SlideShare a Scribd company logo
1 of 158
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHÍ THÀNH CHUNG
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP
PHẠM TỘI CÓ TỔ CHỨC THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2010
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHÍ THÀNH CHUNG
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP
PHẠM TỘI CÓ TỔ CHỨC THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số : 60 38 40
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Võ Khánh Vinh
HÀ NỘI - 2010
môc lôc
Trang
Trang phô b×a
Lêi cam ®oan
Môc lôc
Danh môc c¸c tõ viÕt t¾t
Danh môc c¸c biÓu ®å
më ®Çu 1
Ch-¬ng 1: Mét sè vÊn ®Ò lý luËn vÒ quyÕt ®Þnh h×nh
ph¹t trong tr-êng hîp ph¹m téi cã tæ chøc
6
1.1. Ph¹m téi cã tæ chøc 6
1.1.1. Kh¸i niÖm ph¹m téi cã tæ chøc 6
1.1.2. Ph©n biÖt kh¸i niÖm "ph¹m téi cã tæ chøc" víi mét sè kh¸i
niÖm kh¸c cã liªn quan
14
1.2. QuyÕt ®Þnh h×nh ph¹t trong tr-êng hîp ph¹m téi cã tæ chøc 20
1.2.1. Kh¸i niÖm quyÕt ®Þnh h×nh ph¹t 20
1.2.2. Kh¸i niÖm quyÕt ®Þnh h×nh ph¹t trong tr-êng hîp ph¹m téi
cã tæ chøc
25
1.3. C¸c nguyªn t¾c vµ C¨n cø quyÕt ®Þnh h×nh ph¹t trong tr-êng
hîp ph¹m téi cã tæ chøc
32
1.3.1. C¸c nguyªn t¾c quyÕt ®Þnh h×nh ph¹t trong tr-êng hîp ph¹m
téi cã tæ chøc
32
1.3.2. C¨n cø quyÕt ®Þnh h×nh ph¹t trong tr-êng hîp ph¹m téi cã tæ
chøc
48
1.3.2.1. C¸c quy ®Þnh cña Bé luËt h×nh sù 51
1.3.2.2. TÝnh chÊt, møc ®é nguy hiÓm cho x· héi cña hµnh vi ph¹m téi 55
1.3.2.3. Nh©n th©n ng-êi ph¹m téi cã tæ chøc 60
1.3.2.4. C¸c t×nh tiÕt gi¶m nhÑ, t¨ng nÆng tr¸ch nhiÖm h×nh sù 65
1.3.2.5. TÝnh chÊt ph¹m téi cã tæ chøc 69
1.3.2.6. TÝnh chÊt, møc ®é tham gia ph¹m téi cña tõng ng-êi ph¹m
téi cã tæ chøc
73
1.4. Quy ®Þnh vÒ quyÕt ®Þnh h×nh ph¹t trong tr-êng hîp ph¹m téi
cã tæ chøc theo luËt h×nh sù mét sè n-íc trªn thÕ giíi
74
1.4.1. LuËt h×nh sù Céng hßa Liªn bang §øc 74
1.4.2. LuËt h×nh sù n-íc Céng hßa nh©n d©n Trung Hoa 78
1.4.3. LuËt h×nh sù Liªn bang Nga 80
Ch-¬ng 2: Thùc tiÔn quyÕt ®Þnh h×nh ph¹t trong tr-êng
hîp ph¹m téi cã tæ chøc
85
2.1. Thùc tr¹ng quyÕt ®Þnh h×nh ph¹t trong tr-êng hîp ph¹m téi cã
tæ chøc
85
2.1.1. Thùc tr¹ng ph¹m téi cã tæ chøc trªn ®Þa bµn thµnh phè Hµ Néi 85
2.1.2. Thùc tr¹ng quyÕt ®Þnh h×nh ph¹m trong tr-êng hîp ph¹m téi
cã tæ chøc
92
2.1.2.1. QuyÕt ®Þnh h×nh ph¹t trong tr-êng hîp ph¹m téi cã tæ chøc -
nh÷ng kÕt qu¶ quan träng
92
2.1.2.1. Mét sè h¹n chÕ trong viÖc quyÕt ®Þnh h×nh ph¹t trong tr-êng
hîp ph¹m téi cã tæ chøc
95
2.2. Nh÷ng nguyªn nh©n cña c¸c h¹n chÕ cña quyÕt ®Þnh h×nh
ph¹t trong tr-êng hîp ph¹m téi cã tæ chøc
106
2.2.1. H¹n chÕ vÒ tr×nh ®é, n¨ng lùc, tr¸ch nhiÖm cña ThÈm ph¸n,
Héi thÈm nh©n d©n ngµnh Tßa ¸n
106
2.2.2. H¹n chÕ trong c¸c quy ®Þnh ph¸p luËt hiÖn hµnh liªn quan ®Õn
quyÕt ®Þnh h×nh ph¹t trong tr-êng hîp ph¹m téi cã tæ chøc
109
Ch-¬ng 3: C¸c gi¶i ph¸p nh»m n©ng cao hiÖu qu¶
quyÕt ®Þnh H×nh ph¹t trong tr-êng hîp
ph¹m téi cã tæ chøc
116
3.1. Hoµn thiÖn c¸c quy ®Þnh ph¸p luËt cã liªn quan ®Õn ph¹m téi
cã tæ chøc vµ quyÕt ®Þnh h×nh ph¹t trong tr-êng hîp ph¹m
téi cã tæ chøc
116
3.1.1. Hoµn thiÖn c¸c quy ®Þnh ph¸p luËt cã liªn quan ®Õn ph¹m téi
cã tæ chøc
116
3.1.2. Hoµn thiÖn c¸c quy ®Þnh ph¸p luËt cã liªn quan ®Õn quyÕt
®Þnh h×nh ph¹t trong tr-êng hîp ph¹m téi cã tæ chøc
119
3.2. N©ng cao chÊt l-îng ThÈm ph¸n, Héi thÈm nh©n d©n ngµnh
Tßa ¸n nh©n d©n
120
3.2.1. N©ng cao chÊt l-îng ®éi ngò ThÈm ph¸n ngµnh Tßa ¸n nh©n d©n 120
3.2.2. N©ng cao chÊt l-îng ®éi ngò Héi thÈm nh©n d©n 132
KÕt luËn 136
danh môc tµi liÖu tham kh¶o 141
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS : Bé luËt h×nh sù
CTTP : CÊu thµnh téi ph¹m
TNHS : Tr¸ch nhiÖm h×nh sù
XHCN : X· héi chñ nghÜa
Danh môc c¸c biÓu ®å
Sè hiÖu
biÓu ®å
Tªn biÓu ®å Trang
2.1 æ nhãm ®· triÖt xãa trªn ®Þa bµn thµnh phè Hµ Néi tõ
n¨m 2004 - 2008
87
2.2 Sè vô ¸n ph¹m téi cã tæ chøc vµ sè bÞ c¸o xÐt xö s¬ thÈm
t¹i Tßa ¸n nh©n d©n thµnh phè Hµ Néi giai ®o¹n 2005-2010
93
2.3 C¬ cÊu téi ph¹m ®-îc thùc hiÖn b»ng h×nh thøc ph¹m téi
cã tæ chøc xÐt xö s¬ thÈm t¹i Tßa ¸n nh©n d©n thµnh phè
Hµ Néi giai ®o¹n 2005-2009
93
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có tính nguy hiểm cao
nhất. Phạm tội có tổ chức được phân biệt với các hình thức đồng phạm khác
bởi dấu hiệu có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cố ý cùng tham gia thực
hiện một tội phạm. Sự liên kết chặt chẽ đó tạo ra những điều kiện vật chất và
tinh thần cho những người phạm tội có tổ chức hành động phạm tội một cách
tinh vi, táo bạo và liều lĩnh hơn. Đồng thời, sự bàn bạc thỏa thuận trước với
nhau về kế hoạch thực hiện tội phạm, che giấu tội phạm làm cho chúng khó bị
phát giác, gây nhiều khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng.
Trong phạm tội có tổ chức, tội phạm được thực hiện do sự hợp tác, nỗ
lực của tất cả những người tham gia. Hành vi của mỗi người là một khâu, một
bộ phận cần thiết trong hoạt động chung đó. Do vậy, những người phạm tội
có tổ chức phải chịu trách nhiệm chung về toàn bộ tội phạm. Tuy nhiên, khi
giải quyết trách nhiệm hình sự của những người phạm tội có tổ chức đòi hỏi
phải có sự phân hóa trách nhiệm hình sự vì mỗi người phạm tội có tổ chức
không chỉ có sự tham gia vào vụ đồng phạm với tính chất và mức độ khác
nhau mà còn có những đặc điểm riêng về nhân thân. Quyết định hình phạt
trong phạm tội có tổ chức là một trường hợp quyết định hình phạt đặc biệt.
Tính chất đặc biệt của trường hợp này là ở chỗ Tòa án không chỉ định ra biện
pháp xử lý tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành
vi của một bị cáo đã thực hiện mà cho nhiều bị cáo trong một vụ án về một
hoặc nhiều tội phạm mà họ đã cùng câu kết chặt chẽ để thực hiện. Do vậy, khi
quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức, Tòa án không chỉ
tuân thủ các quy định về các căn cứ quyết định hình phạt áp dụng cho tất cả
các trường hợp phạm tội nói chung mà còn phải tuân thủ các quy định đặc thù
áp dụng riêng cho trường hợp đồng phạm có tổ chức.
2
Phạm tội có tổ chức là một hình thức đồng phạm. Vì vậy, các quy định
về quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm cũng chính là các quy
định về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức. Ở nước
ta, ngay từ khi chưa có Bộ luật hình sự (BLHS), trong một số văn bản pháp
luật cũng đã đề cập đến vấn đề quyết định hình phạt trong trường hợp đồng
phạm và phạm tội có tổ chức. Cho đến nay, trong cả hai BLHS, quyết định
hình phạt trong phạm tội có tổ chức được chính thức quy định tại Khoản 4
điều 17 BLHS 1985 và được kế thừa tại Điều 53 BLHS 1999. Tuy nhiên, các
quy định này của BLHS chỉ quy định quyết định hình phạt trong trường hợp
đồng phạm mà chưa chỉ ra các căn cứ đặc thù được áp dụng để quyết định
hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức. Mặt khác, về mặt lý luận
cũng như thực tiễn áp dụng quy định này còn tồn tại những quan điểm khác
nhau về các căn cứ quyết định hình phạt riêng áp dụng trong trường hợp đồng
phạm nói chung và phạm tội có tổ chức nói riêng. Trong thực tiễn xét xử, một
số cơ quan điều tra, truy tố, xét xử có sự nhầm lẫn phạm tội có tổ chức với các
hình thức đồng phạm khác, không có sự thống nhất trong các tiêu chí nhận
dạng hình thức đồng phạm đặc biệt này. Điều này cũng đã dẫn đến việc quyết
định hình phạt không chính xác đối với người phạm tội. Hơn nữa, khi các cơ
quan tố tụng đã xác định đúng về trường hợp phạm tội có tổ chức thì lại có sự
tranh chấp trong việc đánh giá tính chất của đồng phạm có tổ chức, tính chất,
mức độ tham gia của từng người vào việc phạm tội. Về mặt lý luận, các quy
định của Bộ luật hình sự hiện hành về phạm tội có tổ chức còn quá chung
chung, các dấu hiệu chủ yếu mang tính định tính. Trong khi đó, các văn bản
hướng dẫn thực thi pháp luật còn ít, tính cập nhật không cao. Vì vậy, việc
nghiên cứu một cách hệ thống về mặt lý luận chế định quyết định hình phạt
trong trường hợp phạm tội có tổ chức, trên cơ sở đó giải quyết những vướng
mắc mà thực tiễn đặt ra, đề xuất những phương án hoàn thiện pháp luật về
quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức, đảm bảo sự nhận
thức thống nhất trong thực thi pháp luật là vấn đề mang tính cấp bách, có ý
3
nghĩa quan trọng trong việc xây dựng và áp dụng pháp luật về quyết định hình
phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở nước ta, dưới góc độ pháp lý hình sự, một số nhà hình sự học đã
nghiên cứu về chế định quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ
chức. Đó là những công trình của các tác giả như: Giáo sư, Tiến sĩ Võ Khánh
Vinh, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Thị Sơn, Tiến sĩ Trần Quang Tiệp, Giáo sư,
Tiến sĩ khoa học Lê Cảm, Tiến sĩ Dương Tuyết Miên... Tuy nhiên, các công
trình này chủ yếu đề cập đến vấn đề quyết định hình phạt trong trường hợp
đồng phạm và ở một chừng mực nhất định có nghiên cứu về vấn đề quyết
định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức như là một trường hợp
đặc biệt. Hiện nay, chưa có một công trình độc lập nghiên cứu về quyết định
hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức với tư cách là một chế định
độc lập với những đặc điểm về quyết định hình phạt riêng. Vì vậy, quyết định
hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức vẫn đang là một vấn đề cần
được tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích cơ bản của đề tài là làm sáng tỏ về mặt lý luận một cách có
hệ thống và toàn diện về chế định quyết định hình phạt trong trường hợp
phạm tội có tổ chức; phân tích một cách khoa học các căn cứ riêng áp dụng để
quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm nói chung và phạm tội có
tổ chức nói riêng; đưa ra những dấu hiệu đặc thù để quyết định hình phạt
trong trường hợp phạm tội có tổ chức; phân tích, đánh giá thực tiễn quyết
định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức... để từ đó đóng góp về
mặt khoa học giải quyết những vấn đề vướng mắc trong thực tiễn xây dựng và
áp dụng pháp luật về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ
chức, nâng cao hiệu quả điều chỉnh của chế định này.
4
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của Luận văn gồm các vấn đề lý luận và thực
tiễn pháp lý về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức
theo Luật hình sự Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu là các vấn đề pháp lý có liên quan tới quyết
định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức trong luật hình sự Việt
Nam trong Bộ luật hình sự năm 1999 dưới góc độ luật hình sự, cả lý luận và
thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Hà Nội, giai đoạn từ năm 2005 đến
năm 2010.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của đề tài này là các thành tựu của các chuyên ngành
khoa học pháp lý như: lịch sử pháp luật, lý luận về pháp luật, xã hội học pháp
luật, luật hình sự, tội phạm học, luật tố tụng hình sự và triết học trong các
công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài đăng trên tạp chí của các
nhà khoa học - luật gia Việt Nam và nước ngoài.
Ngoài ra để góp phần phân tích khoa học nhằm làm sáng tỏ những vấn
đề lý luận và vai trò của hành vi nguy hiểm cho xã hội trong thực tiễn xác
định tội phạm và định tội danh nêu trên tác giả còn sử dụng các văn bản pháp
luật của Nhà nước, cũng như những giải thích thống nhất có tính chất chỉ đạo
của thực tiễn xét xử trong các văn bản thuộc lĩnh vực pháp luật hình sự do
TANDTC và các cơ quan bảo vệ pháp luật ở trung ương ban hành mà ở các
mức độ khác nhau các văn bản này đều có liên quan đến đề tài cần nghiên cứu.
5.2. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Phương pháp luận: Chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện
chứng, phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin để từ đó soạn
thảo, xây dựng, đề cập đến những vấn đề tương ứng dưới các luận điểm tư
tưởng về xây dựng nhà nước pháp quyền, cải cách tư pháp, củng cố pháp chế,
5
tính tối thượng của pháp luật và bảo vệ một cách hữu hiệu các quyền tự do
của công dân bằng hệ thống tư pháp hình sự ở Việt Nam với tính chất là các
giá trị xã hội cao quí nhất được thừa nhận chung vốn có của loài người và của
nền văn minh nhân loại.
Bên cạnh đó trong quá trình nghiên cứu tác giả còn sử dụng đồng bộ
các phương pháp tiếp cận để làm sáng tỏ về mặt khoa học từng vấn đề tương
ứng, đó là các phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp phân tích, phương
pháp logic, phương pháp thống kê hình sự, phương pháp tổng hợp, phương
pháp đối chiếu, phương pháp so sánh, phương pháp chứng minh v.v... Trong
đó luận văn đặc biệt coi trọng các phương pháp hệ thống, lịch sử, phân tích,
tổng hợp, so sánh, thống kê, khảo sát thực tiễn, điều tra xã hội học… qua đó
rút ra những kết luận, đề xuất phù hợp nhằm hoàn thiện các quy định của Bộ
luật hình sự có liên quan đến quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội
có tổ chức.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về quyết định hình phạt trong trường
hợp phạm tội có tổ chức.
Chương 2: Thực tiễn quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội
có tổ chức.
Chương 3: Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quyết định hình
phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức.
6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT
TRONG TRƢỜNG HỢP PHẠM TỘI CÓ TỔ CHỨC
1.1. PHẠM TỘI CÓ TỔ CHỨC
1.1.1. Khái niệm phạm tội có tổ chức
Phạm tội có tổ chức lần đầu tiên được đề cập đến trong Thông tư số
442/TTg ngày 19/1/1955 của Thủ tướng Chính phủ. Trong Thông tư này, phạm
tội có tổ chức được gọi là "Cướp đường hay trộm có tổ chức", "đánh bị thương
có tổ chức". Tuy nhiên, Thông tư lại không giải thích thế nào là "có tổ chức".
Pháp lệnh ngày 21/10/1970 về trừng trị các tội xâm phạm sở hữu xã
hội chủ nghĩa (XHCN) và Pháp lệnh ngày 21/10/1970 về trừng trị các tội xâm
phạm sở hữu riêng của công dân, phạm tội có tổ chức chỉ được quy định là
tình tiết tăng nặng định khung hình phạt và không có định nghĩa cụ thể. Điều
này gây khó khăn cho các cơ quan áp dụng pháp luật trong việc thực thi hai
pháp lệnh trên. Trước thực tế đó, ba ngành Công an, Kiểm sát, Tòa án đã dự
thảo Thông tư ngày 16/3/1973 hướng dẫn nhận thức thống nhất về hai pháp
lệnh này. Thông tư đã định hướng nhận thức về khái niệm phạm tội có tổ
chức như sau:
… Phải xuất phát từ đặc điểm, tình hình phạm tội ở nước ta
mà hiểu như thế nào là phạm tội có tổ chức. Đây là một hình thức
cộng phạm của hai hay nhiều người, trong đó có một số tên cầm đầu
hoặc đóng vai trò chủ chốt, cùng bàn bạc trước việc thực hiện một
hoặc nhiều tội phạm nào đó, thủ đoạn phạm tội thường là tinh vi,
xảo quyệt, vai trò của từng tên phân công giữa bọn chúng trong
nhiều trường hợp có thể không dứt khoát, rõ ràng; Hoặc lợi dụng
hay nấp dưới danh nghĩa một tổ chức công khai để bàn bạc về việc
thực hiện tội phạm; hoặc có khi chúng không bàn bạc nhau trước,
7
nhưng do quan hệ công tác hàng ngày nên hiểu ý đồ nhau rồi cùng
hành động phạm tội, mặc nhiên cấu kết chặt chẽ. Cần chú ý phân biệt
hình thức phạm tội có tổ chức với hình thức cộng phạm thông thường
trong đó không có sự bàn bạc, phân công chặt chẽ trước, không có
vai trò cầm đầu chủ chốt, thủ đoạn phạm tội đơn giản [63, tr. 239].
Như vậy, theo dự thảo thông tư này, phạm tội có tổ chức trước tiên là
một hình thức cộng phạm của hai hay nhiều người, trong đó có sự phân công
vai trò của từng người cộng phạm, có vai trò cầm đầu, chủ chốt, có sự bàn bạc
trước khi thực hiện một hay nhiều tội phạm, thủ đoạn phạm tội thường là tinh
vi xảo quyệt...
Sau nhiều lần pháp điển hóa, tại Khoản 3 Điều 17 BLHS 1985 và
Khoản 3 Điều 20 BLHS 1999 đều quy định: "phạm tội có tổ chức là hình thức
đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội
phạm".
Việc BLHS ghi nhận định nghĩa phạm tội có tổ chức đánh dấu bước
phát triển về kỹ thuật lập pháp hình sự, thể hiện thái độ nghiêm khắc của
Đảng và Nhà nước trong việc đấu tranh với hình thức đồng phạm có tính nguy
hiểm cao này. Tuy nhiên, định nghĩa này vẫn còn chung chung, trừu tượng.
Cụm từ "câu kết chặt chẽ" được nhận định không thống nhất giữa các cơ quan
tiến hành tố tụng. Vì vậy, sau khi BLHS 1985 lần đầu tiên quy định định
nghĩa về phạm tội có tổ chức, ngày 16/11/1988 trong Nghị quyết 02/HĐTP
hướng dẫn bổ sung Nghị quyết 02/HĐTP ngày 05/01/1986 đã giải thích:
Phạm tội có tổ chức phải có sự câu kết chặt chẽ giữa những
người cùng thực hiện tội phạm. Trong thực tế, sự câu kết này thể
hiện dưới các dạng sau đây:
a) Những người đồng phạm đã tham gia một tổ chức phạm
tội như đảng phái, hội đoàn phản động, băng ổ, nhóm trộm cướp…
có những tên chỉ huy, cầm đầu. Tuy nhiên, cũng có khi tổ chức
8
phạm tội không có những tên chỉ huy, cầm đầu mà chỉ là sự tập hợp
những tên chuyên phạm tội đã thống nhất cùng nhau hoạt động
phạm tội.
b) Những người đồng phạm đã cùng nhau phạm tội nhiều
lần theo một kế hoạch đã thống nhất trước.
c) Những người đồng phạm chỉ thực hiện tội phạm một lần
nhưng đã tổ chức thực hiện tội phạm theo một kế hoạch được tính
toán kỹ càng, chu đáo, có chuẩn bị phương tiện hoạt động và có khi
còn chuẩn bị cả kế hoạch che giấu tội phạm [65, tr. 76].
Nghị quyết ra đời trong bối cảnh có nhiều cách hiểu khác nhau về
phạm tội có tổ chức, nên có ý nghĩa thực tiễn to lớn. Tuy nhiên, những hướng
dẫn này chỉ nêu lên được những trường hợp điển hình của hình thức đồng
phạm có tổ chức. Hướng dẫn còn hạn chế khi chưa khái quát được những dấu
hiệu chung của mọi trường hợp phạm tội có tổ chức. Sau Nghị quyết này,
không một văn bản pháp lý nào giải thích về khái niệm phạm tội có tổ chức.
Khoản 3 Điều 20 BLHS 1999 kế thừa nguyên vẹn khái niệm phạm tội
có tổ chức đã được ghi nhận trong BLHS 1985, vì vậy những hướng dẫn trước
đây vẫn có giá trị tham khảo tích cực. Hiện nay, xung quanh khái niệm phạm tội
có tổ chức còn có nhiều ý kiến khác nhau về bản chất pháp lý của khái niệm
này.
- Quan điểm thứ nhất: Phạm tội có tổ chức phải có sự phân công vai
trò, nhiệm vụ khác nhau giữa những người cùng tham gia thực hiện tội phạm,
trong đó có vai trò cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm. Trước khi thực
hiện tội phạm, những người đồng phạm có sự bàn bạc thống nhất về kế hoạch
phạm tội một cách kỹ càng, chu đáo.
- Quan điểm thứ hai: Không phải trong mọi trường hợp phạm tội có tổ
chức nào cũng đều nhất thiết phải có sự phân công vai trò khác nhau giữa
những người đồng phạm, hay sự phân công vai trò khác nhau giữa những
9
người đồng phạm không phải là dấu hiệu bắt buộc của hình thức phạm tội có tổ
chức. Do vậy, phạm tội có tổ chức có thể là trường hợp đồng phạm giản đơn.
- Quan điểm thứ ba: Trong phạm tội có tổ chức, những người đồng
phạm phải có sự câu kết với nhau lâu dài, cùng nhau phạm nhiều tội hoặc
phạm một tội nhưng nhiều lần.
- Quan điểm thứ tư: Phạm tội có tổ chức phải là hình thức đồng phạm
có thông mưu trước, trong đó gồm một nhóm có từ hai người trở lên kết hợp
với nhau trước khi phạm tội.
Theo chúng tôi, các quan niệm trên về phạm tội có tổ chức là chưa
thật sự chính xác. Việc xác định những trường hợp phạm tội có tổ chức cần
tránh hai xu hướng là xác định quá rộng hoặc xác định quá hẹp về khái niệm
này.
Ở quan điểm thứ nhất, các tác giả đã tuyệt đối hóa một mặt của vấn đề
được nghiên cứu, đó là vai trò của những người đồng phạm. Thực tiễn chỉ ra
rằng việc phân công vai trò trong phạm tội có tổ chức là một dấu hiệu phổ biến
nhưng không bắt buộc, dấu hiệu duy nhất. Và ngoại diên của khái niệm phạm
tội có tổ chức là quá hẹp nếu không xem là phạm tội có tổ chức chỉ vì không có
sự phân công vai trò người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức.
Theo quan điểm thứ hai thì phạm tội có tổ chức có thể là trường hợp
đồng phạm giản đơn, tức là không có sự phân công vai trò giữa người cầm
đầu chỉ huy và người thực hiện tội phạm. Theo chúng tôi, việc không có dấu
hiệu đó thì không thể hiện được "tính có tổ chức" của hình thức đồng phạm
đặc biệt này. Quan điểm này là quá rộng về khái niệm phạm tội có tổ chức.
Với quan niệm thứ ba, việc xác định một vụ án đồng phạm nào là
phạm tội có tổ chức sẽ rất chặt chẽ. Khi những người đồng phạm câu kết với
nhau trong một thời gian dài, cùng nhau phạm nhiều tội hoặc phạm tội nhiều
lần họ mới được xác định là phạm tội có tổ chức. Theo quan niệm này, thì chỉ
10
những vụ án phạm tội do những tổ chức tội phạm dạng "xã hội đen" thực hiện
mới có thể được coi là phạm tội có tổ chức. Như vậy, quan niệm này đã thu
hẹp trách nhiệm hình sự (TNHS) đối với những trường hợp có tính nguy hiểm
cao cho xã hội, cần phải xử lý nghiêm khắc là trường hợp phạm tội có tổ chức
như: có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm nhưng
chỉ thực hiện một tội phạm [70, tr. 29].
Quan niệm thứ tư là quan niệm quá rộng về phạm tội có tổ chức. Nếu
quan niệm như vậy sẽ không có sự phân biệt đồng phạm thường và đồng
phạm đặc biệt. Điều này sẽ dẫn đến xử lý nghiêm khắc thái quá những người
đồng phạm. Đồng phạm có tổ chức và đồng phạm có thông mưu trước là hai
khái niệm có ngoại diên không hoàn toàn đồng nhất. Nội hàm của khái niệm
phạm tội có tổ chức chứa đựng những dấu hiệu của khái niệm đồng phạm có
thông mưu trước nhưng có thêm những dấu hiệu khác nữa. Xét về tính chất
câu kết cũng như tính chất nguy hiểm cho xã hội, thì phạm tội có tổ chức có
tính câu kết chặt chẽ hơn và cũng có tính nguy hiểm cho xã hội cao hơn.
Vì vậy, căn cứ vào tinh thần của Nghị Quyết số 02/HĐTP ngày 16-11-
1988 hướng dẫn bổ sung Nghị Quyết số 02/HĐTP ngày 5-1-1986 giải thích
về "sự câu kết" trong phạm tội có tổ chức và sự phân tích ở trên, chúng tôi
cho rằng: phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm đặc biệt. Trong hình
thức đồng phạm này có sự phân công vai trò giữa người thực hành và người
cầm đầu, chỉ huy trong việc thực hiện tội phạm. Dấu hiệu phạm một tội nhiều
lần, phạm nhiều tội và sự câu kết lâu dài không phải là dấu hiệu bắt buộc của
hình thức đồng phạm này.
Với quan niệm trên, phạm tội có tổ chức trước hết phải là một hình
thức đồng phạm. Do đó, phạm tội có tổ chức phải có những dấu hiệu của
đồng phạm. Đó là phải có từ hai người trở lên cùng cố ý tham gia thực hiện
một tội phạm. Tính chất đặc biệt của hình thức đồng phạm này được đặc
trưng bởi dấu hiệu "có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng tham gia
11
thực hiện tội phạm". Chính sự câu kết chặt chẽ này là đặc điểm quan trọng
nhất nói lên tính chất và mức độ nguy hiểm cao hơn hẳn, đồng thời quy định
sự khác nhau về chất giữa phạm tội có tổ chức và các hình thức đồng phạm
khác. Đặc trưng này của đồng phạm có tổ chức vừa thể hiện đặc điểm của dấu
hiệu chủ quan vừa thể hiện đặc điểm của dấu hiệu khách quan. Đây là điểm
đặc biệt thứ nhất của phạm tội có tổ chức so với các hình thức đồng phạm
khác.
Như vậy, mức độ câu kết có chặt chẽ hay không là một căn cứ để phân
biệt phạm tội có tổ chức và các hình thức đồng phạm khác. Tại Khoản 3 Điều 20
BLHS 1999, cụm từ "câu kết chặt chẽ" hoàn toàn mang tính chất định tính,
cho nên dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau trong quá trình áp dụng pháp luật.
Vì vậy, trong các văn bản giải thích pháp luật hoặc ngay trong BLHS cần
lượng hóa vấn đề này để đảm bảo một cách hiểu thống nhất.
Từ thực tiễn xét xử, dưới góc độ khoa học luật hình sự, theo chúng tôi,
có thể đánh giá tính "câu kết chặt chẽ" qua các đặc trưng riêng về mặt khách
quan và chủ quan của đồng phạm có tổ chức:
Về mặt khách quan, tính tổ chức chặt chẽ và tính kế hoạch thống
nhất là hai thuộc tính phản ánh rõ bản chất, đặc trưng của tính câu kết chặt
chẽ trong phạm tội có tổ chức.
Tính tổ chức chặt chẽ có thể được hiểu là: trước khi thực hiện tội
phạm, những người đồng phạm thường đã liên kết, tập hợp với nhau thành
các băng, nhóm tội phạm với quy mô lớn nhỏ khác nhau. Những băng, nhóm
tội phạm này có phương hướng hoạt động trong một thời gian dài, chặt chẽ.
Giữa những người đồng phạm có sự phân công vai trò giữa người cầm đầu,
chỉ huy và người thực hành trong việc thực hiện tội phạm, mỗi người đều chịu
sự điều khiển chung thống nhất. Hay nói cách khác, trong hình thức đồng
phạm này tồn tại quan hệ giữa "người quản lý" và "người bị quản lý" trong đó
yếu tố chỉ huy - phục tùng được xác lập. Nói đến quan hệ chỉ - huy phục tùng
12
là nói đến mối quan hệ giữa những người cầm đầu và những người khác trong
tổ chức, quan hệ giữa người ra lệnh và người thực thi mệnh lệnh. Hơn nữa,
tính tổ chức chặt chẽ này còn được biểu hiện ở tính ổn định trong sự phân
công vai trò chỉ huy, cầm đầu và vai trò người thực hành. Nếu trong hình thức
đồng phạm thông thường, vai trò chỉ huy, cầm đầu có thể có sự thay đổi khi
thực hiện các tội phạm khác nhau nhưng trong đồng phạm có tổ chức, vai trò
này thường do một hoặc một vài cá nhân đảm nhiệm một cách chuyên nghiệp.
Vì vậy, sự tập trung sức lực, trí tuệ, sự phối hợp, tương trợ giữa những người
đồng phạm có tổ chức không những cho phép họ thực hiện tội phạm một cách
thuận lợi, mà còn có thể thực hiện nhiều tội phạm, gây ra hậu quả nghiêm
trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng và dễ dàng che giấu dấu
vết phạm tội hay lẩn tránh sự điều tra, khám phá của các cơ quan bảo vệ pháp
luật.
Việc nhận định phương hướng hoạt động lâu dài, chặt chẽ để cùng
nhau thực hiện tội phạm của những người phạm tội có tổ chức là những nhận
định ý thức chủ quan chứ không nhất thiết phương hướng đó phải được
hiện thực hóa. Do vậy, khi họ có ý thức câu kết với nhau lâu dài, chặt chẽ
thì nên coi là phạm tội có tổ chức, mặc dù họ có thể chỉ thực hiện một tội
phạm cụ thể nào thì bị phát hiện, bắt và truy cứu TNHS. Do đó, số lần
phạm tội, loại tội phạm không phải là dấu hiệu bắt buộc của hình thức phạm
tội có tổ chức.
Bên cạnh thuộc tính có tổ chức chặt chẽ, để được coi là phạm tội có
tổ chức, về mặt khách quan phạm tội có tổ chức đòi hỏi phải có "tính có kế
hoạch thống nhất". Trong những vụ phạm tội có tổ chức, tội phạm được
thực hiện bao giờ cũng có kế hoạch từ trước. Những người tham gia thực
hiện tội phạm có sự tính toán chu đáo, kỹ càng, đầy đủ và thống nhất từ khi
chuẩn bị thực hiện tội phạm cho đến khi thực hiện xong tội phạm và có thể
có kế hoạch che giấu tội phạm. Điều này cho thấy phạm tội có tổ chức luôn
là hình thức đồng phạm có thông mưu trước.
13
Về mặt chủ quan, phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có
thông mưu trước ở mức độ cao. Sự cố ý cùng liên kết về mặt ý thức của
những người phạm tội có tổ chức khi bàn bạc thỏa thuận kế hoạch và phân
công vai trò đã hình thành nên mối quan hệ và tính thống nhất trong hành
động của họ. Mối quan hệ này rất chặt chẽ và bền vững. Trong ý thức chủ
quan của mỗi người tham gia thực hiện tội phạm, mục đích phạm tội được
hằn sâu. Do vậy, mỗi khi ý thức phạm tội được nêu ra thì mỗi thành viên
đều chấp nhận tuyệt đối, cùng nhau bàn bạc, thỏa thuận phương pháp, cách
thức thực hiện và che giấu tội phạm tối ưu. Trên cơ sở đó, trong quá trình
thực hiện tội phạm, mỗi người tham gia thực hiện tội phạm tìm cách hỗ trợ
những người đồng phạm khác và nỗ lực thực hiện hoạt động của mình
nhằm đạt được kết quả phạm tội đã đề ra.
Điểm đặc biệt thứ hai của hình thức đồng phạm có tổ chức thể hiện ở
cách thức ghi nhận tình tiết này trong BLHS. Phạm tội có tổ chức được coi là
tình tiết tăng nặng. Tình tiết này không những được quy định là tình tiết tăng
nặng TNHS tại Điều 48 BLHS mà còn được quy định là tình tiết định khung
hình phạt của nhiều tội phạm cụ thể trong phần riêng BLHS. Ngoài ra, với
tính đặc trưng bởi sự câu kết chặt chẽ trong quá trình chuẩn bị, thực hiện và
che giấu tội phạm mà tình tiết "phạm tội có tổ chức" còn được nhà làm luật
quy định là tình tiết định tội của tội phạm cụ thể trong phần các tội phạm
BLHS. Ví dụ: Điều 82 BLHS 1999 quy định: "Người nào hoạt động vũ trang
hoặc dùng bạo lực có tổ chức...". Những tội phạm được luật hình sự quy định
với dấu hiệu định tội là tình tiết "phạm tội có tổ chức" thông thường là những
tội phạm được thực hiện dưới hình thức đồng phạm có thông mưu trước. Hơn
nữa, những tội phạm này có dấu hiệu đặc trưng để phân biệt với các tội phạm
khác là sự phân công vai trò giữa người ra lệnh - người thực hiện mệnh lệnh,
phương hướng hoạt động phạm tội thường lâu dài, bền vững và sự thống nhất
ở mức độ cao trong kế hoạch thực hiện tội phạm của những người tham gia
thực hiện tội phạm.
14
Điểm đặc biệt thứ ba của phạm tội có tổ chức là nội dung và cách thức
xác định một vụ phạm tội có sự tham gia của nhiều người là phạm tội có tổ
chức. Như phân tích ở trên, để khẳng định một vụ án có sự tham gia của nhiều
người là phạm tội có tổ chức thì các cơ quan tiến hành tố tụng phải chứng
minh được hai vấn đề: 1. Đây là một vụ đồng phạm; 2. Có sự câu kết chặt chẽ
giữa những người tham gia thực hiện tội phạm.
Tuy nhiên, với sự thể hiện của dấu hiệu có sự câu kết chặt chẽ trên cả
hai phương diện khách quan và chủ quan của hình thức đồng phạm này thì
việc chứng minh hai vấn đề trên thực tế chỉ còn là làm rõ dấu hiệu "câu kết
chặt chẽ". Ngoài ra, để đánh giá tính chất câu kết chặt chẽ giữa những người
đồng phạm không thể căn cứ vào những sự kiện riêng lẻ, những quan hệ diễn
ra trong một thời gian ngắn như trong trường hợp xác định một vụ án đồng
phạm được.
1.1.2. Phân biệt khái niệm "phạm tội có tổ chức" với một số khái
niệm khác có liên quan
"Phạm tội có tổ chức", "tổ chức tội phạm", "tội phạm có tổ chức", tội
phạm có sử dụng cụm từ "tổ chức" là những khái niệm khác nhau, có nội hàm
giáp ranh với nhau nhưng không đồng nhất với nhau. Tuy nhiên, do sự gần
gũi về mặt thuật ngữ và việc không hiểu đúng bản chất các khái niệm sẽ dẫn
đến thực tế sử dụng những khái niệm khác nhau cho cùng một vấn đề cần
diễn tả. Tìm hiểu những khái niệm này trong sự so sánh với khái niệm phạm
tội có tổ chức có ý nghĩa làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu, xác lập ranh giới
xác định trường hợp phạm tội có tổ chức. Sau đây, chúng ta lần lượt tìm hiểu
các khái niệm này:
Tổ chức tội phạm (tổ chức phạm tội)
Trong những năm qua, để đối phó với những nỗ lực tích cực nhằm đấu
tranh chống tội phạm của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng thì bọn
phạm tội với ý thức lẩn tránh pháp luật đã tìm ra những thủ đoạn liên kết mới.
15
Trong đó, hình thức liên kết thành nhóm, mà tổ chức tội phạm là một điển
hình đang được những người phạm tội sử dụng khá phổ biến.
Tuy nhiên, cho đến nay, pháp luật hình sự Việt Nam vẫn chưa có một
định nghĩa pháp quy cho khái niệm tổ chức tội phạm. Thực tế trên tạo ra
nhiều cách hiểu và quan điểm khác nhau về khái niệm này.
Nghiên cứu pháp luật hình sự một số nước trên thế giới cho thấy, pháp
luật của các nước này đã quy định về tổ chức tội phạm trực tiếp trong BLHS.
Chẳng hạn: BLHS Cộng hòa Pháp quy định tổ chức tội phạm và TNHS của
người tham gia tổ chức đó tại Khoản 1 Điều 450; BLHS sửa đổi năm 1997
của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định tại Điều 26; BLHS Liên bang
Nga có hiệu lực ngày 01/03/1996 quy định tại Khoản 4 Điều 36...
Từ thực tiễn pháp luật hình sự Việt Nam và nghiên cứu kinh nghiệm
lập pháp hình sự của các nước trên thế giới, chúng tôi thống nhất với quan
điểm của các nhà nghiên cứu cho rằng cần phải ghi nhận "tổ chức tội phạm" là
một chế định trong BLHS Việt Nam.
Tuy nhiên, để có thể đưa ra một khái niệm "tổ chức tội phạm" có tính
khái quát cao và chính xác về mặt khoa học và phù hợp với những yêu cầu
của thực tiễn đấu tranh phòng và chống tội phạm thì phải đáp ứng được ba
yêu cầu cơ bản: xác định được phạm vi, cơ cấu của tổ chức đó bao gồm cái gì,
chỉ ra được những cơ sở mà dựa vào đó nó được thành lập và nêu lên được
mục đích của nó để làm gì [7, tr. 160-161].
Thuật ngữ "tổ chức" với vai trò là một danh từ có nghĩa là "một tập hợp
những người được tổ chức lại, hoạt động vì quyền lợi chung, nhằm mục đích
chung". Mặt khác, trong khái niệm "tổ chức tội phạm" hay "tổ chức phạm tội"
thì "tội phạm" hay "phạm tội" có chức năng là một danh từ. Vì vậy, dưới góc độ
ngôn ngữ, khái niệm tổ chức tội phạm có thể được hiểu là một nhóm người
được tập hợp lại, nhằm mục đích thực hiện tội phạm vì quyền lợi chung nào đó.
16
Một vấn đề khác được đặt ra trong quá trình nghiên cứu khái niệm tổ
chức tội phạm là phải xác định rõ tính mục đích của tổ chức này. Hiện nay,
xung quanh vấn đề này còn có nhiều quan điểm khác nhau:
- Quan điểm thứ nhất: Tội phạm mà tổ chức tội phạm thực hiện bắt
buộc là tội phạm rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng. Với đặc trưng này,
những tập hợp người được thành lập ra để thực hiện những tội phạm ít nghiêm
trọng, tội phạm nghiêm trọng thì không được thừa nhận là tổ chức tội phạm.
- Quan niệm thứ hai: Mục đích của tổ chức tội phạm là thực hiện tội phạm
mà không cần đề cập đến vấn đề tội phạm đó có là tội nghiêm trọng hay không.
Lập luận cho quan điểm thứ nhất các tác giả cho rằng: thực tế cho
thấy, tổ chức tội phạm được hình thành để phạm những tội nghiêm trọng hay
đặc biệt nghiêm trọng. Giả thuyết cho rằng tổ chức phạm tội có thể thực hiện
tội ít nghiêm trọng chỉ hoàn toàn mang tính lý thuyết chứ không bao giờ xảy
ra trên thực tế [57, tr. 39]. Chúng tôi đồng ý với lập luận trên của các tác giả,
nhưng việc sử dụng dấu hiệu tội phạm mà tổ chức tội phạm hướng tới thực hiện
là một căn cứ để nhận dạng tổ chức tội phạm là không hợp lý. Việc quy định
như vậy sẽ gây khó khăn cho cơ quan tố tụng trong thực tế xác định tổ chức tội
phạm. Các cơ quan này sẽ phải căn cứ vào dấu hiệu mục đích mà tổ chức tội
phạm hướng đến thực hiện để xem xét nó có phải là tổ chức tội phạm hay
không. Chúng tôi nhất trí với quan điểm thứ hai, vì những đặc trưng của tổ
chức tội phạm đã thể tính nguy hiểm cao của loại tổ chức này. Do đó, sự hiện
hữu của tổ chức này đã thể hiện tính nguy hiểm cho xã hội, gây thiệt hại hoặc
đe dọa gây thiệt hại lớn cho xã hội, bất kể tổ chức này thực hiện loại tội phạm
gì.
Tóm lại, với những phân tích ở trên, tổ chức tội phạm có những đặc
trưng sau để phân biệt với hình thức đồng phạm có tổ chức:
Thứ nhất, tổ chức tội phạm phải là một tổ chức được kết cấu chặt chẽ
hoặc rất chặt chẽ, có sự phân hóa vai trò, phân công nhiệm vụ rõ ràng giữa
các thành viên. Vì vậy, để đạt mục đích phạm tội, các thành viên cùng nhau
17
phối hợp, điều chỉnh sự đóng góp cá nhân và hậu quả phạm tội chung. So
sánh với phạm tội có tổ chức, thì phạm tội có tổ chức bao gồm cả trường hợp
phân công vai trò, nhiệm vụ rõ ràng và cả trường hợp không dứt khoát rõ
ràng. Điều này cho chúng ta khẳng định tính thống nhất ở mức độ cao hơn
của tổ chức tội phạm so với phạm tội có tổ chức.
Thứ hai, tổ chức tội phạm có một cơ cấu ổn định về mặt tổ chức, luôn
chịu sự điều hành của một nhóm thủ lĩnh. Chính sự điều hành này đảm bảo
tính liên kết và sự phối hợp thống nhất rất chặt chẽ của các thành viên. Còn
phạm tội có tổ chức thì đặc trưng này thể hiện ở mức độ thấp hơn. Trong
phạm tội có tổ chức có thể có một vài tên giữ vai trò người tổ chức nhưng
cũng có trường hợp vai trò này được thể hiện mờ nhạt, không cụ thể.
Thứ ba, tổ chức tội phạm thường có hạ tầng cơ sở riêng như: trụ sở, chi
nhánh, vốn và cơ sở kinh doanh, hệ thống thông tin, kho vũ khí… đảm bảo cho
tổ chức tội phạm hoạt động mang tính ổn định thường xuyên trên một địa bàn
xác định. Đối với phạm tội có tổ chức, nội dung này biểu hiện ở mức độ thấp.
Vì vậy, tổ chức tội phạm thực chất cũng là một hình thức đồng phạm
có tổ chức nhưng có cơ cấu tổ chức cao hơn, chặt chẽ, bền vững hơn so với
phạm tội có tổ chức thông thường.
Tội phạm có tổ chức
Trong thời gian gần đây, cùng với sự hoạt động phức tạp và diễn ra rất
nghiêm trọng của các băng nhóm phạm tội ở nước ta, thuật ngữ "tội phạm có
tổ chức" được sử dụng ngày càng nhiều trên các phương tiện thông tin đại
chúng, trong nhiều văn bản pháp luật và các công trình nghiên cứu. Tuy nhiên
do các cách tiếp cận khác nhau mà khái niệm này chưa có được sự thống nhất
trong nhận thức. Hiện nay có ba cách tiếp cận cơ bản sau đây:
- Từ góc độ luật hình sự: Tội phạm có tổ chức là khái niệm dùng để
chỉ những tội phạm do tổ chức tội phạm, nhóm phạm tội có tổ chức chuyên
nghiệp thực hiện.
18
- Từ góc độ tội phạm học: Tội phạm có tổ chức là hoạt động tội phạm
nguy hiểm cho xã hội, được thực hiện bởi một nhóm tội phạm có cơ cấu tổ
chức rõ ràng và khá chặt chẽ; có hệ thống mối quan hệ rộng rãi, trong đó có
mối quan hệ với các phần tử biến chất trong các cơ quan Nhà nước, đặc biệt
với các cơ quan bảo vệ pháp luật.
- Từ góc độ của tội phạm học và luật hình sự: Tội phạm có tổ chức là
tội phạm nghiêm trọng do nhiều người tiến hành và coi hoạt động phạm tội là
phương thức tồn tại; câu kết chặt chẽ trong cơ cấu lực lượng lớn; có kỷ luật
nghiêm khắc; hoạt động vừa bí mật, tinh vi, vừa trắng trợn, tàn bạo trên một địa
bàn rộng lớn, đôi khi vượt khỏi biên giới quốc gia; đe dọa nghiêm trọng đối với
chính quyền nhà nước cũng như đời sống chính trị, kinh tế và đạo đức xã hội.
Theo chúng tôi, việc tiếp cận tội phạm có tổ chức dưới góc độ luật
hình sự giúp chỉ ra được tính "tội phạm" của khái niệm này - mối quan hệ
giữa Nhà nước và người phạm tội, song lại không phản ánh được những đặc
trưng của tội phạm có tổ chức. Ngược lại, ở quan điểm thứ hai, các tác giả đã
làm sáng tỏ được bản chất pháp lý của tội phạm có tổ chức, nhưng nếu theo quan
niệm này thì tất cả các tội phạm được thực hiện bằng hình thức phạm tội có tổ
chức đều bị coi là tội phạm có tổ chức. Quan điểm thứ ba hợp lý trong việc xác
định tội phạm có tổ chức không chỉ là một khái niệm của luật hình sự mà còn là
khái niệm của tội phạm học. Nhưng quan điểm này lại chỉ thừa nhận những tội
phạm nào do một tổ chức tội phạm thực hiện mới là tội phạm có tổ chức. Bởi
vì chỉ có tổ chức tội phạm mới có sự câu kết chặt chẽ, bền vững giữa các
thành viên của tổ chức, mới có cơ cấu lực lượng lớn, mới có mục đích thực hiện
tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng.
Tóm lại, trên cơ sở phân tích ở trên, xuất phát từ thực tiễn đấu tranh
với tội phạm có tổ chức, chúng tôi cho rằng tội phạm có tổ chức là khái niệm
được sử dụng trong cả hai lĩnh vực tội phạm học và luật hình sự. Từ góc độ
19
của luật hình sự, để xây dựng khái niệm tội phạm có tổ chức phải xuất phát từ
những cơ sở sau:
- Tội phạm có tổ chức là tội phạm theo quy định của BLHS.
- Khái niệm tội phạm có tổ chức muốn được thừa nhận phải phản ánh
đầy đủ những dấu hiệu bản chất của tội phạm có tổ chức.
- Khái niệm tội phạm có tổ chức không được trái, không được mâu
thuẫn với khái niệm tội phạm được quy định tại điều 8 BLHS 1999.
- Cụm từ "có tổ chức" dùng để chỉ tính chất của tội phạm đó. Điều đó
có nghĩa là những hành vi nguy hiểm cho xã hội do một tổ chức tội phạm,
nhóm phạm tội có tổ chức thực hiện.
Từ những cơ sở trên, có thể đưa ra định nghĩa tội phạm có tổ chức như
sau: Tội phạm có tổ chức là hệ thống những hành vi nguy hiểm cho xã hội, có
lỗi, phải chịu hình phạt do một nhóm tội phạm có cơ cấu tổ chức rõ ràng,
chặt chẽ, cố ý xâm hại những quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ.
Như vậy, tội phạm có tổ chức có thể do tổ chức tội phạm hoặc nhóm
phạm tội có tổ chức chuyên nghiệp thực hiện.
Tội phạm có sử dụng cụm từ tổ chức trong BLHS
Một vấn đề khác nữa cần giải quyết khi nghiên cứu khái niệm phạm
tội có tổ chức là phải phân biệt phạm tội có tổ chức với các tội phạm cụ thể có
sử dụng cụm từ "tổ chức" trong BLHS: tội tổ chức tảo hôn (Điều 148), tội tổ
chức sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 197), tội tổ chức đua xe trái phép
(Điều 206), tội tổ chức đánh bạc (Điều 249), tội cưỡng ép người khác trốn đi
nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép (Điều 275).
Khái niệm phạm tội có tổ chức được phân biệt với các tội phạm có sử
dụng cụm từ "tổ chức" ở những điểm sau:
20
Thứ nhất, phạm tội có tổ chức là một hình thức đồng phạm đặc biệt vì
vậy điều kiện tiên quyết đối với phạm tội có tổ chức là phải có từ hai người
trở lên và có sự câu kết chặt chẽ giữa những người này. Trong khi đó, đối với
các tội phạm sử dụng cụm từ "tổ chức" chỉ cần một người có hành vi thỏa
mãn các dấu hiệu của cấu thành tội phạm (CTTP) của tội này là có thể phạm
tội này. "Tổ chức" ở các tội phạm có sử dụng cụm từ "tổ chức" là dấu hiệu về
hành vi phạm tội. Đó là các hành vi tập hợp người, công cụ, phương tiện, lựa
chọn địa điểm, sắp xếp tiến trình, loại bỏ trở ngại, khó khăn. Do vậy, nếu có
nhiều người cùng cố ý tham gia thực hiện tội phạm có sử dụng cụm từ "tổ
chức" thì cũng không cần có sự cấu kết chặt chẽ giữa họ thì mới cấu thành tội
này. Nhưng khi những người đồng phạm này có sự cấu kết chặt chẽ với nhau
thì những người này là đồng phạm của tội đó dưới hình thức phạm tội có tổ
chức. Việc giải quyết vụ án này tương tự như các vụ án phạm tội có tổ chức
khác.
Thứ hai, cơ sở TNHS của phạm tội có tổ chức là điều luật cụ thể quy
định tội phạm mà những người đồng phạm tham gia thực hiện và điều luật
quy định về chế định đồng phạm. Trong khi đó, việc xác định TNHS đối với
trường hợp phạm tội cụ thể có sử dụng cụm từ "tổ chức" chỉ cần căn cứ vào
điều luật quy định tội phạm đó.
Thứ ba, trong trường hợp phạm tội có tổ chức, những người tham gia
thực hiện tội phạm cùng phạm một tội. Nhưng trong tội phạm có sử dụng cụm
từ "tổ chức", thì người có hành vi tổ chức là người phạm tội này, còn người
được tổ chức thực hiện tội phạm khi có hành vi phạm pháp thì chỉ là vi phạm
hành chính hoặc tội phạm nhưng là những tội khác như: tội đánh bạc, tội đua
xe trái phép, tội sử dụng trái phép chất ma túy,…
Như vậy, cùng với pháp luật Việt Nam, pháp luật các nước trên thế
giới cũng có sự ghi nhận về mặt pháp lý định nghĩa của khái niệm phạm tội có
tổ chức. Trong lịch sử lập pháp Việt Nam, phạm tội có tổ chức là một chế
21
định đã xuất hiện từ rất sớm. Những điều trên phản ánh sự quan tâm ở mức độ
đáng kể của pháp luật đối với hình thức đồng phạm đặc biệt này. Trong số
những hình thức đồng phạm, phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm
nguy hiểm nhất, được phân biệt với các hình thức đồng phạm khác bởi dấu
hiệu "có sự câu kết chặt chẽ". Đặc điểm này vừa thể hiện mức độ liên kết chặt
chẽ về mặt chủ quan, vừa thể hiện mức độ phân hóa vai trò, nhiệm vụ về mặt
khách quan của trường hợp phạm tội có tổ chức.
1.2. QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƢỜNG HỢP PHẠM TỘI CÓ
TỔ CHỨC
1.2.1. Khái niệm quyết định hình phạt
Nghiên cứu lịch sử phát triển pháp luật hình sự của nước ta cho thấy,
trước đây, thuật ngữ "quyết định hình phạt" được biết đến với tên gọi là
"lượng hình". Sau khi BLHS năm 1985 ra đời và có hiệu lực ngày
01/01/1986, tại Điều 17 Khoản 4 thuật ngữ "quyết định hình phạt" được chính
thức ghi nhận, thay thế thuật ngữ "lượng hình". Đến BLHS 1999, thuật ngữ này
vẫn tiếp tục được sử dụng và ghi nhận trong BLHS. Mặc dù, thuật ngữ quyết
định hình phạt đã có thời gian dài được sử dụng nhưng vẫn chưa có một văn
bản pháp luật hình sự nào đưa ra định nghĩa về khái niệm này. Việc nghiên
cứu, xây dựng định nghĩa về thuật ngữ này hầu như chỉ được các nhà khoa
học luật hình sự quan tâm. Tuy nhiên, trong khoa học luật hình sự hiện nay,
cũng có khá nhiều quan điểm về khái niệm quyết định hình phạt, nhưng tựu
chung lại, khái niệm quyết định hình phạt có thể được hiểu theo hai nghĩa:
nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Quyết định hình phạt theo nghĩa hẹp là việc "Tòa án lựa chọn loại
hình phạt cụ thể (bao gồm hình phạt chính và có thể cả hình phạt bổ sung)
với mức độ cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội"
[18]. Hay nói cách khác, quyết định hình phạt theo nghĩa hẹp là quyết định
hình phạt chính và quyết định hình phạt bổ sung.
22
Quyết định hình phạt theo nghĩa rộng bao gồm: quyết định hình phạt
chính, quyết định hình phạt bổ sung, quyết định biện pháp chấp hành hình
phạt, quyết định các biện pháp tư pháp với mục đích thay thế hoặc hỗ trợ cho
hình phạt.
Một số tác giả còn cho rằng, quyết định hình phạt có thể được hiểu
theo nghĩa rộng hơn nữa là quyết định biện pháp xử lý đối với người phạm
tội. Theo đó, quyết định hình phạt được hiểu là hoạt động tiếp theo của giai
đoạn định tội danh của Tòa án. Theo nghĩa này, quyết định hình phạt còn bao
gồm cả việc quyết định miễn TNHS và quyết định miễn hình phạt.
Tác giả cho rằng, khi quyết định hình phạt, luật hình sự nước ta luôn
luôn xuất phát từ nguyên tắc tương xứng giữa hình phạt và mức độ tội phạm.
Hình phạt phải là hậu quả thực tế của tội phạm. Hay nói cách khác, hình phạt
là hậu quả tất yếu mà người phạm tội phải gánh chịu khi thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm. Do vậy, khi quyết định hình phạt,
Tòa án không thể không cân nhắc một cách toàn diện các tình tiết của tội
phạm từ các biểu hiện khách quan, bên ngoài như hành vi, hậu quả, mối quan
hệ nhân quả, công cụ, phương tiện phạm tội, thời gian, địa điểm phạm tội...
đến những đặc điểm chủ quan, cũng như nhân thân người phạm tội. Hình phạt
chỉ được quyết định trên cơ sở sự đánh giá thống nhất giữa các đặc điểm
khách quan và chủ quan của tội phạm. Việc quá coi trọng hay xem nhẹ một
mặt nào đó sẽ làm mất tính đúng đắn, công bằng của hình phạt được quyết
định và tất nhiên mục đích của hình phạt cũng sẽ bị hạn chế. Bởi vậy, khi
quyết định hình phạt, Tòa án phải thực hiện nguyên tắc cá thể hóa hình phạt
đối với người phạm tội. Tức là, trên cơ sở quy định pháp luật, ý thức pháp
luật mà quyết định loại và mức hình phạt tương ứng với tính chất, mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân người phạm tội.
Hình phạt mà Tòa án lựa chọn phải trong phạm vi chế tài của điều luật quy
định TNHS đối với tội phạm đó, đảm bảo sự thống nhất về đường lối đấu
tranh phòng, chống tội phạm, góp phần tăng cường pháp chế XHCN.
23
Đối với hình phạt chính, nếu trong khung hình phạt nhà làm luật quy
định nhiều loại hình phạt khác nhau thì khi quyết định hình phạt, Tòa án lựa
chọn một loại hình phạt và quyết định mức hình phạt trong phạm vi giới hạn
tối thiểu và tối đa của khung hình phạt đối với loại hình phạt đó để áp dụng
đối với người phạm tội. Đối với một số loại hình phạt không quy định thời
hạn như cảnh cáo, trục xuất, tù chung thân hoặc tử hình thì quyết định hình
phạt thực chất chỉ là việc lựa chọn hình phạt mà thôi, không có bước ấn định
mức hình phạt cụ thể áp dụng đối với người phạm tội.
Đối với hình phạt bổ sung, việc quyết định hình phạt được thực hiện
tương tự như hình phạt chính, tức là Tòa án lựa chọn loại và quyết định mức
hình phạt trong phạm vi cho phép của khung hình phạt để áp dụng kèm theo
hình phạt chính nhằm mục đích bổ sung cho hình phạt chính, mở rộng khả
năng pháp lý cho Tòa án có thể lựa chọn hình phạt phù hợp với tính chất mức
độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm và đặc điểm nhân thân người phạm tội.
Tuy nhiên, quyết định hình phạt chính vẫn là nội dung cơ bản của quyết định
hình phạt và quy định bản chất của khái niệm này.
Nghiên cứu khái niệm quyết định hình phạt, chúng tôi cho rằng, miễn
TNHS là một nội dung của giai đoạn quyết định hình phạt nhưng không chỉ
thuộc về giai đoạn quyết định hình phạt. Miễn TNHS là việc hủy bỏ hậu quá
pháp lý hình sự của việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình
sự cấm đối với người bị coi là có lỗi trong việc thực hiện tội phạm. Hay nói
cách khác, miễn TNHS là không buộc người phạm tội phải chịu TNHS về tội
họ đã thực hiện. Phụ thuộc vào giai đoạn tố tụng hình sự, miễn TNHS có thể
do một cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền nhất định áp dụng (cơ quan
Điều tra với sự phê chuẩn của Viện kiểm sát, Viện kiểm sát hoặc Tòa án) khi
có đầy đủ các căn cứ có tính chất bắt buộc hoặc tùy nghi do pháp luật quy
định. Vì vậy, miễn TNHS là một nội dung của hoạt động quyết định hình phạt
nhưng không chỉ thuộc về giai đoạn quyết định hình phạt mà còn có thể thuộc
24
về các giai đoạn định tội danh và có thể được thực hiện bởi các cơ quan tư
pháp hình sự (không chỉ Tòa án) căn cứ vào các giai đoạn tố tụng tương ứng.
Tuy nhiên, nên coi miễn hình phạt hoàn toàn thuộc về giai đoạn quyết
định hình phạt. Điều 54 BLHS quy định: "Người phạm tội có thể được miễn
hình phạt trong trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1
Điều 46 Bộ luật này, đáng được khoan hồng đặc biệt nhưng chưa đến mức
miễn TNHS". Như vậy, miễn hình phạt bản chất là việc hủy bỏ biện pháp
cưỡng chế về hình sự nghiêm khắc nhất cho người bị kết án mà lẽ ra Tòa án
phải tuyên trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật đối với người này. Miễn
hình phạt thể hiện ở việc Tòa án không quyết định hình phạt trong bản án kết
tội có hiệu lực pháp luật đối với người phạm tội. Miễn hình phạt thuộc về giai
đoạn quyết định hình phạt vì miễn hình phạt chỉ được thực hiện sau khi Tòa
án đã tiến hành định tội danh. Khi người phạm tội xứng đáng được khoan
hồng đặc biệt, đồng thời sự khoan hồng đó chưa đến mức được miễn TNHS
và người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 thì
Tòa án quyết định miễn hình phạt cho bị cáo, hay nói cách khác, Tòa án không
lựa chọn loại và mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo.
Một vấn đề nữa mà chúng ta cần làm rõ để hiểu chính xác nội hàm
khái niệm quyết định hình phạt là việc xác định giai đoạn định khung hình
phạt có thuộc về hoạt động quyết định hình phạt không? Chúng tôi cho rằng,
cần coi giai đoạn định khung hình phạt là một trình tự của hoạt động quyết
định hình phạt, thuộc về hoạt động quyết định hình phạt. Bởi vì định khung
hình phạt là việc làm được thực hiện sau khi xác định xong định tội danh và là
hoạt động đầu tiên xác định giới hạn tối thiểu và tối đa của hình phạt theo
khung hình phạt được phép áp dụng, trên cơ sở giới hạn luật định, hình phạt
cụ thể sẽ được quyết định. Mặt khác, việc định tội danh phải được thực hiện
trên cơ sở cấu thành tội phạm cơ bản chứ không phải là các cấu thành tội
phạm tăng nặng hoặc giảm nhẹ. Chỉ trên cơ sở định tội danh xong, cơ quan tố
25
tụng mới phải xác định khung hình phạt (nếu điều luật về tội phạm cụ thể chỉ
có một khung hình phạt thì Tòa án đương nhiên không phải xác định khung
hình phạt). Khi định khung hình phạt, Tòa án dựa vào các tình tiết giảm nhẹ
và tăng nặng định khung. Định khung hình phạt sai sẽ dẫn đến hình phạt
quyết định sai và định khung hình phạt sai sẽ làm thay đổi tội danh mà các bị
cáo đã phạm. Như vậy, định khung hình phạt ảnh hưởng trực tiếp đến việc
quyết định hình phạt. Do đó, chúng tôi đồng ý với quan điểm cho rằng định
khung hình phạt thuộc về hoạt động quyết định hình phạt.
Từ những sự phân tích trên, chúng tôi cho rằng định nghĩa khái niệm
quyết định hình phạt cần được hiểu toàn diện như sau: Quyết định hình phạt
là hoạt động thực tiễn của Tòa án do Hội đồng xét xử thực hiện căn cứ vào
các quy định pháp luật hình sự, trên cơ sở kết quả của hoạt động định tội
danh để xác định biện pháp xử lý tương ứng với tính chất, mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm
nhẹ, tăng nặng TNHS của người phạm tội. Trong quyết định hình phạt, Tòa
án quyết định miễn TNHS, miễn hình phạt hoặc xác định khung hình phạt,
quyết định loại và mức hình phạt hay biện pháp tư pháp thay thế hình phạt cụ
thể được quy định trong luật hình sự để áp dụng đối với người phạm tội thể
hiện trong bản án kết tội đối với họ.
1.2.2. Khái niệm quyết định hình phạt trong trƣờng hợp phạm tội
có tổ chức
Pháp luật hình sự Việt Nam không có quy định riêng về quyết định
hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức ngoài các quy định về quyết
định hình phạt trong trường hợp đồng phạm. Vì vậy, các quy định pháp luật về
quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm cũng chính là những quy
định được áp dụng để quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ
chức.
26
Cùng với sự thay đổi, phát triển của đất nước, cũng như các chế định
khác của luật hình sự Việt Nam, chế định quyết định hình phạt trong trường
hợp phạm tội có tổ chức nói riêng và chế định quyết định hình phạt trong
trường hợp đồng phạm nói chung đã được quy định trong luật hình sự Việt
Nam và dần được quy định hoàn thiện.
Ngay từ thời kỳ phong kiến, đồng phạm trong luật hình sự phong kiến
được coi là tòng phạm. Người đồng phạm được xác định thành người cầm
đầu, người chủ mưu, người chính phạm và người a tòng. Quyết định hình phạt
trong trường hợp đồng phạm đã được đề cập đến. Điều 35 Quốc triều hình
luật quy định: "nhiều người cùng phạm một tội thì lấy người khởi xướng làm
đầu, người a tòng được giảm một bậc" [44, tr. 46] Trong trường hợp này,
chính phạm vừa là thủ phạm thực tế, vừa chịu trách nhiệm nặng hơn cả. Cũng
theo Bộ luật Hồng Đức, người chủ mưu hay thủ phạm về tinh thần thì bị xử lý
ngang hàng với người thủ phạm. Trong một số trường hợp nhất định, người
chủ mưu còn bị xử lý nặng hơn người khác (Điều 103). Như vậy, mặc dù ở
mức độ sơ lược nhưng Quốc triều hình luật đã bước đầu có sự phân hóa về
đường lối xử lý đối với những người đồng phạm. Đây có thể coi là một tiến
bộ rất lớn của Bộ luật Hồng Đức.
Dưới thời Pháp thuộc, chế định quyết định hình phạt được quy định
trong các Bộ Hình luật Canh cải 1912, Bộ Hình luật Trung Việt 1933. Nếu
như trong Bộ Hình luật Canh cải 1912, nhà làm luật quy định TNHS giống
nhau giữa những người đồng phạm mà không có sự phân hóa TNHS thì ở Bộ
hình luật Trung Việt 1933 đã có sự phân hóa TNHS của những người đồng
phạm mặc dù ở mức độ còn đơn giản. Cụ thể như sau:
Điều 59 Hình luật Canh cải quy định: "Các người tòng phạm trọng tội
hay khinh tội đều bị phạt đồng hình với người chính phạm trừ khi luật quy
định khác". Như vậy, TNHS của người tòng phạm cũng giống như chính phạt.
Hình luật Canh cải đã không cá thể hóa hình phạt đối với những người đồng
phạm. Hình phạt áp dụng cho những người đồng phạm có tình chất cào bằng,
27
không tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội của từng người đồng phạm.
Điều 68 Hình luật Trung Việt quy định: Khi nào nhiều người đồng
can một tội đại hình hoặc trừng trị mà xét rõ là đúng tội thời chiểu theo
hướng lệ, quan Tòa án phải xét trong những người ấy hoặc một người hoặc
nhiều người là chính yếu phạm còn những người khác thời cho tùng phạm mà
nghĩ xử tội bằng phân nửa tội người chánh phạm trừ ra khi nào luật có định
riêng ra. Như vậy, Bộ hình luật Trung Việt đã phân hóa TNHS giữa người
chính phạm và người tòng phạm. Theo đó, người chính phạm sẽ bị xử lý
nghiêm khắc hơn người tòng phạm.
Sau cách mạng tháng Tám thành công, thời gian đầu các Tòa án quyết
định hình phạt trong trường hợp đồng phạm theo nguyên tắc "Người tòng phạm
hoặc oa trữ những tang vật của các tội phạm cũng bị xử như chính phạm". Quy
định nguyên tắc này, nhà làm luật mong muốn thực hiện sự trấn áp bằng pháp
luật hình sự đối với những tham gia gián tiếp vào việc thực hiện tội phạm. Tuy
nhiên, nguyên tắc này tiếp tục có điểm hạn chế là không phân hóa TNHS của
những người đồng phạm. Người tòng phạm cũng bị xử lý như người chính phạm
mặc dù tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau.
Trong giai đoạn tiếp theo, các văn bản pháp luật hình sự được ban
hành có sự phát triển hơn, hoàn thiện hơn so với những văn bản pháp luật
trước đó. Các quy định về chế định quyết định hình phạt trong trường hợp
đồng phạm đã có sự tiến bộ rõ rệt, cụ thể như: đã có sự phân biệt giữa các
hình thức đồng phạm khác nhau và tương ứng với các hình thức đồng phạm
thì hình thức xử lý cũng khác nhau; đã có sự phân biệt giữa các vai trò của
những người đồng phạm để từ đó có đường lối xử lý khác nhau; đã có sự phân
biệt giữa hành vi oa trữ có sự hứa hẹn trước là đồng phạm, nếu không có sự
hứa hẹn trước thì cấu thành một tội phạm độc lập để tự đó phân hóa đường lối
xử lý...
28
Sau khi giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, để đáp ứng yêu
cầu mới của thực tiễn, BLHS năm 1985 được ban hành. Bộ luật đã chính thức
ghi nhận chế định quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm. Điểm
tiến bộ của BLHS năm 1985 so với những văn bản pháp luật trước đó là nhà
làm luật đã đưa ra các căn cứ quyết định hình phạt. Khoản 4 Điều 17 quy định
các căn cứ quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm bao gồm: tính
chất của đồng phạm; Tính chất và mức độ tham gia phạm tội của từng người
đồng phạm; những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ hoặc loại trừ TNHS của từng
người đồng phạm. Ngoài ra, BLHS còn quy định về đường lối xử lý đối với
những người đồng phạm tại Điều 3. Đó là "nghiêm trị kẻ chủ mưu, cầm đầu,
chỉ huy... khoan hồng đối với người tự thú, thật thà khai báo, tố giác đồng
phạm, lập công chuộc tội, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường
thiệt hại gây ra".
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã đưa đến những biến đổi
sâu sắc trong đời sống xã hội và nhu cầu về một Bộ luật mới, tiến bộ hơn để
có khả năng giải quyết những vấn đề mới của thực tiễn được đặt ra cấp bách.
Đáp ứng đòi hỏi đó, BLHS năm 1999 ra đời. Điểm mới của BLHS 1999 khi
quy định về chế định quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm là nhà
làm luật đã tách Khoản 4 Điều 17 của BLHS 1985 ra khỏi chế định đồng phạm
và quy định thành một trường hợp đặc biệt của quyết định hình phạt (Điều 53).
Quy định như vậy hợp lý hơn bởi vì về bản chất quyết định hình phạt trong
trường hợp đồng phạm là một trường hợp quyết định hình phạt đặc biệt.
Nghiên cứu lịch sử phát triển của chế định quyết định hình phạt trong
trường hợp đồng phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam, chúng ta có thể
nhận thấy các quy định luật hình sự hoàn thiện dần về kỹ thuật lập pháp và
nội dung các quy định. Tuy nhiên, hiện nay, không có một văn bản pháp luật
nào quy định định nghĩa pháp lý của khái niệm quyết định hình phạt trong
trường hợp đồng phạm nói chung và quyết định hình phạt trong trường hợp
phạm tội có tổ chức nói riêng. Ngay cả các quy định trong BLHS 1999 hiện
29
hành cũng chỉ đưa ra các căn cứ để Tòa án tuân theo khi quyết định hình phạt.
Đây có thể coi là một sự khiếm khuyết về mặt lập pháp và cần được khắc
phục trong quá trình sửa đổi, bổ sung BLHS những lần pháp điển hóa tiếp
theo.
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội có tổ chức thì về
nguyên tắc phải tuân thủ các quy định chung về quyết định hình phạt. Tuy
nhiên, đồng phạm nói chung, phạm tội có tổ chức nói riêng là một quy định
bổ sung cho chế định tội phạm. Nó có những đặc thù riêng nên khi quyết định
hình phạt đối với những người đồng phạm, Tòa án còn cần phải căn cứ vào
những quy định có tính chất bổ sung. Đây cũng chính là tính đặc biệt của
quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm và phạm tội có tổ chức để
phân biệt với quyết định hình phạt các trường hợp riêng lẻ khác. Sự đặc biệt
này cũng đã được nhà làm luật thể hiện trong lần pháp điển hóa BLHS 1985.
Cụ thể là, trong BLHS 1999, chế định quyết định hình phạt trong trường hợp
đồng phạm chỉ có sự thay đổi về kỹ thuật lập pháp so với BLHS 1985. Đó là
các nhà làm luật đã chuyển nội dung của chế định quyết định hình phạt trong
trường hợp đồng phạm từ điều luật quy định về đồng phạm sang Chương
quyết định hình phạt. Quy định như vậy hợp lý hơn đồng thời cũng thể hiện
được tính chất đặc biệt của chế định này.
Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức thực chất
là việc Tòa án căn cứ vào các quy định pháp luật để lựa chọn loại và mức
hình phạt, biện pháp cưỡng chế về hình sự khác áp dụng đối với cá nhân từng
người phạm tội có tổ chức. Hay nói cách khác, quyết định hình phạt trong
trường hợp phạm tội có tổ chức là việc Tòa án căn cứ vào quy định pháp luật
để quyết định TNHS đối với từng người phạm tội. Vậy cơ sở nào để quyết
định hình phạt trong trong trường hợp phạm tội có tổ chức và việc xác định
TNHS cho những người phạm tội có tổ chức phải dựa vào những nguyên tắc
nào?
30
Thứ nhất, TNHS được hiểu là hậu quả pháp lý bất lợi mà người thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định là tội phạm trong BLHS
phải gánh chịu do Tòa án áp dụng căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm
nhẹ và tăng nặng TNHS.
Theo quy định tại Điều 2 BLHS 1999: "chỉ người nào phạm một tội
đã được BLHS quy định mới phải chịu TNHS". Như vậy, cơ sở cần thiết và
đầy đủ để truy cứu TNHS trong đồng phạm nói chung và phạm tội có tổ chức
nói riêng là CTTP. Hay nói cách khác, TNHS chỉ được áp dụng đối với người
phạm tội có tổ chức thực hiện hành vi được mô tả trong CTTP. Tuy nhiên,
trong BLHS, ngoài một số trường hợp hành vi tổ chức, hành vi xúi giục, hành
vi giúp sức được quy định là những tội phạm độc lập còn hành vi của người tổ
chức, người xúi giục, người giúp sức trong phạm tội có tổ chức lại không được
quy định trong những CTTP cụ thể. Hay trong trường hợp đồng phạm giản
đơn, hành vi của người thực hành chỉ thực hiện một phần hành vi mô tả trong
CTTP. Vì vậy, nếu tách riêng thì hành vi của họ không thỏa mãn đầy đủ các
dấu hiệu của CTTP. Như vậy, căn cứ vào đâu để có thể truy cứu TNHS đối với
họ?
Trong trường hợp này, phải có nhận thức đúng đắn về cơ sở pháp lý
của TNHS trong phạm tội có tổ chức. Theo đó, cần hiểu rộng và toàn diện về
CTTP. CTTP của hành vi đồng phạm có tổ chức là sự kết hợp giữa các dấu
hiệu của chế định đồng phạm có tổ chức được quy định tại Điều 20 BLHS
1999 và các dấu hiệu của tội phạm cụ thể được quy định tại điều luật Phần các
tội phạm BLHS. Với quan niệm đó, những hành vi đồng phạm và phạm tội có
tổ chức hoàn toàn thỏa mãn các dấu hiệu tổng hợp của CTTP cụ thể và CTTP
của chế định đồng phạm.
Thứ hai, phạm tội có tổ chức là hình thức phạm tội đặc biệt, việc xác
định TNHS của những người phạm tội có tổ chức vừa phải tuân thủ những
nguyên tắc chung được áp dụng cho tất cả các trường hợp phạm tội, vừa phải
31
tuân thủ những nguyên tắc riêng biệt áp dụng cho trường hợp đồng phạm và
phạm tội có tổ chức. Theo luật hình sự Việt Nam, việc xác định TNHS của
những người phạm tội có tổ chức phải tuân theo các nguyên tắc có tính riêng
biệt sau: nguyên tắc chịu trách nhiệm chung về toàn bộ tội phạm, nguyên tắc
chịu trách nhiệm độc lập về việc cùng thực hiện vụ phạm tội có tổ chức và
nguyên tắc cá thể hóa TNHS của những người phạm tội có tổ chức.
- Nguyên tắc chịu trách nhiệm chung về toàn bộ tội phạm: tội phạm là
một thể thống nhất không tách rời. Trong đồng phạm có tổ chức, tội phạm
được thực hiện do sự nỗ lực hợp tác chung của tất cả những người tham gia.
Hành động của mỗi người tham gia thực hiện tội phạm là hành động liên hiệp.
Hành vi của mỗi người là một bộ phận, một khâu cần thiết trong hoạt động
phạm tội chung thống nhất. Hành vi của người này là tiền đề, điều kiện cho
hành vi của những người phạm tội có tổ chức khác. Hậu quả của tội phạm là
kết quả hoạt động chung của tất cả những người cùng tham gia đưa lại. Vì
vậy, khi quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức phải tuân
thủ nguyên tắc tất cả những người phạm tội có tổ chức phải chịu trách nhiệm
chung về toàn bộ tội phạm mà cả bọn gây ra. Chúng ta không thể chia cắt tội
phạm để buộc mỗi người phạm tội có tổ chức phải chịu trách nhiệm về một
phần của tội phạm. Vì vậy, tất cả những người phạm tội có tổ chức đều bị truy
tố, xét xử về cùng một tội danh mà họ đã cùng tham gia thực hiện, theo cùng
điều luật và trong phạm vi chế tài điều luật ấy quy định. Hơn nữa, những
người đồng phạm có tổ chức phải cùng chịu trách nhiệm về những tình tiết
tăng nặng định khung hình phạt hoặc tình tiết tăng nặng TNHS chung quy
định tại Điều 48 BLHS, nếu họ biết, tức là với những tình tiết này họ cùng
bàn bạc với nhau hoặc mọi người đều nhận thức và biết những tình tiết đó,
hoặc tuy không cùng bàn bạc nhưng họ buộc phải thấy trước và có thể thấy
trước tình tiết đó.
- Nguyên tắc chịu trách nhiệm độc lập về hành vi tham gia thực hiện
tội phạm trong phạm tội có tổ chức: Sau khi BLHS 1985 ra đời, nguyên tắc
32
chịu trách nhiệm độc lập về hành vi tham gia thực hiện tội phạm trong đồng
phạm nói chung và phạm tội có tổ chức nói riêng mặc dù chưa được ghi nhận
đầy đủ trong Bộ luật nhưng đã được khoa học về luật hình sự xây dựng khá
hoàn chỉnh.
Cơ sở lý luận của nguyên tắc này là nguyên tắc trách nhiệm cá nhân. Vì
vậy, trong một vụ phạm tội có tổ chức, mỗi người phạm tội có tổ chức tuy
phải chịu trách nhiệm chung về toàn bộ tội phạm mà họ cùng thực hiện,
nhưng do nguyên tắc trách nhiệm cá nhân này mà khi quyết định hình phạt
cho mỗi người phạm tội có tổ chức phải dựa trên cơ sở hành vi cụ thể của mỗi
người, cụ thể như sau:
+ Những người phạm tội có tổ chức không phải chịu trách nhiệm về
hành vi vượt quá (thái quá) của những người phạm tội có tổ chức khác.
+ Những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS thuộc về riêng người
người phạm tội có tổ chức nào thì chỉ áp dụng đối với chính người phạm tội
có tổ chức đó. Việc miễn TNHS hoặc hình phạt đối với người phạm tội có tổ
chức này không loại trừ TNHS của những người phạm tội có tổ chức khác.
+ Hành vi của người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức dù chưa
đưa đến việc thực hiện tội phạm vẫn phải chịu TNHS.
+ Sự tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội của một trong những
người đồng phạm trong trường hợp phạm tội có tổ chức không loại trừ TNHS
của những người đồng phạm khác.
- Nguyên tắc cá thể hóa TNHS của những người phạm tội có tổ
chức: trong một vụ đồng phạm nói chung và phạm tội có tổ chức nói riêng,
những người tham gia tuy phạm cùng một tội nhưng tính chất và mức độ
tham gia của mỗi người là khác nhau do đó tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội của mỗi người cũng khác nhau. Nguyên tắc cá thể hóa TNHS
của những người phạm tội có tổ chức có cơ sở lý luận là nguyên tắc cá thể
hóa TNHS nói chung. Theo nguyên tắc này, việc xác định TNHS phải phù
33
hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, phù hợp với
những đặc điểm nhân thân người phạm tội. Trong phạm tội có tổ chức,
nguyên tắc này được thể hiện tại Điều 53 BLHS 1999: "Khi quyết định
hình phạt đối với những người đồng phạm, Tòa án phải xét đến tính chất
và mức độ tham gia của từng người đồng phạm".
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra định nghĩa quyết định hình
phạt trong phạm tội có tổ chức như sau:
Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức là trường
hợp đặc biệt, được thực hiện bởi Tòa án (Hội đồng xét xử) sau khi xác định
tội danh chung mà những người phạm tội có tổ chức cùng tham gia thực hiện
trên cơ sở so sánh, đối chiếu, kiểm tra để xác định sự giống nhau giữa các
dấu hiệu trong hành vi của từng người phạm tội có tổ chức với các dấu hiệu
của CTTP cụ thể do điều luật tương ứng tại Phần các tội phạm BLHS và cấu
thành tội phạm của chế định phạm tội có tổ chức. Khi quyết định hình phạt,
Tòa án phải cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm đặc biệt của phạm tội có
tổ chức so với các trường hợp đồng phạm khác, tính chất và mức độ tham gia
phạm tội của từng người phạm tội có tổ chức, nhân thân người phạm tội có tổ
chức để quyết định miễn TNHS, miễn hình phạt hoặc xác định khung hình
phạt, quyết định loại và mức hình phạt hay biện pháp tư pháp thay thế hình
phạt cụ thể được quy định trong luật hình sự áp dụng đối với từng người
phạm tội có tổ chức thể hiện trong bản án kết tội đối với họ.
1.3. CÁC NGUYÊN TẮC VÀ CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT
TRONG TRƢỜNG HỢP PHẠM TỘI CÓ TỔ CHỨC
1.3.1. Các nguyên tắc quyết định hình phạt trong trƣờng hợp
phạm tội có tổ chức
Quyết định hình phạt là một giai đoạn quan trọng của hoạt động xét
xử của Tòa án nói riêng và của cả hoạt động tố tụng nói chung. Việc quyết
định một hình phạt công bằng, hợp lý là cơ sở để đạt được mục đích của hình
34
phạt. Một hình phạt quá nặng hoặc quá nhẹ sẽ làm giảm mục đích phòng ngừa
riêng và phòng ngừa chung, nó làm nảy sinh ở người phạm tội và những
người khác trong xã hội thái độ coi thường pháp luật, thiếu trách nhiệm. Để
quyết định một hình phạt đúng pháp luật, công bằng, hợp lý trong mọi trường
hợp phạm tội nói chung và trong trường hợp phạm tội có tổ chức nói riêng thì
ngoài việc tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định pháp luật về căn cứ quyết định
hình phạt, các quy định pháp luật Phần chung và Phần các tội phạm BLHS,
Tòa án còn phải tuân theo một số nguyên tắc nhất định. Các nguyên tắc quyết
định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn to lớn. Về lý luận, các nguyên tắc quyết định hình phạt này góp phần
làm sáng tỏ bản chất, nội dung, nguồn gốc, ý nghĩa của chế định quyết định
hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức, phân biệt chúng với các căn
cứ quyết định hình phạt, đưa ra những phương pháp tối ưu của việc thể hiện
chúng trong các quy phạm của luật hình sự. Đồng thời, về mặt thực tiễn, các
nguyên tắc quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức là những
tư tưởng chủ đạo, xuyên suốt, kim chỉ nam cho Tòa án khi lựa chọn loại và
mức hình phạt đối với các bị cáo trong từng vụ án phạm tội có tổ chức cụ thể.
Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức với tư
cách là một hoạt động áp dụng pháp luật hình sự, do đó, những hoạt động
quyết định hình phạt này không chỉ tuân thủ các nguyên tắc của luật hình sự
nói chung mà còn phải tuân thủ các nguyên tắc đặc thù cho việc quyết định
hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức. Mối liên hệ giữa các nguyên
tắc của luật hình sự nói chung và các nguyên tắc quyết định hình phạt trong
trường hợp phạm tội có tổ chức là mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng.
Trong đó, các nguyên tắc chung của luật hình sự cũng được thể hiện trong nội
dung của các nguyên tắc quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ
chức. Các nguyên tắc quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ
chức cụ thể hóa và mang những nét đặc thù do đặc điểm của hoạt động quyết
định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức quy định, giữa các nguyên
35
tắc chung của luật hình sự và nguyên tắc quyết định hình phạt trong trường hợp
phạm tội có tổ chức không có sự mâu thuẫn, đối lập nhau mà có sự đan xen, có
mối quan hệ chặt chẽ, cùng định hướng, chỉ đạo cho Tòa án quyết định hình
phạt công bằng, hợp lý, đúng quy định pháp luật đối với người phạm tội.
Đồng thời, giữa các nguyên tắc quyết định hình phạt trong trường hợp
phạm tội có tổ chức và các căn cứ quyết định hình phạt trong trường hợp
phạm tội có tổ chức cũng tồn tại mối quan hệ hữu cơ với nhau. Các căn cứ
quyết định hình phạt là những đòi hỏi cơ bản mang tính nguyên tắc mà Tòa án
buộc phải tuân theo khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội. Trong
luật hình sự Việt Nam, các căn cứ quyết định hình phạt được quy định trực
tiếp tại Điều 45 BLHS và Điều 53 BLHS (đối với trường hợp đồng phạm,
phạm tội có tổ chức). Trong khi đó, các nguyên tắc quyết định hình phạt nói
chung và các nguyên tắc quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có
tổ chức nói riêng không được ghi nhận chính thức trong BLHS mà thông qua
nội dung các quy định của BLHS cũng như các văn bản pháp luật dưới luật có
thể xác định được các nguyên tắc này. Để quyết định một hình phạt công
bằng, đạt được mục đích của hình phạt, Tòa án một mặt phải tuân theo những
tư tưởng chỉ đạo, định hướng (nguyên tắc quyết định hình phạt) và mặt khác
phải dựa trên những đòi hỏi do pháp luật quy định (căn cứ quyết định hình
phạt). Như vậy, giữa các nguyên tắc quyết định hình phạt và các căn cứ quyết
định hình phạt có mối liên hệ mật thiết với nhau. "Các nguyên tắc quyết định
hình phạt tồn tại ở mặt này hay mặt khác của các căn cứ quyết định hình phạt
và những căn cứ quyết định hình phạt là những biểu hiện, đòi hỏi cụ thể của
các nguyên tắc quyết định hình phạt" [70, tr. 238].
Với tư cách là một trường hợp đồng phạm đặc biệt, quyết định hình
phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức phải tuân theo những nguyên tắc
chung về quyết định hình phạt như đối với các trường hợp phạm tội thông
thường. Tuy nhiên, tính chất đặc biệt của hình thức phạm tội này đã quy định
36
việc cân nhắc và đánh giá có tính đặc thù các nguyên tắc quyết định hình phạt
so với các trường hợp đồng phạm thông thường và phạm tội riêng lẻ nói chung.
Từ sự phân tích trên, có thể đưa ra định nghĩa các nguyên tắc quyết
định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức như sau: Các nguyên tắc
quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức là những tư tưởng
chủ đạo, cơ bản trong quá trình xây dựng và áp dụng các quy phạm pháp luật
hình sự để Tòa án căn cứ vào đó quyết định hình phạt một cách công bằng,
hợp lý, đúng pháp luật, đảm bảo mục đích của hình phạt đối với những người
phạm tội có tổ chức.
Một vấn đề nữa cần làm sáng tỏ khi nghiên cứu nguyên tắc quyết định
hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức là các nguyên tắc quyết định
hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức gồm những nguyên tắc nào?
Hiện nay, trong khoa học luật hình sự còn có nhiều quan điểm khác nhau
trong việc xác định các nguyên tắc quyết định hình phạt. Trên cơ sở phân tích
bản chất và các đặc điểm của quyết định hình phạt và nguyên tắc quyết định
hình phạt, chúng tôi hoàn toàn đồng tình với quan điểm điểm của Giáo sư,
Tiến sĩ Võ Khánh Vinh về các tiêu chuẩn xác định các nguyên tắc quyết định
hình phạt. Theo đó, những tiêu chuẩn xác định đó là:
1) Phải là những tư tưởng chủ đạo, cơ bản; 2) Phải được thể
hiện trực tiếp hoặc gián tiếp trong luật hình sự; 3) Phải là những tư
tưởng định hướng hoạt động của Tòa án trong lĩnh vực quyết định
hình phạt; 4) Những tư tưởng đó phải phù hợp với chính sách hình
sự trong từng giai đoạn phát triển của Nhà nước [70, tr. 228].
Căn cứ vào những tiêu chuẩn trên, chúng tôi cho rằng việc quyết định
hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức phải dựa trên bốn nguyên tắc:
Nguyên tắc pháp chế XHCN trong quyết định hình phạt, nguyên tắc nhân đạo
XHCN trong quyết định hình phạt, nguyên tắc cá thể hóa hình phạt trong
quyết định hình phạt, nguyên tắc công bằng trong quyết định hình phạt.
37
Với tư cách là những tư tưởng chủ đạo, định hướng cho việc quyết
định hình phạt, các nguyên tắc quyết định hình phạt tạo thành một hệ thống.
Tính hệ thống được biểu biện ở việc mỗi nguyên tắc đều có nội dung, ý nghĩa,
vị trí và vai trò riêng nhưng trong tổng thể các nguyên tắc có mối quan hệ
mật thiết với nhau, xâm nhập vào nhau, bổ sung cho nhau nhưng cũng không
đồng nhất với nhau. Vì vậy, để việc áp dụng các nguyên tắc một cách chính
xác, đạt hiệu quả, cần tránh đồng nhất các nguyên tắc hoặc áp dụng chúng
một cách độc lập.
* Nguyên tắc pháp chế XHCN
Trong các nguyên tắc quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội
có tổ chức, nguyên tắc pháp chế XHCN là nguyên tắc có ý nghĩa quan trọng
hàng đầu. Nội dung của pháp chế XHCN là sự tuân thủ và tôn trọng triệt để
pháp luật của các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước, các tổ chức xã hội
và công dân trong hoạt động, có nghĩa là khi quyết định hình phạt trong
trường hợp phạm tội có tổ chức, Tòa án phải căn cứ vào các quy định của luật
hình sự, các quy định liên quan đến hình phạt và quyết định hình phạt trong
trường hợp phạm tội có tổ chức.
Nội dung của nguyên tắc này được thể hiện trước hết ở việc Tòa án
chỉ có thể quyết định một hình phạt đối với người thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội, có lỗi, đủ năng lực TNHS thực hiện hành vi bị BLHS cấm.
BLHS Việt Nam 1999 Điều 2 quy định "Chỉ người nào phạm một tội đã được
BLHS quyết định mới phải chịu trách nhiệm hình sự", đồng thời, Điều 8
BLHS quyết định "Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định
trong Bộ luật hình sự..." Điều đó khẳng định cơ sở của việc áp dụng hình phạt
là việc thực hiện tội phạm của người có lỗi. Ngoài ra, đối với việc quyết định
hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức, nguyên tắc pháp chế còn yêu
cầu chủ thể quyết định hình phạt phải chứng minh được sự câu kết chặt chẽ
giữa những người cùng cố ý tham gia thực hiện tội phạm. Hay nói cách khác,
khi quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức, Tòa án chỉ
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức
Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức

More Related Content

What's hot

Định tội đối với tội phạm có đồng phạm trong một số vụ án giết người
Định tội đối với tội phạm có đồng phạm trong một số vụ án giết ngườiĐịnh tội đối với tội phạm có đồng phạm trong một số vụ án giết người
Định tội đối với tội phạm có đồng phạm trong một số vụ án giết ngườiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

What's hot (18)

Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tộiLuận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
 
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Hình phạt tiền theo pháp luật hình sự tại Tp Đà Nẵng
Luận văn: Hình phạt tiền theo pháp luật hình sự tại Tp Đà NẵngLuận văn: Hình phạt tiền theo pháp luật hình sự tại Tp Đà Nẵng
Luận văn: Hình phạt tiền theo pháp luật hình sự tại Tp Đà Nẵng
 
Luận văn: Định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội theo luật
Luận văn: Định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội theo luậtLuận văn: Định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội theo luật
Luận văn: Định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội theo luật
 
Luận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Hình phạt bổ sung theo pháp luật hình sự Việt Nam, 9đ
Luận văn: Hình phạt bổ sung theo pháp luật hình sự Việt Nam, 9đLuận văn: Hình phạt bổ sung theo pháp luật hình sự Việt Nam, 9đ
Luận văn: Hình phạt bổ sung theo pháp luật hình sự Việt Nam, 9đ
 
Luận văn: Chứng minh trong giai đoạn điều tra tội giết người, 9đ
Luận văn: Chứng minh trong giai đoạn điều tra tội giết người, 9đLuận văn: Chứng minh trong giai đoạn điều tra tội giết người, 9đ
Luận văn: Chứng minh trong giai đoạn điều tra tội giết người, 9đ
 
Luận văn: Hình phạt cảnh cáo theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt cảnh cáo theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Hình phạt cảnh cáo theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt cảnh cáo theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Áp dụng hình phạt chính theo pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Áp dụng hình phạt chính theo pháp luật hình sự, HAYLuận văn: Áp dụng hình phạt chính theo pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Áp dụng hình phạt chính theo pháp luật hình sự, HAY
 
Hình phạt tù có thời hạn và tái hòa nhập đối với người mãn hạn tù
Hình phạt tù có thời hạn và tái hòa nhập đối với người mãn hạn tùHình phạt tù có thời hạn và tái hòa nhập đối với người mãn hạn tù
Hình phạt tù có thời hạn và tái hòa nhập đối với người mãn hạn tù
 
Đề tài: Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự
Đề tài: Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sựĐề tài: Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự
Đề tài: Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự
 
Luận văn: Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam, HAYLuận văn: Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tỉnh Lâm Đồng, HAY, 9đ
Luận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tỉnh Lâm Đồng, HAY, 9đLuận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tỉnh Lâm Đồng, HAY, 9đ
Luận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tỉnh Lâm Đồng, HAY, 9đ
 
Định tội đối với tội phạm có đồng phạm trong một số vụ án giết người
Định tội đối với tội phạm có đồng phạm trong một số vụ án giết ngườiĐịnh tội đối với tội phạm có đồng phạm trong một số vụ án giết người
Định tội đối với tội phạm có đồng phạm trong một số vụ án giết người
 
Luận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự tại Hà Nội
Luận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự tại Hà NộiLuận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự tại Hà Nội
Luận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự tại Hà Nội
 
Luận văn: Thi hành án phạt tù từ thực tiễn TPHCM, HAY, 9đ
Luận văn: Thi hành án phạt tù từ thực tiễn TPHCM, HAY, 9đLuận văn: Thi hành án phạt tù từ thực tiễn TPHCM, HAY, 9đ
Luận văn: Thi hành án phạt tù từ thực tiễn TPHCM, HAY, 9đ
 
Luận văn: Áp dụng hình phạt bổ sung theo pháp luật hình sự, HOT
Luận văn: Áp dụng hình phạt bổ sung theo pháp luật hình sự, HOTLuận văn: Áp dụng hình phạt bổ sung theo pháp luật hình sự, HOT
Luận văn: Áp dụng hình phạt bổ sung theo pháp luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sự
Luận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sựLuận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sự
Luận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sự
 

Similar to Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức

Áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật hình ...
Áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật hình ...Áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật hình ...
Áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật hình ...anh hieu
 
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI THEO PHÁP LUẬT HÌNH ...
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI THEO PHÁP LUẬT HÌNH ...ÁP DỤNG HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI THEO PHÁP LUẬT HÌNH ...
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI THEO PHÁP LUẬT HÌNH ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Luận án: Áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp l...
Luận án: Áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp l...Luận án: Áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp l...
Luận án: Áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp l...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 

Similar to Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức (20)

Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAYLuận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
 
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOTNgười có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Định hình phạt và tổng hợp hình phạt theo pháp luật hình sự
Luận văn: Định hình phạt và tổng hợp hình phạt theo pháp luật hình sựLuận văn: Định hình phạt và tổng hợp hình phạt theo pháp luật hình sự
Luận văn: Định hình phạt và tổng hợp hình phạt theo pháp luật hình sự
 
Áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật hình ...
Áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật hình ...Áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật hình ...
Áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật hình ...
 
Đề tài: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội, HOT
Đề tài: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội, HOTĐề tài: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội, HOT
Đề tài: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội, HOT
 
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI THEO PHÁP LUẬT HÌNH ...
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI THEO PHÁP LUẬT HÌNH ...ÁP DỤNG HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI THEO PHÁP LUẬT HÌNH ...
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI THEO PHÁP LUẬT HÌNH ...
 
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, 9đ
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, 9đLuận văn: Biện pháp tạm giam trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, 9đ
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, 9đ
 
Luận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật huyện Xuân Lộc, 9đ
Luận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật huyện Xuân Lộc, 9đLuận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật huyện Xuân Lộc, 9đ
Luận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật huyện Xuân Lộc, 9đ
 
Luận án: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HAY
Luận án: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HAYLuận án: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HAY
Luận án: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HAY
 
Luận án: Áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp l...
Luận án: Áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp l...Luận án: Áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp l...
Luận án: Áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp l...
 
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự, HAYLuận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam
 
Luận án: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HAYLuận án: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tái phạm nguy hiểm theo luật hình sự tỉnh Bắc Ninh, 9đ
Luận văn: Tái phạm nguy hiểm theo luật hình sự tỉnh Bắc Ninh, 9đLuận văn: Tái phạm nguy hiểm theo luật hình sự tỉnh Bắc Ninh, 9đ
Luận văn: Tái phạm nguy hiểm theo luật hình sự tỉnh Bắc Ninh, 9đ
 
Luận văn: Xét xử tội xâm phạm sở hữu từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Xét xử tội xâm phạm sở hữu từ thực tiễn tỉnh Đồng NaiLuận văn: Xét xử tội xâm phạm sở hữu từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Xét xử tội xâm phạm sở hữu từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
 
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAYLuận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Các tình tiết tăng nặng theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Các tình tiết tăng nặng theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Các tình tiết tăng nặng theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Các tình tiết tăng nặng theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOTLuận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...
Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...
Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty TNHH Sơn Alex Việt Nam
Giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty TNHH Sơn Alex Việt NamGiải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty TNHH Sơn Alex Việt Nam
Giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty TNHH Sơn Alex Việt Namlamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
VẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptx
VẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptxVẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptx
VẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptxGingvin36HC
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa họcLogic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa họcK61PHMTHQUNHCHI
 
4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptx
4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptx4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptx
4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptxsongtoan982017
 
Thực trạng ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực giống cây trồng: Nghiên cứu điển...
Thực trạng ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực giống cây trồng: Nghiên cứu điển...Thực trạng ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực giống cây trồng: Nghiên cứu điển...
Thực trạng ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực giống cây trồng: Nghiên cứu điển...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
PHONG TRÀO “XUNG KÍCH, TÌNH NGUYỆN VÌ CUỘC SỐNG CỘNG ĐỒNG” CỦA ĐOÀN TNCS HỒ...
PHONG TRÀO “XUNG KÍCH, TÌNH NGUYỆN VÌ CUỘC SỐNG   CỘNG ĐỒNG” CỦA ĐOÀN TNCS HỒ...PHONG TRÀO “XUNG KÍCH, TÌNH NGUYỆN VÌ CUỘC SỐNG   CỘNG ĐỒNG” CỦA ĐOÀN TNCS HỒ...
PHONG TRÀO “XUNG KÍCH, TÌNH NGUYỆN VÌ CUỘC SỐNG CỘNG ĐỒNG” CỦA ĐOÀN TNCS HỒ...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1mskellyworkmail
 
35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...
35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...
35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Tiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdf
Tiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdfTiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdf
Tiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdfchimloncamsungdinhti
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 

Recently uploaded (20)

Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...
Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...
Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
 
Giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty TNHH Sơn Alex Việt Nam
Giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty TNHH Sơn Alex Việt NamGiải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty TNHH Sơn Alex Việt Nam
Giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty TNHH Sơn Alex Việt Nam
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...
 
VẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptx
VẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptxVẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptx
VẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptx
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...
 
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa họcLogic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
 
4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptx
4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptx4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptx
4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptx
 
Thực trạng ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực giống cây trồng: Nghiên cứu điển...
Thực trạng ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực giống cây trồng: Nghiên cứu điển...Thực trạng ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực giống cây trồng: Nghiên cứu điển...
Thực trạng ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực giống cây trồng: Nghiên cứu điển...
 
PHONG TRÀO “XUNG KÍCH, TÌNH NGUYỆN VÌ CUỘC SỐNG CỘNG ĐỒNG” CỦA ĐOÀN TNCS HỒ...
PHONG TRÀO “XUNG KÍCH, TÌNH NGUYỆN VÌ CUỘC SỐNG   CỘNG ĐỒNG” CỦA ĐOÀN TNCS HỒ...PHONG TRÀO “XUNG KÍCH, TÌNH NGUYỆN VÌ CUỘC SỐNG   CỘNG ĐỒNG” CỦA ĐOÀN TNCS HỒ...
PHONG TRÀO “XUNG KÍCH, TÌNH NGUYỆN VÌ CUỘC SỐNG CỘNG ĐỒNG” CỦA ĐOÀN TNCS HỒ...
 
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
 
35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...
35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...
35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...
 
Tiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdf
Tiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdfTiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdf
Tiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
 
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
 
Luận Văn: HOÀNG TỬ BÉ TỪ GÓC NHÌN CẢI BIÊN HỌC
Luận Văn: HOÀNG TỬ BÉ TỪ GÓC NHÌN CẢI BIÊN HỌCLuận Văn: HOÀNG TỬ BÉ TỪ GÓC NHÌN CẢI BIÊN HỌC
Luận Văn: HOÀNG TỬ BÉ TỪ GÓC NHÌN CẢI BIÊN HỌC
 

Luận văn: Pháp luật về quyết định hình phạt phạm tội có tổ chức

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHÍ THÀNH CHUNG MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CÓ TỔ CHỨC THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2010
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHÍ THÀNH CHUNG MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CÓ TỔ CHỨC THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật hình sự Mã số : 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Võ Khánh Vinh HÀ NỘI - 2010
  • 3. môc lôc Trang Trang phô b×a Lêi cam ®oan Môc lôc Danh môc c¸c tõ viÕt t¾t Danh môc c¸c biÓu ®å më ®Çu 1 Ch-¬ng 1: Mét sè vÊn ®Ò lý luËn vÒ quyÕt ®Þnh h×nh ph¹t trong tr-êng hîp ph¹m téi cã tæ chøc 6 1.1. Ph¹m téi cã tæ chøc 6 1.1.1. Kh¸i niÖm ph¹m téi cã tæ chøc 6 1.1.2. Ph©n biÖt kh¸i niÖm "ph¹m téi cã tæ chøc" víi mét sè kh¸i niÖm kh¸c cã liªn quan 14 1.2. QuyÕt ®Þnh h×nh ph¹t trong tr-êng hîp ph¹m téi cã tæ chøc 20 1.2.1. Kh¸i niÖm quyÕt ®Þnh h×nh ph¹t 20 1.2.2. Kh¸i niÖm quyÕt ®Þnh h×nh ph¹t trong tr-êng hîp ph¹m téi cã tæ chøc 25 1.3. C¸c nguyªn t¾c vµ C¨n cø quyÕt ®Þnh h×nh ph¹t trong tr-êng hîp ph¹m téi cã tæ chøc 32 1.3.1. C¸c nguyªn t¾c quyÕt ®Þnh h×nh ph¹t trong tr-êng hîp ph¹m téi cã tæ chøc 32 1.3.2. C¨n cø quyÕt ®Þnh h×nh ph¹t trong tr-êng hîp ph¹m téi cã tæ chøc 48 1.3.2.1. C¸c quy ®Þnh cña Bé luËt h×nh sù 51 1.3.2.2. TÝnh chÊt, møc ®é nguy hiÓm cho x· héi cña hµnh vi ph¹m téi 55
  • 4. 1.3.2.3. Nh©n th©n ng-êi ph¹m téi cã tæ chøc 60 1.3.2.4. C¸c t×nh tiÕt gi¶m nhÑ, t¨ng nÆng tr¸ch nhiÖm h×nh sù 65 1.3.2.5. TÝnh chÊt ph¹m téi cã tæ chøc 69 1.3.2.6. TÝnh chÊt, møc ®é tham gia ph¹m téi cña tõng ng-êi ph¹m téi cã tæ chøc 73 1.4. Quy ®Þnh vÒ quyÕt ®Þnh h×nh ph¹t trong tr-êng hîp ph¹m téi cã tæ chøc theo luËt h×nh sù mét sè n-íc trªn thÕ giíi 74 1.4.1. LuËt h×nh sù Céng hßa Liªn bang §øc 74 1.4.2. LuËt h×nh sù n-íc Céng hßa nh©n d©n Trung Hoa 78 1.4.3. LuËt h×nh sù Liªn bang Nga 80 Ch-¬ng 2: Thùc tiÔn quyÕt ®Þnh h×nh ph¹t trong tr-êng hîp ph¹m téi cã tæ chøc 85 2.1. Thùc tr¹ng quyÕt ®Þnh h×nh ph¹t trong tr-êng hîp ph¹m téi cã tæ chøc 85 2.1.1. Thùc tr¹ng ph¹m téi cã tæ chøc trªn ®Þa bµn thµnh phè Hµ Néi 85 2.1.2. Thùc tr¹ng quyÕt ®Þnh h×nh ph¹m trong tr-êng hîp ph¹m téi cã tæ chøc 92 2.1.2.1. QuyÕt ®Þnh h×nh ph¹t trong tr-êng hîp ph¹m téi cã tæ chøc - nh÷ng kÕt qu¶ quan träng 92 2.1.2.1. Mét sè h¹n chÕ trong viÖc quyÕt ®Þnh h×nh ph¹t trong tr-êng hîp ph¹m téi cã tæ chøc 95 2.2. Nh÷ng nguyªn nh©n cña c¸c h¹n chÕ cña quyÕt ®Þnh h×nh ph¹t trong tr-êng hîp ph¹m téi cã tæ chøc 106 2.2.1. H¹n chÕ vÒ tr×nh ®é, n¨ng lùc, tr¸ch nhiÖm cña ThÈm ph¸n, Héi thÈm nh©n d©n ngµnh Tßa ¸n 106 2.2.2. H¹n chÕ trong c¸c quy ®Þnh ph¸p luËt hiÖn hµnh liªn quan ®Õn quyÕt ®Þnh h×nh ph¹t trong tr-êng hîp ph¹m téi cã tæ chøc 109
  • 5. Ch-¬ng 3: C¸c gi¶i ph¸p nh»m n©ng cao hiÖu qu¶ quyÕt ®Þnh H×nh ph¹t trong tr-êng hîp ph¹m téi cã tæ chøc 116 3.1. Hoµn thiÖn c¸c quy ®Þnh ph¸p luËt cã liªn quan ®Õn ph¹m téi cã tæ chøc vµ quyÕt ®Þnh h×nh ph¹t trong tr-êng hîp ph¹m téi cã tæ chøc 116 3.1.1. Hoµn thiÖn c¸c quy ®Þnh ph¸p luËt cã liªn quan ®Õn ph¹m téi cã tæ chøc 116 3.1.2. Hoµn thiÖn c¸c quy ®Þnh ph¸p luËt cã liªn quan ®Õn quyÕt ®Þnh h×nh ph¹t trong tr-êng hîp ph¹m téi cã tæ chøc 119 3.2. N©ng cao chÊt l-îng ThÈm ph¸n, Héi thÈm nh©n d©n ngµnh Tßa ¸n nh©n d©n 120 3.2.1. N©ng cao chÊt l-îng ®éi ngò ThÈm ph¸n ngµnh Tßa ¸n nh©n d©n 120 3.2.2. N©ng cao chÊt l-îng ®éi ngò Héi thÈm nh©n d©n 132 KÕt luËn 136 danh môc tµi liÖu tham kh¶o 141
  • 6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS : Bé luËt h×nh sù CTTP : CÊu thµnh téi ph¹m TNHS : Tr¸ch nhiÖm h×nh sù XHCN : X· héi chñ nghÜa
  • 7. Danh môc c¸c biÓu ®å Sè hiÖu biÓu ®å Tªn biÓu ®å Trang 2.1 æ nhãm ®· triÖt xãa trªn ®Þa bµn thµnh phè Hµ Néi tõ n¨m 2004 - 2008 87 2.2 Sè vô ¸n ph¹m téi cã tæ chøc vµ sè bÞ c¸o xÐt xö s¬ thÈm t¹i Tßa ¸n nh©n d©n thµnh phè Hµ Néi giai ®o¹n 2005-2010 93 2.3 C¬ cÊu téi ph¹m ®-îc thùc hiÖn b»ng h×nh thøc ph¹m téi cã tæ chøc xÐt xö s¬ thÈm t¹i Tßa ¸n nh©n d©n thµnh phè Hµ Néi giai ®o¹n 2005-2009 93
  • 8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có tính nguy hiểm cao nhất. Phạm tội có tổ chức được phân biệt với các hình thức đồng phạm khác bởi dấu hiệu có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cố ý cùng tham gia thực hiện một tội phạm. Sự liên kết chặt chẽ đó tạo ra những điều kiện vật chất và tinh thần cho những người phạm tội có tổ chức hành động phạm tội một cách tinh vi, táo bạo và liều lĩnh hơn. Đồng thời, sự bàn bạc thỏa thuận trước với nhau về kế hoạch thực hiện tội phạm, che giấu tội phạm làm cho chúng khó bị phát giác, gây nhiều khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng. Trong phạm tội có tổ chức, tội phạm được thực hiện do sự hợp tác, nỗ lực của tất cả những người tham gia. Hành vi của mỗi người là một khâu, một bộ phận cần thiết trong hoạt động chung đó. Do vậy, những người phạm tội có tổ chức phải chịu trách nhiệm chung về toàn bộ tội phạm. Tuy nhiên, khi giải quyết trách nhiệm hình sự của những người phạm tội có tổ chức đòi hỏi phải có sự phân hóa trách nhiệm hình sự vì mỗi người phạm tội có tổ chức không chỉ có sự tham gia vào vụ đồng phạm với tính chất và mức độ khác nhau mà còn có những đặc điểm riêng về nhân thân. Quyết định hình phạt trong phạm tội có tổ chức là một trường hợp quyết định hình phạt đặc biệt. Tính chất đặc biệt của trường hợp này là ở chỗ Tòa án không chỉ định ra biện pháp xử lý tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi của một bị cáo đã thực hiện mà cho nhiều bị cáo trong một vụ án về một hoặc nhiều tội phạm mà họ đã cùng câu kết chặt chẽ để thực hiện. Do vậy, khi quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức, Tòa án không chỉ tuân thủ các quy định về các căn cứ quyết định hình phạt áp dụng cho tất cả các trường hợp phạm tội nói chung mà còn phải tuân thủ các quy định đặc thù áp dụng riêng cho trường hợp đồng phạm có tổ chức.
  • 9. 2 Phạm tội có tổ chức là một hình thức đồng phạm. Vì vậy, các quy định về quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm cũng chính là các quy định về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức. Ở nước ta, ngay từ khi chưa có Bộ luật hình sự (BLHS), trong một số văn bản pháp luật cũng đã đề cập đến vấn đề quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm và phạm tội có tổ chức. Cho đến nay, trong cả hai BLHS, quyết định hình phạt trong phạm tội có tổ chức được chính thức quy định tại Khoản 4 điều 17 BLHS 1985 và được kế thừa tại Điều 53 BLHS 1999. Tuy nhiên, các quy định này của BLHS chỉ quy định quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm mà chưa chỉ ra các căn cứ đặc thù được áp dụng để quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức. Mặt khác, về mặt lý luận cũng như thực tiễn áp dụng quy định này còn tồn tại những quan điểm khác nhau về các căn cứ quyết định hình phạt riêng áp dụng trong trường hợp đồng phạm nói chung và phạm tội có tổ chức nói riêng. Trong thực tiễn xét xử, một số cơ quan điều tra, truy tố, xét xử có sự nhầm lẫn phạm tội có tổ chức với các hình thức đồng phạm khác, không có sự thống nhất trong các tiêu chí nhận dạng hình thức đồng phạm đặc biệt này. Điều này cũng đã dẫn đến việc quyết định hình phạt không chính xác đối với người phạm tội. Hơn nữa, khi các cơ quan tố tụng đã xác định đúng về trường hợp phạm tội có tổ chức thì lại có sự tranh chấp trong việc đánh giá tính chất của đồng phạm có tổ chức, tính chất, mức độ tham gia của từng người vào việc phạm tội. Về mặt lý luận, các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về phạm tội có tổ chức còn quá chung chung, các dấu hiệu chủ yếu mang tính định tính. Trong khi đó, các văn bản hướng dẫn thực thi pháp luật còn ít, tính cập nhật không cao. Vì vậy, việc nghiên cứu một cách hệ thống về mặt lý luận chế định quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức, trên cơ sở đó giải quyết những vướng mắc mà thực tiễn đặt ra, đề xuất những phương án hoàn thiện pháp luật về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức, đảm bảo sự nhận thức thống nhất trong thực thi pháp luật là vấn đề mang tính cấp bách, có ý
  • 10. 3 nghĩa quan trọng trong việc xây dựng và áp dụng pháp luật về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức trong giai đoạn hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Ở nước ta, dưới góc độ pháp lý hình sự, một số nhà hình sự học đã nghiên cứu về chế định quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức. Đó là những công trình của các tác giả như: Giáo sư, Tiến sĩ Võ Khánh Vinh, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Thị Sơn, Tiến sĩ Trần Quang Tiệp, Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Lê Cảm, Tiến sĩ Dương Tuyết Miên... Tuy nhiên, các công trình này chủ yếu đề cập đến vấn đề quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm và ở một chừng mực nhất định có nghiên cứu về vấn đề quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức như là một trường hợp đặc biệt. Hiện nay, chưa có một công trình độc lập nghiên cứu về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức với tư cách là một chế định độc lập với những đặc điểm về quyết định hình phạt riêng. Vì vậy, quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức vẫn đang là một vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện. 3. Mục đích nghiên cứu Mục đích cơ bản của đề tài là làm sáng tỏ về mặt lý luận một cách có hệ thống và toàn diện về chế định quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức; phân tích một cách khoa học các căn cứ riêng áp dụng để quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm nói chung và phạm tội có tổ chức nói riêng; đưa ra những dấu hiệu đặc thù để quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức; phân tích, đánh giá thực tiễn quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức... để từ đó đóng góp về mặt khoa học giải quyết những vấn đề vướng mắc trong thực tiễn xây dựng và áp dụng pháp luật về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức, nâng cao hiệu quả điều chỉnh của chế định này.
  • 11. 4 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của Luận văn gồm các vấn đề lý luận và thực tiễn pháp lý về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức theo Luật hình sự Việt Nam. - Phạm vi nghiên cứu là các vấn đề pháp lý có liên quan tới quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức trong luật hình sự Việt Nam trong Bộ luật hình sự năm 1999 dưới góc độ luật hình sự, cả lý luận và thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Hà Nội, giai đoạn từ năm 2005 đến năm 2010. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Cơ sở lý luận của đề tài này là các thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý như: lịch sử pháp luật, lý luận về pháp luật, xã hội học pháp luật, luật hình sự, tội phạm học, luật tố tụng hình sự và triết học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài đăng trên tạp chí của các nhà khoa học - luật gia Việt Nam và nước ngoài. Ngoài ra để góp phần phân tích khoa học nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và vai trò của hành vi nguy hiểm cho xã hội trong thực tiễn xác định tội phạm và định tội danh nêu trên tác giả còn sử dụng các văn bản pháp luật của Nhà nước, cũng như những giải thích thống nhất có tính chất chỉ đạo của thực tiễn xét xử trong các văn bản thuộc lĩnh vực pháp luật hình sự do TANDTC và các cơ quan bảo vệ pháp luật ở trung ương ban hành mà ở các mức độ khác nhau các văn bản này đều có liên quan đến đề tài cần nghiên cứu. 5.2. Phương pháp nghiên cứu của đề tài Phương pháp luận: Chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện chứng, phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin để từ đó soạn thảo, xây dựng, đề cập đến những vấn đề tương ứng dưới các luận điểm tư tưởng về xây dựng nhà nước pháp quyền, cải cách tư pháp, củng cố pháp chế,
  • 12. 5 tính tối thượng của pháp luật và bảo vệ một cách hữu hiệu các quyền tự do của công dân bằng hệ thống tư pháp hình sự ở Việt Nam với tính chất là các giá trị xã hội cao quí nhất được thừa nhận chung vốn có của loài người và của nền văn minh nhân loại. Bên cạnh đó trong quá trình nghiên cứu tác giả còn sử dụng đồng bộ các phương pháp tiếp cận để làm sáng tỏ về mặt khoa học từng vấn đề tương ứng, đó là các phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp phân tích, phương pháp logic, phương pháp thống kê hình sự, phương pháp tổng hợp, phương pháp đối chiếu, phương pháp so sánh, phương pháp chứng minh v.v... Trong đó luận văn đặc biệt coi trọng các phương pháp hệ thống, lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, khảo sát thực tiễn, điều tra xã hội học… qua đó rút ra những kết luận, đề xuất phù hợp nhằm hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự có liên quan đến quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức. Chương 2: Thực tiễn quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức. Chương 3: Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức.
  • 13. 6 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƢỜNG HỢP PHẠM TỘI CÓ TỔ CHỨC 1.1. PHẠM TỘI CÓ TỔ CHỨC 1.1.1. Khái niệm phạm tội có tổ chức Phạm tội có tổ chức lần đầu tiên được đề cập đến trong Thông tư số 442/TTg ngày 19/1/1955 của Thủ tướng Chính phủ. Trong Thông tư này, phạm tội có tổ chức được gọi là "Cướp đường hay trộm có tổ chức", "đánh bị thương có tổ chức". Tuy nhiên, Thông tư lại không giải thích thế nào là "có tổ chức". Pháp lệnh ngày 21/10/1970 về trừng trị các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa (XHCN) và Pháp lệnh ngày 21/10/1970 về trừng trị các tội xâm phạm sở hữu riêng của công dân, phạm tội có tổ chức chỉ được quy định là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt và không có định nghĩa cụ thể. Điều này gây khó khăn cho các cơ quan áp dụng pháp luật trong việc thực thi hai pháp lệnh trên. Trước thực tế đó, ba ngành Công an, Kiểm sát, Tòa án đã dự thảo Thông tư ngày 16/3/1973 hướng dẫn nhận thức thống nhất về hai pháp lệnh này. Thông tư đã định hướng nhận thức về khái niệm phạm tội có tổ chức như sau: … Phải xuất phát từ đặc điểm, tình hình phạm tội ở nước ta mà hiểu như thế nào là phạm tội có tổ chức. Đây là một hình thức cộng phạm của hai hay nhiều người, trong đó có một số tên cầm đầu hoặc đóng vai trò chủ chốt, cùng bàn bạc trước việc thực hiện một hoặc nhiều tội phạm nào đó, thủ đoạn phạm tội thường là tinh vi, xảo quyệt, vai trò của từng tên phân công giữa bọn chúng trong nhiều trường hợp có thể không dứt khoát, rõ ràng; Hoặc lợi dụng hay nấp dưới danh nghĩa một tổ chức công khai để bàn bạc về việc thực hiện tội phạm; hoặc có khi chúng không bàn bạc nhau trước,
  • 14. 7 nhưng do quan hệ công tác hàng ngày nên hiểu ý đồ nhau rồi cùng hành động phạm tội, mặc nhiên cấu kết chặt chẽ. Cần chú ý phân biệt hình thức phạm tội có tổ chức với hình thức cộng phạm thông thường trong đó không có sự bàn bạc, phân công chặt chẽ trước, không có vai trò cầm đầu chủ chốt, thủ đoạn phạm tội đơn giản [63, tr. 239]. Như vậy, theo dự thảo thông tư này, phạm tội có tổ chức trước tiên là một hình thức cộng phạm của hai hay nhiều người, trong đó có sự phân công vai trò của từng người cộng phạm, có vai trò cầm đầu, chủ chốt, có sự bàn bạc trước khi thực hiện một hay nhiều tội phạm, thủ đoạn phạm tội thường là tinh vi xảo quyệt... Sau nhiều lần pháp điển hóa, tại Khoản 3 Điều 17 BLHS 1985 và Khoản 3 Điều 20 BLHS 1999 đều quy định: "phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm". Việc BLHS ghi nhận định nghĩa phạm tội có tổ chức đánh dấu bước phát triển về kỹ thuật lập pháp hình sự, thể hiện thái độ nghiêm khắc của Đảng và Nhà nước trong việc đấu tranh với hình thức đồng phạm có tính nguy hiểm cao này. Tuy nhiên, định nghĩa này vẫn còn chung chung, trừu tượng. Cụm từ "câu kết chặt chẽ" được nhận định không thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Vì vậy, sau khi BLHS 1985 lần đầu tiên quy định định nghĩa về phạm tội có tổ chức, ngày 16/11/1988 trong Nghị quyết 02/HĐTP hướng dẫn bổ sung Nghị quyết 02/HĐTP ngày 05/01/1986 đã giải thích: Phạm tội có tổ chức phải có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm. Trong thực tế, sự câu kết này thể hiện dưới các dạng sau đây: a) Những người đồng phạm đã tham gia một tổ chức phạm tội như đảng phái, hội đoàn phản động, băng ổ, nhóm trộm cướp… có những tên chỉ huy, cầm đầu. Tuy nhiên, cũng có khi tổ chức
  • 15. 8 phạm tội không có những tên chỉ huy, cầm đầu mà chỉ là sự tập hợp những tên chuyên phạm tội đã thống nhất cùng nhau hoạt động phạm tội. b) Những người đồng phạm đã cùng nhau phạm tội nhiều lần theo một kế hoạch đã thống nhất trước. c) Những người đồng phạm chỉ thực hiện tội phạm một lần nhưng đã tổ chức thực hiện tội phạm theo một kế hoạch được tính toán kỹ càng, chu đáo, có chuẩn bị phương tiện hoạt động và có khi còn chuẩn bị cả kế hoạch che giấu tội phạm [65, tr. 76]. Nghị quyết ra đời trong bối cảnh có nhiều cách hiểu khác nhau về phạm tội có tổ chức, nên có ý nghĩa thực tiễn to lớn. Tuy nhiên, những hướng dẫn này chỉ nêu lên được những trường hợp điển hình của hình thức đồng phạm có tổ chức. Hướng dẫn còn hạn chế khi chưa khái quát được những dấu hiệu chung của mọi trường hợp phạm tội có tổ chức. Sau Nghị quyết này, không một văn bản pháp lý nào giải thích về khái niệm phạm tội có tổ chức. Khoản 3 Điều 20 BLHS 1999 kế thừa nguyên vẹn khái niệm phạm tội có tổ chức đã được ghi nhận trong BLHS 1985, vì vậy những hướng dẫn trước đây vẫn có giá trị tham khảo tích cực. Hiện nay, xung quanh khái niệm phạm tội có tổ chức còn có nhiều ý kiến khác nhau về bản chất pháp lý của khái niệm này. - Quan điểm thứ nhất: Phạm tội có tổ chức phải có sự phân công vai trò, nhiệm vụ khác nhau giữa những người cùng tham gia thực hiện tội phạm, trong đó có vai trò cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm. Trước khi thực hiện tội phạm, những người đồng phạm có sự bàn bạc thống nhất về kế hoạch phạm tội một cách kỹ càng, chu đáo. - Quan điểm thứ hai: Không phải trong mọi trường hợp phạm tội có tổ chức nào cũng đều nhất thiết phải có sự phân công vai trò khác nhau giữa những người đồng phạm, hay sự phân công vai trò khác nhau giữa những
  • 16. 9 người đồng phạm không phải là dấu hiệu bắt buộc của hình thức phạm tội có tổ chức. Do vậy, phạm tội có tổ chức có thể là trường hợp đồng phạm giản đơn. - Quan điểm thứ ba: Trong phạm tội có tổ chức, những người đồng phạm phải có sự câu kết với nhau lâu dài, cùng nhau phạm nhiều tội hoặc phạm một tội nhưng nhiều lần. - Quan điểm thứ tư: Phạm tội có tổ chức phải là hình thức đồng phạm có thông mưu trước, trong đó gồm một nhóm có từ hai người trở lên kết hợp với nhau trước khi phạm tội. Theo chúng tôi, các quan niệm trên về phạm tội có tổ chức là chưa thật sự chính xác. Việc xác định những trường hợp phạm tội có tổ chức cần tránh hai xu hướng là xác định quá rộng hoặc xác định quá hẹp về khái niệm này. Ở quan điểm thứ nhất, các tác giả đã tuyệt đối hóa một mặt của vấn đề được nghiên cứu, đó là vai trò của những người đồng phạm. Thực tiễn chỉ ra rằng việc phân công vai trò trong phạm tội có tổ chức là một dấu hiệu phổ biến nhưng không bắt buộc, dấu hiệu duy nhất. Và ngoại diên của khái niệm phạm tội có tổ chức là quá hẹp nếu không xem là phạm tội có tổ chức chỉ vì không có sự phân công vai trò người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức. Theo quan điểm thứ hai thì phạm tội có tổ chức có thể là trường hợp đồng phạm giản đơn, tức là không có sự phân công vai trò giữa người cầm đầu chỉ huy và người thực hiện tội phạm. Theo chúng tôi, việc không có dấu hiệu đó thì không thể hiện được "tính có tổ chức" của hình thức đồng phạm đặc biệt này. Quan điểm này là quá rộng về khái niệm phạm tội có tổ chức. Với quan niệm thứ ba, việc xác định một vụ án đồng phạm nào là phạm tội có tổ chức sẽ rất chặt chẽ. Khi những người đồng phạm câu kết với nhau trong một thời gian dài, cùng nhau phạm nhiều tội hoặc phạm tội nhiều lần họ mới được xác định là phạm tội có tổ chức. Theo quan niệm này, thì chỉ
  • 17. 10 những vụ án phạm tội do những tổ chức tội phạm dạng "xã hội đen" thực hiện mới có thể được coi là phạm tội có tổ chức. Như vậy, quan niệm này đã thu hẹp trách nhiệm hình sự (TNHS) đối với những trường hợp có tính nguy hiểm cao cho xã hội, cần phải xử lý nghiêm khắc là trường hợp phạm tội có tổ chức như: có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm nhưng chỉ thực hiện một tội phạm [70, tr. 29]. Quan niệm thứ tư là quan niệm quá rộng về phạm tội có tổ chức. Nếu quan niệm như vậy sẽ không có sự phân biệt đồng phạm thường và đồng phạm đặc biệt. Điều này sẽ dẫn đến xử lý nghiêm khắc thái quá những người đồng phạm. Đồng phạm có tổ chức và đồng phạm có thông mưu trước là hai khái niệm có ngoại diên không hoàn toàn đồng nhất. Nội hàm của khái niệm phạm tội có tổ chức chứa đựng những dấu hiệu của khái niệm đồng phạm có thông mưu trước nhưng có thêm những dấu hiệu khác nữa. Xét về tính chất câu kết cũng như tính chất nguy hiểm cho xã hội, thì phạm tội có tổ chức có tính câu kết chặt chẽ hơn và cũng có tính nguy hiểm cho xã hội cao hơn. Vì vậy, căn cứ vào tinh thần của Nghị Quyết số 02/HĐTP ngày 16-11- 1988 hướng dẫn bổ sung Nghị Quyết số 02/HĐTP ngày 5-1-1986 giải thích về "sự câu kết" trong phạm tội có tổ chức và sự phân tích ở trên, chúng tôi cho rằng: phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm đặc biệt. Trong hình thức đồng phạm này có sự phân công vai trò giữa người thực hành và người cầm đầu, chỉ huy trong việc thực hiện tội phạm. Dấu hiệu phạm một tội nhiều lần, phạm nhiều tội và sự câu kết lâu dài không phải là dấu hiệu bắt buộc của hình thức đồng phạm này. Với quan niệm trên, phạm tội có tổ chức trước hết phải là một hình thức đồng phạm. Do đó, phạm tội có tổ chức phải có những dấu hiệu của đồng phạm. Đó là phải có từ hai người trở lên cùng cố ý tham gia thực hiện một tội phạm. Tính chất đặc biệt của hình thức đồng phạm này được đặc trưng bởi dấu hiệu "có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng tham gia
  • 18. 11 thực hiện tội phạm". Chính sự câu kết chặt chẽ này là đặc điểm quan trọng nhất nói lên tính chất và mức độ nguy hiểm cao hơn hẳn, đồng thời quy định sự khác nhau về chất giữa phạm tội có tổ chức và các hình thức đồng phạm khác. Đặc trưng này của đồng phạm có tổ chức vừa thể hiện đặc điểm của dấu hiệu chủ quan vừa thể hiện đặc điểm của dấu hiệu khách quan. Đây là điểm đặc biệt thứ nhất của phạm tội có tổ chức so với các hình thức đồng phạm khác. Như vậy, mức độ câu kết có chặt chẽ hay không là một căn cứ để phân biệt phạm tội có tổ chức và các hình thức đồng phạm khác. Tại Khoản 3 Điều 20 BLHS 1999, cụm từ "câu kết chặt chẽ" hoàn toàn mang tính chất định tính, cho nên dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau trong quá trình áp dụng pháp luật. Vì vậy, trong các văn bản giải thích pháp luật hoặc ngay trong BLHS cần lượng hóa vấn đề này để đảm bảo một cách hiểu thống nhất. Từ thực tiễn xét xử, dưới góc độ khoa học luật hình sự, theo chúng tôi, có thể đánh giá tính "câu kết chặt chẽ" qua các đặc trưng riêng về mặt khách quan và chủ quan của đồng phạm có tổ chức: Về mặt khách quan, tính tổ chức chặt chẽ và tính kế hoạch thống nhất là hai thuộc tính phản ánh rõ bản chất, đặc trưng của tính câu kết chặt chẽ trong phạm tội có tổ chức. Tính tổ chức chặt chẽ có thể được hiểu là: trước khi thực hiện tội phạm, những người đồng phạm thường đã liên kết, tập hợp với nhau thành các băng, nhóm tội phạm với quy mô lớn nhỏ khác nhau. Những băng, nhóm tội phạm này có phương hướng hoạt động trong một thời gian dài, chặt chẽ. Giữa những người đồng phạm có sự phân công vai trò giữa người cầm đầu, chỉ huy và người thực hành trong việc thực hiện tội phạm, mỗi người đều chịu sự điều khiển chung thống nhất. Hay nói cách khác, trong hình thức đồng phạm này tồn tại quan hệ giữa "người quản lý" và "người bị quản lý" trong đó yếu tố chỉ huy - phục tùng được xác lập. Nói đến quan hệ chỉ - huy phục tùng
  • 19. 12 là nói đến mối quan hệ giữa những người cầm đầu và những người khác trong tổ chức, quan hệ giữa người ra lệnh và người thực thi mệnh lệnh. Hơn nữa, tính tổ chức chặt chẽ này còn được biểu hiện ở tính ổn định trong sự phân công vai trò chỉ huy, cầm đầu và vai trò người thực hành. Nếu trong hình thức đồng phạm thông thường, vai trò chỉ huy, cầm đầu có thể có sự thay đổi khi thực hiện các tội phạm khác nhau nhưng trong đồng phạm có tổ chức, vai trò này thường do một hoặc một vài cá nhân đảm nhiệm một cách chuyên nghiệp. Vì vậy, sự tập trung sức lực, trí tuệ, sự phối hợp, tương trợ giữa những người đồng phạm có tổ chức không những cho phép họ thực hiện tội phạm một cách thuận lợi, mà còn có thể thực hiện nhiều tội phạm, gây ra hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng và dễ dàng che giấu dấu vết phạm tội hay lẩn tránh sự điều tra, khám phá của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Việc nhận định phương hướng hoạt động lâu dài, chặt chẽ để cùng nhau thực hiện tội phạm của những người phạm tội có tổ chức là những nhận định ý thức chủ quan chứ không nhất thiết phương hướng đó phải được hiện thực hóa. Do vậy, khi họ có ý thức câu kết với nhau lâu dài, chặt chẽ thì nên coi là phạm tội có tổ chức, mặc dù họ có thể chỉ thực hiện một tội phạm cụ thể nào thì bị phát hiện, bắt và truy cứu TNHS. Do đó, số lần phạm tội, loại tội phạm không phải là dấu hiệu bắt buộc của hình thức phạm tội có tổ chức. Bên cạnh thuộc tính có tổ chức chặt chẽ, để được coi là phạm tội có tổ chức, về mặt khách quan phạm tội có tổ chức đòi hỏi phải có "tính có kế hoạch thống nhất". Trong những vụ phạm tội có tổ chức, tội phạm được thực hiện bao giờ cũng có kế hoạch từ trước. Những người tham gia thực hiện tội phạm có sự tính toán chu đáo, kỹ càng, đầy đủ và thống nhất từ khi chuẩn bị thực hiện tội phạm cho đến khi thực hiện xong tội phạm và có thể có kế hoạch che giấu tội phạm. Điều này cho thấy phạm tội có tổ chức luôn là hình thức đồng phạm có thông mưu trước.
  • 20. 13 Về mặt chủ quan, phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có thông mưu trước ở mức độ cao. Sự cố ý cùng liên kết về mặt ý thức của những người phạm tội có tổ chức khi bàn bạc thỏa thuận kế hoạch và phân công vai trò đã hình thành nên mối quan hệ và tính thống nhất trong hành động của họ. Mối quan hệ này rất chặt chẽ và bền vững. Trong ý thức chủ quan của mỗi người tham gia thực hiện tội phạm, mục đích phạm tội được hằn sâu. Do vậy, mỗi khi ý thức phạm tội được nêu ra thì mỗi thành viên đều chấp nhận tuyệt đối, cùng nhau bàn bạc, thỏa thuận phương pháp, cách thức thực hiện và che giấu tội phạm tối ưu. Trên cơ sở đó, trong quá trình thực hiện tội phạm, mỗi người tham gia thực hiện tội phạm tìm cách hỗ trợ những người đồng phạm khác và nỗ lực thực hiện hoạt động của mình nhằm đạt được kết quả phạm tội đã đề ra. Điểm đặc biệt thứ hai của hình thức đồng phạm có tổ chức thể hiện ở cách thức ghi nhận tình tiết này trong BLHS. Phạm tội có tổ chức được coi là tình tiết tăng nặng. Tình tiết này không những được quy định là tình tiết tăng nặng TNHS tại Điều 48 BLHS mà còn được quy định là tình tiết định khung hình phạt của nhiều tội phạm cụ thể trong phần riêng BLHS. Ngoài ra, với tính đặc trưng bởi sự câu kết chặt chẽ trong quá trình chuẩn bị, thực hiện và che giấu tội phạm mà tình tiết "phạm tội có tổ chức" còn được nhà làm luật quy định là tình tiết định tội của tội phạm cụ thể trong phần các tội phạm BLHS. Ví dụ: Điều 82 BLHS 1999 quy định: "Người nào hoạt động vũ trang hoặc dùng bạo lực có tổ chức...". Những tội phạm được luật hình sự quy định với dấu hiệu định tội là tình tiết "phạm tội có tổ chức" thông thường là những tội phạm được thực hiện dưới hình thức đồng phạm có thông mưu trước. Hơn nữa, những tội phạm này có dấu hiệu đặc trưng để phân biệt với các tội phạm khác là sự phân công vai trò giữa người ra lệnh - người thực hiện mệnh lệnh, phương hướng hoạt động phạm tội thường lâu dài, bền vững và sự thống nhất ở mức độ cao trong kế hoạch thực hiện tội phạm của những người tham gia thực hiện tội phạm.
  • 21. 14 Điểm đặc biệt thứ ba của phạm tội có tổ chức là nội dung và cách thức xác định một vụ phạm tội có sự tham gia của nhiều người là phạm tội có tổ chức. Như phân tích ở trên, để khẳng định một vụ án có sự tham gia của nhiều người là phạm tội có tổ chức thì các cơ quan tiến hành tố tụng phải chứng minh được hai vấn đề: 1. Đây là một vụ đồng phạm; 2. Có sự câu kết chặt chẽ giữa những người tham gia thực hiện tội phạm. Tuy nhiên, với sự thể hiện của dấu hiệu có sự câu kết chặt chẽ trên cả hai phương diện khách quan và chủ quan của hình thức đồng phạm này thì việc chứng minh hai vấn đề trên thực tế chỉ còn là làm rõ dấu hiệu "câu kết chặt chẽ". Ngoài ra, để đánh giá tính chất câu kết chặt chẽ giữa những người đồng phạm không thể căn cứ vào những sự kiện riêng lẻ, những quan hệ diễn ra trong một thời gian ngắn như trong trường hợp xác định một vụ án đồng phạm được. 1.1.2. Phân biệt khái niệm "phạm tội có tổ chức" với một số khái niệm khác có liên quan "Phạm tội có tổ chức", "tổ chức tội phạm", "tội phạm có tổ chức", tội phạm có sử dụng cụm từ "tổ chức" là những khái niệm khác nhau, có nội hàm giáp ranh với nhau nhưng không đồng nhất với nhau. Tuy nhiên, do sự gần gũi về mặt thuật ngữ và việc không hiểu đúng bản chất các khái niệm sẽ dẫn đến thực tế sử dụng những khái niệm khác nhau cho cùng một vấn đề cần diễn tả. Tìm hiểu những khái niệm này trong sự so sánh với khái niệm phạm tội có tổ chức có ý nghĩa làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu, xác lập ranh giới xác định trường hợp phạm tội có tổ chức. Sau đây, chúng ta lần lượt tìm hiểu các khái niệm này: Tổ chức tội phạm (tổ chức phạm tội) Trong những năm qua, để đối phó với những nỗ lực tích cực nhằm đấu tranh chống tội phạm của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng thì bọn phạm tội với ý thức lẩn tránh pháp luật đã tìm ra những thủ đoạn liên kết mới.
  • 22. 15 Trong đó, hình thức liên kết thành nhóm, mà tổ chức tội phạm là một điển hình đang được những người phạm tội sử dụng khá phổ biến. Tuy nhiên, cho đến nay, pháp luật hình sự Việt Nam vẫn chưa có một định nghĩa pháp quy cho khái niệm tổ chức tội phạm. Thực tế trên tạo ra nhiều cách hiểu và quan điểm khác nhau về khái niệm này. Nghiên cứu pháp luật hình sự một số nước trên thế giới cho thấy, pháp luật của các nước này đã quy định về tổ chức tội phạm trực tiếp trong BLHS. Chẳng hạn: BLHS Cộng hòa Pháp quy định tổ chức tội phạm và TNHS của người tham gia tổ chức đó tại Khoản 1 Điều 450; BLHS sửa đổi năm 1997 của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định tại Điều 26; BLHS Liên bang Nga có hiệu lực ngày 01/03/1996 quy định tại Khoản 4 Điều 36... Từ thực tiễn pháp luật hình sự Việt Nam và nghiên cứu kinh nghiệm lập pháp hình sự của các nước trên thế giới, chúng tôi thống nhất với quan điểm của các nhà nghiên cứu cho rằng cần phải ghi nhận "tổ chức tội phạm" là một chế định trong BLHS Việt Nam. Tuy nhiên, để có thể đưa ra một khái niệm "tổ chức tội phạm" có tính khái quát cao và chính xác về mặt khoa học và phù hợp với những yêu cầu của thực tiễn đấu tranh phòng và chống tội phạm thì phải đáp ứng được ba yêu cầu cơ bản: xác định được phạm vi, cơ cấu của tổ chức đó bao gồm cái gì, chỉ ra được những cơ sở mà dựa vào đó nó được thành lập và nêu lên được mục đích của nó để làm gì [7, tr. 160-161]. Thuật ngữ "tổ chức" với vai trò là một danh từ có nghĩa là "một tập hợp những người được tổ chức lại, hoạt động vì quyền lợi chung, nhằm mục đích chung". Mặt khác, trong khái niệm "tổ chức tội phạm" hay "tổ chức phạm tội" thì "tội phạm" hay "phạm tội" có chức năng là một danh từ. Vì vậy, dưới góc độ ngôn ngữ, khái niệm tổ chức tội phạm có thể được hiểu là một nhóm người được tập hợp lại, nhằm mục đích thực hiện tội phạm vì quyền lợi chung nào đó.
  • 23. 16 Một vấn đề khác được đặt ra trong quá trình nghiên cứu khái niệm tổ chức tội phạm là phải xác định rõ tính mục đích của tổ chức này. Hiện nay, xung quanh vấn đề này còn có nhiều quan điểm khác nhau: - Quan điểm thứ nhất: Tội phạm mà tổ chức tội phạm thực hiện bắt buộc là tội phạm rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng. Với đặc trưng này, những tập hợp người được thành lập ra để thực hiện những tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng thì không được thừa nhận là tổ chức tội phạm. - Quan niệm thứ hai: Mục đích của tổ chức tội phạm là thực hiện tội phạm mà không cần đề cập đến vấn đề tội phạm đó có là tội nghiêm trọng hay không. Lập luận cho quan điểm thứ nhất các tác giả cho rằng: thực tế cho thấy, tổ chức tội phạm được hình thành để phạm những tội nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng. Giả thuyết cho rằng tổ chức phạm tội có thể thực hiện tội ít nghiêm trọng chỉ hoàn toàn mang tính lý thuyết chứ không bao giờ xảy ra trên thực tế [57, tr. 39]. Chúng tôi đồng ý với lập luận trên của các tác giả, nhưng việc sử dụng dấu hiệu tội phạm mà tổ chức tội phạm hướng tới thực hiện là một căn cứ để nhận dạng tổ chức tội phạm là không hợp lý. Việc quy định như vậy sẽ gây khó khăn cho cơ quan tố tụng trong thực tế xác định tổ chức tội phạm. Các cơ quan này sẽ phải căn cứ vào dấu hiệu mục đích mà tổ chức tội phạm hướng đến thực hiện để xem xét nó có phải là tổ chức tội phạm hay không. Chúng tôi nhất trí với quan điểm thứ hai, vì những đặc trưng của tổ chức tội phạm đã thể tính nguy hiểm cao của loại tổ chức này. Do đó, sự hiện hữu của tổ chức này đã thể hiện tính nguy hiểm cho xã hội, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lớn cho xã hội, bất kể tổ chức này thực hiện loại tội phạm gì. Tóm lại, với những phân tích ở trên, tổ chức tội phạm có những đặc trưng sau để phân biệt với hình thức đồng phạm có tổ chức: Thứ nhất, tổ chức tội phạm phải là một tổ chức được kết cấu chặt chẽ hoặc rất chặt chẽ, có sự phân hóa vai trò, phân công nhiệm vụ rõ ràng giữa các thành viên. Vì vậy, để đạt mục đích phạm tội, các thành viên cùng nhau
  • 24. 17 phối hợp, điều chỉnh sự đóng góp cá nhân và hậu quả phạm tội chung. So sánh với phạm tội có tổ chức, thì phạm tội có tổ chức bao gồm cả trường hợp phân công vai trò, nhiệm vụ rõ ràng và cả trường hợp không dứt khoát rõ ràng. Điều này cho chúng ta khẳng định tính thống nhất ở mức độ cao hơn của tổ chức tội phạm so với phạm tội có tổ chức. Thứ hai, tổ chức tội phạm có một cơ cấu ổn định về mặt tổ chức, luôn chịu sự điều hành của một nhóm thủ lĩnh. Chính sự điều hành này đảm bảo tính liên kết và sự phối hợp thống nhất rất chặt chẽ của các thành viên. Còn phạm tội có tổ chức thì đặc trưng này thể hiện ở mức độ thấp hơn. Trong phạm tội có tổ chức có thể có một vài tên giữ vai trò người tổ chức nhưng cũng có trường hợp vai trò này được thể hiện mờ nhạt, không cụ thể. Thứ ba, tổ chức tội phạm thường có hạ tầng cơ sở riêng như: trụ sở, chi nhánh, vốn và cơ sở kinh doanh, hệ thống thông tin, kho vũ khí… đảm bảo cho tổ chức tội phạm hoạt động mang tính ổn định thường xuyên trên một địa bàn xác định. Đối với phạm tội có tổ chức, nội dung này biểu hiện ở mức độ thấp. Vì vậy, tổ chức tội phạm thực chất cũng là một hình thức đồng phạm có tổ chức nhưng có cơ cấu tổ chức cao hơn, chặt chẽ, bền vững hơn so với phạm tội có tổ chức thông thường. Tội phạm có tổ chức Trong thời gian gần đây, cùng với sự hoạt động phức tạp và diễn ra rất nghiêm trọng của các băng nhóm phạm tội ở nước ta, thuật ngữ "tội phạm có tổ chức" được sử dụng ngày càng nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng, trong nhiều văn bản pháp luật và các công trình nghiên cứu. Tuy nhiên do các cách tiếp cận khác nhau mà khái niệm này chưa có được sự thống nhất trong nhận thức. Hiện nay có ba cách tiếp cận cơ bản sau đây: - Từ góc độ luật hình sự: Tội phạm có tổ chức là khái niệm dùng để chỉ những tội phạm do tổ chức tội phạm, nhóm phạm tội có tổ chức chuyên nghiệp thực hiện.
  • 25. 18 - Từ góc độ tội phạm học: Tội phạm có tổ chức là hoạt động tội phạm nguy hiểm cho xã hội, được thực hiện bởi một nhóm tội phạm có cơ cấu tổ chức rõ ràng và khá chặt chẽ; có hệ thống mối quan hệ rộng rãi, trong đó có mối quan hệ với các phần tử biến chất trong các cơ quan Nhà nước, đặc biệt với các cơ quan bảo vệ pháp luật. - Từ góc độ của tội phạm học và luật hình sự: Tội phạm có tổ chức là tội phạm nghiêm trọng do nhiều người tiến hành và coi hoạt động phạm tội là phương thức tồn tại; câu kết chặt chẽ trong cơ cấu lực lượng lớn; có kỷ luật nghiêm khắc; hoạt động vừa bí mật, tinh vi, vừa trắng trợn, tàn bạo trên một địa bàn rộng lớn, đôi khi vượt khỏi biên giới quốc gia; đe dọa nghiêm trọng đối với chính quyền nhà nước cũng như đời sống chính trị, kinh tế và đạo đức xã hội. Theo chúng tôi, việc tiếp cận tội phạm có tổ chức dưới góc độ luật hình sự giúp chỉ ra được tính "tội phạm" của khái niệm này - mối quan hệ giữa Nhà nước và người phạm tội, song lại không phản ánh được những đặc trưng của tội phạm có tổ chức. Ngược lại, ở quan điểm thứ hai, các tác giả đã làm sáng tỏ được bản chất pháp lý của tội phạm có tổ chức, nhưng nếu theo quan niệm này thì tất cả các tội phạm được thực hiện bằng hình thức phạm tội có tổ chức đều bị coi là tội phạm có tổ chức. Quan điểm thứ ba hợp lý trong việc xác định tội phạm có tổ chức không chỉ là một khái niệm của luật hình sự mà còn là khái niệm của tội phạm học. Nhưng quan điểm này lại chỉ thừa nhận những tội phạm nào do một tổ chức tội phạm thực hiện mới là tội phạm có tổ chức. Bởi vì chỉ có tổ chức tội phạm mới có sự câu kết chặt chẽ, bền vững giữa các thành viên của tổ chức, mới có cơ cấu lực lượng lớn, mới có mục đích thực hiện tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Tóm lại, trên cơ sở phân tích ở trên, xuất phát từ thực tiễn đấu tranh với tội phạm có tổ chức, chúng tôi cho rằng tội phạm có tổ chức là khái niệm được sử dụng trong cả hai lĩnh vực tội phạm học và luật hình sự. Từ góc độ
  • 26. 19 của luật hình sự, để xây dựng khái niệm tội phạm có tổ chức phải xuất phát từ những cơ sở sau: - Tội phạm có tổ chức là tội phạm theo quy định của BLHS. - Khái niệm tội phạm có tổ chức muốn được thừa nhận phải phản ánh đầy đủ những dấu hiệu bản chất của tội phạm có tổ chức. - Khái niệm tội phạm có tổ chức không được trái, không được mâu thuẫn với khái niệm tội phạm được quy định tại điều 8 BLHS 1999. - Cụm từ "có tổ chức" dùng để chỉ tính chất của tội phạm đó. Điều đó có nghĩa là những hành vi nguy hiểm cho xã hội do một tổ chức tội phạm, nhóm phạm tội có tổ chức thực hiện. Từ những cơ sở trên, có thể đưa ra định nghĩa tội phạm có tổ chức như sau: Tội phạm có tổ chức là hệ thống những hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, phải chịu hình phạt do một nhóm tội phạm có cơ cấu tổ chức rõ ràng, chặt chẽ, cố ý xâm hại những quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ. Như vậy, tội phạm có tổ chức có thể do tổ chức tội phạm hoặc nhóm phạm tội có tổ chức chuyên nghiệp thực hiện. Tội phạm có sử dụng cụm từ tổ chức trong BLHS Một vấn đề khác nữa cần giải quyết khi nghiên cứu khái niệm phạm tội có tổ chức là phải phân biệt phạm tội có tổ chức với các tội phạm cụ thể có sử dụng cụm từ "tổ chức" trong BLHS: tội tổ chức tảo hôn (Điều 148), tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 197), tội tổ chức đua xe trái phép (Điều 206), tội tổ chức đánh bạc (Điều 249), tội cưỡng ép người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép (Điều 275). Khái niệm phạm tội có tổ chức được phân biệt với các tội phạm có sử dụng cụm từ "tổ chức" ở những điểm sau:
  • 27. 20 Thứ nhất, phạm tội có tổ chức là một hình thức đồng phạm đặc biệt vì vậy điều kiện tiên quyết đối với phạm tội có tổ chức là phải có từ hai người trở lên và có sự câu kết chặt chẽ giữa những người này. Trong khi đó, đối với các tội phạm sử dụng cụm từ "tổ chức" chỉ cần một người có hành vi thỏa mãn các dấu hiệu của cấu thành tội phạm (CTTP) của tội này là có thể phạm tội này. "Tổ chức" ở các tội phạm có sử dụng cụm từ "tổ chức" là dấu hiệu về hành vi phạm tội. Đó là các hành vi tập hợp người, công cụ, phương tiện, lựa chọn địa điểm, sắp xếp tiến trình, loại bỏ trở ngại, khó khăn. Do vậy, nếu có nhiều người cùng cố ý tham gia thực hiện tội phạm có sử dụng cụm từ "tổ chức" thì cũng không cần có sự cấu kết chặt chẽ giữa họ thì mới cấu thành tội này. Nhưng khi những người đồng phạm này có sự cấu kết chặt chẽ với nhau thì những người này là đồng phạm của tội đó dưới hình thức phạm tội có tổ chức. Việc giải quyết vụ án này tương tự như các vụ án phạm tội có tổ chức khác. Thứ hai, cơ sở TNHS của phạm tội có tổ chức là điều luật cụ thể quy định tội phạm mà những người đồng phạm tham gia thực hiện và điều luật quy định về chế định đồng phạm. Trong khi đó, việc xác định TNHS đối với trường hợp phạm tội cụ thể có sử dụng cụm từ "tổ chức" chỉ cần căn cứ vào điều luật quy định tội phạm đó. Thứ ba, trong trường hợp phạm tội có tổ chức, những người tham gia thực hiện tội phạm cùng phạm một tội. Nhưng trong tội phạm có sử dụng cụm từ "tổ chức", thì người có hành vi tổ chức là người phạm tội này, còn người được tổ chức thực hiện tội phạm khi có hành vi phạm pháp thì chỉ là vi phạm hành chính hoặc tội phạm nhưng là những tội khác như: tội đánh bạc, tội đua xe trái phép, tội sử dụng trái phép chất ma túy,… Như vậy, cùng với pháp luật Việt Nam, pháp luật các nước trên thế giới cũng có sự ghi nhận về mặt pháp lý định nghĩa của khái niệm phạm tội có tổ chức. Trong lịch sử lập pháp Việt Nam, phạm tội có tổ chức là một chế
  • 28. 21 định đã xuất hiện từ rất sớm. Những điều trên phản ánh sự quan tâm ở mức độ đáng kể của pháp luật đối với hình thức đồng phạm đặc biệt này. Trong số những hình thức đồng phạm, phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm nguy hiểm nhất, được phân biệt với các hình thức đồng phạm khác bởi dấu hiệu "có sự câu kết chặt chẽ". Đặc điểm này vừa thể hiện mức độ liên kết chặt chẽ về mặt chủ quan, vừa thể hiện mức độ phân hóa vai trò, nhiệm vụ về mặt khách quan của trường hợp phạm tội có tổ chức. 1.2. QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƢỜNG HỢP PHẠM TỘI CÓ TỔ CHỨC 1.2.1. Khái niệm quyết định hình phạt Nghiên cứu lịch sử phát triển pháp luật hình sự của nước ta cho thấy, trước đây, thuật ngữ "quyết định hình phạt" được biết đến với tên gọi là "lượng hình". Sau khi BLHS năm 1985 ra đời và có hiệu lực ngày 01/01/1986, tại Điều 17 Khoản 4 thuật ngữ "quyết định hình phạt" được chính thức ghi nhận, thay thế thuật ngữ "lượng hình". Đến BLHS 1999, thuật ngữ này vẫn tiếp tục được sử dụng và ghi nhận trong BLHS. Mặc dù, thuật ngữ quyết định hình phạt đã có thời gian dài được sử dụng nhưng vẫn chưa có một văn bản pháp luật hình sự nào đưa ra định nghĩa về khái niệm này. Việc nghiên cứu, xây dựng định nghĩa về thuật ngữ này hầu như chỉ được các nhà khoa học luật hình sự quan tâm. Tuy nhiên, trong khoa học luật hình sự hiện nay, cũng có khá nhiều quan điểm về khái niệm quyết định hình phạt, nhưng tựu chung lại, khái niệm quyết định hình phạt có thể được hiểu theo hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Quyết định hình phạt theo nghĩa hẹp là việc "Tòa án lựa chọn loại hình phạt cụ thể (bao gồm hình phạt chính và có thể cả hình phạt bổ sung) với mức độ cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội" [18]. Hay nói cách khác, quyết định hình phạt theo nghĩa hẹp là quyết định hình phạt chính và quyết định hình phạt bổ sung.
  • 29. 22 Quyết định hình phạt theo nghĩa rộng bao gồm: quyết định hình phạt chính, quyết định hình phạt bổ sung, quyết định biện pháp chấp hành hình phạt, quyết định các biện pháp tư pháp với mục đích thay thế hoặc hỗ trợ cho hình phạt. Một số tác giả còn cho rằng, quyết định hình phạt có thể được hiểu theo nghĩa rộng hơn nữa là quyết định biện pháp xử lý đối với người phạm tội. Theo đó, quyết định hình phạt được hiểu là hoạt động tiếp theo của giai đoạn định tội danh của Tòa án. Theo nghĩa này, quyết định hình phạt còn bao gồm cả việc quyết định miễn TNHS và quyết định miễn hình phạt. Tác giả cho rằng, khi quyết định hình phạt, luật hình sự nước ta luôn luôn xuất phát từ nguyên tắc tương xứng giữa hình phạt và mức độ tội phạm. Hình phạt phải là hậu quả thực tế của tội phạm. Hay nói cách khác, hình phạt là hậu quả tất yếu mà người phạm tội phải gánh chịu khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm. Do vậy, khi quyết định hình phạt, Tòa án không thể không cân nhắc một cách toàn diện các tình tiết của tội phạm từ các biểu hiện khách quan, bên ngoài như hành vi, hậu quả, mối quan hệ nhân quả, công cụ, phương tiện phạm tội, thời gian, địa điểm phạm tội... đến những đặc điểm chủ quan, cũng như nhân thân người phạm tội. Hình phạt chỉ được quyết định trên cơ sở sự đánh giá thống nhất giữa các đặc điểm khách quan và chủ quan của tội phạm. Việc quá coi trọng hay xem nhẹ một mặt nào đó sẽ làm mất tính đúng đắn, công bằng của hình phạt được quyết định và tất nhiên mục đích của hình phạt cũng sẽ bị hạn chế. Bởi vậy, khi quyết định hình phạt, Tòa án phải thực hiện nguyên tắc cá thể hóa hình phạt đối với người phạm tội. Tức là, trên cơ sở quy định pháp luật, ý thức pháp luật mà quyết định loại và mức hình phạt tương ứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân người phạm tội. Hình phạt mà Tòa án lựa chọn phải trong phạm vi chế tài của điều luật quy định TNHS đối với tội phạm đó, đảm bảo sự thống nhất về đường lối đấu tranh phòng, chống tội phạm, góp phần tăng cường pháp chế XHCN.
  • 30. 23 Đối với hình phạt chính, nếu trong khung hình phạt nhà làm luật quy định nhiều loại hình phạt khác nhau thì khi quyết định hình phạt, Tòa án lựa chọn một loại hình phạt và quyết định mức hình phạt trong phạm vi giới hạn tối thiểu và tối đa của khung hình phạt đối với loại hình phạt đó để áp dụng đối với người phạm tội. Đối với một số loại hình phạt không quy định thời hạn như cảnh cáo, trục xuất, tù chung thân hoặc tử hình thì quyết định hình phạt thực chất chỉ là việc lựa chọn hình phạt mà thôi, không có bước ấn định mức hình phạt cụ thể áp dụng đối với người phạm tội. Đối với hình phạt bổ sung, việc quyết định hình phạt được thực hiện tương tự như hình phạt chính, tức là Tòa án lựa chọn loại và quyết định mức hình phạt trong phạm vi cho phép của khung hình phạt để áp dụng kèm theo hình phạt chính nhằm mục đích bổ sung cho hình phạt chính, mở rộng khả năng pháp lý cho Tòa án có thể lựa chọn hình phạt phù hợp với tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm và đặc điểm nhân thân người phạm tội. Tuy nhiên, quyết định hình phạt chính vẫn là nội dung cơ bản của quyết định hình phạt và quy định bản chất của khái niệm này. Nghiên cứu khái niệm quyết định hình phạt, chúng tôi cho rằng, miễn TNHS là một nội dung của giai đoạn quyết định hình phạt nhưng không chỉ thuộc về giai đoạn quyết định hình phạt. Miễn TNHS là việc hủy bỏ hậu quá pháp lý hình sự của việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm đối với người bị coi là có lỗi trong việc thực hiện tội phạm. Hay nói cách khác, miễn TNHS là không buộc người phạm tội phải chịu TNHS về tội họ đã thực hiện. Phụ thuộc vào giai đoạn tố tụng hình sự, miễn TNHS có thể do một cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền nhất định áp dụng (cơ quan Điều tra với sự phê chuẩn của Viện kiểm sát, Viện kiểm sát hoặc Tòa án) khi có đầy đủ các căn cứ có tính chất bắt buộc hoặc tùy nghi do pháp luật quy định. Vì vậy, miễn TNHS là một nội dung của hoạt động quyết định hình phạt nhưng không chỉ thuộc về giai đoạn quyết định hình phạt mà còn có thể thuộc
  • 31. 24 về các giai đoạn định tội danh và có thể được thực hiện bởi các cơ quan tư pháp hình sự (không chỉ Tòa án) căn cứ vào các giai đoạn tố tụng tương ứng. Tuy nhiên, nên coi miễn hình phạt hoàn toàn thuộc về giai đoạn quyết định hình phạt. Điều 54 BLHS quy định: "Người phạm tội có thể được miễn hình phạt trong trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật này, đáng được khoan hồng đặc biệt nhưng chưa đến mức miễn TNHS". Như vậy, miễn hình phạt bản chất là việc hủy bỏ biện pháp cưỡng chế về hình sự nghiêm khắc nhất cho người bị kết án mà lẽ ra Tòa án phải tuyên trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật đối với người này. Miễn hình phạt thể hiện ở việc Tòa án không quyết định hình phạt trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật đối với người phạm tội. Miễn hình phạt thuộc về giai đoạn quyết định hình phạt vì miễn hình phạt chỉ được thực hiện sau khi Tòa án đã tiến hành định tội danh. Khi người phạm tội xứng đáng được khoan hồng đặc biệt, đồng thời sự khoan hồng đó chưa đến mức được miễn TNHS và người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 thì Tòa án quyết định miễn hình phạt cho bị cáo, hay nói cách khác, Tòa án không lựa chọn loại và mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo. Một vấn đề nữa mà chúng ta cần làm rõ để hiểu chính xác nội hàm khái niệm quyết định hình phạt là việc xác định giai đoạn định khung hình phạt có thuộc về hoạt động quyết định hình phạt không? Chúng tôi cho rằng, cần coi giai đoạn định khung hình phạt là một trình tự của hoạt động quyết định hình phạt, thuộc về hoạt động quyết định hình phạt. Bởi vì định khung hình phạt là việc làm được thực hiện sau khi xác định xong định tội danh và là hoạt động đầu tiên xác định giới hạn tối thiểu và tối đa của hình phạt theo khung hình phạt được phép áp dụng, trên cơ sở giới hạn luật định, hình phạt cụ thể sẽ được quyết định. Mặt khác, việc định tội danh phải được thực hiện trên cơ sở cấu thành tội phạm cơ bản chứ không phải là các cấu thành tội phạm tăng nặng hoặc giảm nhẹ. Chỉ trên cơ sở định tội danh xong, cơ quan tố
  • 32. 25 tụng mới phải xác định khung hình phạt (nếu điều luật về tội phạm cụ thể chỉ có một khung hình phạt thì Tòa án đương nhiên không phải xác định khung hình phạt). Khi định khung hình phạt, Tòa án dựa vào các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng định khung. Định khung hình phạt sai sẽ dẫn đến hình phạt quyết định sai và định khung hình phạt sai sẽ làm thay đổi tội danh mà các bị cáo đã phạm. Như vậy, định khung hình phạt ảnh hưởng trực tiếp đến việc quyết định hình phạt. Do đó, chúng tôi đồng ý với quan điểm cho rằng định khung hình phạt thuộc về hoạt động quyết định hình phạt. Từ những sự phân tích trên, chúng tôi cho rằng định nghĩa khái niệm quyết định hình phạt cần được hiểu toàn diện như sau: Quyết định hình phạt là hoạt động thực tiễn của Tòa án do Hội đồng xét xử thực hiện căn cứ vào các quy định pháp luật hình sự, trên cơ sở kết quả của hoạt động định tội danh để xác định biện pháp xử lý tương ứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS của người phạm tội. Trong quyết định hình phạt, Tòa án quyết định miễn TNHS, miễn hình phạt hoặc xác định khung hình phạt, quyết định loại và mức hình phạt hay biện pháp tư pháp thay thế hình phạt cụ thể được quy định trong luật hình sự để áp dụng đối với người phạm tội thể hiện trong bản án kết tội đối với họ. 1.2.2. Khái niệm quyết định hình phạt trong trƣờng hợp phạm tội có tổ chức Pháp luật hình sự Việt Nam không có quy định riêng về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức ngoài các quy định về quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm. Vì vậy, các quy định pháp luật về quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm cũng chính là những quy định được áp dụng để quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức.
  • 33. 26 Cùng với sự thay đổi, phát triển của đất nước, cũng như các chế định khác của luật hình sự Việt Nam, chế định quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức nói riêng và chế định quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm nói chung đã được quy định trong luật hình sự Việt Nam và dần được quy định hoàn thiện. Ngay từ thời kỳ phong kiến, đồng phạm trong luật hình sự phong kiến được coi là tòng phạm. Người đồng phạm được xác định thành người cầm đầu, người chủ mưu, người chính phạm và người a tòng. Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm đã được đề cập đến. Điều 35 Quốc triều hình luật quy định: "nhiều người cùng phạm một tội thì lấy người khởi xướng làm đầu, người a tòng được giảm một bậc" [44, tr. 46] Trong trường hợp này, chính phạm vừa là thủ phạm thực tế, vừa chịu trách nhiệm nặng hơn cả. Cũng theo Bộ luật Hồng Đức, người chủ mưu hay thủ phạm về tinh thần thì bị xử lý ngang hàng với người thủ phạm. Trong một số trường hợp nhất định, người chủ mưu còn bị xử lý nặng hơn người khác (Điều 103). Như vậy, mặc dù ở mức độ sơ lược nhưng Quốc triều hình luật đã bước đầu có sự phân hóa về đường lối xử lý đối với những người đồng phạm. Đây có thể coi là một tiến bộ rất lớn của Bộ luật Hồng Đức. Dưới thời Pháp thuộc, chế định quyết định hình phạt được quy định trong các Bộ Hình luật Canh cải 1912, Bộ Hình luật Trung Việt 1933. Nếu như trong Bộ Hình luật Canh cải 1912, nhà làm luật quy định TNHS giống nhau giữa những người đồng phạm mà không có sự phân hóa TNHS thì ở Bộ hình luật Trung Việt 1933 đã có sự phân hóa TNHS của những người đồng phạm mặc dù ở mức độ còn đơn giản. Cụ thể như sau: Điều 59 Hình luật Canh cải quy định: "Các người tòng phạm trọng tội hay khinh tội đều bị phạt đồng hình với người chính phạm trừ khi luật quy định khác". Như vậy, TNHS của người tòng phạm cũng giống như chính phạt. Hình luật Canh cải đã không cá thể hóa hình phạt đối với những người đồng phạm. Hình phạt áp dụng cho những người đồng phạm có tình chất cào bằng,
  • 34. 27 không tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của từng người đồng phạm. Điều 68 Hình luật Trung Việt quy định: Khi nào nhiều người đồng can một tội đại hình hoặc trừng trị mà xét rõ là đúng tội thời chiểu theo hướng lệ, quan Tòa án phải xét trong những người ấy hoặc một người hoặc nhiều người là chính yếu phạm còn những người khác thời cho tùng phạm mà nghĩ xử tội bằng phân nửa tội người chánh phạm trừ ra khi nào luật có định riêng ra. Như vậy, Bộ hình luật Trung Việt đã phân hóa TNHS giữa người chính phạm và người tòng phạm. Theo đó, người chính phạm sẽ bị xử lý nghiêm khắc hơn người tòng phạm. Sau cách mạng tháng Tám thành công, thời gian đầu các Tòa án quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm theo nguyên tắc "Người tòng phạm hoặc oa trữ những tang vật của các tội phạm cũng bị xử như chính phạm". Quy định nguyên tắc này, nhà làm luật mong muốn thực hiện sự trấn áp bằng pháp luật hình sự đối với những tham gia gián tiếp vào việc thực hiện tội phạm. Tuy nhiên, nguyên tắc này tiếp tục có điểm hạn chế là không phân hóa TNHS của những người đồng phạm. Người tòng phạm cũng bị xử lý như người chính phạm mặc dù tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau. Trong giai đoạn tiếp theo, các văn bản pháp luật hình sự được ban hành có sự phát triển hơn, hoàn thiện hơn so với những văn bản pháp luật trước đó. Các quy định về chế định quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm đã có sự tiến bộ rõ rệt, cụ thể như: đã có sự phân biệt giữa các hình thức đồng phạm khác nhau và tương ứng với các hình thức đồng phạm thì hình thức xử lý cũng khác nhau; đã có sự phân biệt giữa các vai trò của những người đồng phạm để từ đó có đường lối xử lý khác nhau; đã có sự phân biệt giữa hành vi oa trữ có sự hứa hẹn trước là đồng phạm, nếu không có sự hứa hẹn trước thì cấu thành một tội phạm độc lập để tự đó phân hóa đường lối xử lý...
  • 35. 28 Sau khi giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, để đáp ứng yêu cầu mới của thực tiễn, BLHS năm 1985 được ban hành. Bộ luật đã chính thức ghi nhận chế định quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm. Điểm tiến bộ của BLHS năm 1985 so với những văn bản pháp luật trước đó là nhà làm luật đã đưa ra các căn cứ quyết định hình phạt. Khoản 4 Điều 17 quy định các căn cứ quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm bao gồm: tính chất của đồng phạm; Tính chất và mức độ tham gia phạm tội của từng người đồng phạm; những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ hoặc loại trừ TNHS của từng người đồng phạm. Ngoài ra, BLHS còn quy định về đường lối xử lý đối với những người đồng phạm tại Điều 3. Đó là "nghiêm trị kẻ chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy... khoan hồng đối với người tự thú, thật thà khai báo, tố giác đồng phạm, lập công chuộc tội, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra". Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã đưa đến những biến đổi sâu sắc trong đời sống xã hội và nhu cầu về một Bộ luật mới, tiến bộ hơn để có khả năng giải quyết những vấn đề mới của thực tiễn được đặt ra cấp bách. Đáp ứng đòi hỏi đó, BLHS năm 1999 ra đời. Điểm mới của BLHS 1999 khi quy định về chế định quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm là nhà làm luật đã tách Khoản 4 Điều 17 của BLHS 1985 ra khỏi chế định đồng phạm và quy định thành một trường hợp đặc biệt của quyết định hình phạt (Điều 53). Quy định như vậy hợp lý hơn bởi vì về bản chất quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm là một trường hợp quyết định hình phạt đặc biệt. Nghiên cứu lịch sử phát triển của chế định quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam, chúng ta có thể nhận thấy các quy định luật hình sự hoàn thiện dần về kỹ thuật lập pháp và nội dung các quy định. Tuy nhiên, hiện nay, không có một văn bản pháp luật nào quy định định nghĩa pháp lý của khái niệm quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm nói chung và quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức nói riêng. Ngay cả các quy định trong BLHS 1999 hiện
  • 36. 29 hành cũng chỉ đưa ra các căn cứ để Tòa án tuân theo khi quyết định hình phạt. Đây có thể coi là một sự khiếm khuyết về mặt lập pháp và cần được khắc phục trong quá trình sửa đổi, bổ sung BLHS những lần pháp điển hóa tiếp theo. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội có tổ chức thì về nguyên tắc phải tuân thủ các quy định chung về quyết định hình phạt. Tuy nhiên, đồng phạm nói chung, phạm tội có tổ chức nói riêng là một quy định bổ sung cho chế định tội phạm. Nó có những đặc thù riêng nên khi quyết định hình phạt đối với những người đồng phạm, Tòa án còn cần phải căn cứ vào những quy định có tính chất bổ sung. Đây cũng chính là tính đặc biệt của quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm và phạm tội có tổ chức để phân biệt với quyết định hình phạt các trường hợp riêng lẻ khác. Sự đặc biệt này cũng đã được nhà làm luật thể hiện trong lần pháp điển hóa BLHS 1985. Cụ thể là, trong BLHS 1999, chế định quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm chỉ có sự thay đổi về kỹ thuật lập pháp so với BLHS 1985. Đó là các nhà làm luật đã chuyển nội dung của chế định quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm từ điều luật quy định về đồng phạm sang Chương quyết định hình phạt. Quy định như vậy hợp lý hơn đồng thời cũng thể hiện được tính chất đặc biệt của chế định này. Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức thực chất là việc Tòa án căn cứ vào các quy định pháp luật để lựa chọn loại và mức hình phạt, biện pháp cưỡng chế về hình sự khác áp dụng đối với cá nhân từng người phạm tội có tổ chức. Hay nói cách khác, quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức là việc Tòa án căn cứ vào quy định pháp luật để quyết định TNHS đối với từng người phạm tội. Vậy cơ sở nào để quyết định hình phạt trong trong trường hợp phạm tội có tổ chức và việc xác định TNHS cho những người phạm tội có tổ chức phải dựa vào những nguyên tắc nào?
  • 37. 30 Thứ nhất, TNHS được hiểu là hậu quả pháp lý bất lợi mà người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định là tội phạm trong BLHS phải gánh chịu do Tòa án áp dụng căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS. Theo quy định tại Điều 2 BLHS 1999: "chỉ người nào phạm một tội đã được BLHS quy định mới phải chịu TNHS". Như vậy, cơ sở cần thiết và đầy đủ để truy cứu TNHS trong đồng phạm nói chung và phạm tội có tổ chức nói riêng là CTTP. Hay nói cách khác, TNHS chỉ được áp dụng đối với người phạm tội có tổ chức thực hiện hành vi được mô tả trong CTTP. Tuy nhiên, trong BLHS, ngoài một số trường hợp hành vi tổ chức, hành vi xúi giục, hành vi giúp sức được quy định là những tội phạm độc lập còn hành vi của người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức trong phạm tội có tổ chức lại không được quy định trong những CTTP cụ thể. Hay trong trường hợp đồng phạm giản đơn, hành vi của người thực hành chỉ thực hiện một phần hành vi mô tả trong CTTP. Vì vậy, nếu tách riêng thì hành vi của họ không thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của CTTP. Như vậy, căn cứ vào đâu để có thể truy cứu TNHS đối với họ? Trong trường hợp này, phải có nhận thức đúng đắn về cơ sở pháp lý của TNHS trong phạm tội có tổ chức. Theo đó, cần hiểu rộng và toàn diện về CTTP. CTTP của hành vi đồng phạm có tổ chức là sự kết hợp giữa các dấu hiệu của chế định đồng phạm có tổ chức được quy định tại Điều 20 BLHS 1999 và các dấu hiệu của tội phạm cụ thể được quy định tại điều luật Phần các tội phạm BLHS. Với quan niệm đó, những hành vi đồng phạm và phạm tội có tổ chức hoàn toàn thỏa mãn các dấu hiệu tổng hợp của CTTP cụ thể và CTTP của chế định đồng phạm. Thứ hai, phạm tội có tổ chức là hình thức phạm tội đặc biệt, việc xác định TNHS của những người phạm tội có tổ chức vừa phải tuân thủ những nguyên tắc chung được áp dụng cho tất cả các trường hợp phạm tội, vừa phải
  • 38. 31 tuân thủ những nguyên tắc riêng biệt áp dụng cho trường hợp đồng phạm và phạm tội có tổ chức. Theo luật hình sự Việt Nam, việc xác định TNHS của những người phạm tội có tổ chức phải tuân theo các nguyên tắc có tính riêng biệt sau: nguyên tắc chịu trách nhiệm chung về toàn bộ tội phạm, nguyên tắc chịu trách nhiệm độc lập về việc cùng thực hiện vụ phạm tội có tổ chức và nguyên tắc cá thể hóa TNHS của những người phạm tội có tổ chức. - Nguyên tắc chịu trách nhiệm chung về toàn bộ tội phạm: tội phạm là một thể thống nhất không tách rời. Trong đồng phạm có tổ chức, tội phạm được thực hiện do sự nỗ lực hợp tác chung của tất cả những người tham gia. Hành động của mỗi người tham gia thực hiện tội phạm là hành động liên hiệp. Hành vi của mỗi người là một bộ phận, một khâu cần thiết trong hoạt động phạm tội chung thống nhất. Hành vi của người này là tiền đề, điều kiện cho hành vi của những người phạm tội có tổ chức khác. Hậu quả của tội phạm là kết quả hoạt động chung của tất cả những người cùng tham gia đưa lại. Vì vậy, khi quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức phải tuân thủ nguyên tắc tất cả những người phạm tội có tổ chức phải chịu trách nhiệm chung về toàn bộ tội phạm mà cả bọn gây ra. Chúng ta không thể chia cắt tội phạm để buộc mỗi người phạm tội có tổ chức phải chịu trách nhiệm về một phần của tội phạm. Vì vậy, tất cả những người phạm tội có tổ chức đều bị truy tố, xét xử về cùng một tội danh mà họ đã cùng tham gia thực hiện, theo cùng điều luật và trong phạm vi chế tài điều luật ấy quy định. Hơn nữa, những người đồng phạm có tổ chức phải cùng chịu trách nhiệm về những tình tiết tăng nặng định khung hình phạt hoặc tình tiết tăng nặng TNHS chung quy định tại Điều 48 BLHS, nếu họ biết, tức là với những tình tiết này họ cùng bàn bạc với nhau hoặc mọi người đều nhận thức và biết những tình tiết đó, hoặc tuy không cùng bàn bạc nhưng họ buộc phải thấy trước và có thể thấy trước tình tiết đó. - Nguyên tắc chịu trách nhiệm độc lập về hành vi tham gia thực hiện tội phạm trong phạm tội có tổ chức: Sau khi BLHS 1985 ra đời, nguyên tắc
  • 39. 32 chịu trách nhiệm độc lập về hành vi tham gia thực hiện tội phạm trong đồng phạm nói chung và phạm tội có tổ chức nói riêng mặc dù chưa được ghi nhận đầy đủ trong Bộ luật nhưng đã được khoa học về luật hình sự xây dựng khá hoàn chỉnh. Cơ sở lý luận của nguyên tắc này là nguyên tắc trách nhiệm cá nhân. Vì vậy, trong một vụ phạm tội có tổ chức, mỗi người phạm tội có tổ chức tuy phải chịu trách nhiệm chung về toàn bộ tội phạm mà họ cùng thực hiện, nhưng do nguyên tắc trách nhiệm cá nhân này mà khi quyết định hình phạt cho mỗi người phạm tội có tổ chức phải dựa trên cơ sở hành vi cụ thể của mỗi người, cụ thể như sau: + Những người phạm tội có tổ chức không phải chịu trách nhiệm về hành vi vượt quá (thái quá) của những người phạm tội có tổ chức khác. + Những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS thuộc về riêng người người phạm tội có tổ chức nào thì chỉ áp dụng đối với chính người phạm tội có tổ chức đó. Việc miễn TNHS hoặc hình phạt đối với người phạm tội có tổ chức này không loại trừ TNHS của những người phạm tội có tổ chức khác. + Hành vi của người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức dù chưa đưa đến việc thực hiện tội phạm vẫn phải chịu TNHS. + Sự tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội của một trong những người đồng phạm trong trường hợp phạm tội có tổ chức không loại trừ TNHS của những người đồng phạm khác. - Nguyên tắc cá thể hóa TNHS của những người phạm tội có tổ chức: trong một vụ đồng phạm nói chung và phạm tội có tổ chức nói riêng, những người tham gia tuy phạm cùng một tội nhưng tính chất và mức độ tham gia của mỗi người là khác nhau do đó tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của mỗi người cũng khác nhau. Nguyên tắc cá thể hóa TNHS của những người phạm tội có tổ chức có cơ sở lý luận là nguyên tắc cá thể hóa TNHS nói chung. Theo nguyên tắc này, việc xác định TNHS phải phù
  • 40. 33 hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, phù hợp với những đặc điểm nhân thân người phạm tội. Trong phạm tội có tổ chức, nguyên tắc này được thể hiện tại Điều 53 BLHS 1999: "Khi quyết định hình phạt đối với những người đồng phạm, Tòa án phải xét đến tính chất và mức độ tham gia của từng người đồng phạm". Từ những phân tích trên, có thể đưa ra định nghĩa quyết định hình phạt trong phạm tội có tổ chức như sau: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức là trường hợp đặc biệt, được thực hiện bởi Tòa án (Hội đồng xét xử) sau khi xác định tội danh chung mà những người phạm tội có tổ chức cùng tham gia thực hiện trên cơ sở so sánh, đối chiếu, kiểm tra để xác định sự giống nhau giữa các dấu hiệu trong hành vi của từng người phạm tội có tổ chức với các dấu hiệu của CTTP cụ thể do điều luật tương ứng tại Phần các tội phạm BLHS và cấu thành tội phạm của chế định phạm tội có tổ chức. Khi quyết định hình phạt, Tòa án phải cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm đặc biệt của phạm tội có tổ chức so với các trường hợp đồng phạm khác, tính chất và mức độ tham gia phạm tội của từng người phạm tội có tổ chức, nhân thân người phạm tội có tổ chức để quyết định miễn TNHS, miễn hình phạt hoặc xác định khung hình phạt, quyết định loại và mức hình phạt hay biện pháp tư pháp thay thế hình phạt cụ thể được quy định trong luật hình sự áp dụng đối với từng người phạm tội có tổ chức thể hiện trong bản án kết tội đối với họ. 1.3. CÁC NGUYÊN TẮC VÀ CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƢỜNG HỢP PHẠM TỘI CÓ TỔ CHỨC 1.3.1. Các nguyên tắc quyết định hình phạt trong trƣờng hợp phạm tội có tổ chức Quyết định hình phạt là một giai đoạn quan trọng của hoạt động xét xử của Tòa án nói riêng và của cả hoạt động tố tụng nói chung. Việc quyết định một hình phạt công bằng, hợp lý là cơ sở để đạt được mục đích của hình
  • 41. 34 phạt. Một hình phạt quá nặng hoặc quá nhẹ sẽ làm giảm mục đích phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung, nó làm nảy sinh ở người phạm tội và những người khác trong xã hội thái độ coi thường pháp luật, thiếu trách nhiệm. Để quyết định một hình phạt đúng pháp luật, công bằng, hợp lý trong mọi trường hợp phạm tội nói chung và trong trường hợp phạm tội có tổ chức nói riêng thì ngoài việc tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định pháp luật về căn cứ quyết định hình phạt, các quy định pháp luật Phần chung và Phần các tội phạm BLHS, Tòa án còn phải tuân theo một số nguyên tắc nhất định. Các nguyên tắc quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn. Về lý luận, các nguyên tắc quyết định hình phạt này góp phần làm sáng tỏ bản chất, nội dung, nguồn gốc, ý nghĩa của chế định quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức, phân biệt chúng với các căn cứ quyết định hình phạt, đưa ra những phương pháp tối ưu của việc thể hiện chúng trong các quy phạm của luật hình sự. Đồng thời, về mặt thực tiễn, các nguyên tắc quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức là những tư tưởng chủ đạo, xuyên suốt, kim chỉ nam cho Tòa án khi lựa chọn loại và mức hình phạt đối với các bị cáo trong từng vụ án phạm tội có tổ chức cụ thể. Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức với tư cách là một hoạt động áp dụng pháp luật hình sự, do đó, những hoạt động quyết định hình phạt này không chỉ tuân thủ các nguyên tắc của luật hình sự nói chung mà còn phải tuân thủ các nguyên tắc đặc thù cho việc quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức. Mối liên hệ giữa các nguyên tắc của luật hình sự nói chung và các nguyên tắc quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức là mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Trong đó, các nguyên tắc chung của luật hình sự cũng được thể hiện trong nội dung của các nguyên tắc quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức. Các nguyên tắc quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức cụ thể hóa và mang những nét đặc thù do đặc điểm của hoạt động quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức quy định, giữa các nguyên
  • 42. 35 tắc chung của luật hình sự và nguyên tắc quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức không có sự mâu thuẫn, đối lập nhau mà có sự đan xen, có mối quan hệ chặt chẽ, cùng định hướng, chỉ đạo cho Tòa án quyết định hình phạt công bằng, hợp lý, đúng quy định pháp luật đối với người phạm tội. Đồng thời, giữa các nguyên tắc quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức và các căn cứ quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức cũng tồn tại mối quan hệ hữu cơ với nhau. Các căn cứ quyết định hình phạt là những đòi hỏi cơ bản mang tính nguyên tắc mà Tòa án buộc phải tuân theo khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội. Trong luật hình sự Việt Nam, các căn cứ quyết định hình phạt được quy định trực tiếp tại Điều 45 BLHS và Điều 53 BLHS (đối với trường hợp đồng phạm, phạm tội có tổ chức). Trong khi đó, các nguyên tắc quyết định hình phạt nói chung và các nguyên tắc quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức nói riêng không được ghi nhận chính thức trong BLHS mà thông qua nội dung các quy định của BLHS cũng như các văn bản pháp luật dưới luật có thể xác định được các nguyên tắc này. Để quyết định một hình phạt công bằng, đạt được mục đích của hình phạt, Tòa án một mặt phải tuân theo những tư tưởng chỉ đạo, định hướng (nguyên tắc quyết định hình phạt) và mặt khác phải dựa trên những đòi hỏi do pháp luật quy định (căn cứ quyết định hình phạt). Như vậy, giữa các nguyên tắc quyết định hình phạt và các căn cứ quyết định hình phạt có mối liên hệ mật thiết với nhau. "Các nguyên tắc quyết định hình phạt tồn tại ở mặt này hay mặt khác của các căn cứ quyết định hình phạt và những căn cứ quyết định hình phạt là những biểu hiện, đòi hỏi cụ thể của các nguyên tắc quyết định hình phạt" [70, tr. 238]. Với tư cách là một trường hợp đồng phạm đặc biệt, quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức phải tuân theo những nguyên tắc chung về quyết định hình phạt như đối với các trường hợp phạm tội thông thường. Tuy nhiên, tính chất đặc biệt của hình thức phạm tội này đã quy định
  • 43. 36 việc cân nhắc và đánh giá có tính đặc thù các nguyên tắc quyết định hình phạt so với các trường hợp đồng phạm thông thường và phạm tội riêng lẻ nói chung. Từ sự phân tích trên, có thể đưa ra định nghĩa các nguyên tắc quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức như sau: Các nguyên tắc quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức là những tư tưởng chủ đạo, cơ bản trong quá trình xây dựng và áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự để Tòa án căn cứ vào đó quyết định hình phạt một cách công bằng, hợp lý, đúng pháp luật, đảm bảo mục đích của hình phạt đối với những người phạm tội có tổ chức. Một vấn đề nữa cần làm sáng tỏ khi nghiên cứu nguyên tắc quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức là các nguyên tắc quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức gồm những nguyên tắc nào? Hiện nay, trong khoa học luật hình sự còn có nhiều quan điểm khác nhau trong việc xác định các nguyên tắc quyết định hình phạt. Trên cơ sở phân tích bản chất và các đặc điểm của quyết định hình phạt và nguyên tắc quyết định hình phạt, chúng tôi hoàn toàn đồng tình với quan điểm điểm của Giáo sư, Tiến sĩ Võ Khánh Vinh về các tiêu chuẩn xác định các nguyên tắc quyết định hình phạt. Theo đó, những tiêu chuẩn xác định đó là: 1) Phải là những tư tưởng chủ đạo, cơ bản; 2) Phải được thể hiện trực tiếp hoặc gián tiếp trong luật hình sự; 3) Phải là những tư tưởng định hướng hoạt động của Tòa án trong lĩnh vực quyết định hình phạt; 4) Những tư tưởng đó phải phù hợp với chính sách hình sự trong từng giai đoạn phát triển của Nhà nước [70, tr. 228]. Căn cứ vào những tiêu chuẩn trên, chúng tôi cho rằng việc quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức phải dựa trên bốn nguyên tắc: Nguyên tắc pháp chế XHCN trong quyết định hình phạt, nguyên tắc nhân đạo XHCN trong quyết định hình phạt, nguyên tắc cá thể hóa hình phạt trong quyết định hình phạt, nguyên tắc công bằng trong quyết định hình phạt.
  • 44. 37 Với tư cách là những tư tưởng chủ đạo, định hướng cho việc quyết định hình phạt, các nguyên tắc quyết định hình phạt tạo thành một hệ thống. Tính hệ thống được biểu biện ở việc mỗi nguyên tắc đều có nội dung, ý nghĩa, vị trí và vai trò riêng nhưng trong tổng thể các nguyên tắc có mối quan hệ mật thiết với nhau, xâm nhập vào nhau, bổ sung cho nhau nhưng cũng không đồng nhất với nhau. Vì vậy, để việc áp dụng các nguyên tắc một cách chính xác, đạt hiệu quả, cần tránh đồng nhất các nguyên tắc hoặc áp dụng chúng một cách độc lập. * Nguyên tắc pháp chế XHCN Trong các nguyên tắc quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức, nguyên tắc pháp chế XHCN là nguyên tắc có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Nội dung của pháp chế XHCN là sự tuân thủ và tôn trọng triệt để pháp luật của các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân trong hoạt động, có nghĩa là khi quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức, Tòa án phải căn cứ vào các quy định của luật hình sự, các quy định liên quan đến hình phạt và quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức. Nội dung của nguyên tắc này được thể hiện trước hết ở việc Tòa án chỉ có thể quyết định một hình phạt đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, đủ năng lực TNHS thực hiện hành vi bị BLHS cấm. BLHS Việt Nam 1999 Điều 2 quy định "Chỉ người nào phạm một tội đã được BLHS quyết định mới phải chịu trách nhiệm hình sự", đồng thời, Điều 8 BLHS quyết định "Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự..." Điều đó khẳng định cơ sở của việc áp dụng hình phạt là việc thực hiện tội phạm của người có lỗi. Ngoài ra, đối với việc quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức, nguyên tắc pháp chế còn yêu cầu chủ thể quyết định hình phạt phải chứng minh được sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng cố ý tham gia thực hiện tội phạm. Hay nói cách khác, khi quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức, Tòa án chỉ