Download luận văn thạc sĩ ngành luật hình sự với đề tài: Vai trò người bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh, cho các bạn làm luận văn tham khảo
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://baocaothuctap.net
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
Luận văn: Vai trò người bào chữa trong điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ HỒNG SINH
VAI TRÒ NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA
VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
3. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ HỒNG SINH
VAI TRÒ NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA
VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GS.TS. VÕ KHÁNH VINH
4. HÀ NỘI, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “ Vai trò người bào chữa trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” là công trình nghiên cứu của
riêng tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học của GS-TS Võ Khánh Vinh. Các số liệu ghi
trong luận văn là có thật, kết quả nghiên cứu là trung thực.Tôi hoàn toàn chịu
trách nhiệm về kết quả nghiên cứu và tính trung thực của luận văn .
Tác giả luận văn
Lê Hồng Sinh
5. MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ..................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ PHÁP LUẬT VỀ VAI
TRÒ NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH
SỰ .............................................................................................................................9
1.1. Khái niệm người bào chữa..............................................................................9
1.2. Vai trò của người bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ..............14
1.3. Lịch sử hình thành và phát triển địa vị pháp lý của người bào chữa trong tố
tụng hình sự Việt Nam .........................................................................................25
1.4. Những yếu tố tác động đến vai trò của người bào chữa trong giai đoạn điều
tra vụ án hình sự...................................................................................................26
Chương 2: THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG
GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH......................................................................................................................30
2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về vai trò của người bào
chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.........................................................30
2.2. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật Tố tụng hình sự về vai trò
của người bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự tại Thành phố Hồ Chí
Minh trong bốn năm ( 2015-2018). .....................................................................31
2.3. Thực trạng tác động đến việc thực hiện quy định của pháp luật Tố tụng hình
sự về vai trò của người bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự tại thành
6. phố Hồ Chí Minh .................................................................................................42
2.4. Vai trò của người bào chữa là luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
của một số nước trên thế giới...............................................................................51
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM VAI TRÒ CỦA NGƯỜI BÀO
CHỮA TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ...........................59
3.1. Hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự về địa vị pháp lý của
người bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự........................................59
3.2. Hoàn thiện tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về
địa vị pháp lý của người bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự..........67
3.3. Các giải pháp khác........................................................................................68
KẾT LUẬN ............................................................................................................72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
7. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS : Bộ luật hình sự
BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự
CQĐT : Cơ quan điều tra
CQTHTT : Cơ quan tiến hành tố tụng
KSV : Kiểm sát viên
LSBC : Luật sư bào chữa
NBC : Người bào chữa
NBBT : Người bị buộc tội
TPHCM : thành phố Hồ Chí Minh
TTHS : Tố tụng hình sự
VAHS : Vụ án hình sự
VKS : Viện kiểm sát
8. DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng số liệu về số lượng luật sư và tổ chức hành nghề luật sư trên địa bàn
cả nước trong bốn năm ( 2015 - 2018 ).
Kết quả khảo sát hoạt động bào chữa của luật sư thuộc Đoàn Luật sư thành
phố Hồ Chí Minh trong bốn năm ( 2015 - 2018 ).
9. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo vệ quyền con người luôn là nhiệm vụ quan trong của nhà nước Xã hội
Chủ nghĩa ở nước ta, ngày nay nhiệm vụ này càng quan trọng hơn bao giờ,trong
bối cảnh lịch sử Việt nam đang tiến hành công cuộc đổi mới, hội nhập sâu rộng
cùng bạn bè trong khu vực và trên thế giới. Song song với nhiệm vụ phát triển
kinh tế Đảng và Nhà nước ta chú trọng xây dựng một nhà nước pháp quyền ” của
dân, do dân, vì dân”, xây dựng hệ thống pháp luật nhằm đảm bảo cho việc phát
triển các quyền tự do, dân chủ của công dân. Quyền bào chữa của người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo là quyền cơ bản quan trọng của công dân khi tham gia vào quá
trình tố tụng. Đảm bảo quyền bào chữa luôn là nguyên tắc Hiến định được thể chế
hoá từ Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp năm 2013. Đặc biệt trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự thì việc bảo đảm quyền bào chữa thì càng có ý nghĩa quan
trọng đối với người bị tạm giữ, bị can. Điều tra là giai đoạn trước truy tố trong quá
trình tiến hành tố tụng hình sự, chính vì vậy quyền bảo đảm cho quyền bào chữa
trong giai đoạn điều tra sẽ giúp cho việc gỡ tội, chứng minh sự vô tội, làm giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị tạm giữ, bị can. Đồng thời bảo vệ được
quyền và lợi ích hợp pháp của các đối tượng này. Quy định của pháp luật về tư
cách người bào chữa với người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là
khác nhau. Mặc dù vậy, nội dung của Hiến pháp năm 2013 quy định: vai trò người
bào chữa tham gia tố tụng với tư cách nào, ở giai đoạn tố tụng nào đều có ý nghĩa
to lớn trong việc bảo vệ công lý, bảo đảm cho các hoạt động tố tụng được tiến
hành khách quan, đúng pháp luật.
10. 2
BLTTHS năm 2015 là quan điểm, tư tưởng xuyên suốt quá trình xây
dựng,vận hành của cơ chế, trình tự tố tụng hình sự, là nền tảng cho các chủ thể tiến
hành và tham gia tố tụng thực hiện đúng chức năng, quyền hạn, nghĩa vụ của mình,
nhằm bảo đảm mục tiệu, nhiệm vụ của tố tụng hình sự phù hợp với điều kiện lịch sử,
cụ thể của Việt Nam.Trong các giai đoạn tiến hành tố tụng có nhiều đụng chạm,có
thể dẫn đến việc hạn chế quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân,
nên đòi hỏi giai đoạn điều tra vụ án hình sự phải có sự tham gia của người bào chữa
để các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện chức năng tuân thủ đúng pháp luật và
các nguyên tắc cơ bản được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự.
Những năm gần đây,tình hình vi phạm pháp luật ở nước ta trong lĩnh vực
hình sự diễn biến phức tạp về tính chất và mức độ. Tuy nhiên, chất lượng công tác
cải cách tư pháp vẫn chưa đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ trong đời sống xã hội, còn
bộc lộ nhiều yếu kém, như bỏ lọt tội phạm, làm oan sai người vô tội; xâm phạm
đến các quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của xã hội và công dân,gây
nhiều hậu quả đáng tiếc cho người bị kết án oan, người thân của họ và cho xã hội.
Đây chính là điều kiện để bảo đảm tính hiện thực của quyền con người, quyền
công dân, bảo đảm sự cân bằng, minh bạch và lành mạnh giữa các lợi ích trong
mối quan hệ giữa Nhà nước với con người, công dân, cá nhân và phù hợp với các
công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên.
Tố tụng hình sự nhằm giải quyết vụ án hình sự mà mục tiêu là đấu tranh
phòng và chống tội phạm. Trong hoạt động ấy đã hình thành một bên nhân danh
nhà nước, gồm có: Cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan có thẩm quyền tiến hành
tố tụng. Theo đó, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng gồm cơ quan tiến hành
11. 3
tố tụng và cơ quan có chức năng, nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
Cơ quan tiến hành tố tụng là: Cơ quan điều tra; Viện kiểm sát; Tòa án. Như
vậy, phạm vi chủ thể của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bao hàm cả cơ
quan tiến hành tố tụng trong đó.
Một bên thực hiện việc buộc tội đối với bị can, bị cáo còn bên kia thực hiện
chức năng gỡ tội (gọi chung là người bào chữa bao gồm: Luật sư, BCVND,
TGVPL ...). Trong hoạt động tố tụng, đều có chung một mục đích là làm rõ sự thật
của vụ án, chính xác, khách quan, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi
hành vi phạm tội, đảm bảo xét xử đúng người đúng tội, không để lọt tội phạm,
không làm oan người vô tội.
Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 và Nghị
quyết số 49/NQ-TW ngày 2-6-2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Hoạt động bào chữa, vai trò của người bào chữa là không thể thiếu và cần phải
được phát huy có hiệu quả. Việc nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn để làm sáng tỏ
các hoạt động trong quá trình tố tụng hình sự, thông qua vai trò của người bào
chữa trong giai đoạn điều tra VAHS là cần thiết và cấp bách.
Vì lý do đó tác giả chọn đề tài: “Vai trò của người của người bào chữa
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn thanh phố Hồ Chí
Minh“ để làm luận văn Thạc sĩ của tác giả .
2. Tình hình nghiên cứu :
Tác giả chọn đề tài “Vai trò của người của người bào chữa trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn thanh phố Hồ Chí Minh“ trong luật
thực định Việt nam.
12. 4
Thông qua đó tìm ra những tồn tại, hạn chế về mặt thự tiễn so với quy định
của pháp luật tố tụng hình sự, chỉ ra đượng những nguyên nhân của vấn đề, từ đó
nêu ra những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền bào chữa
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Qua đó nhằm bảo đảm quyền bào chữa cho
người bị tạm giữ, bị can trong giai đoạn điều tra. Tạo điều kiện cho các đối tượng
này để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước cơ quan tiến hành tố tụng
và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu :
Nghiên cứu đề tài này, tác giả hướng tới mục đích làm rõ thêm cơ sở lý
luận và thực tiễn, bản chất, nội dung về vấn đề vai trò của người bào chữa trong
giai đoạn điều tra VAHS. Đồng thời nêu ra những bất cập của các quy định trong
BLTTHS, các cơ quan THTT trong hoạt động giai đoạn điều tra VAHS và những
bất cập về vai trò của người bào chữa trong thực tiễn trên địa bàn thành phố Hồ
Chí Minh, thông qua đó đề xuất những giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động
vai trò của người bào chữa nhằm hướng tới xây dựng một nền tố tụng hình sự Viêt
nam thực sự công bằng, dân chủ góp phần thực hiện quá trình cải cách tư pháp.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ của luận văn được đặt ra là:
Nghiên cứu cơ sở lý luận của hoạt động của các cơ quan THTT trong hoạt động
giai đoạn điều tra VAHS và vai trò của người bào chữa trong giai đoạn điều tra:
Khái niệm, đặc điểm, điều kiện, yêu cầu, ý nghĩa; Cơ sở pháp lý quy định về vai
trò người bào chữa trong giai đoạn điều tra VAHS.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu :
13. 5
Từ những nội dung trên tìm hiểu về vai trò của người bào chữa trong giai
đoạn điều tra VAHS trong thực tiễn áp dụng theo luật định hiện hành,trên cơ sở
kết quả nghiên cứu và những đánh giá về thực trạng tranh hiện nay, luận văn đề
xuất một số giải pháp về vai trò của người bào chữa nhằm nâng cao hiệu quả vai
trò người bào chữa trong giai đoạn điều tra VAHS ở nước ta trước yêu cầu cải
cách tư pháp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu tập trung ở đề tài ” Vai trò của người của người bào
chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự”theo quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015 ( BLTTHS ) và Thông tư 70/2011/TT/BCA ngày 10 tháng 10
năm 2011 của Bộ trưởng Bộ công an quy định chi tiết thi hành các quy định của
Bộ luật tố tụng hình sự liên quan đến việc bảo đảm quyền bào chữa trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự và một số van bản Quy phạm pháp luật khác.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu, phân tích làm rõ nguyên tắc bảo đảm quyền bào
chữa trong giai đoạn điều tra, các biện pháp bảo đảm quyền bào chữa trong giai
đoạn điều tra. Một số tồn tại, hạn chế trong thực tiễn bảo đảm quyền bào chữa đến
từ phía cơ quan điều tra, người bào chữa, người bị tạm giữ, bị can. Nguyên nhân
và giải pháp nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền bào chữa trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự.
Để cho hoạt động của người bào chữa có hiệu quả thì nhiều vấn đề cả về
14. 6
pháp lý, lý luận và thực tiễn cần phải được làm rõ,đó là vấn đề lớn.Trong phạm vi
của một luận văn thạc sĩ không thể xem xét và giải quyết hết mọi vấn đề mà chỉ
dừng lại nghiên cứu một vấn đề: “Vai trò của người của người bào chữa trong
giai đoạn điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh“
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1.Phương pháp luận nghiên cứu
Vận dụng quan điểm Duy vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác-Lê Nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, tinh thần, nội dung nghị quyết các thời kỳ đại hội của Đảng
Cộng sản Việt Nam để giải quyết các vấn đề đặt ra trong luận văn.
5.2.Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu: Phân tích luật viết, phân tích, so
sánh, tổng hợp, liệt kê, thống kê số liệu .Dựa vào việc nghiên cứu các văn bản
pháp luật trong lịch sử tố tụng hình sự Việt Nam. Tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp
luật hiện hành trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Về lý luận:
Thông qua nội dung nghiên cứu trong luận văn góp một phần vào việc
hoàn chỉnh thêm những qui định hiện hành trong pháp luật tố tụng hình sự về vai
trò của người bào chữa trong giai đoạn điều tra VAHS để hướng tới yêu cầu trọng
tâm của cải cách tư pháp theo tinh thần của Nghị Quyết 49/NQ-TW của Bộ chính
trị về công cuộc cải cách tư pháp cho đến năm 2020.
15. 7
6.1. Về thực tiễn:
Thông qua những kiến nghị cụ thể trong luận văn hy vọng góp một phần
vào hoạt động của người bào trong các giai đoạn tố tụng hình sự , đặc biệt là vai
trò người bào chữa trong giai đoạn đầu của tố tụng: “giai đoạn điều tra vụ án hình
sự” nhằm nâng cao hiệu quả theo tinh thần cải cách tư pháp của Bộ chính trị.
Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can, trong các giai đoạn tố tụng
hình sự, thì giai đoạn khởi tố, điều tra là giai đoạn dễ xâm phạm quyền con người
nhất. Vì vậy, trong giai đoạn này, nhằm bảo đảm cho pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất trong quá trình điều tra vụ án, bảo đảm bất cứ hành vi
phạm tội nào xâm phạm đến quyền con người đều phải được phát hiện, xử lý
trước pháp luật và các hoạt động điều tra. Vai trò của người bào chữa rất cần thiết,
để đảm bảo các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người bị bắt, bị tạm giữ, bị can
được tuân thủ đúng quy định của pháp luật.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, danh mục các chữ viết tắt, bảng biểu, kết luận và danh
mục tài liệu tham khảo, nội dung của Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và lịch sử pháp luật về vai trò người bào
chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
Chương 2: Thực trạng vai trò của người bào chữa trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh
Chương 3: Các giải pháp bảo đảm vai trò của người bào chữa là Luật sư
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
17. 9
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ PHÁP LUẬT VỀ VAI TRÒ
NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm người bào chữa
1.1.1. Khái niệm người bào chữa
Vấn đề định nghĩa người bào chữa: xung quanh khái niệm này có nhiều ý
kiến khác nhau, cho rằng “Người bào chữa là người tham gia tố tụng để giúp đỡ
tòa án” hay“Người bào chữa là người giúp đỡ tòa án trong việc xác định các tình
tiết cần thiết về vụ án để cuối cùng tòa án ra một bản án có căn cứ pháp luật”,
thậm chí có quan điểm còn cho rằng. Người bào chữa tham gia tố tụng là nhằm để
bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội, chứng minh sự vô tội
hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.
Những người không được bào chữa gồm: Người dịch thuật, người định giá
tài sản, người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, người đã bị kết án chưa được
xóa án tích, người đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc ( khoản 4 Điều 72 Bộ luật Tố tụng hình
sự 2015).
1.1.2. Khái niệm người bào chữa là luật sư
Hoạt động tham gia tố tụng/tranh tụng của Luật sư luôn gắn liền với hoạt
động xét xử, thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước; ảnh hưởng trực tiếp đến tự
do, tài sản, các quyền nhân thân, thậm chí cả tính mạng của khách hàng.
Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của Toà án là độc
18. 10
lập, công khai, các bên (bên buộc tội và bên gỡ tội) trong vụ án hình sự. Đối với
VAHS, Luật sư tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho người bị buộc
tội, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị
khởi tố hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại, đương sự. Luật sư
tham gia tố tụng VAHS xác định tư cách tố tụng một cách độc lập, có các quyền
và nghĩa vụ tương ứng theo quy định tại các luật, bộ luật tố tụng liên quan.
Khái niệm người bào chữa là luật sư như sau:“ Tham gia tố tụng là hoạt
động của luật sư trong việc cung cấp dịch vu pháp lý với tư cách người bào chữa,
người đại diện hoặc người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho khách hàng“. Hoạt
động tố tụng của Luật sư là hoạt động có tính đối kháng cao, đặc biệt là này luôn
diễn ra trong không gian và thời gian theo quy định tại các luật, bộ luật tố tụng
liên quan. [20, tr. 26].
1.1.3. Sự khác nhau giữa người bào chữa là luật sư với người bào chữa khác
Tính chất của nghề Luật sư:
Hiến pháp năm 2013 có những tác động lớn và quan trọng đến vai trò, vị trí
của luật sư trong xã hội, trong hệ thống chính trị và trong hoạt động nghề nghiệp.
Điều 3 của Luật luật sư (sửa đổi năm 2012) quy định như sau : “Hoạt động nghề
nghiệp của luật sư góp phần bảo vệ công lý, các quyền tự do, dân chủ của công
dân... Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam Xã hội chủ nghĩa, xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh”.
Luật sư là một nghề tự do được xã hội tôn trọng,hoạt động độc lập, chịu
trách nhiệm cá nhân. Uy tín và thương hiệu của mỗi luật sư là cơ sở quan trọng
nhất để luật sư phát triển nghề nghiệp và đóng góp cho xã hội. Nó gắn liều uy tín
19. 11
và danh dự nghề nghiệp. Luật sư là một nghề dịch vụ có tính đặc thù vì có liên
quan đến quyền và lợi ích của khách hàng và pháp luật của Nhà nước - các cơ
quan THTT, các cơ quan nhà nước khác. Vì vậy luật sư một mặt phải bảo vệ
quyền lợi tốt nhất cho khách hàng, mặt khác phải ứng xử và phối hợp với các cơ
quan nhà nước để cùng nhau góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ pháp chế. Nghề luật
sư va chạm với nhiều mặt trái xã hội, những vấn đề kinh tế và thể chế xã hội. Luật
luật sư: “ Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn,điều kiện hành nghề theo quy định của
Luật này, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức “.
Tiêu chuẩn người hành nghề luật sư: Công dân Việt Nam trung thành với Tổ
quốc.... Nghề luật sư trước hết là một nghề luật, nền tảng hoạt động phải dựa trên
pháp luật và các quy chế trách nhiệm nghề nghiệp. Pháp luật về luật sư được coi là
hệ thống các quy phạm pháp luật xác định vị trí, vai trò của luật sư trong xã hội,
quy định các quyền và nghĩa vụ của luật sư trong hành nghề, phạm vi quản lý nhà
nước đối với hoạt động luật sư, tính tự quản trong tổ chức nghề nghiệp... Trong
lĩnh vực tố tụng, luật sư tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị hại, nguyên
đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình
sự...[23]
Năm 2018 số luật sư thành viên của cả nước là: 13.081 luật sư, số luật sư
hoạt động chuyên về tham gia tố tụng chiếm đa số so với các luật sư hoạt động
chuyên về tư vấn pháp luật cũng như cung cấp các dịch vụ pháp lý khác. Việc luật
sư tham gia tố tụng không những bảo đảm tốt hơn quyền bào chữa của bị can, bị
cáo, quyền được bảo vệ lợi ích hợp pháp của các đương sự, mà còn giúp các cơ
quan tiến hành tố tụng phát hiện, sửa chữa những thiếu sót, sai lầm, hạn chế oan
20. 12
sai, làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
Về người bào chữa là Bào chữa viên nhân dân:
Đây là một diện chủ thể mang tính đặc thù vai trò người bao chữa là Bào
chữa viên nhân dân ở Việt Nam, được hình thành trong bối cảnh cuộc kháng chiến
chống Pháp (theo Sắc lệnh 69-SL ngày 18 tháng 6 năm 1949). Theo Nghị định số
01 ngày 12 tháng 1 năm 1950 của Bộ Tư pháp thì điều kiện trở thành bào chữa
viên chỉ bao gồm: người có quốc tịch Việt Nam, ít nhất 21 tuổi, hạnh kiểm tốt và
chưa can án, được Chánh án lựa chọn (hàng năm).
BLTTHS năm 2015 quy định: Bào chữa viên nhân dân là công dân Việt
Nam từ 18 tuổi trở lên, trung thành với Tổ quốc, có phẩm chất đạo đức tốt, có kiến
thức pháp lý, đủ sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao, được Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hoặc tổ chức thành viên của Mặt trận cử tham gia bào
chữa cho người bị buộc tội là thành viên của tổ chức mình. Bào chữa viên nhân
dân tham gia tố tụng để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong 2
trường hợp sau:
Thứ nhất: nếu bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ không
mời người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đề nghị Mặt trận
tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành
viên của tổ chức mình (điểm c khoản 2 điều 76 BLTTHS 2015).
Thứ hai: Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của mặt
trận tự cử Bào chữa viên nhân dân tham gia TTHS. Theo quy định tại khoản 4
điều 75 BLTTHS năm 2015, Mặt trận tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên
của Mặt trận có quyền và trách nhiệm tự cử Bào chữa viên nhân dân tham gia
21. 13
TTHS để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức
mình.” [11].
Về người bào chữa là Trợ giúp viên pháp lý:
Trợ giúp pháp lý theo BLTTHS năm 2015: Trợ giúp viên pháp lý là một
dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý theo quy định.
Do tính chất của vụ việc trợ giúp pháp lý liên quan đến quyền, lợi ích hợp
pháp của người được trợ giúp pháp lý và không thuộc lĩnh vực kinh doanh, thương
mại, nên TGPL là trách nhiệm của Nhà nước. Nhà nước giữ vai trò nòng cốt trong
việc thực hiện, tổ chức thực hiện TGPL, khuyến khích tạo điều kiện để MTTQVN
và các tổ chức thành viên, các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác tham gia thực hiện
( Điều 8 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017).
Về người bào chữa là “ người đại diện hợp pháp “
Là người đại diện hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là bố mẹ
đẻ, bố mẹ nuôi, người đỡ đầu, anh, chị em ruột và những người theo quy định của
pháp luật đối với bị can bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về
thể chất hoặc tinh thần.
Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can... nếu tham gia bào
chữa thì họ cũng có những quyền như người bị tạm giữ, bị can...
Đối với Pháp nhân Thương mại: BLTTHS năm 2015 quy định người bị
tạm giữ, bị can là người hoặc Pháp nhân“Bị can là người hoặc pháp nhân bị khởi
tố về hình sự. Quyền và nghĩa vụ của bị can là pháp nhân được thực hiện thông
qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật này”;
22. 14
Pháp nhân thương mại :Với tư cách là chủ thể của pháp luật tố tụng hình sự, pháp
nhân thông qua người đại diện theo pháp luật có quyền và nghĩa vụ tham gia đầy
đủ vào các giai đoạn tố tụng hình sự được quy định tại Điều 434 Bộ luật tố tụng
hình sự. Quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật.
1.2. Vai trò của người bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
1.2.1. Vai trò người bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
Vai trò người bào chữa là tổng hòa các hành vi tố tụng hướng tới bãi bỏ sự
buộc tội và xác định bị can không có lỗi hoặc nhằm làm giảm nhẹ trách nhiệm của
bị can”,“Bào chữa trong tố tụng hình sự không chỉ là tổng hoà các hành vi tố tụng
hướng tới việc bác bỏ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm mà còn là tổng hoà
các mối quan hệ tố tụng nhằm tới mục đích làm cho tình trạng của người bị buộc
tội tốt hơn và bảo đảm các quyền và lợi ích của người đó trong vụ án.
1.2.2. Sự khác nhau giữa vai trò người bào chữa trong giai đoạn điều tra
VAHS với vai trò người bào chữa trong giai đoạn khác :
Vai trò người bào chữa giai đoạn tranh tung trong tố tụng hình sự : Kiểm sát
viên khi luận tội phải căn cứ vào những chứng cứ,tài liệu đồ vật đã được kiểm tra
tại phiên toà và ý kiến của bị cáo , người bào chữa và những người tham gia tố
tụng khác tại phiên toà. Người bào chữa có quyền trình bày ý kiến, đưa ra chứng
cứ, tài liệu và những lập luận của mình để đối đáp với Kiểm sát viên về những
chứng cứ buộc tội, gỡ tội. Mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn hiện nay ở Việt nam,
cho phép mở rộng khả năng tranh tụng ( người bào chữa ), đối kháng giữa một
23. 15
bên buộc tội và một bên gỡ tội. Đề cao vai trò của Toà án như một trọng tài khách
quan là hoàn toàn phù hợp với chủ trương nêu trong Nghị quyết số 08-NQ/TW và
NQ số 49-NQ/TW của Bộ chính trị Đảng Cộng sản Việt nam khoá IX.
Phát huy tính kế thừa của Bộ Luật Tố tụng hình sự Việt nam qua các thời
kỳ, khái quát chung về vai trò người bào chữa như sau:
”Quyền bào chữa là trong những quyền cơ bản và đặc trưng của mỗi
công dân, bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự là nguyên tắc quan
trọng của tố tụng hình sự xã hội chủ nghĩa.Việc thực hiện nguyên tắc quyền
bào chữa không những thể hiện tính dân chủ mà còn thể hiện tính nhân đạo
xã hội chủ nghĩa trong hoạt động tư pháp xã hội chủ nghĩa. “Người bào chữa
trong tố tụng hình sự là người tham gia tố tụng để chứng minh sự vô tội hoặc
làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội, giúp người bị buộc
tội về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, thông qua
đó góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa”.
1.2.3. Mối quan hệ giữa vai trò và địa vị pháp lý của Luật sư trong giai
đoạn điều vụ án hình sự
Bào chữa, bảo vệ quyền lợi cho các đương sự là một trong những hoạt
động quan trọng, và trong nhiều trường hợp là quy định bắt buộc không thể thiếu
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; người bị hại; người có quyền, nghĩa vụ liên
quan trong vụ án hình sự. Thực tiễn cho thấy, không phải người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo, đương sự nào cũng có khả năng tự bào chữa, tự bảo vệ quyền lợi hợp pháp
cho mình. Để thực hiện được tốt nhiệm vụ bào chữa, bảo vệ quyền lợi hợp pháp
24. 16
cho người bị tạm giữ, bị can... bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, người bào chữa
cần được tham gia vào giai đoạn điều tra VAHS. Điều 74 Bộ luật Tố tụng hình sự
2015 quy định như sau: Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can.
Trường hợp bắt, tạm giữ người thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi
người bị bắt có mặt tại trụ sở của cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ.
Vai trò người bào chữa trong giai đoạn điều tra VAHS là việc dùng lý lẽ ,
đưa ra tài liệu, chứng cứ để xác định tình trạng vô tội hoặc làm giảm nhẹ trách
nhiệm của bị can... trong giai đoạn điều tra của vụ án.Với tính chất là một giai
đoạn quan trọng trong quá trình tố tụng, giai đoạn điều tra là giai đoạn quan trọng
của tố tụng hình sự, nhằm thu thập, củng cố, đánh giá chứng cứ để làm sáng tỏ sự
thật khách quan của vụ án bởi theo quy định của BLTTHS.
1.2.4. Các nguyên tắc cơ bản trong Bộ luật TTHS:
Đặc điểm chung của mô hình tố tụng hình sự tồn tại 3 chức năng cơ bản:
Chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và chức năng xét xử. Sự ra đời của Nghị
quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị khóa XI đã đặt cơ sở quan
trọng cho việc tiếp tục đổi mới và cải cách tư pháp. Hoạt động tố tụng hình sự,
nhất là giai đoạn điều tra VAHS được quan tâm hàng đầu trong vấn đề cải cách tư
pháp không chỉ tại Việt Nam mà còn cả ở các nước trên thế giới. Mục tiêu là bảo
đảm việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, tránh oan sai cho người vô
tội gắn với việc đảm bảo quyền con người. Trong quá trình hình thành và phát
triển của pháp luật Việt Nam, các nhà nghiên cứu và lập pháp quan tâm đến pháp
điển hoá chế định các nguyên tắc cơ bản nhằm bảo đảm quy định về nguyên tắc
25. 17
cơ bản đúng nghĩa là những tư tưởng chỉ đạo cho việc xây dựng và thực hiện Bộ
luật TTHS, trên cơ sở bổ sung một số nguyên tắc Hiến pháp năm 2013.
Bộ luật TTHS năm 2015 đã quy định 26 nguyên tắc cơ bản, trong đó có 03
nguyên tắc liên quan trực tiếp đến việc khẳng định, nâng cao vi thế, vai trò của
người bào chữa trong TTHS đó là:”Nguyên tắc suy đoán vô tội”- Đ13 - BLTTHS
năm 2015: “ Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được
chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết
tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật. Khi không đủ và không thể làm sáng
tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định
thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị
buộc tội không có tội“. Khoản 2 Điều 14 Công ước về các quyền dân sự và chính
trị năm 1966 của Liên hơp quốc (Việt Nam gia nhập ngày 24 tháng 9 năm 1982)
quy định : “Người bị cáo buộc là phạm tội hình sự có quyền được coi là vô tội cho
tới khi hành vi phạm tội của người đó được chứng minh theo pháp luật”. Điều 72
Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) thể hiện tư tưởng suy đoán vô
tội qua nội dung quy định : “không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi
chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật”. Điều 9- Điều 10 Bộ
luật TTHS năm 2003 ghi nhận tư tưởng về suy đoán vô tội, trách nhiệm chứng
minh tội phạm thuộc về các cơ quan THTT. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không
buộc phải chứng minh là mình vô tội .Khoản 1 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 quy
định “ Người bị buộc tội”. [19]
1.2.5. Các chức năng cơ bản trong Bộ luật TTHS:
Bộ luật TTHS năm 2015 quy định tại Điều 16 “ Bảo đảm quyền bào chữa của
người bị buộc tội ...”.
26. 18
Chủ trương nhằm nâng cao vị trí, vai trò của người bào chữa, bảo đảm các
quyền và nghĩa vụ của người bào chữa, người bị bắt,bị tạm giữ,bị can, bị cáo trong
giai đoạn TTHS thể hiện trong các nghị quyết của Đảng và Hiến pháp năm 2013
chính là nền tảng cho việc bảo đảm dân chủ hoá hoạt động tố tụng, tạo thế độc lập,
bình đẳng với các chủ thể có chức năng buộc tội . Điều này có nghĩa ở đâu có việc
buộc tội thì ở đó quyền bào chữa phải được thực hiện và tôn trọng nhằm chứng
minh bị can, bi cáo không phạm tội hoặc giảm tội, giảm mức hình phạt ...xâm
phạm đến quyền tự do bào chữa thì không thể nào thực hiện các quyền tự do dân
chủ khác . Điều 31- Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định “ quyền tự bào chữa, nhờ
luật sư hoặc nhờ người khác bào chữa là quyền con người”.
Tội phạm là một hiện tượng xã hội có tính khách quan... TTHS là hoạt động
cụ thể trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm, giai đọan điều tra VAHS là một
khâu quan trọng trong hoạt động TTHS. [9, tr. 33]
Chức năng bào chữa là chức năng gỡ tội:
Buộc tội trong TTHS: là hành vi của cơ quan tiến hành tố tụng nhằm xác
định trách nhiệm hình sự đối với người bị buộc tội trên cơ sở các chứng cứ về vụ
án hình sự đã được xác định. Chính thời điểm này trong TTHS xuất hiện sư tranh
tụng giữa bên buộc tội và bên bào chữa. Tố tụng hình sự không được coi là dân
chủ khi chức năng buộc tội không có đối tượng của nó là chức năng bào chữa.
Sự đấu tranh nhằm phủ định giữa hai chức năng này chính là động lực làm
cho hoạt động TTHS vận động và phát triển từ giai đoạn này sang giai đoạn khác
làm thay đổi bản chất của vụ án hình sự, từ chỗ chưa xác định được sư thật khách
27. 19
quan của vụ án đến chỗ sự thật đó được làm sáng tỏ. [8, tr. 26-38]
Quyền của người bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
Quyền bào chữa hướng tới ba mục đích:
Bãi bỏ sự buộc tội; Làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; Bảo đảm các quyền,
lợi ích hợp pháp của bị can. Các quyền và lợi ích ấy không trực tiếp liên quan tới
việc làm giảm nhẹ trách nhiệm của bị can trong vụ án. Đối tượng của quyền bào
chữa có thể là: bị can; bị cáo; vừa là bị can vừa là bị cáo; người bị nghi thực hiện
tội phạm; những công dân khác trong đó có cả người bị hại; người bị truy cứu
trách nhiệm hình sự (người đang bị điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án). Trong tố
tụng hình sự, quyền bào chữa chỉ xuất hiện ở chỗ mà ở đó có sự buộc tội và quyền
bào chữa thuộc về người nào khi người đó bị buộc tội, buộc tội trong tố tụng hình
sự là hành vi của cơ quan tiến hành tố tụng nhằm xác định trách nhiệm hình sự đối
với người bị buộc tội trên cơ sở các chứng cứ về vụ án hình sự đã xác định được
tại thời điểm đó. Do giá trị pháp lý của các chứng cứ khác nhau nên giá trị của sự
buộc tội cũng khác nhau trong mỗi giai đoạn và tất yếu hậu quả pháp lý của sự
buộc tội của mỗi cơ quan tiến hành tố tụng cũng khác nhau. [22, tr. 41]
“Quyền im lặng” của người bị tạm giữ, tạm giam là “quyền con người” nhằm
thể hiện sự đối xử công bằng giữa điều tra viên, các cơ quan tiến hành tố tụng có
nhiều phương tiện, biện pháp đối với người bị tạm giữ, tạm giam. Người bào chữa
do người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ lựa chọn.
Khoản 2 quy định mới về trách nhiệm của cơ quan đang quản lý người bị tạm
giam phải chuyển đơn yêu cầu người bào chữa cho người bào chữa, người đại
diện hoặc người thân thích của họ. Khoản 3 quy định mới về trường hợp người đại
28. 20
diện hoặc người thân thích của người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam
mà có đơn yêu cầu nhờ người bào chữa thì cơ quan đang quản lý người bị bắt,
người bị tạm giữ, người bị tạm giam có trách nhiệm giải quyết phải thông báo
ngay cho người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam biết về việc người đại
diện hoặc người thân thích của họ nhờ người bào chữa để có ý kiến đồng ý hay
không đồng về việc nhờ người bào chữa.
Quyền bào chữa của Luật sư :Trong giai đoạn điều tra, luật sư tham gia tố
tụng để thực hiện chức năng bào chữa trong TTHS với mục tiêu là chứng minh sự
vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị can, giúp bị can về mặt pháp lý
trong việc bảo vệ quyền lợi của họ. Để thực hiện chức năng của mình, luật sư sử
dụng mọi biện pháp hợp pháp, kỹ năng, nghiệp vụ, kinh nghiệm, quyền và nghĩa
vụ của mình. Vai trò của luật sư trong giai đoạn điều tra thể hiện ở các hoạt động
mà luật sư tham gia tố tụng trong giai đoạn này. Hoạt động của luật sư và cơ quan,
người tiến hành tố tụng đều hướng tới mục đích là xác định sự thật khách quan
của vụ án, bảo đảm các chứng cứ của vụ án được điều tra, thu thập một cách chính
xác và khách quan, bảo đảm cho bị can thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.
Sự tham gia của luật sư trong giai đoạn điều tra không làm cản trở hoạt động điều
tra VAHS của Điều tra viên, trái lại hoạt động của hai bên lại có mối quan hệ thúc
đẩy, bổ sung cho nhau. Trong giai đoạn này, luật sư phải thực hiện thủ tục để được
tham gia với tư cách là người bào chữa của người bị tạm giữ, bị can. Theo đó:
“Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận đủ giấy tờ quy định, cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng phải kiểm tra giấy tờ và thấy không thuộc trường hợp từ chối
việc đăng ký bào chữa thì vào sổ đăng ký người bào chữa, gửi ngay văn bản thông
báo người bào chữa cho người đăng ký bào chữa, cơ sở giam giữ và lưu các giấy
29. 21
tờ liên quan đến việc đăng ký bào chữa trong hồ sơ vụ án; nếu xét thấy không đủ
điều kiện thì từ chối việc đăng ký bào chữa và phải nêu rõ lý do bằng văn bản”.
Quyền bào chữa của Bào chữa viên nhân dân:
Người bào chữa là BCVND mang tính đặc thù riêng ở Việt Nam. Được hình
thành trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống Pháp (theo Sắc lệnh số 69-SL, ngày
18 tháng 6 năm 1949). Theo Nghị định số 01 ngày 12 tháng 1 năm 1950 của Bộ
Tư pháp thì điều kiện trở thành BCVND chỉ bao gồm : có quốc tịch Việt Nam, ít
nhất 21 tuổi, hạnh kiểm tốt và chưa can án. Sau khi giành được chính quyền dân
chủ nhân dân năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan niệm quyền bào chữa là
một trong những quyền tự do cơ bản của công dân, nên cần thiết phải duy trì tổ
chức luật sư cũ do Pháp thiết lập, có sửa đổi cho phù hợp với yêu cầu mới của
Cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 46/SL ngày 10-10-1945,
trong đó tạm thời cho duy trì các tổ chức đoàn thể luật sư.Với việc ban hành Sắc
lệnh số 46/SL, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quán triệt tư tưởng về tính kế thừa cách
mạng, trong đó có sự vận dụng linh hoạt các quy định pháp luật cũ, miễn là nội
dung không trái với nguyên tắc độc lập và chính thể dân chủ cộng hòa.
Hiến pháp năm 1946, để thiết kế bộ máy chính quyền cách mạng dân chủ
nhân dân, đã quan tâm ghi nhận “Quyền tự bào chữa hoặc mượn luật sư” thành
một nguyên tắc Hiến định trong lĩnh vực tư pháp.
Bào chữa viên nhân dân được quy đinh trong BLTTHS năm 1988, năm 2003
và BLTTHS năm 2015 đều quy định :”Bào chữa viên nhân dân là công dân Việt
Nam từ 18 tuổi trở lên, trung thành với Tổ quốc, có phẩm chất đạo đức tốt,
có kiến thức pháp lý, đủ sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao,
30. 22
được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hoặc tổ chức thành viên của Mặt
trận cử tham gia bào chữa cho người bị buộc tội là thành viên của tổ chức
mình”.
Quyền của người bào chữa Trợ giúp viên pháp lý: Quy định tư cách của Trợ
giúp viên pháp lý trong tham gia tố tụng hình sự: ghi nhận Trợ giúp viên pháp lý
là người bào chữa (Điều 72 Bộ luật TTHS), là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố (Điều 83 Bộ luật TTHS), là người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự (Điều 84 Bộ luật TTHS).
Quy định trách nhiệm cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong thông
báo, giải thích và bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố
tụng: Các cơ quan tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm thực
hiện quyền được TGPL. Đối với người thuộc diện được TGPL là: bị can, bị cáo về
tội mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù,tù
chung thân, tử hình; Người TGVPL phải có nghĩa vụ giám sát người bị buộc tội là
người dưới 18 tuổi để bảo đảm sự có mặt của họ khi có giấy triệu tập của cơ quan
có thẩm quyền tiến hành tố tụng; theo dõi tư cách, đạo đức và giáo dục người đó
theo quyết định của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án (khoản 1 Điều 418). Người bị buộc
tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa; người có nhược điểm về
tâm thần hoặc là người dưới 18 tuổi thì Trung tâm TGPL Nhà nước phải cử người
bào chữa cho họ theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng (Điều
76 Bộ luật TTHS).
Quyền của người đại diện người bị buộc tội : Pháp luật TTHS hiện hành quy
31. 23
định quyền bào chữa thuộc về người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo và
quyền này chỉ giới hạn trong việc bác bỏ một phần hay toàn bộ lời buộc tội hoặc
giảm nhẹ trách nhiệm cho người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo. Đối với
việc bảo vệ các quyền và lợi ích các chủ thể đó không trực tiếp liên quan tới việc
bác bỏ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm cho họ trong vụ án không thuộc về
giới hạn của quyền bào chữa.
1.3. Nghĩa vụ của người bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
1.3.1. Nghĩa vụ bào chữa của Luật sư :
BLTTHS năm 2015 quy định về nghĩa vụ của người bào chữa tại khoản 2
Điều 73 như sau :
..” sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những
tình tiết xác định NBBT vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
của bị can; giúp NBBT về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của họ khi tham gia TTHS với vai trò là người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo theo quy định của pháp luật,
luật sư có trách nhiệm phải thực hiện chức năng của mình”.
Trong giai đoạn điều tra luật sư có nghĩa vụ giúp đỡ người bị tạm giữ, bị
can về mặt pháp lý như giải thích cho họ về quyền và nghĩa vụ, giải thích những
quy định của pháp luật có liên quan đến trách nhiệm hình sự của họ, giúp bị can
thực hiện một số yêu cầu với CQĐT, giúp bị can khai báo hoặc trao đổi thống nhất
với bị can về hướng bào chữa. Mặt khác trong giai đoạn điều tra, khi thực hiên
quyền của mình luật sư giữ vai trò bảo vệ quyền lợi cho bị can không bị xâm
phạm bởi các hoạt động sai trái, tiêu cực của CQĐT bằng việc tham gia hỏi cung
32. 24
bị can cùng CQĐT để tránh việc ép cung, mớm cung gây bất lợi cho bị can và
tham gia các hoạt động điều tra khác. Không được từ chối bào chữa cho NBBT
mà mình đã đảm nhận việc bào chữa. Luật sư thể hiện trách nhiệm, không tiết lộ
thông tin về vụ án, về người buộc tội mà mình biết khi bào chữa, không được sử
dụng thông tin đó vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước.
1.3.2. Nghĩa vụ của Bào chữa viên nhân dân:
Bào chữa viên nhân dân là một chủ thể tư pháp có tư cách của người bào chữa
trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên, trong thực tiễn tố tụng hình sự ở Việt Nam, việc
xem xét thủ tục chứng nhận tư cách người bào chữa, các nguyên tắc, phạm vi
hành nghề lại chưa được hướng dẫn và quy định chi tiết, dẫn đến các cơ quan tiến
hành tố tụng các cấp gặp rất nhiều khó khăn trong việc đảm bảo thực hiện các
quyền và nghĩa vụ của bào chữa viên nhân dân.
Ngoài những thực tế vướng mắc tại thành phố Hồ Chí Minh về các quy định
liên quan đến chế định và thủ tục cấp Giấy chứng nhận người bào chữa cho bào
chữa viên nhân dân trong quá trình tham gia vụ án từ giai đoạn điều tra. Chế định
bào chữa viên nhân dân được quy định trong Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS)
tuy là sự kế thừa mang yếu tố lịch sử, nhưng đã chuyển hóa “nội hàm” khái niệm
này từ chỗ bất kỳ là “công dân nào không phải là luật sư”, thành bào chữa viên
nhân dân do Mặt trận, tổ chức thành viên mặt trận cử ra bào chữa cho người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức mình. Tuy nhiên, các quy định
pháp lý có liên quan, cũng như từ thực tiễn trong giai đoạn điều tra VAHS thì hầu
hết không có vai trò của bào chữa viên nhân dân. Mặc dù có tham gia với tư cách
Bào chữa viên nhân dân nhưng nhìn chung chất lượng hành nghề vướng mắc do
33. 25
những hạn hẹp về kiến thức pháp luật...
1.3.3. Nghĩa vụ của Trợ giúp viên pháp lý
Trong lĩnh vực tư pháp được Nhà nước bảo vệ, bảo đảm thực hiện thông qua
các quy định của pháp luật trong cả quá trình tố tụng, giải quyết vụ án, từ giai
đoạn điều tra, truy tố đến xét xử, thi hành án… Nhà nước đã đề cao và bảo vệ
quyền con người trong hoạt động tố tụng bằng cách đặt vị thế của trợ giúp viên
pháp lý, trong quá trình giải quyết vụ án.
1.3.4. Nghĩa vụ của người đại diện người bị buộc tội
Người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự, người bị
hại là một trong những điểm rất mới trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
(BLTTHS). Điểm mới đầu tiên là người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố, khi nhận
được giấy triệu tập của cơ quan điều tra có quyền tự bảo vệ hoặc nhờ người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho mình theo điều 57 BLTTHS 2015.Phù hợp với quy
định này, điều 83 BLTTHS 2015 quy định diện chủ thể mới là “người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố”.
1.4. Lịch sử hình thành và phát triển địa vị pháp lý của người bào chữa
trong tố tụng hình sự Việt Nam
Một trong những quyền cơ bản và quan trọng nhất của con người đó là quyền
34. 26
công dân trong hoạt động tư pháp mà cụ thể là quyền bào chữa trong TTHS. Để
thực hiện nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo,
pháp luật TTHS quy định cho họ quyền được nhờ người khác bào chữa, người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo chỉ có thể thực hiện được quyền này. Vai trò người bào
chữa và người đại diện hợp pháp là hai tư cách độc lập. Người bào chữa trong
TTHS là người tham gia tố tụng để chứng minh sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự của người bị buộc tội. Quan điểm này nó làm rõ mục đích người
bào chữa tham gia tố tụng, phân biệt được người bào chữa với Người tiến hành tố
tụng. Nhằm đảm bảo chặt chẽ về thủ tục, trình tự bào chữa đối với người bào
chữa .
Người chưa thành niên (Đ-422- BLTTHS 2015) quy định: Việc bào chữa như
sau: “Người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi có quyền tự bào chữa hoặc nhờ
người khác bào chữa. Người đại diện của người dưới 18 tuổi bị buộc tội có quyền
lựa chọn người bào chữa hoặc tự mình bào chữa cho người dưới 18 tuổi bị buộc
tội. Nếu họ không có người bào chữa hoặc người đại diện của họ không lựa chọn
người bào chữa thì CQĐT, VKS, TA phải chỉ định người bào chữa”. Đối với các
trường hợp chỉ định người bào chữa đối với bị can, bị cáo được quy định mức
cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tủ, tù chung thân, tử hình, bắt buộc phải
có người bào chữa.Như vậy, so với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 mở rộng
phạm vi bắt buộc phải có người bào chữa để đảm bảo quyền con người ngày càng
được tôn trọng bảo đảm, phù hợp với xu thế phát triển của xã hội.
1.5. Những yếu tố tác động đến vai trò của người bào chữa trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự
35. 27
1.5.1. Vai trò của cơ quan THTT, người THTT trong giai đoạn điều tra VAHS
Điều tra vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng hình sự, trong đó cơ quan điều tra
căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự và dưới sự kiểm soát của
Viện Kiểm sát tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm thu thập và củng cố các
chứng cứ, nghiên cứu các tình tiết của vụ án hình sự. Phát hiện tội phạm, cũng như
người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm tội để truy cứu trách nhiệm hình sự, trên
cơ sở đó quyết định: Đình chỉ điều tra vụ án hình sự, chuyển toàn bộ tài liệu của vụ
án đó cho Viện Kiểm sát kèm theo kết luận điều tra và đề nghị truy tố bị can.
1.5.2. Các yếu tố tác động vai trò người bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự
Thực tiễn cho thấy, không phải người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, đương sự nào
cũng có khả năng tự bào chữa, tự bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho mình. BLTTHS
2015 đã mở ra và ghi nhận việc đảm bảo quyền bào chữa cho người bị bắt được
đảm bảo quyền bào chữa của mình nhưng trên thực tế, việc áp dụng quy định này
gặp khó khăn nhất định.
Kết luận chương 1
36. 28
Bào chữa là một trong những quyền cơ bản của người bị tạm giữ, bị can
được ghi nhận trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. BLTTHS 2015đã mở rộng
quyền bào chữa cho chính họ. Với tính chất là một giai đoạn độc lập của tố tụng
hình sự, giai đoạn điều tra vụ án hình sự có chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ
thể nhằm áp dụng các biện pháp cần thiết do luật định để chứng minh việc thực
hiện tội phạm và người phạm tội, xác định rõ những nguyên nhân và điều kiện
phạm tội, đồng thời kiến nghị các cơ quan và tổ chức hữu quan áp dụng đầy đủ
các biện pháp khắc phục và phòng ngừa tội phạm. Giai đoạn điều tra vụ án hình
sự là chức năng quan trọng trong hoạt động tư pháp hình sự của cơ quan (người)
tiến hành có thẩm quyền đối với mỗi hành vi phạm tội nhằm trực tiếp chứng minh
hành vi phạm tội và người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm thông qua các
chứng cứ đã thu thập được, đồng thời cũng là một trong những phương tiện cơ
bản để thực hiện tốt nguyên tắc không tránh khỏi trách nhiệm trong thực tiễn áp
dụng pháp luật tố tụng hình sự, tránh bỏ lọt tội phạm. Vai trò người bào chữa trong
giai đoạn điều tra vụ án hình sự cũng góp phần loại trừ, ngăn chặn kịp thời việc
thông qua quyết định khởi tố bị can một cách không thận trọng, thiếu chính xác và
do vậy, có thể sẽ kéo một loạt hậu quả tiêu cực tiếp theo xảy ra trong việc truy cứu
trách nhiệm hình sự ở các giai đoạn tố tụng hình sự. Tuy nhiên trong thực tiễn,
người bị tạm giữ, bị can rất mong muốn được mời người bào chữa để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho mình, khi tiến hành thủ tục theo quy định thì cơ
quan điều tra từ chối. Thực tế còn gặp rất nhiều nơi cơ quan điều tra áp dụng tùy
nghi, cảm tính. Trong giai đoạn này các điều tra viên là người nắm quyền chủ
động, thiên về hướng buộc tội, người bị buộc tội thường có tâm lý hoang mang
giao động, không ổn định trong lời khai đó đó dẫn đến có những lời khai không
37. 29
giống nhau. Do đó khi người bào chữa tham gia vào quá trình điều tra có những
lời khai không thống nhất, mâu thuẫn, không chính xác, trung thực. Đặc biệt quá
trình tham gia tố tụng trong các vụ án hình sự ngay từ giai đoạn điều tra, nhận
thấy rằng, các quy định của pháp luật hiện hành vẫn còn nhiều bất cập trong thực
tiễn, gây khó khăn cho người bào chữa trong giai đoạn điều tra VAHS thực hiện
công việc của mình.Quá trình thu thập chứng cứ của cơ quan điều tra, mọi việc
đều được làm theo đúng quy định của pháp luật và kết quả thu được từ hoạt động
này hoàn toàn có đủ cơ sở pháp lý để các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết
công việc tiếp theo được chuẩn mực, trên thực tế việc còn rất nhiều hạn chế.
Xuất phát từ cơ sở lý luận cũng như thực tiễn như vậy, việc nghiên cứu để
tìm ra nguyên nhân của thực trạng, từ đó có giải pháp nhằm bảo đảm vai trò của
người bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự là vô cùng cần thiết.
38. 30
Chương 2
THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG GIAI ĐOẠN
ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về vai trò của
người bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
Trong quan hệ pháp luật hình sự, mối quan hệ giữa một bên là người bị tình
nghi phạm tội hay người bị buộc tội và một bên là đại diện các cơ quan tiến hành
tố tụng, có nghĩa vụ chứng minh hành vi phạm tội của người bị tình nghi là có
hành vi phạm tội, dành cho người bị buộc tội quyền tự bảo vệ mình, chứng minh
mình vô tội trước các cáo buộc của các cơ quan tiến hành tố tụng.
Thứ nhất, về chủ thể của quyền bào chữa : Theo quy định của Hiến pháp năm
2013, chủ thể của quyền bào chữa bao gồm: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam,
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử”. Người bị buộc tội gồm “Người bị bắt, người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo”.
Chủ thể của quyền bào chữa gồm cả luật sư, trợ giúp viên pháp lý và những
chủ thể khác được pháp luật quy định vì họ được thực hiện quyền bào chữa trong
TTHS. Bộ luật TTHS 2015 khẳng định: “Người bào chữa là người được người bị
buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và
được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào
chữa”.
Thứ hai, Hiến pháp năm 2013” Quyền bào chữa là một quyền đặc biệt của
người bị buộc tội bảo vệ mình trước các hành vi của các cơ quan tiến hành tố
39. 31
tụng trong quan hệ pháp luật hình sự”, nên quyền này phát sinh từ thời điểm
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân bị hạn chế bởi các hoạt động tố tụng và kết
thúc khi có quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng khẳng định người này có tội
hoặc không có tội.
Thứ ba, về nội dung của quyền bào chữa.Trong TTHS, quyền bào chữa luôn
song hành với nguyên tắc suy đoán vô tội: “Người bị buộc tội được coi là không
có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Nội dung của quyền bào chữa không phải là
chống lại sự buộc tội mà phải khẳng định quyền bào chữa là quyền để chống lại sự
vi phạm pháp luật của các chủ thể tiến hành tố tụng hay quyền buộc những chủ thể
tiến hành tố tụng phải thực hiện đúng quy định của pháp luật.
Hiến pháp 1946, 1959, 1980 đều xếp “Quyền” bào chữa trong chương về cơ
quan Tư pháp. Hiến pháp năm 2013 mở rộng Quyền bào chữa đối với “Người bị
bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra... Đó là” Quyền cơ bản của công dân,
quyền con người”.
Thực hiện chiến lược cải cách tư pháp, nhiều văn bản luật ra đời nhằm tạo cơ
chế pháp lý bảo đảm thực hiện quyền bào chữa như: Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật
Tổ chức Tòa án nhân dân, Luật Tổ chức Viện kiểm sát, Luật Luật sư, Luật Trợ
giúp pháp lý... và nhiều văn bản dưới luật khác.
2.2. Thực tiễn thực hiện quy định của pháp luật về vai trò của người bào
chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh .
40. 32
2.2.1. Thực tiễn thực hiện việc bảo đảm quyền bào chữa trong giai đoạn điều
tra vụ án hình sự
Những vi phạm trong bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can,
nhất là quyền được nhờ người khác bào chữa dẫn đến vi phạm thủ tục tố tụng hình
sự như :
Thứ nhất: Hiện nay, vai trò người bào chữa khi tham gia TTHS còn gặp khó
khăn trong việc tiếp cận vụ án trong giai đoạn điều tra ngay từ đầu do sự chậm trễ về
thủ tục cấp văn bản thông báo người bào chữa của CQĐT là vi phạm phổ biến. Vai
trò người bào chữa trong giai đoạn điều tra với thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
tập trung chủ yếu vai trò bào chữa là luật sư . Tuy nhiên còn gặp khó khăn trong việc
tiếp xúc với người bị tạm giữ, bị can; có mặt trong các cuộc hỏi cung bị can, trong
việc thu thập chứng cứ, việc nghiên cứu và ghi chép, sao chụp hồ sơ, tài liệu của vụ
án.
Thứ hai: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát không yêu cầu cử luật sư cho bị can là
người chưa thành niên; cho bị can bị khởi tố, truy tố về tội có khung hình phạt là 20
năm tù, tù chung thân, tử hình. Các quan niệm trên đều không chính xác. Theo quy
định của pháp luật TTHS trước khi ban hành BLTTHS năm 1988, thì chỉ Tòa án
mới phải có trách nhiệm chỉ định người bào chữa trong trường hợp bị can, bị cáo
chưa thành niên, bị cáo có thể bị xử phạt tử hình.
Vì thế, việc CQĐT, VKS không yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng
luật sư cử luật sư cho họ hoặc đề nghị Uỷ ban Mặt trận tổ quốc, tổ chức thành viên
41. 33
của Uỷ ban cử luật sư cho thành viên của mình là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố
tụng.
Thứ ba: Cơ quan điều tra từ chối yêu cầu cử luật sư không đúng pháp luật. Điều
tra viên thuyết phục bị can, bị cáo lập biên bản từ chối luật sư trong một số trường
hợp thuộc khoản 2 điều 77 BLTTHS. Nhiều trường hợp CQĐT không yêu cầu cử
luật sư cho bị can là người chưa thành niên khi chỉ một mình người đó từ chối là
không đúng pháp luật. Mặt khác,trường hợp người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị
tạm giam trong giai đoạn điều tra đề nghị từ chối người bào chữa do người thân
thích của họ nhờ thì ĐTV phải cùng người bào chữa đó trực tiếp gặp người bị bắt,
người bị tạm giữ, người bị tạm giam để xác nhận việc từ chối.
2.2.2. Thực trạng thực hiện thủ tục đăng ký bào chữa; cấp, gửi văn bản
thông báo cho người bào chữa .
Về xuất trình các loại giấy tờ:
Khi thực hiện các quy định của Thông tư 70/2011/TT-BCA, luật sư thường
phải xuất trình nhiều giấy tờ hơn so với quy định tại điều 78 BLTTHS 2015 như:
Thẻ luật sư kèm theo bản sao có chứng thực; giấy yêu cầu luật sư của NBBT hoặc
của người đại diện, người thân thích của NBBT. Cá biệt, CQĐT yêu cầu phải cung
cấp giấy đăng ký hoạt động của tổ chức hành nghề, chứng minh thư nhân dân, căn
cước công dân của người bào chữa .
Đa số các Quận, Huyện, phòng CSĐT các tội phạm về trật tự xã hội, phòng
CSĐT các tội phạm về kinh tế và chức vụ đồng ý giấy yêu cầu luật sư của người đại
diện, người thân thích của NBBT có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền về mối
quan hệ của họ với NBBT (điểm b khoản 2 Điều 78 BLTTHS 2015), tuy nhiên
42. 34
CSĐT công an huyện Cần Giờ, phòng CSĐT các tội phạm về ma túy không đồng ý
xác nhận này và yêu cầu người thân thích của họ cung cấp bản chính hoặc bản sao
có chứng thực về mối quan hệ của họ với NBBT. Yêu cầu xác nhận trên của CQĐT
gây khó khăn cho người tham gia bào chữa phải đi lại nhiều lần.
Về quy định thay đổi hoặc từ chối người bào chữa:
Quy định thay đổi hoặc từ chối người bào chữa trong giai đoạn điều tra chưa
thống nhất. Cơ quan điều tra cấp tỉnh, huyện thực hiện đúng, đầy đủ quy định khoản
2 điều 77 BLTTHS 2015: “Trường hợp người bị bắt, người bị tạm giữ; người bị
tạm giam trong giai đoạn điều tra có đề nghị từ chối người bào chữa do người
thân thích của họ nhờ thì Điều tra viên phải cùng người bào chữa đó trực tiếp
gặp người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam để xác nhận việc từ
chối”.Thực tiễn tại một số huyện (CQĐT Công an huyện Cần Giờ, Củ Chi) không
thực hiện quy định này gây khó khăn cho luật sư khi thông báo bị can đã từ chối luật
sư do người thân thích của họ nhờ nhưng ĐTV không cùng luật sư vào trại giam để
xác nhận việc từ chối luật sư trong giai đoạn điều tra.
Về vấn đề tiếp nhận hồ sơ đề nghị cấp thủ tục đăng ký bào chữa: Quy định tại
điểm a, khoản 2 điều 5 Thông tư số 70/2011/TT-BCA quy định luật sư có thể nộp
trực tiếp hoặc nộp qua đường bưu điện, hoặc đường công văn (bằng thư bảo đảm
hoặc chuyển phát nhanh), nhưng thực tế trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh cho
thấy trên 95% số luật sư tham gia khảo sát chủ động nộp trực tiếp hồ sơ xin cấp văn
bản thông báo người bào chữa tại các cơ quan tiến hành tố tụng và chưa đến 5% số
luật sư nộp qua đường bưu điện.
Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 5 Thông tư số 70/2011/TT-BCA,
43. 35
trường hợp người đề nghị cấp văn bản thông báo người bào chữa hoặc người thuộc
tổ chức hành nghề luật sư nơi luật sư đề nghị cấp văn bản thông báo người bào chữa
trực tiếp đến CQĐT đề nghị cấp văn bản thông báo người bào chữa và nộp các giấy
tờ liên quan thì ĐTV, cán bộ được phân công tiếp nhận và kiểm tra, nếu thấy thiếu
hoặc thủ tục chưa đúng thì hướng dẫn ngay cho họ sửa đổi, bổ sung. Nếu đủ các
giấy tờ quy định thì viết giấy biên nhận đã nhận đủ hồ sơ đề nghị cấp văn bản thông
báo người bào chữa, trong đó hẹn rõ thời gian đến nhận văn bản thông báo người
bào chữa cho người đăng ký bào chữa hoặc văn bản từ chối. Tuy nhiên, luật sư cho
biết ít khi hoặc không bao giờ được cấp văn bản thông báo người bào chữa đúng hạn
hoặc vào thời điểm hẹn trả ghi trên giấy biên nhận.
Về thời gian cấp văn bản thông báo người bào chữa: Người bào chữa khi tham
gia tố tụng trong giai đoạn điều tra thì thời hạn được cấp văn bản thông báo người
bào chữa là một nội dung cần làm rõ về mốc thời gian tiếp nhận.
Thông tư 70/2011/TT-BCA thì thời gian bắt đầu xem xét cấp giấy chứng
nhận người bào chữa/văn bản thông báo người bào chữa được tính từ thời điểm
ĐTV, cán bộ được phân công tiếp nhận đầy đủ các giấy tờ liên quan đến việc bào
chữa cho đến khi giao giấy chứng nhận người bào chữa/văn bản thông báo người
bào chữa. Điều 78 BLTTHS (sửa đổi) quy định trong mọi trường hợp người bào
chữa (luật sư, bào chữa viên nhân dân, trợ giúp viên pháp lý) phải đăng ký bào
chữa. Khi đăng ký, người bào chữa xuất trình thẻ LS, các giấy tờ liên quan khác...
kèm theo bản sao có chứng thực và giấy yêu cầu của người bị buộc tội, hoặc của
người đại diện, hoặc của người thân thích của người bị buộc tội. Văn bản thông
báo của cơ quan tố tụng cho người đăng ký bào chữa không phải là thủ tục hành
44. 36
chính mà là nghĩa vụ của cơ quan tố tụng. Cơ quan tố tụng có nghĩa vụ phải thông
báo cho cơ sở giam giữ về việc có người bào chữa tham gia tố tụng.
Nghị quyết 03 lẫn Thông tư 70 đều chỉ đề cập đến điều kiện cấp giấy
chứng nhận người bào chữa mà không quy định điều kiện, tiêu chuẩn để một
người được công nhận là bào chữa viên nhân dân, thẩm quyền công nhận bào
chữa viên nhân dân, quyền và nghĩa vụ của bào chữa viên nhân dân, cách thức tổ
chức, quản lý và cử tham gia bào chữa. Trong thực tế, hoạt động của bào chữa
viên nhân dân cũng không được tổ chức thành một hệ thống nên chức danh này
tuy vẫn được ghi nhận trong BLTTHS đang có hiệu lực thi hành nhưng bào chữa
viên nhân dân tham gia tố tụng rất hiếm hoi. Thực tiễn quy định về thời hạn “trong
thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận đủ giấy tờ ” hoàn toàn không thể thực hiện trong
giai đoạn điều tra từ các Cơ quan Cảnh sát Điều tra theo Luật tổ chức cơ quan điều
tra hình sự.
Trong phạm vi đề tài, tác giả giới hạn trong hệ thống CQĐT của Công an tại
Thành phố Hồ Chí Minh về việc tiếp nhận, xem xét, cấp, gửi văn bản thông báo
người bào chữa trong giai đoạn điều tra VAHS. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an
thành phố Hồ Chí Minh không tập trung đầu mối để giải quyết mà người tham gia
bào chữa phải nộp thủ tục đăng ký bào chữa cho bộ phận tiếp nhận các Phòng cảnh
sát điều tra từng lĩnh vực.
Án trật tự xã hội nộp về Phòng Cảnh sát Điều tra tội phạm về Trật tự xã hội
(PC 02); Án kinh tế và chức vụ nộp về Phòng Cảnh sát Điều tra tội phạm về tham
nhũng kinh tế và chức vụ (PC 03); Án ma túy nộp về phòng Cảnh sát Điều tra tội
phạm về Ma túy (PC 04)… thông qua giấy biên nhận có chữ ký của cán bộ tiếp nhận
45. 37
của từng Phòng cảnh sát điều tra được phân công tiếp nhận.
Về trách nhiệm và giá trị sử dụng văn bản thông báo : Điểm khác biệt giữa
Thông tư 70/2011/TT-BCA và BLTTHS 2015 là: Thông tư 70/2011/TT-BCA không
quy định về giá trị sử dụng của Giấy chứng nhận người bào chữa. Tại một số Quận,
Huyện giấy chứng nhận người bào chữa được cấp trong giai đoạn điều tra lại không
được chấp nhận trong các giai đoạn kế tiếp, dẫn đến luật sư phải làm lại thủ tục xin
cấp Giấy chứng nhận. Khoản 1, khoản 2 Điều 79 BLTTHS 2015 quy định, việc cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải báo trước cho người bào chữa một
khoảng thời gian hợp lý cho luật sư; BCVND;TGVPL ... nhất là khi tiến hành các
hoạt động tố tụng tại những địa điểm cách xa về mặt địa lý; sự cấp thiết đối với từng
hoạt động điều tra mà việc không tham gia của người bào chữa sẽ ảnh hưởng lớn
đến việc giải quyết VAHS nhất là trong các hoạt động như đối chất, khám nghiệm
hiện trường, thực nghiệm điều tra.
2.2.3. Thực trạng thực hiện quyền của người bào chữa có mặt khi hỏi cung bị
can, lấy lời khai của người tạm giữ; gặp người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam
trong giai đoạn điều tra
BLTTHS 2015, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam, các Thông tư hướng dẫn
quy định luật sư thực hiện các quyền trên như sau:
Quyền gặp riêng tư trong quá trình tạm giữ, tạm giam:Theo quy định tại điểm a
khoản 1 Điều 73 BLTTHS 2015, người bào chữa với vai trò chủ động gặp người bị
tạm giữ, bị can trong giai đoạn điều tra, truy tố;
Trước đây, BLTTHS năm 2003 không quy định người bào chữa được tiếp xúc
riêng tư với với người bị bắt, bị can tại cơ sở giam giữ trong giai đoạn điều tra, nên
46. 38
hoàn toàn tùy thuộc vào lịch làm việc hoặc sự chấp thuận của ĐTV. Quy định về
người bào chữa gặp người bị bắt, bị can đang bị tạm giam theo quy định tại khoản 1
điều 10 Thông tư 70/2011/TT-BCA thực hiện theo cơ chế xin – cho, nghĩa là “Khi
người bào chữa có văn bản đề nghị CQĐT cho gặp bị can đang bị tạm giam thì
CQĐT làm các thủ tục theo quy định của pháp luật để người bào chữa gặp bị
can đang bị tạm giam; nếu từ chối cho gặp thì phải thông báo cho người bào
chữa biết bằng văn bản và nêu rõ lý do từ chối”.
Để khắc phục bất cập trên, ngày 23-01-2018, Bộ Công an, Viện Kiểm sát Nhân
dân Tối cao, Tòa án Nhân dân Tối cao, Bộ Quốc phòng đã ban hành Thông tư Liên
tịch 01/BCA-VKSNDTC-TANDTC-BQP quy định phối hợp giải quyết cho người
bị bắt, bị can gặp người bào chữa:
“Việc phối hợp tổ chức cho người bị tạm giam gặp người bào chữa theo
quy định tại điều 80 BLTTHS 2015 và Điều 22, Điều 34 Luật Thi hành tạm giữ,
tạm giam”; “Khi nhận được văn bản thông báo người bào chữa cho người bị
tạm giam của cơ quan thụ lý vụ án thì cơ sở giam giữ tổ chức cho người bào
chữa được gặp người bị tạm giam theo quy định của pháp luật”; “Trường hợp
cần phải giám sát cuộc gặp thì Thủ trưởng, người có thẩm quyền của cơ quan
đang thụ lý vụ án phối hợp với cơ sở giam giữ tổ chức giám sát”, mở rộng cho
phép luật sư gặp người bị tạm giam không những tại cơ sở giam giữ mà còn “tại nơi
khám bệnh, chữa bệnh ngoài cơ sở giam giữ”.
Quyền được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can khi người có thẩm quyền
tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý: Thực trạng, đây là việc hỏi bị động nghĩa là
trong giai đoạn này, việc hỏi do ĐTV chủ động tiến hành, luật sư muốn hỏi phải
47. 39
được sự đồng ý của ĐTV. Trong trường hợp ĐTV đang hỏi cung, có những câu hỏi
người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can muốn hỏi người bào chữa là luật sư thì ĐTV
không đồng ý cho luật sư trả lời vì cho rằng giai đoạn này ĐTV đang hỏi nên không
đồng ý cho luật sư trả lời và cho rằng quyền này chỉ được luật sư thực hiện sau khi
kết thúc việc lấy lời khai, hỏi cung. Trường hợp nếu ĐTV không đồng ý thì luật sư
giải thích với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can sẽ trả lời những câu hỏi này khi
việc lấy lời khai, hỏi cung của ĐTV kết thúc hoặc đề nghị ĐTV giải thích về quyền
của người bị bắt (điểm d khoản 1 điều 58), người bị tạm giữ (điểm c khoản 2 điều
59), bị can (điểm d khoản 2 điều 60) “Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không
buộc phải đưa ra lời khai chống lại mình hoặc buộc phải nhận mình có tội”
hoặc không trả lời câu hỏi này. Đồng thời, luật sư sẽ khuyến khích, động viên họ trả
lời câu hỏi trên vào phần hỏi của luật sư khi việc lấy lời khai, hỏi cung của ĐTV kết
thúc. Quyền hỏi của luật sư sau khi kết thúc lấy lời khai, hỏi cung của ĐTV, mặt
khác khi đặt những câu hỏi, luật sư phải thuyết phục ĐTV lập biên bản theo quy
định tại khoản 3 điều 184 BLTTHS 2015, ghi đầy đủ câu hỏi của luật sư và câu trả
lời của NBBT. Luật không quy định biên bản câu hỏi của luật sư và câu trả lời của
NBBT có được lập thành biên bản riêng hay không, thực tế thường được ghi cùng
vào một biên bản hỏi cung.
Liên quan đến việc thực hiện ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc hỏi cung bị
can, lấy lời khai người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại phạm tội
trong qua trình điều tra. Ngày 01-02-2018, Bộ Công an-Viện Kiểm sát Nhân dân
Tối cao – Tòa án Nhân dân Tối cao – Bộ Quốc Phòng đã ban hành Thông tư Liên
tịch số 03/TTLT–BCA-VKSNDTC-TANDTC-BQP.
48. 40
Điều 5 Thông tư liên tịch 03 quy định: Trình tự, thủ tục thực hiện ghi âm hoặc
ghi hình có âm thanh việc hỏi cung bị can hoặc lấy lời khai người đại diện theo pháp
luật của pháp nhân thương mại phạm tội. Điểm c khoản 2 điều 5 Thông tư quy định:
“Trường hợp không bố trí được thiết bị ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh thì
không được tiến hành hỏi cung, lấy lời khai. Việc này ghi rõ trong biên bản, có
xác nhận của cán bộ chuyên môn... trường hợp không bố trí được thiết bị ghi
âm hoặc ghi hình có âm thanh thì cán bộ hỏi cung, lấy lời khai thông báo cho
bị can biết, nếu họ đồng ý thì tiến hành làm việc, trường hợp họ không đồng ý
thì không được hỏi cung, lấy lời khai…Việc này phải ghi rõ trong biên bản, có
xác nhận của cán bộ chuyên môn”.
Theo quy định, kết quả ghi âm được sử dụng cho các mục đích bị can thay đổi
lời khai so với lời khai trước, sử dụng, đánh giá chứng cứ để làm rõ hành vi phạm tội
của bị can và đồng phạm nếu có, đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được khách
quan toàn diện, bên cạnh đó, dùng kết quả này để kiểm tra việc chấp hành pháp luật
của ĐTV, cán bộ điều tra, KSV trong quá trình hỏi cung, lấy lời khai người đại diện
theo pháp luật của pháp nhân thương mại phạm tội.
Hiện nay tại 5 phòng hỏi cung của Trại Tạm giam Chí Hòa thuộc Cơ quan cảnh
sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã lắp đặt thiết bị ghi âm hoặc ghi hình
có âm thanh, nhưng chưa đưa vào sử dụng.Cơ quan cảnh sát điều tra cấp Bộ đã lắp
đặt thiết bị ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh, đã đưa vào sử dụng; tại 24 Cơ quan
cảnh sát điều tra cấp huyện chưa lắp đặt thiết bị ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh.
Như vậy có thể thấy, luật và các văn bản dưới luật đều quy định khá chi tiết trong
việc bố trí các thiết bị ghi âm, ghi hình có âm thanh. Tuy nhiên thực tiễn áp dụng tại
49. 41
địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, việc thực hiện quy định trên vẫn còn khá thờ ơ,
chưa tuân thủ thời hạn luật định, do vậy đến nay việc lắp đặt thiết bị ghi âm, ghi hình
có âm thanh vẫn chưa triển khai có hiệu quả.
2.2.4. Thực trạng thực hiện nghĩa vụ của người bào chữa trong giai đoạn
điều tra VAHS.
Bào chữa, bảo vệ quyền lợi cho các đương sự là một trong những hoạt
động quan trọng, và trong nhiều trường hợp là quy định bắt buộc không thể thiếu
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; người bị hại; người có quyền, nghĩa vụ liên
quan trong vụ án hình sự. Thực tiễn cho thấy, không phải người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo, đương sự nào cũng có khả năng tự bào chữa, tự bảo vệ quyền lợi hợp pháp
cho mình. Do vậy, pháp luật tạo điều kiện để họ thực hiện quyền bào chữa, bảo vệ
quyền lợi của mình bằng việc có thể nhờ người khác, trong đó có luật sư.
Để thực hiện được tốt nhiệm vụ bào chữa, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho thân
chủ của mình, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, người bào chữa cần được tham
gia vào quá trình giải quyết vụ án hình sự càng sớm càng tốt. Bộ luật Tố tụng hình
sự 2015 chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/2018 đã quy định luật sư được tham
gia tố tụng từ trước khi có quyết định khởi tố bị can hoặc quyết định tạm giữ. Điều
74 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định“Người bào chữa tham gia tố tụng từ
khi khởi tố bị can”.
Theo quy định mới, từ ngày 01/01/2018, công dân có quyền mời người bào
chữa tham gia bào chữa cho mình trước khi có quyết định khởi tố bị can hoặc
quyết định tạm giữ của cơ quan điều tra nhằm bảo đảm quyền lợi trong giai đoạn
50. 42
điều tra vụ án hình sự. Tuy nhiên, qua thực tế, đặc biệt là tham gia trong các giai
đoạn tố tụng/tranh tụng trong các vụ án hình sự với tư cách là người bào chữa,
người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho các đương sự trong các vụ án hình sự
ngay từ giai đoạn điều tra, tác giả nhận thấy rằng, các quy định của pháp luật hiện
hành vẫn còn nhiều bất cập trong thực tiễn, gây khó khăn cho người bào chữa thực
hiện công việc của mình. Sự tham gia của người bào chữa trong giai đoạn điều tra
còn mang tính hình thức; việc áp dụng chế tài, xử lý những vi phạm đối với những
người có hành vi cản trở hoạt động hành nghề hầu như chưa được các cơ quan có
thẩm quyền quan tâm, thực hiện. Bởi các lẽ đó, người bào chữa chưa được bảo
đảm vai trò của mình trong sự nghiệp bảo vệ công lý, nên chưa góp phần để việc
điều tra được đầy đủ, vô tư, khách quan, đúng quy định của pháp luật, là cơ sở
pháp lý để tòa án xét xử đúng người, đúng tội; hạn chế oan sai, bỏ lọt tội phạm.
2.3. Thực trạng các yếu tố tác động đến vai trò của người bào chữa trong
giai đoạn điều tra vụ án hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh
2.3.1. Địa lý - Dân cư, tình hình Kinh tế - Văn hoá - xã hội, An ninh trật tự - An
toàn xã hội
Địa lý, dân cư tình hình Kinh tế - Văn hoá - Xã hội, An ninh trật tự - An
toàn xã hội :Thành phố Hồ Chí Minh là đô thị lớn nhất nước ta, một trung tâm
chính trị, kinh tế, văn hóa và khoa học kĩ thuật quan trọng của cả nước. Lãnh thổ
của thành phố trải dài theo hướng tây bắc – đông nam và nằm trong khoảng từ
100
22’13’’ đến 110
22’17’’ vĩ độ Bắc và từ 1060
01’2’’ đến 1070
1’10’’ kinh độ Đông.
51. 43
Điểm cực bắc của thành phố là xã Phú Mỹ Hưng (huyện Củ Chi), điểm cực
nam ở xã Long Hòa (huyện Cần Giờ), điểm cực tây tại xã Thái Mỹ (huyện Củ Chi)
và điểm cực đông là xã Thanh An (huyện Cần Giờ). Tính theo đường chim bay,
chiều dài của thành phố theo hướng tây bắc – đông nam khoảng 100 km và chiều
ngang nơi rộng nhất là hơn 40 km.Thành phố Hồ Chí Minh tiếp giáp với 6 tỉnh:
phía bắc và phía đông là các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai và một phần tỉnh Bà
Rịa-Vũng Tàu; phía tây là các tỉnh Tây Ninh, Long An và tỉnh Tiền Giang. Về
phía nam, thành phố tiếp giáng với Biển Đông, mà trực tiếp là vịnh Đồng Tranh
và vịnh Gành Rái.
Diện tích tự nhiên của thành phố là 2.09,01 km, chiếm hơn 6,36% diện tích
cả nước, trong đó gồm 442,13 km nội thành và 1.652,88km ngoại thành với số
dân năm 2002 lên tới 5.449.217 người, bằng 6,83% dân số của cả nước.
Về mặt kinh tế, Thành phố Hồ Chí Minh nằm trong vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam, đồng thời cũng là một đỉnh của tam giác tăng trưởng kinh tế trong
vùng.Điều đó có ý nghĩa đặc biệt đối với việc phát triển kinh tế của thành phố.
Thành phố là đầu mối giao thông vào loại lớn nhất nước ta với sự có mặt của các
tuyến giao thông huyết mạch như đường ô tô, đường sắt, đường biển, đường sông
và đường hàng không.
Do đó, việc giao lưu với các vùng trong nước và các nước trong khu vực cũng
như trên thế giới rất thuận lợi. Như vậy, vị trí địa lí của Thành phố Hồ Chí Minh là
một thế mạnh, góp phần mở rộng giao lưu liên kết ở trong và ngoài nước, giúp
kinh tế của thành phố nhanh chóng hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới.
52. 44
Năm 2018 là năm thứ ba thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần
thứ X; năm đầu tiên thực hiện thời kỳ ổn định ngân sách địa phương giai đoạn
2017-2020, với tỷ lệ điều tiết ngân sách thành phố giảm từ 23% còn 18%; là năm
thành phố tham gia tổ chức nhiều sự kiện quan trọng như Năm APEC 2017, Lễ
hội văn hóa thế giới Thành phố Hồ Chí Minh - Gyeongju, các hoạt động kỷ niệm
thiết lập ngoại giao với một số nước như Lào, Campuchia... Những kết quả đạt
được của Thành phố đã được thể hiện sinh động qua những chỉ số phát triển kinh
tế ấn tượng. Đó là tổng sản phẩm nội địa (GRDP) tăng trưởng 8,25%, cao hơn so
với cùng kỳ (8,05%). Cơ cấu kinh tế thành phố tiếp tục chuyển dịch theo hướng
tăng dần tỷ trọng các ngành dịch vụ chất lượng cao, giá trị gia tăng lớn, có lợi thế
cạnh tranh. Xuất khẩu hàng hóa đạt 35,2 tỷ USD, tăng 15,1%; nhập khẩu đạt 43,1
tỷ USD, tăng 13,2%.Đầu tư trong nước bao gồm vốn đăng ký và bổ sung đạt hơn
899.000 tỷ đồng, tăng gấp 3 lần so với cùng kỳ. Thu hút đầu tư nước ngoài đạt
6,38 tỷ USD, tăng gấp 2 lần so cùng kỳ. Lượng kiều hối đạt 5,2 tỷ USD với 70%
được đưa vào đầu tư là nguồn lực quan trọng thúc đẩy sản xuất kinh doanh.
Chỉ số phát triển công nghiệp tăng 7,9%, bốn ngành công nghiệp trọng yếu
(cơ khí - chế tạo, điện tử - công nghệ thông tin, công nghiệp hóa chất - nhựa - cao
su, chế biến tinh lương thực - thực phẩm) tăng bình quân 15,5%, cao hơn mức
tăng chung của toàn ngành. Khu công nghệ cao nâng cao hiệu quả hoạt động với
giá trị sản xuất đạt 12 tỷ USD. Đặc biệt, Thành phố đã nỗ lực thực hiện tốt công
tác thu ngân sách với kết quả đạt 347.982 tỷ đồng, đạt 100,03% dự toán, tăng
12,94%.
Trước những thách thức lớn đang đặt ra trong quá trình phát triển đô thị, đồng
53. 45
thời trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng, Thành phố đã có nhiều nỗ lực
chỉ đạo và thực hiện ngày càng có hiệu quả việc ứng dụng khoa học công nghệ,
nhất là tận dụng tốt thành tựu của cách mạng công nghiệp 4.0. Năm 2018 là năm
bản lề thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ X và là năm đầu
tiên thành phố tập trung triển khai thực hiện Kết luận số 21 của Bộ Chính trị và
Nghị quyết 54 của Quốc hội, cho phép Thành phố thực hiện thí điểm cơ chế, chính
sách đặc thù để Thành phố phát triển nhanh, bền vững hơn, chắc chắn sẽ tạo tiền
đề tốt cho việc triển khai kế hoạch kinh tế - xã hội năm 2019 và những năm tiếp
theo. Các cơ chế, chính sách thí điểm này sẽ khơi thông, mở ra các nút thắt về tài
chính, đất đai, tổ chức bộ máy và nguồn nhân lực phục vụ hành chính công, từ đó
thúc đẩy mạnh mẽ tốc độ phát triển các ngành kinh tế cao hơn các năm trước,
cùng với những thuận lợi trong quá trình hội nhập, thu hút đầu tư trong và ngoài
nước sẽ góp phần tạo lực đẩy cho tăng trưởng.
Thành phố Hồ Chí Minh khẩn trương tham mưu trình các bộ, ngành Trung
ương xem xét, sửa đổi, bổ sung các văn bản luật, nghị định, thông tư ...để thực
hiện thí điểm các cơ chế, chính sách đặc thù để phát triển nhanh, bền vững, xứng
đáng là thành phố mang tên Bác Hồ kính yêu.
Công tác An ninh trật tự - An toàn xã hội : “ Trích: Báo cáo tổng kết năm
2018 của Công an thanh phố Hồ Chí Minh“, trong năm 2018, CATP đã bám sát
nghị quyết, mệnh lệnh công tác Đảng ủy Công an Trung ương-Bộ Công an và chỉ
đạo của lãnh đạo Thành ủy, Ủy ban nhân dân thành phố về bảo đảm an ninh chính
trị, trật tự, an toàn xã hội; đã đạt và vượt các mục tiêu, yêu cầu, chỉ tiêu và nội
dung công tác đề ra, góp phần giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo trật tự an toàn