SlideShare a Scribd company logo
1 of 100
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN ĐĂNG DŨNG
BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN
HÌNH SỰ
Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2014
MỤC LỤC CỦA LUẬN VĂN
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN
PHÁP NGĂN CHẶN TRONG GIAI ĐOẠN
ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
7
1.1. Khái niệm 7
1.1.1. Khái niệm biện pháp ngăn chặn 7
1.1.2. Khái niệm giai đoạn điều tra vụ án hình sự 11
1.2. Vị trí, vai trò của các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự
14
1.2.1. Vị trí các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ
án hình sự
14
1.2.2. Vai trò của các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều
tra vụ án hình sự
17
1.3. Căn cứ, nội dung, điều kiện áp dụng biện pháp ngăn chặn
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
18
1.3.1. Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều
tra vụ án hình sự
18
1.3.2. Nội dung áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự
21
1.3.3. Điều kiện áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn
điều tra hình sự
23
1.4. Vấn đề bảo vệ quyền con người trong việc áp dụng biện
pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
24
1.4.1. Quyền con người được quy định trong Hiến pháp và các
văn bản pháp lý khác
24
1.4.2. Bảo vệ quyền con người thông qua quy định của luật tố
tụng hình sự về áp dụng các biện pháp ngăn chặn
26
1.5. Biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án hình
sự trong một số mô hình tố tụng hình sự tiêu biểu
28
1.5.1. Biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án hình
sự của Liên bang Nga
28
1.5.2. Biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án hình
sự của Trung Quốc
30
1.5.3. Biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án hình
sự của Cộng hòa Liên bang Đức
33
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT
NAM VỀ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG
GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ
THỰC TRẠNG ÁP DỤNG
36
2.1. Quy định của pháp luật việt nam về biện pháp ngăn chặn
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
36
2.1.1. Quy định của pháp luật Việt Nam về biện pháp ngăn chặn
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự trước năm 2003
36
2.1.2. Quy định của pháp luật Việt Nam về các biện pháp ngăn 39
chặn theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003
2.2. Thực trạng áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự
54
2.2.1. Thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự
54
2.2.2. Những khó khăn, vướng mắc và hạn chế trong việc áp
dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự
63
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
ÁP DỤNG BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN
HÌNH SỰ
72
3.1. Cơ sở nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp ngăn chặn
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
72
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp ngăn
chặn trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
74
3.2.1. Hoàn thiện quy định của pháp luật về các biện pháp ngăn
chặn
74
3.2.2. Nâng cao tinh thần trách nhiệm của các cơ quan tiến hành
tố tụng trong áp dụng biện pháp ngăn chặn
78
3.2.3. Xử lý nghiêm minh, kịp thời các trường hợp vi phạm
trong quá trình áp dụng biện pháp ngăn chặn
80
3.2.4. Tăng cường mối quan hệ phối hợp, trao đổi giữa các cơ
quan tiến hành tố tụng cũng như các cơ quan, tổ chức hữu
quan
84
3.2.5. Các giải pháp khác 87
KẾT LUẬN 92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 94
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Các biện pháp ngăn chặn (BPNC) là một chế định quan trọng của
pháp luật tố tụng hình sự (TTHS), là phương tiện cưỡng chế nhà nước có hiệu
quả nhất để phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm và bảo đảm cho việc giải quyết
vụ án hình sự đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Mặt khác, nó còn là
phương tiện pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân đối với
người bị hại, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và cả
người liên quan đến tội phạm chưa bị khởi tố, bị can, bị cáo, cũng như thân
nhân của họ.
Việc áp dụng các BPNC đối với người có hành vi phạm tội được xem
là một yếu tố quan trọng, thiết yếu của quá trình điều tra, bởi lẽ nó ảnh hưởng
trực tiếp đến sinh mệnh chính trị và các quyền cơ bản của công dân, liên quan
đến đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Thực tiễn điều tra hình sự nói chung, điều tra vụ án hình sự nói riêng
cho thấy, việc áp dụng các BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự hết
sức phức tạp, nhạy cảm và còn nhiều khó khăn, vướng mắc. Trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự, việc áp dụng các BPNC không chỉ là áp dụng pháp luật
đơn thuần mà còn phải cân nhắc tới nhiều yếu tố như pháp luật, chính trị,
nghiệp vụ, vấn đề quyền con người để cân nhắc tính toán, hạn chế đến mức
thấp nhất những sơ hở, thiếu sót.
Tuy nhiên, trong khoa học luật TTHS, chế định các BPNC vẫn chưa
được quan tâm, nghiên cứu một cách thỏa đáng đối với tầm quan trọng của nó
theo định hướng của Đảng về việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật
phòng ngừa và đấu tranh, phòng ngừa tội phạm. Việc áp dụng các BPNC thời
gian qua đã đạt được những kết quả đáng kể, thu được những kinh nghiệm
nhất định, nhưng đồng thời cũng bộc lộ những hạn chế, tồn tại, vướng mắc về
mặt nhận thức, tổ chức thực hiện… cần phải được nghiên cứu giải quyết.
2
Từ những lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài "Biện pháp ngăn chặn
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự" làm đề tài luận văn thạc sĩ nhằm đáp
ứng yêu cầu về lý luận và thực tiễn đặt ra.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Các BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự luôn được nhà nước,
cơ quan chức năng xác định vị trí quan trọng, cần được tập trung tiến hành. Vì
tính chất quan trọng của việc áp dụng các BPNC nên chúng trở thành trọng
tâm nghiên cứu không những của các nhà lý luận mà cả những cán bộ làm
công tác thực tiễn trong các ngành bảo vệ pháp luật ở trong và ngoài nước.
Các BPNC được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS)
của hầu hết các nước trên thế giới. Vì vậy, có nhiều tác giả ở nước ngoài đã
nghiên cứu nội dung các BPNC với phạm vi khác nhau. Riêng dưới góc độ
luật TTHS, các công trình nghiên cứu về các BPNC khá phong phú và đa
dạng ở nước ngoài, nhất là các nước như Trung Quốc, Nga, Mỹ, Nhật Bản,
Đức. Việc tiếp cận, nghiên cứu các công trình về các BPNC dưới góc độ luật
TTHS cũng rất thuận lợi, nhất là trong thời kỳ hội nhập quốc tế và hợp tác
trên nhiều lĩnh vực như hiện nay. Đây là điều kiện thuận lợi để nghiên cứu, so
sánh quy định về các BPNC trong BLTTHS Việt Nam với BLTTHS các
nước, trên cơ sở đó có sự tham khảo nhằm sửa đổi, bổ sung các quy định của
pháp luật Việt Nam cho hợp lý, hội nhập được với thế giới.
Bên cạnh các công trình nghiên cứu dưới góc độ pháp luật TTHS,
cũng có các công trình nghiên cứu về việc áp dụng các BPNC trong điều tra
hình sự. Bởi lẽ việc nghiên cứu, tổng kết thực tiễn điều tra tội phạm để hình
thành lý luận về phương pháp, chiến thuật điều tra là một đòi hỏi bức thiết đối
với mọi quốc gia. Tuy nhiên, đến nay trên thế giới chưa có nhiều công trình
khoa học nào nghiên cứu về BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự một
cách cơ bản, hệ thống.
3
Ở trong nước, trên các góc độ, khía cạnh nghiên cứu khác nhau đã có
một số đề tài, công trình khoa học đề cập có liên quan đến đề tài. Cụ thể:
- Giáo trình: Các BPNC là một chế định rất quan trọng trong
BLTTHS, vì vậy đã có rất nhiều giáo trình, sách tham khảo nghiên cứu, đề
cập đến vấn đề này dưới góc độ luật TTHS như: giáo trình Luật Tố tụng hình
sự Việt Nam của trường Đại học Luật Hà Nội; giáo trình Luật Tố tụng hình sự
Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001; Bình luận khoa học Bộ luật
Tố tụng hình sự, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2007; Các biện pháp ngăn
chặn và những vấn đề nâng cao hiệu quả của chúng, Nxb Công an nhân dân,
năm 1995 của Tiến sĩ Nguyễn Vạn Nguyên; Những biện pháp ngăn chặn
trong tố tụng hình sự, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 1997 của Thạc sĩ
Nguyễn Mai Bộ; Các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự - những vấn
đề về lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, năm 1999 của Tiến sĩ
Nguyễn Duy Thuân; Hệ thống biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự
Việt Nam - những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng của lực lượng cảnh
sát nhân dân, Nxb Công an nhân dân, năm 2001 của Tiến sĩ Trịnh Văn
Thanh; Về tự do cá nhân và biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự, Nxb Chính
trị quốc gia, năm 2005 của Tiến sĩ Trần Quang Tiệp; sách chuyên khảo
"Chiến thuật điều tra hình sự", Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2010 của
PGS.TS Nguyễn Huy Thuật...
Các giáo trình và sách tham khảo nói trên đã tập trung nghiên cứu về
các BPNC dưới góc độ luật TTHS. Vì vậy, nó có ý nghĩa đối với việc nghiên
cứu đề tài ở khía cạnh cơ sở pháp lý.
- Luận án, luận văn, đề tài khoa học
+ Luận án tiến sĩ luật học, chuyên ngành hình pháp học: "Áp dụng
biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự của lực lượng cảnh sát
nhân dân" của nghiên cứu sinh Trịnh Văn Thanh, hoàn thành năm 2000.
4
+ Luận án tiến sĩ luật học năm 2001, chuyên ngành luật Hình sự và
TTHS: "Điều tra các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia trong tình hình hiện
nay ở Việt Nam" của nghiên cứu sinh Lê Minh Hùng.
+ Luận án tiến sĩ luật học năm 2005, chuyên ngành luật hình sự: "Các
biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam.
Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp" của nghiên cứu sinh Nguyễn Văn Điệp.
+ Luận văn thạc sĩ năm 2006 "Tạm giam trong Tố tụng hình sự" của
Phạm Khắc Vực...
Tuy nhiên, các công trình nói trên chủ yếu đề cập đến một số BPNC
cụ thể, hoặc nghiên cứu các BPNC trong các giai đoạn điều tra cụ thể. Đến
nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách chuyên sâu, hệ thống về các
BPNC, từ đó đề xuất hệ thống giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các
BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Vì vậy, đây là đề tài đầu tiên
nghiên cứu một cách sâu sắc, toàn diện và có hệ thống về các BPNC trong
giai đoạn điều tra hình sự ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Làm rõ những vấn đề lý luận về các BPNC và thực tiễn áp dụng các
BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, từ đó đề xuất hệ thống giải pháp
có tính khả thi, góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng các BPNC trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ những nhận thức cơ bản về các BPNC trong giai đoạn điều
tra vụ án hình sự (khái niệm, đặc điểm liên quan, cơ sở áp dụng...).
- Đánh giá đúng thực trạng áp dụng các BPNC trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng các
BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
5
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về các
BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ở Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu
+ Về nội dung: Luận văn nghiên cứu về áp dụng các BPNC trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự.
- Về thời gian: Luận văn nghiên cứu từ năm 2003 (thời điểm ban hành
BLTTHS năm 2003) đến nay.
- Về địa bàn: Luận văn nghiên cứu trong phạm vi toàn quốc, tập trung
chủ yếu ở các tỉnh, thành phố đã xảy ra nhiều án hình sự như: thành phố Hà
Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh Tây Nguyên, Quảng Ninh, Hải Phòng.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về chính sách hình sự và đấu tranh
phòng chống tội phạm. Đồng thời, sử dụng một số phương pháp cụ thể sau:
Phương pháp khảo sát điển hình, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh,
phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, Phương pháp chuyên gia..
6. Những đóng góp mới của luận văn
* Về mặt lý luận
Luận văn góp phần bổ sung, hoàn thiện hệ thống lý luận khoa học về
điều tra hình sự nói chung và các BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
nói riêng.
* Về mặt thực tiễn
- Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng về BPNC trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự, xác lập cơ sở pháp lý, đề xuất giải pháp, kiến nghị nâng cao
hiệu quả áp dụng các BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự trong thời
gian tới.
6
- Luận văn và các sản phẩm khoa học được tạo lập trong quá trình
nghiên cứu luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên
cứu chuyên ngành luật Hình sự và TTHS.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về biện pháp ngăn chặn trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự.
Chương 2: Quy định của pháp luật Việt Nam về biện pháp ngăn chặn
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự và thực trạng áp dụng.
Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp ngăn
chặn trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. KHÁI NIỆM
1.1.1. Khái niệm biện pháp ngăn chặn
Để thực hiện nhiệm vụ chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm,
phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi
phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, BLTTHS cho
phép cơ quan tiến hành tố tụng (THTT) áp dụng nhiều biện pháp, trong đó có
các biện pháp cưỡng chế TTHS.
Các biện pháp cưỡng chế được hầu hết các giáo trình luật TTHS Việt
Nam chia ra làm ba nhóm như sau:
Nhóm thứ nhất, các BPNC, gồm: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi
nơi cư trú, bảo lãnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm.
Nhóm thứ hai, các biện pháp thu thập chứng cứ, gồm: khám xét người,
chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm; xem xét dấu vết trên thân thể; thu giữ thư tín,
điện tín, bưu kiện, bưu phẩm; tạm giữ đồ vật là vật chứng, tài liệu có liên
quan trực tiếp đến vụ án.
Nhóm thứ ba, các biện pháp bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố,
xét xử và thi hành án, gồm: kê biên tài sản; áp giải bị can, bị cáo, dẫn giải
người làm chứng; tạm đình chỉ chức vụ của bị can; những biện pháp kỷ luật
người vi phạm trật tự phiên tòa.
Các BPNC thuộc nhóm thứ nhất, chiếm vị trí trung tâm và có vai trò
quan trọng, vì nó có khả năng ngăn chặn việc thực hiện tội phạm, việc bỏ
trốn, tiêu hủy chứng cứ, ngăn ngừa phạm tội mới và bảo đảm cho hoạt động
điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án nhằm góp phần hạn chế tội phạm và các
8
vi phạm pháp luật khác. Mặt khác, việc áp dụng các BPNC làm hạn chế một
số quyền và tự do cá nhân được ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật và có
mức độ hạn chế nghiêm khắc hơn so với các biện pháp khác trong TTHS. Nếu
việc áp dụng các BPNC đối với người bị oan có thể gây ra hậu quả rất nghiêm
trọng không những đối với cá nhân người bị áp dụng mà cả gia đình họ, đồng
thời, làm mất uy tín của cả hệ thống cơ quan tư pháp, giảm sút lòng tin của
nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Các BPNC là cơ sở pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phòng
ngừa và đấu tranh chống tội phạm, đồng thời, là biện pháp hạn chế một số
quyền và tự do cá nhân nên chúng được quan tâm không những từ phía các
nhà lập pháp mà cả những nhà nghiên cứu khoa học luật TTHS ở nước ngoài
cũng như ở trong nước.
Tuy vậy, BLTTHS năm 2003 vẫn chưa có quy phạm định nghĩa về
khái niệm BPNC.
Nghiên cứu pháp luật TTHS của một số nước trên thế giới như: Liên
bang Nga, Nhật Bản, Cộng hòa Pháp, Thái Lan, Malayxia, Canada, Hàn
Quốc, v.v..., cho thấy, các nước quy định rất khác nhau về số lượng các
BPNC, trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp đó.
Bộ luật TTHS Liên bang Nga có quy định về bảy biện pháp ngăn
chặn: cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh của cá nhân, giám sát của đơn vị quân
đội, theo dõi người bị tình nghi hoặc bị can là người chưa thành niên, đặt tiền
hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm, giam tại nhà, tạm giam (Mục 13 - Các
BPNC; chương IV - Các biện pháp cưỡng chế tố tụng), nhưng cũng không có
quy phạm định nghĩa về khái niệm BPNC [45]
Bộ luật TTHS Nhật Bản không sử dụng cụm từ "biện pháp ngăn
chặn", mà quy định trình tự, thủ tục bắt người tình nghi, giam giữ người bị
tình nghi, bắt khẩn cấp người bị tình nghi, bắt người phạm tội quả tang tại
Chương 1 - Điều tra và thẩm vấn, quyển II - Sơ thẩm [43].
9
Bộ luật TTHS Cộng hòa Liên bang Đức có sử dụng cụm từ BPNC tại
Mục 7 - Giám sát tư pháp và BPNC là giám sát tư pháp và tạm giam, nhưng
cũng không đưa ra khái niệm BPNC [46].
Các chuyên gia luật học của nước ngoài đã nêu ra những khái niệm
khác nhau về BPNC, phản ánh được khái quát những đối tượng nghiên cứu
mà chúng ta cần tham khảo, tiếp thu, như: quan niệm về bản chất pháp lý của
BPNC, sự cưỡng chế nhà nước mang tính phòng ngừa, quyền lựa chọn BPNC
trong TTHS.
Trong khoa học luật TTHS Việt Nam cũng có nhiều khái niệm khác
nhau về BPNC, như:
- Từ điển Luật học giải thích BPNC là biện pháp cưỡng chế về mặt tố
tụng hình sự áp dụng khi có đủ căn cứ đối với bị can, bị cáo hoặc người chưa
bị khởi tố trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang để ngăn chặn
hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn
tránh pháp luật hoặc có hành động gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét
xử và thi hành án [27, tr.69]. Từ điển đã xác định đúng đối tượng và mục đích
áp dụng các BPNC, nhưng không chỉ ra chủ thể có quyền áp dụng chúng.
- Một số khái niệm khác về BPNC của các nhà khoa học nghiên cứu
pháp luật, cán bộ làm công tác thực tiễn phòng ngừa và đấu tranh chống tội
phạm được công bố trong các giáo trình Luật TTHS Việt Nam, sách chuyên
khảo, tạp chí chuyên ngành luật học. Các khái niệm đó đều dựa trên cơ sở
phân tích nội dung của các quy phạm pháp luật tại Điều 61 BLTTHS năm
1988 và Điều 79 BLTTHS năm 2003, cũng như thực tiễn áp dụng chúng trong
công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.
- Điều 79 BLTTHS quy định những biện pháp ngăn chặn bao gồm:
bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có
giá trị để đảm bảo. Đây là những biện pháp cưỡng chế cần thiết của TTHS nhằm
tước bỏ hoặc hạn chế một phần các quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp
ghi nhận [31].
10
Bởi vậy, biện pháp ngăn chặn chỉ được áp dụng đối với đối tượng là bị
can, bị cáo hoặc những người chưa bị khởi tố trong trường hợp khẩn cấp hoặc
phạm tội quả tang do Bộ luật TTHS quy định.
Mục đích của việc áp dụng BPNC là để cho người phạm tội không có
điều kiện tiếp tục thực hiện tội phạm; chặn đứng hành động chống đối; không để
cho người phạm tội trốn tránh pháp luật, đảm bảo cho mọi hoạt động điều tra,
truy tố, xét xử và chấp hành án hình sự được đúng đắn, góp phần nâng cao hiệu
lực quản lý nhà nước, củng cố và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, nâng
cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.
Những biện pháp ngăn chặn là những biện pháp cưỡng chế trong tố
tụng hình sự được áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc đối với những người
chưa bị khởi tố (trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang), nhằm
ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục
phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét
xử và thi hành án.
Từ các nội dung trên có thể rút ra một số đặc điểm sau của các BPNC:
- Bản chất pháp lý: biện pháp cưỡng chế nhà nước mang tính phòng ngừa.
- Căn cứ cụ thể áp dụng: những tài liệu nói lên khả năng cản trở việc xác
định sự thật của vụ án, khả năng trốn tránh việc điều tra, truy tố, xét xử từ phía bị
can, bị cáo hoặc khả năng tiếp tục thực hiện tội phạm của họ và chứng cứ khẳng
định một người đã thực hiện tội phạm, cũng như các điều kiện áp dụng đã được
luật hóa. Những tài liệu đó phải thể hiện trong hồ sơ vụ án để làm căn cứ ra
quyết định áp dụng, thay thế, hủy bỏ các BPNC.
- Chủ thể có quyền áp dụng BPNC: người có quyền hạn được quy
định tại BLTTHS.
- Đối tượng bị áp dụng: người liên quan đến tội phạm chưa bị khởi tố,
bị can, bị cáo.
- Mục đích áp dụng: ngăn chặn đối tượng nói trên phạm tội và bảo
đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự.
11
Từ sự phân tích ở trên, ta có thể đưa ra khái niệm BPNC như sau: Biện
pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế nhà nước mang tính phòng ngừa do
người có quyền hạn được quy định trong Bộ luật TTHS áp dụng đối với bị can,
bị cáo, người liên quan đến tội phạm chưa bị khởi tố, khi có căn cứ áp dụng
nhằm ngăn chặn tội phạm, bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và
thi hành án hình sự.
Các BPNC trong Bộ luật TTHS được sử dụng hầu như đối với mọi vụ
án hình sự. Chúng có tác dụng ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn việc cản trở
hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, bảo đảm cho quá trình giải
quyết vụ án theo thời hạn đã quy định, nên có ý nghĩa rất to lớn trong công
cuộc phòng ngừa đấu tranh chống tội phạm thông qua các khía cạnh, như:
Thứ nhất, những quy phạm pháp luật về các biện pháp ngăn chặn thể
hiện sự chuyên chính của Nhà nước trong đấu tranh chống tội phạm bằng sức
mạnh cưỡng chế.
Thứ hai, những quy phạm pháp luật về các biện pháp ngăn chặn có ý
nghĩa tạo điều kiện thuận lợi cho cả quá trình xử lý vụ án.
Thứ ba, những quy phạm pháp luật về các biện pháp ngăn chặn thể
hiện tính ưu việt của Nhà nước XHCN.
Thứ tư, những quy phạm pháp luật về các biện pháp ngăn chặn có ý
nghĩa to lớn trong việc tôn trọng và bảo vệ quyền tự do cá nhân được Hiến
pháp, pháp luật ghi nhận.
1.1.2. Khái niệm giai đoạn điều tra vụ án hình sự
Điều tra là hoạt động có mục đích khám phá sự thật khách quan phục
vụ nhu cầu của con người. Trong lĩnh vực phòng, chống tội phạm, điều tra là
hoạt động khám phá, phát hiện tội phạm. Hoạt động điều tra được nhìn nhận
và quy định khác nhau ở các quốc gia phụ thuộc vào quan điểm chính trị,
chính sách hình sự, trình độ và cách thức tổ chức bộ máy phòng, chống tội
phạm ở từng nước.
12
Trong khoa học pháp lý của Liên Xô trước đây và của Nga hiện nay
có nhiều quan điểm khác nhau về hoạt động điều tra. Đặc điểm chung của các
quan điểm đó đã nêu bật được nội dung bản chất của hoạt động điều tra là
hoạt động phát hiện, thu thập, củng cố, ghi nhận, thu giữ những thông tin của
vụ án. Điểm khác nhau là quan niệm về đối tượng mà hoạt động điều tra tác
động tới, thừa nhận điều tra viên là chủ thể của hoạt động điều tra [45].
Trong khoa học pháp lý Việt Nam cũng tồn tại các quan điểm khác
nhau về hoạt động điều tra. Cách hiểu phổ biến ở Việt Nam hiện nay cho rằng
điều tra là hoạt động của cơ quan điều tra trong điều tra vụ án hình sự. Quan
điểm này cho rằng điều tra là tổng hợp tất cả các hành vi thực hiện trong giai
đoạn điều tra và do một cơ quan điều tra thực hiện. Ví dụ: Trong cuốn Tìm
hiểu Luật Tố tụng hình sự, một nhóm tác giả cùng thống nhất giải thích rằng,
"Điều tra là một giai đoạn của quá trình tố tụng hình sự, trong đó cơ quan điều
tra áp dụng các biện pháp do Luật tố tụng hình sự quy định để xác định tội
phạm và người thực hiện hành vi phạm tội, Viện kiểm sát kiểm sát hoạt động
điều tra, quyết định truy tố bị can làm cơ sở cho việc xét xử của Tòa án";
hoặc, "Điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng hình sự, trong giai đoạn
này cơ quan điều tra áp dụng mọi biện pháp do Bộ luật tố tụng hình sự quy
định để xác định tội phạm và người phạm tội". Từ điển Luật học giải thích
"điều tra là công tác trong tố tụng hình sự được tiến hành nhằm xác định sự
thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ" [27].
Cách hiểu này thể hiện ranh giới không rõ ràng giữa chức năng của cơ
quan điều tra với hoạt động điều tra, đồng nhất giai đoạn điều tra với hoạt
động điều tra, coi hoạt động điều tra gồm mọi hoạt động tố tụng trong giai
đoạn điều tra; nhìn nhận về hoạt động điều tra mang tính cục bộ, phiến diện,
bó hẹp phạm vi hoạt động điều tra chỉ được tiến hành trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự. Trên thực tế hoạt động điều tra được tiến hành trong tất cả các
giai đoạn tố tụng hình sự, điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự với những
mục đích khác nhau để xác định sự thật khách quan của vụ án.
13
Cách hiểu thứ hai coi hoạt động điều tra là hoạt động của cơ quan điều
tra, viện kiểm sát và tòa án nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án.
Điểm khác biệt lớn nhất của quan điểm này so với quan điểm thứ nhất là đã
nhìn nhận chủ thể của hoạt động điều tra rộng hơn. Tuy nhiên, cách hiểu thứ
hai lại nhầm lẫn giữa các hoạt động của cơ quan điều tra với hoạt động điều
tra; giữa chức năng của từng hoạt động điều tra với chức năng của các cơ
quan điều tra và viện kiểm sát.
Về mặt luật thực định, ở Việt Nam hiện nay chưa có một khái niệm
pháp lý về "hoạt động điều tra" và cũng chưa được giải thích chính thức bởi
các cơ quan có thẩm quyền. Trong tất cả các Bộ luật Tố tụng hình sự, chưa có
điều luật nào giải thích hoặc định nghĩa về hoạt động điều tra.
Mặc dù hoạt động điều tra đã được quy định trong các văn bản pháp
luật tố tụng hình sự, hoạt động điều tra được các cơ quan tố tụng hình sự thực
hiện thường xuyên trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, nhưng khoa
học pháp lý và thực tiễn hiện nay có những quan điểm khác nhau, chưa thống
nhất nhận thức về hoạt động điều tra, vẫn có sự nhầm lẫn giữa các khái niệm
điều tra, thẩm quyền điều tra vụ án và hoạt động điều tra; giữa giai đoạn điều
tra với hoạt động điều tra. Chính vì vậy mà vô tình đồng nhất hoạt động điều
tra với các hoạt động khác của cơ quan điều tra, bó hẹp phạm vi chủ thể,
phạm vi thời gian của hoạt động điều tra [1].
Tóm lại, từ những nhận định trên ta có thể chỉ ra khái niệm của giai
đoạn điều tra vụ án hình sự như sau:
Giai đoạn điều tra vụ án hình sự là quá trình áp dụng pháp luật nhằm
làm rõ sự thật khách quan toàn diện về vụ án hình sự. Trong giai đoạn điều
tra, cơ quan điều tra tiến hành các hoạt động theo quy định của Bộ luật TTHS
để thu thập chứng cứ, bao gồm chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định
vô tội, chứng cứ xác định tình tiết tăng nặng, chứng cứ xác định tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can cũng như chứng cứ xác định các tình tiết
khác của vụ án.
14
Bởi vậy, giai đoạn điều tra vụ án hình sự là giai đoạn cơ quan điều tra
áp dụng các hoạt động điều tra do Bộ luật TTHS quy định để thu thập chứng
cứ nhằm xác định tội phạm và người phạm tội, làm cơ sở cho việc giải quyết
vụ án hình sự được đúng đắn.
Như vậy, trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự cần thực hiện hai
nhiệm vụ chính sau:
Thứ nhất, nhanh chóng xác định tội phạm và người thực hiện hành
vi phạm tội. Sau khi đã khởi tố vụ án hình sự, Cơ quan điều tra phải tập
trung vào việc phát hiện, thu thập chứng cứ để xác định trong vụ án đã khởi
tố có những hành vi phạm tội gì, thuộc vào điều khoản nào của BLHS; phải
xác định được tất cả các tội phạm, sao cho không một tội phạm nào không
bị phát hiện.
Thứ hai, xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu các cơ
quan và tổ chức hữu quan có biện pháp khắc phục và ngăn ngừa. Hoạt động
của các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự không chỉ
dừng lại ở việc đấu tranh chống các tội phạm đã được thực hiện mà còn có
trách nhiệm thực hiện các biện pháp phòng ngừa và ngăn chặn tội phạm, làm
sáng tỏ và khắc phục các nguyên nhân và điều kiện của tội phạm.
1.2. VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG GIAI
ĐOẠN đIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.2.1. Vị trí các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ
án hình sự
Xuất phát từ tầm quan trọng của việc bảo đảm quyền con người,
quyền công dân, Điều 20 Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (bổ sung,
sửa đổi năm 2013) quy định:
Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được
pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra
tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào
15
khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm.
Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân,
quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường
hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam giữ người do luật định [33].
Trong thực tế nhiều vụ án xảy ra nếu không áp dụng các BPNC bắt,
tạm giữ, tạm giam đối với bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn rất lớn cho công tác
điều tra, truy tố và xét xử, cụ thể như người phạm tội có thể bỏ trốn khỏi nơi
cư trú sau khi gây án nhằm mục đích trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật;
người phạm tội sau khi gây án có thể có những hành động gây cản trở hoạt
động điều tra của các cơ quan THTT, dẫn đến hoạt động điều tra gặp nhiều
khó khăn hơn; nhiều bị can, bị cáo lại không có nơi cư trú rõ ràng, hoặc luôn
thay đổi chỗ ở, trong trường hợp này nếu không bắt, tạm giữ, tạm giam bị
can, bị cáo sẽ bỏ trốn gây khó khăn cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử, mặc
dù phạm tội ít nghiêm trọng; người phạm tội sau khi gây án có thể tẩu tán tài
sản, tang vật do phạm tội mà có gây khó khăn cho công tác thu hồi lại tài sản
phạm tội, cũng như có những hành động nhằm che giấu tội phạm; người
phạm tội sau khi gây án xong nếu không bắt tạm giữ, giam sẽ có thời gian để
xóa dấu vết phạm tội, tiêu hủy chứng cứ, bịt đầu mối hay tìm cho mình những
chứng cứ ngoại phạm hòng trốn tránh tội; người phạm tội có thể tiếp tục
phạm tội mới nếu không áp dụng các BPNC ngay đối tượng phạm tội sẽ gây
nguy hiểm cho xã hội...
Chính vì vậy, BLTTHS quy định về các BPNC là có ý nghĩa về mặt
lập pháp, thể hiện vị trí, vai trò hết sức quan trọng, đảm bảo cho việc đấu
tranh phòng, chống tội phạm có hiệu quả, đảm bảo hoạt động của các cơ quan
THTT được thuận lợi, thể hiện sự chuyên chính của Nhà nước XHCN trong
việc đấu tranh chống tội phạm. Các BPNC được quy định trong BLTTHS còn
góp phần tích cực vào việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ sự an toàn, vững mạnh
của chế độ XHCN, bảo vệ tài sản, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm
16
của công dân. Bên cạnh đó, việc áp dụng tùy tiện các BPNC nhất là bắt, tạm
giữ, tạm giam oan người vô tội, bắt, tạm giữ, tạm giam sai thẩm quyền, tạm
giữ, tạm giam quá hạn… đều bị coi là những hành vi vi phạm pháp luật.
Những hành vi vi phạm này không chỉ xâm phạm hoạt động đúng đắn của các
THTT, xâm hại quyền bất khả xâm phạm về thân thể và sinh mạng chính trị
của công dân mà còn làm giảm uy tín của Nhà nước, giảm sút lòng tin của
nhân dân đối với cơ quan thi hành pháp luật.
Việc quy định các BPNC trong BLTTHS còn đảm bảo sự dân chủ, tôn
trọng các quyền cơ bản của công dân được quy định trong Hiến pháp như
quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do cư trú và đi lại…, thể hiện
tính ưu việt của chế độ XHCN. Việc quy định và áp dụng đúng đắn các biện
pháp này chính là sự đảm bảo sự chắc chắn cho kịp thời, chính xác kẻ phạm
tội, không để lọt kẻ phạm tội, không làm oan người vô tội, ngăn chặn không
cho người phạm tội tiếp tục phạm tội hoặc phạm tội mới; đồng thời bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Nghiên cứu các BPNC, ngoài ý
nghĩa về mặt lý luận, còn có ý nghĩa phục vụ việc nâng cao nhận thức của
nhân dân nói chung, cán bộ các cơ quan bảo vệ pháp luật nói riêng về sự sự
cần thiết phải áp dụng các biện pháp này trong hoạt động điều tra, truy tố, xét
xử, thi hành án. Sự nắm vững nội dung, phạm vi, quyền hạn, thủ tục của
những biện pháp này sẽ giúp cho các cơ quan bảo vệ pháp luật áp dụng đúng
pháp luật, không vi phạm các quyền công dân, góp phần nâng cao hiệu quả
đấu tranh phòng, chống tội phạm; giúp công dân có cơ sở pháp lý tham gia
tích cực vào cuộc đấu tranh chống tội phạm; đồng thời tự bảo vệ các quyền và
lợi ích hợp pháp của mình. Bên cạnh đó, nó còn có ý nghĩa cung cấp luận cứ
khoa học cho việc hoàn thiện các chế định các BPNC và phục vụ cho các cơ
quan chức năng trong việc hướng dẫn các quy định về các biện pháp này một
cách thống nhất. Nghiên cứu các BPNC có ý nghĩa đặc biệt trong giai đoạn
xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN nước ta hiện nay.
17
Qua phân tích như trên cho thấy vị trí quan trọng của các BPNC trong
giai đoạn điều tra vụ án hình sự, điều đó đảm bảo cho công tác điều tra, truy
tố và xét xử.
1.2.2. Vai trò của các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều
tra vụ án hình sự
Vai trò của các BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự nói chung
được quy định tại Điều 79, BLTTHS năm 2003:
Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ bị can,
bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố xét xử hoặc sẽ tiếp tục
phạm tội, cũng như khi cần bảo đảm thi hành án, CQĐT, VKS, Tòa án trong
phạm vi thẩm quyền tố tụng của mình hoặc người có thẩm quyền theo quy
định của Bộ luật này có thể áp dụng một trong những BPNC sau: bắt, tạm
giữ, tạm giam… [28].
Ở giai đoạn điều tra, việc áp dụng biện pháp bắt người nhằm kịp thời
ngăn chặn hành vi phạm tội; việc áp dụng biện pháp tạm giữ nhằm xác
định có căn cứ khởi tố bị can hay không đối với người bị bắt khẩn cấp,
phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc để chuyển giao
người bị bắt theo lệnh truy nã cho CQĐT đã ra lệnh truy nã; việc bắt bị can,
bị cáo để tạm giam nhằm bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án và thời hạn áp dụng nó căn cứ vào bốn loại tính chất tội phạm đã
được quy định tại Điều 8 BLHS, còn việc áp dụng các biện pháp khác, như:
cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm
lại có mục đích bảo đảm sự có mặt của bị can khi CQĐT triệu tập theo các
điều 91, 92, 93 BLTTHS.
Bên cạnh đó, áp dụng các BPNC còn có ý nghĩa tạo điều kiện thuận
lợi cho cả quá trình xử lý vụ án. Để thực hiện nhiệm vụ chủ động phòng ngừa,
ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh,
kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người
18
vô tội mà Điều 1 BLTTHS đã xác định, thì cơ quan (người) THTT được sử
dụng các BPNC như là một phương tiện có hiệu quả nhất giải quyết tình hình
tội phạm xảy ra trong toàn quốc, trên địa bàn quản lý theo lãnh thổ.
Hiệu quả của chúng thể hiện ở việc: bảo đảm bí mật của vụ án, các đối
tượng không thể thông cung với nhau, xóa dấu vết, cất giấu công cụ, phương
tiện phạm tội hoặc đe dọa, trả thù, cưỡng ép hoặc mua chuộc người bị hại,
người làm chứng; tạo điều kiện thuận lợi cho thu thập chứng cứ mà không bị
cản trở từ phía bị can, bị cáo; bảo đảm tiến độ giải quyết vụ án trong thời hạn
điều tra, truy tố, xét xử theo quy định của BLTTHS.
1.3. CĂN CỨ, NỘI DUNG, ĐIỀU KIỆN ÁP DỤNG BIỆN PHÁP NGĂN
CHẶN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.3.1. Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều
tra vụ án hình sự
Trên cơ sở Điều 79 BLTTHS, căn cứ áp dụng các BPNC bao gồm: để
kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây
khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, cũng như
khi cần bảo đảm thi hành án. Theo nội dung này, có bốn căn cứ chung để áp
dụng chúng là:
Thứ nhất, khi cần thiết để kịp thời ngăn chặn tội phạm. Các tội phạm
đã thực hiện đều gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho một hay nhiều quan
hệ xã hội đã được xác định trong BLHS. Việc ngăn chặn tội phạm không cho
nó hoàn thành, gây ra hậu quả thực tế có ý nghĩa quan trọng và cấp bách. Vì
vậy, BLTTHS quy định các căn cứ kịp thời ngăn chặn tội phạm trong hai
trường hợp sau: a) Trường hợp bắt khẩn cấp: khi có căn cứ để cho rằng một
người đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm
trọng theo điểm a khoản 1 Điều 81; b) Trường hợp bắt quả tang: khi người đó
đang thực hiện tội phạm hoặc sau khi thực hiện tội phạm, thì bị phát hiện hoặc
bị đuổi bắt theo khoản 1 Điều 82.
19
Thứ hai, khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho
hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Đây là căn cứ dự báo được dựa trên những
tài liệu có các tình tiết và hành vi của bị can, bị cáo, như: a) Nơi cư trú của họ
không có hoặc không rõ ràng, sự vắng mặt của họ theo giấy triệu tập của cơ
quan (người) THTT, đã di chuyển khỏi nơi cư trú…; b) Tính chất của tội
phạm mà bị can, bị cáo đã thực hiện thuộc vào loại tội rất nghiêm trọng, đặc
biệt nghiêm trọng. Về tâm lý, mức hình phạt của các loại tội phạm này là rất
cao, nên người phạm tội luôn có tâm lý ám ảnh, sợ hãi, dẫn đến hành vi xóa
dấu vết, tiêu hủy tài liệu, đối phó với CQĐT và bỏ trốn…; c) Các hành vi của
họ được diễn ra sau khi tội phạm đã thực hiện, như: mua chuộc, đe dọa người
bị hại, người làm chứng, xóa dấu vết, tiêu hủy chứng cứ, thông đồng với nhau
khai báo sai sự thật…
Thứ ba, khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội.
Đây là căn cứ dự báo và có thể xác định trên hai tiêu chí, như: a) Về nhân
thân bị can, bị cáo là những đối tượng có nhân thân xấu. Ví dụ: bị can, bị cáo
là người có ý thức chống đối giai cấp sâu sắc, những phần tử thuộc diện lưu
manh, côn đồ, hung hãn… Bị can, bị cáo là những đối tượng phạm tội đã có
nhiều tiền án, tiền sự hoặc những đối tượng phạm tội có tính chất chuyên
nghiệp; b) Về hành vi của bị can, bị cáo: đe dọa trả thù người tố giác, người bị
hại, người làm chứng; có sự chuẩn bị công cụ, phương tiện cho việc phạm tội
và xét thấy khả năng thực hiện được những hành vi này.
Thứ tư, để bảo đảm thi hành án. Thi hành bản án và quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của Tòa án có liên quan trực tiếp đến người bị kết án. Sự có
mặt của họ rất cần thiết để cho quyết định của Tòa án có hiệu lực trên thực tế.
Nếu người bị kết án bỏ trốn, thì việc truy cứu TNHS trở thành vô nghĩa. Cho
nên, BLTTHS năm 2003 có quy định năm căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam
để bảo đảm thi hành án, gồm: a) Trường hợp bị cáo không bị tạm giam,
nhưng bị phạt tù, thì họ chỉ bị bắt giam để chấp hành hình phạt khi bản án đã
20
có hiệu lực pháp luật. Hội đồng xét xử (HĐXX) có thể ra quyết định bắt tạm
giam ngay bị cáo nếu có căn cứ cho thấy bị cáo có thể trốn hoặc tiếp tục phạm
tội theo khoản 2 Điều 228; b) Trường hợp bị cáo đang bị tạm giam mà đến
ngày mở phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết, nếu xét thấy cần tiếp tục tạm giam
để hoàn thành việc xét xử, thì Tòa án ra lệnh tạm giam cho đến khi kết thúc
phiên tòa theo Điều 177; c) Trường hợp bị cáo bị tạm giam mà bị xử phạt tù
và đến ngày kết thúc phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết, thì HĐXX quyết định
tạm giam bị cáo để bảo đảm việc thi hành án, trừ trường hợp trả tự do vì bị phạt
tù, nhưng cho hưởng án treo hoặc thời hạn phạt tù ngắn hơn hoặc bằng thời
hạn tạm giam được quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 227 theo Điều 228;
d) Trường hợp bị cáo bị tạm giam mà bị xử phạt tù mà đến ngày kết thúc
phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết, nếu xét thấy cần tiếp tục tạm giam để
hoàn thành việc xét xử, thì HĐXX quyết định tạm giam bị cáo để bảo đảm
việc thi hành án, trừ trường hợp trả tự do vì bị phạt tù, nhưng cho hưởng án
treo hoặc thời hạn phạt tù ngắn hơn hoặc bằng thời hạn tạm giam được quy
định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 227 theo Điều 243; e) Trường hợp bị cáo bị
phạt tử hình, thì HĐXX quyết định trong bản án việc tiếp tục tạm giam bị cáo
để bảo đảm thi hành án theo Điều 228.
Ngoài ra, trong quá trình giải quyết vụ án, cơ quan THTT còn thay thế
các biện pháp: cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hay tài sản có giá trị
để bảo đảm cho các hình phạt khác nhẹ hơn hình phạt tù được thi hành trong
thực tế, khi có căn cứ sau: a) Thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, góp
phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến
mức thấp nhất hậu quả của tội phạm theo Điều 25 BLHS; b) Hoàn cảnh gia
đình, bản thân họ là người lao động chính duy nhất trong gia đình hoặc do
nhu cầu công vụ theo Điều 61 BLHS; c) Tình trạng sức khỏe, phụ nữ có thai
hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người già yếu, người bị bệnh nặng
theo Điều 88 BLTTHS; d) Tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành
21
vi phạm tội, nhân thân của bị can, bị cáo theo Điều 92 BLTTHS và tình trạng
tài sản theo Điều 93 BLTTHS.
Khi giải quyết vụ án hình sự, theo các căn cứ chung được nêu ở trên,
người THTT còn phải xem xét những căn cứ khác được quy định tại một BPNC
cụ thể trong BLTTHS để quyết định lựa chọn một BPNC nào đó phù hợp với
quy định về: tính chất của tội phạm, nhân thân đối tượng và điều kiện áp dụng.
Việc quyết định áp dụng đó phải "tiết kiệm", có nghĩa là chỉ cần áp dụng một
BPNC có mức độ ít nghiêm khắc hơn biện pháp tạm giam mà vẫn đạt được cả hai
mục đích của các BPNC đã được phân tích ở trên, đồng thời, Nhà nước không phải
tốn kém nhiều chi phí vật chất cho những thi hành việc bắt, tạm giữ, tạm giam.
Điều 79 BLTTHS hiện hành có đề cập đến bốn căn cứ chung nói trên,
nhưng không chính xác về căn cứ và mục đích. Trong đó, có hai mục đích bị
hiểu nhầm thành căn cứ là: a) Khi cần thiết để kịp thời ngăn chặn tội phạm; b)
Để bảo đảm thi hành án.
Như vậy, căn cứ áp dụng các BPNC là những tài liệu, chứng cứ mang
tính dự báo về khả năng bị can, bị cáo thực hiện các hành vi cản trở điều tra,
truy tố, xét xử, tiếp tục phạm tội hoặc cản trở thi hành án. Khi áp dụng BPNC
phải dựa vào một trong những căn cứ vừa nêu trên chứ không phải bất kỳ
trường hợp nào bị can, bị cáo cũng đều bị áp dụng BPNC. Việc có hay không
áp dụng BPNC và áp dụng BPNC nào tùy thuộc vào tính chất mức độ của
hành vi phạm tội, cũng như nhân thân của bị can, bị cáo và điều kiện, khả
năng quản lý họ của các cơ quan THTT.
Đối với từng BPNC, luật TTHS còn quy định những căn cứ cụ thể cho
từng biện pháp, tránh sự áp dụng tràn lan không có căn cứ.
1.3.2. Nội dung áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều
tra vụ án hình sự
Với tính chất là một giai đoạn độc lập của TTHS, giai đoạn điều tra vụ
án hình sự có chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể nhằm áp dụng các
22
biện pháp cần thiết do luật định để chứng minh việc thực hiện tội phạm và
người phạm tội, xác định rõ những nguyên nhân và điều kiện phạm tội, đồng
thời kiến nghị các cơ quan và tổ chức hữu quan áp dụng đầy đủ các biện pháp
khắc phục và phòng ngừa tội phạm; Thời điểm của giai đoạn này được bắt
đầu từ khi cơ quan (người) tiến hành TTHS có thẩm quyền ra quyết định khởi
tố vụ án hình sự và kết thúc bằng bản kết luận điều tra và quyết định của
CQĐT về việc đề nghị VKS truy tố bị can trước Tòa án hoặc đình chỉ vụ án
hình sự tương ứng.
Một mặt, điều tra vụ án hình sự là chức năng quan trọng trong hoạt động
tư pháp hình sự của cơ quan (người) tiến hành có thẩm quyền đối với mỗi
hành vi phạm tội nhằm trực tiếp chứng minh hành vi phạm tội và người có lỗi
trong việc thực hiện tội phạm thông qua các chứng cứ đã thu thập được, đồng
thời cũng là một trong những phương tiện cơ bản để thực hiện tốt nguyên tắc
không tránh khỏi trách nhiệm trong thực tiễn áp dụng pháp luật TTHS, tránh
bỏ lọt tội phạm;
Mặt khác, điều tra vụ án hình sự cũng góp phần loại trừ một thái cực
khác trong hoạt động tư pháp hình sự, ngăn chặn kịp thời việc thông qua
quyết định khởi tố bị can một cách không thận trọng, thiếu chính xác và do
vậy, có thể sẽ kéo một loạt hậu quả tiêu cực tiếp theo xảy ra trong việc truy
cứu trách nhiệm hình sự ở các giai đoạn TTHS (như: Truy tố của VKS hoặc
xét xử của Tòa án không khách quan, vô căn cứ và trái pháp luật, làm oan
những người vô tội);
Và cuối cùng, điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn TTHS cơ bản và
quan trọng để tăng cường pháp chế, bảo vệ các quyền và tự do của công dân
trong các giai đoạn trước khi khởi tố của VKS và xét xử của Tòa án, cùng với
các giai đoạn TTHS khác góp phần có hiệu quả vào cuộc đấu tranh phòng và
chống tội phạm trong toàn xã hội.
23
1.3.3. Điều kiện áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều
tra hình sự
- Về thẩm quyền áp dụng BPNC
Ngoài biện pháp bắt người trong trường hợp phạm tội quả tang, người
có lệnh truy nã mà bất kỳ ai cũng có quyền bắt quy định tại Điều 82 BLTTHS
thì những BPNC khác phải do những người có trách nhiệm của các cơ quan
THTT mới có thẩm quyền áp dụng.
Đối với việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp (Điều 81 BLTTHS)
và biện pháp tạm giữ (Điều 86 BLTTHS) thì người có thẩm quyền quyết định
áp dụng phải là: a) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT các cấp; b) Người chỉ
huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy
đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới; c) Người chỉ huy tàu bay, tàu biển, khi
tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng.
Thẩm quyền áp dụng biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam (Điều 80
BLTTHS) và biện pháp tạm giam (Điều 88 BLTTHS) phải là: a) Viện trưởng,
Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) và VKS quân sự các cấp;
b) Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân (TAND), Tòa án quân sự các
cấp; c) Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó Chánh tòa Tòa phúc thẩm
TANDTC; HĐXX; d) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT các cấp.
Thẩm quyền áp dụng các biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú (Điều 91
BLTTHS); Bảo lĩnh (Điều 92 BLTTHS); Đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để
đảm bảo (Điều 93 BLTTHS) do: a) Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND và
VKS quân sự các cấp; b) Chánh án, Phó Chánh án TAND và Tòa án quân sự
các cấp; c) Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó Chánh tòa Tòa phúc
thẩm TANDTC; HĐXX; d) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT các cấp;
đ) Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa có quyền ra quyết định về
việc bảo lãnh.
24
- Về thủ tục áp dụng BPNC
Thủ tục, trình tự khi áp dụng các BPNC cũng được quy định chặt chẽ
đảm bảo cho việc đấu tranh chống tội phạm có hiệu quả, đồng thời không để
bị lợi dụng để xâm hại quyền con người. Tương ứng với mỗi BPNC, luật quy
định chi tiết thủ tục áp dụng đối với cơ quan THTT, người THTT, người tham
gia tố tụng và các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác tham gia vào quá trình giải
quyết vụ án. Đó là các thủ tục về tiến hành, thủ tục lập biên bản, thủ tục ra
quyết định, thủ tục phê chuẩn… và thời hạn, thời điểm áp dụng các BPNC.
1.4. VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI TRONG VIỆC ÁP DỤNG
BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.4.1. Quyền con ngƣời đƣợc quy định trong Hiến pháp và các văn
bản pháp lý khác
Quyền con người là một giá trị nhân loại, đồng thời có tính lịch sử
hình thành trong cuộc đấu tranh giai cấp và được bổ sung mới qua các thời
đại khác nhau. Theo Từ điển tiếng Việt 1992 thì quyền là "điều mà pháp luật
hoặc xã hội công nhận cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi" [36]. Như
vậy, quyền con người là những điều mà pháp luật hoặc xã hội công nhận cho
mỗi con người được hưởng. Quyền con người được đặt trong mối quan hệ với
nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với xã hội và được giải quyết trên
cơ sở đảm bảo lợi ích xã hội. Bảo đảm quyền con người là bảo đảm dân chủ,
bảo đảm hiệu quả, hiệu lực nhà nước cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân. Đây là mục tiêu mà Đảng và Nhà nước ta luôn hướng tới. Việc bảo
đảm các quyền con người, quyền công dân phụ thuộc vào nhiều yếu tố như:
kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng… trong đó nhà nước bảo đảm về mặt
pháp lý, các cơ quan tố tụng bảo đảm thực thi pháp luật có hiệu quả là vấn đề
cực kỳ quan trọng.
Nhằm bảo đảm quyền con người, Hiến pháp (bổ sung, sửa đổi năm
2013) của nước ta đã dành riêng một phần của Chương 2 quy định về quyền
25
con người, quyền và nghĩa vụ của công dân. Trong đó quy định về quyền con
người, quyền công dân có 29 điều (từ Điều 14 đến Điều 43), với những nội
dung cơ bản như: quyền bình đẳng trước pháp luật, quyền được nhà nước bảo
hộ, quyền được sống, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, đời tư, nơi ở hợp
pháp... Quyền con người được Hiến pháp ghi nhận dựa trên hai nguyên tắc
quan trọng: (i) các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh
tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến
pháp và pháp luật; (ii) Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế
theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh
quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng [30].
Từ hai nguyên tắc này và để đảm bảo thực hiện trên thực tế, Hiến pháp (bổ
sung, sửa đổi năm 2013) đã quy định cơ chế thực hiện như sau:
- Quyền con người, quyền công dân được hệ thống cơ quan quyền lực
nhà nước đảm bảo thực hiện. Điều 6 Hiến pháp (bổ sung, sửa đổi năm 2013)
quy định: "Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp,
bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua
các cơ quan khác của Nhà nước". Quốc hội, cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất do nhân dân cả nước bầu ra, bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa
vụ cơ bản của công dân bằng các phương thức sau: xây dựng Hiến pháp và
pháp luật, ghi nhận ý chí, nguyện vọng của nhân dân, thể chế hóa các quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân; giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp và
pháp luật của các chủ thể, nhất là các chủ thể nắm giữ quyền lực nhà nước;
quyết định những vấn đề quan trọng nhất của đất nước. Hội đồng nhân dân
đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương,
thực hiện việc giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước địa phương.
- Quyền con người, quyền công dân được đảm bảo thực hiện bởi hệ
thống cơ quan hành pháp. Chính phủ và ủy ban nhân dân các cấp là chủ thể có
trách nhiệm đưa pháp luật đi vào cuộc sống, làm cho quyền và nghĩa vụ của
26
công dân trở thành hiện thực, là cơ quan trực tiếp quản lý nhà nước trên mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội; trong đó cơ quan công an (CQĐT) có vai trò
quan trọng trong việc bảo vệ trật tự pháp luật và pháp chế.
- Quyền con người, quyền công dân còn được bảo đảm qua hệ thống
cơ quan tư pháp. Tòa án và VKS là các cơ quan bảo vệ pháp chế, quyền làm
chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, tập thể và tính mạng, danh
dự, nhân phẩm… của con người.
Ngoài ra, trong các văn bản quy phạm pháp luật khác cũng đã chú
trọng về quyền con người. Những năm qua, Nhà nước ta đã ban hành mới và
bổ sung, sửa đổi một số lượng lớn văn bản quy phạm pháp luật liên quan
quyền dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quyền của nhóm các đối
tượng dễ bị tổn thương. Hệ thống văn bản luật đã từng bước thể chế hóa các
chính sách của Đảng về quyền con người, tạo cơ sở pháp lý cho việc đảm bảo
quyền con người trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Thực hiện Nghị
quyết 08-NQ/TW ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ
trọng tâm công tác tư pháp và Nghị quyết 49-NQ-TW ngày 02-6-2005 của Bộ
Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp, những năm qua, các cơ quan tư pháp
đã từng bước được kiện toàn theo hướng tinh gọn, hiệu quả nhằm tăng cường
pháp chế XHCN, bảo vệ pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước,
tập thể và công dân.
1.4.2. Bảo vệ quyền con ngƣời thông qua quy định của luật tố tụng
hình sự về áp dụng các biện pháp ngăn chặn
Quyền con người trong TTHS là những giá trị thiêng liêng chỉ dành
cho con người khi họ tham gia quan hệ pháp luật TTHS mà nhà nước có
nghĩa vụ phải ghi nhận trong Hiến pháp, pháp luật và đảm bảo thực hiện trên
thực tế. Bảo vệ quyền con người trong TTHS trước hết đòi hỏi hệ thống pháp
luật không chỉ giúp nhà nước phát hiện xử lý tội phạm mà còn không làm oan
người vô tội và bảo vệ quyền con người, trước hết là những người bị buộc tội.
27
Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, các cơ quan THTT được áp
dụng nhiều biện pháp cưỡng chế trong đó có các BPNC. BPNC là chế định
pháp lý quan trọng được quy định tại Chương VI BLTTHS, bao gồm các biện
pháp: Bắt; tạm giữ; tạm giam; cấm đi khỏi nơi cư trú; bảo lĩnh; đặt tiền hoặc
tài sản để bảo đảm. Nhằm tránh việc lợi dụng của các cơ quan THTT và
người THTT khi áp dụng áp dụng những biện pháp này xâm hại đến quyền
con người, Luật TTHS quy định chặt chẽ mục đích, căn cứ, thẩm quyền, thủ
tục áp dụng.
Về mục đích áp dụng BPNC, Điều 79 BLTTHS quy định chỉ áp dụng
BPNC với hai mục đích là ngăn chặn không cho tội phạm tiếp tục xảy ra gây
thiệt hại cho xã hội, không để người phạm tội tiếp tục thực hiện tội phạm hoặc
cản trở điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trốn tránh sự trừng phạt của pháp
luật; tạo điều kiện thuận lợi để các cơ quan THTT giải quyết vụ án như không
để người phạm tội có thể xóa bỏ dấu vết phạm tội, tiêu hủy chứng cứ, làm giả
chứng cứ, thông cung giữa những người phạm tội hoặc với người làm chứng,
đảm bảo sự có mặt của bị can, bị cáo, bị án khi có yêu cầu của cơ quan THTT.
Ngoài hai mục đích trên BPNC không được áp dụng với bất kỳ mục
đích nào khác, nhất là đối với ý đồ xâm phạm quyền con người.
Để đảm bảo đạt được mục đích đặt ra của BPNC đồng thời bảo vệ các
quyền con người không bị xâm hại, Luật TTHS quy định căn cứ áp dụng các
BPNC, đó là: 1) Để kịp thời ngăn chặn tội phạm; 2) Khi có căn cứ cho rằng bị
can, bị cáo tiếp tục phạm tội; 3) Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây
khó khăn cho việc điều tra, truy tố xét xử; 4) Để đảm bảo thi hành án. Như
vậy, căn cứ áp dụng các BPNC là những tài liệu, chứng cứ mang tính dự báo
về khả năng bị can, bị cáo thực hiện các hành vi cản trở điều tra, truy tố, xét
xử, tiếp tục phạm tội hoặc cản trở thi hành án. Khi áp dụng BPNC phải dựa
vào một trong những căn cứ vừa nêu trên chứ không phải bất kỳ trường hợp
nào bị can, bị cáo cũng đều bị áp dụng BPNC. Việc có hay không áp dụng
28
BPNC và áp dụng BPNC nào tùy thuộc vào tính chất mức độ của hành vi phạm
tội, cũng như nhân thân của bị can, bị cáo và điều kiện, khả năng quản lý họ
của các cơ quan THTT. Đối với từng BPNC Luật TTHS còn quy định những
căn cứ cụ thể cho từng biện pháp tránh sự áp dụng tràn lan không có căn cứ.
Ngoài biện pháp bắt người trong trường hợp phạm tội quả tang, người
có lệnh truy nã mà bất kỳ ai cũng có quyền bắt quy định tại Điều 82 BLTTHS
thì những BPNC khác phải do những người có trách nhiệm của các cơ quan
THTT mới có thẩm quyền áp dụng.
Thủ tục, trình tự khi áp dụng các BPNC cũng được quy định chặt chẽ
đảm bảo cho việc đấu tranh chống tội phạm có hiệu quả đồng thời không để
bị lợi dụng để xâm hại quyền con người.
Như vậy, vấn đề bảo vệ quyền con người đã được BLTTHS Việt Nam
quy định hết sức cụ thể, rõ ràng thông qua các nguyên tắc như: thừa nhận Tòa
án là cơ quan duy nhất có quyền xét xử các vụ án hình sự; bảo vệ quyền cơ
bản của công dân; bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe,
danh dự và nhân phẩm, quyền bào chữa, quyền kháng cáo, quyền minh oan…,
đặc biệt là trong quy định về áp dụng các BPNC.
1.5. BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN
HÌNH SỰ TRONG MỘT SỐ MÔ HÌNH TỐ TỤNG HÌNH SỰ TIÊU BIỂU
1.5.1. Biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
của Liên bang Nga
Những BPNC trong BLTTHS của Liên bang Nga được quy định tại
Mục 13, từ Điều 98 đến Điều 110. Điều 98 quy định những BPNC gồm có:
(1) Cấm đi khỏi nơi cư trú; (2) Bảo lĩnh của cá nhân; (3) Giám sát của đơn vị
quân đội; (4) Quản lý người bị tình nghi hoặc bị can là người chưa thành
niên; (Điểm này được sửa đổi theo Luật liên bang số 58/LLB ngày 29 tháng 5
năm 2002); (5) Đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm; (6) Giam tại nhà;
(7) Tạm giam.
29
So với BLTTHS Việt Nam, BLTTHS Liên bang Nga không quy định
biện pháp bắt. Bên cạnh đó, biện pháp tạm giữ cũng không phải là BPNC mà
được quy định riêng tại Mục 12 "Tạm giữ người bị tình nghi", trong đó quy
định căn cứ, thủ tục tạm giữ; khám người bị tình nghi; những căn cứ trả tự do
cho người bị tình nghi; thủ tục tạm giam người bị tình nghi; thông báo về việc
tạm giữ người bị tình nghi.
Bộ luật TTHS Liên bang Nga quy định các biện pháp sau là những
BPNC: giám sát của đơn vị quân đội, giam tại nhà, quản lý người bị tình nghi
hoặc bị can là người chưa thành niên. Cụ thể:
+ Về biện pháp giám sát của đơn vị quân đội.
Đối tượng áp dụng là người bị tình nghi là quân nhân hoặc công dân
được trưng tập phục vụ trong quân đội. Tuy nhiên, biện pháp này chỉ được áp
dụng nếu người bị tình nghi, bị can đồng ý.
+ Về biện pháp giam tại nhà.
Biện pháp giam tại nhà là việc hạn chế tự do đi lại của người bị tình
nghi, bị can cũng như nghiêm cấm: tiếp xúc với một số người nhất định; nhận
và gửi thư; trao đổi qua các phương tiện thông tin liên lạc. Trong quyết định
của Tòa án về việc áp dụng biện pháp giam tại nhà với tư cách là BPNC cần
nêu rõ những hạn chế cụ thể đối với người bị tình nghi, bị can, đồng thời chỉ
rõ cơ quan hoặc người có thẩm quyền thực hiện việc giám sát việc chấp hành
những hạn chế đã quy định.
+ Về biện pháp quản lý người bị tình nghi hoặc bị can là người chưa
thành niên.
Việc quản lý người bị tình nghi hoặc bị can là người chưa thành niên
thể hiện ở việc bảo đảm người đó xử sự đúng mực theo quy định tại Điều 102
BLTTHS Liên bang Nga do cha mẹ, người đỡ đầu, người giám hộ hoặc
những người nhận bảo lĩnh cho họ cũng như những người có trách nhiệm của
cơ quan chuyên trách về trẻ em thực hiện và những người này phải cam đoan
30
bằng văn bản. Khi áp dụng BPNC này bắt buộc Điều tra viên, Dự thẩm viên,
Kiểm sát viên, Thẩm phán phải giải thích về bản chất của việc tình nghi hoặc
buộc tội và trách nhiệm của họ liên quan đến nghĩa vụ theo dõi, giám sát. Đối
với những người được giao theo dõi, giám sát người bị tình nghi, bị can là
người chưa thành niên nếu không thực hiện nghĩa vụ đã cam đoan thì có thể
bị áp dụng biện pháp xử phạt quy định.
1.5.2. Biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
của Trung Quốc
Các BPNC, trình tự, thủ tục, thẩm quyền áp dụng BPNC trong TTHS
Trung Quốc được quy định như sau:
- Biện pháp bảo lĩnh chờ xét xử
Biện pháp bảo lĩnh chờ xét xử (sau đây gọi tắt là biện pháp bảo lĩnh)
là BPNC độc lập trong BLTTHS Trung Hoa, theo đó cơ quan công an, VKS,
Tòa án cho phép nghi can, bị cáo được nhờ người đứng ra bảo đảm hoặc tự
đặt một số tiền nhất định để bảo đảm.
Về hình thức bảo lĩnh, luật TTHS Trung Hoa quy định có hai hình
thức bảo lĩnh: hình thức bảo lĩnh thông qua người bảo lĩnh và hình thức bảo
lĩnh thông qua việc người bị tình nghi phạm tội, bị cáo đặt tiền để bảo lĩnh.
Pháp luật Trung Hoa quy định rõ, cơ quan tố tụng chỉ được lựa chọn áp dụng
một trong hai hình thức nêu trên, không được phép áp dụng đồng thời cả hai
hình thức bảo lĩnh.
Về trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp bảo lĩnh được quy định như
sau: Trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày nhận được đơn đề nghị áp dụng biện
pháp bảo lĩnh từ người bị tình nghi phạm tội, bị cáo, người đại diện hợp pháp
hoặc luật sư của họ, các cơ quan tố tụng có trách nhiệm xem xét và trả lời
đơn. Trường hợp có thể cho áp dụng biện pháp bảo lĩnh thì cơ quan tố tụng sẽ
ra "Quyết định cho bảo lĩnh chờ xét xử". Quyết định này phải được đọc cho
người bị tình nghi phạm tội, bị cáo nghe và yêu cầu người này ký tên hoặc
31
đóng dấu. Quyết định cho bảo lĩnh chờ xét xử của cơ quan VKS và Tòa án
được gửi cho cơ quan công an để thi hành.
- Biện pháp giám sát nơi cư trú
Điều 51 BLTTHS quy định trong những trường hợp sau đây TAND,
VKS nhân dân, cơ quan công an có thể áp dụng biện pháp giám sát nơi cư trú:
+ Người bị tình nghi phạm tội, bị cáo có thể phải chịu hình phạt giám
sát tại cộng đồng, tạm giam hoặc các hình phạt bổ sung khác.
+ Người bị tình nghi phạm tội, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt tù có
thời hạn và việc cho áp dụng biện pháp giám sát nơi cư trú không gây nguy
hại cho xã hội.
Về trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp giám sát nơi cư trú được quy
định như sau:
Khi quyết định áp dụng biện pháp giám sát nơi cư trú, cơ quan tố tụng
phải ra Quyết định Giám sát nơi cư trú. Quyết định giám sát nơi cư trú phải
được đọc cho người bị tình nghi phạm tội, bị cáo nghe và yêu cầu người này
ký tên hoặc đóng dấu. Quyết định giám sát nơi cư trú của cơ quan VKS và
Tòa án được gửi cho cơ quan công an để thi hành. Căn cứ vào các tình tiết cụ
thể của vụ án, cơ quan công an có thể tạm thời thu giữ chứng minh thư,
phương tiện, động cơ (xe, thuyền), bằng lái của người bị tình nghi phạm tội,
bị cáo đang bị giám sát nơi cư trú.
Thời hạn giám sát nơi cư trú được quy định tối đa không quá 6 tháng.
Hết thời hạn giám sát nơi cư trú theo luật định, nếu không chứng minh được
hành vi phạm tội của người bị tình nghi phạm tội, bị cáo thì phải hủy bỏ
Quyết định giám sát nơi cư trú. Cơ quan ra quyết định hủy bỏ có trách nhiệm
thông báo ngay việc hủy bỏ Quyết định giám sát nơi cư trú cho người bị giám
sát và các cơ quan có liên quan.
- Biện pháp tạm giữ
Bộ luật TTHS quy định khi có những chứng cứ về hành vi phạm tội
của người bị tình nghi phạm tội, bị cáo cho rằng người này có thể bị áp dụng
32
hình phạt tù trở lên đồng thời những BPNC khác như bảo lĩnh hoặc giám sát
nơi cư trú không đủ để ngăn ngừa hành vi nguy hiểm cho xã hội của người
này thì có thể áp dụng biện pháp bắt giữ theo quy định của luật TTHS. Đối
với nghi can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con bú hoặc bị bệnh
nặng thì không áp dụng biện pháp này mà áp dụng biện pháp bảo lĩnh hoặc
giám sát nơi cư trú.
Cơ quan công an, VKS, Tòa án có quyền áp dụng biện pháp tạm giữ.
Đối với lệnh bắt giữ của cơ quan công an phải được VKS thẩm tra và phê
chuẩn trước khi thi hành.
Trong những trường hợp sau đây, Luật TTHS quy định cơ quan công
an có quyền ra lệnh bắt giữ ngay: (1) Khi phát hiện một người đang chuẩn bị
phạm tội, đang thực hiện hành vi phạm tội hoặc bị phát hiện ngay sau khi
phạm tội; (2) Người bị hại chính mắt trông thấy hoặc xác nhận là người đó đã
thực hiện hành vi phạm tội; (3) Chứng cứ của tội phạm được phát hiện có trên
thân thể hoặc tại nơi cư trú của người này; (4) Kẻ phạm tội tìm cách tự tử
hoặc chạy trốn sau khi phạm tội; (5) Kẻ phạm tội có khả năng tiêu hủy chứng
cứ, làm sai lệch chứng cứ hoặc thông cung; (6) Kẻ phạm tội bị nghi ngờ là đã
thực hiện hành vi phạm tội ở nhiều nơi, nhiều lần hoặc phạm tội có tổ chức.
Trong các trường hợp này, ngay sau khi thực hiện việc bắt, cơ quan công an
phải gửi hồ sơ về việc bắt đến VKS để xin phê chuẩn.
- Biện pháp tạm giam
Bộ luật TTHS và các văn bản hướng dẫn thi hành quy định đối với
người bị tình nghi phạm tội, bị cáo đã có đủ chứng cứ chứng minh hành vi
phạm tội, thuộc trường hợp có thể bị áp dụng hình phạt tù trở lên và việc áp
dụng các biện pháp cưỡng chế, giám sát nơi cư trú không đủ để ngăn chặn
mối nguy hiểm cho xã hội hoặc không còn điều kiện để áp dụng biện pháp
tạm giữ thì cơ quan công an, VKS, Tòa án có thể áp dụng biện pháp tạm giam
với họ. Lệnh bắt tạm giam của cơ quan công an phải được VKS cùng cấp phê
chuẩn trước khi thi hành.
33
Trong trường hợp xét cần phải áp dụng biện pháp tạm giam đối với
người bị tình nghi phạm tội, cơ quan công an lập "Đề nghị phê chuẩn lệnh
tạm giam" gửi VKSND cùng cấp để thẩm tra, phê chuẩn. Trong những trường
hợp do pháp luật quy định, VKS cũng có quyền ra quyết định việc áp dụng
biện pháp tạm giam.
Thời hạn tạm giam đối với người bị tình nghi tối đa là hai tháng. Đối
với vụ án phức tạp, không thể kết thúc điều tra trong thời hạn nêu trên thì có
thể gia hạn tạm giam thêm một tháng. Việc gia hạn tạm giam phải được
VKSND trên một cấp phê chuẩn.
1.5.3. Biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
của Cộng hòa Liên bang Đức
Trong hoạt động điều tra, pháp luật TTHS của Đức quy định rất chặt
chẽ những hoạt động xâm phạm đến các quyền tự do của công dân. Những
quyền như quyền bắt tạm giam, khám xét, bắt giữ, nghe chặn, ghi âm liên lạc
các cuộc viên thông và khám người luôn bị kiểm soát nghiêm ngặt và phải
tuân theo luật. Ngoài ra, theo phán quyết của Tòa án tối cao liên bang, những
hoạt động theo quyền hạn như vậy chỉ có hiệu lực nếu được áp dụng tương
xứng với mục đích của từng hoạt động trên. Mọi bằng chứng liên quan thu
được do vi phạm nguyên tắc này sẽ không được Tòa án chấp nhận.
Do đó, giai đoạn điều tra, tiền xét xử đòi hỏi phải có sự can thiệp của
Tòa án vào tất cả các hoạt động tố tụng xâm phạm đến quyền tự do cá nhân.
Việc tạm giam trước khi xét xử phải do thẩm phán (không phải người tiến
hành xét xử sau này) quyết định. Việc thực hiện những thẩm quyền khác như
bắt, khám xét, thu giữ, khám người bị buộc tội hay một người khác hoặc nghe
lén điện thoại trong những trường hợp rất đặc biệt do chính cơ quan công tố ra
lệnh, quyết định. Quy định này nhằm đảm bảo chứng cứ được thu thập kịp
thời và việc Tòa án liên quan đến quy trình này có thể làm chứng cứ bị mất
hoặc bị làm sai lệch… Tuy nhiên, việc áp dụng những biện pháp như vậy
34
ngay sau đó phải được Tòa án kiểm soát với (một thẩm phán) công nhận,
quyết định (chẳng hạn, điều 100b quy định về nghe lén điện thoại). Hơn nữa,
đối tượng bị áp dụng các biện pháp trên có thể yêu cầu Tòa án ra quyết định,
phán quyết về tính hợp pháp của việc áp dụng các biện pháp đó (điều 98).
Trong trường hợp khẩn cấp, khi không có Tòa án nào có thể ra lệnh ngay
được thì nhân viên cảnh sát làm nhiệm vụ hỗ trợ cũng có những quyền hạn
như công tố viên.
Khi xem xét áp dụng một trong những biện pháp như vậy, cơ quan
công tố phải làm đơn đề nghị thẩm phán Tòa án địa phương ra lệnh (Điều
162). Lệnh phải được ban hành ngay khi có đủ chứng cứ chứng minh sự cần
thiết tiến hành các biện pháp cưỡng chế, ngăn chặn đó (Điều 162). ở đây,
thẩm phán không hành động theo quyền hạn tư pháp của Tòa án mà thực
hiện thẩm quyền mang tính hành chính của mình và không có quyền tự ý
tiến hành điều tra, tìm hiểu. Trường hợp tài liệu vụ án do Công tố viên cung
cấp không đủ sức thuyết phục để ra lệnh áp dụng các biện pháp đã nêu thì
thẩm phán phải yêu cầu Công tố viên cung cấp thêm thông tin. Nếu Công tố
viên không thể cung cấp thêm thông tin, thẩm phán phải từ chối việc áp
dụng các biện pháp đó.
Cảnh sát đóng vai trò chính trong quá trình điều tra. Vì Viện công tố
không có lực lượng để thực hiện nhiệm vụ điều tra nên phải yêu cầu cảnh sát
hỗ trợ. Mặc dù về nguyên tắc, Công tố viên là người chỉ đạo tiến trình tố tụng
giai đoạn tiền xét xử và đưa ra các mệnh lệnh cho cảnh sát theo Điều 152 của
Luật Tòa án nhưng trên thực tế cảnh sát thường chủ động tiến hành các hoạt
động điều tra. Chỉ trong những trường hợp phức tạp và nghiêm trọng thì cảnh
sát điều tra mới chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Công tố viên. Khi cảnh sát hoàn
thành việc điều tra, hồ sơ sẽ được chuyển cho bên công tố để quyết định có
truy tố hay không. Tuy nhiên, trách nhiệm pháp lý đối với tất cả các hoạt
động điều tra vẫn thuộc về cơ quan công tố.
35
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Trong Chương 1, luận văn đã phân tích, làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận về BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, cụ thể là: khái niệm
BPNC; khái niệm giai đoạn điều tra vụ án hình sự; vị trí, vai trò của các
BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự; căn cứ, nội dung, điều kiện áp
dụng BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Đồng thời, làm rõ một số
vấn đề liên quan đến áp dụng BPNC trong điều tra hình sự như: vấn đề bảo vệ
quyền con người trong việc áp dụng BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình
sự; liên hệ việc áp dụng BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự trong
một số mô hình TTHS tiêu biểu để so sánh, đối chiếu với các quy định của hệ
thống pháp luật ở Việt Nam.
Qua phân tích cho thấy, BPNC là biện pháp cưỡng chế nhà nước
mang tính phòng ngừa do người có quyền hạn được quy định trong BLTTHS
áp dụng đối với người liên quan đến tội phạm chưa bị khởi tố, bị can, bị cáo,
khi có căn cứ cụ thể nhằm ngăn chặn tội phạm, bảo đảm cho hoạt động điều
tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, được coi là phương tiện pháp lý sắc
bén, có hiệu quả nhất để giải quyết tình hình tội phạm. Các BPNC thể hiện sự
chuyên chính của Nhà nước ta trong phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm
bằng sức mạnh cưỡng chế. Chúng tạo điều kiện thuận lợi cho cả quá trình xử
lý vụ án, đồng thời, thể hiện tính ưu việt của Nhà nước XHCN, cũng như tôn
trọng và bảo vệ quyền công dân được Hiến pháp, pháp luật ghi nhận.
36
Chương 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
VÀ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG
2.1. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BIỆN PHÁP NGĂN
CHẶN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
2.1.1. Quy định của pháp luật Việt Nam về biện pháp ngăn chặn
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự trƣớc năm 2003
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã lật đổ hoàn toàn bộ
máy nhà nước phong kiến và dẫn đến sự ra đời của Nhà nước kiểu mới đầu
tiên ở Đông Nam Á - nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ngày ấy, chính
quyền non trẻ phải đối mặt với những khó khăn chồng chất, như: nền kinh tế
vốn lệ thuộc lại bị phát xít Nhật khai thác triệt để trong chiến tranh thế giới
thứ hai trở nên kiệt quệ; thực dân Pháp trở lại gây hấn ở Nam bộ được sự giúp
đỡ đắc lực của quân đội Anh vào giải giáp vũ khí của quân đội Nhật; ở miền
Bắc, quân đội Tưởng với danh nghĩa đồng minh vào giải giáp vũ khí quân đội
Nhật và theo sau đó là bọn tay sai người Việt với âm mưu lật đổ chính quyền
cách mạng.
Trong lúc phải đối phó với nạn đói và thù trong, giặc ngoài, hoạt động
lập pháp vẫn được Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Đó là việc ban hành Hiến
pháp 1946 (ngày 09/11/1946).
Quy định "Tư pháp chưa quyết định, thì không bắt bớ và giam cầm
người công dân" tại Điều 11 và "Tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng
trước pháp luật"… tại Điều 7 Hiến pháp 1946 là cơ sở pháp lý cho việc ban
hành quy định về bắt, tạm giữ, tạm giam trong Sắc lệnh 13/SL ngày 24/01/1946
và Sắc lệnh 131/SL ngày 20/7/1946. Trong hai văn bản pháp luật này có một
số nội dung liên quan đến các BPNC.
37
Tiếp đó, Hiến pháp 1959 tiếp tục quy định: "Quyền bất khả xâm phạm
về thân thể của công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được bảo đảm.
Không ai có thể bị bắt nếu không có sự quyết định của Tòa án nhân dân hoặc
sự phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân".
Cụ thể hóa quy định trên của Hiến pháp 1959, Thông tư số 42/TT-LB
ngày 28/6/1963 của VKSNDTC và Bộ Công an xác định thẩm quyền áp dụng
biện pháp cưỡng chế nhà nước và trách nhiệm phê chuẩn của VKS, cũng như
bảo đảm cho việc phê chuẩn đó, như:
Công an chỉ được quyền bắt, khám người, khám nhà, giữ lại
thư tín, tạm giữ hoặc kê biên tài sản, tạm giam, gia hạn tạm giam,
miễn tố, tạm tha bị can khi đã được phê chuẩn của Viện kiểm sát.
Để có căn cứ cho việc phê chuẩn, cơ quan Công an cần gửi đến
Viện kiểm sát hồ sơ gồm những tài liệu cần thiết đã thu thập được.
Nếu thấy chưa đủ căn cứ, thì Viện kiểm sát yêu cầu cung cấp tài
liệu. Viện kiểm sát có trách nhiệm nghiên cứu phê chuẩn nhanh
chóng để phục vụ kịp thời cuộc đấu tranh chống tội phạm [44].
Trong khoảng thời gian từ năm 1976 đến năm 1985, cơ sở hạ tầng của
chúng ta mang đặc trưng của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chiếm ưu
thế tuyệt đối, được thể hiện dưới hai hình thức là sở hữu nhà nước và sở hữu
tập thể, hoạt động thống nhất theo một cơ chế kế hoạch hóa tập trung do Nhà
nước quản lý và điều hành; thực hiện thống nhất nguyên tắc phân phối "làm
theo năng lực, hưởng theo lao động" mà hình thức biểu hiện của nó là chế độ
tem phiếu bảo đảm định lượng cho từng thành viên trong xã hội. Điều này
làm cho kiến trúc thượng tầng trở nên nặng nề kém hiệu quả. Tính pháp
quyền mờ nhạt trên cả ba lĩnh vực hoạt động cơ bản của Nhà nước - lập pháp,
hành pháp và tư pháp. Trước tình hình đó, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI vào tháng 12 năm 1986 của Đảng Cộng sản Việt Nam đã định
hướng: "Việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế và phương thức phân phối là xóa
38
bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp; xây dựng cơ chế kế hoạch hóa theo
phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa theo đúng nguyên tắc tập
trung dân chủ…" [10].
Chính sách kinh tế mới đã tạo động lực cho sự phát triển và nâng cao
mức sống chung cho xã hội, đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội.
Tuy nhiên, hiện tượng tiêu cực mới nảy sinh trong xã hội lại tăng lên,
kỷ cương phép nước không được tôn trọng, oan sai và xâm phạm quyền, lợi
ích hợp pháp của công dân lại xảy ra nhiều. Các văn bản pháp luật về điều tra,
truy tố, xét xử, thi hành án được ban hành rải rác không thể hiện đầy đủ chính
sách của Đảng và Nhà nước ta trong pháp luật TTHS.
Khắc phục nhược điểm trên, ngày 28/6/1988, Quốc hội nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam, khóa VIII đã thông qua BLTTHS có hiệu lực thi hành từ
ngày 01/01/1989 qui định một chương V độc lập, với 14 điều luật từ Điều 61
đến Điều 77 để điều chỉnh những nội dung cơ bản của hệ thống các BPNC,
trong đó, có một số khác biệt so với các văn bản pháp luật trước đó, cụ thể là:
+ Điều 64 chỉ quy định ba trường hợp và thay thế trường hợp thứ tư là
bắt người đang lẩn trốn thành bắt người bị truy nã, đồng thời, điều chỉnh bốn
trường hợp này trong cùng một điều luật;
+ Điều 63 chỉ quy định ba trường hợp bắt khẩn cấp;
+ Quy định thêm bốn BPNC mới, gồm: cấm đi khỏi nơi cư trú theo
Điều 74; bảo lĩnh theo Điều 92; đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm
theo Điều 61, việc giám sát bị can, bị cáo chưa thành niên theo Điều 274.
Việc thu hẹp phạm vi căn cứ bắt người trong trường hợp khẩn cấp và
quy định một số BPNC mới được thực hiện ở cộng đồng thể hiện sự quan tâm
của Nhà nước ta đối với vấn đề bảo vệ quyền và tự do cá nhân, đồng thời, đề
cao trách nhiệm của cơ quan THTT đối với việc ngăn chặn tội phạm.
Bộ luật TTHS năm 1988 có ý nghĩa lập pháp quan trọng khi đánh dấu
mức độ pháp điển đối với pháp luật TTHS bằng hệ thống các BPNC độc lập,
39
trong đó có bốn BPNC mới được thực hiện ở cộng đồng, thể hiện thái độ
cương quyết phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm bằng sức mạnh của
Nhà nước và toàn xã hội.
Hiến pháp năm 1992 đánh dấu một bước tiến mới về kỹ thuật lập
pháp, cũng như sự phát triển của quan điểm bảo đảm quyền con người khi áp
dụng BPNC bằng quy định: "Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của
TAND, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường
hợp phạm tội quả tang… Việc bắt và giam giữ phải đúng pháp luật. Nghiêm
cấm mọi hình thức truy bức nhục hình, xúc phạm danh dự nhân phẩm của
công dân" và "người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có
quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm
trái pháp luật trong việc bắt giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người
khác phải bị xử lý nghiêm" theo các điều 71, 72 Hiến pháp năm 1992.
Qua 15 năm (1989 - 2003) tồn tại kể từ khi BLTTHS năm 1988 được
ban hành, các BPNC trên đóng góp vai trò quan trọng trong công cuộc phòng
ngừa và đấu tranh chống tội phạm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một số hạn chế, như: người bị giam, giữ
một cách oan hoàn toàn có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại không được
đền bù thiệt hại một cách thỏa đáng; các CQĐT, VKS đều có vi phạm pháp
luật TTHS về thời hạn giải quyết ở nhiều khâu...
2.1.2. Quy định của pháp luật Việt Nam về các biện pháp ngăn
chặn theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003
Các BPNC được quy định tại Chương VI, từ Điều 79 đến Điều 94
BLTTHS năm 2003.
2.1.2.1. Căn cứ chung áp dụng các biện pháp ngăn chặn
Theo Điều 79 BLTTHS, căn cứ áp dụng các BPNC bao gồm: kịp thời
ngăn chặn tội phạm, khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn
cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, cũng như khi cần
40
bảo đảm thi hành án. Theo nội dung này, có bốn căn cứ chung để áp dụng
chúng là:
Thứ nhất, khi cần thiết để kịp thời ngăn chặn tội phạm. Các tội phạm
đã thực hiện đều gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho một hay nhiều quan
hệ xã hội đã được xác định trong BLHS. Việc ngăn chặn tội phạm không cho
nó hoàn thành, gây ra hậu quả thực tế có ý nghĩa quan trọng và cấp bách. Vì
vậy, BLTTHS quy định các căn cứ kịp thời ngăn chặn tội phạm trong hai
trường hợp sau: a) Trường hợp bắt khẩn cấp: khi có căn cứ để cho rằng một
người đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm
trọng theo điểm a khoản 1 Điều 81; b) Trường hợp bắt quả tang: khi người đó
đang thực hiện tội phạm hoặc sau khi thực hiện tội phạm, thì bị phát hiện hoặc
bị đuổi bắt theo khoản 1 Điều 82.
Thứ hai, khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho
hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Đây là căn cứ dự báo được dựa trên những
tài liệu có các tình tiết và hành vi của bị can, bị cáo, như: a) Nơi cư trú của họ
không có hoặc không rõ ràng, sự vắng mặt của họ theo giấy triệu tập của cơ
quan (người) THTT, đã di chuyển khỏi nơi cư trú…; b) Tính chất của tội
phạm mà bị can, bị cáo đã thực hiện thuộc vào loại tội rất nghiêm trọng, đặc
biệt nghiêm trọng. Về tâm lý, mức hình phạt của các loại tội phạm này là rất
cao, nên nỗi ám ảnh sợ hãi đối với nó luôn trùm lên họ. Từ đó, xóa dấu vết,
tiêu hủy tài liệu, đối phó với CQĐT và bỏ trốn là cứu cánh mà họ thường nghĩ
tới để trốn tránh khỏi hình phạt…; c) Các hành vi của họ được diễn ra sau khi
tội phạm đã thực hiện, như: mua chuộc, đe dọa người bị hại, người làm chứng,
xóa dấu vết, tiêu hủy chứng cứ, thông đồng với nhau khai báo sai sự thật…
Thứ ba, khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội.
Đây là căn cứ dự báo và có thể xác định trên hai tiêu chí, như: a) Về nhân
thân bị can, bị cáo là những đối tượng có nhân thân xấu. Ví dụ: bị can, bị cáo
là người có ý thức chống đối giai cấp sâu sắc, những phần tử thuộc diện lưu
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY

More Related Content

What's hot

BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM_10192812052019
BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM_10192812052019BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM_10192812052019
BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM_10192812052019hanhha12
 
Luận văn: Quyết định hình phạt tù có thời hạn tại TP Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...
Luận văn: Quyết định hình phạt tù có thời hạn tại TP Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...Luận văn: Quyết định hình phạt tù có thời hạn tại TP Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...
Luận văn: Quyết định hình phạt tù có thời hạn tại TP Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

What's hot (19)

Ngăn chặn bắt, tạm giam đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, 9đ
Ngăn chặn bắt, tạm giam đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, 9đNgăn chặn bắt, tạm giam đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, 9đ
Ngăn chặn bắt, tạm giam đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, 9đ
 
Biện pháp ngăn chặn đối với bị cáo là người chưa thành niên, HOT
Biện pháp ngăn chặn đối với bị cáo là người chưa thành niên, HOTBiện pháp ngăn chặn đối với bị cáo là người chưa thành niên, HOT
Biện pháp ngăn chặn đối với bị cáo là người chưa thành niên, HOT
 
Luận văn: Biện pháp bắt người trong pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Biện pháp bắt người trong pháp luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Biện pháp bắt người trong pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Biện pháp bắt người trong pháp luật tố tụng hình sự, HOT
 
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sựBiện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAYLuận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
 
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAYLuận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
 
Biện pháp đặt tiền, tài sản để bảo đảm trong tố tụng hình sự, HOT
Biện pháp đặt tiền, tài sản để bảo đảm trong tố tụng hình sự, HOTBiện pháp đặt tiền, tài sản để bảo đảm trong tố tụng hình sự, HOT
Biện pháp đặt tiền, tài sản để bảo đảm trong tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Bắt người trong trường hợp khẩn cấp theo pháp luật
Luận văn: Bắt người trong trường hợp khẩn cấp theo pháp luậtLuận văn: Bắt người trong trường hợp khẩn cấp theo pháp luật
Luận văn: Bắt người trong trường hợp khẩn cấp theo pháp luật
 
BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM_10192812052019
BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM_10192812052019BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM_10192812052019
BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM_10192812052019
 
Luận án: Biện pháp phòng ngừa hành chính theo pháp luật, HAY
Luận án: Biện pháp phòng ngừa hành chính theo pháp luật, HAYLuận án: Biện pháp phòng ngừa hành chính theo pháp luật, HAY
Luận án: Biện pháp phòng ngừa hành chính theo pháp luật, HAY
 
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Kiểm sát biện pháp tạm giữ, tạm giam theo luật tố tụng hình sự, HOT
Kiểm sát biện pháp tạm giữ, tạm giam theo luật tố tụng hình sự, HOTKiểm sát biện pháp tạm giữ, tạm giam theo luật tố tụng hình sự, HOT
Kiểm sát biện pháp tạm giữ, tạm giam theo luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Quyết định hình phạt tù có thời hạn tại TP Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...
Luận văn: Quyết định hình phạt tù có thời hạn tại TP Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...Luận văn: Quyết định hình phạt tù có thời hạn tại TP Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...
Luận văn: Quyết định hình phạt tù có thời hạn tại TP Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...
 
Luận văn: Thi hành án phạt tù từ thực tiễn TPHCM, HAY, 9đ
Luận văn: Thi hành án phạt tù từ thực tiễn TPHCM, HAY, 9đLuận văn: Thi hành án phạt tù từ thực tiễn TPHCM, HAY, 9đ
Luận văn: Thi hành án phạt tù từ thực tiễn TPHCM, HAY, 9đ
 
Luận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tộiLuận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
 
Luận văn: Vấn đề lý luận thực tiễn về thi hành hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề lý luận thực tiễn về thi hành hình phạt tử hìnhLuận văn: Vấn đề lý luận thực tiễn về thi hành hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề lý luận thực tiễn về thi hành hình phạt tử hình
 
Luận văn: Biện pháp tạm giam theo pháp luật tố tụng hình sự, 9đ
Luận văn: Biện pháp tạm giam theo pháp luật tố tụng hình sự, 9đLuận văn: Biện pháp tạm giam theo pháp luật tố tụng hình sự, 9đ
Luận văn: Biện pháp tạm giam theo pháp luật tố tụng hình sự, 9đ
 

Similar to Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY

CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...TiLiu5
 
Luận văn thạc sĩ các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự việt ...
Luận văn thạc sĩ các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự việt ...Luận văn thạc sĩ các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự việt ...
Luận văn thạc sĩ các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự việt ...jackjohn45
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...
ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...
ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...Luận Văn 1800
 

Similar to Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY (20)

Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật Việt Nam tại Vĩnh Phúc
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật Việt Nam tại Vĩnh PhúcLuận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật Việt Nam tại Vĩnh Phúc
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật Việt Nam tại Vĩnh Phúc
 
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...
 
Luận văn thạc sĩ các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự việt ...
Luận văn thạc sĩ các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự việt ...Luận văn thạc sĩ các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự việt ...
Luận văn thạc sĩ các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự việt ...
 
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAYLuận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
 
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docxBiện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
 
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAYLuận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
 
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, 9đ
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, 9đLuận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, 9đ
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, 9đ
 
Luận văn: Bảo đảm quyền bị can, bị cáo là người chưa thành niên
Luận văn: Bảo đảm quyền bị can, bị cáo là người chưa thành niênLuận văn: Bảo đảm quyền bị can, bị cáo là người chưa thành niên
Luận văn: Bảo đảm quyền bị can, bị cáo là người chưa thành niên
 
Bảo đảm quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niên
Bảo đảm quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niênBảo đảm quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niên
Bảo đảm quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niên
 
Bảo đảm quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Bảo đảm quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niên, HAYBảo đảm quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Bảo đảm quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niên, HAY
 
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAYLuận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...
 
ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...
ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...
ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...
 
Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận án: Thời hạn tố tụng trong luật tố tụng hình sự tại Việt Nam
Luận án: Thời hạn tố tụng trong luật tố tụng hình sự tại Việt NamLuận án: Thời hạn tố tụng trong luật tố tụng hình sự tại Việt Nam
Luận án: Thời hạn tố tụng trong luật tố tụng hình sự tại Việt Nam
 
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, 9đ
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, 9đLuận văn: Biện pháp tạm giam trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, 9đ
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, 9đ
 
Luận văn: Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội, 9 ĐIỂM
Luận văn: Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội, 9 ĐIỂMLuận văn: Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội, 9 ĐIỂM
Luận văn: Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội, 9 ĐIỂM
 
Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội
Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tộiBảo đảm quyền con người của người bị buộc tội
Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội
 
Luận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật hình sự việt nam
Luận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật hình sự việt namLuận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật hình sự việt nam
Luận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật hình sự việt nam
 
Luận văn: Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội, HAY
Luận văn: Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội, HAYLuận văn: Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội, HAY
Luận văn: Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội, HAY
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Recently uploaded

Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...
35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...
35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...
Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...
Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
tiểu luận THỰC HÀNH QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH 1.docx
tiểu luận THỰC HÀNH QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH 1.docxtiểu luận THỰC HÀNH QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH 1.docx
tiểu luận THỰC HÀNH QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH 1.docxPhimngn
 
Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...
Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...
Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi phápHệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháplamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Báo cáo tốt nghiệp Phát triển sản phẩm thẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần K...
Báo cáo tốt nghiệp Phát triển sản phẩm thẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần K...Báo cáo tốt nghiệp Phát triển sản phẩm thẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần K...
Báo cáo tốt nghiệp Phát triển sản phẩm thẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần K...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích thực trạng hoạt động bán hàng tại Công ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích thực trạng hoạt động bán hàng tại Công ...Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích thực trạng hoạt động bán hàng tại Công ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích thực trạng hoạt động bán hàng tại Công ...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa họcLogic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa họcK61PHMTHQUNHCHI
 

Recently uploaded (20)

Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...
 
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
 
35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...
35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...
35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
 
Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...
Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...
Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...
 
tiểu luận THỰC HÀNH QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH 1.docx
tiểu luận THỰC HÀNH QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH 1.docxtiểu luận THỰC HÀNH QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH 1.docx
tiểu luận THỰC HÀNH QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH 1.docx
 
Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...
Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...
Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...
 
Đồ án Công Nghệ Truyền Số Liệu L3VPN MPLS
Đồ án Công Nghệ Truyền Số Liệu L3VPN MPLSĐồ án Công Nghệ Truyền Số Liệu L3VPN MPLS
Đồ án Công Nghệ Truyền Số Liệu L3VPN MPLS
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...
 
Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi phápHệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
 
Báo cáo tốt nghiệp Phát triển sản phẩm thẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần K...
Báo cáo tốt nghiệp Phát triển sản phẩm thẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần K...Báo cáo tốt nghiệp Phát triển sản phẩm thẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần K...
Báo cáo tốt nghiệp Phát triển sản phẩm thẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần K...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...
 
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích thực trạng hoạt động bán hàng tại Công ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích thực trạng hoạt động bán hàng tại Công ...Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích thực trạng hoạt động bán hàng tại Công ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích thực trạng hoạt động bán hàng tại Công ...
 
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa họcLogic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
 

Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN ĐĂNG DŨNG BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014
  • 2. MỤC LỤC CỦA LUẬN VĂN Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ 7 1.1. Khái niệm 7 1.1.1. Khái niệm biện pháp ngăn chặn 7 1.1.2. Khái niệm giai đoạn điều tra vụ án hình sự 11 1.2. Vị trí, vai trò của các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự 14 1.2.1. Vị trí các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự 14 1.2.2. Vai trò của các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự 17 1.3. Căn cứ, nội dung, điều kiện áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự 18 1.3.1. Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự 18 1.3.2. Nội dung áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự 21 1.3.3. Điều kiện áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra hình sự 23 1.4. Vấn đề bảo vệ quyền con người trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự 24 1.4.1. Quyền con người được quy định trong Hiến pháp và các văn bản pháp lý khác 24 1.4.2. Bảo vệ quyền con người thông qua quy định của luật tố tụng hình sự về áp dụng các biện pháp ngăn chặn 26 1.5. Biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự trong một số mô hình tố tụng hình sự tiêu biểu 28 1.5.1. Biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của Liên bang Nga 28 1.5.2. Biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của Trung Quốc 30 1.5.3. Biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của Cộng hòa Liên bang Đức 33 Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG 36 2.1. Quy định của pháp luật việt nam về biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự 36 2.1.1. Quy định của pháp luật Việt Nam về biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự trước năm 2003 36 2.1.2. Quy định của pháp luật Việt Nam về các biện pháp ngăn 39
  • 3. chặn theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 2.2. Thực trạng áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự 54 2.2.1. Thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự 54 2.2.2. Những khó khăn, vướng mắc và hạn chế trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự 63 Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ 72 3.1. Cơ sở nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự 72 3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự 74 3.2.1. Hoàn thiện quy định của pháp luật về các biện pháp ngăn chặn 74 3.2.2. Nâng cao tinh thần trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong áp dụng biện pháp ngăn chặn 78 3.2.3. Xử lý nghiêm minh, kịp thời các trường hợp vi phạm trong quá trình áp dụng biện pháp ngăn chặn 80 3.2.4. Tăng cường mối quan hệ phối hợp, trao đổi giữa các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như các cơ quan, tổ chức hữu quan 84 3.2.5. Các giải pháp khác 87 KẾT LUẬN 92 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 94
  • 4. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Các biện pháp ngăn chặn (BPNC) là một chế định quan trọng của pháp luật tố tụng hình sự (TTHS), là phương tiện cưỡng chế nhà nước có hiệu quả nhất để phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm và bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hình sự đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Mặt khác, nó còn là phương tiện pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân đối với người bị hại, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và cả người liên quan đến tội phạm chưa bị khởi tố, bị can, bị cáo, cũng như thân nhân của họ. Việc áp dụng các BPNC đối với người có hành vi phạm tội được xem là một yếu tố quan trọng, thiết yếu của quá trình điều tra, bởi lẽ nó ảnh hưởng trực tiếp đến sinh mệnh chính trị và các quyền cơ bản của công dân, liên quan đến đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Thực tiễn điều tra hình sự nói chung, điều tra vụ án hình sự nói riêng cho thấy, việc áp dụng các BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự hết sức phức tạp, nhạy cảm và còn nhiều khó khăn, vướng mắc. Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, việc áp dụng các BPNC không chỉ là áp dụng pháp luật đơn thuần mà còn phải cân nhắc tới nhiều yếu tố như pháp luật, chính trị, nghiệp vụ, vấn đề quyền con người để cân nhắc tính toán, hạn chế đến mức thấp nhất những sơ hở, thiếu sót. Tuy nhiên, trong khoa học luật TTHS, chế định các BPNC vẫn chưa được quan tâm, nghiên cứu một cách thỏa đáng đối với tầm quan trọng của nó theo định hướng của Đảng về việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật phòng ngừa và đấu tranh, phòng ngừa tội phạm. Việc áp dụng các BPNC thời gian qua đã đạt được những kết quả đáng kể, thu được những kinh nghiệm nhất định, nhưng đồng thời cũng bộc lộ những hạn chế, tồn tại, vướng mắc về mặt nhận thức, tổ chức thực hiện… cần phải được nghiên cứu giải quyết.
  • 5. 2 Từ những lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài "Biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự" làm đề tài luận văn thạc sĩ nhằm đáp ứng yêu cầu về lý luận và thực tiễn đặt ra. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Các BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự luôn được nhà nước, cơ quan chức năng xác định vị trí quan trọng, cần được tập trung tiến hành. Vì tính chất quan trọng của việc áp dụng các BPNC nên chúng trở thành trọng tâm nghiên cứu không những của các nhà lý luận mà cả những cán bộ làm công tác thực tiễn trong các ngành bảo vệ pháp luật ở trong và ngoài nước. Các BPNC được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) của hầu hết các nước trên thế giới. Vì vậy, có nhiều tác giả ở nước ngoài đã nghiên cứu nội dung các BPNC với phạm vi khác nhau. Riêng dưới góc độ luật TTHS, các công trình nghiên cứu về các BPNC khá phong phú và đa dạng ở nước ngoài, nhất là các nước như Trung Quốc, Nga, Mỹ, Nhật Bản, Đức. Việc tiếp cận, nghiên cứu các công trình về các BPNC dưới góc độ luật TTHS cũng rất thuận lợi, nhất là trong thời kỳ hội nhập quốc tế và hợp tác trên nhiều lĩnh vực như hiện nay. Đây là điều kiện thuận lợi để nghiên cứu, so sánh quy định về các BPNC trong BLTTHS Việt Nam với BLTTHS các nước, trên cơ sở đó có sự tham khảo nhằm sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật Việt Nam cho hợp lý, hội nhập được với thế giới. Bên cạnh các công trình nghiên cứu dưới góc độ pháp luật TTHS, cũng có các công trình nghiên cứu về việc áp dụng các BPNC trong điều tra hình sự. Bởi lẽ việc nghiên cứu, tổng kết thực tiễn điều tra tội phạm để hình thành lý luận về phương pháp, chiến thuật điều tra là một đòi hỏi bức thiết đối với mọi quốc gia. Tuy nhiên, đến nay trên thế giới chưa có nhiều công trình khoa học nào nghiên cứu về BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự một cách cơ bản, hệ thống.
  • 6. 3 Ở trong nước, trên các góc độ, khía cạnh nghiên cứu khác nhau đã có một số đề tài, công trình khoa học đề cập có liên quan đến đề tài. Cụ thể: - Giáo trình: Các BPNC là một chế định rất quan trọng trong BLTTHS, vì vậy đã có rất nhiều giáo trình, sách tham khảo nghiên cứu, đề cập đến vấn đề này dưới góc độ luật TTHS như: giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam của trường Đại học Luật Hà Nội; giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001; Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2007; Các biện pháp ngăn chặn và những vấn đề nâng cao hiệu quả của chúng, Nxb Công an nhân dân, năm 1995 của Tiến sĩ Nguyễn Vạn Nguyên; Những biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 1997 của Thạc sĩ Nguyễn Mai Bộ; Các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự - những vấn đề về lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, năm 1999 của Tiến sĩ Nguyễn Duy Thuân; Hệ thống biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự Việt Nam - những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng của lực lượng cảnh sát nhân dân, Nxb Công an nhân dân, năm 2001 của Tiến sĩ Trịnh Văn Thanh; Về tự do cá nhân và biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, năm 2005 của Tiến sĩ Trần Quang Tiệp; sách chuyên khảo "Chiến thuật điều tra hình sự", Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2010 của PGS.TS Nguyễn Huy Thuật... Các giáo trình và sách tham khảo nói trên đã tập trung nghiên cứu về các BPNC dưới góc độ luật TTHS. Vì vậy, nó có ý nghĩa đối với việc nghiên cứu đề tài ở khía cạnh cơ sở pháp lý. - Luận án, luận văn, đề tài khoa học + Luận án tiến sĩ luật học, chuyên ngành hình pháp học: "Áp dụng biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự của lực lượng cảnh sát nhân dân" của nghiên cứu sinh Trịnh Văn Thanh, hoàn thành năm 2000.
  • 7. 4 + Luận án tiến sĩ luật học năm 2001, chuyên ngành luật Hình sự và TTHS: "Điều tra các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia trong tình hình hiện nay ở Việt Nam" của nghiên cứu sinh Lê Minh Hùng. + Luận án tiến sĩ luật học năm 2005, chuyên ngành luật hình sự: "Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam. Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp" của nghiên cứu sinh Nguyễn Văn Điệp. + Luận văn thạc sĩ năm 2006 "Tạm giam trong Tố tụng hình sự" của Phạm Khắc Vực... Tuy nhiên, các công trình nói trên chủ yếu đề cập đến một số BPNC cụ thể, hoặc nghiên cứu các BPNC trong các giai đoạn điều tra cụ thể. Đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách chuyên sâu, hệ thống về các BPNC, từ đó đề xuất hệ thống giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Vì vậy, đây là đề tài đầu tiên nghiên cứu một cách sâu sắc, toàn diện và có hệ thống về các BPNC trong giai đoạn điều tra hình sự ở Việt Nam hiện nay. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục tiêu nghiên cứu Làm rõ những vấn đề lý luận về các BPNC và thực tiễn áp dụng các BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, từ đó đề xuất hệ thống giải pháp có tính khả thi, góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng các BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Làm rõ những nhận thức cơ bản về các BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự (khái niệm, đặc điểm liên quan, cơ sở áp dụng...). - Đánh giá đúng thực trạng áp dụng các BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay. - Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng các BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
  • 8. 5 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về các BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ở Việt Nam. - Phạm vi nghiên cứu + Về nội dung: Luận văn nghiên cứu về áp dụng các BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. - Về thời gian: Luận văn nghiên cứu từ năm 2003 (thời điểm ban hành BLTTHS năm 2003) đến nay. - Về địa bàn: Luận văn nghiên cứu trong phạm vi toàn quốc, tập trung chủ yếu ở các tỉnh, thành phố đã xảy ra nhiều án hình sự như: thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh Tây Nguyên, Quảng Ninh, Hải Phòng. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về chính sách hình sự và đấu tranh phòng chống tội phạm. Đồng thời, sử dụng một số phương pháp cụ thể sau: Phương pháp khảo sát điển hình, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, Phương pháp chuyên gia.. 6. Những đóng góp mới của luận văn * Về mặt lý luận Luận văn góp phần bổ sung, hoàn thiện hệ thống lý luận khoa học về điều tra hình sự nói chung và các BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự nói riêng. * Về mặt thực tiễn - Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng về BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, xác lập cơ sở pháp lý, đề xuất giải pháp, kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng các BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự trong thời gian tới.
  • 9. 6 - Luận văn và các sản phẩm khoa học được tạo lập trong quá trình nghiên cứu luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu chuyên ngành luật Hình sự và TTHS. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Chương 2: Quy định của pháp luật Việt Nam về biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự và thực trạng áp dụng. Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
  • 10. 7 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1. KHÁI NIỆM 1.1.1. Khái niệm biện pháp ngăn chặn Để thực hiện nhiệm vụ chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, BLTTHS cho phép cơ quan tiến hành tố tụng (THTT) áp dụng nhiều biện pháp, trong đó có các biện pháp cưỡng chế TTHS. Các biện pháp cưỡng chế được hầu hết các giáo trình luật TTHS Việt Nam chia ra làm ba nhóm như sau: Nhóm thứ nhất, các BPNC, gồm: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lãnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Nhóm thứ hai, các biện pháp thu thập chứng cứ, gồm: khám xét người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm; xem xét dấu vết trên thân thể; thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm; tạm giữ đồ vật là vật chứng, tài liệu có liên quan trực tiếp đến vụ án. Nhóm thứ ba, các biện pháp bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, gồm: kê biên tài sản; áp giải bị can, bị cáo, dẫn giải người làm chứng; tạm đình chỉ chức vụ của bị can; những biện pháp kỷ luật người vi phạm trật tự phiên tòa. Các BPNC thuộc nhóm thứ nhất, chiếm vị trí trung tâm và có vai trò quan trọng, vì nó có khả năng ngăn chặn việc thực hiện tội phạm, việc bỏ trốn, tiêu hủy chứng cứ, ngăn ngừa phạm tội mới và bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án nhằm góp phần hạn chế tội phạm và các
  • 11. 8 vi phạm pháp luật khác. Mặt khác, việc áp dụng các BPNC làm hạn chế một số quyền và tự do cá nhân được ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật và có mức độ hạn chế nghiêm khắc hơn so với các biện pháp khác trong TTHS. Nếu việc áp dụng các BPNC đối với người bị oan có thể gây ra hậu quả rất nghiêm trọng không những đối với cá nhân người bị áp dụng mà cả gia đình họ, đồng thời, làm mất uy tín của cả hệ thống cơ quan tư pháp, giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Các BPNC là cơ sở pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm, đồng thời, là biện pháp hạn chế một số quyền và tự do cá nhân nên chúng được quan tâm không những từ phía các nhà lập pháp mà cả những nhà nghiên cứu khoa học luật TTHS ở nước ngoài cũng như ở trong nước. Tuy vậy, BLTTHS năm 2003 vẫn chưa có quy phạm định nghĩa về khái niệm BPNC. Nghiên cứu pháp luật TTHS của một số nước trên thế giới như: Liên bang Nga, Nhật Bản, Cộng hòa Pháp, Thái Lan, Malayxia, Canada, Hàn Quốc, v.v..., cho thấy, các nước quy định rất khác nhau về số lượng các BPNC, trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp đó. Bộ luật TTHS Liên bang Nga có quy định về bảy biện pháp ngăn chặn: cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh của cá nhân, giám sát của đơn vị quân đội, theo dõi người bị tình nghi hoặc bị can là người chưa thành niên, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm, giam tại nhà, tạm giam (Mục 13 - Các BPNC; chương IV - Các biện pháp cưỡng chế tố tụng), nhưng cũng không có quy phạm định nghĩa về khái niệm BPNC [45] Bộ luật TTHS Nhật Bản không sử dụng cụm từ "biện pháp ngăn chặn", mà quy định trình tự, thủ tục bắt người tình nghi, giam giữ người bị tình nghi, bắt khẩn cấp người bị tình nghi, bắt người phạm tội quả tang tại Chương 1 - Điều tra và thẩm vấn, quyển II - Sơ thẩm [43].
  • 12. 9 Bộ luật TTHS Cộng hòa Liên bang Đức có sử dụng cụm từ BPNC tại Mục 7 - Giám sát tư pháp và BPNC là giám sát tư pháp và tạm giam, nhưng cũng không đưa ra khái niệm BPNC [46]. Các chuyên gia luật học của nước ngoài đã nêu ra những khái niệm khác nhau về BPNC, phản ánh được khái quát những đối tượng nghiên cứu mà chúng ta cần tham khảo, tiếp thu, như: quan niệm về bản chất pháp lý của BPNC, sự cưỡng chế nhà nước mang tính phòng ngừa, quyền lựa chọn BPNC trong TTHS. Trong khoa học luật TTHS Việt Nam cũng có nhiều khái niệm khác nhau về BPNC, như: - Từ điển Luật học giải thích BPNC là biện pháp cưỡng chế về mặt tố tụng hình sự áp dụng khi có đủ căn cứ đối với bị can, bị cáo hoặc người chưa bị khởi tố trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang để ngăn chặn hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án [27, tr.69]. Từ điển đã xác định đúng đối tượng và mục đích áp dụng các BPNC, nhưng không chỉ ra chủ thể có quyền áp dụng chúng. - Một số khái niệm khác về BPNC của các nhà khoa học nghiên cứu pháp luật, cán bộ làm công tác thực tiễn phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm được công bố trong các giáo trình Luật TTHS Việt Nam, sách chuyên khảo, tạp chí chuyên ngành luật học. Các khái niệm đó đều dựa trên cơ sở phân tích nội dung của các quy phạm pháp luật tại Điều 61 BLTTHS năm 1988 và Điều 79 BLTTHS năm 2003, cũng như thực tiễn áp dụng chúng trong công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm. - Điều 79 BLTTHS quy định những biện pháp ngăn chặn bao gồm: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để đảm bảo. Đây là những biện pháp cưỡng chế cần thiết của TTHS nhằm tước bỏ hoặc hạn chế một phần các quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp ghi nhận [31].
  • 13. 10 Bởi vậy, biện pháp ngăn chặn chỉ được áp dụng đối với đối tượng là bị can, bị cáo hoặc những người chưa bị khởi tố trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang do Bộ luật TTHS quy định. Mục đích của việc áp dụng BPNC là để cho người phạm tội không có điều kiện tiếp tục thực hiện tội phạm; chặn đứng hành động chống đối; không để cho người phạm tội trốn tránh pháp luật, đảm bảo cho mọi hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và chấp hành án hình sự được đúng đắn, góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, củng cố và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Những biện pháp ngăn chặn là những biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự được áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc đối với những người chưa bị khởi tố (trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang), nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Từ các nội dung trên có thể rút ra một số đặc điểm sau của các BPNC: - Bản chất pháp lý: biện pháp cưỡng chế nhà nước mang tính phòng ngừa. - Căn cứ cụ thể áp dụng: những tài liệu nói lên khả năng cản trở việc xác định sự thật của vụ án, khả năng trốn tránh việc điều tra, truy tố, xét xử từ phía bị can, bị cáo hoặc khả năng tiếp tục thực hiện tội phạm của họ và chứng cứ khẳng định một người đã thực hiện tội phạm, cũng như các điều kiện áp dụng đã được luật hóa. Những tài liệu đó phải thể hiện trong hồ sơ vụ án để làm căn cứ ra quyết định áp dụng, thay thế, hủy bỏ các BPNC. - Chủ thể có quyền áp dụng BPNC: người có quyền hạn được quy định tại BLTTHS. - Đối tượng bị áp dụng: người liên quan đến tội phạm chưa bị khởi tố, bị can, bị cáo. - Mục đích áp dụng: ngăn chặn đối tượng nói trên phạm tội và bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự.
  • 14. 11 Từ sự phân tích ở trên, ta có thể đưa ra khái niệm BPNC như sau: Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế nhà nước mang tính phòng ngừa do người có quyền hạn được quy định trong Bộ luật TTHS áp dụng đối với bị can, bị cáo, người liên quan đến tội phạm chưa bị khởi tố, khi có căn cứ áp dụng nhằm ngăn chặn tội phạm, bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Các BPNC trong Bộ luật TTHS được sử dụng hầu như đối với mọi vụ án hình sự. Chúng có tác dụng ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn việc cản trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, bảo đảm cho quá trình giải quyết vụ án theo thời hạn đã quy định, nên có ý nghĩa rất to lớn trong công cuộc phòng ngừa đấu tranh chống tội phạm thông qua các khía cạnh, như: Thứ nhất, những quy phạm pháp luật về các biện pháp ngăn chặn thể hiện sự chuyên chính của Nhà nước trong đấu tranh chống tội phạm bằng sức mạnh cưỡng chế. Thứ hai, những quy phạm pháp luật về các biện pháp ngăn chặn có ý nghĩa tạo điều kiện thuận lợi cho cả quá trình xử lý vụ án. Thứ ba, những quy phạm pháp luật về các biện pháp ngăn chặn thể hiện tính ưu việt của Nhà nước XHCN. Thứ tư, những quy phạm pháp luật về các biện pháp ngăn chặn có ý nghĩa to lớn trong việc tôn trọng và bảo vệ quyền tự do cá nhân được Hiến pháp, pháp luật ghi nhận. 1.1.2. Khái niệm giai đoạn điều tra vụ án hình sự Điều tra là hoạt động có mục đích khám phá sự thật khách quan phục vụ nhu cầu của con người. Trong lĩnh vực phòng, chống tội phạm, điều tra là hoạt động khám phá, phát hiện tội phạm. Hoạt động điều tra được nhìn nhận và quy định khác nhau ở các quốc gia phụ thuộc vào quan điểm chính trị, chính sách hình sự, trình độ và cách thức tổ chức bộ máy phòng, chống tội phạm ở từng nước.
  • 15. 12 Trong khoa học pháp lý của Liên Xô trước đây và của Nga hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về hoạt động điều tra. Đặc điểm chung của các quan điểm đó đã nêu bật được nội dung bản chất của hoạt động điều tra là hoạt động phát hiện, thu thập, củng cố, ghi nhận, thu giữ những thông tin của vụ án. Điểm khác nhau là quan niệm về đối tượng mà hoạt động điều tra tác động tới, thừa nhận điều tra viên là chủ thể của hoạt động điều tra [45]. Trong khoa học pháp lý Việt Nam cũng tồn tại các quan điểm khác nhau về hoạt động điều tra. Cách hiểu phổ biến ở Việt Nam hiện nay cho rằng điều tra là hoạt động của cơ quan điều tra trong điều tra vụ án hình sự. Quan điểm này cho rằng điều tra là tổng hợp tất cả các hành vi thực hiện trong giai đoạn điều tra và do một cơ quan điều tra thực hiện. Ví dụ: Trong cuốn Tìm hiểu Luật Tố tụng hình sự, một nhóm tác giả cùng thống nhất giải thích rằng, "Điều tra là một giai đoạn của quá trình tố tụng hình sự, trong đó cơ quan điều tra áp dụng các biện pháp do Luật tố tụng hình sự quy định để xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội, Viện kiểm sát kiểm sát hoạt động điều tra, quyết định truy tố bị can làm cơ sở cho việc xét xử của Tòa án"; hoặc, "Điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng hình sự, trong giai đoạn này cơ quan điều tra áp dụng mọi biện pháp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định để xác định tội phạm và người phạm tội". Từ điển Luật học giải thích "điều tra là công tác trong tố tụng hình sự được tiến hành nhằm xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ" [27]. Cách hiểu này thể hiện ranh giới không rõ ràng giữa chức năng của cơ quan điều tra với hoạt động điều tra, đồng nhất giai đoạn điều tra với hoạt động điều tra, coi hoạt động điều tra gồm mọi hoạt động tố tụng trong giai đoạn điều tra; nhìn nhận về hoạt động điều tra mang tính cục bộ, phiến diện, bó hẹp phạm vi hoạt động điều tra chỉ được tiến hành trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Trên thực tế hoạt động điều tra được tiến hành trong tất cả các giai đoạn tố tụng hình sự, điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự với những mục đích khác nhau để xác định sự thật khách quan của vụ án.
  • 16. 13 Cách hiểu thứ hai coi hoạt động điều tra là hoạt động của cơ quan điều tra, viện kiểm sát và tòa án nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án. Điểm khác biệt lớn nhất của quan điểm này so với quan điểm thứ nhất là đã nhìn nhận chủ thể của hoạt động điều tra rộng hơn. Tuy nhiên, cách hiểu thứ hai lại nhầm lẫn giữa các hoạt động của cơ quan điều tra với hoạt động điều tra; giữa chức năng của từng hoạt động điều tra với chức năng của các cơ quan điều tra và viện kiểm sát. Về mặt luật thực định, ở Việt Nam hiện nay chưa có một khái niệm pháp lý về "hoạt động điều tra" và cũng chưa được giải thích chính thức bởi các cơ quan có thẩm quyền. Trong tất cả các Bộ luật Tố tụng hình sự, chưa có điều luật nào giải thích hoặc định nghĩa về hoạt động điều tra. Mặc dù hoạt động điều tra đã được quy định trong các văn bản pháp luật tố tụng hình sự, hoạt động điều tra được các cơ quan tố tụng hình sự thực hiện thường xuyên trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, nhưng khoa học pháp lý và thực tiễn hiện nay có những quan điểm khác nhau, chưa thống nhất nhận thức về hoạt động điều tra, vẫn có sự nhầm lẫn giữa các khái niệm điều tra, thẩm quyền điều tra vụ án và hoạt động điều tra; giữa giai đoạn điều tra với hoạt động điều tra. Chính vì vậy mà vô tình đồng nhất hoạt động điều tra với các hoạt động khác của cơ quan điều tra, bó hẹp phạm vi chủ thể, phạm vi thời gian của hoạt động điều tra [1]. Tóm lại, từ những nhận định trên ta có thể chỉ ra khái niệm của giai đoạn điều tra vụ án hình sự như sau: Giai đoạn điều tra vụ án hình sự là quá trình áp dụng pháp luật nhằm làm rõ sự thật khách quan toàn diện về vụ án hình sự. Trong giai đoạn điều tra, cơ quan điều tra tiến hành các hoạt động theo quy định của Bộ luật TTHS để thu thập chứng cứ, bao gồm chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, chứng cứ xác định tình tiết tăng nặng, chứng cứ xác định tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can cũng như chứng cứ xác định các tình tiết khác của vụ án.
  • 17. 14 Bởi vậy, giai đoạn điều tra vụ án hình sự là giai đoạn cơ quan điều tra áp dụng các hoạt động điều tra do Bộ luật TTHS quy định để thu thập chứng cứ nhằm xác định tội phạm và người phạm tội, làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án hình sự được đúng đắn. Như vậy, trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự cần thực hiện hai nhiệm vụ chính sau: Thứ nhất, nhanh chóng xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội. Sau khi đã khởi tố vụ án hình sự, Cơ quan điều tra phải tập trung vào việc phát hiện, thu thập chứng cứ để xác định trong vụ án đã khởi tố có những hành vi phạm tội gì, thuộc vào điều khoản nào của BLHS; phải xác định được tất cả các tội phạm, sao cho không một tội phạm nào không bị phát hiện. Thứ hai, xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu các cơ quan và tổ chức hữu quan có biện pháp khắc phục và ngăn ngừa. Hoạt động của các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự không chỉ dừng lại ở việc đấu tranh chống các tội phạm đã được thực hiện mà còn có trách nhiệm thực hiện các biện pháp phòng ngừa và ngăn chặn tội phạm, làm sáng tỏ và khắc phục các nguyên nhân và điều kiện của tội phạm. 1.2. VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG GIAI ĐOẠN đIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.2.1. Vị trí các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự Xuất phát từ tầm quan trọng của việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân, Điều 20 Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (bổ sung, sửa đổi năm 2013) quy định: Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào
  • 18. 15 khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam giữ người do luật định [33]. Trong thực tế nhiều vụ án xảy ra nếu không áp dụng các BPNC bắt, tạm giữ, tạm giam đối với bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn rất lớn cho công tác điều tra, truy tố và xét xử, cụ thể như người phạm tội có thể bỏ trốn khỏi nơi cư trú sau khi gây án nhằm mục đích trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật; người phạm tội sau khi gây án có thể có những hành động gây cản trở hoạt động điều tra của các cơ quan THTT, dẫn đến hoạt động điều tra gặp nhiều khó khăn hơn; nhiều bị can, bị cáo lại không có nơi cư trú rõ ràng, hoặc luôn thay đổi chỗ ở, trong trường hợp này nếu không bắt, tạm giữ, tạm giam bị can, bị cáo sẽ bỏ trốn gây khó khăn cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử, mặc dù phạm tội ít nghiêm trọng; người phạm tội sau khi gây án có thể tẩu tán tài sản, tang vật do phạm tội mà có gây khó khăn cho công tác thu hồi lại tài sản phạm tội, cũng như có những hành động nhằm che giấu tội phạm; người phạm tội sau khi gây án xong nếu không bắt tạm giữ, giam sẽ có thời gian để xóa dấu vết phạm tội, tiêu hủy chứng cứ, bịt đầu mối hay tìm cho mình những chứng cứ ngoại phạm hòng trốn tránh tội; người phạm tội có thể tiếp tục phạm tội mới nếu không áp dụng các BPNC ngay đối tượng phạm tội sẽ gây nguy hiểm cho xã hội... Chính vì vậy, BLTTHS quy định về các BPNC là có ý nghĩa về mặt lập pháp, thể hiện vị trí, vai trò hết sức quan trọng, đảm bảo cho việc đấu tranh phòng, chống tội phạm có hiệu quả, đảm bảo hoạt động của các cơ quan THTT được thuận lợi, thể hiện sự chuyên chính của Nhà nước XHCN trong việc đấu tranh chống tội phạm. Các BPNC được quy định trong BLTTHS còn góp phần tích cực vào việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ sự an toàn, vững mạnh của chế độ XHCN, bảo vệ tài sản, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm
  • 19. 16 của công dân. Bên cạnh đó, việc áp dụng tùy tiện các BPNC nhất là bắt, tạm giữ, tạm giam oan người vô tội, bắt, tạm giữ, tạm giam sai thẩm quyền, tạm giữ, tạm giam quá hạn… đều bị coi là những hành vi vi phạm pháp luật. Những hành vi vi phạm này không chỉ xâm phạm hoạt động đúng đắn của các THTT, xâm hại quyền bất khả xâm phạm về thân thể và sinh mạng chính trị của công dân mà còn làm giảm uy tín của Nhà nước, giảm sút lòng tin của nhân dân đối với cơ quan thi hành pháp luật. Việc quy định các BPNC trong BLTTHS còn đảm bảo sự dân chủ, tôn trọng các quyền cơ bản của công dân được quy định trong Hiến pháp như quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do cư trú và đi lại…, thể hiện tính ưu việt của chế độ XHCN. Việc quy định và áp dụng đúng đắn các biện pháp này chính là sự đảm bảo sự chắc chắn cho kịp thời, chính xác kẻ phạm tội, không để lọt kẻ phạm tội, không làm oan người vô tội, ngăn chặn không cho người phạm tội tiếp tục phạm tội hoặc phạm tội mới; đồng thời bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Nghiên cứu các BPNC, ngoài ý nghĩa về mặt lý luận, còn có ý nghĩa phục vụ việc nâng cao nhận thức của nhân dân nói chung, cán bộ các cơ quan bảo vệ pháp luật nói riêng về sự sự cần thiết phải áp dụng các biện pháp này trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Sự nắm vững nội dung, phạm vi, quyền hạn, thủ tục của những biện pháp này sẽ giúp cho các cơ quan bảo vệ pháp luật áp dụng đúng pháp luật, không vi phạm các quyền công dân, góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm; giúp công dân có cơ sở pháp lý tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh chống tội phạm; đồng thời tự bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Bên cạnh đó, nó còn có ý nghĩa cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện các chế định các BPNC và phục vụ cho các cơ quan chức năng trong việc hướng dẫn các quy định về các biện pháp này một cách thống nhất. Nghiên cứu các BPNC có ý nghĩa đặc biệt trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN nước ta hiện nay.
  • 20. 17 Qua phân tích như trên cho thấy vị trí quan trọng của các BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, điều đó đảm bảo cho công tác điều tra, truy tố và xét xử. 1.2.2. Vai trò của các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự Vai trò của các BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự nói chung được quy định tại Điều 79, BLTTHS năm 2003: Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, cũng như khi cần bảo đảm thi hành án, CQĐT, VKS, Tòa án trong phạm vi thẩm quyền tố tụng của mình hoặc người có thẩm quyền theo quy định của Bộ luật này có thể áp dụng một trong những BPNC sau: bắt, tạm giữ, tạm giam… [28]. Ở giai đoạn điều tra, việc áp dụng biện pháp bắt người nhằm kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội; việc áp dụng biện pháp tạm giữ nhằm xác định có căn cứ khởi tố bị can hay không đối với người bị bắt khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc để chuyển giao người bị bắt theo lệnh truy nã cho CQĐT đã ra lệnh truy nã; việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam nhằm bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và thời hạn áp dụng nó căn cứ vào bốn loại tính chất tội phạm đã được quy định tại Điều 8 BLHS, còn việc áp dụng các biện pháp khác, như: cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm lại có mục đích bảo đảm sự có mặt của bị can khi CQĐT triệu tập theo các điều 91, 92, 93 BLTTHS. Bên cạnh đó, áp dụng các BPNC còn có ý nghĩa tạo điều kiện thuận lợi cho cả quá trình xử lý vụ án. Để thực hiện nhiệm vụ chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người
  • 21. 18 vô tội mà Điều 1 BLTTHS đã xác định, thì cơ quan (người) THTT được sử dụng các BPNC như là một phương tiện có hiệu quả nhất giải quyết tình hình tội phạm xảy ra trong toàn quốc, trên địa bàn quản lý theo lãnh thổ. Hiệu quả của chúng thể hiện ở việc: bảo đảm bí mật của vụ án, các đối tượng không thể thông cung với nhau, xóa dấu vết, cất giấu công cụ, phương tiện phạm tội hoặc đe dọa, trả thù, cưỡng ép hoặc mua chuộc người bị hại, người làm chứng; tạo điều kiện thuận lợi cho thu thập chứng cứ mà không bị cản trở từ phía bị can, bị cáo; bảo đảm tiến độ giải quyết vụ án trong thời hạn điều tra, truy tố, xét xử theo quy định của BLTTHS. 1.3. CĂN CỨ, NỘI DUNG, ĐIỀU KIỆN ÁP DỤNG BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.3.1. Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự Trên cơ sở Điều 79 BLTTHS, căn cứ áp dụng các BPNC bao gồm: để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, cũng như khi cần bảo đảm thi hành án. Theo nội dung này, có bốn căn cứ chung để áp dụng chúng là: Thứ nhất, khi cần thiết để kịp thời ngăn chặn tội phạm. Các tội phạm đã thực hiện đều gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho một hay nhiều quan hệ xã hội đã được xác định trong BLHS. Việc ngăn chặn tội phạm không cho nó hoàn thành, gây ra hậu quả thực tế có ý nghĩa quan trọng và cấp bách. Vì vậy, BLTTHS quy định các căn cứ kịp thời ngăn chặn tội phạm trong hai trường hợp sau: a) Trường hợp bắt khẩn cấp: khi có căn cứ để cho rằng một người đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng theo điểm a khoản 1 Điều 81; b) Trường hợp bắt quả tang: khi người đó đang thực hiện tội phạm hoặc sau khi thực hiện tội phạm, thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt theo khoản 1 Điều 82.
  • 22. 19 Thứ hai, khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Đây là căn cứ dự báo được dựa trên những tài liệu có các tình tiết và hành vi của bị can, bị cáo, như: a) Nơi cư trú của họ không có hoặc không rõ ràng, sự vắng mặt của họ theo giấy triệu tập của cơ quan (người) THTT, đã di chuyển khỏi nơi cư trú…; b) Tính chất của tội phạm mà bị can, bị cáo đã thực hiện thuộc vào loại tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng. Về tâm lý, mức hình phạt của các loại tội phạm này là rất cao, nên người phạm tội luôn có tâm lý ám ảnh, sợ hãi, dẫn đến hành vi xóa dấu vết, tiêu hủy tài liệu, đối phó với CQĐT và bỏ trốn…; c) Các hành vi của họ được diễn ra sau khi tội phạm đã thực hiện, như: mua chuộc, đe dọa người bị hại, người làm chứng, xóa dấu vết, tiêu hủy chứng cứ, thông đồng với nhau khai báo sai sự thật… Thứ ba, khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội. Đây là căn cứ dự báo và có thể xác định trên hai tiêu chí, như: a) Về nhân thân bị can, bị cáo là những đối tượng có nhân thân xấu. Ví dụ: bị can, bị cáo là người có ý thức chống đối giai cấp sâu sắc, những phần tử thuộc diện lưu manh, côn đồ, hung hãn… Bị can, bị cáo là những đối tượng phạm tội đã có nhiều tiền án, tiền sự hoặc những đối tượng phạm tội có tính chất chuyên nghiệp; b) Về hành vi của bị can, bị cáo: đe dọa trả thù người tố giác, người bị hại, người làm chứng; có sự chuẩn bị công cụ, phương tiện cho việc phạm tội và xét thấy khả năng thực hiện được những hành vi này. Thứ tư, để bảo đảm thi hành án. Thi hành bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án có liên quan trực tiếp đến người bị kết án. Sự có mặt của họ rất cần thiết để cho quyết định của Tòa án có hiệu lực trên thực tế. Nếu người bị kết án bỏ trốn, thì việc truy cứu TNHS trở thành vô nghĩa. Cho nên, BLTTHS năm 2003 có quy định năm căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam để bảo đảm thi hành án, gồm: a) Trường hợp bị cáo không bị tạm giam, nhưng bị phạt tù, thì họ chỉ bị bắt giam để chấp hành hình phạt khi bản án đã
  • 23. 20 có hiệu lực pháp luật. Hội đồng xét xử (HĐXX) có thể ra quyết định bắt tạm giam ngay bị cáo nếu có căn cứ cho thấy bị cáo có thể trốn hoặc tiếp tục phạm tội theo khoản 2 Điều 228; b) Trường hợp bị cáo đang bị tạm giam mà đến ngày mở phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết, nếu xét thấy cần tiếp tục tạm giam để hoàn thành việc xét xử, thì Tòa án ra lệnh tạm giam cho đến khi kết thúc phiên tòa theo Điều 177; c) Trường hợp bị cáo bị tạm giam mà bị xử phạt tù và đến ngày kết thúc phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết, thì HĐXX quyết định tạm giam bị cáo để bảo đảm việc thi hành án, trừ trường hợp trả tự do vì bị phạt tù, nhưng cho hưởng án treo hoặc thời hạn phạt tù ngắn hơn hoặc bằng thời hạn tạm giam được quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 227 theo Điều 228; d) Trường hợp bị cáo bị tạm giam mà bị xử phạt tù mà đến ngày kết thúc phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết, nếu xét thấy cần tiếp tục tạm giam để hoàn thành việc xét xử, thì HĐXX quyết định tạm giam bị cáo để bảo đảm việc thi hành án, trừ trường hợp trả tự do vì bị phạt tù, nhưng cho hưởng án treo hoặc thời hạn phạt tù ngắn hơn hoặc bằng thời hạn tạm giam được quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 227 theo Điều 243; e) Trường hợp bị cáo bị phạt tử hình, thì HĐXX quyết định trong bản án việc tiếp tục tạm giam bị cáo để bảo đảm thi hành án theo Điều 228. Ngoài ra, trong quá trình giải quyết vụ án, cơ quan THTT còn thay thế các biện pháp: cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hay tài sản có giá trị để bảo đảm cho các hình phạt khác nhẹ hơn hình phạt tù được thi hành trong thực tế, khi có căn cứ sau: a) Thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm theo Điều 25 BLHS; b) Hoàn cảnh gia đình, bản thân họ là người lao động chính duy nhất trong gia đình hoặc do nhu cầu công vụ theo Điều 61 BLHS; c) Tình trạng sức khỏe, phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người già yếu, người bị bệnh nặng theo Điều 88 BLTTHS; d) Tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành
  • 24. 21 vi phạm tội, nhân thân của bị can, bị cáo theo Điều 92 BLTTHS và tình trạng tài sản theo Điều 93 BLTTHS. Khi giải quyết vụ án hình sự, theo các căn cứ chung được nêu ở trên, người THTT còn phải xem xét những căn cứ khác được quy định tại một BPNC cụ thể trong BLTTHS để quyết định lựa chọn một BPNC nào đó phù hợp với quy định về: tính chất của tội phạm, nhân thân đối tượng và điều kiện áp dụng. Việc quyết định áp dụng đó phải "tiết kiệm", có nghĩa là chỉ cần áp dụng một BPNC có mức độ ít nghiêm khắc hơn biện pháp tạm giam mà vẫn đạt được cả hai mục đích của các BPNC đã được phân tích ở trên, đồng thời, Nhà nước không phải tốn kém nhiều chi phí vật chất cho những thi hành việc bắt, tạm giữ, tạm giam. Điều 79 BLTTHS hiện hành có đề cập đến bốn căn cứ chung nói trên, nhưng không chính xác về căn cứ và mục đích. Trong đó, có hai mục đích bị hiểu nhầm thành căn cứ là: a) Khi cần thiết để kịp thời ngăn chặn tội phạm; b) Để bảo đảm thi hành án. Như vậy, căn cứ áp dụng các BPNC là những tài liệu, chứng cứ mang tính dự báo về khả năng bị can, bị cáo thực hiện các hành vi cản trở điều tra, truy tố, xét xử, tiếp tục phạm tội hoặc cản trở thi hành án. Khi áp dụng BPNC phải dựa vào một trong những căn cứ vừa nêu trên chứ không phải bất kỳ trường hợp nào bị can, bị cáo cũng đều bị áp dụng BPNC. Việc có hay không áp dụng BPNC và áp dụng BPNC nào tùy thuộc vào tính chất mức độ của hành vi phạm tội, cũng như nhân thân của bị can, bị cáo và điều kiện, khả năng quản lý họ của các cơ quan THTT. Đối với từng BPNC, luật TTHS còn quy định những căn cứ cụ thể cho từng biện pháp, tránh sự áp dụng tràn lan không có căn cứ. 1.3.2. Nội dung áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự Với tính chất là một giai đoạn độc lập của TTHS, giai đoạn điều tra vụ án hình sự có chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể nhằm áp dụng các
  • 25. 22 biện pháp cần thiết do luật định để chứng minh việc thực hiện tội phạm và người phạm tội, xác định rõ những nguyên nhân và điều kiện phạm tội, đồng thời kiến nghị các cơ quan và tổ chức hữu quan áp dụng đầy đủ các biện pháp khắc phục và phòng ngừa tội phạm; Thời điểm của giai đoạn này được bắt đầu từ khi cơ quan (người) tiến hành TTHS có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc bằng bản kết luận điều tra và quyết định của CQĐT về việc đề nghị VKS truy tố bị can trước Tòa án hoặc đình chỉ vụ án hình sự tương ứng. Một mặt, điều tra vụ án hình sự là chức năng quan trọng trong hoạt động tư pháp hình sự của cơ quan (người) tiến hành có thẩm quyền đối với mỗi hành vi phạm tội nhằm trực tiếp chứng minh hành vi phạm tội và người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm thông qua các chứng cứ đã thu thập được, đồng thời cũng là một trong những phương tiện cơ bản để thực hiện tốt nguyên tắc không tránh khỏi trách nhiệm trong thực tiễn áp dụng pháp luật TTHS, tránh bỏ lọt tội phạm; Mặt khác, điều tra vụ án hình sự cũng góp phần loại trừ một thái cực khác trong hoạt động tư pháp hình sự, ngăn chặn kịp thời việc thông qua quyết định khởi tố bị can một cách không thận trọng, thiếu chính xác và do vậy, có thể sẽ kéo một loạt hậu quả tiêu cực tiếp theo xảy ra trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự ở các giai đoạn TTHS (như: Truy tố của VKS hoặc xét xử của Tòa án không khách quan, vô căn cứ và trái pháp luật, làm oan những người vô tội); Và cuối cùng, điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn TTHS cơ bản và quan trọng để tăng cường pháp chế, bảo vệ các quyền và tự do của công dân trong các giai đoạn trước khi khởi tố của VKS và xét xử của Tòa án, cùng với các giai đoạn TTHS khác góp phần có hiệu quả vào cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm trong toàn xã hội.
  • 26. 23 1.3.3. Điều kiện áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra hình sự - Về thẩm quyền áp dụng BPNC Ngoài biện pháp bắt người trong trường hợp phạm tội quả tang, người có lệnh truy nã mà bất kỳ ai cũng có quyền bắt quy định tại Điều 82 BLTTHS thì những BPNC khác phải do những người có trách nhiệm của các cơ quan THTT mới có thẩm quyền áp dụng. Đối với việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp (Điều 81 BLTTHS) và biện pháp tạm giữ (Điều 86 BLTTHS) thì người có thẩm quyền quyết định áp dụng phải là: a) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT các cấp; b) Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới; c) Người chỉ huy tàu bay, tàu biển, khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng. Thẩm quyền áp dụng biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam (Điều 80 BLTTHS) và biện pháp tạm giam (Điều 88 BLTTHS) phải là: a) Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) và VKS quân sự các cấp; b) Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân (TAND), Tòa án quân sự các cấp; c) Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó Chánh tòa Tòa phúc thẩm TANDTC; HĐXX; d) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT các cấp. Thẩm quyền áp dụng các biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú (Điều 91 BLTTHS); Bảo lĩnh (Điều 92 BLTTHS); Đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để đảm bảo (Điều 93 BLTTHS) do: a) Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND và VKS quân sự các cấp; b) Chánh án, Phó Chánh án TAND và Tòa án quân sự các cấp; c) Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó Chánh tòa Tòa phúc thẩm TANDTC; HĐXX; d) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT các cấp; đ) Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa có quyền ra quyết định về việc bảo lãnh.
  • 27. 24 - Về thủ tục áp dụng BPNC Thủ tục, trình tự khi áp dụng các BPNC cũng được quy định chặt chẽ đảm bảo cho việc đấu tranh chống tội phạm có hiệu quả, đồng thời không để bị lợi dụng để xâm hại quyền con người. Tương ứng với mỗi BPNC, luật quy định chi tiết thủ tục áp dụng đối với cơ quan THTT, người THTT, người tham gia tố tụng và các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác tham gia vào quá trình giải quyết vụ án. Đó là các thủ tục về tiến hành, thủ tục lập biên bản, thủ tục ra quyết định, thủ tục phê chuẩn… và thời hạn, thời điểm áp dụng các BPNC. 1.4. VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI TRONG VIỆC ÁP DỤNG BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.4.1. Quyền con ngƣời đƣợc quy định trong Hiến pháp và các văn bản pháp lý khác Quyền con người là một giá trị nhân loại, đồng thời có tính lịch sử hình thành trong cuộc đấu tranh giai cấp và được bổ sung mới qua các thời đại khác nhau. Theo Từ điển tiếng Việt 1992 thì quyền là "điều mà pháp luật hoặc xã hội công nhận cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi" [36]. Như vậy, quyền con người là những điều mà pháp luật hoặc xã hội công nhận cho mỗi con người được hưởng. Quyền con người được đặt trong mối quan hệ với nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với xã hội và được giải quyết trên cơ sở đảm bảo lợi ích xã hội. Bảo đảm quyền con người là bảo đảm dân chủ, bảo đảm hiệu quả, hiệu lực nhà nước cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Đây là mục tiêu mà Đảng và Nhà nước ta luôn hướng tới. Việc bảo đảm các quyền con người, quyền công dân phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng… trong đó nhà nước bảo đảm về mặt pháp lý, các cơ quan tố tụng bảo đảm thực thi pháp luật có hiệu quả là vấn đề cực kỳ quan trọng. Nhằm bảo đảm quyền con người, Hiến pháp (bổ sung, sửa đổi năm 2013) của nước ta đã dành riêng một phần của Chương 2 quy định về quyền
  • 28. 25 con người, quyền và nghĩa vụ của công dân. Trong đó quy định về quyền con người, quyền công dân có 29 điều (từ Điều 14 đến Điều 43), với những nội dung cơ bản như: quyền bình đẳng trước pháp luật, quyền được nhà nước bảo hộ, quyền được sống, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, đời tư, nơi ở hợp pháp... Quyền con người được Hiến pháp ghi nhận dựa trên hai nguyên tắc quan trọng: (i) các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật; (ii) Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng [30]. Từ hai nguyên tắc này và để đảm bảo thực hiện trên thực tế, Hiến pháp (bổ sung, sửa đổi năm 2013) đã quy định cơ chế thực hiện như sau: - Quyền con người, quyền công dân được hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước đảm bảo thực hiện. Điều 6 Hiến pháp (bổ sung, sửa đổi năm 2013) quy định: "Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước". Quốc hội, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất do nhân dân cả nước bầu ra, bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân bằng các phương thức sau: xây dựng Hiến pháp và pháp luật, ghi nhận ý chí, nguyện vọng của nhân dân, thể chế hóa các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật của các chủ thể, nhất là các chủ thể nắm giữ quyền lực nhà nước; quyết định những vấn đề quan trọng nhất của đất nước. Hội đồng nhân dân đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương, thực hiện việc giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước địa phương. - Quyền con người, quyền công dân được đảm bảo thực hiện bởi hệ thống cơ quan hành pháp. Chính phủ và ủy ban nhân dân các cấp là chủ thể có trách nhiệm đưa pháp luật đi vào cuộc sống, làm cho quyền và nghĩa vụ của
  • 29. 26 công dân trở thành hiện thực, là cơ quan trực tiếp quản lý nhà nước trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; trong đó cơ quan công an (CQĐT) có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ trật tự pháp luật và pháp chế. - Quyền con người, quyền công dân còn được bảo đảm qua hệ thống cơ quan tư pháp. Tòa án và VKS là các cơ quan bảo vệ pháp chế, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, tập thể và tính mạng, danh dự, nhân phẩm… của con người. Ngoài ra, trong các văn bản quy phạm pháp luật khác cũng đã chú trọng về quyền con người. Những năm qua, Nhà nước ta đã ban hành mới và bổ sung, sửa đổi một số lượng lớn văn bản quy phạm pháp luật liên quan quyền dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quyền của nhóm các đối tượng dễ bị tổn thương. Hệ thống văn bản luật đã từng bước thể chế hóa các chính sách của Đảng về quyền con người, tạo cơ sở pháp lý cho việc đảm bảo quyền con người trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Thực hiện Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp và Nghị quyết 49-NQ-TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp, những năm qua, các cơ quan tư pháp đã từng bước được kiện toàn theo hướng tinh gọn, hiệu quả nhằm tăng cường pháp chế XHCN, bảo vệ pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tập thể và công dân. 1.4.2. Bảo vệ quyền con ngƣời thông qua quy định của luật tố tụng hình sự về áp dụng các biện pháp ngăn chặn Quyền con người trong TTHS là những giá trị thiêng liêng chỉ dành cho con người khi họ tham gia quan hệ pháp luật TTHS mà nhà nước có nghĩa vụ phải ghi nhận trong Hiến pháp, pháp luật và đảm bảo thực hiện trên thực tế. Bảo vệ quyền con người trong TTHS trước hết đòi hỏi hệ thống pháp luật không chỉ giúp nhà nước phát hiện xử lý tội phạm mà còn không làm oan người vô tội và bảo vệ quyền con người, trước hết là những người bị buộc tội.
  • 30. 27 Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, các cơ quan THTT được áp dụng nhiều biện pháp cưỡng chế trong đó có các BPNC. BPNC là chế định pháp lý quan trọng được quy định tại Chương VI BLTTHS, bao gồm các biện pháp: Bắt; tạm giữ; tạm giam; cấm đi khỏi nơi cư trú; bảo lĩnh; đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm. Nhằm tránh việc lợi dụng của các cơ quan THTT và người THTT khi áp dụng áp dụng những biện pháp này xâm hại đến quyền con người, Luật TTHS quy định chặt chẽ mục đích, căn cứ, thẩm quyền, thủ tục áp dụng. Về mục đích áp dụng BPNC, Điều 79 BLTTHS quy định chỉ áp dụng BPNC với hai mục đích là ngăn chặn không cho tội phạm tiếp tục xảy ra gây thiệt hại cho xã hội, không để người phạm tội tiếp tục thực hiện tội phạm hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật; tạo điều kiện thuận lợi để các cơ quan THTT giải quyết vụ án như không để người phạm tội có thể xóa bỏ dấu vết phạm tội, tiêu hủy chứng cứ, làm giả chứng cứ, thông cung giữa những người phạm tội hoặc với người làm chứng, đảm bảo sự có mặt của bị can, bị cáo, bị án khi có yêu cầu của cơ quan THTT. Ngoài hai mục đích trên BPNC không được áp dụng với bất kỳ mục đích nào khác, nhất là đối với ý đồ xâm phạm quyền con người. Để đảm bảo đạt được mục đích đặt ra của BPNC đồng thời bảo vệ các quyền con người không bị xâm hại, Luật TTHS quy định căn cứ áp dụng các BPNC, đó là: 1) Để kịp thời ngăn chặn tội phạm; 2) Khi có căn cứ cho rằng bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội; 3) Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố xét xử; 4) Để đảm bảo thi hành án. Như vậy, căn cứ áp dụng các BPNC là những tài liệu, chứng cứ mang tính dự báo về khả năng bị can, bị cáo thực hiện các hành vi cản trở điều tra, truy tố, xét xử, tiếp tục phạm tội hoặc cản trở thi hành án. Khi áp dụng BPNC phải dựa vào một trong những căn cứ vừa nêu trên chứ không phải bất kỳ trường hợp nào bị can, bị cáo cũng đều bị áp dụng BPNC. Việc có hay không áp dụng
  • 31. 28 BPNC và áp dụng BPNC nào tùy thuộc vào tính chất mức độ của hành vi phạm tội, cũng như nhân thân của bị can, bị cáo và điều kiện, khả năng quản lý họ của các cơ quan THTT. Đối với từng BPNC Luật TTHS còn quy định những căn cứ cụ thể cho từng biện pháp tránh sự áp dụng tràn lan không có căn cứ. Ngoài biện pháp bắt người trong trường hợp phạm tội quả tang, người có lệnh truy nã mà bất kỳ ai cũng có quyền bắt quy định tại Điều 82 BLTTHS thì những BPNC khác phải do những người có trách nhiệm của các cơ quan THTT mới có thẩm quyền áp dụng. Thủ tục, trình tự khi áp dụng các BPNC cũng được quy định chặt chẽ đảm bảo cho việc đấu tranh chống tội phạm có hiệu quả đồng thời không để bị lợi dụng để xâm hại quyền con người. Như vậy, vấn đề bảo vệ quyền con người đã được BLTTHS Việt Nam quy định hết sức cụ thể, rõ ràng thông qua các nguyên tắc như: thừa nhận Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền xét xử các vụ án hình sự; bảo vệ quyền cơ bản của công dân; bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm, quyền bào chữa, quyền kháng cáo, quyền minh oan…, đặc biệt là trong quy định về áp dụng các BPNC. 1.5. BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ TRONG MỘT SỐ MÔ HÌNH TỐ TỤNG HÌNH SỰ TIÊU BIỂU 1.5.1. Biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của Liên bang Nga Những BPNC trong BLTTHS của Liên bang Nga được quy định tại Mục 13, từ Điều 98 đến Điều 110. Điều 98 quy định những BPNC gồm có: (1) Cấm đi khỏi nơi cư trú; (2) Bảo lĩnh của cá nhân; (3) Giám sát của đơn vị quân đội; (4) Quản lý người bị tình nghi hoặc bị can là người chưa thành niên; (Điểm này được sửa đổi theo Luật liên bang số 58/LLB ngày 29 tháng 5 năm 2002); (5) Đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm; (6) Giam tại nhà; (7) Tạm giam.
  • 32. 29 So với BLTTHS Việt Nam, BLTTHS Liên bang Nga không quy định biện pháp bắt. Bên cạnh đó, biện pháp tạm giữ cũng không phải là BPNC mà được quy định riêng tại Mục 12 "Tạm giữ người bị tình nghi", trong đó quy định căn cứ, thủ tục tạm giữ; khám người bị tình nghi; những căn cứ trả tự do cho người bị tình nghi; thủ tục tạm giam người bị tình nghi; thông báo về việc tạm giữ người bị tình nghi. Bộ luật TTHS Liên bang Nga quy định các biện pháp sau là những BPNC: giám sát của đơn vị quân đội, giam tại nhà, quản lý người bị tình nghi hoặc bị can là người chưa thành niên. Cụ thể: + Về biện pháp giám sát của đơn vị quân đội. Đối tượng áp dụng là người bị tình nghi là quân nhân hoặc công dân được trưng tập phục vụ trong quân đội. Tuy nhiên, biện pháp này chỉ được áp dụng nếu người bị tình nghi, bị can đồng ý. + Về biện pháp giam tại nhà. Biện pháp giam tại nhà là việc hạn chế tự do đi lại của người bị tình nghi, bị can cũng như nghiêm cấm: tiếp xúc với một số người nhất định; nhận và gửi thư; trao đổi qua các phương tiện thông tin liên lạc. Trong quyết định của Tòa án về việc áp dụng biện pháp giam tại nhà với tư cách là BPNC cần nêu rõ những hạn chế cụ thể đối với người bị tình nghi, bị can, đồng thời chỉ rõ cơ quan hoặc người có thẩm quyền thực hiện việc giám sát việc chấp hành những hạn chế đã quy định. + Về biện pháp quản lý người bị tình nghi hoặc bị can là người chưa thành niên. Việc quản lý người bị tình nghi hoặc bị can là người chưa thành niên thể hiện ở việc bảo đảm người đó xử sự đúng mực theo quy định tại Điều 102 BLTTHS Liên bang Nga do cha mẹ, người đỡ đầu, người giám hộ hoặc những người nhận bảo lĩnh cho họ cũng như những người có trách nhiệm của cơ quan chuyên trách về trẻ em thực hiện và những người này phải cam đoan
  • 33. 30 bằng văn bản. Khi áp dụng BPNC này bắt buộc Điều tra viên, Dự thẩm viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán phải giải thích về bản chất của việc tình nghi hoặc buộc tội và trách nhiệm của họ liên quan đến nghĩa vụ theo dõi, giám sát. Đối với những người được giao theo dõi, giám sát người bị tình nghi, bị can là người chưa thành niên nếu không thực hiện nghĩa vụ đã cam đoan thì có thể bị áp dụng biện pháp xử phạt quy định. 1.5.2. Biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của Trung Quốc Các BPNC, trình tự, thủ tục, thẩm quyền áp dụng BPNC trong TTHS Trung Quốc được quy định như sau: - Biện pháp bảo lĩnh chờ xét xử Biện pháp bảo lĩnh chờ xét xử (sau đây gọi tắt là biện pháp bảo lĩnh) là BPNC độc lập trong BLTTHS Trung Hoa, theo đó cơ quan công an, VKS, Tòa án cho phép nghi can, bị cáo được nhờ người đứng ra bảo đảm hoặc tự đặt một số tiền nhất định để bảo đảm. Về hình thức bảo lĩnh, luật TTHS Trung Hoa quy định có hai hình thức bảo lĩnh: hình thức bảo lĩnh thông qua người bảo lĩnh và hình thức bảo lĩnh thông qua việc người bị tình nghi phạm tội, bị cáo đặt tiền để bảo lĩnh. Pháp luật Trung Hoa quy định rõ, cơ quan tố tụng chỉ được lựa chọn áp dụng một trong hai hình thức nêu trên, không được phép áp dụng đồng thời cả hai hình thức bảo lĩnh. Về trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp bảo lĩnh được quy định như sau: Trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày nhận được đơn đề nghị áp dụng biện pháp bảo lĩnh từ người bị tình nghi phạm tội, bị cáo, người đại diện hợp pháp hoặc luật sư của họ, các cơ quan tố tụng có trách nhiệm xem xét và trả lời đơn. Trường hợp có thể cho áp dụng biện pháp bảo lĩnh thì cơ quan tố tụng sẽ ra "Quyết định cho bảo lĩnh chờ xét xử". Quyết định này phải được đọc cho người bị tình nghi phạm tội, bị cáo nghe và yêu cầu người này ký tên hoặc
  • 34. 31 đóng dấu. Quyết định cho bảo lĩnh chờ xét xử của cơ quan VKS và Tòa án được gửi cho cơ quan công an để thi hành. - Biện pháp giám sát nơi cư trú Điều 51 BLTTHS quy định trong những trường hợp sau đây TAND, VKS nhân dân, cơ quan công an có thể áp dụng biện pháp giám sát nơi cư trú: + Người bị tình nghi phạm tội, bị cáo có thể phải chịu hình phạt giám sát tại cộng đồng, tạm giam hoặc các hình phạt bổ sung khác. + Người bị tình nghi phạm tội, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt tù có thời hạn và việc cho áp dụng biện pháp giám sát nơi cư trú không gây nguy hại cho xã hội. Về trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp giám sát nơi cư trú được quy định như sau: Khi quyết định áp dụng biện pháp giám sát nơi cư trú, cơ quan tố tụng phải ra Quyết định Giám sát nơi cư trú. Quyết định giám sát nơi cư trú phải được đọc cho người bị tình nghi phạm tội, bị cáo nghe và yêu cầu người này ký tên hoặc đóng dấu. Quyết định giám sát nơi cư trú của cơ quan VKS và Tòa án được gửi cho cơ quan công an để thi hành. Căn cứ vào các tình tiết cụ thể của vụ án, cơ quan công an có thể tạm thời thu giữ chứng minh thư, phương tiện, động cơ (xe, thuyền), bằng lái của người bị tình nghi phạm tội, bị cáo đang bị giám sát nơi cư trú. Thời hạn giám sát nơi cư trú được quy định tối đa không quá 6 tháng. Hết thời hạn giám sát nơi cư trú theo luật định, nếu không chứng minh được hành vi phạm tội của người bị tình nghi phạm tội, bị cáo thì phải hủy bỏ Quyết định giám sát nơi cư trú. Cơ quan ra quyết định hủy bỏ có trách nhiệm thông báo ngay việc hủy bỏ Quyết định giám sát nơi cư trú cho người bị giám sát và các cơ quan có liên quan. - Biện pháp tạm giữ Bộ luật TTHS quy định khi có những chứng cứ về hành vi phạm tội của người bị tình nghi phạm tội, bị cáo cho rằng người này có thể bị áp dụng
  • 35. 32 hình phạt tù trở lên đồng thời những BPNC khác như bảo lĩnh hoặc giám sát nơi cư trú không đủ để ngăn ngừa hành vi nguy hiểm cho xã hội của người này thì có thể áp dụng biện pháp bắt giữ theo quy định của luật TTHS. Đối với nghi can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con bú hoặc bị bệnh nặng thì không áp dụng biện pháp này mà áp dụng biện pháp bảo lĩnh hoặc giám sát nơi cư trú. Cơ quan công an, VKS, Tòa án có quyền áp dụng biện pháp tạm giữ. Đối với lệnh bắt giữ của cơ quan công an phải được VKS thẩm tra và phê chuẩn trước khi thi hành. Trong những trường hợp sau đây, Luật TTHS quy định cơ quan công an có quyền ra lệnh bắt giữ ngay: (1) Khi phát hiện một người đang chuẩn bị phạm tội, đang thực hiện hành vi phạm tội hoặc bị phát hiện ngay sau khi phạm tội; (2) Người bị hại chính mắt trông thấy hoặc xác nhận là người đó đã thực hiện hành vi phạm tội; (3) Chứng cứ của tội phạm được phát hiện có trên thân thể hoặc tại nơi cư trú của người này; (4) Kẻ phạm tội tìm cách tự tử hoặc chạy trốn sau khi phạm tội; (5) Kẻ phạm tội có khả năng tiêu hủy chứng cứ, làm sai lệch chứng cứ hoặc thông cung; (6) Kẻ phạm tội bị nghi ngờ là đã thực hiện hành vi phạm tội ở nhiều nơi, nhiều lần hoặc phạm tội có tổ chức. Trong các trường hợp này, ngay sau khi thực hiện việc bắt, cơ quan công an phải gửi hồ sơ về việc bắt đến VKS để xin phê chuẩn. - Biện pháp tạm giam Bộ luật TTHS và các văn bản hướng dẫn thi hành quy định đối với người bị tình nghi phạm tội, bị cáo đã có đủ chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội, thuộc trường hợp có thể bị áp dụng hình phạt tù trở lên và việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế, giám sát nơi cư trú không đủ để ngăn chặn mối nguy hiểm cho xã hội hoặc không còn điều kiện để áp dụng biện pháp tạm giữ thì cơ quan công an, VKS, Tòa án có thể áp dụng biện pháp tạm giam với họ. Lệnh bắt tạm giam của cơ quan công an phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
  • 36. 33 Trong trường hợp xét cần phải áp dụng biện pháp tạm giam đối với người bị tình nghi phạm tội, cơ quan công an lập "Đề nghị phê chuẩn lệnh tạm giam" gửi VKSND cùng cấp để thẩm tra, phê chuẩn. Trong những trường hợp do pháp luật quy định, VKS cũng có quyền ra quyết định việc áp dụng biện pháp tạm giam. Thời hạn tạm giam đối với người bị tình nghi tối đa là hai tháng. Đối với vụ án phức tạp, không thể kết thúc điều tra trong thời hạn nêu trên thì có thể gia hạn tạm giam thêm một tháng. Việc gia hạn tạm giam phải được VKSND trên một cấp phê chuẩn. 1.5.3. Biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của Cộng hòa Liên bang Đức Trong hoạt động điều tra, pháp luật TTHS của Đức quy định rất chặt chẽ những hoạt động xâm phạm đến các quyền tự do của công dân. Những quyền như quyền bắt tạm giam, khám xét, bắt giữ, nghe chặn, ghi âm liên lạc các cuộc viên thông và khám người luôn bị kiểm soát nghiêm ngặt và phải tuân theo luật. Ngoài ra, theo phán quyết của Tòa án tối cao liên bang, những hoạt động theo quyền hạn như vậy chỉ có hiệu lực nếu được áp dụng tương xứng với mục đích của từng hoạt động trên. Mọi bằng chứng liên quan thu được do vi phạm nguyên tắc này sẽ không được Tòa án chấp nhận. Do đó, giai đoạn điều tra, tiền xét xử đòi hỏi phải có sự can thiệp của Tòa án vào tất cả các hoạt động tố tụng xâm phạm đến quyền tự do cá nhân. Việc tạm giam trước khi xét xử phải do thẩm phán (không phải người tiến hành xét xử sau này) quyết định. Việc thực hiện những thẩm quyền khác như bắt, khám xét, thu giữ, khám người bị buộc tội hay một người khác hoặc nghe lén điện thoại trong những trường hợp rất đặc biệt do chính cơ quan công tố ra lệnh, quyết định. Quy định này nhằm đảm bảo chứng cứ được thu thập kịp thời và việc Tòa án liên quan đến quy trình này có thể làm chứng cứ bị mất hoặc bị làm sai lệch… Tuy nhiên, việc áp dụng những biện pháp như vậy
  • 37. 34 ngay sau đó phải được Tòa án kiểm soát với (một thẩm phán) công nhận, quyết định (chẳng hạn, điều 100b quy định về nghe lén điện thoại). Hơn nữa, đối tượng bị áp dụng các biện pháp trên có thể yêu cầu Tòa án ra quyết định, phán quyết về tính hợp pháp của việc áp dụng các biện pháp đó (điều 98). Trong trường hợp khẩn cấp, khi không có Tòa án nào có thể ra lệnh ngay được thì nhân viên cảnh sát làm nhiệm vụ hỗ trợ cũng có những quyền hạn như công tố viên. Khi xem xét áp dụng một trong những biện pháp như vậy, cơ quan công tố phải làm đơn đề nghị thẩm phán Tòa án địa phương ra lệnh (Điều 162). Lệnh phải được ban hành ngay khi có đủ chứng cứ chứng minh sự cần thiết tiến hành các biện pháp cưỡng chế, ngăn chặn đó (Điều 162). ở đây, thẩm phán không hành động theo quyền hạn tư pháp của Tòa án mà thực hiện thẩm quyền mang tính hành chính của mình và không có quyền tự ý tiến hành điều tra, tìm hiểu. Trường hợp tài liệu vụ án do Công tố viên cung cấp không đủ sức thuyết phục để ra lệnh áp dụng các biện pháp đã nêu thì thẩm phán phải yêu cầu Công tố viên cung cấp thêm thông tin. Nếu Công tố viên không thể cung cấp thêm thông tin, thẩm phán phải từ chối việc áp dụng các biện pháp đó. Cảnh sát đóng vai trò chính trong quá trình điều tra. Vì Viện công tố không có lực lượng để thực hiện nhiệm vụ điều tra nên phải yêu cầu cảnh sát hỗ trợ. Mặc dù về nguyên tắc, Công tố viên là người chỉ đạo tiến trình tố tụng giai đoạn tiền xét xử và đưa ra các mệnh lệnh cho cảnh sát theo Điều 152 của Luật Tòa án nhưng trên thực tế cảnh sát thường chủ động tiến hành các hoạt động điều tra. Chỉ trong những trường hợp phức tạp và nghiêm trọng thì cảnh sát điều tra mới chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Công tố viên. Khi cảnh sát hoàn thành việc điều tra, hồ sơ sẽ được chuyển cho bên công tố để quyết định có truy tố hay không. Tuy nhiên, trách nhiệm pháp lý đối với tất cả các hoạt động điều tra vẫn thuộc về cơ quan công tố.
  • 38. 35 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 Trong Chương 1, luận văn đã phân tích, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, cụ thể là: khái niệm BPNC; khái niệm giai đoạn điều tra vụ án hình sự; vị trí, vai trò của các BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự; căn cứ, nội dung, điều kiện áp dụng BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Đồng thời, làm rõ một số vấn đề liên quan đến áp dụng BPNC trong điều tra hình sự như: vấn đề bảo vệ quyền con người trong việc áp dụng BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự; liên hệ việc áp dụng BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự trong một số mô hình TTHS tiêu biểu để so sánh, đối chiếu với các quy định của hệ thống pháp luật ở Việt Nam. Qua phân tích cho thấy, BPNC là biện pháp cưỡng chế nhà nước mang tính phòng ngừa do người có quyền hạn được quy định trong BLTTHS áp dụng đối với người liên quan đến tội phạm chưa bị khởi tố, bị can, bị cáo, khi có căn cứ cụ thể nhằm ngăn chặn tội phạm, bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, được coi là phương tiện pháp lý sắc bén, có hiệu quả nhất để giải quyết tình hình tội phạm. Các BPNC thể hiện sự chuyên chính của Nhà nước ta trong phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm bằng sức mạnh cưỡng chế. Chúng tạo điều kiện thuận lợi cho cả quá trình xử lý vụ án, đồng thời, thể hiện tính ưu việt của Nhà nước XHCN, cũng như tôn trọng và bảo vệ quyền công dân được Hiến pháp, pháp luật ghi nhận.
  • 39. 36 Chương 2 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG 2.1. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ 2.1.1. Quy định của pháp luật Việt Nam về biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự trƣớc năm 2003 Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã lật đổ hoàn toàn bộ máy nhà nước phong kiến và dẫn đến sự ra đời của Nhà nước kiểu mới đầu tiên ở Đông Nam Á - nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ngày ấy, chính quyền non trẻ phải đối mặt với những khó khăn chồng chất, như: nền kinh tế vốn lệ thuộc lại bị phát xít Nhật khai thác triệt để trong chiến tranh thế giới thứ hai trở nên kiệt quệ; thực dân Pháp trở lại gây hấn ở Nam bộ được sự giúp đỡ đắc lực của quân đội Anh vào giải giáp vũ khí của quân đội Nhật; ở miền Bắc, quân đội Tưởng với danh nghĩa đồng minh vào giải giáp vũ khí quân đội Nhật và theo sau đó là bọn tay sai người Việt với âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng. Trong lúc phải đối phó với nạn đói và thù trong, giặc ngoài, hoạt động lập pháp vẫn được Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Đó là việc ban hành Hiến pháp 1946 (ngày 09/11/1946). Quy định "Tư pháp chưa quyết định, thì không bắt bớ và giam cầm người công dân" tại Điều 11 và "Tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật"… tại Điều 7 Hiến pháp 1946 là cơ sở pháp lý cho việc ban hành quy định về bắt, tạm giữ, tạm giam trong Sắc lệnh 13/SL ngày 24/01/1946 và Sắc lệnh 131/SL ngày 20/7/1946. Trong hai văn bản pháp luật này có một số nội dung liên quan đến các BPNC.
  • 40. 37 Tiếp đó, Hiến pháp 1959 tiếp tục quy định: "Quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được bảo đảm. Không ai có thể bị bắt nếu không có sự quyết định của Tòa án nhân dân hoặc sự phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân". Cụ thể hóa quy định trên của Hiến pháp 1959, Thông tư số 42/TT-LB ngày 28/6/1963 của VKSNDTC và Bộ Công an xác định thẩm quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế nhà nước và trách nhiệm phê chuẩn của VKS, cũng như bảo đảm cho việc phê chuẩn đó, như: Công an chỉ được quyền bắt, khám người, khám nhà, giữ lại thư tín, tạm giữ hoặc kê biên tài sản, tạm giam, gia hạn tạm giam, miễn tố, tạm tha bị can khi đã được phê chuẩn của Viện kiểm sát. Để có căn cứ cho việc phê chuẩn, cơ quan Công an cần gửi đến Viện kiểm sát hồ sơ gồm những tài liệu cần thiết đã thu thập được. Nếu thấy chưa đủ căn cứ, thì Viện kiểm sát yêu cầu cung cấp tài liệu. Viện kiểm sát có trách nhiệm nghiên cứu phê chuẩn nhanh chóng để phục vụ kịp thời cuộc đấu tranh chống tội phạm [44]. Trong khoảng thời gian từ năm 1976 đến năm 1985, cơ sở hạ tầng của chúng ta mang đặc trưng của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chiếm ưu thế tuyệt đối, được thể hiện dưới hai hình thức là sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể, hoạt động thống nhất theo một cơ chế kế hoạch hóa tập trung do Nhà nước quản lý và điều hành; thực hiện thống nhất nguyên tắc phân phối "làm theo năng lực, hưởng theo lao động" mà hình thức biểu hiện của nó là chế độ tem phiếu bảo đảm định lượng cho từng thành viên trong xã hội. Điều này làm cho kiến trúc thượng tầng trở nên nặng nề kém hiệu quả. Tính pháp quyền mờ nhạt trên cả ba lĩnh vực hoạt động cơ bản của Nhà nước - lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trước tình hình đó, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI vào tháng 12 năm 1986 của Đảng Cộng sản Việt Nam đã định hướng: "Việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế và phương thức phân phối là xóa
  • 41. 38 bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp; xây dựng cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa theo đúng nguyên tắc tập trung dân chủ…" [10]. Chính sách kinh tế mới đã tạo động lực cho sự phát triển và nâng cao mức sống chung cho xã hội, đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội. Tuy nhiên, hiện tượng tiêu cực mới nảy sinh trong xã hội lại tăng lên, kỷ cương phép nước không được tôn trọng, oan sai và xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của công dân lại xảy ra nhiều. Các văn bản pháp luật về điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án được ban hành rải rác không thể hiện đầy đủ chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong pháp luật TTHS. Khắc phục nhược điểm trên, ngày 28/6/1988, Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, khóa VIII đã thông qua BLTTHS có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1989 qui định một chương V độc lập, với 14 điều luật từ Điều 61 đến Điều 77 để điều chỉnh những nội dung cơ bản của hệ thống các BPNC, trong đó, có một số khác biệt so với các văn bản pháp luật trước đó, cụ thể là: + Điều 64 chỉ quy định ba trường hợp và thay thế trường hợp thứ tư là bắt người đang lẩn trốn thành bắt người bị truy nã, đồng thời, điều chỉnh bốn trường hợp này trong cùng một điều luật; + Điều 63 chỉ quy định ba trường hợp bắt khẩn cấp; + Quy định thêm bốn BPNC mới, gồm: cấm đi khỏi nơi cư trú theo Điều 74; bảo lĩnh theo Điều 92; đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm theo Điều 61, việc giám sát bị can, bị cáo chưa thành niên theo Điều 274. Việc thu hẹp phạm vi căn cứ bắt người trong trường hợp khẩn cấp và quy định một số BPNC mới được thực hiện ở cộng đồng thể hiện sự quan tâm của Nhà nước ta đối với vấn đề bảo vệ quyền và tự do cá nhân, đồng thời, đề cao trách nhiệm của cơ quan THTT đối với việc ngăn chặn tội phạm. Bộ luật TTHS năm 1988 có ý nghĩa lập pháp quan trọng khi đánh dấu mức độ pháp điển đối với pháp luật TTHS bằng hệ thống các BPNC độc lập,
  • 42. 39 trong đó có bốn BPNC mới được thực hiện ở cộng đồng, thể hiện thái độ cương quyết phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm bằng sức mạnh của Nhà nước và toàn xã hội. Hiến pháp năm 1992 đánh dấu một bước tiến mới về kỹ thuật lập pháp, cũng như sự phát triển của quan điểm bảo đảm quyền con người khi áp dụng BPNC bằng quy định: "Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của TAND, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang… Việc bắt và giam giữ phải đúng pháp luật. Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức nhục hình, xúc phạm danh dự nhân phẩm của công dân" và "người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm" theo các điều 71, 72 Hiến pháp năm 1992. Qua 15 năm (1989 - 2003) tồn tại kể từ khi BLTTHS năm 1988 được ban hành, các BPNC trên đóng góp vai trò quan trọng trong công cuộc phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một số hạn chế, như: người bị giam, giữ một cách oan hoàn toàn có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại không được đền bù thiệt hại một cách thỏa đáng; các CQĐT, VKS đều có vi phạm pháp luật TTHS về thời hạn giải quyết ở nhiều khâu... 2.1.2. Quy định của pháp luật Việt Nam về các biện pháp ngăn chặn theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 Các BPNC được quy định tại Chương VI, từ Điều 79 đến Điều 94 BLTTHS năm 2003. 2.1.2.1. Căn cứ chung áp dụng các biện pháp ngăn chặn Theo Điều 79 BLTTHS, căn cứ áp dụng các BPNC bao gồm: kịp thời ngăn chặn tội phạm, khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, cũng như khi cần
  • 43. 40 bảo đảm thi hành án. Theo nội dung này, có bốn căn cứ chung để áp dụng chúng là: Thứ nhất, khi cần thiết để kịp thời ngăn chặn tội phạm. Các tội phạm đã thực hiện đều gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho một hay nhiều quan hệ xã hội đã được xác định trong BLHS. Việc ngăn chặn tội phạm không cho nó hoàn thành, gây ra hậu quả thực tế có ý nghĩa quan trọng và cấp bách. Vì vậy, BLTTHS quy định các căn cứ kịp thời ngăn chặn tội phạm trong hai trường hợp sau: a) Trường hợp bắt khẩn cấp: khi có căn cứ để cho rằng một người đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng theo điểm a khoản 1 Điều 81; b) Trường hợp bắt quả tang: khi người đó đang thực hiện tội phạm hoặc sau khi thực hiện tội phạm, thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt theo khoản 1 Điều 82. Thứ hai, khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Đây là căn cứ dự báo được dựa trên những tài liệu có các tình tiết và hành vi của bị can, bị cáo, như: a) Nơi cư trú của họ không có hoặc không rõ ràng, sự vắng mặt của họ theo giấy triệu tập của cơ quan (người) THTT, đã di chuyển khỏi nơi cư trú…; b) Tính chất của tội phạm mà bị can, bị cáo đã thực hiện thuộc vào loại tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng. Về tâm lý, mức hình phạt của các loại tội phạm này là rất cao, nên nỗi ám ảnh sợ hãi đối với nó luôn trùm lên họ. Từ đó, xóa dấu vết, tiêu hủy tài liệu, đối phó với CQĐT và bỏ trốn là cứu cánh mà họ thường nghĩ tới để trốn tránh khỏi hình phạt…; c) Các hành vi của họ được diễn ra sau khi tội phạm đã thực hiện, như: mua chuộc, đe dọa người bị hại, người làm chứng, xóa dấu vết, tiêu hủy chứng cứ, thông đồng với nhau khai báo sai sự thật… Thứ ba, khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội. Đây là căn cứ dự báo và có thể xác định trên hai tiêu chí, như: a) Về nhân thân bị can, bị cáo là những đối tượng có nhân thân xấu. Ví dụ: bị can, bị cáo là người có ý thức chống đối giai cấp sâu sắc, những phần tử thuộc diện lưu