dân được quy
định tại Chương V bao gồm các quyền chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội;
- Quyền pháp lý khác là sự cụ thể hóa các quyền cơ bản của công dân trong
các lĩnh vực pháp lý khác nhau được ghi nhận trong các văn bản pháp luật cụ thể.
Ví dụ: QCN trong lĩnh vực hình sự, QCN trong lĩnh vực hành chính, QCN trong
lĩnh vực lao động… Các QCN cụ thể này được cụ thể hóa trên cơ sở các quyền cơ
bản và không trái với các quyền cơ bản được Hiến pháp quy định, thể hiện sự nhất
quán của Nhà nước ta trong ghi nhận và bảo đảm QCN, quyền công dân. QCN và
việc bảo đảm các QCN trong các lĩnh vực pháp lý cụ thể được quy định phụ thuộc
vào tính chất của ngành luật và chức năng của Nhà nước trong lĩnh vực đó. Ví dụ:
QCN trong lĩnh vực TTHS được quy định trên cơ sở cân nhắc rằng hoạt động
TTHS gắn liền với vi phạm pháp luật nghiêm trọng nhất là tội phạm và chức năng
của Nhà nước là phát hiện nhanh chóng, kịp thời và xử lý công minh người phạm
tội; nhưng đồng thời hoạt động TTHS cũng liên quan rất nhiều tới các quyền cơ
bản của con người v.v…
Một điều đáng lưu ý trong nghiên cứu việc bảo đảm QCN là các QCN liên
quan rất chặt chẽ với nhau, chúng tác động lên nhau rất lớn. Đặc biệt đóng vai trò
quan trọng là các quyền cơ bản được Hiến pháp quy định; chúng có tác động quyết
định đến việc bảo đảm thực hiện các QCN khác. Mất QCN là mất nhiều quyền
chính trị khác như quyền bầu cử, quyền lập hội; quyền tự do thân thể bị xâm phạm
có thể ảnh hưởng đến quyền tự do đi lại, quyền lao động, quyền học tập v.v…
1.1.2. Khái niệm quyền tự do và người bị hạn chế quyền tự do trong tố
tụng hình sự Việt Nam
1.1.2.1.Khái niệm quyền tự do
Tố tụng hình sự là toàn bộ hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng,
11
người tham gia tố tụng và cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội nhằm giải
quyết vụ án khách quan, toàn diện, nhanh chóng, chính xác và đúng pháp luật. Hay
nói cách khác, TTHS là hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử.
Hoạt động TTHS là một quá trình nhằm giải quyết vụ án, trong đó có nhiều
giai đoạn khác nhau phù hợp với tính chất, đặc điểm của các cơ quan tiến hành tố
tụng. Quan điểm truyền thống ở nước ta cũng như ghi nhận của BLTTHS 2003 phân
chia quá trình đó thành bốn giai đoạn tương ứng với chức năng của các cơ quan tiền
hành tố tụng: khởi tố vụ án hình sự; điều tra và truy tố; xét xử; thi hành bản án và
quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án. Nhưng trong phạm vi nghiên cứu này,
tác giải không đưa thi hành ánh là một giai đoạn trong các giai đoạn của TTHS.
Như vậy, hoạt động TTHS là hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng và
người tiến hành tố tụng như Cơ quan điều tra và Điều tra viên, Viện kiểm sát và
Kiểm sát viên, Tòa án và Thẩm phán, Thư ký, Hội thẩm; nhưng tham gia vào quá
trình TTHS còn có những người tham gia tố tụng khác mà quyền và lợi ích của họ
có liên quan đến vụ án hoặc đến quá trình tố tụng như người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ
liên quan đến vụ án, người làm chứng v.v...
Từ xưa đến nay, tự do luôn là một khái niệm bí ẩn và trừu tượng đối với con
người. Đúng như tên gọi, tự do không chịu khuôn mình vào bất kỳ chiếc khung nào,
ngay cả trong những nỗ lực của các nhà triết học, các nhà khoa học ở mọi thời đại
nhằm mô tả và lý giải khái niệm tự do. Có lẽ vì thế, cho đến nay, tự do là cái gì đó
quen thuộc mà vẫn xa lạ đối với con người. Nhận thức của nhân loại về tự do mới
chỉ dừng lại ở những phát hiện của các nhà triết học thời kỳ Khai sáng. Trong khi
đó, với tư cách là một đối tượng triết học quan trọng, bên cạnh những nội dung
nguyên thuỷ, khái niệm tự do vẫn đang không ngừng vận động và ngày càng chứa
đựng thêm nhiều nội dung mới.
Có nhiều cách để định nghĩa về quyền tự do hay tự do. Khái niệm tự do trong
triết học được xem là một giá trị cao quý, cơ bản của nhân loại. Theo nhà triết học
Locke (John Locke 1632-1704) “Tự do là khả năng con người có thể làm bất cứ
12
điều gì mà mình mong muốn mà không gặp bất kỳ cản trở nào". Như vậy tự do ở
đây chỉ là khả năng của con người. Còn nhà triết học cận đại Hegel (G.W Friedrich
Hegel 1770-1831) thì cho rằng: “Tự do là cái tất yếu được nhận thức”. Như vậy, ở
đây tự do không chỉ là nhận thức mà cả ở hành động.
Khái niệm quyền tự do theo quan điểm của những người theo chủ nghĩa tự
do truyền thống chủ yếu là tự do của cá nhân khỏi sự ép buộc từ bên ngoài (tự do
khỏi sự câu thúc). Mặt khác, quan điểm của các nhà tự do xã hội nhấn mạnh nhu
cầu về sự bình đẳng xã hội và kinh tế. Họ gắn kết quyền tự do với sự phân phối
công bình quyền lực chính trị (dân chủ) xét trong mặt nghĩa của tự do tích cực. Họ
cho rằng tự do mà không có bình đẳng thì tương đương với việc những kẻ mạnh
nhất sẽ chiếm thế chi phối. Do đó, tự do và dân chủ được xem là cặp đôi gắn bó và
rút cục là tương phản nhau.
Như vậy, quyền tự do hoặc tự do (tiếng Latinh: libertati, tiếng Anh: liberty) -
là một khái niệm dùng trong triết học chính trị mô tả tình trạng khi một cá nhân
không bị sự ép buộc, có cơ hội để lựa chọn và hành động theo đúng với ý chí
nguyện vọng của chính mình.
1.1.2.2.Khái niệm người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự
Người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự là một loại người trong
nhóm người có nguy cơ bị xâm hại QCN cao, bao gồm những người mà QCN của
họ có khả năng dễ bị xâm hại cao hơn những loại người khác trong TTHS.
hại nhất định về thể chất, tinh thần, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác
Trong phạm vi nghiên cứu này, người bị hạn chế quyền tự do bao gồm người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là những người tham gia
tố tụng có vị trí trung tâm trong quá trình giải quyết vụ án. Họ là những người bị cơ
quan tiến hành tố tụng coi là người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được
BLHS quy định là tội phạm; tùy theo giai đoạn tố tụng khác nhau mà tên gọi cũng
như địa vị pháp lý (quyền và nghĩa vụ TTHS) của người đó cũng khác nhau.
+ Người bị tạm giữ: Theo điều 48 BLTTHS, người bị tạm giữ là người bị bắt
trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người bị bắt theo lệnh truy nã hoặc
13
người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ. Hay nói cách
khác, người bị tạm giữ là người bị nghi thực hiện tội phạm và đối với họ đã có
quyết định tạm giữ của người có thẩm quyền.
+ Bị can: Thuật ngữ bị can được sử dụng trong TTHS từ những văn bản tố
tụng đầu tiên của nước ta. Nhưng khái niệm pháp lý về bị can được quy định lần
đầu trong BLTTHS năm 1988 (điều 34) và được sử dụng lại nguyên văn trong
BLTTHS năm 2003. Theo điều 49 BLTTHS, bị can là người đã bị khởi tố về hình
sự. Bị can là người mà Cơ quan điều tra có đủ căn cứ xác định rằng đã thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội được BLHS quy định là tội phạm nên đã ra quyết
định khởi tố bị can. Kể từ thời điểm quyết định khởi tố bị can, tức Nhà nước thể
hiện sự buộc tội đối với con người cụ thể, bị can là người chính thức bị truy cứu
trách nhiệm hình sự, bị buộc tội. Đây là điểm khác biệt rất lớn giữa bị can và người
bị tạm giữ liên quan đến việc bảo đảm QCN của họ trong TTHS.
Một người chỉ có thế bị khởi tố với tư cách bị can trong vụ án hình sự khi có
đủ căn cứ xác định người đó đã thực hiện hành vi phạm tội. Việc xác định một
người có tư cách bị can từ khi nào là rất quan trọng. Vì khi một người phát sinh tư
cách bị can đồng nghĩa với việc người đó sẽ có các quyền và nghĩa vụ của bị can.
Theo quy định của pháp luật TTHS hiện hành thì bị can là người bị khởi tố về hình
sự và tham gia tố tụng từ khi có quyết định khởi tố bị can. Bị can sẽ tham gia vào
các giai đoạn điều tra, truy tố và một phần giai đoạn xét xử sơ thẩm. Tư cách tố tụng
của bị can sẽ chấm dứt khi Cơ quan điều tra đình chỉ điểu tra, Viện kiểm sát đình
chỉ vụ án, Tòa án đình chỉ vụ án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử đối với bị can hoặc
tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Khi một người bị khởi tố về hình sự thì họ
sẽ trở thành đối tượng bị buộc tội trong vụ án, điều này không đồng nghĩa với việc
xác định họ là người có tội. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc. BLTTHS 2003 quy
định: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội
của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” [36, Điều 9].
+ Bị cáo: Theo điều 50 BLTTHS, bị cáo là người đã bị Tòa án quyết định
đưa ra xét xử. Sau khi Cơ quan điều tra kết thúc điều tra, thấy rằng có đủ chứng cứ
14
để khẳng định rằng bị can đã phạm tội do BLHS quy định thì đề nghị Viện kiểm sát
truy tố ra trước Tòa án. Trong quá trình chuẩn bị xét xử,Thẩm phán được phân công
chủ tọa phiên tòa thấy rằng có đủ điều kiện để đưa vụ án ra xét xử mà không phải
trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung, không có căn cứ để đình chỉ hay
tạm đình chỉ vụ án thì ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Từ thời điểm này, bị can
trở thành bị cáo trong vụ án hình sự.
Cũng như bị can, bị cáo là người bị cứu trách nhiệm hình sự, bị buộc tội. Vì
vậy, địa vị pháp lý, tình trạng của bị cáo cũng giống như bị can; có nghĩa là bị cáo
cũng có khả năng bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng do BLTTHS quy
định, có nguy cơ bị xâm phạm các QCN cao, đã có sự buộc tội chính thức nên cần
có các quyền tương ứng để bào chữa, cho nên các biện pháp bảo đảm QCN đối với
bị can, bị cáo cơ bản giống nhau. Tuy nhiên, một điểm khác biệt quan trọng giữa
bị can và bị cáo là bị cáo tham gia tố tụng trong một cơ chế tố tụng hoàn chỉnh,
đầy đủ những người tham gia tố tụng, các cơ quan, người tiến hành tố tụng với
chức năng buộc tội, bào chữa, xét xử; thực hiện các quyền tố tụng của mình trong
phiên tòa công khai, dân chủ và bình đẳng. Rõ ràng, so với bị can tham gia tố tụng
(nhất là hỏi cung) trong môi trường chỉ có người buộc tội, (trường hợp cá biệt mới
có người bào chữa, người chứng kiến), bị cáo tham gia tố tụng trong phiên tòa
công khai, không chỉ có mặt những người tham gia tố tụng, mà còn có sự chứng
kiến của công chúng. Trong quá trình xét xử, người tiến hành tố tụng khó có khả
năng sử dụng các biện pháp trái pháp luật, vi phạm QCN của bị cáo (như đe dọa
bức cung, dùng nhục hình, mua chuộc nhận tội...); trong khi đó, đối với bị can thì
tình trạng này dễ xảy ra hơn.
Tóm lại, dù ở các mức độ khác nhau nhưng người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
đều chỉ là những người bị nghi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được BLHS
quy định là tội phạm. Họ là người tham gia tố tụng chiếm vị trí trung tâm trong
TTHS; không có họ thì không thể có tiến trình tố tụng hoàn chỉnh. Đối với họ có thể
áp dụng các biện pháp cưỡng chế TTHS; các hoạt động TTHS động chạm đến QCN
của họ nhiều nhất. Tuy nhiên, vì chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của
15
Tòa án đối với họ, cho nên người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chưa phải là người phạm
tội. Vì vậy, từ góc độ bảo đảm QCN, các biện pháp cưỡng chế tố tụng, các hạn chế
tố tụng đối với họ chỉ ở mức cần và đủ để đạt được mục đích tố tụng là phát hiện
nhanh chóng, xử lý công minh tội phạm và người phạm tội.
1.1.3. Khái niệm, đặc điểm quyền con người của người bị hạn chế quyền
tự do trong tố tụng hình sự
1.1.3.1.Khái niệm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do trong
tố tụng hình sự
Như đã đề cập, quyền con người được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự
nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp
luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế. QCN là một hệ thống thống
nhất không thể chia cắt, thể hiện trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong hoạt
động của mình, Nhà nước có trách nhiệm bảo vệ quyền con người, ghi nhận
quyền con người trong hệ thống văn bản pháp luật.
Do đó, khái niệm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do cần được
nghiên cứu một cách tổng quát ở nhiều phương diện với quan điểm cho rằng, quyền
con người của người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự phải được đảm bảo
bằng chính các yếu tố đã tạo ra nó, bảo đảm cho nó tồn tại và phát triển. Bên cạnh đó,
khái niệm này cũng cần chỉ ra chủ thể có trách nhiệm đảm bảo quyền con người.
Quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do thực chất cũng là những
nhu cầu, lợi ích tự nhiên và khách quan cần phải được bảo đảm của con người trong
TTHS nói chung nhưng được áp dụng với một số người bị hạn chế quyền tự do cao
hơn những loại người khác.
Căn cứ vào nội dung khái niệm quyền con người nói chung, quy định của
Hiến pháp Việt Nam cũng như đặc điểm của tố tụng hình sự, ta có thể hiểu, quyền
con người của người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự là những nhu
cầu, lợi ích tự nhiên và khách quan cần phải được đảm bảo của họ khi tham gia vào
quá trình giải quyết vụ án hình sự, được thể hiện ở các quyền công dân quy định
trong pháp luật Việt Nam.
16
Như vậy, quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do trong TTHS thực
chất là những quyền của con người được thể hiện ở một lĩnh vực đặc thù là quá trình
giải quyết vụ án hình sự, nó có những biểu hiện đặc thù về phạm vi, chủ thể, nội dung.
1.1.3.2. Đặc điểm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do trong
tố tụng hình sự
Trong tố tụng hình sự, bảo đảm QCN của người bị hạn chế quyền tự do có
đặc trưng riêng. Đó là trách nhiệm trực tiếp của các cơ quan tiến hành TTHS, người
tiến hành TTHS, người tham gia TTHS và mọi tổ chức, cá nhân khác trong quá
trình xây dựng, thực hiện QCN, là kết quả tổng hợp của hệ thống các quy định pháp
luật bảo đảm QCN của nhóm người có nguy cơ bị xâm hại trong TTHS và cơ chế tổ
chức thực hiện các quy định pháp luật đó trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Từ góc độ bảo đảm QCN, hoạt động TTHS có những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng
hình sự nảy sinh trong một lĩnh vực đặc thù là quá trình giải quyết vụ án hình sự.
- Quá trình giải quyết vụ án hình sự là hoạt động mang tính chất quyền lực
Nhà nước. Hoạt động này được thực hiện bởi các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Đây là loại chủ thể bắt buộc trong tố tụng hình sự.
- Quá trình giải quyết vụ án hình sự gắn liền với việc áp dụng luật hình sự.
Thông thường, một người thực hiện hành vi vi phạm luật hình sự thì sẽ bị áp dụng
các quy định của luật tố tụng hình sự. Bởi vậy, luật tố tụng hình sự là luật hình thức
còn luật hình sự được xác định là luật nội dung.
- Quá trình giải quyết vụ án hình sự bao gồm các giai đoạn có mối quan hệ tác
động qua lại lẫn nhau là khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự. Các
giai đoạn này có những đặc thù riêng về chủ thể, nhiệm vụ, hành vi tố tụng, văn bản
tố tụng, thời điểm bắt đầu và kết thúc. Theo lý luận chung, quá trình giải quyết vụ
án hình sự bắt đầu từ khi xác định có dấu hiệu tội phạm, cơ quan có thẩm quyền ra
quyết định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc vào bất cứ giai đoạn nào của tố tụng
hình sự khi có căn cứ được pháp luật quy định. Chính trong những giai đoạn cụ thể
này, quyền con người trong tố tụng hình sự được thực hiện.
17
Thứ hai, chủ thể quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do trong tố
tụng hình sự là người tiến hành tố tụng hình sự, người tham gia tố tụng hình sự.
Chủ thể của quyền con người trong tố tụng hình sự là những con người cụ thể
với các địa vị pháp lý khác nhau trong tố tụng hình sự, bao gồm:
Người tiến hành tố tụng hình sự: Là những người được giao nhiệm vụ tiến
hành giải quyết vụ án hình sự bao gồm Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra,
Điều tra viên, Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Chánh
án, Phó chánh án Toà án,Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Toà án.
Người tham gia tố tụng hình sự: Là những người tham gia tố tụng vì có quyền,
nghĩa vụ pháp lý liên quan đến vụ án, như người bị tạm giữ, bị can, bị .
Thứ ba, trong tố tụng hình sự, nội dung của quyền con người của người bị hạn
chế quyền tự do được pháp luật quy định cụ thể.
Quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự được
ghi nhận rộng rãi trong hệ thống văn bản pháp luật như Bộ luật hình sự, Bộ luật tố
tụng hình sự, luật thi hành án hình sự , Quy chế tạm giữ, tạm giam… được biểu hiện
ra thành các quyền và nghĩa vụ của người tiến hành tố tụng hình sự, người tham gia
tố tụng hình sự và mọi cá nhân tham gia vào quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Trong từng giai đoạn tố tụng hình sự, các chủ thể này có những quyền, nghĩa vụ
khác nhau. Cơ chế đảm bảo quyền con người trong tố tụng hình sự cũng được cụ
thể hoá trong pháp luật nhằm tạo cơ sở pháp lý để thực hiện.
Thứ tư, thực hiện đúng pháp luật trong tố tụng hình sự đồng nghĩa với việc
đảm bảo quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do
Thực hiện đúng pháp luật trong tố tụng hình sự là trách nhiệm của mọi chủ thể
tham gia vào tố tụng hình sự.
Thực hiện đúng pháp luật trong tố tụng hình sự phải thể hiện được hai yêu
cầu: Một mặt, hệ thống pháp luật được áp dụng phải có chất lượng cao, nội dung
pháp luật đó phải phản ánh được các quy luật khách quan của xã hội. Mặt khác, các
chủ thể tố tụng hình sự phải thực hiện đúng, đầy đủ các quyền, nghĩa vụ pháp lý của
mình theo quy định pháp luật.
18
Quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự được
đảm bảo bởi nhiều yếu tố khác nhau trong đó có pháp luật. Sự vi phạm pháp luật
trong tố tụng hình sự là biểu hiện của sự vi phạm quyền con người. Do đó, thực
hiện đúng pháp luật trong tố tụng hình sự là đồng nghĩa với việc đảm bảo quyền
con người.
1.2. Khái niệm, nội dung, vai trò bảo đảm quyền con ngƣời của ngƣời bị
hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự
1.2.1. Khái niệm bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự
do trong tố tụng hình sự
Theo quan niệm chung, "Đảm bảo là làm cho chắc chắn, thực hiện được, giữ
gìn được hoặc có đầy đủ những gì cần thiết" [43, tr.175].
Mặc dù hiện nay vẫn chưa có khái niệm cụ thể được quy định trong các văn
bản quy phạm pháp luật, nhưng đảm bảo QCN có thể được hiểu là đảm bảo các điều
kiện, yếu tố nhằm thực hiện QCN trong lĩnh vực này theo quy định của pháp luật.
Đây là hình thức đảm bảo QCN bằng quyền lực nhà nước một cách công khai, dân
chủ, bình đẳng và khách quan nhất, nên có hiệu lực và hiệu quả cao nhất.
Vì vậy, bảo đảm QCN nói chung là sự ổn định về chế độ chính trị, xã hội,
một nền dân chủ rộng rãi, một nền kinh tế phát triển và ổn định, các QCN được
quy định đầy đủ về số lượng, chất lượng v.v… Bảo đảm QCN nói chung là trách
nhiệm của Nhà nước, tổ chức và mọi cá nhân trong quá trình xây dựng, thực hiện
QCN, là kết quả tổng hợp của các yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo
dục, pháp lý. Những yếu tố này được xem xét với tính chất là tiền đề, điều kiện
cần thiết đảm bảo thực hiện QCN.
Trong TTHS, bảo đảm QCN của nhóm người bị hạn chế quyền tự do có đặc
trưng riêng. Đó là trách nhiệm trực tiếp của các cơ quan tiến hành TTHS, người tiến
hành TTHS, người tham gia TTHS và mọi tổ chức, cá nhân khác trong quá trình
xây dựng, thực hiện QCN, là kết quả tổng hợp của hệ thống các quy định pháp luật
bảo đảm QCN của nhóm người bị hạn chế quyền tự do trong TTHS và cơ chế tổ
chức thực hiện các quy định pháp luật đó trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
19
Khái niệm trên đã nêu được chủ thể có trách nhiệm đảm bảo QCN trong
TTHS trong đó nhấn mạnh vai trò của cơ quan tiến hành TTHS, người tiến hành
TTHS đối với hoạt động này.
Để bảo đảm QCN trong TTHS, bên cạnh việc củng cố và tăng cường các bảo
đảm QCN nói chung, còn phải bảo đảm các yếu tố mang tính đặc trưng riêng có của
QCN trong TTHS, như: Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về bảo đảm QCN
trong TTHS; cơ chế giám sát đối với việc bảo đảm QCN trong TTHS; cơ cấu, tổ chức
và hoạt động của các cơ quan tố tụng; cơ sở vật chất, kỹ thuật của hoạt động tố tụng.
Để bảo đảm QCN trong TTHS, yếu tố quyết định vẫn là con người trong việc
tổ chức và tiến hành các hoạt động tố tụng. Họ là người tham gia vào các quy trình
hoạt động tố tụng, quyết định các vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của
những người tham gia tố tụng, như: tính mạng, tự do, tài sản... của người phạm tội,
danh dự, uy tín, tài sản của các bên đương sự và những người tham gia tố tụng khác
liên quan... Vì vậy, những người tiến hành các hoạt động tố tụng phải là người có
trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có kinh nghiệm công tác đồng thời phải là người có
phẩm chất chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, có bản lĩnh vững
vàng. Đó là yếu tố cần và đủ để trong hoạt động tố tụng họ mới đảm bảo được sự
khách quan toàn diện, đầy đủ, đúng pháp luật, bảo vệ được quyền và lợi ích của
công dân, góp phần giữ vững an ninh, chính trị trật tự an toàn xã hội.
Tóm lại, đảm bảo QCN của người bị hạn chế quyền tự do trong TTHS là việc
đảm bảo về cơ sở pháp lý của QCN trong TTHS, các điều kiện, yếu tố cần và đủ để
duy trì sự ổn định, phát triển và hoàn thiện về QCN trong TTHS. Bao gồm các yếu
tố cơ bản: Hệ thống các quy phạm pháp luật; hệ thống các cơ quan tố tụng; năng
lực, trình độ, chuyên môn của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng;
hướng dẫn áp dụng pháp luật và tuyên truyền giáo dục pháp luật; cơ sở vật chất, kỹ
thuật đáp ứng với yêu cầu của hoạt động; bảo đảm quốc tế đối với QCN của người
bị hạn chế quyền tự do.
20
1.2.2. Nội dung bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự
do trong tố tụng hình sự
1.2.2.1. Những bảo đảm chung về quyền con người của người bị hạn chế
quyền tự do trong tố tụng hình sự
Các quyền cơ bản của công dân đã được quy định trong Hiến pháp và các
văn bản pháp luật khác như Luật bầu cử, Bộ luật dân sự, Luật sở hữu trí tuệ… Là
công dân, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền được tôn trọng và bảo đảm các
quyền được pháp luật quy định, trừ các trường hợp BLTTHS quy định khác nhằm
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ TTHS. QCN nói chung cần được bảo đảm bao gồm:
Một là, bảo đảm dân chủ trong quản lý nhà nước, xã hội.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, chế độ dân chủ xuất phát từ con người
và vì con người. Cho nên, QCN, quyền công dân chỉ thực sự được phát triển và đảm
bảo dưới chế độ dân chủ.
Dân chủ và QCN, quyền công dân là những khái niệm khác nhau nhưng có
mối quan hệ mật thiết với nhau. Dân chủ được hiểu là phương thức, cơ chế quản lý
xã hội, trong đó nhân dân được coi là chủ thể quyền lực. Dân chủ cũng có thể được
hiểu là quyền làm chủ của nhân dân, trước hết là quyền làm chủ về chính trị. Ở khía
cạnh này, dân chủ là một phận của QCN, quyền công dân. Do đó, quyền làm chủ
của công dân là yếu tố quyết định bản chất dân chủ của chế độ xã hội, đồng thời chế
độ Nhà nước dân chủ là điều kiện để đảm bảo các quyền tự do của con người.
Với quan điểm trên, dân chủ là phương tiện đảm bảo và phát triển QCN,
quyền công dân và sự phát huy dân chủ là cơ sở để mở rộng thêm phạm vi và làm
sâu sắc hơn về nội dung quyền công dân.
Hai là, bảo đảm về kinh tế.
Đảm bảo sự ổn định, phát triển về kinh tế là cơ sở để đảm bảo và phát triển
đối với mọi lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Vì thế, những điều kiện để ổn định
và không ngừng nâng cao đời sống vật chất của con người có tính quyết định đối
với việc hiện thực hóa các vấn đề liên quan đến đảm bảo QCN, quyền công dân nói
chung và đảm bảo QCN trong lĩnh vực TTHS nói riêng. Trong mối quan hệ này, C.
21
Mác đã chỉ rõ: " quyền con người phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế và sự
phát triển văn hóa do chế độ kinh tế đó quy định" [6, tr.122].
Bởi vậy, chỉ trên cơ sở đảm bảo được sự ổn định về đời sống kinh tế, thì các
đảm bảo khác về mặt chính trị, văn hóa, xã hội mới được thực hiện. Bởi vì sự phát
triển kinh tế là cơ sở và nền tảng cho sự phát triển các lĩnh vực khác của đời sống xã
hội, và ngược lại. Để đáp ứng yêu cầu đó, Nhà nước ta đã ban hành hàng loạt các
văn bản pháp luật nhằm đảm bảo các chính sách về bảo vệ quyền tự do sản xuất
kinh doanh, về chính sách bảo hiểm, bảo hộ người lao động, bảo hộ người tiêu dùng
và đặc biệt là bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân khi bị xâm hại
hoặc bị tranh chấp.
Ba là, bảo đảm về xã hội.
Chính sách xã hội đối với QCN, quyền công dân ở nước ta được thể hiện
trong chiến lược con người với mục tiêu và động lực phát triển đất nước vì sự phát
triển toàn diện của con người. Vì thế, trong cương lĩnh của Đảng đã xác định
"Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc của con người là động lực to lớn phát
huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội" [12, tr.25]. Vấn đề này được Đảng ta tiếp tục xác định rõ trong Văn kiện Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ IX là: "Thực hiện các chính sách xã hội hướng vào phát
triển và lành mạnh hóa xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối, tạo động lực
mạnh mẽ phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, khuyến khích nhân
dân làm giàu hợp pháp" [12, tr.104].
Trên cơ sở đó, Nhà nước ta đã và đang ban hành các văn bản pháp luật về
các chủ trương chính sách này nhằm góp phần đảm bảo QCN, quyền công dân trên
lĩnh vực chính sách xã hội nói chung, trong đó có lĩnh vực đảm bảo QCN trong lĩnh
vực HĐTP vì sự bình đẳng, công bằng trong xã hội. Hiện nay, chỉ trên cơ sở đảm
bảo về mặt xã hội mới có điều kiện để giải quyết các vấn đề liên quan đến HĐTP
như: quản lý đối với người bị HIV, những người nghiện ma túy, những người bị các
bệnh truyền nhiễm khác trong TTHS.
Bốn là, bảo đảm Nhà nước thật sự là của dân, do dân và vì dân.
22
Nhà nước pháp quyền với đặc trưng cơ bản là sự thống trị tối cao của pháp luật
trong đời sống xã hội và yêu cầu đặt ra đối với pháp luật đó phải là pháp luật vì con
người, bảo vệ quyền và lợi ích của con người. Trong Nhà nước pháp quyền, những
nguyên tắc đảm bảo QCN được thể hiện qua mối quan hệ giữa công dân với Nhà nước,
"những vấn đề liên quan đến việc thực hiện quyền, đó là sự thống nhất giữa quyền và
nghĩa vụ, quyền con người trong mối quan hệ với chế độ dân chủ, nhà nước và pháp
quyền..." [6, tr.122]. Quan hệ đó ở nước ta được xác định rõ là Nhà nước ta là Nhà
nước của dân, do dân và vì dân, mọi quyền lực nhà nước thuộc về dân. Như vậy sự tồn
tại và hoạt động của Nhà nước ta vì một mục đích duy nhất là vì con người.
Để xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam, Đảng ta đã có
nhiều định hướng, chính sách nhằm đẩy mạnh cải cách và nâng cao hiệu lực hoạt
động của bộ máy nhà nước, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của
Đảng đã chỉ rõ: "Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của
nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp và hành pháp, tư pháp" [12, tr.48].
Năm là, các bảo đảm khác.
QCN, quyền công dân được đảm bảo và thực hiện phụ thuộc rất lớn vào trình
độ dân trí của mỗi quốc gia. Chỉ trên cơ sở trình độ dân trí, công dân mới nhận thức
được đầy đủ quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình để thực hiện hành vi của mình
theo yêu cầu của pháp luật, chế ngự được khả năng, điều kiện vi phạm pháp luật, vi
phạm đến quyền lợi của người khác.
Do vậy, phát triển khoa học công nghệ, tiến hành cải cách nâng cao chất
lượng của hệ thống giáo dục của công dân nhằm nâng cao dân trí, bồi dưỡng năng
lực làm chủ của công dân đã được Đảng và Nhà nước ta xác định là quốc sách hàng
đầu trong Hiến pháp 1992 sửa đổi và các Văn kiện của Đảng.
Cùng với sự phát triển khoa học công nghệ, công tác cải cách phát triển giáo
dục, mở rộng mạng lưới thông tin rộng khắp trong cả nước là yêu cầu được Đảng và
Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, đã trở thành một phương tiện không thể thiếu được
23
của nhân dân nhằm nâng cao dân trí, bảo đảm QCN tham gia vào việc quản lý nhà
nước, quản lý xã hội.
1.2.2.2. Những bảo đảm đặc trưng về quyền con người của người bị hạn chế
quyền tự do trong tố tụng hình sự
Bảo đảm pháp lý có nội dung rộng hơn khái niệm pháp luật, nó được hiểu là
hệ thống các quy định pháp luật quy định về QCN và cơ chế tổ chức thực hiện các
quy định đó trong thực tiễn cuộc sống. Nội dung cụ thể bao gồm:
Một là, bảo đảm thông qua hệ thống các quy định pháp luật quy định về
quyền con người trong tố tụng hình sự và tổ chức, hoạt động của các cơ quan tiến
hành tố tụng hình sự
Ở Việt Nam, QCN là các giá trị đối với những thành quả cách mạng đã đạt
được trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc đã được quy định bằng pháp luật thành các
quyền và nghĩa vụ của công dân. Vì vậy, Điều 14 Hiến pháp 2013 sửa đổi quy định:
"Ở Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các QCN, quyền công dân về chính
trị, dân sự, kinh tế, văn hóa được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến
pháp và pháp luật" [54, tr.31].
Vì vậy, để bảo đảm QCN trong TTHS, trước hết phải xây dựng hệ thống các
quy phạm pháp luật hoàn chỉnh trong lĩnh vực này. “Đó chính là chuẩn mực chung,
công bằng đối với tất cả mọi người, vừa cần đến Nhà nước để thực hiện công bằng
xã hội vừa cần đến để hạn chế sự lạm quyền" [20, tr.13], thông qua đó, công dân
mới có cơ sở pháp lý để thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình khi tham
gia vào quan hệ pháp luật trong lĩnh vực TTHS. Khi nghiên cứu vấn đề bảo đảm
QCN của người bị hạn chế quyền tự do trong TTHS là cần tập trung phân tích các
quy định của BLTTHS và thực hiện các quy định đó trên thực tế các nội dung cơ
bản sau đây:
- Nghiên cứu các nguyên tắc cơ bản TTHS liên quan đến bảo đảm QCN
trong TTHS như tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân (điều 4),
nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân (điều 6),
24
nguyên tắc bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân
(điều 7), nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật
thư tín, điện thoại, điện tín của công dân (điều 8), nguyên tắc suy đoán không có tội
(điều 9), nguyên tắc xác định sự thật của vụ án (điều 10), nguyên tắc bảo đảm quyền
bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (điều 11), nguyên tắc trách nhiệm của
cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng (điều 12), nguyên tắc xét xử công
khai (điều 18), nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án (điều 19), nguyên
tắc bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của
người bị oan (điều 29), nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường của người bị
thiệt hại do cơ quan hoặc người có thẩm quyền tiến hành TTHS gây ra (điều 30) và
nguyên tắc bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong TTHS (điều 31)… Nguyên tắc
TTHS là tư tưởng chỉ đạo được quy định trong BLTTHS cần được tuân thủ trong
quá trình khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự. Tuân thủ các tư tưởng chỉ
đạo liên quan đến việc bảo vệ quyền tự do, dân chủ của công dân, đến quyền tố tụng
của những người tham gia tố tụng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo đảm
QCN của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
- Quy định địa vị tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng và người tham gia tố tụng. Mục đích của hoạt động tố tụng là giải quyết khách
quan, toàn diện, đầy đủ, đúng pháp luật các vụ án để xác định đúng quyền và nghĩa
vụ pháp lý mà công dân phải thực hiện, tránh việc xử oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm
nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức. cơ cấu, tổ chức
và hoạt động của các cơ quan tố tụng.
Muốn vậy, các văn bản quy phạm pháp luật phải quy định đầy đủ, cụ thể rõ
ràng về trình tự, thủ tục giải quyết các vụ án; xác định rõ quyền và nghĩa vụ của các
cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; người tham gia tố tụng; quyền
và nghĩa vụ của tổ chức bổ trợ tư pháp và các cơ quan tổ chức, cá nhân khác khi họ
tham gia tố tụng. Đặc biệt, cần tập trung vào việc nghiên cứu trách nhiệm của cơ
quan, người tiến hành TTHS trong mối quan hệ với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
và quyền tố tụng của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong TTHS. Bởi vì tôn trọng
quyền công dân, nâng cao trách nhiệm của Nhà nước, của cơ quan Nhà nước đối với
25
công dân là một trong những đặc điểm của Nhà nước pháp quyền. Quan hệ giữa
Nhà nước với công dân, mà cụ thể hơn là quan hệ giữa cơ quan, người tiến hành tố
tụng với người tham gia tố tụng nói chung, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nói riêng
là thể hiện rõ nhất tính chất dân chủ trong xã hội, trong quá trình TTHS. Tăng
cường trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng, quyền của người tham gia
tố tụng là điều kiện rất quan trọng để đảm bảo QCN của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo trong TTHS.
Bên cạnh đó,việc đảm bảo tổ chức hoạt động của các cơ quan tiến hành
tố tụng là một trong những yêu cầu quan trọng góp phần đảm bảo QCN của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong TTHS. Cùng với việc cải cách bộ máy
của mình, trong những năm qua, các cơ quan tố tụng đã được điều chỉnh dần
từng bước về cơ cấu, tổ chức.
Đối với VKSND: Theo quy định của Hiến pháp 2013 ở nước ta, VKS là cơ
quan nhà nước thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động
tư pháp. Hoạt động của VKS có một vị trí đặc biệt quan trọng trong hoạt động
TTHS. Vì vậy, đảm bảo về tổ chức và hoạt động của VKS nhằm đảm bảo chức
năng, thẩm quyền kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS và thực hiện quyền
công tố chính là cơ sở để đảm bảo QCN, quyền công dân trong TTHS đồng thời hạn
chế được vi phạm QCN từ phía người tiến hành tố tụng. Để đạt được yêu cầu trên
việc đổi mới về cơ cấu, tổ chức và hoạt động của cơ quan VKSND là một yêu cầu
tất yếu. Vì thế, yêu cầu đặt ra là là cơ cấu, tổ chức và hoạt động của cơ quan VKS
phải sát hợp với chức năng nhiệm vụ được giao, kiểm sát viên phải hội tụ đủ trình
độ chuyên môn, tinh thông nghiệp vụ, có phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức và
công tâm trong việc thực hiện chức năng của mình.
Cơ cấu tổ chức của VKSND năm 2014 có một số điểm mới cơ bản, một
trong số đó phải kể đến đổi mới hệ thống VKSND theo thẩm quyền xét xử của Toà
án, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính, tạo cơ sở pháp lý để xây dựng tổ chức
bộ máy VKSND các cấp theo hướng chuyên sâu, đáp ứng yêu cầu mở rộng thẩm
quyền [Sơ đồ 1.1 Phụ lục]. Theo đó, thì hệ thống VKSND gồm có:
26
- VKSND tối cao
- VKSND cấp cao
- VKSND cấp tỉnh
- VKSND cấp huyện
- Viện kiểm sát quân sự
Đối với TAND: TAND là nơi phán quyết tất cả các vấn đề liên quan đến
quyền và nghĩa vụ pháp lý của những người có quyền và nghĩa vụ liên quan đến
lĩnh vực tố tụng. Yêu cầu đặt ra là bộ máy của TAND phải hoàn thiện, hoạt động
nhanh nhạy đúng chức năng, thẩm quyền, đội ngũ Thẩm phán phải đảm bảo đủ về
số lượng, có năng lực chuyên môn, thông thạo nghiệp vụ và có phẩm chất chính trị,
phẩm chất đạo đức tốt.
Cũng giống như VKSND , cơ cấu tổ chức của TAND cũng có sự thay đổi
[Sơ đồ 1.2 Phụ lục]. Theo đó, Luật tổ chức TAND năm 2014 quy định hệ thống tổ
chức Tòa án ở nước ta gồm:
- TAND tối cao.
- TAND cấp cao.
- TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
- TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương.
- Tòa án quân sự.
Đối với Cơ quan điều tra: Ở nước ta, Cơ quan điều tra là một bộ phận không
thể thiếu được của TTHS, là một trong ba cơ quan nhà nước thực hiện TTHS theo
quy định của pháp luật. Đó là cơ quan trực tiếp tiến hành các hoạt động điều tra, thu
thập, củng cố, chứng minh các chứng cứ nhằm xác minh sự thật khách quan của vụ
án, làm cơ sở cho việc truy tố bị can ra trước Tòa án. Hoàn thiện về cơ cấu, tổ chức
và hoạt động của cơ quan điều tra để cơ quan này nhạy bén kịp thời trong việc đối
phó các tình huống mới nảy sinh trong thực tế hoạt động đấu tranh phòng và chống
tội phạm, thực hiện đúng chức năng nhiệm vụ, thẩm quyền, hoạt động có hiệu lực,
hiệu quả, là yêu cầu mang tính nguyên tắc.
Để đạt được mục tiêu đó, cơ cấu, tổ chức và hoạt động của các cơ quan điều
27
tra phải sát hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao, đội ngũ điều tra viên phải được
đào tạo đầy đủ về chuyên môn, tinh thông về nghiệp vụ, có bản lĩnh nghề nghiệp, có
phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức tốt nhằm thực hiện tốt nhất nhiệm vụ của
người điều tra là kịp thời phòng và chống tội phạm đồng thời đảm bảo được quyền và
lợi ích hợp pháp cho bị can trong hoạt động tố tụng của mình. Đồng thời phải phối
hợp củng cố nhà tạm giữ, tạm giam có đủ những điều kiện cho hoạt động phòng và
chống tội phạm cũng như đáp ứng yêu cầu đảm bảo quyền của người bị tạm giữ.
Mô hình tổ chức của CQĐT ở nước ta đã được xây dựng vào những năm đầu
thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và nó được hoàn thiện dần trong quá
trình đấu tranh phòng chống tội phạm. Theo quy định của BLTTHS và Pháp lệnh tổ
chức điều tra hình sự thì hệ thống CQĐT bao gồm:
- Trong ngành công an:
+ CQĐT thuộc Lực lượng Cảnh sát nhân dân, hệ thống này được tổ chức ở 3
cấp là Bộ, tỉnh, huyện. Ở Bộ Công an có Cục cảnh sát điều tra; ở công an cấp tỉnh
có Phòng cảnh sát điều tra và ở công an cấp huyện có Đội cảnh sát điều tra.
+ CQĐT thuộc Lực lượng An ninh nhân dân được tổ chức ở cấp bộ và tỉnh. Ở
Bộ công an có Cục điều tra an ninh và ở công an cấp tỉnh có Phòng điều tra an ninh.
- Trong quân đội nhân dân:
+ CQĐT hình sự quân đội được tổ chức ở 3 cấp theo tổ chức của quân đội là
Cục điều tra hình sự ở Bộ quốc phòng; Phòng điều tra hình sự ở Bộ tổng tham mưu
các tổng cục, quân khu, quân đoàn, quân chủng và Ban điều tra hình sự ở binh
chủng, bộ chỉ huy quân sự tỉnh và cấp tương đương.
+ CQĐT an ninh quân đội được tổ chức ở 2 cấp: ở Bộ quốc phòng có Cục
điều tra an ninh và ở cấp quân khu có Phòng điều tra an ninh.
- Trong hệ thống Viện kiểm sát:
+ VKSND tối cao có Cục điều tra hình sự.
+ CQĐT của Viện kiểm sát quân sự Trung ương có Phòng điều tra.
- Quy định các biện pháp ngăn chặn (bắt, tạm giữ, tạm giam) trong TTHS.
Đặc biệt, chú trọng đến thẩm quyền (áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp), căn cứ
28
áp dụng, thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Biện pháp ngăn chặn là biện
pháp cưỡng chế tố tụng được người có thẩm quyền áp dụng đối với người bị nghi
thực hiện tội phạm, bị can, bị cáo khi có đủ căn cứ luật định nhằm ngăn chặn hành
vi nguy hiểm cho xã hội, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc
có hành động gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án [5, tr.69].
Là những biện pháp cưỡng chế, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn có liên quan
rất lớn đến QCN của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; đặc biệt là các quyền bất khả
xâm phạm về thân thể, các quyền tự do dân chủ khác. Bởi vì, trong TTHS, chỉ có
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là những đối tượng duy nhất bị áp dụng biện pháp
ngăn chặn. Quy định và áp dụng biện pháp ngăn chặn đúng thẩm quyền, đúng căn
cứ, đúng thủ tục và đúng thời hạn… là những đảm bảo quan trọng cho việc bảo đảm
QCN của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Khi công tố quyền được phát động, để tạo điều kiện cho các cơ quan tiến
hành tố tụng thực hiện chức năng phát hiện, xử lý tội phạm, pháp luật cho phép họ
được áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong đó hạn chế một số quyền tự do của
người bị tình nghi, bị can, bị cáo. Tuy nhiên, sự hạn chế tự do của người bị buộc tội
phải đảm bảo nguyên tắc pháp chế, tránh sự lạm quyền. Pháp luật TTHS Việt Nam
quy định khá chặt chẽ các căn cứ để áp dụng biện pháp ngăn chặn như tạm giữ, tạm
giam, cấm đi khỏi nơi cư trú… cũng như các biện pháp cưỡng chế TTHS khác như
khám người, khám chỗ ở, tịch thu thư tín…. Tất cả các biện pháp cưỡng chế TTHS
trên đòi hỏi các cơ quan THTT không được áp dụng tùy tiện, lạm dụng mà chỉ được
thực hiện khi có căn cứ và theo đúng trình tự, thủ tục luật định. Xu hướng chung
của TTHS văn minh là hạn chế ở mức thấp nhất việc áp dụng các biện pháp tạm
giữ, tạm giam đồng thời mở rộng các biện pháp khác “mềm” hơn như đặt tiền, bảo
lãnh… Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn và cưỡng chế TTHS đòi hỏi các cơ
quan tiến hành tố tụng vừa đảm bảo nhiệm vụ phát hiện, xử lý tội phạm, vừa không
xâm phạm đến QCN của những người bị bị hạn chế quyền tự do. Điều quan trọng là
cần có chế tài nghiêm khắc xử lý những hành vi bắt tạm giữ, tạm giam quá mức cần
thiết hoặc chế tái pháp luật của những người THTT.
29
- Quy định các thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử từ góc độ QCN để các
thủ tục đó không xâm phạm quyền công dân cũng như bảo đảm cho người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo thực hiện đầy đủ các quyền tố tụng, đảm bảo cho việc giải quyết
vụ án dân chủ, công khai, khách quan. Là cách thức, trình tự thực hiện hoạt động
điều tra, truy tố, xét xử, thủ tục tố tụng một mặt bảo đảm cho hoạt động tố tụng tiến
hành được chính xác, khách quan; mặt khác để các hoạt động đó không hạn chế
quyền tố tụng của người tham gia tố tụng nói chung, của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo nói riêng. Bởi vì, ngay trong các hoạt động tố tụng (như lấy lời khai, khám xét,
thu giữ vật chứng, tài liệu, đồ vật…) đã chứa đựng yếu tố cưỡng chế. Quy định thủ
tục tố tụng chặt chẽ tức là đã giới hạn để người tiến hành tố tụng thực hiện những
hành vi tố tụng được BLTTHS quy định, từ đó tránh được việc xâm phạm QCN.
Hai là, bảo đảm trình độ nhận thức, năng lực chuyên môn và ý thức pháp
luật, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng
Trong điều kiện nước ta hiện nay, đòi hỏi xây dựng được một đội ngũ cán bộ
tư pháp nói chung và người tiến hành tố tụng nói riêng tận tâm, có trình độ chuyên
môn nghiệp vụ cao, có khả năng hoàn thành nhiệm vụ là rất cần nhằm bảo đảm
QCN nói chung và QCN trong TTHS nói riêng.
Bảo đảm QCN của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo phụ thuộc rất nhiều vào
sự hoàn thiện của các quy định pháp luật và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp
luật. Tuy nhiên, dù pháp luật có quy định cụ thể đến đâu thì hiệu quả của nó phụ
thuộc rất nhiều vào quan điểm, nhận thức của người áp dụng pháp luật trong từng
trường hợp cụ thể trong thời gian tới cần đảm bảo đủ số lượng, nâng cao chất lượng
cán bộ tư pháp để có thể đủ sức đảm đương những công việc khó khăn và phức tạp.
Con người bao giờ cũng là nhân tố quan trọng, quyết định chất lượng mọi
hoạt động. Muốn bảo đảm QCN của người bị hạn chế quyền tự do trong TTHS, hạn
chế được oan sai, giải quyết bồi thường thoả đáng phải nâng cao trình độ chuyên
môn pháp luật cho người tiến hành tố tụng, đồng thời phải không ngừng trau dồi
nhân cách, trong đó vấn đề giáo dục lương tâm và ý thức về uy tín nghề nghiệp phải
được đặt lên hàng đầu; thực hiện tốt chế độ báo cáo đối với cơ quan có thẩm quyền
30
và trước nhân dân thông qua cơ quan đại diện của họ tại địa phương (ở mức độ cho
phép nếu không làm ảnh hưởng tới việc giải quyết vụ án); đảm bảo cơ chế kiểm tra,
giám sát của cơ quan có thẩm quyền và của nhân dân.
Những người tiến hành tố tụng phải thực hiện đúng quy định pháp luật trong
qúa trình giải quyết vụ án hình sự, thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn của mình
quy định trong BLTTHS. Họ là những người tiến hành tố tụng, do đó phải tuân thủ
các nguyên tắc cơ bản của TTHS. Đặc biệt là các nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ
các quyền cơ bản của công dân gồm: Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ
bản của công dân; nguyên tắc không ai có thể bị coi là có tội, nếu chưa có bản án
kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật; nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; nguyên tắc bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo và
quyền được bồi thường thiệt hại của công dân trong TTHS; nguyên tắc dùng tiếng
nói, chữ viết trong TTHS.
Trên cơ sở quán triệt tinh thần cải cách tư pháp về nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ của các cơ quan tư pháp, cần tập trung đào tạo những cán bộ giỏi,
chuyên sâu trong từng lĩnh vực để có nhiều chuyên gia giỏi, khắc phục tình trạng
chất lượng cán bộ còn yếu kém như hiện nay. Đồng thời, cần nâng cao sự phối hợp
giữa các cơ quan THTT nhất là giữa ĐTV và KSV trong việc tạm giữ, tạm giam,
kịp thời tháo gỡ khó khăn, phát huy trí tuệ tập thể để có đường lối giải quyết đúng
với quy định pháp luật.
Ba là, bảo đảm thông qua hướng dẫn áp dụng Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
Trong TTHS, bảo đảm QCN của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không chỉ
đơn thuần bằng các biện pháp pháp lý. Khi đã có những quy định pháp luật, việc
thực hiện các quy định đó lại phụ thuộc vào từng con người cụ thể. Vì vậy, còn phải
chú trọng đến các biện pháp tổ chức, biện pháp giáo dục đối với các cán bộ trong
các cơ quan tiến hành tố tụng để họ thấy rõ nghĩa vụ, trách nhiệm của mình khi tiến
hành các hành vi tố tụng khác nhau.
Tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật là một phương pháp hiệu quả
31
nhằm nâng cao hiểu biết của người dân về kiến thức pháp luật. Điều này một mặt
giúp người dân tự ý thức và tuân thủ pháp luật,tự bảo vệ những lợi ích chính đáng
của bản thân và lợi ích chung của xã hội, mặt khác giúp cơ quan THTT nhanh
chóng phát hiện và có biện pháp xử lý kịp thời đối với những hành vi phạm tội.
Thực tiễn cho thấy, phần lớn nhân dân do thiếu hiểu biết pháp luật mà nhất là pháp
luật TTHS nên đôi khi còn có thái độ tiêu cực trong đấu tranh phòng chống tội
phạm. Hay do sợ mất thời gian, sợ liên lụy tới pháp luật, sợ bị trả thù… nên không
tích cực vào việc tố giác tội phạm. Thậm chí có những người vì những lý do cá
nhân khác nhau mà cung cấp thông tin thiếu chính xác, sai sự thật gây khó khăn cho
cơ quan THTT. Bởi vậy, công tác tuyên truyền giáo dục cho nhân dân là rất cần
thiết và cần được thực hiện bằng nhiều hình thức như: Thông qua các phương tiện
thông tin đại chúng, thông qua các tổ chức đoàn thể quần chúng, các tổ chức chính
trị, xã hội, thông qua các cuộc thi tìm hiểu pháp luật dưới dạng sân khấu hóa, thông
qua các phiên tòa xét xử nhất là các phiên tòa xét xử lưu động,,, và đặc biệt quan
tâm hơn nữa công tác giáo dục pháp luật từ các cấp trong trường học để tạo thói
quen và tạo ý thức tôn trọng pháp luật.
Đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo cần phải được thường xuyên giáo
dục chính sách, pháp luật, nội quy nhà tạm giữ, trại tạm giam, quy chế về tạm giữ,
tạm giam nhằm nâng cao nhận thức cho người bị tạm giữ, tạm giam, hạn chế đến
mực thấp nhất việc họ có thể phạm tội mới ở nhà tạm giữ, tạm giam, đồng thời nâng
cao hiểu biết để họ tự bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân.
Và cuối cùng, phải động viên tích cực quần chúng nhân dân tham gia vào
nhiệm vụ đấu tranh chống tội phạm và các vi phạm pháp luật dưới nhiều hình thức
khác nhau, trong đó, kiểm tra giám sát các hành vi của các cơ quan tiến hành tố tụng
và những người tiến hành tố tụng để đảm bảo quyền QCN cho người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo.
Bốn là, bảo đảm xử lý vi phạm, khắc phục kịp thời các hậu quả của vi phạm
quyền con người do hoạt động tố tụng hình sự gây ra
Pháp luật nước ta ở các mức độ khác nhau quy định về việc xử lý các vi
32
phạm QCN. Tùy theo tính chất và mức độ vi phạm, pháp luật quy định các biện
pháp pháp lý tương ứng như xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính, buộc phải bồi
thường và cao nhất là trách nhiệm hình sự đối với người vi phạm. Ví dụ: BLHS
nước ta có các chương riêng quy định về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
nhân phẩm và danh dự con người, quy định các tội xâm phạm các QCN; ngoài ra,
các tội phạm xâm phạm QCN cũng được quy định ở các chương khác của BLHS.
Đồng thời với các biện pháp xử lý trên, trong tố tụng các vi phạm làm hạn chế các
quyền, lợi ích của công dân thông thường được coi là các vi phạm nghiêm trọng
thủ tục tố tụng và là một trong những căn cứ để cơ quan tố tụng có thẩm quyền
hủy bỏ kết quả hoạt động tố tụng trước đó để tiến hành lại hoặc buộc phải tiến
hành các hoạt động tố tụng bổ sung. Một vấn đề cần đặc biệt lưu ý trong hoạt động
lập pháp về QCN là cần xem xét đến các quy định của pháp luật quốc tế về QCN
mà nước ta đã tham gia.
Một trong những bảo đảm quan trọng cho việc tôn trọng và bảo vệ các QCN
là việc phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm các quyền đó.
Liên quan đến việc xử lý các vi phạm QCN bao gồm các biện pháp: Quy định cụ
thể các hành vi vi phạm và chế tài đối với hành vi đó; tổ chức xử lý các hành vi vi
phạm QCN; tổ chức thi hành các quyết định xử lý vi phạm của các cơ quan có thẩm
quyền; trong đó bao gồm cả thi hành các biện pháp xử phạt được quyết định và
phục hồi quyền, lợi ích hoặc bồi thường thiệt hại cho công dân.
Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, các biện pháp xử lý bao gồm:
- Xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức;
- Xử phạt hành chính;
- Bồi thường thiệt hại và phục hồi quyền, lợi ích bị xâm hại;
- Truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi vi phạm nghiêm trọng
QCN được BLHS quy định là tội phạm.
Việc xử lý nghiêm minh, có hiệu quả các vi phạm QCN đòi hỏi một cơ chế
tố tụng cụ thể, công khai, khách quan. Hiện nay, việc xử lý các vi phạm QCN được
thực hiện bằng biện pháp tổ chức, bằng thủ tục hành chính và bằng thủ tục tố tụng
tư pháp. Trong đó, có thể nói, việc tiến hành xử lý các vi phạm theo thủ tục tố tụng
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do

More Related Content

What's hot

What's hot (15)

Luận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân tại các trại giam
Luận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân tại các trại giamLuận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân tại các trại giam
Luận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân tại các trại giam
 
Đề tài: Quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở hữu, HOT
Đề tài: Quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở hữu, HOTĐề tài: Quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở hữu, HOT
Đề tài: Quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở hữu, HOT
 
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 
Luận văn: Ý kiến của người dân về hành vi ô nhiễm môi trường, 9đ
Luận văn: Ý kiến của người dân về hành vi ô nhiễm môi trường, 9đLuận văn: Ý kiến của người dân về hành vi ô nhiễm môi trường, 9đ
Luận văn: Ý kiến của người dân về hành vi ô nhiễm môi trường, 9đ
 
Pháp luật về giải quyết tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa
Pháp luật về giải quyết tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa, Trường SaPháp luật về giải quyết tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa
Pháp luật về giải quyết tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa
 
Đề tài: Quản lý tài nguyên và môi trường tỉnh Lào Cai đến 2030
Đề tài: Quản lý tài nguyên và môi trường tỉnh Lào Cai đến 2030Đề tài: Quản lý tài nguyên và môi trường tỉnh Lào Cai đến 2030
Đề tài: Quản lý tài nguyên và môi trường tỉnh Lào Cai đến 2030
 
Luận án: Dư luận xã hội về bảo vệ môi trường tại Hà Tĩnh, HAY - Gửi miễn phí ...
Luận án: Dư luận xã hội về bảo vệ môi trường tại Hà Tĩnh, HAY - Gửi miễn phí ...Luận án: Dư luận xã hội về bảo vệ môi trường tại Hà Tĩnh, HAY - Gửi miễn phí ...
Luận án: Dư luận xã hội về bảo vệ môi trường tại Hà Tĩnh, HAY - Gửi miễn phí ...
 
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự doBảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do
 
Đề tài: Ô nhiễm môi trường tại làng nghề tái chế kim loại Văn Môn
Đề tài: Ô nhiễm môi trường tại làng nghề tái chế kim loại Văn MônĐề tài: Ô nhiễm môi trường tại làng nghề tái chế kim loại Văn Môn
Đề tài: Ô nhiễm môi trường tại làng nghề tái chế kim loại Văn Môn
 
Vai trò của Viện kiểm sát trong ngăn chặn giai đoạn điều tra, HOT
Vai trò của Viện kiểm sát trong ngăn chặn giai đoạn điều tra, HOTVai trò của Viện kiểm sát trong ngăn chặn giai đoạn điều tra, HOT
Vai trò của Viện kiểm sát trong ngăn chặn giai đoạn điều tra, HOT
 
Ý thức về hành vi phạm tội và chấp hành hình phạt tù của phạm nhân
Ý thức về hành vi phạm tội và chấp hành hình phạt tù của phạm nhânÝ thức về hành vi phạm tội và chấp hành hình phạt tù của phạm nhân
Ý thức về hành vi phạm tội và chấp hành hình phạt tù của phạm nhân
 
Luận văn: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Đánh Giá Nhận Thức Về Bảo Vệ Môi Truờng Của Học Sinh Phổ Thông Tại Huyện Phú ...
Đánh Giá Nhận Thức Về Bảo Vệ Môi Truờng Của Học Sinh Phổ Thông Tại Huyện Phú ...Đánh Giá Nhận Thức Về Bảo Vệ Môi Truờng Của Học Sinh Phổ Thông Tại Huyện Phú ...
Đánh Giá Nhận Thức Về Bảo Vệ Môi Truờng Của Học Sinh Phổ Thông Tại Huyện Phú ...
 
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dânLuận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân
 
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt NamLuận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
 

Similar to Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do

Similar to Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do (20)

Bảo Đảm Quyền Bào Chữa Trong Luật Tố Tụng Hình Sự.doc
Bảo Đảm Quyền Bào Chữa Trong Luật Tố Tụng Hình Sự.docBảo Đảm Quyền Bào Chữa Trong Luật Tố Tụng Hình Sự.doc
Bảo Đảm Quyền Bào Chữa Trong Luật Tố Tụng Hình Sự.doc
 
Đề tài: Bảo vệ quyền con người bằng luật Tố tụng hình sự, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền con người bằng luật Tố tụng hình sự, HAYĐề tài: Bảo vệ quyền con người bằng luật Tố tụng hình sự, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền con người bằng luật Tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng hình sựLuận văn: Bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng hình sự
 
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAYNguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
 
Luận văn: Quyền của người bị tạm giam trước khi xét xử, HOT
Luận văn: Quyền của người bị tạm giam trước khi xét xử, HOTLuận văn: Quyền của người bị tạm giam trước khi xét xử, HOT
Luận văn: Quyền của người bị tạm giam trước khi xét xử, HOT
 
Đề tài: Bảo vệ quyền con người bằng quy phạm về biện pháp tha miễn
Đề tài: Bảo vệ quyền con người bằng quy phạm về biện pháp tha miễnĐề tài: Bảo vệ quyền con người bằng quy phạm về biện pháp tha miễn
Đề tài: Bảo vệ quyền con người bằng quy phạm về biện pháp tha miễn
 
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOTLuận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOT
 
Bảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạt
Bảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạtBảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạt
Bảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạt
 
Luận án: Bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng
Luận án: Bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụngLuận án: Bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng
Luận án: Bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng
 
Quyền con người đối với người bị bắt trong giai đoạn điều tra, HOT
Quyền con người đối với người bị bắt trong giai đoạn điều tra, HOTQuyền con người đối với người bị bắt trong giai đoạn điều tra, HOT
Quyền con người đối với người bị bắt trong giai đoạn điều tra, HOT
 
Luận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tộiLuận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội
 
Đề tài: Quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án
Đề tài: Quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ ánĐề tài: Quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án
Đề tài: Quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án
 
Quyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do
Quyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự doQuyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do
Quyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do
 
Luận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân, HOTLuận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân, HOT
 
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt NamLuận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền công dân
Luận văn: Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền công dânLuận văn: Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền công dân
Luận văn: Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền công dân
 
Luận án: Giải quyết tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa
Luận án: Giải quyết tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa, Trường SaLuận án: Giải quyết tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa
Luận án: Giải quyết tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa
 
Đề tài: Giải quyết tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa
Đề tài: Giải quyết tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa, Trường SaĐề tài: Giải quyết tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa
Đề tài: Giải quyết tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa
 
BAI-NGHIEN-CUU-KHOA-HOC.pdf
BAI-NGHIEN-CUU-KHOA-HOC.pdfBAI-NGHIEN-CUU-KHOA-HOC.pdf
BAI-NGHIEN-CUU-KHOA-HOC.pdf
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
ChuThNgnFEFPLHN
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
dangdinhkien2k4
 
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận HạnTử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Kabala
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
ltbdieu
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
dnghia2002
 

Recently uploaded (20)

SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net VietKiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
 
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vnGiới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
 
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình PhươngGiáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
 
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận HạnTử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàBài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
 
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
 
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
 
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
 
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ emcác nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
 
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
 

Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN NHƢ QUỲNH B¶O §¶M QUYÒN CON NG¦êI CñA nh÷ng NG¦êI BÞ H¹N CHÕ QUYÒN Tù DO TRONG luËt Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN NHƢ QUỲNH B¶O §¶M QUYÒN CON NG¦êI CñA nh÷ng NG¦êI BÞ H¹N CHÕ QUYÒN Tù DO TRONG luËt Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN ĐỨC PHÚC HÀ NỘI - 2015
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyễn Nhƣ Quỳnh
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng, sơ đồ MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 1 2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài............................................... 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu................................................................ 4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài....................................................... 5 5. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu ............................................. 5 6. Đóng góp khoa học của luận văn.................................................................. 6 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn..................................................... 6 8. Kết cấu của luận văn ..................................................................................... 6 Chƣơng 1. LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CON NGƢỜI VÀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI CỦA NGƢỜI BỊ HẠN CHẾ QUYỀN TỰ DO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ....................................................................... 7 1.1. Nhận thức về quyền con ngƣời của ngƣời bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự................................................................................... 7 1.1.1. Khái niệm và phân loại quyền con người ....................................... 7 1.1.2. Khái niệm quyền tự do và người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự Việt Nam ............................................................................10 1.1.3. Khái niệm, đặc điểm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự......................................................................15
  • 5. 1.2. Khái niệm, nội dung, vai trò bảo đảm quyền con ngƣời của ngƣời bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự ........................................18 1.2.1. Khái niệm bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự......................................................................18 1.2.2. Nội dung bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự ..........................................................................20 1.2.3. Vai trò của việc bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự ...........................................................37 1.3. Bảo đảm quyền con ngƣời của ngƣời bị hạn chế quyền tự do ở một số nƣớc trên thế giới và những giá trị có thể vận dụng ở Việt Nam ....39 1.3.1. Quy định về quyền con người ở một số nước trên thế giới ..........39 1.3.2. Những giá trị có thể vận dụng ở Việt Nam về bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự..............41 Kết luận Chƣơng 1........................................................................................45 Chƣơng 2. QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI CỦA NGƢỜI BỊ HẠN CHẾ QUYỀN TỰ DO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ...............................................46 2.1. Quy định pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền con ngƣời của ngƣời bị hạn chế quyền tự do...................................................................46 2.1.1. Quy định pháp luật Việt Nam trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự 2003 liên quan tới bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do.........................................................................................................46 2.1.2. Quy định pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ khi ban hành bộ luật tố tụng hình sự 2003 liên quan tới bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do..................................................................49 2.2. Thực trạng bảo đảm quyền con ngƣời của ngƣời bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự Việt Nam .....................................................60
  • 6. 2.2.1. Bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do thông qua áp dụng các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự.........................60 2.2.2. Bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do trong áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam.............................63 2.2.3. Bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do trong khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự........................................67 2.2.4. Bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do thông qua áp dụng các quy định về quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng hình sự.....75 2.3. Nhận xét, đánh giá chung về bảo đảm quyền con ngƣời của ngƣời bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự Việt Nam.......................77 2.3.1. Ưu điểm của bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự Việt Nam ..........................................77 2.3.2. Một số hạn chế trong bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự Việt Nam....................................79 2.3.3. Nguyên nhân của một số hạn chế trong bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự Việt Nam........80 Kết luận Chƣơng 2........................................................................................85 Chƣơng 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI CỦA NGƢỜI BỊ HẠN CHẾ QUYỀN TỰ DO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ...............................................86 3.1. Quan điểm nhằm tăng cƣờng bảo đảm quyền con ngƣời của ngƣời bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự Việt Nam.......................86 3.2. Giải pháp tăng cƣờng bảo đảm quyền con ngƣời của ngƣời bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự Việt Nam...................................91 3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện những quy định của pháp luật tố tụng hình sự có liên quan đến việc bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do.91
  • 7. 3.2.2. Nâng cao nhận thức, trình độ của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và Hội thẩm.....................................................................................98 3.2.3. Tăng cường hướng dẫn áp dụng bộ luật tố tụng hình sự, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhân dân............................100 3.2.4. Tăng cường xử lý vi phạm, khắc phục kịp thời các hậu quả của vi phạm quyền con người do hoạt động tố tụng hình sự gây ra................103 3.2.5. Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật trong tố tụng hình sự nhằm bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do ..............106 3.2.6. Tăng cường vai trò của người bào chữa nhằm bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự .............................. 109 3.2.7. Tăng cường công tác giám sát của các cơ quan tiến hành tố tụng, các tổ chức, cá nhân trong bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự...................................................109 3.2.8. Tăng cường hợp tác quốc tế và trao đổi về kinh nghiệm lập pháp hình sự về bảo vệ quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do..109 Kết luận Chƣơng 3......................................................................................111 KẾT LUẬN..................................................................................................112 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................113 PHỤ LỤC.....................................................................................................117
  • 8. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự HĐTT: Hoạt động tố tụng QCN: Quyền con người TAND: Tòa án nhân dân THTT: Tiến hành tố tụng TTHS: Tố tụng hình sự VKSND: Viện kiểm sát nhân dân XHCN: Xã hội chủ nghĩa
  • 9. DANH MỤC CÁC BẢNG, SƠ ĐỒ Số hiệu bảng, sơ đồ Tên bảng, sơ đồ Trang Bảng 2.1: Tình hình bắt, tạm giữ, tạm giam 126 Bảng 2.2: Tình hình khởi tố 126 Bảng 2.3: Số bị cáo Tòa án tuyên không tội 126 Bảng 2.4: Số bị cáo Tòa án tuyên không tội VKS đã kháng nghị 127 Bảng 2.5: Tình hình điêu tra của CQĐT 127 Sơ đồ 2.1: Hệ thống tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 124 Sơ đồ 2.2: Hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân 125
  • 10. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quyền con người là thành quả phát triển của lịch sử lâu dài trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng, cải tạo xã hội và cải tạo thiên nhiên của cả nhân loại. Trong xu hướng toàn cầu hóa về kinh tế, giao lưu hợp tác nhiều mặt đang luôn được mở rộng, QCN ở mỗi quốc gia có giá trị chung giống nhau và là mục đích hướng tới của nhân loại. Đảm bảo QCN là một trong những nội dung quan trọng, nhằm mục đích xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Hiện nay, Đất nước ta đang trên đường đổi mới để xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Để đạt được điều đó, một yêu cầu đặt ra đối với pháp luật là phải bảo đảm QCN, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong đó đặc biệt bảo đảm QCN đối với nhóm yếu thế trong tố tụng hình sự - người bị hạn chế quyền tự do. Theo tinh thần Hiến pháp 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. quyền con người, quyền công dân chỉ có thế bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng [39, Điều 14]. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” cũng khẳng định: Đòi hỏi của công dân và xã hội đối với cơ quan tư pháp ngày càng cao; các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời phải là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm [3]. Việc tiến hành các hoạt động tố tụng hình sự bao giờ cũng tiềm ẩn trong nó
  • 11. 2 ít nhất hai loại nguy cơ. Nguy cơ thứ nhất là sự xung đột lợi ích giữa một bên là lợi ích của số đông mà đại diện là các cơ quan tiến hành tố tụng, và bên kia là lợi ích của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, những người bị tình nghi là đã thực hiện hành vi phạm tội. Nguy cơ thứ hai là nguy cơ lạm dụng quyền lực của những cơ quan và cá nhân được pháp luật giao cho rất nhiều quyền hành và công cụ. Chính vì vậy, vấn đề bảo vệ QCN cơ bản của các đối tượng bị hạn chế quyền tự do là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong quá trình tố tụng, trao cho họ những quyền năng tố tụng để họ có thể tự bảo vệ mình thông qua việc đòi hỏi một sự phán xét công minh từ phía Nhà nước là một vấn đề hết sức được chú trọng trong các văn kiện quốc tế quan trọng nhất về QCN cũng như trong pháp luật TTHS của đa số các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Hoạt động tố tụng hình sự là một mặt hoạt động của Nhà nước liên quan chặt chẽ với QCN. Hoạt động TTHS là nơi các biện pháp cưỡng chế Nhà nước được áp dụng phổ biến nhất; vì vậy là nơi QCN của các chủ thể tố tụng, đặc biệt là người bị hạn chế quyền tự do có nguy cơ dễ bị xâm hại. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử trong những năm qua cho thấy rằng cũng còn nhiều trường hợp vi phạm QCN đối với người bị hạn chế quyền tự do trong quá trình tiến hành tố tụng. Vì vậy, có thể nói nghiên cứu việc bảo đảm QCN đối với người bị hạn chế quyền tự do trong TTHS từ góc độ lập pháp cũng như áp dụng pháp luật có vai trò quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói chung, công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta nói riêng. Với lý do trên, tôi đã lựa chọn đề tài “Bảo đảm quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do trong luật tố tụng hình sự Việt Nam” làm luận văn Thạc sĩ Luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài Quyền con người là sự kết tinh những giá trị cao đẹp nhất trong nền văn hóa của nhân loại và được bảo vệ trong bất cứ hoàn cảnh nào, trên bất kỳ lĩnh vực nào của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực pháp lý. Vì vậy, vấn đề bảo đảm QCN nói chung, QCN trong hoạt động TTHS đã được nhiều tác giả nghiên cứu từ các góc độ và với các mức độ khác nhau.
  • 12. 3 Ở góc độ nghiên cứu về bảo đảm QCN nói chung trong Nhà nước pháp quyền, đã có các công trình "Quyền con người trong thế giới hiện đại" của nguyên Giám đốc trung tâm QCN Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh GS.TS. Hoàng Văn Hảo và Phạm Ích Khiêm; công trình "Triết học chính trị về Quyền con người " của Nguyễn Văn Vĩnh; công trình " Quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” của GS.TS. Trần Ngọc Đường; bài báo "Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với việc bảo đảm Quyền con người " của TS. Tường Duy Kiên; chuyên khảo "Quyền lực Nhà nước và Quyền con người " của PGS. TS. Đinh Văn Mậu; các công trình của GS. TSKH Lê Văn Cảm về Nhà nước pháp quyền, về bảo đảm QCN trong Nhà nước pháp quyền; giáo trình “Lý luận và pháp luật về Quyền con người” của PGS. TS. Nguyễn Đăng Dung, ThS. Vũ Công Giao, ThS. Lã Khánh Tùng đồng chủ biên. Góc độ pháp luật chuyên ngành nghiên cứu những đảm bảo QCN trong hoạt động tư pháp cũng như trong hoạt động tố tụng sự có các công trình nghiên cứu sau: Cấp độ luận án tiến sỹ luật học có các đề tài: "Bảo đảm Quyền con người trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Huy Hoàn, 2005. Bên cạnh đó, về giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận có các công trình sau: Công trình nghiên cứu khoa học cấp Đại học quốc gia “ Bảo vệ Quyền con người bằng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự trong giai đọan xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam” do GS.TSKH. Lê Văn Cảm, TS. Nguyễn Ngọc Chí, TS. Trịnh Quốc Tỏan đồng chủ trì; báo cáo "Bảo đảm Quyền con người trong tố tụng hình sự trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam" tại Hội thảo về QCN trong TTHS (do VKSND tối cao và Ủy ban nhân quyền Australia tổ chức tháng 3-2010) của PGS. TS. Nguyễn Thái Phúc; chuyên khảo "Bảo vệ Quyền con người trong luật hình sự, luật tố tụng hình sự Việt Nam" của TS. Trần Quang Tiệp; chuyên khảo "Những nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự Việt Nam" của PGS.TS. Hòang Thị Sơn và TS. Bùi Kiên Điện; các bài báo của GS.TSKH Lê Văn Cảm "Những vấn đề lý luận về bảo vệ Quyền con người bằng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự"; bài báo “Thực hiện dân chủ trong
  • 13. 4 tố tụng hình sự trong bối cảnh cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay” của PGS.TS Nguyễn Mạnh Kháng; bài báo "Nguyên tắc suy đoán vô tội" của PGS. TS. Nguyễn Thái Phúc; v.v. Ngoài ra, một số tác giả nghiên cứu ở các góc độ khác nhau, trong đó phải kể đến: chuyên khảo “Bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương trong tố tụng hình sự” của Trung tâm nghiên cứu quyền con người – quyền công dân và Trung tâm nghiên cứu tội phạm học và Tư pháp hình sự, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội năm 2011. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, khảo sát trên đây cho thấy, ở nước ta đã có một số công trình nghiên cứu cơ bản và trực tiếp về bảo đảm QCN nói chung, bảo đảm QCN trong hoạt động tư pháp. Các công trình nghiên cứu trên đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau về các quy định của pháp luật áp dụng (luật nội dung) đối với một số đối tượng bị hạn chế quyền tự do, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về bảo đảm QCN của người bị hạn chế quyền tự do trong TTHS Việt Nam. Ðiều này cho thấy sự cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu sâu hơn, toàn diện hơn nữa để từng bước hoàn thiện quy định của pháp luật TTHS Việt Nam để bảo vệ quyền cho người bị hạn chế quyền tự do là việc làm cần thiết và có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận bảo đảm QCN trong TTHS nói chung từ đó đánh giá một cách khách quan thực trạng quy định pháp luật cũng như thực tiễn hoạt động TTHS trong bảo đảm QCN của người bị hạn chế quyền tự do. Làm sáng tỏ những bất cập hạn chế, để đưa ra những kiến nghị và giải pháp tăng cường bảo đảm QCN của người bị hạn chế quyền tự do trong TTHS Việt Nam. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, trong quá trình nghiên cứu luận văn cần giải quyết những vấn đề sau: - Làm rõ những vấn đề lý luận về QCN, bảo đảm QCN và bảo đảm QCN của người bị hạn chế quyền tự do trong TTHS;
  • 14. 5 - Phân tích quy định của Bộ luật TTHS Việt Nam liên quan đến bảo đảm QCN của người bị hạn chế quyền tự do và thực tiễn áp dụng các quy định đó; tìm ra những hạn chế và bất cập về bảo đảm QCN của người bị hạn chế quyền tự do trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. - Đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS Việt Nam và tăng cường bảo đảm QCN của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong hoạt động TTHS. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài 4.1.Đối tượng nghiên cứu Ðối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn bảo đảm QCN của người bị hạn chế quyền tự do trong TTHS Việt Nam. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi không gian: Nghiên cứu phạm vi cả nước liên quan đến bảo đảm QCN của người bị hạn chế quyền tự do. - Phạm vi thời gian: Thực tiễn tố tụng từ năm 2010 đến tháng 6/2015. - Phạm vi nội dung: Tập trung chủ yếu vào bảo đảm QCN của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Nội dung đảm bảo quyền tập trung vào bảo đảm pháp lý, bao gồm các quy định pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về QCN của người bị hạn chế quyền tự do trong TTHS. Luận văn không đi sâu nghiên cứu các bảo đảm khác như bảo đảm về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. 5. Cơ sở lý luận và các phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Đường lối quan điểm của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước ta về bảo đảm QCN nói chung và bảo đảm QCN của người bị hạn chế quyền tự do trong TTHS nói riêng. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác-
  • 15. 6 Lênin (duy vật biện chứng và duy vật lịch sử), tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước và Pháp luật, về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về bảo đảm QCN. Việc nghiên cứu được thực hiện từ góc độ lý luận chung về QCN nói chung và từ góc độ TTHS nói riêng. Các phương pháp nghiên cứu: Phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, lịch sử, logic, thống kê, so sánh pháp luật, xã hội học. 6. Đóng góp khoa học của luận văn Luận văn là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống và tương đối toàn diện về vấn đề bảo đảm QCN của người bị hạn chế quyền tự do trong TTHS ở Việt Nam hiện nay. Vì vậy, luận văn có những đóng góp khoa học mới sau: - Trên cơ sở hệ thống hoá, phân tích khái niệm QCN, làm rõ thêm khái niệm, đặc trưng của QCN trong TTHS. - Phân tích khái niệm, đặc trưng của bảo đảm QCN. - Phân tích, làm rõ khái niệm, nội dung đảm bảo QCN của những người bị hạn chế quyền tự do theo quy định của luật TTHS. - Luận văn đánh giá toàn diện tìm ra những nguyên nhân tồn tại thiếu sót của thực trạng đảm bảo QCN của người bị hạn chế quyền tự do theo quy định của luật TTHS ở Việt Nam, đề xuất những quan điểm, giải pháp tăng cường đảm bảo QCN của người bị hạn chế quyền tự do trong TTHS Việt Nam. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Nội dung và kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật và đảm bảo QCN. Ngoài ra luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc tăng cường bảo đảm QCN trong TTHS ở Việt Nam hiện nay. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung của Luận văn gồm 03 chương 8 tiết.
  • 16. 7 Chương 1 LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CON NGƢỜI VÀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI CỦA NGƢỜI BỊ HẠN CHẾ QUYỀN TỰ DO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1. Nhận thức về quyền con ngƣời của ngƣời bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự 1.1.1. Khái niệm và phân loại quyền con người 1.1.1.1. Khái niệm quyền con người Quan niệm về quyền con người, trong lịch sử chính trị- tư tưởng của nhân loại, thuật ngữ QCN (nhân quyền) thường được sử dụng, nhưng cho đến nay chưa có quan niệm thống nhất. Ngay từ thời cổ đại đã có sự bàn luận về các quyền. Tuy nhiên, phải đến thế kỷ XVII, XVIII, quyền con người mới được các nhà tư tưởng bàn đến như một học thuyết. Khi bàn đến QCN, Jaeque Mourgeon trong cuốn "Các QCN" đã cho rằng: QCN trước hết được hiểu là những đặc quyền tự nhiên mà con người có. Đó là khả năng hành động có ý thức, trách nhiệm nhất là tự bảo vệ. Nhưng bản thân đặc quyền (quyền tự nhiên) chưa phải là QCN. Mà để đạt đến cái gọi là "quyền" thì phải có yếu tố thứ hai là pháp luật. Chỉ khi được pháp luật ghi nhận thì các đặc quyền của cá nhân mới trở thành đối tượng điều chỉnh của pháp luật và như vậy mới trở thành QCN. Trên cơ sở quan niệm đúng đắn và khoa học về con người, C. Mác đã xác định con người là một thực thể thống nhất, một “sinh vật – xã hội”. Do đó, QCN là sự thống nhất biện chứng giữa “quyền tự nhiên” (như một đặc quyền vốn có và chỉ con người mới có) và “quyền xã hội” – sự chế định bằng các quy chế pháp lý nhằm điều chính các mối quan hệ xã hội. Vì vậy trong điều kiện ngày nay, việc đưa ra khái niệm đúng đắn về QCN phải giải quyết được các quan hệ giữa cá nhân với xã hội, giữa tính nhân loại với tính giai cấp, giữa các giá trị đạo đức với pháp luật và quyền lực, giữa quan hệ quốc tế với lợi ích quốc gia, giữa khả năng và nhu cầu tự nhiên với những nỗ lực chủ quan.
  • 17. 8 Năm 1776, lần đầu tiên các QCN được ghi nhận trong Tuyên ngôn độc lập của Mỹ: "Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng, tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong đó có quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc". Năm 1791, trong Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền Pháp, QCN tiếp tục được xác định: "Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải được tự do bình đẳng về quyền lợi"... Từ đó các tiêu chí về QCN từng bước được các quốc gia thừa nhận và quy định trong pháp luật của nước mình. Về khái niệm QCN, ở cấp độ quốc tế, có một định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về QCN (Office of High Commissioner for Human Rights – OHCHR) thường được trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu. Theo định nghĩa này, QCN là những bảo đảm pháp lý toàn cầu (universal legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động (actions) hoặc sự bỏ mặc (omissions) mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép (entitlements) và tự do cơ bản (fundamental freedoms) của con người. Bên cạnh định nghĩa kể trên, một định nghĩa khác cũng thường được trích dẫn, theo đó, QCN là những sự được phép (entitlements) mà tất cả thành viên của cộng đồng nhân loại, không phân biệt giới tính, chủng tộc, tôn giáo, địa vị xã hội...; đều có ngay từ khi sinh ra, đơn giản chỉ vì họ là con người. Định nghĩa này mang dấu ấn của học thuyết về các quyền tự nhiên. Trong ý nghĩa ban đầu, thuyết pháp luật tự nhiên ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu tự do của con người; khẳng định QCN là tự nhiên, vốn có, nhằm đối lập, phủ nhận quan niệm QCN tự do vương quyền và thần quyền ban phát, tặng cho quyền tự nhiên. Ở nước ta, vấn đề QCN đã được nghiên cứu và phản ánh một cách phong phú và đa dạng thể hiện trong các tài liệu, văn kiện của Đảng, Nhà nước và các văn bản pháp luật. Theo Từ điển tiếng Việt 1992 thì quyền là “điều mà pháp luật hoặc xã hội công nhận cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi”. Theo Từ điển giải thích thuật ngữ pháp lý thông dụng: "QCN là các quyền tất yếu mà con người phải được hưởng và các quốc gia phải tôn trọng".
  • 18. 9 Như vậy, QCN là những điều mà pháp luật hoặc xã hội công nhận cho mỗi con người được hưởng. QCN được đặt trong mối quan hệ với nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với xã hội và được giải quyết trên cơ sở đảm bảo lợi ích xã hội. Bảo đảm QCN là bảo đảm dân chủ, bảo đảm hiệu quả, hiệu lực nhà nước cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Đây là mục tiêu mà Đảng và Nhà nước ta luôn hướng tới. Việc bảo đảm các QCN, quyền công dân phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng... trong đó nhà nước bảo đảm về mặt pháp lý, các cơ quan tố tụng bảo đảm thực thi pháp luật có hiệu quả là vấn đề cực kỳ quan trọng. Dù định nghĩa các chuyên gia, cơ quan nghiên cứu nêu ra không hoàn toàn giống nhau, nhưng xét chung, QCN thường được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế. 1.1.1.2. Phân loại quyền con người Trong khoa học pháp lý, căn cứ vào nội dung của nó, QCN được chia thành các nhóm cơ bản sau đây: - Các quyền chính trị bao gồm quyền tham gia quản lý Nhà nước và thảo luận các vấn đề chung của cả nước, quyền bầu cử và ứng cử, quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, quyền lập hội, quyền được thông tin, quyền biểu tình, quyền bình đẳng nam nữ, quyền khiếu nại, tố cáo v.v…; - Các quyền dân sự (các quyền tự do cá nhân) bao gồm quyền bất khả xâm phạm về thân thể, về chỗ ở, quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, quyền được bảo đảm an toàn và bí mật về thư tín, điện thoại, điện tín, quyền tự do đi lại và cư trú v.v…; - Các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội bao gồm quyền học tập, lao động, quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu tài sản hợp pháp, quyền phát minh, sáng chế, quyền được bảo vệ sức khỏe, quyền được bảo hộ về hôn nhân, gia đình, các quyền của các đối tượng đặc biệt như thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, người già, trẻ em, người tàn tật không nơi nương tựa v.v…
  • 19. 10 Ngoài ra, căn cứ vào mức độ điều chỉnh của pháp luật, QCN được phân thành các quyền cơ bản và các quyền pháp lý khác: - Quyền cơ bản của công dân (hay quyền hiến định) là các quyền quan trọng nhất, cơ bản nhất thể hiện mối quan hệ cơ bản nhất giữa Nhà nước và công dân được ghi nhận trong Hiến pháp, làm cơ sở cho việc cụ thể hóa các quyền pháp lý khác. Trong Hiến pháp nước ta năm 1992, các quyền cơ bản của công dân được quy định tại Chương V bao gồm các quyền chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội; - Quyền pháp lý khác là sự cụ thể hóa các quyền cơ bản của công dân trong các lĩnh vực pháp lý khác nhau được ghi nhận trong các văn bản pháp luật cụ thể. Ví dụ: QCN trong lĩnh vực hình sự, QCN trong lĩnh vực hành chính, QCN trong lĩnh vực lao động… Các QCN cụ thể này được cụ thể hóa trên cơ sở các quyền cơ bản và không trái với các quyền cơ bản được Hiến pháp quy định, thể hiện sự nhất quán của Nhà nước ta trong ghi nhận và bảo đảm QCN, quyền công dân. QCN và việc bảo đảm các QCN trong các lĩnh vực pháp lý cụ thể được quy định phụ thuộc vào tính chất của ngành luật và chức năng của Nhà nước trong lĩnh vực đó. Ví dụ: QCN trong lĩnh vực TTHS được quy định trên cơ sở cân nhắc rằng hoạt động TTHS gắn liền với vi phạm pháp luật nghiêm trọng nhất là tội phạm và chức năng của Nhà nước là phát hiện nhanh chóng, kịp thời và xử lý công minh người phạm tội; nhưng đồng thời hoạt động TTHS cũng liên quan rất nhiều tới các quyền cơ bản của con người v.v… Một điều đáng lưu ý trong nghiên cứu việc bảo đảm QCN là các QCN liên quan rất chặt chẽ với nhau, chúng tác động lên nhau rất lớn. Đặc biệt đóng vai trò quan trọng là các quyền cơ bản được Hiến pháp quy định; chúng có tác động quyết định đến việc bảo đảm thực hiện các QCN khác. Mất QCN là mất nhiều quyền chính trị khác như quyền bầu cử, quyền lập hội; quyền tự do thân thể bị xâm phạm có thể ảnh hưởng đến quyền tự do đi lại, quyền lao động, quyền học tập v.v… 1.1.2. Khái niệm quyền tự do và người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự Việt Nam 1.1.2.1.Khái niệm quyền tự do Tố tụng hình sự là toàn bộ hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng,
  • 20. 11 người tham gia tố tụng và cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội nhằm giải quyết vụ án khách quan, toàn diện, nhanh chóng, chính xác và đúng pháp luật. Hay nói cách khác, TTHS là hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Hoạt động TTHS là một quá trình nhằm giải quyết vụ án, trong đó có nhiều giai đoạn khác nhau phù hợp với tính chất, đặc điểm của các cơ quan tiến hành tố tụng. Quan điểm truyền thống ở nước ta cũng như ghi nhận của BLTTHS 2003 phân chia quá trình đó thành bốn giai đoạn tương ứng với chức năng của các cơ quan tiền hành tố tụng: khởi tố vụ án hình sự; điều tra và truy tố; xét xử; thi hành bản án và quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án. Nhưng trong phạm vi nghiên cứu này, tác giải không đưa thi hành ánh là một giai đoạn trong các giai đoạn của TTHS. Như vậy, hoạt động TTHS là hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng như Cơ quan điều tra và Điều tra viên, Viện kiểm sát và Kiểm sát viên, Tòa án và Thẩm phán, Thư ký, Hội thẩm; nhưng tham gia vào quá trình TTHS còn có những người tham gia tố tụng khác mà quyền và lợi ích của họ có liên quan đến vụ án hoặc đến quá trình tố tụng như người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng v.v... Từ xưa đến nay, tự do luôn là một khái niệm bí ẩn và trừu tượng đối với con người. Đúng như tên gọi, tự do không chịu khuôn mình vào bất kỳ chiếc khung nào, ngay cả trong những nỗ lực của các nhà triết học, các nhà khoa học ở mọi thời đại nhằm mô tả và lý giải khái niệm tự do. Có lẽ vì thế, cho đến nay, tự do là cái gì đó quen thuộc mà vẫn xa lạ đối với con người. Nhận thức của nhân loại về tự do mới chỉ dừng lại ở những phát hiện của các nhà triết học thời kỳ Khai sáng. Trong khi đó, với tư cách là một đối tượng triết học quan trọng, bên cạnh những nội dung nguyên thuỷ, khái niệm tự do vẫn đang không ngừng vận động và ngày càng chứa đựng thêm nhiều nội dung mới. Có nhiều cách để định nghĩa về quyền tự do hay tự do. Khái niệm tự do trong triết học được xem là một giá trị cao quý, cơ bản của nhân loại. Theo nhà triết học Locke (John Locke 1632-1704) “Tự do là khả năng con người có thể làm bất cứ
  • 21. 12 điều gì mà mình mong muốn mà không gặp bất kỳ cản trở nào". Như vậy tự do ở đây chỉ là khả năng của con người. Còn nhà triết học cận đại Hegel (G.W Friedrich Hegel 1770-1831) thì cho rằng: “Tự do là cái tất yếu được nhận thức”. Như vậy, ở đây tự do không chỉ là nhận thức mà cả ở hành động. Khái niệm quyền tự do theo quan điểm của những người theo chủ nghĩa tự do truyền thống chủ yếu là tự do của cá nhân khỏi sự ép buộc từ bên ngoài (tự do khỏi sự câu thúc). Mặt khác, quan điểm của các nhà tự do xã hội nhấn mạnh nhu cầu về sự bình đẳng xã hội và kinh tế. Họ gắn kết quyền tự do với sự phân phối công bình quyền lực chính trị (dân chủ) xét trong mặt nghĩa của tự do tích cực. Họ cho rằng tự do mà không có bình đẳng thì tương đương với việc những kẻ mạnh nhất sẽ chiếm thế chi phối. Do đó, tự do và dân chủ được xem là cặp đôi gắn bó và rút cục là tương phản nhau. Như vậy, quyền tự do hoặc tự do (tiếng Latinh: libertati, tiếng Anh: liberty) - là một khái niệm dùng trong triết học chính trị mô tả tình trạng khi một cá nhân không bị sự ép buộc, có cơ hội để lựa chọn và hành động theo đúng với ý chí nguyện vọng của chính mình. 1.1.2.2.Khái niệm người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự Người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự là một loại người trong nhóm người có nguy cơ bị xâm hại QCN cao, bao gồm những người mà QCN của họ có khả năng dễ bị xâm hại cao hơn những loại người khác trong TTHS. hại nhất định về thể chất, tinh thần, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác Trong phạm vi nghiên cứu này, người bị hạn chế quyền tự do bao gồm người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là những người tham gia tố tụng có vị trí trung tâm trong quá trình giải quyết vụ án. Họ là những người bị cơ quan tiến hành tố tụng coi là người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được BLHS quy định là tội phạm; tùy theo giai đoạn tố tụng khác nhau mà tên gọi cũng như địa vị pháp lý (quyền và nghĩa vụ TTHS) của người đó cũng khác nhau. + Người bị tạm giữ: Theo điều 48 BLTTHS, người bị tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người bị bắt theo lệnh truy nã hoặc
  • 22. 13 người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ. Hay nói cách khác, người bị tạm giữ là người bị nghi thực hiện tội phạm và đối với họ đã có quyết định tạm giữ của người có thẩm quyền. + Bị can: Thuật ngữ bị can được sử dụng trong TTHS từ những văn bản tố tụng đầu tiên của nước ta. Nhưng khái niệm pháp lý về bị can được quy định lần đầu trong BLTTHS năm 1988 (điều 34) và được sử dụng lại nguyên văn trong BLTTHS năm 2003. Theo điều 49 BLTTHS, bị can là người đã bị khởi tố về hình sự. Bị can là người mà Cơ quan điều tra có đủ căn cứ xác định rằng đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được BLHS quy định là tội phạm nên đã ra quyết định khởi tố bị can. Kể từ thời điểm quyết định khởi tố bị can, tức Nhà nước thể hiện sự buộc tội đối với con người cụ thể, bị can là người chính thức bị truy cứu trách nhiệm hình sự, bị buộc tội. Đây là điểm khác biệt rất lớn giữa bị can và người bị tạm giữ liên quan đến việc bảo đảm QCN của họ trong TTHS. Một người chỉ có thế bị khởi tố với tư cách bị can trong vụ án hình sự khi có đủ căn cứ xác định người đó đã thực hiện hành vi phạm tội. Việc xác định một người có tư cách bị can từ khi nào là rất quan trọng. Vì khi một người phát sinh tư cách bị can đồng nghĩa với việc người đó sẽ có các quyền và nghĩa vụ của bị can. Theo quy định của pháp luật TTHS hiện hành thì bị can là người bị khởi tố về hình sự và tham gia tố tụng từ khi có quyết định khởi tố bị can. Bị can sẽ tham gia vào các giai đoạn điều tra, truy tố và một phần giai đoạn xét xử sơ thẩm. Tư cách tố tụng của bị can sẽ chấm dứt khi Cơ quan điều tra đình chỉ điểu tra, Viện kiểm sát đình chỉ vụ án, Tòa án đình chỉ vụ án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử đối với bị can hoặc tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Khi một người bị khởi tố về hình sự thì họ sẽ trở thành đối tượng bị buộc tội trong vụ án, điều này không đồng nghĩa với việc xác định họ là người có tội. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc. BLTTHS 2003 quy định: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” [36, Điều 9]. + Bị cáo: Theo điều 50 BLTTHS, bị cáo là người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Sau khi Cơ quan điều tra kết thúc điều tra, thấy rằng có đủ chứng cứ
  • 23. 14 để khẳng định rằng bị can đã phạm tội do BLHS quy định thì đề nghị Viện kiểm sát truy tố ra trước Tòa án. Trong quá trình chuẩn bị xét xử,Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa thấy rằng có đủ điều kiện để đưa vụ án ra xét xử mà không phải trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung, không có căn cứ để đình chỉ hay tạm đình chỉ vụ án thì ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Từ thời điểm này, bị can trở thành bị cáo trong vụ án hình sự. Cũng như bị can, bị cáo là người bị cứu trách nhiệm hình sự, bị buộc tội. Vì vậy, địa vị pháp lý, tình trạng của bị cáo cũng giống như bị can; có nghĩa là bị cáo cũng có khả năng bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng do BLTTHS quy định, có nguy cơ bị xâm phạm các QCN cao, đã có sự buộc tội chính thức nên cần có các quyền tương ứng để bào chữa, cho nên các biện pháp bảo đảm QCN đối với bị can, bị cáo cơ bản giống nhau. Tuy nhiên, một điểm khác biệt quan trọng giữa bị can và bị cáo là bị cáo tham gia tố tụng trong một cơ chế tố tụng hoàn chỉnh, đầy đủ những người tham gia tố tụng, các cơ quan, người tiến hành tố tụng với chức năng buộc tội, bào chữa, xét xử; thực hiện các quyền tố tụng của mình trong phiên tòa công khai, dân chủ và bình đẳng. Rõ ràng, so với bị can tham gia tố tụng (nhất là hỏi cung) trong môi trường chỉ có người buộc tội, (trường hợp cá biệt mới có người bào chữa, người chứng kiến), bị cáo tham gia tố tụng trong phiên tòa công khai, không chỉ có mặt những người tham gia tố tụng, mà còn có sự chứng kiến của công chúng. Trong quá trình xét xử, người tiến hành tố tụng khó có khả năng sử dụng các biện pháp trái pháp luật, vi phạm QCN của bị cáo (như đe dọa bức cung, dùng nhục hình, mua chuộc nhận tội...); trong khi đó, đối với bị can thì tình trạng này dễ xảy ra hơn. Tóm lại, dù ở các mức độ khác nhau nhưng người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đều chỉ là những người bị nghi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được BLHS quy định là tội phạm. Họ là người tham gia tố tụng chiếm vị trí trung tâm trong TTHS; không có họ thì không thể có tiến trình tố tụng hoàn chỉnh. Đối với họ có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế TTHS; các hoạt động TTHS động chạm đến QCN của họ nhiều nhất. Tuy nhiên, vì chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của
  • 24. 15 Tòa án đối với họ, cho nên người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chưa phải là người phạm tội. Vì vậy, từ góc độ bảo đảm QCN, các biện pháp cưỡng chế tố tụng, các hạn chế tố tụng đối với họ chỉ ở mức cần và đủ để đạt được mục đích tố tụng là phát hiện nhanh chóng, xử lý công minh tội phạm và người phạm tội. 1.1.3. Khái niệm, đặc điểm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự 1.1.3.1.Khái niệm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự Như đã đề cập, quyền con người được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế. QCN là một hệ thống thống nhất không thể chia cắt, thể hiện trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong hoạt động của mình, Nhà nước có trách nhiệm bảo vệ quyền con người, ghi nhận quyền con người trong hệ thống văn bản pháp luật. Do đó, khái niệm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do cần được nghiên cứu một cách tổng quát ở nhiều phương diện với quan điểm cho rằng, quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự phải được đảm bảo bằng chính các yếu tố đã tạo ra nó, bảo đảm cho nó tồn tại và phát triển. Bên cạnh đó, khái niệm này cũng cần chỉ ra chủ thể có trách nhiệm đảm bảo quyền con người. Quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do thực chất cũng là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên và khách quan cần phải được bảo đảm của con người trong TTHS nói chung nhưng được áp dụng với một số người bị hạn chế quyền tự do cao hơn những loại người khác. Căn cứ vào nội dung khái niệm quyền con người nói chung, quy định của Hiến pháp Việt Nam cũng như đặc điểm của tố tụng hình sự, ta có thể hiểu, quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên và khách quan cần phải được đảm bảo của họ khi tham gia vào quá trình giải quyết vụ án hình sự, được thể hiện ở các quyền công dân quy định trong pháp luật Việt Nam.
  • 25. 16 Như vậy, quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do trong TTHS thực chất là những quyền của con người được thể hiện ở một lĩnh vực đặc thù là quá trình giải quyết vụ án hình sự, nó có những biểu hiện đặc thù về phạm vi, chủ thể, nội dung. 1.1.3.2. Đặc điểm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự Trong tố tụng hình sự, bảo đảm QCN của người bị hạn chế quyền tự do có đặc trưng riêng. Đó là trách nhiệm trực tiếp của các cơ quan tiến hành TTHS, người tiến hành TTHS, người tham gia TTHS và mọi tổ chức, cá nhân khác trong quá trình xây dựng, thực hiện QCN, là kết quả tổng hợp của hệ thống các quy định pháp luật bảo đảm QCN của nhóm người có nguy cơ bị xâm hại trong TTHS và cơ chế tổ chức thực hiện các quy định pháp luật đó trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Từ góc độ bảo đảm QCN, hoạt động TTHS có những đặc điểm sau đây: Thứ nhất, quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự nảy sinh trong một lĩnh vực đặc thù là quá trình giải quyết vụ án hình sự. - Quá trình giải quyết vụ án hình sự là hoạt động mang tính chất quyền lực Nhà nước. Hoạt động này được thực hiện bởi các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Đây là loại chủ thể bắt buộc trong tố tụng hình sự. - Quá trình giải quyết vụ án hình sự gắn liền với việc áp dụng luật hình sự. Thông thường, một người thực hiện hành vi vi phạm luật hình sự thì sẽ bị áp dụng các quy định của luật tố tụng hình sự. Bởi vậy, luật tố tụng hình sự là luật hình thức còn luật hình sự được xác định là luật nội dung. - Quá trình giải quyết vụ án hình sự bao gồm các giai đoạn có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau là khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự. Các giai đoạn này có những đặc thù riêng về chủ thể, nhiệm vụ, hành vi tố tụng, văn bản tố tụng, thời điểm bắt đầu và kết thúc. Theo lý luận chung, quá trình giải quyết vụ án hình sự bắt đầu từ khi xác định có dấu hiệu tội phạm, cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc vào bất cứ giai đoạn nào của tố tụng hình sự khi có căn cứ được pháp luật quy định. Chính trong những giai đoạn cụ thể này, quyền con người trong tố tụng hình sự được thực hiện.
  • 26. 17 Thứ hai, chủ thể quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự là người tiến hành tố tụng hình sự, người tham gia tố tụng hình sự. Chủ thể của quyền con người trong tố tụng hình sự là những con người cụ thể với các địa vị pháp lý khác nhau trong tố tụng hình sự, bao gồm: Người tiến hành tố tụng hình sự: Là những người được giao nhiệm vụ tiến hành giải quyết vụ án hình sự bao gồm Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó chánh án Toà án,Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Toà án. Người tham gia tố tụng hình sự: Là những người tham gia tố tụng vì có quyền, nghĩa vụ pháp lý liên quan đến vụ án, như người bị tạm giữ, bị can, bị . Thứ ba, trong tố tụng hình sự, nội dung của quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do được pháp luật quy định cụ thể. Quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự được ghi nhận rộng rãi trong hệ thống văn bản pháp luật như Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, luật thi hành án hình sự , Quy chế tạm giữ, tạm giam… được biểu hiện ra thành các quyền và nghĩa vụ của người tiến hành tố tụng hình sự, người tham gia tố tụng hình sự và mọi cá nhân tham gia vào quá trình giải quyết vụ án hình sự. Trong từng giai đoạn tố tụng hình sự, các chủ thể này có những quyền, nghĩa vụ khác nhau. Cơ chế đảm bảo quyền con người trong tố tụng hình sự cũng được cụ thể hoá trong pháp luật nhằm tạo cơ sở pháp lý để thực hiện. Thứ tư, thực hiện đúng pháp luật trong tố tụng hình sự đồng nghĩa với việc đảm bảo quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do Thực hiện đúng pháp luật trong tố tụng hình sự là trách nhiệm của mọi chủ thể tham gia vào tố tụng hình sự. Thực hiện đúng pháp luật trong tố tụng hình sự phải thể hiện được hai yêu cầu: Một mặt, hệ thống pháp luật được áp dụng phải có chất lượng cao, nội dung pháp luật đó phải phản ánh được các quy luật khách quan của xã hội. Mặt khác, các chủ thể tố tụng hình sự phải thực hiện đúng, đầy đủ các quyền, nghĩa vụ pháp lý của mình theo quy định pháp luật.
  • 27. 18 Quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự được đảm bảo bởi nhiều yếu tố khác nhau trong đó có pháp luật. Sự vi phạm pháp luật trong tố tụng hình sự là biểu hiện của sự vi phạm quyền con người. Do đó, thực hiện đúng pháp luật trong tố tụng hình sự là đồng nghĩa với việc đảm bảo quyền con người. 1.2. Khái niệm, nội dung, vai trò bảo đảm quyền con ngƣời của ngƣời bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự 1.2.1. Khái niệm bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự Theo quan niệm chung, "Đảm bảo là làm cho chắc chắn, thực hiện được, giữ gìn được hoặc có đầy đủ những gì cần thiết" [43, tr.175]. Mặc dù hiện nay vẫn chưa có khái niệm cụ thể được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật, nhưng đảm bảo QCN có thể được hiểu là đảm bảo các điều kiện, yếu tố nhằm thực hiện QCN trong lĩnh vực này theo quy định của pháp luật. Đây là hình thức đảm bảo QCN bằng quyền lực nhà nước một cách công khai, dân chủ, bình đẳng và khách quan nhất, nên có hiệu lực và hiệu quả cao nhất. Vì vậy, bảo đảm QCN nói chung là sự ổn định về chế độ chính trị, xã hội, một nền dân chủ rộng rãi, một nền kinh tế phát triển và ổn định, các QCN được quy định đầy đủ về số lượng, chất lượng v.v… Bảo đảm QCN nói chung là trách nhiệm của Nhà nước, tổ chức và mọi cá nhân trong quá trình xây dựng, thực hiện QCN, là kết quả tổng hợp của các yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục, pháp lý. Những yếu tố này được xem xét với tính chất là tiền đề, điều kiện cần thiết đảm bảo thực hiện QCN. Trong TTHS, bảo đảm QCN của nhóm người bị hạn chế quyền tự do có đặc trưng riêng. Đó là trách nhiệm trực tiếp của các cơ quan tiến hành TTHS, người tiến hành TTHS, người tham gia TTHS và mọi tổ chức, cá nhân khác trong quá trình xây dựng, thực hiện QCN, là kết quả tổng hợp của hệ thống các quy định pháp luật bảo đảm QCN của nhóm người bị hạn chế quyền tự do trong TTHS và cơ chế tổ chức thực hiện các quy định pháp luật đó trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
  • 28. 19 Khái niệm trên đã nêu được chủ thể có trách nhiệm đảm bảo QCN trong TTHS trong đó nhấn mạnh vai trò của cơ quan tiến hành TTHS, người tiến hành TTHS đối với hoạt động này. Để bảo đảm QCN trong TTHS, bên cạnh việc củng cố và tăng cường các bảo đảm QCN nói chung, còn phải bảo đảm các yếu tố mang tính đặc trưng riêng có của QCN trong TTHS, như: Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về bảo đảm QCN trong TTHS; cơ chế giám sát đối với việc bảo đảm QCN trong TTHS; cơ cấu, tổ chức và hoạt động của các cơ quan tố tụng; cơ sở vật chất, kỹ thuật của hoạt động tố tụng. Để bảo đảm QCN trong TTHS, yếu tố quyết định vẫn là con người trong việc tổ chức và tiến hành các hoạt động tố tụng. Họ là người tham gia vào các quy trình hoạt động tố tụng, quyết định các vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng, như: tính mạng, tự do, tài sản... của người phạm tội, danh dự, uy tín, tài sản của các bên đương sự và những người tham gia tố tụng khác liên quan... Vì vậy, những người tiến hành các hoạt động tố tụng phải là người có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có kinh nghiệm công tác đồng thời phải là người có phẩm chất chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, có bản lĩnh vững vàng. Đó là yếu tố cần và đủ để trong hoạt động tố tụng họ mới đảm bảo được sự khách quan toàn diện, đầy đủ, đúng pháp luật, bảo vệ được quyền và lợi ích của công dân, góp phần giữ vững an ninh, chính trị trật tự an toàn xã hội. Tóm lại, đảm bảo QCN của người bị hạn chế quyền tự do trong TTHS là việc đảm bảo về cơ sở pháp lý của QCN trong TTHS, các điều kiện, yếu tố cần và đủ để duy trì sự ổn định, phát triển và hoàn thiện về QCN trong TTHS. Bao gồm các yếu tố cơ bản: Hệ thống các quy phạm pháp luật; hệ thống các cơ quan tố tụng; năng lực, trình độ, chuyên môn của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng; hướng dẫn áp dụng pháp luật và tuyên truyền giáo dục pháp luật; cơ sở vật chất, kỹ thuật đáp ứng với yêu cầu của hoạt động; bảo đảm quốc tế đối với QCN của người bị hạn chế quyền tự do.
  • 29. 20 1.2.2. Nội dung bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự 1.2.2.1. Những bảo đảm chung về quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự Các quyền cơ bản của công dân đã được quy định trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác như Luật bầu cử, Bộ luật dân sự, Luật sở hữu trí tuệ… Là công dân, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền được tôn trọng và bảo đảm các quyền được pháp luật quy định, trừ các trường hợp BLTTHS quy định khác nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ TTHS. QCN nói chung cần được bảo đảm bao gồm: Một là, bảo đảm dân chủ trong quản lý nhà nước, xã hội. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, chế độ dân chủ xuất phát từ con người và vì con người. Cho nên, QCN, quyền công dân chỉ thực sự được phát triển và đảm bảo dưới chế độ dân chủ. Dân chủ và QCN, quyền công dân là những khái niệm khác nhau nhưng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Dân chủ được hiểu là phương thức, cơ chế quản lý xã hội, trong đó nhân dân được coi là chủ thể quyền lực. Dân chủ cũng có thể được hiểu là quyền làm chủ của nhân dân, trước hết là quyền làm chủ về chính trị. Ở khía cạnh này, dân chủ là một phận của QCN, quyền công dân. Do đó, quyền làm chủ của công dân là yếu tố quyết định bản chất dân chủ của chế độ xã hội, đồng thời chế độ Nhà nước dân chủ là điều kiện để đảm bảo các quyền tự do của con người. Với quan điểm trên, dân chủ là phương tiện đảm bảo và phát triển QCN, quyền công dân và sự phát huy dân chủ là cơ sở để mở rộng thêm phạm vi và làm sâu sắc hơn về nội dung quyền công dân. Hai là, bảo đảm về kinh tế. Đảm bảo sự ổn định, phát triển về kinh tế là cơ sở để đảm bảo và phát triển đối với mọi lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Vì thế, những điều kiện để ổn định và không ngừng nâng cao đời sống vật chất của con người có tính quyết định đối với việc hiện thực hóa các vấn đề liên quan đến đảm bảo QCN, quyền công dân nói chung và đảm bảo QCN trong lĩnh vực TTHS nói riêng. Trong mối quan hệ này, C.
  • 30. 21 Mác đã chỉ rõ: " quyền con người phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế và sự phát triển văn hóa do chế độ kinh tế đó quy định" [6, tr.122]. Bởi vậy, chỉ trên cơ sở đảm bảo được sự ổn định về đời sống kinh tế, thì các đảm bảo khác về mặt chính trị, văn hóa, xã hội mới được thực hiện. Bởi vì sự phát triển kinh tế là cơ sở và nền tảng cho sự phát triển các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, và ngược lại. Để đáp ứng yêu cầu đó, Nhà nước ta đã ban hành hàng loạt các văn bản pháp luật nhằm đảm bảo các chính sách về bảo vệ quyền tự do sản xuất kinh doanh, về chính sách bảo hiểm, bảo hộ người lao động, bảo hộ người tiêu dùng và đặc biệt là bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân khi bị xâm hại hoặc bị tranh chấp. Ba là, bảo đảm về xã hội. Chính sách xã hội đối với QCN, quyền công dân ở nước ta được thể hiện trong chiến lược con người với mục tiêu và động lực phát triển đất nước vì sự phát triển toàn diện của con người. Vì thế, trong cương lĩnh của Đảng đã xác định "Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc của con người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội" [12, tr.25]. Vấn đề này được Đảng ta tiếp tục xác định rõ trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX là: "Thực hiện các chính sách xã hội hướng vào phát triển và lành mạnh hóa xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối, tạo động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp" [12, tr.104]. Trên cơ sở đó, Nhà nước ta đã và đang ban hành các văn bản pháp luật về các chủ trương chính sách này nhằm góp phần đảm bảo QCN, quyền công dân trên lĩnh vực chính sách xã hội nói chung, trong đó có lĩnh vực đảm bảo QCN trong lĩnh vực HĐTP vì sự bình đẳng, công bằng trong xã hội. Hiện nay, chỉ trên cơ sở đảm bảo về mặt xã hội mới có điều kiện để giải quyết các vấn đề liên quan đến HĐTP như: quản lý đối với người bị HIV, những người nghiện ma túy, những người bị các bệnh truyền nhiễm khác trong TTHS. Bốn là, bảo đảm Nhà nước thật sự là của dân, do dân và vì dân.
  • 31. 22 Nhà nước pháp quyền với đặc trưng cơ bản là sự thống trị tối cao của pháp luật trong đời sống xã hội và yêu cầu đặt ra đối với pháp luật đó phải là pháp luật vì con người, bảo vệ quyền và lợi ích của con người. Trong Nhà nước pháp quyền, những nguyên tắc đảm bảo QCN được thể hiện qua mối quan hệ giữa công dân với Nhà nước, "những vấn đề liên quan đến việc thực hiện quyền, đó là sự thống nhất giữa quyền và nghĩa vụ, quyền con người trong mối quan hệ với chế độ dân chủ, nhà nước và pháp quyền..." [6, tr.122]. Quan hệ đó ở nước ta được xác định rõ là Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, mọi quyền lực nhà nước thuộc về dân. Như vậy sự tồn tại và hoạt động của Nhà nước ta vì một mục đích duy nhất là vì con người. Để xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam, Đảng ta đã có nhiều định hướng, chính sách nhằm đẩy mạnh cải cách và nâng cao hiệu lực hoạt động của bộ máy nhà nước, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ: "Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp và hành pháp, tư pháp" [12, tr.48]. Năm là, các bảo đảm khác. QCN, quyền công dân được đảm bảo và thực hiện phụ thuộc rất lớn vào trình độ dân trí của mỗi quốc gia. Chỉ trên cơ sở trình độ dân trí, công dân mới nhận thức được đầy đủ quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình để thực hiện hành vi của mình theo yêu cầu của pháp luật, chế ngự được khả năng, điều kiện vi phạm pháp luật, vi phạm đến quyền lợi của người khác. Do vậy, phát triển khoa học công nghệ, tiến hành cải cách nâng cao chất lượng của hệ thống giáo dục của công dân nhằm nâng cao dân trí, bồi dưỡng năng lực làm chủ của công dân đã được Đảng và Nhà nước ta xác định là quốc sách hàng đầu trong Hiến pháp 1992 sửa đổi và các Văn kiện của Đảng. Cùng với sự phát triển khoa học công nghệ, công tác cải cách phát triển giáo dục, mở rộng mạng lưới thông tin rộng khắp trong cả nước là yêu cầu được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, đã trở thành một phương tiện không thể thiếu được
  • 32. 23 của nhân dân nhằm nâng cao dân trí, bảo đảm QCN tham gia vào việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội. 1.2.2.2. Những bảo đảm đặc trưng về quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự Bảo đảm pháp lý có nội dung rộng hơn khái niệm pháp luật, nó được hiểu là hệ thống các quy định pháp luật quy định về QCN và cơ chế tổ chức thực hiện các quy định đó trong thực tiễn cuộc sống. Nội dung cụ thể bao gồm: Một là, bảo đảm thông qua hệ thống các quy định pháp luật quy định về quyền con người trong tố tụng hình sự và tổ chức, hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự Ở Việt Nam, QCN là các giá trị đối với những thành quả cách mạng đã đạt được trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc đã được quy định bằng pháp luật thành các quyền và nghĩa vụ của công dân. Vì vậy, Điều 14 Hiến pháp 2013 sửa đổi quy định: "Ở Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các QCN, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật" [54, tr.31]. Vì vậy, để bảo đảm QCN trong TTHS, trước hết phải xây dựng hệ thống các quy phạm pháp luật hoàn chỉnh trong lĩnh vực này. “Đó chính là chuẩn mực chung, công bằng đối với tất cả mọi người, vừa cần đến Nhà nước để thực hiện công bằng xã hội vừa cần đến để hạn chế sự lạm quyền" [20, tr.13], thông qua đó, công dân mới có cơ sở pháp lý để thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia vào quan hệ pháp luật trong lĩnh vực TTHS. Khi nghiên cứu vấn đề bảo đảm QCN của người bị hạn chế quyền tự do trong TTHS là cần tập trung phân tích các quy định của BLTTHS và thực hiện các quy định đó trên thực tế các nội dung cơ bản sau đây: - Nghiên cứu các nguyên tắc cơ bản TTHS liên quan đến bảo đảm QCN trong TTHS như tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân (điều 4), nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân (điều 6),
  • 33. 24 nguyên tắc bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân (điều 7), nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của công dân (điều 8), nguyên tắc suy đoán không có tội (điều 9), nguyên tắc xác định sự thật của vụ án (điều 10), nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (điều 11), nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng (điều 12), nguyên tắc xét xử công khai (điều 18), nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án (điều 19), nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan (điều 29), nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường của người bị thiệt hại do cơ quan hoặc người có thẩm quyền tiến hành TTHS gây ra (điều 30) và nguyên tắc bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong TTHS (điều 31)… Nguyên tắc TTHS là tư tưởng chỉ đạo được quy định trong BLTTHS cần được tuân thủ trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự. Tuân thủ các tư tưởng chỉ đạo liên quan đến việc bảo vệ quyền tự do, dân chủ của công dân, đến quyền tố tụng của những người tham gia tố tụng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo đảm QCN của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. - Quy định địa vị tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng. Mục đích của hoạt động tố tụng là giải quyết khách quan, toàn diện, đầy đủ, đúng pháp luật các vụ án để xác định đúng quyền và nghĩa vụ pháp lý mà công dân phải thực hiện, tránh việc xử oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức. cơ cấu, tổ chức và hoạt động của các cơ quan tố tụng. Muốn vậy, các văn bản quy phạm pháp luật phải quy định đầy đủ, cụ thể rõ ràng về trình tự, thủ tục giải quyết các vụ án; xác định rõ quyền và nghĩa vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; người tham gia tố tụng; quyền và nghĩa vụ của tổ chức bổ trợ tư pháp và các cơ quan tổ chức, cá nhân khác khi họ tham gia tố tụng. Đặc biệt, cần tập trung vào việc nghiên cứu trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành TTHS trong mối quan hệ với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và quyền tố tụng của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong TTHS. Bởi vì tôn trọng quyền công dân, nâng cao trách nhiệm của Nhà nước, của cơ quan Nhà nước đối với
  • 34. 25 công dân là một trong những đặc điểm của Nhà nước pháp quyền. Quan hệ giữa Nhà nước với công dân, mà cụ thể hơn là quan hệ giữa cơ quan, người tiến hành tố tụng với người tham gia tố tụng nói chung, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nói riêng là thể hiện rõ nhất tính chất dân chủ trong xã hội, trong quá trình TTHS. Tăng cường trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng, quyền của người tham gia tố tụng là điều kiện rất quan trọng để đảm bảo QCN của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong TTHS. Bên cạnh đó,việc đảm bảo tổ chức hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng là một trong những yêu cầu quan trọng góp phần đảm bảo QCN của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong TTHS. Cùng với việc cải cách bộ máy của mình, trong những năm qua, các cơ quan tố tụng đã được điều chỉnh dần từng bước về cơ cấu, tổ chức. Đối với VKSND: Theo quy định của Hiến pháp 2013 ở nước ta, VKS là cơ quan nhà nước thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Hoạt động của VKS có một vị trí đặc biệt quan trọng trong hoạt động TTHS. Vì vậy, đảm bảo về tổ chức và hoạt động của VKS nhằm đảm bảo chức năng, thẩm quyền kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS và thực hiện quyền công tố chính là cơ sở để đảm bảo QCN, quyền công dân trong TTHS đồng thời hạn chế được vi phạm QCN từ phía người tiến hành tố tụng. Để đạt được yêu cầu trên việc đổi mới về cơ cấu, tổ chức và hoạt động của cơ quan VKSND là một yêu cầu tất yếu. Vì thế, yêu cầu đặt ra là là cơ cấu, tổ chức và hoạt động của cơ quan VKS phải sát hợp với chức năng nhiệm vụ được giao, kiểm sát viên phải hội tụ đủ trình độ chuyên môn, tinh thông nghiệp vụ, có phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức và công tâm trong việc thực hiện chức năng của mình. Cơ cấu tổ chức của VKSND năm 2014 có một số điểm mới cơ bản, một trong số đó phải kể đến đổi mới hệ thống VKSND theo thẩm quyền xét xử của Toà án, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính, tạo cơ sở pháp lý để xây dựng tổ chức bộ máy VKSND các cấp theo hướng chuyên sâu, đáp ứng yêu cầu mở rộng thẩm quyền [Sơ đồ 1.1 Phụ lục]. Theo đó, thì hệ thống VKSND gồm có:
  • 35. 26 - VKSND tối cao - VKSND cấp cao - VKSND cấp tỉnh - VKSND cấp huyện - Viện kiểm sát quân sự Đối với TAND: TAND là nơi phán quyết tất cả các vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ pháp lý của những người có quyền và nghĩa vụ liên quan đến lĩnh vực tố tụng. Yêu cầu đặt ra là bộ máy của TAND phải hoàn thiện, hoạt động nhanh nhạy đúng chức năng, thẩm quyền, đội ngũ Thẩm phán phải đảm bảo đủ về số lượng, có năng lực chuyên môn, thông thạo nghiệp vụ và có phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức tốt. Cũng giống như VKSND , cơ cấu tổ chức của TAND cũng có sự thay đổi [Sơ đồ 1.2 Phụ lục]. Theo đó, Luật tổ chức TAND năm 2014 quy định hệ thống tổ chức Tòa án ở nước ta gồm: - TAND tối cao. - TAND cấp cao. - TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. - TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương. - Tòa án quân sự. Đối với Cơ quan điều tra: Ở nước ta, Cơ quan điều tra là một bộ phận không thể thiếu được của TTHS, là một trong ba cơ quan nhà nước thực hiện TTHS theo quy định của pháp luật. Đó là cơ quan trực tiếp tiến hành các hoạt động điều tra, thu thập, củng cố, chứng minh các chứng cứ nhằm xác minh sự thật khách quan của vụ án, làm cơ sở cho việc truy tố bị can ra trước Tòa án. Hoàn thiện về cơ cấu, tổ chức và hoạt động của cơ quan điều tra để cơ quan này nhạy bén kịp thời trong việc đối phó các tình huống mới nảy sinh trong thực tế hoạt động đấu tranh phòng và chống tội phạm, thực hiện đúng chức năng nhiệm vụ, thẩm quyền, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, là yêu cầu mang tính nguyên tắc. Để đạt được mục tiêu đó, cơ cấu, tổ chức và hoạt động của các cơ quan điều
  • 36. 27 tra phải sát hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao, đội ngũ điều tra viên phải được đào tạo đầy đủ về chuyên môn, tinh thông về nghiệp vụ, có bản lĩnh nghề nghiệp, có phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức tốt nhằm thực hiện tốt nhất nhiệm vụ của người điều tra là kịp thời phòng và chống tội phạm đồng thời đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp cho bị can trong hoạt động tố tụng của mình. Đồng thời phải phối hợp củng cố nhà tạm giữ, tạm giam có đủ những điều kiện cho hoạt động phòng và chống tội phạm cũng như đáp ứng yêu cầu đảm bảo quyền của người bị tạm giữ. Mô hình tổ chức của CQĐT ở nước ta đã được xây dựng vào những năm đầu thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và nó được hoàn thiện dần trong quá trình đấu tranh phòng chống tội phạm. Theo quy định của BLTTHS và Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự thì hệ thống CQĐT bao gồm: - Trong ngành công an: + CQĐT thuộc Lực lượng Cảnh sát nhân dân, hệ thống này được tổ chức ở 3 cấp là Bộ, tỉnh, huyện. Ở Bộ Công an có Cục cảnh sát điều tra; ở công an cấp tỉnh có Phòng cảnh sát điều tra và ở công an cấp huyện có Đội cảnh sát điều tra. + CQĐT thuộc Lực lượng An ninh nhân dân được tổ chức ở cấp bộ và tỉnh. Ở Bộ công an có Cục điều tra an ninh và ở công an cấp tỉnh có Phòng điều tra an ninh. - Trong quân đội nhân dân: + CQĐT hình sự quân đội được tổ chức ở 3 cấp theo tổ chức của quân đội là Cục điều tra hình sự ở Bộ quốc phòng; Phòng điều tra hình sự ở Bộ tổng tham mưu các tổng cục, quân khu, quân đoàn, quân chủng và Ban điều tra hình sự ở binh chủng, bộ chỉ huy quân sự tỉnh và cấp tương đương. + CQĐT an ninh quân đội được tổ chức ở 2 cấp: ở Bộ quốc phòng có Cục điều tra an ninh và ở cấp quân khu có Phòng điều tra an ninh. - Trong hệ thống Viện kiểm sát: + VKSND tối cao có Cục điều tra hình sự. + CQĐT của Viện kiểm sát quân sự Trung ương có Phòng điều tra. - Quy định các biện pháp ngăn chặn (bắt, tạm giữ, tạm giam) trong TTHS. Đặc biệt, chú trọng đến thẩm quyền (áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp), căn cứ
  • 37. 28 áp dụng, thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế tố tụng được người có thẩm quyền áp dụng đối với người bị nghi thực hiện tội phạm, bị can, bị cáo khi có đủ căn cứ luật định nhằm ngăn chặn hành vi nguy hiểm cho xã hội, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án [5, tr.69]. Là những biện pháp cưỡng chế, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn có liên quan rất lớn đến QCN của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; đặc biệt là các quyền bất khả xâm phạm về thân thể, các quyền tự do dân chủ khác. Bởi vì, trong TTHS, chỉ có người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là những đối tượng duy nhất bị áp dụng biện pháp ngăn chặn. Quy định và áp dụng biện pháp ngăn chặn đúng thẩm quyền, đúng căn cứ, đúng thủ tục và đúng thời hạn… là những đảm bảo quan trọng cho việc bảo đảm QCN của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Khi công tố quyền được phát động, để tạo điều kiện cho các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện chức năng phát hiện, xử lý tội phạm, pháp luật cho phép họ được áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong đó hạn chế một số quyền tự do của người bị tình nghi, bị can, bị cáo. Tuy nhiên, sự hạn chế tự do của người bị buộc tội phải đảm bảo nguyên tắc pháp chế, tránh sự lạm quyền. Pháp luật TTHS Việt Nam quy định khá chặt chẽ các căn cứ để áp dụng biện pháp ngăn chặn như tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú… cũng như các biện pháp cưỡng chế TTHS khác như khám người, khám chỗ ở, tịch thu thư tín…. Tất cả các biện pháp cưỡng chế TTHS trên đòi hỏi các cơ quan THTT không được áp dụng tùy tiện, lạm dụng mà chỉ được thực hiện khi có căn cứ và theo đúng trình tự, thủ tục luật định. Xu hướng chung của TTHS văn minh là hạn chế ở mức thấp nhất việc áp dụng các biện pháp tạm giữ, tạm giam đồng thời mở rộng các biện pháp khác “mềm” hơn như đặt tiền, bảo lãnh… Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn và cưỡng chế TTHS đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng vừa đảm bảo nhiệm vụ phát hiện, xử lý tội phạm, vừa không xâm phạm đến QCN của những người bị bị hạn chế quyền tự do. Điều quan trọng là cần có chế tài nghiêm khắc xử lý những hành vi bắt tạm giữ, tạm giam quá mức cần thiết hoặc chế tái pháp luật của những người THTT.
  • 38. 29 - Quy định các thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử từ góc độ QCN để các thủ tục đó không xâm phạm quyền công dân cũng như bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện đầy đủ các quyền tố tụng, đảm bảo cho việc giải quyết vụ án dân chủ, công khai, khách quan. Là cách thức, trình tự thực hiện hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thủ tục tố tụng một mặt bảo đảm cho hoạt động tố tụng tiến hành được chính xác, khách quan; mặt khác để các hoạt động đó không hạn chế quyền tố tụng của người tham gia tố tụng nói chung, của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nói riêng. Bởi vì, ngay trong các hoạt động tố tụng (như lấy lời khai, khám xét, thu giữ vật chứng, tài liệu, đồ vật…) đã chứa đựng yếu tố cưỡng chế. Quy định thủ tục tố tụng chặt chẽ tức là đã giới hạn để người tiến hành tố tụng thực hiện những hành vi tố tụng được BLTTHS quy định, từ đó tránh được việc xâm phạm QCN. Hai là, bảo đảm trình độ nhận thức, năng lực chuyên môn và ý thức pháp luật, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng Trong điều kiện nước ta hiện nay, đòi hỏi xây dựng được một đội ngũ cán bộ tư pháp nói chung và người tiến hành tố tụng nói riêng tận tâm, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, có khả năng hoàn thành nhiệm vụ là rất cần nhằm bảo đảm QCN nói chung và QCN trong TTHS nói riêng. Bảo đảm QCN của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo phụ thuộc rất nhiều vào sự hoàn thiện của các quy định pháp luật và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật. Tuy nhiên, dù pháp luật có quy định cụ thể đến đâu thì hiệu quả của nó phụ thuộc rất nhiều vào quan điểm, nhận thức của người áp dụng pháp luật trong từng trường hợp cụ thể trong thời gian tới cần đảm bảo đủ số lượng, nâng cao chất lượng cán bộ tư pháp để có thể đủ sức đảm đương những công việc khó khăn và phức tạp. Con người bao giờ cũng là nhân tố quan trọng, quyết định chất lượng mọi hoạt động. Muốn bảo đảm QCN của người bị hạn chế quyền tự do trong TTHS, hạn chế được oan sai, giải quyết bồi thường thoả đáng phải nâng cao trình độ chuyên môn pháp luật cho người tiến hành tố tụng, đồng thời phải không ngừng trau dồi nhân cách, trong đó vấn đề giáo dục lương tâm và ý thức về uy tín nghề nghiệp phải được đặt lên hàng đầu; thực hiện tốt chế độ báo cáo đối với cơ quan có thẩm quyền
  • 39. 30 và trước nhân dân thông qua cơ quan đại diện của họ tại địa phương (ở mức độ cho phép nếu không làm ảnh hưởng tới việc giải quyết vụ án); đảm bảo cơ chế kiểm tra, giám sát của cơ quan có thẩm quyền và của nhân dân. Những người tiến hành tố tụng phải thực hiện đúng quy định pháp luật trong qúa trình giải quyết vụ án hình sự, thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn của mình quy định trong BLTTHS. Họ là những người tiến hành tố tụng, do đó phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của TTHS. Đặc biệt là các nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân gồm: Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân; nguyên tắc không ai có thể bị coi là có tội, nếu chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật; nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; nguyên tắc bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo và quyền được bồi thường thiệt hại của công dân trong TTHS; nguyên tắc dùng tiếng nói, chữ viết trong TTHS. Trên cơ sở quán triệt tinh thần cải cách tư pháp về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ của các cơ quan tư pháp, cần tập trung đào tạo những cán bộ giỏi, chuyên sâu trong từng lĩnh vực để có nhiều chuyên gia giỏi, khắc phục tình trạng chất lượng cán bộ còn yếu kém như hiện nay. Đồng thời, cần nâng cao sự phối hợp giữa các cơ quan THTT nhất là giữa ĐTV và KSV trong việc tạm giữ, tạm giam, kịp thời tháo gỡ khó khăn, phát huy trí tuệ tập thể để có đường lối giải quyết đúng với quy định pháp luật. Ba là, bảo đảm thông qua hướng dẫn áp dụng Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật Trong TTHS, bảo đảm QCN của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không chỉ đơn thuần bằng các biện pháp pháp lý. Khi đã có những quy định pháp luật, việc thực hiện các quy định đó lại phụ thuộc vào từng con người cụ thể. Vì vậy, còn phải chú trọng đến các biện pháp tổ chức, biện pháp giáo dục đối với các cán bộ trong các cơ quan tiến hành tố tụng để họ thấy rõ nghĩa vụ, trách nhiệm của mình khi tiến hành các hành vi tố tụng khác nhau. Tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật là một phương pháp hiệu quả
  • 40. 31 nhằm nâng cao hiểu biết của người dân về kiến thức pháp luật. Điều này một mặt giúp người dân tự ý thức và tuân thủ pháp luật,tự bảo vệ những lợi ích chính đáng của bản thân và lợi ích chung của xã hội, mặt khác giúp cơ quan THTT nhanh chóng phát hiện và có biện pháp xử lý kịp thời đối với những hành vi phạm tội. Thực tiễn cho thấy, phần lớn nhân dân do thiếu hiểu biết pháp luật mà nhất là pháp luật TTHS nên đôi khi còn có thái độ tiêu cực trong đấu tranh phòng chống tội phạm. Hay do sợ mất thời gian, sợ liên lụy tới pháp luật, sợ bị trả thù… nên không tích cực vào việc tố giác tội phạm. Thậm chí có những người vì những lý do cá nhân khác nhau mà cung cấp thông tin thiếu chính xác, sai sự thật gây khó khăn cho cơ quan THTT. Bởi vậy, công tác tuyên truyền giáo dục cho nhân dân là rất cần thiết và cần được thực hiện bằng nhiều hình thức như: Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, thông qua các tổ chức đoàn thể quần chúng, các tổ chức chính trị, xã hội, thông qua các cuộc thi tìm hiểu pháp luật dưới dạng sân khấu hóa, thông qua các phiên tòa xét xử nhất là các phiên tòa xét xử lưu động,,, và đặc biệt quan tâm hơn nữa công tác giáo dục pháp luật từ các cấp trong trường học để tạo thói quen và tạo ý thức tôn trọng pháp luật. Đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo cần phải được thường xuyên giáo dục chính sách, pháp luật, nội quy nhà tạm giữ, trại tạm giam, quy chế về tạm giữ, tạm giam nhằm nâng cao nhận thức cho người bị tạm giữ, tạm giam, hạn chế đến mực thấp nhất việc họ có thể phạm tội mới ở nhà tạm giữ, tạm giam, đồng thời nâng cao hiểu biết để họ tự bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân. Và cuối cùng, phải động viên tích cực quần chúng nhân dân tham gia vào nhiệm vụ đấu tranh chống tội phạm và các vi phạm pháp luật dưới nhiều hình thức khác nhau, trong đó, kiểm tra giám sát các hành vi của các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng để đảm bảo quyền QCN cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Bốn là, bảo đảm xử lý vi phạm, khắc phục kịp thời các hậu quả của vi phạm quyền con người do hoạt động tố tụng hình sự gây ra Pháp luật nước ta ở các mức độ khác nhau quy định về việc xử lý các vi
  • 41. 32 phạm QCN. Tùy theo tính chất và mức độ vi phạm, pháp luật quy định các biện pháp pháp lý tương ứng như xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính, buộc phải bồi thường và cao nhất là trách nhiệm hình sự đối với người vi phạm. Ví dụ: BLHS nước ta có các chương riêng quy định về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm và danh dự con người, quy định các tội xâm phạm các QCN; ngoài ra, các tội phạm xâm phạm QCN cũng được quy định ở các chương khác của BLHS. Đồng thời với các biện pháp xử lý trên, trong tố tụng các vi phạm làm hạn chế các quyền, lợi ích của công dân thông thường được coi là các vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và là một trong những căn cứ để cơ quan tố tụng có thẩm quyền hủy bỏ kết quả hoạt động tố tụng trước đó để tiến hành lại hoặc buộc phải tiến hành các hoạt động tố tụng bổ sung. Một vấn đề cần đặc biệt lưu ý trong hoạt động lập pháp về QCN là cần xem xét đến các quy định của pháp luật quốc tế về QCN mà nước ta đã tham gia. Một trong những bảo đảm quan trọng cho việc tôn trọng và bảo vệ các QCN là việc phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm các quyền đó. Liên quan đến việc xử lý các vi phạm QCN bao gồm các biện pháp: Quy định cụ thể các hành vi vi phạm và chế tài đối với hành vi đó; tổ chức xử lý các hành vi vi phạm QCN; tổ chức thi hành các quyết định xử lý vi phạm của các cơ quan có thẩm quyền; trong đó bao gồm cả thi hành các biện pháp xử phạt được quyết định và phục hồi quyền, lợi ích hoặc bồi thường thiệt hại cho công dân. Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, các biện pháp xử lý bao gồm: - Xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức; - Xử phạt hành chính; - Bồi thường thiệt hại và phục hồi quyền, lợi ích bị xâm hại; - Truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi vi phạm nghiêm trọng QCN được BLHS quy định là tội phạm. Việc xử lý nghiêm minh, có hiệu quả các vi phạm QCN đòi hỏi một cơ chế tố tụng cụ thể, công khai, khách quan. Hiện nay, việc xử lý các vi phạm QCN được thực hiện bằng biện pháp tổ chức, bằng thủ tục hành chính và bằng thủ tục tố tụng tư pháp. Trong đó, có thể nói, việc tiến hành xử lý các vi phạm theo thủ tục tố tụng