SlideShare a Scribd company logo
1 of 91
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
………………./……………….. ……../…….
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
LÊ PHƯỚC TOÀN
PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI,
TỐ CÁO TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI -
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CƯ KUIN,
TỈNH ĐẮK LẮK
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
ĐẮK LẮK – 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
………………./……………….. ……../…….
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
LÊ PHƯỚC TOÀN
PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI,
TỐ CÁO TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI -
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CƯ KUIN,
TỈNH ĐẮK LẮK
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Mã số: 60380102
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN TUẤN KHANH
ĐẮK LẮK - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã
thanh toán đầy đủ các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Học viện Hành
chính Quốc gia.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Học viện Hành chính Quốc gia
xem xét để tôi có thể được bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Lê Phước Toàn
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU.................................................................................................1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN CỦA PHÁP
LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG LĨNH VỰC
ĐẤT ĐAI
1.1. Cơ sở lý luận pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh
vực đất đai .........................................................................................................6
1.2. Nội dung của pháp luật và thực hiện pháp luật về giải quyết khiêu
nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai .....................................................................19
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật về giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai ...........................................................26
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG LĨNH VỰC
ĐẤT ĐAI, TẠI HUYỆN CƯ KUIN, TỈNH ĐẮK LẮK
2.1. Thực trạng pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực
đất đai...............................................................................................................33
2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong
lĩnh vực đất đai, tại huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk .........................................40
Chương 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VÀ ĐẢM BẢO THỰC HIỆN PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT
KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI, QUA THỰC
TIỄN HUYỆN CƯ KUIN, TỈNH ĐẮK LẮK
3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật và đảm bảo thực hiện pháp luật về
giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai ..........................................56
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và đảm bảo thực hiện pháp luật về
giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai ..........................................58
KẾT LUẬN ..........................................................................................80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................84
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
UBND ỦY BAN NHÂN DÂN
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và
thống nhất quản lý. Đất đai là tài sản vô cùng quý giá, vừa là tư liệu sản xuất,
vừa là điều kiện cần thiết trong đời sống của tất cả mọi người, đóng vai trò
quyết định cho sự phát triển kinh tế - xã hội của nước ta. Đất đai vừa là tài sản
có giá trị cao vừa tham gia các giao dịch trên thị trường nên tranh chấp, khúc
mắc về đất đai là không thể tránh khỏi. Việc tìm ra các cơ chế để giải quyết,
đảm bảo ổn định xã hội và cân bằng lợi ích của các chủ thể liên quan đến đất
đai, quản lý và sử dụng đất đai hiệu quả là mục tiêu quan trọng trong chiến
lược phát triển kinh tế của nước ta.
Trong bối cảnh nền kinh tế chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước đang nổ lực hoàn thiện hệ thống pháp luật
thì ý nghĩa của hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai là
lĩnh vực thường xuyên xảy ra khiếu nại, tố cáo nhiều hơn các lĩnh vực khác
càng được thể hiện rõ nét. Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo, pháp luật
về đất đai đã hoàn thiện hay chưa, còn tồn tại những vấn đề nào dẫn đến tình
trạng khiếu nại, tố cáo là vấn đề nóng bỏng của xã hội và biện pháp nào để
khắc phục tình trạng này là những vấn đề cần nghiên cứu.
Huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk có vị trí địa lý nằm dọc trên Quốc lộ 27,
cách Trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk 15 km. Những năm
gần đây, tình hình khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai trên địa bàn huyện
Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk ngày càng trở nên đa dạng, phức tạp, phát sinh nhiều
vụ việc đông người và kéo dài, nhất là tình hình khiếu nại, tố cáo đông người
liên quan đến thu hồi đất, đền bù hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất để xây dựng
các công trình công cộng. Bên cạnh đó, tình trạng quản lý đất đai lỏng lẻo, lấn
chiếm đất đai, xây dựng trái phép trên đất nông nghiệp vẫn còn diễn ra rất
2
nhiều, chưa được xử lý dứt điểm. Hoàn thiện pháp luật và đảm bảo thực hiện
pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai nhằm đảm bảo
lợi ích chính đáng của người dân, góp phần ổn định kinh tế - xã hội là nhu cầu
cấp thiết trên địa bàn huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk hiện nay.
Chính vì vậy, tác giả chọn đề tài: “Pháp luật về giải quyết khiếu nại,
tố cáo trong lĩnh vực đất đai - Từ thực tiễn huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk”
làm đề tài Luận văn Thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai là đề tài thu
hút sự quan tâm của giới khoa học pháp lý. Thời gian qua đã có các công trình
nghiên cứu, sách báo pháp lý và các bài viết liên quan đến vấn đề này dưới
góc độ lý luận và thực tiễn, như:
- Kỹ năng áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp đất đai ở Việt
Nam (Sách chuyên khảo, Tiến sĩ Doãn Hồng Nhung, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội 2014); Pháp luật về thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật đất đai ở
Việt Nam (Sách chuyên khảo, Tiến sĩ Doãn Hồng Nhung, Nxb Xây dựng
2013); Khiếu nại, tố cáo hành chính và giải quyết khiếu nại, tố cáo hành
chính ở Việt Nam hiện nay (Sách chuyên khảo, Viện Khoa học thanh tra,
Thanh tra Chính phủ 2012).
- Pháp luật về giải quyết khiếu nại tố cáo ở Việt Nam (Trần Ngân Hà,
Luận văn Thạc sĩ, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội); Hiệu quả hoạt động
giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước ở Ninh
Bình hiện nay (Nguyễn Thị Hồng Thơm, Luận văn Thạc sĩ, Khoa Luật Đại
học Quốc gia Hà Nội); Cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính ở Việt Nam
hiện nay và vấn đề hoàn thiện (Phạm Anh Tuấn, Luận văn Thạc sĩ, Khoa Luật
Đại học Quốc gia Hà Nội); Thực thi pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo
về đất đai trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh (Nguyễn Ngọc Linh, Luận văn Thạc
sĩ, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội); Thi hành pháp luật giải quyết khiếu
3
nại, tố cáo về đất đai trên địa bàn thành phố Đà Nẵng (Võ Nguyên Chương,
Luận văn Thạc sĩ, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội).
- Khiếu nại, tố cáo hành chính - cơ sở lý luận, thực trạng và giải pháp
(Đề tài Khoa học cấp Nhà nước, Thanh tra Chính phủ); Thu hồi đất và giải
quyết khiếu nại về thu hồi đất ở Việt Nam hiện nay - Những vấn đề lý luận và
thực tiễn (Đề tài khoa học, Viện Khoa học Thanh tra, Thanh tra Chính phủ).
- Bài viết trên các trang báo: Giải quyết khiếu nại, tố cáo phải biến
nhận thức thành hành động (trên trang WWW.thanh tra.gov.vn); Giải quyết
khiếu nại, tố cáo luôn đòi hỏi sự vào cuộc mạnh mẽ của cả hệ thống chính trị
(trên trang WWW.noichinh.com); Khiếu nại, tố cáo về đất đai vẫn tăng (trên
trang WWW.dangcongsan.vn) …
Các công trình, bài viết chủ yếu đi sâu nghiên cứu về từng vấn đề trong
khiếu nại, tố cáo mà chưa khái quát hóa từ mặt lý luận đến đánh giá thực tiễn
áp dụng pháp luật về khiếu nại, tố cáo; đồng thời, chưa tổng kết được các
nguyên nhân dẫn đến tình trạng khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai chiếm
tỷ lệ cao để đưa ra các giải pháp cải thiện tình hình. Tiếp tục kế thừa những
thành quả nghiên cứu của các công trình, bài viết trên đây, Luận văn đi sâu
tìm hiểu một cách có hệ thống, toàn diện về khiếu nại, tố cáo và giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai. Bên cạnh đó, địa bàn huyện Cư Kuin,
tỉnh Đắk Lắk có những đặc điểm riêng biệt về nguồn tài nguyên đất đai và
quản lý, sử dụng đất đai, vì vậy luận văn tìm hiểu thực trạng việc thực hiện
pháp luật và nguyên nhân dẫn đến tình trạng khiếu nại, tố cáo kéo dài, phức
tạp trên địa bàn huyện Cư Kuin trong những năm gần đây để đưa ra những
giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và đảm bảo thực hiện pháp luật về giải
quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích:
Làm sáng tỏ cơ sở lý luận pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo
4
trong lĩnh vực đất đai, đánh giá đúng đắn thực trạng thực hiện pháp luật trong
lĩnh vực này từ thực tiễn huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk. Trên cơ sở đó, đưa ra
các giải pháp để hoàn thiện và đảm bảo thực hiện pháp luật về giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai.
Nhiệm vụ:
Một là: Phân tích, đánh giá những kết quả đạt được, tồn tại, hạn chế và
nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong hệ thống quy định của pháp luật
và thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai.
Hai là: Đề xuất được các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và đảm
bảo thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng: Các quy phạm pháp luật thực định về khiếu nại, tố cáo và
giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai đang có hiệu lực thi hành.
Phạm vi nghiên cứu: Phân tích, tìm hiểu các nội dung về khiếu nại, tố
cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai quy định tại Luật
Khiếu nại năm 2011, Luật Tố cáo năm 2011, Luật Đất đai năm 2013, các văn
bản hướng dẫn thi hành có liên quan và tình hình thực hiện pháp luật giải
quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai trên địa bàn huyện Cư Kuin
trong giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Phương pháp luận: Luận văn vận dụng các thành tựu nghiên cứu khoa
học, những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên
khảo, bài viết của các tác giả khác để phát triển nội dung nghiên cứu trong
luận văn.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng tổng hợp các phương
pháp lịch sử, so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê và vận dụng chủ nghĩa
duy vật biện chứng, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm của Đảng và Nhà nước về khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố
5
cáo để làm sáng tỏ các vấn đề được nghiên cứu trong luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Qua việc nghiên cứu đề tài này, kết quả luận văn sẽ đóng góp cho khoa
học ở những khía cạnh như sau:
Thứ nhất: Góp phần hình thành nhận thức thống nhất về vai trò, ý
nghĩa, tầm quan trọng của công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực
đất đai và hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này.
Thứ hai: Đưa ra được những giải pháp, nhiệm vụ cụ thể nhằm hoàn
thiện pháp luật và đảm bảo thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo
trong lĩnh vực đất đai trên địa bàn huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk, nhằm phát
huy những kết quả đạt được, tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc,
tồn tại, hạn chế đang đặt ra.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật về giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai.
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai tại huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk.
Chương 3: Quan điểm, giải pháp để hoàn thiện pháp luật và đảm bảo
thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai.
6
Chương 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT VỀ
GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI
1.1. Cơ sở lý luận pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong
lĩnh vực đất đai
1.1.1. Khái niệm về khiếu nại và khiếu nại trong lĩnh vực đất đai; về
giải quyết khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai
1.1.1.1. Khái niệm về khiếu nại
Khiếu nại là hiện tượng xung đột về lợi ích giữa các chủ thể mà biểu
hiện của nó là sự phản ứng của các chủ thể khi họ cho rằng quyền và lợi ích
hợp pháp của mình bị xâm phạm. Trong xã hội, các quan hệ về quyền và
nghĩa vụ của các chủ thể rất đa dạng, vì vậy, khiếu nại được thể hiện ở nhiều
cấp độ khác nhau, trên những lĩnh vực khác nhau.
Trong khoa học pháp lý, thuật ngữ khiếu nại được đề cập đến như là sự
phản ứng của các chủ thể trong xã hội đối với quyết định của các cơ quan nhà
nước (cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp) hoặc hành vi
của cán bộ, công chức, người làm việc trong cơ quan nhà nước khi họ cho
rằng các quyết định, hành vi đó xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của
mình. Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau về khiếu nại nhưng nhìn chung,
quan niệm về khiếu nại đều được hiểu như vậy. Theo sách Thuật ngữ pháp lý
phổ thông “khiếu nại là việc yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội hoặc
người có chức vụ giải quyết việc vi phạm các quyền hoặc lợi ích hợp pháp
của bản thân người khiếu nại hay người khác” [11, tr. 14]. Theo Từ điển
tiếng Việt “khiếu nại được hiểu là đề nghị cơ quan có thẩm quyền xét một
việc làm mà mình không đồng ý, cho là trái phép hay không hợp lý” [26, tr.
17].
Nhìn lại lịch sử lập pháp Việt Nam, thuật ngữ khiếu nại được sử dụng
7
lần đầu tiên trong văn bản chính thức của Nhà nước Việt Nam là kể từ khi có
Sắc lệnh số 64-SL ngày 23/11/1945 thành lập Ban Thanh tra đặc biệt. Điều II
của Sắc lệnh quy định: “… Ban Thanh tra đặc biệt có toàn quyền: Nhận các
đơn khiếu nại của nhân dân...” [11, tr. 16]. Tinh thần và nội dung của bản Sắc
lệnh cho thấy khiếu nại ở đây chỉ sự khiếu nại của nhân dân đối với chính
quyền mà hiện nay chúng ta quan niệm đó chính là khiếu nại đối với hoạt
động của bộ máy nhà nước và công chức nhà nước mà trước hết là các cơ
quan hành chính nhà nước, đó chính là khiếu nại hành chính. Tại Điều I, Sắc
lệnh cũng đã xác định: “Chính phủ sẽ lập ngay một Ban Thanh tra đặc biệt,
có uỷ nhiệm là đi giám sát tất cả các công việc và các nhân viên của uỷ ban
nhân dân và các cơ quan của Chính phủ” [11, tr. 16]. Như vậy, việc khiếu nại
vừa có ý nghĩa bảo vệ quyền lợi của người dân tránh sự vi phạm từ phía cơ
quan nhà nước và cán bộ nhà nước, vừa tạo ra cơ chế để giám sát hoạt động
của chính quyền các cấp.
Năm 2000, trong một kết quả nghiên cứu của Thanh tra Nhà nước, khái
niệm khiếu nại được hiểu rộng hơn, theo đó:
Khiếu nại theo nghĩa chung nhất là việc cá nhân hay tổ chức
đề nghị cá nhân, tổ chức hay cơ quan nào đó xem xét, sửa
chữa lại một việc làm mà họ cho là không đúng đắn, gây thiệt
hại hoặc sẽ gây thiệt hại đến quyền, lợi ích chính đáng của họ
và đòi bồi thường thiệt hại do việc làm không đúng gây ra
[26, tr. 17].
Trong lĩnh vực quản lý nhà nước, khiếu nại gắn liền với thuật ngữ
khiếu nại hành chính. Từ điển Bách khoa Việt Nam đưa ra quan niệm: “Khiếu
nại hành chính là việc cá nhân hay tổ chức đề nghị cơ quan hành chính nhà
nước xem xét, sửa chữa một hành vi hay một quyết định hành chính mà họ
cho là hành vi và quyết định đó không đúng pháp luật, gây thiệt hại hoặc sẽ
gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ...” [26, tr. 18].
8
Theo quy định tại Khoản 1, Điều 2 Luật Khiếu nại năm 2011:
Khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ,
công chức theo thủ tục do Luật này quy định, đề nghị cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định
hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà
nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà
nước hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ
cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm
phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình [16, tr. 7, 8].
1.1.1.2. Khái niệm về khiếu nại trong lĩnh vực đất đai
Trong giáo trình Luật Đất đai của Trường Đại học Luật Hà Nội - Nhà
xuất bản Công an nhân dân năm 2009, ThS. Nguyễn Thị Dung đã kế thừa hai
cách hiểu của nhóm Nguyễn Như Ý và Nguyễn Ngọc Điệp, cùng với định
nghĩa về Khiếu nại trong Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 để cho ra khái
niệm khiếu nại trong lĩnh vực đất đai như sau:
Khiếu nại trong lĩnh vực đất đai là việc các cơ quan, tổ
chức, công dân đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền
xem xét lại các quyết định hành chính hoặc hành vi hành
chính trong quản lý đất đai khi có căn cứ cho rằng các quyết
định, hành vi đó là xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp
của mình [11, tr. 17].
Khoản 1, Điều 204 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Người sử dụng
đất, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến sử dụng đất có quyền khiếu
nại quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính về quản lý đất đai” [20,
tr. 236].
Từ quan điểm chung nhất về khiếu nại và qua các nghiên cứu nêu trên,
khiếu nại trong lĩnh vực đất đai có thể hiểu là một hình thức của khiếu nại
hành chính, là việc đề nghị các cơ quan, tổ chức, cá nhân xem xét lại các
9
quyết định, hành vi hành chính đã làm trong quản lý và sử dụng đất đai khi có
căn cứ cho rằng các quyết định, hành vi đó trái pháp luật, xâm phạm đến
quyền lợi hợp pháp của mình.
1.1.1.3. Khái niệm về giải quyết khiếu nại
Tại Khoản 11, Điều 2 Luật Khiếu nại năm 2011 định: “Giải quyết
khiếu nại là việc thụ lý, xác minh, kết luận và ra quyết định giải quyết khiếu
nại” [16, tr. 9].
Như vậy, giải quyết khiếu nại được hiểu là quá trình xem xét, đánh giá
đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật có
đúng pháp luật hay không, từ đó đưa ra các giải pháp xử lý phù hợp.
1.1.1.4. Khái niệm về giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai
Tại Khoản 2, Điều 204 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Trình tự, thủ
tục giải quyết khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính về đất đai
thực hiện theo quy định của pháp luật về khiếu nại” [20, tr. 236, 237].
Giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai là một dạng giải quyết
khiếu nại hành chính và cũng giống với giải quyết khiếu nại, nó được hiểu là
quá trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, đánh giá đối với quyết
định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất
đai có đúng pháp luật hay không, từ đó đưa ra các giải pháp xử lý phù hợp.
1.1.2. Khái niệm về tố cáo và tố cáo trong lĩnh vực đất đai; về giải
quyết tố cáo và giải quyết tố cáo trong lĩnh vực đất đai
1.1.2.1. Khái niệm về tố cáo
Tố cáo là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong đời sống xã hội. Tố
cáo được quan niệm khác nhau tùy theo mức độ, phạm vi, đối tượng tố cáo.
Theo nghĩa chung nhất là “vạch rõ tội lỗi của kẻ khác trước cơ quan pháp
luật hoặc trước dư luận” [11, tr. 18]. Như vậy, tố cáo chính là sự phản ứng
của xã hội trước những hành vi sai trái nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của nhà
nước, của cơ quan, tổ chức và cá nhân và bảo đảm trật tự xã hội. Tố cáo là
10
nguồn thông tin quan trọng để cơ quan nhà nước có thẩm quyền kịp thời ngăn
chặn và xử lý hành vi vi phạm và kêu gọi sự đồng thuận của xã hội ngăn chặn,
đẩy lùi các hành vi đó. Xuất phát từ trách nhiệm của các chủ thể trong việc
bảm đảm trật tự xã hội nói chung, chủ thể của quyền tố cáo rất rộng, có thể
bao gồm cả cơ quan, tổ chức, cá nhân khi phát hiện bất kỳ hành vi sai trái nào
xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác và của mình.
Dưới góc độ pháp lý, tố cáo là quyền của công dân phát hiện với cơ quan
nhà nước có thẩm quyền các quyết định, hành vi trái pháp luật của cơ quan, tổ
chức hoặc cá nhân đã gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho lợi ích của
nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích của công dân nói chung, kể cả không
gây thiệt hại trực tiếp cho công dân thực hiện việc tố cáo.
Tại Khoản 2, Điều 2, Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 quy định:
Tố cáo là việc công dân theo thủ tục do Luật này quy định báo
cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi
phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây
thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền,
lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức [14, tr. 1].
Đây là quan niệm chung nhất về tố cáo nhưng lại bó hẹp bởi thủ tục
được quy định. Khái niệm này cũng không phân biệt tố cáo đối với các hành
vi xâm phạm đến những khách thể khác nhau trong xã hội, cụ thể là không
phân biệt tố cáo hành vi xâm phạm trật tự quản lý, hành vi xâm phạm đến
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, hành vi xâm phạm hoạt động tư
pháp… Do đó, chưa phân biệt rõ thẩm quyền, trình tự, thủ tục tiếp nhận và xử
lý của các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác nhau đối với thông tin về những
hành vi vi phạm pháp luật khác nhau.
Tại Khoản 1, Điều 2 Luật Tố cáo năm 2011 quy định:
Tố cáo là việc công dân theo thủ tục do Luật này quy định báo
cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi
11
vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào
gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước,
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức [17, tr.
7, 8].
1.1.2.2. Khái niệm về tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Khoản 1, Điều 205 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Cá nhân có
quyền tố cáo vi phạm pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai” [20, tr. 237].
Từ quan điểm chung nhất về tố cáo và qua các phân tích nêu trên, tố
cáo trong lĩnh vực đất đai có thể hiểu là việc cá nhân báo cho cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật về quản lý và
sử dụng đất đai của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe
dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân,
cơ quan, tổ chức.
Tố cáo trong lĩnh vực đất đai theo quy định của Luật Tố cáo năm 2011
có 02 dạng: Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức có thẩm
quyền trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ; Tố cáo các cơ quan, tổ chức,
cá nhân xâm phạm, vi phạm các quy định pháp luật trong quản lý, sử dụng đất
đai. Trong giới hạn nghiên cứu của luận văn này chủ yếu đề cập đến việc tố
cáo các hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức được quy định trong
Luật Tố cáo năm 2011, không đề cập đến những tin báo, tố giác tội phạm
trong quản lý, sử dụng đất đai, những tin báo, tố giác tội phạm này được giải
quyết theo thủ tục tố tụng.
1.1.2.3. Khái niệm về giải quyết tố cáo
Tại Khoản 7, Điều 2 Luật Tố cáo năm 2011 quy định: “Giải quyết tố
cáo là việc tiếp nhận, xác minh, kết luận về nội dung tố cáo và việc xử lý tố
cáo của người giải quyết tố cáo” [17, tr. 8].
Như vậy, giải quyết tố cáo được hiểu là quá trình cơ quan nhà nước có
thẩm quyền tiếp nhận, xử lý thông tin tố cáo; xác minh, kết luận nội dung tố
12
cáo; xử lý tố cáo của người giải quyết tố cáo và công khai kết luận nội dung
tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo.
1.1.2.4. Khái niệm về giải quyết tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Tại Khoản 2, Điều 205 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Việc giải
quyết tố cáo vi phạm pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai thực hiện theo
quy định của pháp luật về tố cáo” [20, tr. 237].
Giải quyết tố cáo trong lĩnh vực đất đai là một dạng giải quyết tố cáo,
nó được hiểu là quá trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiếp nhận, xử lý
thông tin tố cáo về đất đai; xác minh, kết luận nội dung tố cáo; xử lý tố cáo
của người giải quyết tố cáo và công khai kết luận nội dung tố cáo, quyết định
xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo trong lĩnh vực đất đai.
1.1.2. Đặc điểm của khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai và giải
quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
1.1.2.1. Đặc điểm của khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Một là: Khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai là một dạng của khiếu
nại, tố cáo, vì vậy nó cũng mang những đặc điểm chung của khiếu nại, tố cáo.
Khiếu nại, tố cáo là các quyền chính trị cơ bản của công dân được ghi nhận
trong Hiến pháp của nước ta cũng như các văn bản pháp luật có liên quan.
Giữa khiếu nại và tố cáo có điểm chung là đều nhằm để bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức khi bị xâm phạm, đều có chung căn
cứ là vi phạm pháp luật. Vì vậy, các thông tin do khiếu nại, tố cáo mang đến
đều là những thông tin phản ánh vi phạm pháp luật. Về bản chất khiếu nại, tố
cáo là giải quyết, xử lý vi phạm pháp luật.
Bên cạnh đó, mặc dù giữa khiếu nại và tố cáo có những đặc điểm chung
và có quan hệ gần gũi với nhau, tuy nhiên giữa chúng cũng có những đặc
điểm riêng biệt, như: Chủ thể của khiếu nại là cơ quan nhà nước, tổ chức và
cá nhân, còn chủ thể của tố cáo chỉ là cá nhân. Đối tượng của khiếu nại là
quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật đối với
13
cán bộ, công chức. Còn tố cáo có đối tượng rộng hơn rất nhiều, đó là hành vi
vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc
đe doạ gây thiệt hại tới lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân, cơ quan, tổ chức. Mục đích của khiếu nại hướng tới bảo vệ và khôi phục
quyền và lợi ích hợp pháp của người khiếu nại, còn mục đích của tố cáo
không chỉ nhằm bảo vệ và khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp của người tố
cáo mà còn bảo vệ quyền, lợi ích của Nhà nước và xã hội. Cách thức thực
hiện của khiếu nại là việc người khiếu nại yêu cầu hoặc đề nghị người có
thẩm quyền giải quyết khiếu nại xem xét lại các quyết định hành chính, hành
vi hành chính. Trong khi đó, cách thức thực hiện tố cáo là việc người tố cáo
báo cho người có thẩm quyền giải quyết tố cáo biết về hành vi vi phạm pháp
luật…
Hai là: Khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai là một quyền cơ bản của
người sử dụng đất. Sở dĩ như vậy vì Nhà nước ta là Nhà nước của Nhân dân,
do Nhân dân và vì Nhân dân. Đất đai ở nước ta thuộc sở hữu toàn dân do Nhà
nước làm đại diện chủ sở hữu, thay mặt nhân dân thực hiện hoạt động quản lý
đất đai để đảm bảo cho đất đai được sử dụng hợp lý, phục vụ cho lợi ích hợp
pháp của người sử dụng đất.
Ba là: Khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai có cùng căn cứ là sự vi
phạm pháp luật. Đó là các quyết định, hành vi hành chính của các cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền hoặc hành vi của bất kỳ cá nhân, tổ chức, cơ
quan nào trái hoặc vi phạm pháp luật đất đai, xâm phạm hoặc đe dọa xâm
phạm tới các quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất cũng như của
toàn xã hội. Khi thực hiện khiếu nại, tố cáo, người khiếu nại, tố cáo đều
hướng tới mục đích là chấm dứt những hành vi vi phạm, trái pháp luật ấy; yêu
cầu phục hồi các quyền và lợi ích bị xâm hại, bồi thường thiệt hại về vật chất,
danh dự do những hành vi đó gây ra, xử lý đúng pháp luật các cá nhân, tổ
chức đã vi phạm, góp phần củng cố pháp chế xã hội chủ nghĩa và lập lại kỷ
14
cương xã hội.
Bốn là: Nội dung của khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai rất phong
phú và đa dạng. Các hoạt động quản lý nhà nước về đất đai bao gồm rất nhiều
nội dung: Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất
đai và tổ chức thực hiện các văn bản đó; xác định địa giới hành chính, lập và
quản lý hồ sơ địa giới hành chính, lập bản đồ hành chính; khảo sát, đo đạc, lập
bản đồ địa chính; lập bản đồ địa chính, bản đồ hiện trạng sử dụng đất; quản lý
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; quản lý giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất,
chuyển mục đích sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; quản
lý tài chính về đất đai; giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai…
Năm là: Khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai khi xảy ra không chỉ
ảnh hưởng tới hoạt động của người sử dụng đất mà nó còn ảnh hưởng tới hoạt
động quản lý đất đai của Nhà nước. Khi khiếu nại, tố cáo xảy ra, bản thân
người sử dụng đất không thể thực hiện được các quyền lợi của mình đối với
đất đai, không thực hiện được các nghĩa vụ đối với Nhà nước. Còn cơ quan
nhà nước sẽ khó khăn trong hoạt động quản lý của mình về đất đai, vì việc
thực hiện các quyết định, hành vi hành chính về đất đai bị đình trệ.
1.1.2.2. Đặc điểm của giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất
đai
Một là: Giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai là một dạng
của giải quyết khiếu nại, tố cáo hành chính. Có điểm chung trong hoạt động
giải quyết khiếu nại, tố cáo hành chính là đều được thực hiện bằng con đường
hành chính. Tất cả các hoạt động này một bên tham gia quan hệ đều là cơ
quan hành chính nhà nước, còn bên khác trong quan hệ có thể là cá nhân, tổ
chức, cơ quan khác của nhà nước. Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo hành
chính là một hoạt động bảo đảm pháp chế trong quản lý nhà nước, bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, bảo vệ lợi ích nhà
nước, xã hội, bảo vệ trật tự kỷ cương, trật tự pháp luật, xử lý những hành vi vi
15
phạm pháp luật. Vì vậy, hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ
quan hành chính nhà nước cũng là biện pháp bảo đảm pháp chế xã hội chủ
nghĩa.
Bên cạnh đó, mặc dù có những điểm chung với nhau nhưng về thủ tục
hành chính trong giải quyết khiếu nại và giải quyết tố cáo có những điểm
riêng biệt, như: Giải quyết khiếu nại hành chính phải đảm bảo khách quan,
dân chủ, kịp thời, trong khi đó giải quyết tố cáo còn phải đảm bảo bí mật, bảo
vệ người tố cáo; trong giải quyết khiếu nại hành chính Tòa án là lá chắn cuối
cùng bảo vệ quyền của người khiếu nại, còn trong giải quyết tố cáo hành
chính thì không có hệ thống Tòa án.
Hai là: Giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai phải bảo đảm
nguyên tắc đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý.
Kiên quyết bảo vệ những thành quả cách mạng về ruộng đất, đồng thời khắc
phục kịp thời, đúng pháp luật những trường hợp đã xử lý sai trái hoặc xử lý
không đúng. Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai do
có quan có thẩm quyền quản lý nhà nước tiến hành theo trình tự, thủ tục hành
chính.
Ba là: Cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo phải nắm
vững quan điểm lấy dân làm gốc, phải dựa vào dân, bàn bạc dân chủ công
khai quỹ đất với dân để giải quyết và phát huy tinh thần đoàn kết, tương trợ
trong nội bộ nhân dân để giúp nhân dân tìm ra giải pháp, không gò ép mệnh
lệnh. Đề cao vai trò của các tổ chức, đoàn thể để hòa giải các vụ khiếu nại, tố
cáo có hiệu quả.
Bốn là: Giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai nhằm mục
đích phát triển sản xuất, ổn định và từng bước cải thiện đời sống nhân dân.
Năm là: Giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai phải được
thực hiện trong khuôn khổ pháp luật và phải tuân theo trình tự, thủ tục đã
được quy định trong các văn bản pháp luật về khiếu nại, về tố cáo và về đất
16
đai. Một mặt phải tuân thủ quy định của Luật khiếu nại năm 2011, Luật Tố
cáo năm 2011, mặt khác phải tuân thủ quy định của Luật Đất đai năm 2013 và
các văn bản hướng dẫn thi hành.
Sáu là: Giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai được quy
định theo phân cấp quản lý, bao gồm từ cấp huyện lên cấp tỉnh; bên cạnh đó,
người dân còn có thể khởi kiện ra Tòa án mà không cần phải chờ giải quyết
khiếu nại lần hai (đối với khiếu nại) hoặc tố cáo tiếp (đối với tố cáo).
Bảy là: Giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai phản ánh mối
quan hệ giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quản lý đất đai với người
sử dụng đất. Trong quan hệ này, cơ quan có thẩm quyền sẽ xem xét nội dung
quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại, bị tố cáo, từ đó đi đến
công nhận hay không công nhận một phần hay toàn bộ quyết định hành chính
đó; kết luận về tính đúng đắn của hành vi hành chính hoặc kết luận về tính
đúng đắn của nội dung tố cáo.
1.1.3. Vai trò của giải quyết khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại,
tố cáo trong lĩnh vực đất đai
1.1.3.1. Vai trò của giải quyết khiếu nại, tố cáo nói chung
Thứ nhất: Quyền khiếu nại, quyền tố cáo là quyền chính trị cơ bản của
công dân, là phương tiện đảm bảo quyền, lợi ích của công dân, lợi ích của
Nhà nước. Quyền khiếu nại được coi là quyền để bảo vệ quyền, quyền khiếu
nại được sử dụng khi quyền và lợi ích của công dân bị vi phạm do quyết định
hành chính hoặc hành vi hành chính của cơ quan quản lý nhà nước. Khiếu nại
là kênh thông tin hữu ích giúp cơ quan quản lý nhà nước phát hiện những tồn
tại, vướng mắc và qua đó hoàn thiện hoạt động quản lý nhà nước. Tố cáo là
phương thức giúp công dân thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của
cơ quan quản lý nhà nước. Khiếu nại, tố cáo là phương thức công dân tham
gia vào họat động quản lý nhà nước và quyền khiếu nại, quyền tố cáo được
phát huy đã phản ánh nền dân chủ quốc gia. Hiến pháp năm 2013 quy định:
17
“Mọi người có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân
có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức,cá
nhân” [21, tr. 5].
Thứ hai: Khiếu nại, tố cáo và việc giải quyết khiếu nại, tố cáo là một
trong những hoạt động nhằm đảm bảo pháp chế, triệt để tôn trọng pháp luật
trong hoạt động của các cơ quan Nhà nước và công dân. Hoạt động giải quyết
khiếu nại, tố cáo là hoạt động đảm bảo pháp chế trong hoạt động quản lý hành
chính nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo vệ trật tự
pháp luật và xử lý những hành vi vi phạm pháp luật. Việc thực hiện quyền
khiếu nại, quyền tố cáo của công dân có vai trò to lớn trong việc mở rộng cơ
chế dân chủ, tăng cường pháp chế và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Thông qua khiếu nại, tố cáo, Nhà nước kiểm định được tính đúng đắn, khả thi
của các quy định pháp luật và hiệu quả của công tác triển khai thực hiện các
quy định pháp luật; góp phần giúp Nhà nước hoàn thiện cơ chế quản lý xã hội
bằng pháp luật.
Thứ ba: Thông qua giải quyết khiếu nại, tố cáo mà các hành vi vi phạm
pháp luật, tham nhũng, lãng phí được phát hiện, xử lý kịp thời, từ đó các cơ
quan chức năng mới có các biện pháp để xử lý nghiêm minh những sai phạm.
Bất cứ hành vi vi phạm nào sau khi giải quyết mà xét thấy đúng như những gì
khiếu nại, tố cáo đã nêu đều sẽ bị các cơ quan chức năng xử lý bằng nhiều
hình thức. Chính vì thế để đảm bảo cho pháp luật nghiêm minh thì hoạt động
giải quyết khiếu nại, tố cáo có tác dụng răn đe, ngăn chặn những hành vi sai
phạm.
Thứ tư: Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo thể hiện tinh thần nhân
đạo, tiến bộ và dân chủ của nước ta. Hoạt động này sẽ bảo đảm tính dân chủ,
công khai, minh bạch trong quản lý hành chính nhà nước. Giải quyết hợp lý
các yêu cầu khiếu nại, tố cáo của công dân lấy được lòng tin của nhân dân vào
cơ quan Nhà nước, vào sự lãnh đạo của Đảng; làm sợi dây liên kết Đảng, Nhà
18
nước và nhân dân thêm chắc chắn. Đó cũng là tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh được thể hiện thông qua những lời văn hết sức bình dị nhưng vô cùng
sâu sắc: “Đồng bào có oan ức, có thắc mắc mới khiếu nại, ta giải quyết tốt
các khiếu nại, đồng thời thấy Đảng và Chính phủ quan tâm lo lắng đến họ, do
đó mối quan hệ quần chúng với Đảng và Chính phủ được củng cố tốt hơn”
[12, tr. 15].
Như vậy, thực hiện tốt công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo có vai trò
vô cùng quan trọng, góp phần đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa, đảm bảo
quyền và lợi ích chính đáng của công dân; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa;
phát huy sức mạnh, trí tuệ của nhân dân tham gia vào quản lý nhà nước và
tăng cường kỷ cương, pháp luật.
1.1.3.2. Vai trò của giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Thứ nhất: Giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai là một
dạng của giải quyết khiếu nại, tố cáo nên nó cũng có những vai trò của giải
quyết khiếu nại, tố cáo.
Thứ hai: Giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai có ý nghĩa
rất quan trọng trong việc đảm bảo cho pháp luật nói chung và pháp luật về đất
đai nói riêng được thực thi nghiêm chỉnh, góp phần nâng cao hiệu quả của
hoạt động quản lý và sử dụng đất đai. Thông qua hoạt động này các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền sẽ thấy được những lĩnh vực nào của pháp luật đất
đai còn bộc lộ những điểm không phù hợp với thực tiễn để từ đó tiến hành
nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, đồng thời cũng thông qua đây, Nhà
nước có thể điều chỉnh các quan hệ đất đai cho phù hợp với lợi ích của Nhà
nước, của nhân dân cũng như của từng hộ gia đình, cá nhân.
Thứ ba: Việc giải quyết nhanh chóng, đúng pháp luật các khiếu nại, tố
cáo trong lĩnh vực đất đai, gắn với nó là việc khôi phục kịp thời các quyền, lợi
ích hợp pháp của người sử dụng đất, đồng thời xử lý nghiêm minh, đúng pháp
luật những người có hành vi sai phạm sẽ củng cố niềm tin của nhân dân vào
19
chính quyền, chế độ, vào các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng,
Nhà nước. Nếu hoạt động khiếu nại, tố cáo của công dân chỉ dừng lại ở việc
phát hiện và thông tin các hành vi vi phạm pháp luật của các cá nhân, tổ chức,
cơ quan trong hoạt động quản lý đất đai thì chưa hoàn toàn đảm bảo quyền và
lợi ích của công dân. Kết quả của giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực
đất đai còn khôi phục quyền và lợi ích của công dân bị xâm phạm: bồi
thường, hỗ trợ thỏa đáng, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đúng chủ
sở hữu, giải quyết tranh chấp đất đai giữa công dân với nhau… đáp ứng mong
mỏi chính đáng của công dân khi khiếu kiện lên các cơ quan có thẩm quyền.
1.2. Nội dung của pháp luật và thực hiện pháp luật về giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
1.2.1. Nội dung của pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh
vực đất đai
Pháp luật là hệ thống những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do
Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của
giai cấp thống trị và là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội phát triển phù
hợp với lợi ích của giai cấp mình.
Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai là tổng
hợp các quy định pháp luật điều chỉnh nguyên tắc, thẩm quyền, điều kiện,
trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo nhằm khôi phục quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân bị xâm phạm do các quyết định hành chính, hành vi
hành chính về đất đai của các cơ quan quản lý nhà nước.
Pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai là hệ thống
các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong khiếu
nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai. Hệ thống
pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai bao gồm các chế
định cơ bản như: Những quy định chung về nguyên tắc, quan niệm, phạm vi,
đối tượng điều chỉnh; những quy định về thẩm quyền, trình tự và thủ tục giải
20
quyết; những quy định về các giải pháp đảm bảo giải quyết khiếu nại, tố cáo;
những quy định về việc thực hiện các quyết định, kết luận giải quyết khiếu
nại, xử lý tố cáo trong lĩnh vực đất đai… Các chế định này không những chỉ
được quy định trong Luật Khiếu nại năm 2011, Luật Tố cáo năm 2011 và các
văn bản hướng dẫn thi hành, mà còn được quy định trong hệ thống pháp luật
đất đai (Luật Đất đai năm 2003, Luật Đất đai năm 2013…).
1.2.1.1. Nội dung cơ bản của pháp luật về giải quyết khiếu nại trong lĩnh
vực đất đai
Chủ thể quyền khiếu nại trong lĩnh vực đất đai quy định về địa vị pháp lý
của công dân, cơ quan, tổ chức trong quan hệ với cơ quan công quyền hoặc
với cá nhân, cơ quan, tổ chức khác. Các chủ thể tham gia vào giải quyết khiếu
nại gồm: người khiếu nại, người bị khiếu nại, người giải quyết khiếu nại và
người có quyền, nghĩa vụ liên quan.
Đối tượng của quyền khiếu nại trong lĩnh vực đất đai là những vi phạm
trong hoạt động quản lý của các cơ quan nhà nước về đất đai, thể hiện là tính
trái pháp luật của các quyết định hành chính hoặc các hành vi quản lý, sử
dụng đất đai.
Quy định về quyền, nghĩa vụ của người khiếu nại và người bị khiếu nại
nhằm bảo đảm quyền khiếu nại của công dân và bảo đảm những điều kiện cần
thiết cho quá trình giải quyết đạt hiệu quả.
Các quy định về thẩm quyền, trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan
nhà nước trong giải quyết khiếu nại về đất đai. Xác định đúng thẩm quyền của
các cơ quan, tổ chức trong giải quyết khiếu nại là vấn đề có ý nghĩa quan
trọng, có xác định đúng thẩm quyền mới có thể giải quyết tận gốc bức xúc,
khiếu kiện của công dân.
Thủ tục giải quyết khiếu nại bao gồm các quy định về nội dung công
việc và trình tự thực hiện khi cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ, việc.
Trong quá trình giải quyết cần đảm bảo thực hiện đúng, đầy đủ nội dung công
21
việc và trình tự đã quy định, được áp dụng thống nhất cho các vụ việc khiếu
nại.
Các quy định về quản lý công tác giải quyết khiếu nại, giám sát thi hành
pháp luật khiếu nại nhằm đảm bảo cho các quy định của pháp luật khiếu nại
được thực hiện một cách thống nhất, nghiêm chỉnh.
1.2.1.2. Nội dung cơ bản của pháp luật về giải quyết tố cáo trong lĩnh
vực đất đai
Nội dung các quy định về tố cáo và giải quyết tố cáo trong lĩnh vực đất
đai gồm các quy định giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật của
cán bộ, công chức, viên chức trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ trong
lĩnh vực đất đai; tố cáo và giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật
của cơ quan, tổ chức, cá nhân về quản lý nhà nước trong lĩnh vực đất đai; bảo
vệ người tố cáo và quản lý công tác giải quyết tố cáo.
Chủ thể thực hiện hành vi tố cáo chỉ có thể là cá nhân. Các chủ thể tham
gia vào quan hệ pháp luật tố cáo gồm: người tố cáo, người bị tố cáo và người
giải quyết tố cáo.
Đối tượng của quyền tố cáo trong lĩnh vực đất đai là những vi vi phạm
pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức trong việc thực hiện nhiệm vụ,
công vụ về đất đai và những hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước
trong lĩnh vực đất đai.
Quy định về quyền, nghĩa vụ các chủ thể tham gia vào giải quyết tố cáo
nhằm bảo đảm quyền tố cáo của công dân, bảo đảm an toàn cho người tố cáo;
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị tố cáo và bảo đảm những điều
kiện cần thiết cho quá trình giải quyết đạt hiệu quả.
Các quy định về thẩm quyền, trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan
nhà nước trong giải quyết tố cáo, các cơ quan quản lý công tác giải quyết tố
cáo về đất đai và trách nhiệm phối hợp các cơ quan, tổ chức trong việc giải
quyết tố cáo. Xác định đúng thẩm quyền, trách nhiệm, quyền hạn của các cơ
22
quan, tổ chức trong giải quyết tố cáo nhằm đảm bảo giải quyết tố cáo chính
xác, khách quan, đúng quy định.
Trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo bao gồm các quy định về trình tự,
hình thức, thời hạn và nội dung các công việc từ tiếp nhận, xử lý thông tin và
xác minh nội dung tố cáo đến việc hoàn tất hồ sơ, công bố kết luận nội dung
tố cáo, xử lý nội dung tố cáo.
Các quy định về việc bảo vệ người tố cáo, gồm các đối tượng được bảo
vệ, các hình thức bảo vệ và quyền và nghĩa vụ của người được bảo vệ bởi
những hành vi bị tố cáo nói chung và tố cáo về đất đai nói riêng là những
hành vi thường nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng đến lợi ích của người tố cáo
và của toàn xã hội. Chủ thể thực hiện quyền tố cáo phải chịu trách nhiệm về
những thông tin tố cáo, thậm chí là trách nhiệm hình sự, vì vậy trong pháp
luật về giải quyết tố cáo có những quy định về bảo vệ người tố cáo nhằm
khuyến khích và bảo đảm quyền tố cáo của công dân.
1.2.2. Thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh
vực đất đai
1.2.2.1. Khái niệm thực hiện pháp luật
Thực hiện pháp luật: “Hành vi của chủ thể (hành động hoặc không
hành động) được tiến hành phù hợp với quy định, với yêu cầu của pháp luật,
tức là không trái, không vượt quá khuôn khổ mà pháp luật đã quy định” [12,
tr. 19].
Dưới góc độ pháp lý thì thực hiện pháp luật là hành vi hợp pháp. Hành
vi đó không trái với các quy định của pháp luật, phù hợp với quy định của
pháp luật và đạo đức xã hội. Thực hiện pháp luật cũng có thể là hành vi của
mỗi cá nhân hay hành vi của cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội. Thực hiện
pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích làm cho các quy định của pháp
luật đi vào thực tế, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể
pháp luật.
23
Thực hiện pháp luật được phân thành 4 hình thức như sau:
Tuân thủ pháp luật: “Là hình thức thực hiện pháp luật một cách thụ
động, thể hiện ở sự kiềm chế của chủ thể để không thực hiện các hành vi vi
phạm các quy định cấm đoán của pháp luật” [12, tr. 19].
Thi hành pháp luật: “Là hình thức thực hiện pháp luật một cách chủ
động. Các chủ thể thực hiện thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình
bằng hành động tích cực. Những quy phạm pháp luật bắt buộc được thực hiện
ở hình thức này” [12, tr. 19].
Sử dụng pháp luật: “Là khả năng của các chủ thể tham gia vào quan
hệ pháp luật có thể sử dụng khai thác hay không sử dụng, khai thác, hưởng
quyền mà luật đã dành” [21, tr. 19, 20].
Áp dụng pháp luật: “Là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật để giải quyết, xử lý những vấn
đề cụ thể thuộc trách nhiệm, quyền hạn của mình” [12, tr. 20].
Thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai là
yêu cầu đối với người sử dụng đất, người khiếu nại, tố cáo và người giải quyết
khiếu nại, tố cáo. Trong 4 hình thức thực hiện pháp luật, nếu như tuân thủ
pháp luật, chấp hành pháp luật và sử dụng pháp luật là những hình thức có
tính phổ biến mà các chủ thể pháp luật có thể thực hiện thì áp dụng pháp luật
mang tính đặc thù riêng, nhất thiết phải có sự tham gia trực tiếp của cơ quan
nhà nước hay của cán bộ, công chức có thẩm quyền. Biểu hiện rõ nét nhất là
các chủ thể pháp luật khi thực hiện các quy định của pháp luật luôn có sự can
thiệp của Nhà nước hay của cán bộ, công chức có thẩm quyền, đảm bảo cho
các quy phạm pháp luật được thực hiện triệt để, hiệu lực và hiệu quả khi tác
động vào cuộc sống, vào các quan hệ xã hội. Qua thực tiễn cho thấy đối với
địa phương, nhất là chính quyền cấp huyện thì việc thực hiện đồng bộ 4 hình
thức thực hiện pháp luật nêu trên đóng vai trò rất quan trọng, nhưng việc áp
dụng pháp luật là có vai trò quan trọng hơn cả.
24
Chủ thể thực hiện pháp luật là những chủ thể phải thực hiện các nghĩa
vụ theo pháp luật. Nghĩa vụ theo pháp luật có thể là những nghĩa vụ được quy
định trực tiếp trong các văn bản quy phạm pháp luật, hoặc trong phán quyết
của Tòa án, hoặc trong những quyết định có hiệu lực mà chủ thể đó có nhiệm
vụ phải thi hành.
Chủ thể thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực
đất đai, đó là những cơ quan hành chính nhà nước, chủ thể duy nhất có thẩm
quyền áp dụng pháp luật, là cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận khiếu nại, tố
cáo trong lĩnh vực đất đai. Chủ thể có thẩm quyền được trao quyền quản lý,
gắn với một trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định, dựa vào các
trường hợp cụ thể để xử lý khi có sự kiện pháp lý phát sinh. Tùy theo mỗi nhà
nước, sự phân công về các cơ quan giải quyết khiếu nại, tố cáo sẽ khác nhau.
Trong giới hạn nghiên cứu, luận văn chủ yếu đề cập đến các chủ thể là các cơ
quan hành chính nhà nước có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo trong
lĩnh vực đất đai, gồm: Chủ tịch UBND các cấp; Thủ trưởng cơ quan thuộc sở
và cấp tương đương; Giám đốc sở và cấp tương đương; Thủ trưởng cơ quan
thuộc bộ, thuộc cơ quan ngang bộ, thuộc cơ quan thuộc Chính phủ; Bộ
trưởng; Tổng Thanh tra Chính phủ; Chánh Thanh tra các cấp; Thủ tướng
Chính phủ.
1.2.2.2. Vai trò của thực hiện pháp luật khiếu nại, tố cáo về đất đai
Thứ nhất: Nhà nước ban hành pháp luật để điều chỉnh các mối quan hệ
trong xã hội phục vụ lợi ích của Nhà nước và của cả xã hội. Điều đó chỉ xảy
ra khi các cá nhân, tổ chức trong xã hội thực hiện đầy đủ, chính xác những
quy phạm pháp luật do Nhà nước đặt ra. Pháp luật có thực sự phát huy được
vai trò trong quản lý nhà nước còn phụ thuộc vào việc tổ chức thực hiện pháp
luật, làm cho những yêu cầu của pháp luật trở thành hiện thực. Để Nhà nước
quản lý xã hội bằng pháp luật thì phải có phương thức thực hiện tốt các khâu
từ xây dựng, phổ biến đến tổ chức thực hiện, kiểm tra và xử lý vi phạm nhằm
25
bảo vệ pháp luật. Kết quả của việc tổ chức thực hiện pháp luật là một trong
những tiêu chuẩn để xác định một nền pháp chế xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi các
chủ thể phải tôn trọng và triệt để thực hiện theo pháp luật. Như vậy, thực hiện
pháp luật nói chung và pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực
đất đai là trung tâm của pháp chế.
Thứ hai: Thực hiện pháp luật có vai trò quan trọng và gắn bó mật thiết
với bối cảnh cải cách hành chính. Cải cách hành chính làm cho hệ thống hành
chính trở nên hiệu quả hơn, phục vụ nhân dân được tốt hơn, rút ngắn thủ tục
hành chính theo hướng đơn giản hóa cũng góp phần nâng cao hiệu quả thực
hiện pháp luật của các chủ thể. Chất lượng của các hoạt động thực thi pháp
luật cũng là vấn đề then chốt của cải cách hành chính. Thực hiện pháp luật và
cải cách hành chính đều có chung mục đích là đưa các quy phạm pháp luật đi
vào thực tế, được các chủ thể tuân thủ thực hiện nhằm phát huy tối đa hiệu
quả quản lý nhà nước của pháp luật.
Thứ ba: Thực hiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo và pháp luật giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai là các hoạt động của các chủ thể tiến
hành phù hợp với quy định, với yêu cầu của pháp luật về khiếu nại, tố cáo và
pháp luật về đất đai. Nhờ các hoạt động thực hiện pháp luật về khiếu nại, tố
cáo mà quyền khiếu nại, quyền tố cáo của công dân, cơ quan, tổ chức được
đảm bảo; giúp các quy định về khiếu nại, tố cáo phát huy được giá trị trong
việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể.
Thứ tư: Thông qua việc thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố
cáo, Đảng và Nhà nước kiểm tra được tính đúng đắn, sự phù hợp của đường
lối, chính sách, pháp luật ban hành, từ đó có cơ sở thực tiễn để hoàn thiện
đường lối, chính sách, pháp luật và sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả
quản lý của Nhà nước. Trong trường hợp các khiếu nại, tố cáo được các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, giải quyết kịp thời, đúng pháp luật thể
hiện người khiếu nại, người tố cáo và cả những người xung quanh luôn được
26
Nhà nước tôn trọng, lắng nghe ý kiến của dân, quan tâm bảo vệ quyền, lợi ích
chính đáng của dân, cho thấy nhà nước gần gũi, gắn bó với dân, lo cho dân,
thực sự là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân.
Thứ năm: Giải quyết khiếu nại, tố cáo là phương thức bảo đảm sự giám
sát của nhân dân đối với hoạt động quản lý của nhà nước và cán bộ, công
chức nhà nước. Qua việc thực hiện các quy định về khiếu nại, tố cáo, Nhà
nước phát hiện được những hành vi sai phạm, tiêu cực của cán bộ, công chức
để kịp thời xử lý hoặc những bất hợp lý về chính sách, pháp luật để kịp thời
sửa đổi, bổ sung nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý của bộ
máy nhà nước.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật về giải
quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
1.3.1. Yếu tố chính trị
Tính giai cấp của pháp luật thể hiện ở chỗ pháp luật phản ánh ý chí nhà
nước của giai cấp thống trị. Pháp luật là sự cụ thể hóa ý chí của giai cấp thống
trị (giai cấp cầm quyền) trong xã hội, là một trong những hình thức biểu hiện
cụ thể của chính trị. Đường lối, chính sách của giai cấp thống trị giữ vai trò
chỉ đạo đối với pháp luật. Với ý nghĩa đó, pháp luật nói chung và pháp luật
giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai nói riêng với những thuộc
tính vốn có của mình đã trở thành một công cụ quản lý không thể thay thế
được của Đảng và Nhà nước ta. Trong đó, hình thức và hoạt động thực hiện
pháp luật đất đai, pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo chính là sự hiện thực
hóa vào thực tiễn ý chí của Nhà nước. Điều này xét về bản chất chính là ý chí
của nhân dân lao động trong bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích của tập thể,
quyền và lợi ích của người sử dụng đất.
Ở nhà nước ta, ý chí đó biểu hiện tập trung trong đường lối, chủ trương
của Đảng. Đảng cầm quyền lãnh đạo đối với bộ máy nhà nước, theo đó mọi
chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng luôn giữ vai trò lãnh đạo, chỉ đạo
27
phương hướng xây dựng, nội dung, việc tổ chức thực hiện pháp luật, được
Nhà nước thể chế hóa, cụ thể hóa bằng những quy phạm pháp luật và được
bảo đảm thực hiện (Ví dụ quan điểm của nhà nước ta đất đai thuộc sở hữu
toàn dân, không như một số nước quan điểm đất đai thuộc sở hữu tư nhân…).
Do đó, việc xây dựng, thực hiện và áp dụng pháp luật phải luôn thấm nhuần
các quan điểm thể hiện trong các đường lối, chủ trương của Đảng để pháp luật
luôn là phương tiện phản ánh đường lối, chủ trương của Đảng, là sự thể chế
hóa đường lối, chủ trương của Đảng, bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng được
thực hiện có hiệu quả trên quy mô toàn xã hội; là phương tiện để Nhà nước
quản lý mọi mặt đời sống xã hội; là phương tiện để nhân dân phát huy dân
chủ và quyền làm chủ, thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình.
Để hoạt động thực hiện pháp luật nói chung và pháp luật giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai nói riêng luôn đạt hiệu quả, thì không
thể không nói đến những điều kiện chính trị nhất định. Nếu tình hình chính trị
trong nước ổn định, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm và xác định tầm quan
trọng của công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, công tác quản lý và sử dụng
đất đai, xác định quyền sử dụng đất là quyền của công dân thì Đảng và Nhà
nước sẽ lãnh đạo, chỉ đạo và có những quy định pháp luật phù hợp, hoàn
thiện. Nếu tình hình chính trị trong nước thiếu ổn định; đường lối, quan điểm
của Đảng về chính sách đất đai thiếu nhất quán, thiếu minh bạch, chắc chắn sẽ
ảnh hưởng không nhỏ đến việc xây dựng và thực hiện pháp luật. Hiện nay,
các điều kiện chính trị trong xã hội ta như bình đẳng của những người lao
động về mọi mặt; hệ thống chính trị, xã hội ngày càng được củng cố và phát
triển, nhất là sự khẳng định tính nhất quán xuyên suốt về chính sách đất đai
trong chiến lược xây dựng và phát triển Đất nước của Đảng đã được thể chế
hóa vào Hiến pháp và pháp luật là những nhân tố luôn hậu thuẫn tích cực,
đảm bảo hiệu quả cho hoạt động thực hiện pháp luật, trong đó có công tác giải
quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai của các cơ quan nhà nước ở địa
28
phương.
1.3.2. Yếu tố điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội
Yếu tố điều kiện tự nhiên về vị trí địa lý, khí hậu, tài nguyên và môi
trường… có tác động rất lớn và trực tiếp đến quá trình xây dựng và thực hiện
pháp luật. Yếu tố điều kiện tự nhiên thuận lợi sẽ có tác động tích cực đến việc
thực hiện pháp luật và ngược lại. Việc xây dựng và thực hiện pháp luật giữa
các khu vực, địa phương, vùng miền (miền núi và đồng bằng, đô thị và nông
thôn…) sẽ có những thuận lợi và khó khăn khác nhau, do đó cũng có những
tác động khác nhau trong việc xây dựng và thực hiện pháp luật.
Trong mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng thì cơ sở hạ tầng giữ vai trò quyết định. Do vậy, trong mối quan hệ giữa
các điều kiện kinh tế - xã hội với pháp luật thì pháp luật ra đời, tồn tại và phát
triển phải dựa trên nền tảng của kinh tế - xã hội và phản ánh trình độ phát
triển của kinh tế - xã hội.
Yếu tố kinh tế giữ vai trò quan trọng và tác động trực tiếp đến quá trình
xây dựng và thực hiện pháp luật. Do vậy, một nền kinh tế - xã hội phát triển
năng động, bền vững, ổn định sẽ là điều kiện thuận lợi, quan trọng bậc nhất,
tác động tích cực tới việc xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật. Điều này
cũng đồng nghĩa là nếu nền kinh tế chậm phát triển, thiếu tính năng động và
hiệu quả, xã hội lạc hậu, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn sẽ là những
trở lực không nhỏ, sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới việc xây dựng và tổ chức thực
hiện pháp luật nói chung, trong đó có pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo về
đất đai. Vai trò của đất đai đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Đất nước là vô cùng quan trọng; đất đai có ý nghĩa sống còn trong kinh tế
nông nghiệp, trong việc đáp ứng nhu cầu của nhân dân về sử dụng đất, đặc
biệt quyền sử dụng đất còn là hàng hóa đặc biệt trong thị trường bất động sản.
Như thế quan hệ xã hội về đất đai hiện thời và muôn đời là hiện thực khách
quan mà Nhà nước và pháp luật phải phản ánh và bảo đảm. Thiếu những điều
29
kiện này, không đảm bảo những điều kiện này thì công tác quản lý về đất đai,
công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai sẽ không có hiệu quả.
Pháp luật và thực hiện pháp luật là đòn bẩy, là hành lang pháp lý tác
động tích cực trở lại đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Pháp luật cần phải
luôn phản ánh đúng trình độ phát triển của kinh tế - xã hội, nếu phản ánh
không đúng thì sẽ có tác động tiêu cực, có thể kìm hãm sự phát triển kinh tế -
xã hội cũng như không bảo đảm tính khả thi trong tổ chức thực hiện. Do đó,
trong quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật nói chung, pháp luật
giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai nói riêng phải luôn gắn giữa lý luận với
thực tiễn và xem xét đầy đủ mọi khía cạnh, điều kiện phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước trong từng giai đoạn cụ thể để xây dựng một hệ thống pháp
luật đồng bộ, phù hợp, bảo đảm tính khả thi.
1.3.3. Yếu tố pháp luật
Trong đời sống xã hội, pháp luật là một trong nhiều phương thức thể
chế hóa đường lối, chính sách của Đảng, đồng thời là phương tiện để Nhà
nước quản lý kinh tế, xã hội và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Thông
qua các quy định của pháp luật, các quan hệ xã hội được Nhà nước điều chỉnh
theo những mục tiêu đã định. Đối với nhà nước ta, pháp luật có vai trò quan
trọng trong việc xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước, bảo đảm việc thực
hiện có hiệu quả chức năng tổ chức và quản lý kinh tế, xây dựng cơ sở vật
chất, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội… Quá trình phát triển
kinh tế của nhà nước luôn có những điều chỉnh về pháp luật, bảo đảm pháp
luật là điều kiện quyết định thúc đẩy phát triển nền kinh tế đất nước.
Pháp luật là tổng thể các yếu tố tạo nên đời sống pháp luật của xã hội
trong từng giai đoạn nhất định, là công cụ có vai trò đặc biệt quan trọng trong
việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Thực hiện pháp luật xét về bản chất là
hiện thực hóa các quy phạm pháp luật chỉ tồn tại trên giấy vào trong đời sống
thực tế. Nếu không có quy phạm pháp luật thì sẽ không có thực hiện pháp
30
luật, đây là một lôgíc không thể nào đảo lộn được. Do vậy, yêu cầu đặt ra là
để đảm bảo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thực hiện pháp luật nói chung,
pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai nói riêng đạt được
hiệu quả đòi hỏi phải có sự tổng hòa các điều kiện, bao gồm sự hoàn thiện của
hệ thống pháp luật thực định, sự hoàn thiện của cơ chế thực hiện và áp dụng
pháp luật, ý thức pháp luật và văn hóa pháp lý của cán bộ, công chức và các
tầng lớp nhân dân.
1.3.4. Yếu tố trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức làm
công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; ý thức tuân thủ pháp luật của các cơ
quan, tổ chức và công dân
Ý thức pháp luật và pháp luật là hai hiện tượng xã hội khác nhau,
nhưng luôn có mối quan hệ chặt chẽ và tác động qua lại lẫn nhau. Pháp luật là
sự biểu biện của ý thức pháp luật, được ban hành nhằm điều chỉnh các quan
hệ xã hội theo những định hướng nhất định và là cơ sở để củng cố, phát triển,
nâng cao ý thức pháp luật. Ý thức pháp luật là tiền đề tư tưởng trực tiếp để
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật; là nhân tố thúc đẩy việc thực hiện
pháp luật trong đời sống xã hội, thể hiện qua sự nhận thức và thái độ của cơ
quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật; là cơ sở bảo đảm cho
việc áp dụng đúng đắn các quy phạm pháp luật.
Trình độ văn hóa của các chủ thể là yếu tố tác động trực tiếp đến việc
thực hiện pháp luật. Trình độ dân trí cao là điều kiện đầu tiên, cơ bản để có
những hành vi xử sự hợp pháp, với người có trình độ văn hóa cao họ sẽ dễ
dàng hiểu biết pháp luật, nhận thức đúng pháp luật và việc thực hiện pháp luật
đạt kết quả tốt. Đối với người có trình độ văn hóa thấp, điều đó sẽ ngược lại,
thật khó khăn cho họ trong việc hiểu biết cũng như thực hiện pháp luật.
Đối với ý thức pháp luật và văn hóa pháp lý của cán bộ, công chức và
các tầng lớp nhân dân trong quan hệ pháp luật đất đai cao hay thấp phụ thuộc
không nhỏ vào công tác phổ biến, tuyên truyền và giáo dục pháp luật nhằm
31
trang bị cho mỗi cá nhân một trình độ kiến thức pháp lý nhất định để từ đó có
ý thức đúng đắn về pháp luật, tôn trọng và tự giác chấp hành pháp luật.
Thực tiễn trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay đòi hỏi việc thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại,
tố cáo về đất đai không những phải có hệ thống pháp luật hoàn chỉnh mà hoạt
động thực hiện pháp luật đó cũng phải đạt được trình độ với chất lượng cao.
Quốc hội phải thường xuyên xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp
ứng những đòi hỏi ngày càng cao của thực tiễn đời sống xã hội, nhất là các
văn bản pháp luật hướng dẫn thực hiện pháp luật. Đây là điều kiện tiên quyết
đảm bảo cho pháp luật được thực hiện một cách nghiêm túc và hiệu quả. Các
cơ quan Công an, Tòa án, Viện kiểm sát, Thanh tra và các cơ quan khác có
liên quan phải nghiêm chỉnh thực hiện các quy phạm pháp luật, giữ đúng vị
trí, vai trò, chức năng và nhiệm vụ của mình, tích cực tham gia quản lý nhà
nước, quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã
hội chủ nghĩa. Phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện
pháp luật, đồng thời tạo các điều kiện cần thiết để người dân có thể tham gia
giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước và thực hiện pháp luật một cách
thuận lợi. Các cơ quan chức năng, các lực lượng xã hội, các tổ chức đoàn thể,
xã hội cần có sự phối hợp tốt trong việc thực hiện pháp luật, cần phát hiện và
xử lý nghiêm minh, kịp thời các hiện tượng tiêu cực, các hành vi sai lệch
chuẩn mực pháp luật, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với pháp
luật. Bản thân mỗi cán bộ, công chức nhà nước phải luôn luôn gương mẫu
trong việc thực hiện pháp luật; thường xuyên học tập, nâng cao trình độ hiểu
biết về văn hóa, pháp luật, có thái độ hòa nhã, tôn trọng trong quá trình hướng
dẫn nhân dân thực hiện pháp luật.
1.3.5. Yếu tố phong tục tập quán
Tập quán là một loại quy phạm xã hội mang tính đạo đức, là phương
thức xử sự và hành động được hình thành và tồn tại trong một cộng đồng dân
32
cư nhất định, biện pháp bảo đảm thực hiện chủ yếu là sức mạnh của dư luận
xã hội. Tập quán luôn có sự tác động nhất định tới việc xây dựng, thực hiện
và bảo vệ pháp luật, nhưng đồng thời cũng chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ của
pháp luật ở cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Những phong tục tập quán tích
cực phù hợp với ý chí nhà nước thì sẽ được nhà nước đảm bảo và thừa nhận
trở thành quy phạm pháp luật, còn những phong tục tập quán nào trái với ý
chí nhà nước sẽ bị hạn chế hoặc bài trừ. Có thể thấy, sự ảnh hưởng của tập
quán đến việc thực hiện pháp luật như là một hiện tượng mang tính quy luật.
Do đó, để phát huy vai trò của pháp luật thì cần thiết phải xét đến mối quan hệ
giữa pháp luật với tập quán, để từ đó phát huy những tập quán tốt đẹp, tiến bộ,
đồng thời có biện pháp loại bỏ dần những tập quán lạc hậu, phản khoa học.
Đối với công tác thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo trong
lĩnh vực đất đai, phong tục tập quán cũng là yếu tố đóng vai trò tác động rất
lớn. Chẳng hạn như, do thói quen của người dân thường chọn con đường
khiếu nại hành chính, gửi đơn khiếu nại đến các cơ quan hành chính hơn là
việc khởi kiện ra Tòa án, vì cứ cho rằng ra Tòa án phải chịu án phí, các thủ
tục chặt chẽ và qua các cấp của Tòa án xét xử nếu có kháng cáo, kháng
nghị.…, từ đó dẫn đến tình trạng đơn khiếu nại trong lĩnh vực đất đai luôn
chiếm tỷ lệ lớn. Bên cạnh đó, đất đai không chỉ là tài sản mà còn là yếu tố
mang tính tâm linh nên việc thỏa hiệp giữa các bên trong tranh chấp đất đai
thường rất khó khăn, dẫn đến các vụ việc kéo dài…
33
Chương 2:
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG LĨNH VỰC
ĐẤT ĐAI, TẠI HUYỆN CƯ KUIN, TỈNH ĐẮK LẮK
2.1. Thực trạng pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh
vực đất đai
2.1.1. Sơ lược lịch sử phát triển của pháp luật về giải quyết khiếu nại,
tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Ngày 01/7/1980, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 201/CP
về việc thống nhất và tăng cường công tác quản lý ruộng đất trong cả nước.
Có thể nói, đây là văn bản pháp quy đầu tiên quy định khá chi tiết, toàn diện
về công tác quản lý ruộng đất trong toàn quốc. Sau một thời gian thực hiện,
đến ngày 29/12/1987, Quốc hội đã thông qua Luật Đất đai đầu tiên - Luật
Đất đai năm 1987.
Về lĩnh vực khiếu nại, tố cáo, ngày 27/11/1981 Pháp lệnh quy định về
việc xem xét và giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân được ban hành
và là văn bản pháp lý đầu tiên quy định một cách tập trung, đầy đủ, chi tiết
về việc tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Sau khi Pháp
lệnh này được ban hành, ngày 29/3/1982 Hội đồng bộ trưởng ban hành Nghị
định số 58/HĐBT về việc thi hành Pháp lệnh đã quy định cụ thể về thẩm
quyền và trách nhiệm của công dân trong việc khiếu nại, tố cáo. Tiếp tục
thừa kế những thành tựu đạt được của Pháp lệnh năm 1981 và bổ sung
những thiếu sót, khắc phục những tồn tại; ngày 02/5/1991, Pháp lệnh khiếu
nại, tố cáo được ban hành thay thế Pháp lệnh năm 1981. Trong Pháp lệnh
khiếu nại, tố cáo năm 1991, lần đầu tiên quyền khiếu nại và quyền tố cáo
được quy định riêng biệt. Ngày 28/01/1992, Hội đồng bộ trưởng ban hành
Nghị định số 38/HĐBT về việc thi hành Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo.
34
Trong lĩnh vực đất đai, sau giai đoạn bắt đầu đổi mới (1986-1991),
chúng ta vẫn còn thiếu nhiều quy định và ngay cả hệ thống pháp luật đất đai
đã ban hành cũng còn nhiều bất cấp, chưa đáp ứng được tình hình đổi mới của
Đất nước. Để phù hợp với giai đoạn mới và thực hiện đổi mới toàn diện nền
kinh tế, cụ thể hóa Hiến pháp năm 1992, khắc phục những hạn chế của Luật
Đất đai năm 1987, ngày 14/7/1993 Quốc hội đã thông qua Luật Đất đai năm
1993. Tiếp đó, Luật Đất đai năm 1993 được sửa đổi, bổ sung một số điều vào
năm 1998 và năm 2001.
Ngày 02/12/1998, Quốc hội đã thông qua Luật Khiếu nại, tố cáo có hiệu
lực từ ngày 01/01/1999 thay thế Pháp lệnh năm 1991. Đây là văn bản có hiệu
lực cao nhất về quyền khiếu nại, tố cáo của công dân so với các văn bản trước
đó. Tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền khiếu nại, quyền tố
cáo; ngày 25/6/2004 và ngày 29/11/2005, Quốc hội ban hành Luật sửa đổi,
bổ sung Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998.
Luật Đất đai năm 2003 được ban hành có hiệu lực thi hành kể từ ngày
01/7/2004 và tiếp sau đó, nhiều chính sách pháp luật được từng bước thể chế
hóa, điển hình như Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của
Chính phủ về thi hành Luật Đất đai năm 2003; Nghị định số 182/2004/NĐ-CP
ngày 29/10/2004 của Chính phủ về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
đất đai; Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ về
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích cộng
đồng, lợi ích quốc gia, mục đích an ninh, quốc phòng; Nghị định số
198/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ về thu tiền sử dụng đất.
Tuy nhiên, chế định về quyền khiếu nại, tố cáo về đất đai cũng nhưng thẩm
quyền, trình tự và thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai chưa được
quy định cụ thể tại các văn bản quy phạm này và có nhiều bất cập so với pháp
luật về khiếu nại, tố cáo.
Một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử hình thành và phát triển pháp
35
luật về khiếu nại, tố cáo là sự ra đời của Luật Khiếu nại năm 2011 và Luật Tố
cáo năm 2011. Luật Khiếu nại năm 2011 có những điểm mới về quy định rõ
hơn phạm vi điều chỉnh; quy định rõ về các trường hợp khiếu nại không được
thụ lý để giải quyết; trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại cũng được bổ sung;
trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc quản lý
công tác giải quyết khiếu nại được quy định cụ thể hơn… Luật Tố cáo năm
2011 cũng có những quy định mới về giải quyết tố cáo, cụ thể: quy định cụ
thể và đầy đủ hơn về quyền, nghĩa vụ của người tố cáo, người bị tố cáo, người
giải quyết tố cáo; quy định cụ thể hơn nguyên tắc xác định thẩm quyền giải
quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức, viên
chức trong thực hiện nhiệm vụ; quy định thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với
hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực; bổ sung
các quy định bảo vệ người tố cáo…
Luật Đất đai năm 2013 ra đời, có hiệu lực thi hành kể từ ngày
01/7/2014 đã kế thừa, phát huy được những ưu điểm của Luật Đất đai năm
2003 và đã bổ sung những quy định mới phù hợp. Trong đó đã quy định cụ
thể về thẩm quyền, trình tự thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh
vực đất đai, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý về đất đai. Chính vì
vậy, việc giải quyết các quan hệ về đất đai được chặt chẽ, góp phần đáp ứng
yêu cầu thực tiễn quản lý nhà nước về đất đai.
Luật Đất đai năm 2013 đã cụ thể hóa và bảo vệ các quyền, nghĩa vụ của
các chủ thể sử dụng đất. Do đó, người sử dụng đất có thể thực hiện quyền của
mình trong việc khởi kiện, yêu cầu giải quyết tranh chấp về đất đai, khiếu nại
các quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai và quyền tố
cáo các vi phạm trong công tác quản lý nhà nước về đất đai. Với sự ra đời của
Luật Tố cáo năm 2011 và Luật Khiếu nại năm 2011 quy định cụ thể về thẩm
quyền giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo. Thông qua đó, các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền về đất đai đã giải quyết được những vướng mắc mà Luật
36
Đất đai trước đây chưa giải quyết được chặt chẽ.
2.1.2. Quy định của pháp luật về trách nhiệm của các chủ thể
2.1.2.1. Trách nhiệm của chủ thể thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo
Thứ nhất, đối với người khiếu nại phải có nghĩa vụ: Khiếu nại đến
đúng người có thẩm quyền giải quyết. Trình bày trung thực sự việc, đưa ra
chứng cứ về tính đúng đắn, hợp lý của việc khiếu nại; cung cấp thông tin, tài
liệu liên quan cho người giải quyết khiếu nại; chịu trách nhiệm trước pháp
luật về nội dung trình bày và việc cung cấp thông tin, tài liệu đó. Chấp hành
quyết định hành chính, hành vi hành chính mà mình khiếu nại trong thời gian
khiếu nại, trừ trường hợp quyết định, hành vi đó bị tạm đình chỉ thi hành theo
quy định. Chấp hành nghiêm chỉnh quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu
lực pháp luật.
Thứ hai, đối với người tố cáo phải có nghĩa vụ: Giải trình bằng văn bản
về hành vi bị tố cáo; cung cấp thông tin, tài liệu liên quan khi cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền yêu cầu. Chấp hành nghiêm chỉnh quyết định xử
lý của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền. Bồi thường, bồi hoàn thiệt
hại do hành vi trái pháp luật của mình gây ra.
2.1.2.2. Trách nhiệm chung của các chủ thể có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại, tố cáo
Thứ nhất: Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tiếp người khiếu nại, người tố
cáo, tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, tố cáo theo đúng quy định của pháp
luật; xử lý nghiêm minh người vi phạm; áp dụng biện pháp cần thiết nhằm
ngăn chặn thiệt hại có thể xảy ra, bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khoẻ, tài
sản, danh dự, nhân phẩm, uy tín, việc làm, bí mật cho người tố cáo; bảo đảm
quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo được thi hành nghiêm chỉnh và
chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định xử lý của mình.
37
Thứ hai: Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết khiếu nại,
tố cáo có trách nhiệm bố trí trụ sở tiếp công dân hoặc địa điểm tiếp công dân
để tiếp nhận tố cáo, khiếu nại, kiến nghị, phản ánh theo đúng quy định của
Luật Tiếp công dân năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Thứ ba: Cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm trong việc tiếp nhận,
giải quyết khiếu nại, tố cáo mà không tiếp nhận, không giải quyết theo đúng
quy định của pháp luật, thiếu trách nhiệm trong việc tiếp nhận, giải quyết
khiếu nại, tố cáo hoặc cố ý giải quyết khiếu nại, tố cáo trái pháp luật phải bị
xử lý nghiêm minh, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường, bồi hoàn theo quy
định của pháp luật. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan, tổ
chức hữu quan có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo.
2.1.2.3. Trách nhiệm của các cơ quan hành chính nhà nước, tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội
Thứ nhất: Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về công tác giải
quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước trong phạm vi cả
nước. Thanh tra Chính phủ chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản
lý nhà nước về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong phạm vi cả nước.
Trường hợp cần thiết, Thủ tướng Chính phủ làm việc với Chánh án Toà án
nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm
toán Nhà nước, người đứng đầu các cơ quan khác của Nhà nước; Chủ tịch
UBND cấp tỉnh làm việc với Chánh án Toà án nhân dân, Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân cùng cấp để phối hợp trong công tác giải quyết khiếu nại,
tố cáo.
Thứ hai: Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND
cấp tỉnh báo cáo Chính phủ về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ
quan, địa phương mình theo định kỳ hoặc theo yêu cầu của Chính phủ. Các
bộ, cơ quan ngang bộ, UBND các cấp thực hiện quản lý nhà nước về công tác
38
giải quyết khiếu nại, tố cáo trong phạm vi quản lý của mình. Thanh tra bộ, cơ
quan ngang bộ, Thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Thanh tra sở,
Thanh tra huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giúp thủ trưởng cơ quan
quản lý nhà nước cùng cấp quản lý công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Thứ ba: UBND địa phương định kỳ báo cáo Hội đồng nhân dân và
thông báo đến Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp về tình hình
khiếu nại, khởi kiện vụ án hành chính và công tác giải quyết khiếu nại, xét xử
vụ án hành chính trong phạm vi địa phương mình.
2.1.2.4. Trách nhiệm giám sát của các cơ quan dân cử, của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận; trách nhiệm của Ban
Thanh tra nhân dân
Giám sát hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo nói chung và giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai là việc cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận,
cùng các thiết chế chính trị, chính trị xã hội khác ngoài hệ thống cơ quan nhà
nước theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động ban hành và thực hiện các quy
định pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo
trong lĩnh vực đất đai bằng những phương thức nhất định.
Hoạt động giám sát có thể thực hiện dưới hai hình thức là giám sát
mang tính quyền lực nhà nước và giám sát không mang tính quyền lực nhà
nước. Giám sát mang tính quyền lực nhà nước là giám sát của Quốc hội và
Hội đồng nhân dân các cấp, theo những nguyên tắc phân công quyền lực nhà
nước do Hiến pháp và pháp luật quy định. Giám sát không mang tính quyền
lực nhà nước là giám sát của Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành
viên, giám sát của các thiết chế chính trị, chính trị xã hội khác và giám sát của
quần chúng nhân dân.
Theo quy định, Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp,
quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Luận văn: Giải quyết khiếu nại, tố cáo ở huyện Gia Lâm, Hà Nội
Luận văn: Giải quyết khiếu nại, tố cáo ở huyện Gia Lâm, Hà NộiLuận văn: Giải quyết khiếu nại, tố cáo ở huyện Gia Lâm, Hà Nội
Luận văn: Giải quyết khiếu nại, tố cáo ở huyện Gia Lâm, Hà Nội
 
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đai
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đaiLuận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đai
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đai
 
Luận văn thạc sĩ:Giải quyết khiếu nại ở tỉnh Quảng Ngãi, HOT
Luận văn thạc sĩ:Giải quyết khiếu nại ở tỉnh Quảng Ngãi, HOTLuận văn thạc sĩ:Giải quyết khiếu nại ở tỉnh Quảng Ngãi, HOT
Luận văn thạc sĩ:Giải quyết khiếu nại ở tỉnh Quảng Ngãi, HOT
 
Luận văn: Chất lượng hoạt động tiếp công dân tại huyện An Biên
Luận văn: Chất lượng hoạt động tiếp công dân tại huyện An BiênLuận văn: Chất lượng hoạt động tiếp công dân tại huyện An Biên
Luận văn: Chất lượng hoạt động tiếp công dân tại huyện An Biên
 
Luận văn: Thực hiện pháp luật tiếp công dân của UBND cấp xã
Luận văn: Thực hiện pháp luật tiếp công dân của UBND cấp xãLuận văn: Thực hiện pháp luật tiếp công dân của UBND cấp xã
Luận văn: Thực hiện pháp luật tiếp công dân của UBND cấp xã
 
Đề tài: Giải quyết tranh chấp đất đai thuộc UBND tỉnh Đăk Lăk, HAY
Đề tài: Giải quyết tranh chấp đất đai thuộc UBND tỉnh Đăk Lăk, HAYĐề tài: Giải quyết tranh chấp đất đai thuộc UBND tỉnh Đăk Lăk, HAY
Đề tài: Giải quyết tranh chấp đất đai thuộc UBND tỉnh Đăk Lăk, HAY
 
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sựLuận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
 
Luận văn: Thụ lý vụ án dân sự theo trình tự sơ thẩm, HAY
Luận văn: Thụ lý vụ án dân sự theo trình tự sơ thẩm, HAYLuận văn: Thụ lý vụ án dân sự theo trình tự sơ thẩm, HAY
Luận văn: Thụ lý vụ án dân sự theo trình tự sơ thẩm, HAY
 
Luận văn: Giao đất, cho thuê đất theo luật đất đai năm 2013, HAY
Luận văn: Giao đất, cho thuê đất theo luật đất đai năm 2013, HAYLuận văn: Giao đất, cho thuê đất theo luật đất đai năm 2013, HAY
Luận văn: Giao đất, cho thuê đất theo luật đất đai năm 2013, HAY
 
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOTLuận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
 
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đLuận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
 
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam ĐịnhLuận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất, HOT
Luận văn: Giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất, HOTLuận văn: Giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất, HOT
Luận văn: Giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất, HOT
 
Luận án: Thừa kế theo pháp luật theo Bộ luật Dân sự 2015, HAY
Luận án: Thừa kế theo pháp luật theo Bộ luật Dân sự 2015, HAYLuận án: Thừa kế theo pháp luật theo Bộ luật Dân sự 2015, HAY
Luận án: Thừa kế theo pháp luật theo Bộ luật Dân sự 2015, HAY
 
Vai trò của Viện kiểm sát trong giải quyết các vụ án hành chính, 9đ
Vai trò của Viện kiểm sát trong giải quyết các vụ án hành chính, 9đVai trò của Viện kiểm sát trong giải quyết các vụ án hành chính, 9đ
Vai trò của Viện kiểm sát trong giải quyết các vụ án hành chính, 9đ
 
Luận văn: Giải quyết khiếu nại của Thanh tra cấp huyện Tp Hà Nội
Luận văn: Giải quyết khiếu nại của Thanh tra cấp huyện Tp Hà NộiLuận văn: Giải quyết khiếu nại của Thanh tra cấp huyện Tp Hà Nội
Luận văn: Giải quyết khiếu nại của Thanh tra cấp huyện Tp Hà Nội
 
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOTLuận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOTLuận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Giải quyết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Luận văn: Giải quyết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Luận văn: Giải quyết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Luận văn: Giải quyết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
 
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng NaiLuận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
 

Similar to Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai

Similar to Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai (20)

Luận văn: Pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai tại Vĩnh Phúc
Luận văn: Pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai tại Vĩnh PhúcLuận văn: Pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai tại Vĩnh Phúc
Luận văn: Pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai tại Vĩnh Phúc
 
Luận văn: Pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai, HAY
Luận văn: Pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai, HAYLuận văn: Pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai, HAY
Luận văn: Pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai, HAY
 
Luận văn: Pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai tỉnh Vĩnh Phúc
Luận văn: Pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai tỉnh Vĩnh PhúcLuận văn: Pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai tỉnh Vĩnh Phúc
Luận văn: Pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai tỉnh Vĩnh Phúc
 
Luận văn: Giải quyết khiếu kiện hành chính trong lĩnh vực đất đai
Luận văn: Giải quyết khiếu kiện hành chính trong lĩnh vực đất đaiLuận văn: Giải quyết khiếu kiện hành chính trong lĩnh vực đất đai
Luận văn: Giải quyết khiếu kiện hành chính trong lĩnh vực đất đai
 
Luận văn: Giải quyết khiếu nại về đất đai ở quận Thanh Xuân, 9đ
Luận văn: Giải quyết khiếu nại về đất đai ở quận Thanh Xuân, 9đLuận văn: Giải quyết khiếu nại về đất đai ở quận Thanh Xuân, 9đ
Luận văn: Giải quyết khiếu nại về đất đai ở quận Thanh Xuân, 9đ
 
Luận văn: Giải quyết khiếu nại về thu hồi đất tại tỉnh Đắk Lắk, 9đ
Luận văn: Giải quyết khiếu nại về thu hồi đất tại tỉnh Đắk Lắk, 9đLuận văn: Giải quyết khiếu nại về thu hồi đất tại tỉnh Đắk Lắk, 9đ
Luận văn: Giải quyết khiếu nại về thu hồi đất tại tỉnh Đắk Lắk, 9đ
 
Luận văn: Thu hồi đất tại quận Thanh Xuân, TP Hà Nội, HAY
Luận văn: Thu hồi đất tại quận Thanh Xuân, TP Hà Nội, HAYLuận văn: Thu hồi đất tại quận Thanh Xuân, TP Hà Nội, HAY
Luận văn: Thu hồi đất tại quận Thanh Xuân, TP Hà Nội, HAY
 
Luận văn: Giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự tại Nghệ An
Luận văn: Giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự tại Nghệ AnLuận văn: Giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự tại Nghệ An
Luận văn: Giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự tại Nghệ An
 
Luận văn: Kê biên tài sản trong thi hành án dân sự theo Luật thi hành án dân ...
Luận văn: Kê biên tài sản trong thi hành án dân sự theo Luật thi hành án dân ...Luận văn: Kê biên tài sản trong thi hành án dân sự theo Luật thi hành án dân ...
Luận văn: Kê biên tài sản trong thi hành án dân sự theo Luật thi hành án dân ...
 
Luận văn: Giải quyết khiếu nại thi hành án dân sự Long An
Luận văn: Giải quyết khiếu nại thi hành án dân sự Long AnLuận văn: Giải quyết khiếu nại thi hành án dân sự Long An
Luận văn: Giải quyết khiếu nại thi hành án dân sự Long An
 
Luận văn: Pháp luật về khiếu nại hành chính về lĩnh vực đất đai, HOT
Luận văn: Pháp luật về khiếu nại hành chính về lĩnh vực đất đai, HOTLuận văn: Pháp luật về khiếu nại hành chính về lĩnh vực đất đai, HOT
Luận văn: Pháp luật về khiếu nại hành chính về lĩnh vực đất đai, HOT
 
Luận án: Pháp luật về khiếu nại hành chính trong lĩnh vực đất đai
Luận án: Pháp luật về khiếu nại hành chính trong lĩnh vực đất đaiLuận án: Pháp luật về khiếu nại hành chính trong lĩnh vực đất đai
Luận án: Pháp luật về khiếu nại hành chính trong lĩnh vực đất đai
 
Luận văn: Pháp luật về thừa kế quyền sử dụng đất, HAY
Luận văn: Pháp luật về thừa kế quyền sử dụng đất, HAYLuận văn: Pháp luật về thừa kế quyền sử dụng đất, HAY
Luận văn: Pháp luật về thừa kế quyền sử dụng đất, HAY
 
Pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo luật của Toà phúc thẩm
Pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo luật của Toà phúc thẩmPháp luật về phân chia di sản thừa kế theo luật của Toà phúc thẩm
Pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo luật của Toà phúc thẩm
 
Luận văn: Áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của To...
Luận văn: Áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của To...Luận văn: Áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của To...
Luận văn: Áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của To...
 
Luận văn: Giải quyết khiếu nại về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
Luận văn: Giải quyết khiếu nại về bồi thường, hỗ trợ và tái định cưLuận văn: Giải quyết khiếu nại về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
Luận văn: Giải quyết khiếu nại về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
 
Luận văn: Pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà phúc thẩm
Luận văn: Pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà phúc thẩmLuận văn: Pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà phúc thẩm
Luận văn: Pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà phúc thẩm
 
Đề tài: hình phạt đối với tội vi phạm quy định về sử dụng đất, HOT
Đề tài: hình phạt đối với tội vi phạm quy định về sử dụng đất, HOTĐề tài: hình phạt đối với tội vi phạm quy định về sử dụng đất, HOT
Đề tài: hình phạt đối với tội vi phạm quy định về sử dụng đất, HOT
 
ĐỀ TÀI : GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT THEO ...
ĐỀ TÀI : GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT THEO ...ĐỀ TÀI : GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT THEO ...
ĐỀ TÀI : GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT THEO ...
 
Luận văn: Pháp luật trong giải quyết tranh chấp đất đai, HOT
Luận văn: Pháp luật trong giải quyết tranh chấp đất đai, HOTLuận văn: Pháp luật trong giải quyết tranh chấp đất đai, HOT
Luận văn: Pháp luật trong giải quyết tranh chấp đất đai, HOT
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

Recently uploaded (20)

TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...
NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...
NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...
 
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàBài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
 
Bài giảng chương 8: Phương trình vi phân cấp một và cấp hai
Bài giảng chương 8: Phương trình vi phân cấp một và cấp haiBài giảng chương 8: Phương trình vi phân cấp một và cấp hai
Bài giảng chương 8: Phương trình vi phân cấp một và cấp hai
 
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
 
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
 
NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptx
NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptxNGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptx
NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptx
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
 
35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...
35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...
35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...
 
GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ MỘT SỐ BÀI HÁT DÂN CA CÁC DÂN TỘC BẢN ĐỊA CHO HỌC...
GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ MỘT SỐ BÀI HÁT DÂN CA CÁC DÂN TỘC BẢN ĐỊA CHO HỌC...GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ MỘT SỐ BÀI HÁT DÂN CA CÁC DÂN TỘC BẢN ĐỊA CHO HỌC...
GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ MỘT SỐ BÀI HÁT DÂN CA CÁC DÂN TỘC BẢN ĐỊA CHO HỌC...
 
Luận Văn: HOÀNG TỬ BÉ TỪ GÓC NHÌN CẢI BIÊN HỌC
Luận Văn: HOÀNG TỬ BÉ TỪ GÓC NHÌN CẢI BIÊN HỌCLuận Văn: HOÀNG TỬ BÉ TỪ GÓC NHÌN CẢI BIÊN HỌC
Luận Văn: HOÀNG TỬ BÉ TỪ GÓC NHÌN CẢI BIÊN HỌC
 
Phân tích báo cáo tài chính tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Thịnh An
Phân tích báo cáo tài chính tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Thịnh AnPhân tích báo cáo tài chính tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Thịnh An
Phân tích báo cáo tài chính tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Thịnh An
 
Kỹ năng khởi nghiệp Đổi mới sáng tạo cho sinh viên
Kỹ năng khởi nghiệp Đổi mới sáng tạo cho sinh viênKỹ năng khởi nghiệp Đổi mới sáng tạo cho sinh viên
Kỹ năng khởi nghiệp Đổi mới sáng tạo cho sinh viên
 
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
 
Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...
Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...
Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...
 
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
 

Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai

  • 1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ ………………./……………….. ……../……. HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA LÊ PHƯỚC TOÀN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI - TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CƯ KUIN, TỈNH ĐẮK LẮK LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC ĐẮK LẮK – 2017
  • 2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ ………………./……………….. ……../……. HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA LÊ PHƯỚC TOÀN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI - TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CƯ KUIN, TỈNH ĐẮK LẮK LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Chuyên ngành: LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH Mã số: 60380102 Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN TUẤN KHANH ĐẮK LẮK - 2017
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán đầy đủ các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Học viện Hành chính Quốc gia. Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Học viện Hành chính Quốc gia xem xét để tôi có thể được bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Lê Phước Toàn
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt MỞ ĐẦU.................................................................................................1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI 1.1. Cơ sở lý luận pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai .........................................................................................................6 1.2. Nội dung của pháp luật và thực hiện pháp luật về giải quyết khiêu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai .....................................................................19 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai ...........................................................26 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI, TẠI HUYỆN CƯ KUIN, TỈNH ĐẮK LẮK 2.1. Thực trạng pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai...............................................................................................................33 2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai, tại huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk .........................................40 Chương 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ ĐẢM BẢO THỰC HIỆN PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI, QUA THỰC TIỄN HUYỆN CƯ KUIN, TỈNH ĐẮK LẮK 3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật và đảm bảo thực hiện pháp luật về
  • 5. giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai ..........................................56 3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và đảm bảo thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai ..........................................58 KẾT LUẬN ..........................................................................................80 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................84
  • 6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT UBND ỦY BAN NHÂN DÂN
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Đất đai là tài sản vô cùng quý giá, vừa là tư liệu sản xuất, vừa là điều kiện cần thiết trong đời sống của tất cả mọi người, đóng vai trò quyết định cho sự phát triển kinh tế - xã hội của nước ta. Đất đai vừa là tài sản có giá trị cao vừa tham gia các giao dịch trên thị trường nên tranh chấp, khúc mắc về đất đai là không thể tránh khỏi. Việc tìm ra các cơ chế để giải quyết, đảm bảo ổn định xã hội và cân bằng lợi ích của các chủ thể liên quan đến đất đai, quản lý và sử dụng đất đai hiệu quả là mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế của nước ta. Trong bối cảnh nền kinh tế chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước đang nổ lực hoàn thiện hệ thống pháp luật thì ý nghĩa của hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai là lĩnh vực thường xuyên xảy ra khiếu nại, tố cáo nhiều hơn các lĩnh vực khác càng được thể hiện rõ nét. Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo, pháp luật về đất đai đã hoàn thiện hay chưa, còn tồn tại những vấn đề nào dẫn đến tình trạng khiếu nại, tố cáo là vấn đề nóng bỏng của xã hội và biện pháp nào để khắc phục tình trạng này là những vấn đề cần nghiên cứu. Huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk có vị trí địa lý nằm dọc trên Quốc lộ 27, cách Trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk 15 km. Những năm gần đây, tình hình khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai trên địa bàn huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk ngày càng trở nên đa dạng, phức tạp, phát sinh nhiều vụ việc đông người và kéo dài, nhất là tình hình khiếu nại, tố cáo đông người liên quan đến thu hồi đất, đền bù hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất để xây dựng các công trình công cộng. Bên cạnh đó, tình trạng quản lý đất đai lỏng lẻo, lấn chiếm đất đai, xây dựng trái phép trên đất nông nghiệp vẫn còn diễn ra rất
  • 8. 2 nhiều, chưa được xử lý dứt điểm. Hoàn thiện pháp luật và đảm bảo thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai nhằm đảm bảo lợi ích chính đáng của người dân, góp phần ổn định kinh tế - xã hội là nhu cầu cấp thiết trên địa bàn huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk hiện nay. Chính vì vậy, tác giả chọn đề tài: “Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai - Từ thực tiễn huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk” làm đề tài Luận văn Thạc sĩ Luật học. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn Pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai là đề tài thu hút sự quan tâm của giới khoa học pháp lý. Thời gian qua đã có các công trình nghiên cứu, sách báo pháp lý và các bài viết liên quan đến vấn đề này dưới góc độ lý luận và thực tiễn, như: - Kỹ năng áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp đất đai ở Việt Nam (Sách chuyên khảo, Tiến sĩ Doãn Hồng Nhung, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội 2014); Pháp luật về thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật đất đai ở Việt Nam (Sách chuyên khảo, Tiến sĩ Doãn Hồng Nhung, Nxb Xây dựng 2013); Khiếu nại, tố cáo hành chính và giải quyết khiếu nại, tố cáo hành chính ở Việt Nam hiện nay (Sách chuyên khảo, Viện Khoa học thanh tra, Thanh tra Chính phủ 2012). - Pháp luật về giải quyết khiếu nại tố cáo ở Việt Nam (Trần Ngân Hà, Luận văn Thạc sĩ, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội); Hiệu quả hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước ở Ninh Bình hiện nay (Nguyễn Thị Hồng Thơm, Luận văn Thạc sĩ, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội); Cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính ở Việt Nam hiện nay và vấn đề hoàn thiện (Phạm Anh Tuấn, Luận văn Thạc sĩ, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội); Thực thi pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh (Nguyễn Ngọc Linh, Luận văn Thạc sĩ, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội); Thi hành pháp luật giải quyết khiếu
  • 9. 3 nại, tố cáo về đất đai trên địa bàn thành phố Đà Nẵng (Võ Nguyên Chương, Luận văn Thạc sĩ, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội). - Khiếu nại, tố cáo hành chính - cơ sở lý luận, thực trạng và giải pháp (Đề tài Khoa học cấp Nhà nước, Thanh tra Chính phủ); Thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về thu hồi đất ở Việt Nam hiện nay - Những vấn đề lý luận và thực tiễn (Đề tài khoa học, Viện Khoa học Thanh tra, Thanh tra Chính phủ). - Bài viết trên các trang báo: Giải quyết khiếu nại, tố cáo phải biến nhận thức thành hành động (trên trang WWW.thanh tra.gov.vn); Giải quyết khiếu nại, tố cáo luôn đòi hỏi sự vào cuộc mạnh mẽ của cả hệ thống chính trị (trên trang WWW.noichinh.com); Khiếu nại, tố cáo về đất đai vẫn tăng (trên trang WWW.dangcongsan.vn) … Các công trình, bài viết chủ yếu đi sâu nghiên cứu về từng vấn đề trong khiếu nại, tố cáo mà chưa khái quát hóa từ mặt lý luận đến đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về khiếu nại, tố cáo; đồng thời, chưa tổng kết được các nguyên nhân dẫn đến tình trạng khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai chiếm tỷ lệ cao để đưa ra các giải pháp cải thiện tình hình. Tiếp tục kế thừa những thành quả nghiên cứu của các công trình, bài viết trên đây, Luận văn đi sâu tìm hiểu một cách có hệ thống, toàn diện về khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai. Bên cạnh đó, địa bàn huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk có những đặc điểm riêng biệt về nguồn tài nguyên đất đai và quản lý, sử dụng đất đai, vì vậy luận văn tìm hiểu thực trạng việc thực hiện pháp luật và nguyên nhân dẫn đến tình trạng khiếu nại, tố cáo kéo dài, phức tạp trên địa bàn huyện Cư Kuin trong những năm gần đây để đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và đảm bảo thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn Mục đích: Làm sáng tỏ cơ sở lý luận pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo
  • 10. 4 trong lĩnh vực đất đai, đánh giá đúng đắn thực trạng thực hiện pháp luật trong lĩnh vực này từ thực tiễn huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk. Trên cơ sở đó, đưa ra các giải pháp để hoàn thiện và đảm bảo thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai. Nhiệm vụ: Một là: Phân tích, đánh giá những kết quả đạt được, tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong hệ thống quy định của pháp luật và thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai. Hai là: Đề xuất được các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và đảm bảo thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn Đối tượng: Các quy phạm pháp luật thực định về khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai đang có hiệu lực thi hành. Phạm vi nghiên cứu: Phân tích, tìm hiểu các nội dung về khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai quy định tại Luật Khiếu nại năm 2011, Luật Tố cáo năm 2011, Luật Đất đai năm 2013, các văn bản hướng dẫn thi hành có liên quan và tình hình thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai trên địa bàn huyện Cư Kuin trong giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2016. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn Phương pháp luận: Luận văn vận dụng các thành tựu nghiên cứu khoa học, những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo, bài viết của các tác giả khác để phát triển nội dung nghiên cứu trong luận văn. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp lịch sử, so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê và vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố
  • 11. 5 cáo để làm sáng tỏ các vấn đề được nghiên cứu trong luận văn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Qua việc nghiên cứu đề tài này, kết quả luận văn sẽ đóng góp cho khoa học ở những khía cạnh như sau: Thứ nhất: Góp phần hình thành nhận thức thống nhất về vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai và hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này. Thứ hai: Đưa ra được những giải pháp, nhiệm vụ cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật và đảm bảo thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai trên địa bàn huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk, nhằm phát huy những kết quả đạt được, tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc, tồn tại, hạn chế đang đặt ra. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 03 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai. Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai tại huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk. Chương 3: Quan điểm, giải pháp để hoàn thiện pháp luật và đảm bảo thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai.
  • 12. 6 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI 1.1. Cơ sở lý luận pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai 1.1.1. Khái niệm về khiếu nại và khiếu nại trong lĩnh vực đất đai; về giải quyết khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai 1.1.1.1. Khái niệm về khiếu nại Khiếu nại là hiện tượng xung đột về lợi ích giữa các chủ thể mà biểu hiện của nó là sự phản ứng của các chủ thể khi họ cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Trong xã hội, các quan hệ về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể rất đa dạng, vì vậy, khiếu nại được thể hiện ở nhiều cấp độ khác nhau, trên những lĩnh vực khác nhau. Trong khoa học pháp lý, thuật ngữ khiếu nại được đề cập đến như là sự phản ứng của các chủ thể trong xã hội đối với quyết định của các cơ quan nhà nước (cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp) hoặc hành vi của cán bộ, công chức, người làm việc trong cơ quan nhà nước khi họ cho rằng các quyết định, hành vi đó xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau về khiếu nại nhưng nhìn chung, quan niệm về khiếu nại đều được hiểu như vậy. Theo sách Thuật ngữ pháp lý phổ thông “khiếu nại là việc yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội hoặc người có chức vụ giải quyết việc vi phạm các quyền hoặc lợi ích hợp pháp của bản thân người khiếu nại hay người khác” [11, tr. 14]. Theo Từ điển tiếng Việt “khiếu nại được hiểu là đề nghị cơ quan có thẩm quyền xét một việc làm mà mình không đồng ý, cho là trái phép hay không hợp lý” [26, tr. 17]. Nhìn lại lịch sử lập pháp Việt Nam, thuật ngữ khiếu nại được sử dụng
  • 13. 7 lần đầu tiên trong văn bản chính thức của Nhà nước Việt Nam là kể từ khi có Sắc lệnh số 64-SL ngày 23/11/1945 thành lập Ban Thanh tra đặc biệt. Điều II của Sắc lệnh quy định: “… Ban Thanh tra đặc biệt có toàn quyền: Nhận các đơn khiếu nại của nhân dân...” [11, tr. 16]. Tinh thần và nội dung của bản Sắc lệnh cho thấy khiếu nại ở đây chỉ sự khiếu nại của nhân dân đối với chính quyền mà hiện nay chúng ta quan niệm đó chính là khiếu nại đối với hoạt động của bộ máy nhà nước và công chức nhà nước mà trước hết là các cơ quan hành chính nhà nước, đó chính là khiếu nại hành chính. Tại Điều I, Sắc lệnh cũng đã xác định: “Chính phủ sẽ lập ngay một Ban Thanh tra đặc biệt, có uỷ nhiệm là đi giám sát tất cả các công việc và các nhân viên của uỷ ban nhân dân và các cơ quan của Chính phủ” [11, tr. 16]. Như vậy, việc khiếu nại vừa có ý nghĩa bảo vệ quyền lợi của người dân tránh sự vi phạm từ phía cơ quan nhà nước và cán bộ nhà nước, vừa tạo ra cơ chế để giám sát hoạt động của chính quyền các cấp. Năm 2000, trong một kết quả nghiên cứu của Thanh tra Nhà nước, khái niệm khiếu nại được hiểu rộng hơn, theo đó: Khiếu nại theo nghĩa chung nhất là việc cá nhân hay tổ chức đề nghị cá nhân, tổ chức hay cơ quan nào đó xem xét, sửa chữa lại một việc làm mà họ cho là không đúng đắn, gây thiệt hại hoặc sẽ gây thiệt hại đến quyền, lợi ích chính đáng của họ và đòi bồi thường thiệt hại do việc làm không đúng gây ra [26, tr. 17]. Trong lĩnh vực quản lý nhà nước, khiếu nại gắn liền với thuật ngữ khiếu nại hành chính. Từ điển Bách khoa Việt Nam đưa ra quan niệm: “Khiếu nại hành chính là việc cá nhân hay tổ chức đề nghị cơ quan hành chính nhà nước xem xét, sửa chữa một hành vi hay một quyết định hành chính mà họ cho là hành vi và quyết định đó không đúng pháp luật, gây thiệt hại hoặc sẽ gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ...” [26, tr. 18].
  • 14. 8 Theo quy định tại Khoản 1, Điều 2 Luật Khiếu nại năm 2011: Khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức theo thủ tục do Luật này quy định, đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình [16, tr. 7, 8]. 1.1.1.2. Khái niệm về khiếu nại trong lĩnh vực đất đai Trong giáo trình Luật Đất đai của Trường Đại học Luật Hà Nội - Nhà xuất bản Công an nhân dân năm 2009, ThS. Nguyễn Thị Dung đã kế thừa hai cách hiểu của nhóm Nguyễn Như Ý và Nguyễn Ngọc Điệp, cùng với định nghĩa về Khiếu nại trong Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 để cho ra khái niệm khiếu nại trong lĩnh vực đất đai như sau: Khiếu nại trong lĩnh vực đất đai là việc các cơ quan, tổ chức, công dân đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét lại các quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính trong quản lý đất đai khi có căn cứ cho rằng các quyết định, hành vi đó là xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình [11, tr. 17]. Khoản 1, Điều 204 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Người sử dụng đất, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến sử dụng đất có quyền khiếu nại quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính về quản lý đất đai” [20, tr. 236]. Từ quan điểm chung nhất về khiếu nại và qua các nghiên cứu nêu trên, khiếu nại trong lĩnh vực đất đai có thể hiểu là một hình thức của khiếu nại hành chính, là việc đề nghị các cơ quan, tổ chức, cá nhân xem xét lại các
  • 15. 9 quyết định, hành vi hành chính đã làm trong quản lý và sử dụng đất đai khi có căn cứ cho rằng các quyết định, hành vi đó trái pháp luật, xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp của mình. 1.1.1.3. Khái niệm về giải quyết khiếu nại Tại Khoản 11, Điều 2 Luật Khiếu nại năm 2011 định: “Giải quyết khiếu nại là việc thụ lý, xác minh, kết luận và ra quyết định giải quyết khiếu nại” [16, tr. 9]. Như vậy, giải quyết khiếu nại được hiểu là quá trình xem xét, đánh giá đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật có đúng pháp luật hay không, từ đó đưa ra các giải pháp xử lý phù hợp. 1.1.1.4. Khái niệm về giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai Tại Khoản 2, Điều 204 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính về đất đai thực hiện theo quy định của pháp luật về khiếu nại” [20, tr. 236, 237]. Giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai là một dạng giải quyết khiếu nại hành chính và cũng giống với giải quyết khiếu nại, nó được hiểu là quá trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, đánh giá đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai có đúng pháp luật hay không, từ đó đưa ra các giải pháp xử lý phù hợp. 1.1.2. Khái niệm về tố cáo và tố cáo trong lĩnh vực đất đai; về giải quyết tố cáo và giải quyết tố cáo trong lĩnh vực đất đai 1.1.2.1. Khái niệm về tố cáo Tố cáo là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong đời sống xã hội. Tố cáo được quan niệm khác nhau tùy theo mức độ, phạm vi, đối tượng tố cáo. Theo nghĩa chung nhất là “vạch rõ tội lỗi của kẻ khác trước cơ quan pháp luật hoặc trước dư luận” [11, tr. 18]. Như vậy, tố cáo chính là sự phản ứng của xã hội trước những hành vi sai trái nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của nhà nước, của cơ quan, tổ chức và cá nhân và bảo đảm trật tự xã hội. Tố cáo là
  • 16. 10 nguồn thông tin quan trọng để cơ quan nhà nước có thẩm quyền kịp thời ngăn chặn và xử lý hành vi vi phạm và kêu gọi sự đồng thuận của xã hội ngăn chặn, đẩy lùi các hành vi đó. Xuất phát từ trách nhiệm của các chủ thể trong việc bảm đảm trật tự xã hội nói chung, chủ thể của quyền tố cáo rất rộng, có thể bao gồm cả cơ quan, tổ chức, cá nhân khi phát hiện bất kỳ hành vi sai trái nào xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác và của mình. Dưới góc độ pháp lý, tố cáo là quyền của công dân phát hiện với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các quyết định, hành vi trái pháp luật của cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân đã gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho lợi ích của nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích của công dân nói chung, kể cả không gây thiệt hại trực tiếp cho công dân thực hiện việc tố cáo. Tại Khoản 2, Điều 2, Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 quy định: Tố cáo là việc công dân theo thủ tục do Luật này quy định báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức [14, tr. 1]. Đây là quan niệm chung nhất về tố cáo nhưng lại bó hẹp bởi thủ tục được quy định. Khái niệm này cũng không phân biệt tố cáo đối với các hành vi xâm phạm đến những khách thể khác nhau trong xã hội, cụ thể là không phân biệt tố cáo hành vi xâm phạm trật tự quản lý, hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, hành vi xâm phạm hoạt động tư pháp… Do đó, chưa phân biệt rõ thẩm quyền, trình tự, thủ tục tiếp nhận và xử lý của các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác nhau đối với thông tin về những hành vi vi phạm pháp luật khác nhau. Tại Khoản 1, Điều 2 Luật Tố cáo năm 2011 quy định: Tố cáo là việc công dân theo thủ tục do Luật này quy định báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi
  • 17. 11 vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức [17, tr. 7, 8]. 1.1.2.2. Khái niệm về tố cáo trong lĩnh vực đất đai Khoản 1, Điều 205 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Cá nhân có quyền tố cáo vi phạm pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai” [20, tr. 237]. Từ quan điểm chung nhất về tố cáo và qua các phân tích nêu trên, tố cáo trong lĩnh vực đất đai có thể hiểu là việc cá nhân báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức. Tố cáo trong lĩnh vực đất đai theo quy định của Luật Tố cáo năm 2011 có 02 dạng: Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức có thẩm quyền trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ; Tố cáo các cơ quan, tổ chức, cá nhân xâm phạm, vi phạm các quy định pháp luật trong quản lý, sử dụng đất đai. Trong giới hạn nghiên cứu của luận văn này chủ yếu đề cập đến việc tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức được quy định trong Luật Tố cáo năm 2011, không đề cập đến những tin báo, tố giác tội phạm trong quản lý, sử dụng đất đai, những tin báo, tố giác tội phạm này được giải quyết theo thủ tục tố tụng. 1.1.2.3. Khái niệm về giải quyết tố cáo Tại Khoản 7, Điều 2 Luật Tố cáo năm 2011 quy định: “Giải quyết tố cáo là việc tiếp nhận, xác minh, kết luận về nội dung tố cáo và việc xử lý tố cáo của người giải quyết tố cáo” [17, tr. 8]. Như vậy, giải quyết tố cáo được hiểu là quá trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiếp nhận, xử lý thông tin tố cáo; xác minh, kết luận nội dung tố
  • 18. 12 cáo; xử lý tố cáo của người giải quyết tố cáo và công khai kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo. 1.1.2.4. Khái niệm về giải quyết tố cáo trong lĩnh vực đất đai Tại Khoản 2, Điều 205 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Việc giải quyết tố cáo vi phạm pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai thực hiện theo quy định của pháp luật về tố cáo” [20, tr. 237]. Giải quyết tố cáo trong lĩnh vực đất đai là một dạng giải quyết tố cáo, nó được hiểu là quá trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiếp nhận, xử lý thông tin tố cáo về đất đai; xác minh, kết luận nội dung tố cáo; xử lý tố cáo của người giải quyết tố cáo và công khai kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo trong lĩnh vực đất đai. 1.1.2. Đặc điểm của khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai 1.1.2.1. Đặc điểm của khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai Một là: Khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai là một dạng của khiếu nại, tố cáo, vì vậy nó cũng mang những đặc điểm chung của khiếu nại, tố cáo. Khiếu nại, tố cáo là các quyền chính trị cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp của nước ta cũng như các văn bản pháp luật có liên quan. Giữa khiếu nại và tố cáo có điểm chung là đều nhằm để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức khi bị xâm phạm, đều có chung căn cứ là vi phạm pháp luật. Vì vậy, các thông tin do khiếu nại, tố cáo mang đến đều là những thông tin phản ánh vi phạm pháp luật. Về bản chất khiếu nại, tố cáo là giải quyết, xử lý vi phạm pháp luật. Bên cạnh đó, mặc dù giữa khiếu nại và tố cáo có những đặc điểm chung và có quan hệ gần gũi với nhau, tuy nhiên giữa chúng cũng có những đặc điểm riêng biệt, như: Chủ thể của khiếu nại là cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân, còn chủ thể của tố cáo chỉ là cá nhân. Đối tượng của khiếu nại là quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật đối với
  • 19. 13 cán bộ, công chức. Còn tố cáo có đối tượng rộng hơn rất nhiều, đó là hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại tới lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức. Mục đích của khiếu nại hướng tới bảo vệ và khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp của người khiếu nại, còn mục đích của tố cáo không chỉ nhằm bảo vệ và khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp của người tố cáo mà còn bảo vệ quyền, lợi ích của Nhà nước và xã hội. Cách thức thực hiện của khiếu nại là việc người khiếu nại yêu cầu hoặc đề nghị người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại xem xét lại các quyết định hành chính, hành vi hành chính. Trong khi đó, cách thức thực hiện tố cáo là việc người tố cáo báo cho người có thẩm quyền giải quyết tố cáo biết về hành vi vi phạm pháp luật… Hai là: Khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai là một quyền cơ bản của người sử dụng đất. Sở dĩ như vậy vì Nhà nước ta là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Đất đai ở nước ta thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước làm đại diện chủ sở hữu, thay mặt nhân dân thực hiện hoạt động quản lý đất đai để đảm bảo cho đất đai được sử dụng hợp lý, phục vụ cho lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất. Ba là: Khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai có cùng căn cứ là sự vi phạm pháp luật. Đó là các quyết định, hành vi hành chính của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền hoặc hành vi của bất kỳ cá nhân, tổ chức, cơ quan nào trái hoặc vi phạm pháp luật đất đai, xâm phạm hoặc đe dọa xâm phạm tới các quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất cũng như của toàn xã hội. Khi thực hiện khiếu nại, tố cáo, người khiếu nại, tố cáo đều hướng tới mục đích là chấm dứt những hành vi vi phạm, trái pháp luật ấy; yêu cầu phục hồi các quyền và lợi ích bị xâm hại, bồi thường thiệt hại về vật chất, danh dự do những hành vi đó gây ra, xử lý đúng pháp luật các cá nhân, tổ chức đã vi phạm, góp phần củng cố pháp chế xã hội chủ nghĩa và lập lại kỷ
  • 20. 14 cương xã hội. Bốn là: Nội dung của khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai rất phong phú và đa dạng. Các hoạt động quản lý nhà nước về đất đai bao gồm rất nhiều nội dung: Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai và tổ chức thực hiện các văn bản đó; xác định địa giới hành chính, lập và quản lý hồ sơ địa giới hành chính, lập bản đồ hành chính; khảo sát, đo đạc, lập bản đồ địa chính; lập bản đồ địa chính, bản đồ hiện trạng sử dụng đất; quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; quản lý giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; quản lý tài chính về đất đai; giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai… Năm là: Khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai khi xảy ra không chỉ ảnh hưởng tới hoạt động của người sử dụng đất mà nó còn ảnh hưởng tới hoạt động quản lý đất đai của Nhà nước. Khi khiếu nại, tố cáo xảy ra, bản thân người sử dụng đất không thể thực hiện được các quyền lợi của mình đối với đất đai, không thực hiện được các nghĩa vụ đối với Nhà nước. Còn cơ quan nhà nước sẽ khó khăn trong hoạt động quản lý của mình về đất đai, vì việc thực hiện các quyết định, hành vi hành chính về đất đai bị đình trệ. 1.1.2.2. Đặc điểm của giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai Một là: Giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai là một dạng của giải quyết khiếu nại, tố cáo hành chính. Có điểm chung trong hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo hành chính là đều được thực hiện bằng con đường hành chính. Tất cả các hoạt động này một bên tham gia quan hệ đều là cơ quan hành chính nhà nước, còn bên khác trong quan hệ có thể là cá nhân, tổ chức, cơ quan khác của nhà nước. Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo hành chính là một hoạt động bảo đảm pháp chế trong quản lý nhà nước, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, bảo vệ lợi ích nhà nước, xã hội, bảo vệ trật tự kỷ cương, trật tự pháp luật, xử lý những hành vi vi
  • 21. 15 phạm pháp luật. Vì vậy, hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước cũng là biện pháp bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, mặc dù có những điểm chung với nhau nhưng về thủ tục hành chính trong giải quyết khiếu nại và giải quyết tố cáo có những điểm riêng biệt, như: Giải quyết khiếu nại hành chính phải đảm bảo khách quan, dân chủ, kịp thời, trong khi đó giải quyết tố cáo còn phải đảm bảo bí mật, bảo vệ người tố cáo; trong giải quyết khiếu nại hành chính Tòa án là lá chắn cuối cùng bảo vệ quyền của người khiếu nại, còn trong giải quyết tố cáo hành chính thì không có hệ thống Tòa án. Hai là: Giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai phải bảo đảm nguyên tắc đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý. Kiên quyết bảo vệ những thành quả cách mạng về ruộng đất, đồng thời khắc phục kịp thời, đúng pháp luật những trường hợp đã xử lý sai trái hoặc xử lý không đúng. Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai do có quan có thẩm quyền quản lý nhà nước tiến hành theo trình tự, thủ tục hành chính. Ba là: Cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo phải nắm vững quan điểm lấy dân làm gốc, phải dựa vào dân, bàn bạc dân chủ công khai quỹ đất với dân để giải quyết và phát huy tinh thần đoàn kết, tương trợ trong nội bộ nhân dân để giúp nhân dân tìm ra giải pháp, không gò ép mệnh lệnh. Đề cao vai trò của các tổ chức, đoàn thể để hòa giải các vụ khiếu nại, tố cáo có hiệu quả. Bốn là: Giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai nhằm mục đích phát triển sản xuất, ổn định và từng bước cải thiện đời sống nhân dân. Năm là: Giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai phải được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật và phải tuân theo trình tự, thủ tục đã được quy định trong các văn bản pháp luật về khiếu nại, về tố cáo và về đất
  • 22. 16 đai. Một mặt phải tuân thủ quy định của Luật khiếu nại năm 2011, Luật Tố cáo năm 2011, mặt khác phải tuân thủ quy định của Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Sáu là: Giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai được quy định theo phân cấp quản lý, bao gồm từ cấp huyện lên cấp tỉnh; bên cạnh đó, người dân còn có thể khởi kiện ra Tòa án mà không cần phải chờ giải quyết khiếu nại lần hai (đối với khiếu nại) hoặc tố cáo tiếp (đối với tố cáo). Bảy là: Giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai phản ánh mối quan hệ giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quản lý đất đai với người sử dụng đất. Trong quan hệ này, cơ quan có thẩm quyền sẽ xem xét nội dung quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại, bị tố cáo, từ đó đi đến công nhận hay không công nhận một phần hay toàn bộ quyết định hành chính đó; kết luận về tính đúng đắn của hành vi hành chính hoặc kết luận về tính đúng đắn của nội dung tố cáo. 1.1.3. Vai trò của giải quyết khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai 1.1.3.1. Vai trò của giải quyết khiếu nại, tố cáo nói chung Thứ nhất: Quyền khiếu nại, quyền tố cáo là quyền chính trị cơ bản của công dân, là phương tiện đảm bảo quyền, lợi ích của công dân, lợi ích của Nhà nước. Quyền khiếu nại được coi là quyền để bảo vệ quyền, quyền khiếu nại được sử dụng khi quyền và lợi ích của công dân bị vi phạm do quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính của cơ quan quản lý nhà nước. Khiếu nại là kênh thông tin hữu ích giúp cơ quan quản lý nhà nước phát hiện những tồn tại, vướng mắc và qua đó hoàn thiện hoạt động quản lý nhà nước. Tố cáo là phương thức giúp công dân thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước. Khiếu nại, tố cáo là phương thức công dân tham gia vào họat động quản lý nhà nước và quyền khiếu nại, quyền tố cáo được phát huy đã phản ánh nền dân chủ quốc gia. Hiến pháp năm 2013 quy định:
  • 23. 17 “Mọi người có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức,cá nhân” [21, tr. 5]. Thứ hai: Khiếu nại, tố cáo và việc giải quyết khiếu nại, tố cáo là một trong những hoạt động nhằm đảm bảo pháp chế, triệt để tôn trọng pháp luật trong hoạt động của các cơ quan Nhà nước và công dân. Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo là hoạt động đảm bảo pháp chế trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo vệ trật tự pháp luật và xử lý những hành vi vi phạm pháp luật. Việc thực hiện quyền khiếu nại, quyền tố cáo của công dân có vai trò to lớn trong việc mở rộng cơ chế dân chủ, tăng cường pháp chế và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Thông qua khiếu nại, tố cáo, Nhà nước kiểm định được tính đúng đắn, khả thi của các quy định pháp luật và hiệu quả của công tác triển khai thực hiện các quy định pháp luật; góp phần giúp Nhà nước hoàn thiện cơ chế quản lý xã hội bằng pháp luật. Thứ ba: Thông qua giải quyết khiếu nại, tố cáo mà các hành vi vi phạm pháp luật, tham nhũng, lãng phí được phát hiện, xử lý kịp thời, từ đó các cơ quan chức năng mới có các biện pháp để xử lý nghiêm minh những sai phạm. Bất cứ hành vi vi phạm nào sau khi giải quyết mà xét thấy đúng như những gì khiếu nại, tố cáo đã nêu đều sẽ bị các cơ quan chức năng xử lý bằng nhiều hình thức. Chính vì thế để đảm bảo cho pháp luật nghiêm minh thì hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo có tác dụng răn đe, ngăn chặn những hành vi sai phạm. Thứ tư: Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo thể hiện tinh thần nhân đạo, tiến bộ và dân chủ của nước ta. Hoạt động này sẽ bảo đảm tính dân chủ, công khai, minh bạch trong quản lý hành chính nhà nước. Giải quyết hợp lý các yêu cầu khiếu nại, tố cáo của công dân lấy được lòng tin của nhân dân vào cơ quan Nhà nước, vào sự lãnh đạo của Đảng; làm sợi dây liên kết Đảng, Nhà
  • 24. 18 nước và nhân dân thêm chắc chắn. Đó cũng là tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện thông qua những lời văn hết sức bình dị nhưng vô cùng sâu sắc: “Đồng bào có oan ức, có thắc mắc mới khiếu nại, ta giải quyết tốt các khiếu nại, đồng thời thấy Đảng và Chính phủ quan tâm lo lắng đến họ, do đó mối quan hệ quần chúng với Đảng và Chính phủ được củng cố tốt hơn” [12, tr. 15]. Như vậy, thực hiện tốt công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo có vai trò vô cùng quan trọng, góp phần đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa, đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của công dân; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa; phát huy sức mạnh, trí tuệ của nhân dân tham gia vào quản lý nhà nước và tăng cường kỷ cương, pháp luật. 1.1.3.2. Vai trò của giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai Thứ nhất: Giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai là một dạng của giải quyết khiếu nại, tố cáo nên nó cũng có những vai trò của giải quyết khiếu nại, tố cáo. Thứ hai: Giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đảm bảo cho pháp luật nói chung và pháp luật về đất đai nói riêng được thực thi nghiêm chỉnh, góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động quản lý và sử dụng đất đai. Thông qua hoạt động này các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ thấy được những lĩnh vực nào của pháp luật đất đai còn bộc lộ những điểm không phù hợp với thực tiễn để từ đó tiến hành nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, đồng thời cũng thông qua đây, Nhà nước có thể điều chỉnh các quan hệ đất đai cho phù hợp với lợi ích của Nhà nước, của nhân dân cũng như của từng hộ gia đình, cá nhân. Thứ ba: Việc giải quyết nhanh chóng, đúng pháp luật các khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai, gắn với nó là việc khôi phục kịp thời các quyền, lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất, đồng thời xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật những người có hành vi sai phạm sẽ củng cố niềm tin của nhân dân vào
  • 25. 19 chính quyền, chế độ, vào các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước. Nếu hoạt động khiếu nại, tố cáo của công dân chỉ dừng lại ở việc phát hiện và thông tin các hành vi vi phạm pháp luật của các cá nhân, tổ chức, cơ quan trong hoạt động quản lý đất đai thì chưa hoàn toàn đảm bảo quyền và lợi ích của công dân. Kết quả của giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai còn khôi phục quyền và lợi ích của công dân bị xâm phạm: bồi thường, hỗ trợ thỏa đáng, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đúng chủ sở hữu, giải quyết tranh chấp đất đai giữa công dân với nhau… đáp ứng mong mỏi chính đáng của công dân khi khiếu kiện lên các cơ quan có thẩm quyền. 1.2. Nội dung của pháp luật và thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai 1.2.1. Nội dung của pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai Pháp luật là hệ thống những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội phát triển phù hợp với lợi ích của giai cấp mình. Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai là tổng hợp các quy định pháp luật điều chỉnh nguyên tắc, thẩm quyền, điều kiện, trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo nhằm khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp của công dân bị xâm phạm do các quyết định hành chính, hành vi hành chính về đất đai của các cơ quan quản lý nhà nước. Pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai là hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai. Hệ thống pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai bao gồm các chế định cơ bản như: Những quy định chung về nguyên tắc, quan niệm, phạm vi, đối tượng điều chỉnh; những quy định về thẩm quyền, trình tự và thủ tục giải
  • 26. 20 quyết; những quy định về các giải pháp đảm bảo giải quyết khiếu nại, tố cáo; những quy định về việc thực hiện các quyết định, kết luận giải quyết khiếu nại, xử lý tố cáo trong lĩnh vực đất đai… Các chế định này không những chỉ được quy định trong Luật Khiếu nại năm 2011, Luật Tố cáo năm 2011 và các văn bản hướng dẫn thi hành, mà còn được quy định trong hệ thống pháp luật đất đai (Luật Đất đai năm 2003, Luật Đất đai năm 2013…). 1.2.1.1. Nội dung cơ bản của pháp luật về giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai Chủ thể quyền khiếu nại trong lĩnh vực đất đai quy định về địa vị pháp lý của công dân, cơ quan, tổ chức trong quan hệ với cơ quan công quyền hoặc với cá nhân, cơ quan, tổ chức khác. Các chủ thể tham gia vào giải quyết khiếu nại gồm: người khiếu nại, người bị khiếu nại, người giải quyết khiếu nại và người có quyền, nghĩa vụ liên quan. Đối tượng của quyền khiếu nại trong lĩnh vực đất đai là những vi phạm trong hoạt động quản lý của các cơ quan nhà nước về đất đai, thể hiện là tính trái pháp luật của các quyết định hành chính hoặc các hành vi quản lý, sử dụng đất đai. Quy định về quyền, nghĩa vụ của người khiếu nại và người bị khiếu nại nhằm bảo đảm quyền khiếu nại của công dân và bảo đảm những điều kiện cần thiết cho quá trình giải quyết đạt hiệu quả. Các quy định về thẩm quyền, trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong giải quyết khiếu nại về đất đai. Xác định đúng thẩm quyền của các cơ quan, tổ chức trong giải quyết khiếu nại là vấn đề có ý nghĩa quan trọng, có xác định đúng thẩm quyền mới có thể giải quyết tận gốc bức xúc, khiếu kiện của công dân. Thủ tục giải quyết khiếu nại bao gồm các quy định về nội dung công việc và trình tự thực hiện khi cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ, việc. Trong quá trình giải quyết cần đảm bảo thực hiện đúng, đầy đủ nội dung công
  • 27. 21 việc và trình tự đã quy định, được áp dụng thống nhất cho các vụ việc khiếu nại. Các quy định về quản lý công tác giải quyết khiếu nại, giám sát thi hành pháp luật khiếu nại nhằm đảm bảo cho các quy định của pháp luật khiếu nại được thực hiện một cách thống nhất, nghiêm chỉnh. 1.2.1.2. Nội dung cơ bản của pháp luật về giải quyết tố cáo trong lĩnh vực đất đai Nội dung các quy định về tố cáo và giải quyết tố cáo trong lĩnh vực đất đai gồm các quy định giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ trong lĩnh vực đất đai; tố cáo và giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân về quản lý nhà nước trong lĩnh vực đất đai; bảo vệ người tố cáo và quản lý công tác giải quyết tố cáo. Chủ thể thực hiện hành vi tố cáo chỉ có thể là cá nhân. Các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật tố cáo gồm: người tố cáo, người bị tố cáo và người giải quyết tố cáo. Đối tượng của quyền tố cáo trong lĩnh vực đất đai là những vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ về đất đai và những hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực đất đai. Quy định về quyền, nghĩa vụ các chủ thể tham gia vào giải quyết tố cáo nhằm bảo đảm quyền tố cáo của công dân, bảo đảm an toàn cho người tố cáo; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị tố cáo và bảo đảm những điều kiện cần thiết cho quá trình giải quyết đạt hiệu quả. Các quy định về thẩm quyền, trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong giải quyết tố cáo, các cơ quan quản lý công tác giải quyết tố cáo về đất đai và trách nhiệm phối hợp các cơ quan, tổ chức trong việc giải quyết tố cáo. Xác định đúng thẩm quyền, trách nhiệm, quyền hạn của các cơ
  • 28. 22 quan, tổ chức trong giải quyết tố cáo nhằm đảm bảo giải quyết tố cáo chính xác, khách quan, đúng quy định. Trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo bao gồm các quy định về trình tự, hình thức, thời hạn và nội dung các công việc từ tiếp nhận, xử lý thông tin và xác minh nội dung tố cáo đến việc hoàn tất hồ sơ, công bố kết luận nội dung tố cáo, xử lý nội dung tố cáo. Các quy định về việc bảo vệ người tố cáo, gồm các đối tượng được bảo vệ, các hình thức bảo vệ và quyền và nghĩa vụ của người được bảo vệ bởi những hành vi bị tố cáo nói chung và tố cáo về đất đai nói riêng là những hành vi thường nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng đến lợi ích của người tố cáo và của toàn xã hội. Chủ thể thực hiện quyền tố cáo phải chịu trách nhiệm về những thông tin tố cáo, thậm chí là trách nhiệm hình sự, vì vậy trong pháp luật về giải quyết tố cáo có những quy định về bảo vệ người tố cáo nhằm khuyến khích và bảo đảm quyền tố cáo của công dân. 1.2.2. Thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai 1.2.2.1. Khái niệm thực hiện pháp luật Thực hiện pháp luật: “Hành vi của chủ thể (hành động hoặc không hành động) được tiến hành phù hợp với quy định, với yêu cầu của pháp luật, tức là không trái, không vượt quá khuôn khổ mà pháp luật đã quy định” [12, tr. 19]. Dưới góc độ pháp lý thì thực hiện pháp luật là hành vi hợp pháp. Hành vi đó không trái với các quy định của pháp luật, phù hợp với quy định của pháp luật và đạo đức xã hội. Thực hiện pháp luật cũng có thể là hành vi của mỗi cá nhân hay hành vi của cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội. Thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích làm cho các quy định của pháp luật đi vào thực tế, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật.
  • 29. 23 Thực hiện pháp luật được phân thành 4 hình thức như sau: Tuân thủ pháp luật: “Là hình thức thực hiện pháp luật một cách thụ động, thể hiện ở sự kiềm chế của chủ thể để không thực hiện các hành vi vi phạm các quy định cấm đoán của pháp luật” [12, tr. 19]. Thi hành pháp luật: “Là hình thức thực hiện pháp luật một cách chủ động. Các chủ thể thực hiện thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành động tích cực. Những quy phạm pháp luật bắt buộc được thực hiện ở hình thức này” [12, tr. 19]. Sử dụng pháp luật: “Là khả năng của các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật có thể sử dụng khai thác hay không sử dụng, khai thác, hưởng quyền mà luật đã dành” [21, tr. 19, 20]. Áp dụng pháp luật: “Là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật để giải quyết, xử lý những vấn đề cụ thể thuộc trách nhiệm, quyền hạn của mình” [12, tr. 20]. Thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai là yêu cầu đối với người sử dụng đất, người khiếu nại, tố cáo và người giải quyết khiếu nại, tố cáo. Trong 4 hình thức thực hiện pháp luật, nếu như tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật và sử dụng pháp luật là những hình thức có tính phổ biến mà các chủ thể pháp luật có thể thực hiện thì áp dụng pháp luật mang tính đặc thù riêng, nhất thiết phải có sự tham gia trực tiếp của cơ quan nhà nước hay của cán bộ, công chức có thẩm quyền. Biểu hiện rõ nét nhất là các chủ thể pháp luật khi thực hiện các quy định của pháp luật luôn có sự can thiệp của Nhà nước hay của cán bộ, công chức có thẩm quyền, đảm bảo cho các quy phạm pháp luật được thực hiện triệt để, hiệu lực và hiệu quả khi tác động vào cuộc sống, vào các quan hệ xã hội. Qua thực tiễn cho thấy đối với địa phương, nhất là chính quyền cấp huyện thì việc thực hiện đồng bộ 4 hình thức thực hiện pháp luật nêu trên đóng vai trò rất quan trọng, nhưng việc áp dụng pháp luật là có vai trò quan trọng hơn cả.
  • 30. 24 Chủ thể thực hiện pháp luật là những chủ thể phải thực hiện các nghĩa vụ theo pháp luật. Nghĩa vụ theo pháp luật có thể là những nghĩa vụ được quy định trực tiếp trong các văn bản quy phạm pháp luật, hoặc trong phán quyết của Tòa án, hoặc trong những quyết định có hiệu lực mà chủ thể đó có nhiệm vụ phải thi hành. Chủ thể thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai, đó là những cơ quan hành chính nhà nước, chủ thể duy nhất có thẩm quyền áp dụng pháp luật, là cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai. Chủ thể có thẩm quyền được trao quyền quản lý, gắn với một trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định, dựa vào các trường hợp cụ thể để xử lý khi có sự kiện pháp lý phát sinh. Tùy theo mỗi nhà nước, sự phân công về các cơ quan giải quyết khiếu nại, tố cáo sẽ khác nhau. Trong giới hạn nghiên cứu, luận văn chủ yếu đề cập đến các chủ thể là các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai, gồm: Chủ tịch UBND các cấp; Thủ trưởng cơ quan thuộc sở và cấp tương đương; Giám đốc sở và cấp tương đương; Thủ trưởng cơ quan thuộc bộ, thuộc cơ quan ngang bộ, thuộc cơ quan thuộc Chính phủ; Bộ trưởng; Tổng Thanh tra Chính phủ; Chánh Thanh tra các cấp; Thủ tướng Chính phủ. 1.2.2.2. Vai trò của thực hiện pháp luật khiếu nại, tố cáo về đất đai Thứ nhất: Nhà nước ban hành pháp luật để điều chỉnh các mối quan hệ trong xã hội phục vụ lợi ích của Nhà nước và của cả xã hội. Điều đó chỉ xảy ra khi các cá nhân, tổ chức trong xã hội thực hiện đầy đủ, chính xác những quy phạm pháp luật do Nhà nước đặt ra. Pháp luật có thực sự phát huy được vai trò trong quản lý nhà nước còn phụ thuộc vào việc tổ chức thực hiện pháp luật, làm cho những yêu cầu của pháp luật trở thành hiện thực. Để Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật thì phải có phương thức thực hiện tốt các khâu từ xây dựng, phổ biến đến tổ chức thực hiện, kiểm tra và xử lý vi phạm nhằm
  • 31. 25 bảo vệ pháp luật. Kết quả của việc tổ chức thực hiện pháp luật là một trong những tiêu chuẩn để xác định một nền pháp chế xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi các chủ thể phải tôn trọng và triệt để thực hiện theo pháp luật. Như vậy, thực hiện pháp luật nói chung và pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai là trung tâm của pháp chế. Thứ hai: Thực hiện pháp luật có vai trò quan trọng và gắn bó mật thiết với bối cảnh cải cách hành chính. Cải cách hành chính làm cho hệ thống hành chính trở nên hiệu quả hơn, phục vụ nhân dân được tốt hơn, rút ngắn thủ tục hành chính theo hướng đơn giản hóa cũng góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật của các chủ thể. Chất lượng của các hoạt động thực thi pháp luật cũng là vấn đề then chốt của cải cách hành chính. Thực hiện pháp luật và cải cách hành chính đều có chung mục đích là đưa các quy phạm pháp luật đi vào thực tế, được các chủ thể tuân thủ thực hiện nhằm phát huy tối đa hiệu quả quản lý nhà nước của pháp luật. Thứ ba: Thực hiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo và pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai là các hoạt động của các chủ thể tiến hành phù hợp với quy định, với yêu cầu của pháp luật về khiếu nại, tố cáo và pháp luật về đất đai. Nhờ các hoạt động thực hiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo mà quyền khiếu nại, quyền tố cáo của công dân, cơ quan, tổ chức được đảm bảo; giúp các quy định về khiếu nại, tố cáo phát huy được giá trị trong việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Thứ tư: Thông qua việc thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo, Đảng và Nhà nước kiểm tra được tính đúng đắn, sự phù hợp của đường lối, chính sách, pháp luật ban hành, từ đó có cơ sở thực tiễn để hoàn thiện đường lối, chính sách, pháp luật và sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước. Trong trường hợp các khiếu nại, tố cáo được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, giải quyết kịp thời, đúng pháp luật thể hiện người khiếu nại, người tố cáo và cả những người xung quanh luôn được
  • 32. 26 Nhà nước tôn trọng, lắng nghe ý kiến của dân, quan tâm bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của dân, cho thấy nhà nước gần gũi, gắn bó với dân, lo cho dân, thực sự là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Thứ năm: Giải quyết khiếu nại, tố cáo là phương thức bảo đảm sự giám sát của nhân dân đối với hoạt động quản lý của nhà nước và cán bộ, công chức nhà nước. Qua việc thực hiện các quy định về khiếu nại, tố cáo, Nhà nước phát hiện được những hành vi sai phạm, tiêu cực của cán bộ, công chức để kịp thời xử lý hoặc những bất hợp lý về chính sách, pháp luật để kịp thời sửa đổi, bổ sung nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý của bộ máy nhà nước. 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai 1.3.1. Yếu tố chính trị Tính giai cấp của pháp luật thể hiện ở chỗ pháp luật phản ánh ý chí nhà nước của giai cấp thống trị. Pháp luật là sự cụ thể hóa ý chí của giai cấp thống trị (giai cấp cầm quyền) trong xã hội, là một trong những hình thức biểu hiện cụ thể của chính trị. Đường lối, chính sách của giai cấp thống trị giữ vai trò chỉ đạo đối với pháp luật. Với ý nghĩa đó, pháp luật nói chung và pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai nói riêng với những thuộc tính vốn có của mình đã trở thành một công cụ quản lý không thể thay thế được của Đảng và Nhà nước ta. Trong đó, hình thức và hoạt động thực hiện pháp luật đất đai, pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo chính là sự hiện thực hóa vào thực tiễn ý chí của Nhà nước. Điều này xét về bản chất chính là ý chí của nhân dân lao động trong bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích của tập thể, quyền và lợi ích của người sử dụng đất. Ở nhà nước ta, ý chí đó biểu hiện tập trung trong đường lối, chủ trương của Đảng. Đảng cầm quyền lãnh đạo đối với bộ máy nhà nước, theo đó mọi chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng luôn giữ vai trò lãnh đạo, chỉ đạo
  • 33. 27 phương hướng xây dựng, nội dung, việc tổ chức thực hiện pháp luật, được Nhà nước thể chế hóa, cụ thể hóa bằng những quy phạm pháp luật và được bảo đảm thực hiện (Ví dụ quan điểm của nhà nước ta đất đai thuộc sở hữu toàn dân, không như một số nước quan điểm đất đai thuộc sở hữu tư nhân…). Do đó, việc xây dựng, thực hiện và áp dụng pháp luật phải luôn thấm nhuần các quan điểm thể hiện trong các đường lối, chủ trương của Đảng để pháp luật luôn là phương tiện phản ánh đường lối, chủ trương của Đảng, là sự thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng được thực hiện có hiệu quả trên quy mô toàn xã hội; là phương tiện để Nhà nước quản lý mọi mặt đời sống xã hội; là phương tiện để nhân dân phát huy dân chủ và quyền làm chủ, thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Để hoạt động thực hiện pháp luật nói chung và pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai nói riêng luôn đạt hiệu quả, thì không thể không nói đến những điều kiện chính trị nhất định. Nếu tình hình chính trị trong nước ổn định, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm và xác định tầm quan trọng của công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, công tác quản lý và sử dụng đất đai, xác định quyền sử dụng đất là quyền của công dân thì Đảng và Nhà nước sẽ lãnh đạo, chỉ đạo và có những quy định pháp luật phù hợp, hoàn thiện. Nếu tình hình chính trị trong nước thiếu ổn định; đường lối, quan điểm của Đảng về chính sách đất đai thiếu nhất quán, thiếu minh bạch, chắc chắn sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến việc xây dựng và thực hiện pháp luật. Hiện nay, các điều kiện chính trị trong xã hội ta như bình đẳng của những người lao động về mọi mặt; hệ thống chính trị, xã hội ngày càng được củng cố và phát triển, nhất là sự khẳng định tính nhất quán xuyên suốt về chính sách đất đai trong chiến lược xây dựng và phát triển Đất nước của Đảng đã được thể chế hóa vào Hiến pháp và pháp luật là những nhân tố luôn hậu thuẫn tích cực, đảm bảo hiệu quả cho hoạt động thực hiện pháp luật, trong đó có công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai của các cơ quan nhà nước ở địa
  • 34. 28 phương. 1.3.2. Yếu tố điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội Yếu tố điều kiện tự nhiên về vị trí địa lý, khí hậu, tài nguyên và môi trường… có tác động rất lớn và trực tiếp đến quá trình xây dựng và thực hiện pháp luật. Yếu tố điều kiện tự nhiên thuận lợi sẽ có tác động tích cực đến việc thực hiện pháp luật và ngược lại. Việc xây dựng và thực hiện pháp luật giữa các khu vực, địa phương, vùng miền (miền núi và đồng bằng, đô thị và nông thôn…) sẽ có những thuận lợi và khó khăn khác nhau, do đó cũng có những tác động khác nhau trong việc xây dựng và thực hiện pháp luật. Trong mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng thì cơ sở hạ tầng giữ vai trò quyết định. Do vậy, trong mối quan hệ giữa các điều kiện kinh tế - xã hội với pháp luật thì pháp luật ra đời, tồn tại và phát triển phải dựa trên nền tảng của kinh tế - xã hội và phản ánh trình độ phát triển của kinh tế - xã hội. Yếu tố kinh tế giữ vai trò quan trọng và tác động trực tiếp đến quá trình xây dựng và thực hiện pháp luật. Do vậy, một nền kinh tế - xã hội phát triển năng động, bền vững, ổn định sẽ là điều kiện thuận lợi, quan trọng bậc nhất, tác động tích cực tới việc xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật. Điều này cũng đồng nghĩa là nếu nền kinh tế chậm phát triển, thiếu tính năng động và hiệu quả, xã hội lạc hậu, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn sẽ là những trở lực không nhỏ, sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới việc xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật nói chung, trong đó có pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai. Vai trò của đất đai đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa Đất nước là vô cùng quan trọng; đất đai có ý nghĩa sống còn trong kinh tế nông nghiệp, trong việc đáp ứng nhu cầu của nhân dân về sử dụng đất, đặc biệt quyền sử dụng đất còn là hàng hóa đặc biệt trong thị trường bất động sản. Như thế quan hệ xã hội về đất đai hiện thời và muôn đời là hiện thực khách quan mà Nhà nước và pháp luật phải phản ánh và bảo đảm. Thiếu những điều
  • 35. 29 kiện này, không đảm bảo những điều kiện này thì công tác quản lý về đất đai, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai sẽ không có hiệu quả. Pháp luật và thực hiện pháp luật là đòn bẩy, là hành lang pháp lý tác động tích cực trở lại đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Pháp luật cần phải luôn phản ánh đúng trình độ phát triển của kinh tế - xã hội, nếu phản ánh không đúng thì sẽ có tác động tiêu cực, có thể kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội cũng như không bảo đảm tính khả thi trong tổ chức thực hiện. Do đó, trong quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật nói chung, pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai nói riêng phải luôn gắn giữa lý luận với thực tiễn và xem xét đầy đủ mọi khía cạnh, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong từng giai đoạn cụ thể để xây dựng một hệ thống pháp luật đồng bộ, phù hợp, bảo đảm tính khả thi. 1.3.3. Yếu tố pháp luật Trong đời sống xã hội, pháp luật là một trong nhiều phương thức thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng, đồng thời là phương tiện để Nhà nước quản lý kinh tế, xã hội và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Thông qua các quy định của pháp luật, các quan hệ xã hội được Nhà nước điều chỉnh theo những mục tiêu đã định. Đối với nhà nước ta, pháp luật có vai trò quan trọng trong việc xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước, bảo đảm việc thực hiện có hiệu quả chức năng tổ chức và quản lý kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội… Quá trình phát triển kinh tế của nhà nước luôn có những điều chỉnh về pháp luật, bảo đảm pháp luật là điều kiện quyết định thúc đẩy phát triển nền kinh tế đất nước. Pháp luật là tổng thể các yếu tố tạo nên đời sống pháp luật của xã hội trong từng giai đoạn nhất định, là công cụ có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Thực hiện pháp luật xét về bản chất là hiện thực hóa các quy phạm pháp luật chỉ tồn tại trên giấy vào trong đời sống thực tế. Nếu không có quy phạm pháp luật thì sẽ không có thực hiện pháp
  • 36. 30 luật, đây là một lôgíc không thể nào đảo lộn được. Do vậy, yêu cầu đặt ra là để đảm bảo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thực hiện pháp luật nói chung, pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai nói riêng đạt được hiệu quả đòi hỏi phải có sự tổng hòa các điều kiện, bao gồm sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật thực định, sự hoàn thiện của cơ chế thực hiện và áp dụng pháp luật, ý thức pháp luật và văn hóa pháp lý của cán bộ, công chức và các tầng lớp nhân dân. 1.3.4. Yếu tố trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; ý thức tuân thủ pháp luật của các cơ quan, tổ chức và công dân Ý thức pháp luật và pháp luật là hai hiện tượng xã hội khác nhau, nhưng luôn có mối quan hệ chặt chẽ và tác động qua lại lẫn nhau. Pháp luật là sự biểu biện của ý thức pháp luật, được ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo những định hướng nhất định và là cơ sở để củng cố, phát triển, nâng cao ý thức pháp luật. Ý thức pháp luật là tiền đề tư tưởng trực tiếp để xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật; là nhân tố thúc đẩy việc thực hiện pháp luật trong đời sống xã hội, thể hiện qua sự nhận thức và thái độ của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật; là cơ sở bảo đảm cho việc áp dụng đúng đắn các quy phạm pháp luật. Trình độ văn hóa của các chủ thể là yếu tố tác động trực tiếp đến việc thực hiện pháp luật. Trình độ dân trí cao là điều kiện đầu tiên, cơ bản để có những hành vi xử sự hợp pháp, với người có trình độ văn hóa cao họ sẽ dễ dàng hiểu biết pháp luật, nhận thức đúng pháp luật và việc thực hiện pháp luật đạt kết quả tốt. Đối với người có trình độ văn hóa thấp, điều đó sẽ ngược lại, thật khó khăn cho họ trong việc hiểu biết cũng như thực hiện pháp luật. Đối với ý thức pháp luật và văn hóa pháp lý của cán bộ, công chức và các tầng lớp nhân dân trong quan hệ pháp luật đất đai cao hay thấp phụ thuộc không nhỏ vào công tác phổ biến, tuyên truyền và giáo dục pháp luật nhằm
  • 37. 31 trang bị cho mỗi cá nhân một trình độ kiến thức pháp lý nhất định để từ đó có ý thức đúng đắn về pháp luật, tôn trọng và tự giác chấp hành pháp luật. Thực tiễn trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay đòi hỏi việc thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai không những phải có hệ thống pháp luật hoàn chỉnh mà hoạt động thực hiện pháp luật đó cũng phải đạt được trình độ với chất lượng cao. Quốc hội phải thường xuyên xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của thực tiễn đời sống xã hội, nhất là các văn bản pháp luật hướng dẫn thực hiện pháp luật. Đây là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho pháp luật được thực hiện một cách nghiêm túc và hiệu quả. Các cơ quan Công an, Tòa án, Viện kiểm sát, Thanh tra và các cơ quan khác có liên quan phải nghiêm chỉnh thực hiện các quy phạm pháp luật, giữ đúng vị trí, vai trò, chức năng và nhiệm vụ của mình, tích cực tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật, đồng thời tạo các điều kiện cần thiết để người dân có thể tham gia giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước và thực hiện pháp luật một cách thuận lợi. Các cơ quan chức năng, các lực lượng xã hội, các tổ chức đoàn thể, xã hội cần có sự phối hợp tốt trong việc thực hiện pháp luật, cần phát hiện và xử lý nghiêm minh, kịp thời các hiện tượng tiêu cực, các hành vi sai lệch chuẩn mực pháp luật, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với pháp luật. Bản thân mỗi cán bộ, công chức nhà nước phải luôn luôn gương mẫu trong việc thực hiện pháp luật; thường xuyên học tập, nâng cao trình độ hiểu biết về văn hóa, pháp luật, có thái độ hòa nhã, tôn trọng trong quá trình hướng dẫn nhân dân thực hiện pháp luật. 1.3.5. Yếu tố phong tục tập quán Tập quán là một loại quy phạm xã hội mang tính đạo đức, là phương thức xử sự và hành động được hình thành và tồn tại trong một cộng đồng dân
  • 38. 32 cư nhất định, biện pháp bảo đảm thực hiện chủ yếu là sức mạnh của dư luận xã hội. Tập quán luôn có sự tác động nhất định tới việc xây dựng, thực hiện và bảo vệ pháp luật, nhưng đồng thời cũng chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ của pháp luật ở cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Những phong tục tập quán tích cực phù hợp với ý chí nhà nước thì sẽ được nhà nước đảm bảo và thừa nhận trở thành quy phạm pháp luật, còn những phong tục tập quán nào trái với ý chí nhà nước sẽ bị hạn chế hoặc bài trừ. Có thể thấy, sự ảnh hưởng của tập quán đến việc thực hiện pháp luật như là một hiện tượng mang tính quy luật. Do đó, để phát huy vai trò của pháp luật thì cần thiết phải xét đến mối quan hệ giữa pháp luật với tập quán, để từ đó phát huy những tập quán tốt đẹp, tiến bộ, đồng thời có biện pháp loại bỏ dần những tập quán lạc hậu, phản khoa học. Đối với công tác thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai, phong tục tập quán cũng là yếu tố đóng vai trò tác động rất lớn. Chẳng hạn như, do thói quen của người dân thường chọn con đường khiếu nại hành chính, gửi đơn khiếu nại đến các cơ quan hành chính hơn là việc khởi kiện ra Tòa án, vì cứ cho rằng ra Tòa án phải chịu án phí, các thủ tục chặt chẽ và qua các cấp của Tòa án xét xử nếu có kháng cáo, kháng nghị.…, từ đó dẫn đến tình trạng đơn khiếu nại trong lĩnh vực đất đai luôn chiếm tỷ lệ lớn. Bên cạnh đó, đất đai không chỉ là tài sản mà còn là yếu tố mang tính tâm linh nên việc thỏa hiệp giữa các bên trong tranh chấp đất đai thường rất khó khăn, dẫn đến các vụ việc kéo dài…
  • 39. 33 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI, TẠI HUYỆN CƯ KUIN, TỈNH ĐẮK LẮK 2.1. Thực trạng pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai 2.1.1. Sơ lược lịch sử phát triển của pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai Ngày 01/7/1980, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 201/CP về việc thống nhất và tăng cường công tác quản lý ruộng đất trong cả nước. Có thể nói, đây là văn bản pháp quy đầu tiên quy định khá chi tiết, toàn diện về công tác quản lý ruộng đất trong toàn quốc. Sau một thời gian thực hiện, đến ngày 29/12/1987, Quốc hội đã thông qua Luật Đất đai đầu tiên - Luật Đất đai năm 1987. Về lĩnh vực khiếu nại, tố cáo, ngày 27/11/1981 Pháp lệnh quy định về việc xem xét và giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân được ban hành và là văn bản pháp lý đầu tiên quy định một cách tập trung, đầy đủ, chi tiết về việc tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Sau khi Pháp lệnh này được ban hành, ngày 29/3/1982 Hội đồng bộ trưởng ban hành Nghị định số 58/HĐBT về việc thi hành Pháp lệnh đã quy định cụ thể về thẩm quyền và trách nhiệm của công dân trong việc khiếu nại, tố cáo. Tiếp tục thừa kế những thành tựu đạt được của Pháp lệnh năm 1981 và bổ sung những thiếu sót, khắc phục những tồn tại; ngày 02/5/1991, Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo được ban hành thay thế Pháp lệnh năm 1981. Trong Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo năm 1991, lần đầu tiên quyền khiếu nại và quyền tố cáo được quy định riêng biệt. Ngày 28/01/1992, Hội đồng bộ trưởng ban hành Nghị định số 38/HĐBT về việc thi hành Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo.
  • 40. 34 Trong lĩnh vực đất đai, sau giai đoạn bắt đầu đổi mới (1986-1991), chúng ta vẫn còn thiếu nhiều quy định và ngay cả hệ thống pháp luật đất đai đã ban hành cũng còn nhiều bất cấp, chưa đáp ứng được tình hình đổi mới của Đất nước. Để phù hợp với giai đoạn mới và thực hiện đổi mới toàn diện nền kinh tế, cụ thể hóa Hiến pháp năm 1992, khắc phục những hạn chế của Luật Đất đai năm 1987, ngày 14/7/1993 Quốc hội đã thông qua Luật Đất đai năm 1993. Tiếp đó, Luật Đất đai năm 1993 được sửa đổi, bổ sung một số điều vào năm 1998 và năm 2001. Ngày 02/12/1998, Quốc hội đã thông qua Luật Khiếu nại, tố cáo có hiệu lực từ ngày 01/01/1999 thay thế Pháp lệnh năm 1991. Đây là văn bản có hiệu lực cao nhất về quyền khiếu nại, tố cáo của công dân so với các văn bản trước đó. Tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền khiếu nại, quyền tố cáo; ngày 25/6/2004 và ngày 29/11/2005, Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998. Luật Đất đai năm 2003 được ban hành có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2004 và tiếp sau đó, nhiều chính sách pháp luật được từng bước thể chế hóa, điển hình như Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai năm 2003; Nghị định số 182/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai; Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích cộng đồng, lợi ích quốc gia, mục đích an ninh, quốc phòng; Nghị định số 198/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ về thu tiền sử dụng đất. Tuy nhiên, chế định về quyền khiếu nại, tố cáo về đất đai cũng nhưng thẩm quyền, trình tự và thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai chưa được quy định cụ thể tại các văn bản quy phạm này và có nhiều bất cập so với pháp luật về khiếu nại, tố cáo. Một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử hình thành và phát triển pháp
  • 41. 35 luật về khiếu nại, tố cáo là sự ra đời của Luật Khiếu nại năm 2011 và Luật Tố cáo năm 2011. Luật Khiếu nại năm 2011 có những điểm mới về quy định rõ hơn phạm vi điều chỉnh; quy định rõ về các trường hợp khiếu nại không được thụ lý để giải quyết; trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại cũng được bổ sung; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc quản lý công tác giải quyết khiếu nại được quy định cụ thể hơn… Luật Tố cáo năm 2011 cũng có những quy định mới về giải quyết tố cáo, cụ thể: quy định cụ thể và đầy đủ hơn về quyền, nghĩa vụ của người tố cáo, người bị tố cáo, người giải quyết tố cáo; quy định cụ thể hơn nguyên tắc xác định thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức trong thực hiện nhiệm vụ; quy định thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực; bổ sung các quy định bảo vệ người tố cáo… Luật Đất đai năm 2013 ra đời, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2014 đã kế thừa, phát huy được những ưu điểm của Luật Đất đai năm 2003 và đã bổ sung những quy định mới phù hợp. Trong đó đã quy định cụ thể về thẩm quyền, trình tự thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý về đất đai. Chính vì vậy, việc giải quyết các quan hệ về đất đai được chặt chẽ, góp phần đáp ứng yêu cầu thực tiễn quản lý nhà nước về đất đai. Luật Đất đai năm 2013 đã cụ thể hóa và bảo vệ các quyền, nghĩa vụ của các chủ thể sử dụng đất. Do đó, người sử dụng đất có thể thực hiện quyền của mình trong việc khởi kiện, yêu cầu giải quyết tranh chấp về đất đai, khiếu nại các quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai và quyền tố cáo các vi phạm trong công tác quản lý nhà nước về đất đai. Với sự ra đời của Luật Tố cáo năm 2011 và Luật Khiếu nại năm 2011 quy định cụ thể về thẩm quyền giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo. Thông qua đó, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về đất đai đã giải quyết được những vướng mắc mà Luật
  • 42. 36 Đất đai trước đây chưa giải quyết được chặt chẽ. 2.1.2. Quy định của pháp luật về trách nhiệm của các chủ thể 2.1.2.1. Trách nhiệm của chủ thể thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo Thứ nhất, đối với người khiếu nại phải có nghĩa vụ: Khiếu nại đến đúng người có thẩm quyền giải quyết. Trình bày trung thực sự việc, đưa ra chứng cứ về tính đúng đắn, hợp lý của việc khiếu nại; cung cấp thông tin, tài liệu liên quan cho người giải quyết khiếu nại; chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung trình bày và việc cung cấp thông tin, tài liệu đó. Chấp hành quyết định hành chính, hành vi hành chính mà mình khiếu nại trong thời gian khiếu nại, trừ trường hợp quyết định, hành vi đó bị tạm đình chỉ thi hành theo quy định. Chấp hành nghiêm chỉnh quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật. Thứ hai, đối với người tố cáo phải có nghĩa vụ: Giải trình bằng văn bản về hành vi bị tố cáo; cung cấp thông tin, tài liệu liên quan khi cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền yêu cầu. Chấp hành nghiêm chỉnh quyết định xử lý của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền. Bồi thường, bồi hoàn thiệt hại do hành vi trái pháp luật của mình gây ra. 2.1.2.2. Trách nhiệm chung của các chủ thể có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo Thứ nhất: Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tiếp người khiếu nại, người tố cáo, tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, tố cáo theo đúng quy định của pháp luật; xử lý nghiêm minh người vi phạm; áp dụng biện pháp cần thiết nhằm ngăn chặn thiệt hại có thể xảy ra, bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khoẻ, tài sản, danh dự, nhân phẩm, uy tín, việc làm, bí mật cho người tố cáo; bảo đảm quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo được thi hành nghiêm chỉnh và chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định xử lý của mình.
  • 43. 37 Thứ hai: Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo có trách nhiệm bố trí trụ sở tiếp công dân hoặc địa điểm tiếp công dân để tiếp nhận tố cáo, khiếu nại, kiến nghị, phản ánh theo đúng quy định của Luật Tiếp công dân năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Thứ ba: Cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm trong việc tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo mà không tiếp nhận, không giải quyết theo đúng quy định của pháp luật, thiếu trách nhiệm trong việc tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc cố ý giải quyết khiếu nại, tố cáo trái pháp luật phải bị xử lý nghiêm minh, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường, bồi hoàn theo quy định của pháp luật. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan, tổ chức hữu quan có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo. 2.1.2.3. Trách nhiệm của các cơ quan hành chính nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội Thứ nhất: Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước trong phạm vi cả nước. Thanh tra Chính phủ chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong phạm vi cả nước. Trường hợp cần thiết, Thủ tướng Chính phủ làm việc với Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán Nhà nước, người đứng đầu các cơ quan khác của Nhà nước; Chủ tịch UBND cấp tỉnh làm việc với Chánh án Toà án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp để phối hợp trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo. Thứ hai: Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND cấp tỉnh báo cáo Chính phủ về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan, địa phương mình theo định kỳ hoặc theo yêu cầu của Chính phủ. Các bộ, cơ quan ngang bộ, UBND các cấp thực hiện quản lý nhà nước về công tác
  • 44. 38 giải quyết khiếu nại, tố cáo trong phạm vi quản lý của mình. Thanh tra bộ, cơ quan ngang bộ, Thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Thanh tra sở, Thanh tra huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giúp thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp quản lý công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo. Thứ ba: UBND địa phương định kỳ báo cáo Hội đồng nhân dân và thông báo đến Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp về tình hình khiếu nại, khởi kiện vụ án hành chính và công tác giải quyết khiếu nại, xét xử vụ án hành chính trong phạm vi địa phương mình. 2.1.2.4. Trách nhiệm giám sát của các cơ quan dân cử, của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận; trách nhiệm của Ban Thanh tra nhân dân Giám sát hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo nói chung và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền, Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, cùng các thiết chế chính trị, chính trị xã hội khác ngoài hệ thống cơ quan nhà nước theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động ban hành và thực hiện các quy định pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai bằng những phương thức nhất định. Hoạt động giám sát có thể thực hiện dưới hai hình thức là giám sát mang tính quyền lực nhà nước và giám sát không mang tính quyền lực nhà nước. Giám sát mang tính quyền lực nhà nước là giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, theo những nguyên tắc phân công quyền lực nhà nước do Hiến pháp và pháp luật quy định. Giám sát không mang tính quyền lực nhà nước là giám sát của Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, giám sát của các thiết chế chính trị, chính trị xã hội khác và giám sát của quần chúng nhân dân. Theo quy định, Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với