SlideShare a Scribd company logo
1 of 83
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN PHÚ BIỀN
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ CHỦ THỂ CHỊU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN PHÚ BIỀN
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ CHỦ THỂ CHỊU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Lê Thị Sơn
HÀ NỘI – 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới
sự hướng dẫn của PGS.TS. Lê Thị Sơn. Các kết quả nêu trong Luận văn
chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi
đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
PHẦN MỞ ĐẦU............................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHỦ THỂ CHỊU TRÁCH
NHIỆM HÌNH SỰ ............................................................................................ 6
1.1. Khái niệm chủ thể chịu trách nhiệm hình sự .......................................... 6
1.2. Lịch sử quy định về chủ thể chịu trách nhiệm hình sự trong luật hình
sự Việt Nam .................................................................................................10
1.2.1. Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trƣớc khi Bộ luật hình
sự năm 1985 có hiệu lực...........................................................................10
1.2.2. Từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trƣớc khi Bộ luật
hình sự năm 1999 có hiệu lực...................................................................12
1.3. Quy định của Bộ luật hình sự một số nƣớc về chủ thể chịu trách nhiệm
hình sự..........................................................................................................14
1.3.1. Quy định về chủ thể chịu trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự
Liên bang Nga...........................................................................................14
1.3.2. Quy định về chủ thể chịu trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa................................................................16
1.3.3. Quy định về chủ thể chịu trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình
sự Nhật Bản...............................................................................................19
1.3.4. Quy định trong về chủ thể chịu trách nhiệm hình sự trong Bộ luật
hình sự Cộng hòa Liên bang Đức .............................................................20
Chƣơng 2: THỰC TIỄN QUY ĐỊNH VỀ CHỦ THỂ CHỊU TRÁCH NHIỆM
HÌNH SỰ TRONG BLHS VIỆT NAM HIỆN HÀNH...................................23
2.1. Các dấu hiệu chung của chủ thể chịu trách nhiệm hình sự...................23
2.1.1. Năng lực trách nhiệm hình sự.........................................................23
2.1.2. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự........................................................26
2.2. Dấu hiệu đặc biệt của chủ thể chịu trách nhiệm hình sự. .....................29
Chƣơng 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH VỀ CHỦ THỂ CHỊU
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT,
NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG NHỮNG QUY ĐỊNH NÀY ..............40
3.1. Thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về chủ thể
chịu trách nhiệm hình sự..............................................................................40
3.1.1. Thực tiễn áp dụng quy định về tình trạng không có năng lực chịu
TNHS ........................................................................................................40
3.1.2. Thực tiễn áp dụng quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự.......44
3.1.3 Thực tiễn áp dụng quy định về dấu hiệu đặc biệt của chủ thể chịu
trách nhiệm hình sự...................................................................................50
3.2. Phƣơng hƣớng hoàn thiện quy định của BLHS về chủ thể chịu trách
nhiệm hình sự...............................................................................................56
3.2.1 Vấn đề trách nhiệm hình sự của pháp nhân và loại tội pháp nhân
chịu trách nhiệm hình sự:..........................................................................57
3.2.2 Các quy định về tuổi chịu TNHS:....................................................62
3.3.3 Phƣơng hƣớng hoàn thiện quy định về dấu hiệu đặc biệt của chủ thể
chịu trách nhiệm hình sự...........................................................................65
3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về chủ thể
chịu trách nhiệm hình sự..............................................................................67
KẾT LUẬN.....................................................................................................71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................74
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS BLHS
CQĐT Cơ quan điều tra
TA Toà án
TAND Toà án nhân dân
TNHS Trách nhiệm hình sự
VKS Viện kiểm sát
VKSND Viện kiểm sát nhân dân
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Một trong những vấn đề quan trọng của luật hình sự là vấn đề chủ thể
chịu TNHS. Xác định đúng chủ thể chịu TNHS có ý nghĩa quan trọng không
chỉ trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động tố tụng, mà còn trong việc bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của ngƣời dân. Đây không chỉ là vấn đề luôn đòi hỏi
các cơ quan tƣ pháp có thẩm quyền phải giải quyết trong việc điều tra, xác
định tội phạm, xử lý ngƣời phạm tội mà việc giải quyết vấn đề này còn có ý
nghĩa to lớn về mặt lý luận và trong thực tiễn áp dụng Luật Hình sự, trong
việc phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm nói chung.
BLHS năm 1999, kế thừa và phát triển BLHS năm 1985, là bƣớc phát
triển mới trong quy định về chủ thể chịu TNHS trong luật hình sự nƣớc ta.
Nhiều quy định liên quan đến TNHS và chủ thể chịu TNHS đã đƣợc sửa đổi,
bổ sung cho phù hợp với thực tiễn, tạo điều kiện cho các cơ quan áp dụng
pháp luật đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm có hiệu quả. So với BLHS
năm 1985 thì BLHS năm 1999 có nhiều điểm mới trong quy định về chủ thể
chịu TNHS, đặc biệt thể hiện ở quy định về tuổi chịu TNHS.
Tuy nhiên, từ khi BLHS năm 1999 có hiệu lực đến nay vẫn còn nhiều
quan điểm khác nhau trong nhận thức, đánh giá cả về mặt lý luận và thực tiễn
áp dụng các quy định về chủ thể chịu TNHS. Mặt khác, bản thân các quy định
về vấn đề này trong BLHS năm 1999 đã bộc lộ những hạn chế, bất cập, đặc
biệt là so với yêu cầu đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm trong giai
đoạn hiện nay và việc áp dụng các quy định này cũng còn có những vƣớng
mắc nhất định. Các vấn đề nổi cộm đƣợc đặt ra nhƣ: Có nên quy định pháp
nhân là chủ thể chịu TNHS hay không? Có cần sửa đổi quy định về tuổi chịu
2
TNHS của ngƣời phạm tội theo hƣớng thấp hơn để phù hợp với trình độ dân
trí ngày càng phát triển cao hay không …?
Vì vậy, việc nghiên cứu một cách sâu sắc để làm sáng tỏ về mặt lý luận
các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về chủ thể chịu TNHS, đánh giá
thực tiễn áp dụng các quy định này, qua đó đƣa ra những đề xuất nhằm hoàn
thiện hơn nữa các quy định về chủ thể chịu TNHS là cần thiết và có ý nghĩa
quan trọng về mặt lý luận và thực tiễn. Từ những lý do trên, tác giả đã chọn
đề tài “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ thể chịu TNHS theo luật
hình sự Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Chủ thể chịu TNHS là một trong những vấn đề cơ bản quan trọng và
phức tạp của luật hình sự. Cho đến nay đã có những công trình nghiên cứu
của các tác giả có liên quan đến vấn đề này nhƣ:
- Ở khía cạnh nghiên cứu về chủ thể chịu TNHS theo hƣớng là chủ thể
của tội phạm nói chung có thể kể đến các công trình nghiên cứu nhƣ các bài
viết của tác giả Hồ Sỹ Sơn: “Chủ thể của tội phạm qua so sánh pháp luật hình
sự của một số nƣớc thuộc hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa”, Tạp chí Nhà
nƣớc và Pháp luật 2/2008 và “Chủ thể của tội phạm qua so sánh pháp luật một
số nƣớc trên thế giới”, Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật số 3/2013.
- Nghiên cứu cụ thể về các dấu hiệu của chủ thể chịu TNHS nhƣ tuổi,
năng lực chịu TNHS có thể kể đến các công trình nhƣ: “Vấn đề năng lực
TNHS - từ lí thuyết đến sự thể hiện trong BLHS Việt Nam” của GS.TS
Nguyễn Ngọc Hòa, Tạp chí luật học số 4/2014; “Thực thi công ước quyền trẻ
em ở Việt Nam: Tuổi chịu trách nhiệm hình sự và chế tài đối với người chưa
thành niên phạm tội”của tác giả Phạm Thị Thanh Nga, Tạp chí Nghiên cứu
lập pháp, Số 8/2014. “Tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt
Nam”, của tác giả Phạm Văn Báu, Tạp chí Luật học số 10/2014.; “Năng lực
3
trách nhiệm hình sự nhìn từ góc độ so sánh pháp luật một số quốc gia trên thế
giới”, của PGS.TS. Hồ Sĩ Sơn, Tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật số 2/2011.
- Nghiên cứu về dạng chủ thể chịu TNHS là tổ chức hoặc pháp nhân
trong luật hình sự thì hiện nay có tƣơng đối nhiều công trình nghiên cứu về
vấn đề này nhƣ: “TNHS của pháp nhân: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”
của GS.TSKH. Lê Văn Cảm, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 3/2000; “Pháp
nhân có phải là chủ thể của tội phạm không”, của PGS.TS. Phạm Hồng Hải,
Tạp chí Luật học 6/1999; “Về vấn đề TNHS của pháp nhân”, của tác giả
Nguyễn Công Quý, Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật 10/2010; “Các học thuyết
về cơ sở TNHS của pháp nhân” của PGS.TS. Trần Văn Độ, Tạp chí Nhà nƣớc
và pháp luật 6/2011; “Trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong pháp luật
hình sự” của PGS.TS. Trịnh Quốc Toản, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
năm 2011; “Sự cần thiết của việc quy định TNHS đối với pháp nhân ở Việt
Nam hiện nay” của PGS.TS. Cao Thị Oanh, Tạp chí luật học 12/2011;
“Trách nhiệm hình sự của chủ thể là tổ chức và vấn đề sửa đổi Bộ luật hình
sự Việt Nam” của GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, Tạp chí Luật học, số 12/2014...
Các công trình nghiên cứu khoa học trên đã đƣa ra bàn luận và giải
quyết nhiều vấn đề bức xúc mà lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự
đặt ra. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của các công trình này cũng cho thấy,
các quy định về chủ thể chịu TNHS mặc dù là một trong những nội dung cơ
bản, quan trọng nhất của luật hình sự nhƣng cũng là một trong những nội
dung còn nhiều vấn đề còn có nhiều quan điểm khác nhau của các nhà nghiên
cứu luật học. Cho đến nay vẫn chƣa có một công trình nào nghiên cứu một
cách toàn diện về chủ thể chịu TNHS trong luật hình sự Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và các quy định về chủ thể chịu
TNHS trong luật hình sự Việt Nam, đồng thời luận văn cũng nghiên cứu thực tiễn
4
áp dụng các quy định về chủ thể chịu TNHS trong luật hình sự Việt Nam và trên
cơ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện quy định hiện hành về chủ thể chịu TNHS
và các biện pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định này trong thực tiễn.
- Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu một số khía cạnh cơ bản nhất về mặt lý
luận và thực trạng quy định về chủ thể chịu TNHS theo quy định của BLHS
năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009. Ngoài ra, đề tài còn nghiên cứu thực
tiễn áp dụng quy định của BLHS hiện hành về chủ thể chịu TNHS thông qua
nghiên cứu các bản án hình sự đã xét xử.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là đề xuất giải pháp hoàn thiện quy
định của BLHS hiện hành về chủ thể chịu TNHS và nâng cao hiệu quả áp
dụng các quy định này.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu nêu trên, các nhiệm vụ nghiên cứu
đặt ra là:
+ Phân tích, làm rõ những vấn đề chung về chủ thể chịu TNHS.
+ Phân tích, đánh giá các quy định của BLHS hiện hành về chủ thể
chịu TNHS.
+ Đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của BLHS hiện hành về chủ
thể chịu TNHS.
+ Đề xuất kiến nghị hoàn thiện các quy định của BLHS hiện hành về
chủ thể chịu TNHS và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định này.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, luận văn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể
nhƣ phƣơng pháp lịch sử, phân tích, tổng hợp và so sánh.
5
6. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
Luận văn hoàn thành là công trình nghiên cứu có tính hệ thống và toàn
diện những vấn đề lý luận và thực tiễn của các quy định về chủ thể chịu
TNHS trong BLHS hiện hành, trên cơ sở đó đƣa ra giải pháp hoàn thiện các
quy định này và nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực tiễn. Kết quả nghiên
cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong thực tiễn áp dụng của
các cán bộ thực tiễn, làm tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên cứu của
các học gia, học viên và sinh viên chuyên ngành luật.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo luận văn
gồm 3 chƣơng
Chương 1: Những vấn đề chung về chủ thể chịu trách nhiệm hình sự
Chương 2: Thực tiễn quy định về chủ thể chịu trách nhiệm hình sự
trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành
Chương 3: Thực tiễn áp dụng quy định về chủ thể chịu trách nhiệm
hình sự và giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng những
quy định này
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHỦ THỂ CHỊU TRÁCH NHIỆM
HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm chủ thể chịu trách nhiệm hình sự
Khái niệm chủ thể chịu TNHS là một khái niệm tƣơng đối phức tạp
trong luật hình sự. Khái niệm này đƣợc quan niệm xuất phát từ khái niệm chủ
thể của tội phạm. Trong khoa học pháp lý, khái niệm chủ thể của tội phạm đã
đƣợc nghiên cứu tƣơng đối đầy đủ ở các khía cạnh khác nhau. Chủ thể của tội
phạm đƣợc coi là một trong bốn yếu tố cấu thành tội phạm, là yếu tố không
thể thiếu trong việc xác định tội phạm.
Hiện nay trên thế giới quan niệm truyền thống và phổ biến cho rằng chủ
thể của tội phạm hay nói cách khác là chủ thể chịu TNHS là cá nhân con ngƣời
cụ thể. Tuy nhiên, bên cạnh quan điểm đó còn quan điểm khác khi cho rằng chủ
thể của tội phạm hoặc chủ thể chịu TNHS không những chỉ là cá nhân mà còn có
thể là tổ chức (có thể là pháp nhân hoặc loại hình tổ chức khác không phải là
pháp nhân). Quan điểm thứ hai này đang ngày càng đƣợc thừa nhận rộng rãi và
đƣợc thể hiện trong BLHS của nhiều quốc gia trên thế giới.
Quan niệm cho rằng chủ thể chịu TNHS chỉ có thể là các cá nhân, con
ngƣời cụ thể đã tồn tại rất lâu trong lịch sử của khoa học luật hình sự. Xuất
phát điểm của quan niệm này là việc coi tội phạm theo nghĩa truyền thống chỉ
có thể do con ngƣời cụ thể thực hiện. Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự trƣớc
tiên phải là chủ thể của tội phạm. Mà theo khoa học luật hình sự thì "Chủ thể
của tội phạm là ngƣời có năng lực TNHS, đạt độ tuổi luật định và đã thực
hiện hành vi phạm tội cụ thể” [11, tr122]. Nhƣ vậy, cũng nhƣ chủ thể của tội
phạm, một ngƣời trở thành chủ thể chịu trách nhiệm hình sự khi thỏa mãn
những điều kiện nhất định. Thông thƣờng, về cơ bản là các điều kiện nhƣ là
7
ngƣời thực hiện hành vi đƣợc luật hình sự quy định là tội phạm, có năng lực
TNHS và đạt độ tuổi chịu TNHS.
Năng lực trách nhiệm hình sự là một điều kiện của chủ thể chịu TNHS.
Ngƣời cụ thể có năng lực TNHS mới có thể là chủ thể của tội phạm và mới có
thể phải chịu TNHS. Năng lực TNHS là khả năng nhận thức (ý nghĩa xã hội
của hành vi) và khả năng điều khiển hành vi của cá nhân khi thực hiện hành
vi nguy hiểm cho xã hội. Đó là khả năng tâm lý của con ngƣời, không phụ
thuộc vào quy định của pháp luật.
Điều kiện thứ hai của chủ thể chịu TNHS là đạt độ tuổi chịu TNHS. Lý
luận về tuổi chịu TNHS dựa trên sự nhận thức rằng không phải tất cả mọi
ngƣời đƣợc sinh ra là đã trở thành ngƣời có đủ khả năng nhận thức và khả
năng điều khiển hành vi, tức là đã có năng lực TNHS. Một ngƣời từ khi đƣợc
sinh ra muốn có đủ khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi phải
trải qua một quá trình sinh sống nhất định phù hợp với quá trình trƣởng thành
và phát triển của trạng thái cơ thể cũng nhƣ trạng thái tâm lý. Có nghĩa là phải
trải qua những năm tháng nhất định và đạt độ tuổi nhất định thì con ngƣời
mới có đủ năng lực TNHS. Tuổi chịu TNHS đƣợc xác định bằng một mốc
thời gian nhất định, mà cá nhân đó đạt đƣợc.
Từ sự phân tích về các điều kiện của chủ thể chịu TNHS là cá nhân có
thể đƣa ra định nghĩa về chủ thể chịu trách nhiệm hình sự nhƣ sau: Chủ thể
chịu TNHS theo là người cụ thể phải chịu những hậu quả pháp lý bất lợi do đã
thực hiện hành vi phạm tội được quy định trong luật hình sự khi có năng lực
TNHS và đạt độ tuổi chịu TNHS. Diễn đạt một cách khác có thể quan niệm chủ
thể chịu TNHS là ngƣời cụ thể khi thỏa mãn các điều kiện nhất định.
Bên cạnh quan niệm truyền thống cho rằng chủ thể chịu TNHS là cá
nhân con ngƣời cụ thể là quan điểm mở rộng phạm vi chủ thể chịu TNHS khi
cho rằng chủ thể chịu TNHS không chỉ là cá nhân mà còn có thể là tổ chức.
8
Xuất phát điểm của quan niệm này là từ việc xác định tổ chức là một thực
thể độc lập, đƣợc thành lập bởi các cá nhân theo trình tự, thủ tục luật định, hoạt
động của tổ chức đƣợc thực hiện bởi bộ máy vận hành là sự tập hợp của nhiều
ngƣời, tổ chức chỉ theo đuổi những mục tiêu đặt ra trong văn kiện sáng lập ra nó.
Tổ chức hoàn toàn có ý riêng của mình, bởi vì nó sinh ra và tồn tại bằng sự gặp
gỡ với những ý chí cá nhân của các thành viên của mình. Những ngƣời theo
quan điểm đồng ý thiết lập trách nhiệm hình sự của tổ chức cho rằng pháp nhân
là một thực thể có thực (giống nhƣ thể nhân), có ý thức và có thể thực hiện hành
vi của mình; và khi thực hiện hành vi thì nó cũng sẽ có thể có lỗi.
Nhƣ vậy, tổ chức có thể tự quyết định một cách tự do và hoạt động theo
những mục tiêu cụ thể của mình và độc lập với những lợi ích của các cá nhân tạo
nên pháp nhân đó. Tổ chức đƣợc thành lập, hoạt động, tồn tại và phát triển bằng
sự gặp gỡ giữa các ý chí cá nhân của các thành viên của mình. Tổ chức có ý thức,
ý chí, mong muốn riêng của mình, đƣợc xử sự tự do và hƣởng quyền tự chủ của
chủ thể có thể so sánh với quyền tự chủ của cá nhân và vì vậy, có năng lực thực
hiện tội phạm một cách có lỗi và đƣơng nhiên có thể bị xử lý về hình sự. Trƣờng
hợp áp dụng hình phạt đối với tổ chức thì thay cho hình phạt tử hình hoặc các hình
phạt tƣớc hoặc hạn chế quyền tự do thân thể không thể áp dụng với tổ chức phạm
tội, những loại hình phạt khác đƣợc xây dựng trong luật hình sự tƣơng hợp hoàn
toàn với bản chất các tổ chức phạm tội với mục đích làm cho nó phải chịu hình
phạt về những gì tổ chức đã gây ra. Từ những lập luận trên, quan điểm ủng hộ tổ
chức có thể là chủ thể chịu TNHS đã và đang ngày càng phát triển ở các nƣớc trên
thế giới. Hiện nay trên thế giới, nhiều quốc gia đã quy định trong luật hình sự tổ
chức là chủ thể chịu TNHS.
Việc thừa nhận tổ chức cũng là chủ thể chịu TNHS luôn đƣợc gắn với
những điều kiện nhất định. Một tổ chức phải thỏa mãn các điều kiện nhất định
mới có thể trở thành chủ thể chịu TNHS. Thông thƣờng là các điều kiện sau:
9
Thứ nhất, tổ chức phải thuộc phạm vi tổ chức là chủ thể của TNHS;
Không phải tất cả các tổ chức đều có thể trở thành chủ thể chịu TNHS mà chỉ
phạm vi tổ chức nhất định, có những đặc điểm nhất định mới đƣợc thừa nhận
có thể là chủ thể chịu TNHS. Các quốc gia khác nhau thừa nhận phạm vi các
tổ chức khác nhau có thể là chủ thể chịu TNHS. Trong khi Trung quốc xác
định công ty, xí nghiệp, tổ chức, đoàn thể thuộc phạm vi tổ chức chịu TNHS
[8, Điều 30] thì một loạt các quốc gia khác lại xác định phạm vi tổ chức khác
trong đó có pháp nhân thuộc chủ thể chịu TNHS. Ví dụ, theo Pháp là các pháp
nhân (trừ Nhà nƣớc); theo Áo là pháp nhân, các công ty hợp danh, các hiệp
hội vì lợi ích kinh tế châu âu và theo Thụy Sĩ là pháp nhân theo luật tƣ, pháp
nhân theo luật công, các công ty, các doanh nghiệp tƣ nhân [33, tr82]
Thứ hai, tổ chức phải thuộc phạm vi chủ thể của các tội danh mà tổ
chức có thể phải chịu TNHS. Các quốc gia thừa nhận TNHS của tổ chức cũng
xác định phạm vi các tội danh khác nhau mà chủ thể phải chịu TNHS. Ví dụ
nhƣ Trung Quốc giới hạn tổ chức chỉ phải chịu TNHS về một số tội phạm
đƣợc xác định rõ trong từng điều luật. Trong khi nhiều quốc gia khác lại
không giới hạn mà xác định tổ chức có thể phải chịu TNHS về mọi tội phạm.
Thứ ba, tổ chức phải thỏa mãn các điều kiện chịu TNHS. Tổ chức phải
chịu TNHS về các tội phạm khi có đủ các điều kiện nhất định. Các điều kiện
này thƣờng là: Tội phạm đƣợc thực hiện nhân danh tổ chức và tội phạm đƣợc
thực hiện vì lợi ích của tổ chức.
Nhƣ vậy, tổ chức là chủ thể chịu TNHS đối với tội phạm đƣợc xác định
tổ chức là chủ thể của tội phạm và đƣợc thực hiện nhân danh tổ chức, vì lợi
ích của tổ chức.
Từ những phân tích trên có thể rút ra định nghĩa chung về chủ thể chịu
TNHS nhƣ sau: Chủ thể chịu TNHS gồm người có năng lực TNHS, đạt độ
tuổi chịu TNHS hoặc tổ chức khi thỏa mãn các điều kiện luật định thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội một cách có lỗi, bị luật hình sự cấm.
10
1.2. Lịch sử quy định về chủ thể chịu trách nhiệm hình sự trong luật
hình sự Việt Nam
1.2.1. Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi Bộ luật hình
sự năm 1985 có hiệu lực
Sau Cách mạng tháng 8/1945, cùng với việc hình thành và phát triển
đất nƣớc, hệ thống pháp luật hình sự cũng đƣợc hình thành và trải qua quá
trình phát triển phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc,
đáp ứng yêu cầu thực tiễn cách mạng đặt ra trong từng giai đoạn lịch sử.
Nguồn luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1985 chịu ảnh hƣởng sâu
sắc bởi các điều kiện lịch sử của đất nƣớc trong giai đoạn này. Giai đoạn này
nƣớc ta chƣa có một đạo luật hình sự thống nhất, các quy phạm pháp luật hình
sự đƣợc quy định trong nhiều văn bản khác nhau nhƣng chƣa có văn bản nào
quy định về khái niệm TNHS hay chủ thể chịu TNHS. Trong những giai đoạn
này, vấn đề xác định chủ thể chịu TNHS đã đƣợc ghi nhận trong các văn bản
của Nhà nƣớc. Điều này tạo điều kiện thuận lợi trong việc quản lý, duy trì trật
tự xã hội, bảo vệ thành công của cuộc cách mạng cũng nhƣ bảo vệ chính
quyền nhân dân còn non trẻ.
Trong những ngày đầu mới thành lập, Nhà nƣớc Việt Nam dân chủ
Cộng hoà vừa phải đối phó với thù trong giặc ngoài, vừa phải từng bƣớc xây
dựng xã hội mới. Ngày 10/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 47-
SL cho phép áp dụng tạm thời các luật lệ hiện hành của thực dân Pháp nếu xét
thấy không trái với những mục tiêu cơ bản của Nhà nƣớc Việt Nam dân chủ
cộng hoà. Nhƣ vậy, giai đoạn này có đặc điểm là sự áp dụng pháp luật của đế
quốc và phong kiến theo tinh thần mới. Ở Bắc kỳ vẫn áp dụng luật phong kiến
là hình luật An Nam, ở Trung kỳ vẫn áp dụng Hoàng Việt hình luật, còn ở
Nam kỳ thì áp dụng Hình luật Pháp tu chính, các TA đã căn cứ vào chính sách
của Đảng và Chính phủ để xét xử. Việc áp dụng pháp luật của ba miền khác
11
nhau nên dẫn đến nhiều bất cập trong xử lý tội phạm. Chính vì vậy, ngày
30/6/1955, Bộ trƣởng Bộ tƣ pháp đã ban hành Thông tƣ số 19 yêu cầu Tòa án
không nên áp dụng luật lệ của đế quốc và phong kiến. Nhƣng phải đến năm
1959 thì Tòa án nhân dân tối cao mới ban hành đƣợc Chỉ thị số 772 về vấn đề
đình chỉ áp dụng pháp luật của đế quốc và phong kiến, từng bƣớc ban hành và
áp dụng văn bản pháp luật mới.
Trong quá trình đó, Nhà nƣớc ta đã ban hành một số văn bản pháp luật
hình sự nhƣ: Sắc lệnh 13/SL do Bộ trƣởng Bộ tƣ pháp ký ngày 14/1/1946 về
tổ chức và ngạch thẩm phán của nƣớc ta, Sắc lệnh số 223 ngày 27/1/1946 về
“Truy tố các tội hối lộ, phù lạm, biển thủ công quỹ”, Sắc lệnh số 163 ngày
14/4/1948 “Về trừng trị tội đánh bạc”, Sắc lệnh số 180 ngày 20/12/1950 “Về
trừng trị các hành vi xâm phạm hệ thống tiền tệ”, Sắc lệnh số 133 ngày
20/11/1953 “Về trừng trị những tội phạm đến an toàn nhà nƣớc, đối nội và đối
ngoại”... phục vụ cho việc quản lý và đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Ngoài ra, từ trƣớc những năm 1960 đến trƣớc khi ban hành BLHS năm
1985, Nhà nƣớc ta đã ban hành một số văn bản pháp luật hình sự nhằm đấu
tranh, trấn áp tội phạm. Ví dụ nhƣ Pháp lệnh ngày 30/7/1967 Về trừng trị các
tội phản cách mạng, Pháp lệnh ngày 20/5/1981 Về trừng trị tội hối lộ, Pháp
lệnh ngày 30/6/1982 về trừng trị các tội đầu cơ, làm hàng giả và kinh doanh
trái phép... Qua các kỳ hội nghị tổng kết hàng năm và qua các văn bản hƣớng
dẫn, Tòa án nhân dân tối cao đã hƣớng dẫn xác định độ tuổi của ngƣời phải
chịu TNHS nhƣ sau:
- Về nguyên tắc, từ 14 tuổi tròn trở lên coi là có TNHS;
- Nói chung đối với lứa tuổi từ 14 đến 16 thì chỉ nên truy tố, xét xử
trong những trƣờng hợp phạm các tội nghiêm trọng nhƣ giết ngƣời, cƣớp của,
hiếp dâm... Riêng hiếp dâm nói chung vẫn chủ yếu là giáo dục và cũng chỉ
nên truy tố, xét xử trong trƣờng hợp nghiêm trọng;
12
- Đối với lứa tuổi từ 16 đến 18, nếu hành vi phạm pháp có tính chất
tƣơng đối nghiêm trọng, nói chung cần xét xử, nhƣng so với ngƣời lớn, cần
xét xử nhẹ hơn [35, tr 13,14].
Nhƣ vậy, trong thời kỳ này một nội dung quan trọng của chủ thể chịu
TNHS là tuổi chịu TNHS chƣa đƣợc quy định chính thức trong một văn bản
luật hình sự mà đƣợc hƣớng dẫn xác định trong một văn bản hƣớng dẫn xét
xử của TANHTC. Tuy nhiên, các nội dung hƣớng dẫn này đã tạo nền móng
cho các quy định sau này về tuổi chịu TNHS trong BLHS năm 1985.
1.2.2. Từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước khi Bộ luật
hình sự năm 1999 có hiệu lực
BLHS năm 1985 đã kế thừa và phát triển những thành tựu của luật hình sự
nƣớc ta từ năm 1945 đến thời điểm ban hành, đây là sự tổng kết những kinh
nghiệm lập pháp, tổng kết những tri thức lý luận của khoa học luật hình sự, đồng
thời là sự tổng kết kinh nghiệm đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm ở nƣớc
ta trong nhiều năm qua. Trong suốt quá trình áp dụng, BLHS năm 1985 đã qua
bốn lần sửa đổi, bổ sung vào các năm 1989, 1991, 1992, 1997. Nhìn chung, BLHS
năm 1985 có sự xắp xếp các phần chung và phần các tội phạm một cách chặt chẽ,
logic. Nhiều khái niệm và chế định lần đầu tiên đƣợc quy định cụ thể trong BLHS,
trong đó có “Khái niệm tội phạm”; “khái niệm hình phạt”; “Cơ sở của TNHS”;
“Tình trạng không có năng lực TNHS”; “Tuổi chịu TNHS”...
Cơ sở của TNHS đƣợc quy định tại Điều 2 nhƣ sau: “Chỉ người nào
phạm một tội đã được Luật hình sự quy định mới phải chịu TNHS. Hình phạt
phải do TA quyết định”. Trách nhiệm phải chịu hậu quả pháp lý bất lợi của
ngƣời phạm tội có thể đƣợc thể hiện thông qua hình phạt do Tòa án tuyên.
Về độ tuổi chịu TNHS, Điều 58 quy định: “1- Người từ 14 tuổi trở lên
nhưng chưa đủ 16 tuổi phải TNHS về những tội phạm nghiêm trọng do cố ý.
2- Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm”.
13
Về tội phạm nghiêm trọng, khoản 2 Điều 8 có quy định: “2- Tội phạm
nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của
khung hình phạt đối với tội ấy là trên năm năm tù, tù chung thân hoặc tử
hình. Những tội phạm khác là tội phạm ít nghiêm trọng”. Nhƣ vậy, BLHS
năm 1985 mới chỉ phân loại thành 2 loại tội phạm là tội phạm nghiêm trọng
và tội phạm ít nghiêm trọng.
Nhƣ vậy, BLHS năm 1985 đã xác định hai mức độ tuổi chịu TNHS là
ngƣời từ đủ 14 đến dƣới 16 tuổi phải chịu TNHS về những tội phạm nghiêm trọng
do cố ý, tức là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung
hình phạt đối với tội ấy là trên năm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Do đó, đối
với những trƣờng hợp phạm tội ít nghiêm trọng và hoặc tội nghiêm trọng do vô ý
thì không phải chịu TNHS. So sánh với BLHS hiện hành thấy rằng BLHS 1985
quy định tƣơng đối khác so với BLHS năm 1999 bởi lẽ, cách phân loại tội phạm
trong BLHS năm 1985 là chỉ phân loại thành hai loại tội phạm là ít nghiêm trọng
và nghiêm trọng, còn BLHS năm 1999 thì chia tội phạm thành bốn loại là ít
nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng.
Thứ hai, độ tuổi chịu TNHS đối với mọi loại tội phạm là từ đủ 16 tuổi
trở lên. Về cơ bản BLHS năm 1999 vẫn giữ nguyên quy định là ngƣời từ đủ
16 tuổi phải chịu TNHS đối với mọi tội phạm.
Về năng lực TNHS, BLHS năm 1985 chƣa có điều luật nào quy định rõ
vấn đề này mà chỉ có quy định về tình trạng không có năng lực TNHS tại Điều 12:
“1- Người thực hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang
mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc
khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu TNHS. Đối với
người này sẽ áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.
2- Người phạm tội trong khi có năng lực TNHS, nhưng đã lâm vào tình
trạng nói ở khoản 1 Điều này trước khi bị kết án, thì cũng được áp dụng biện
pháp bắt buộc chữa bệnh. Sau khi khỏi bệnh người đó có thể phải chịu TNHS.
14
3- Người phạm tội do say rượu hoặc do dùng chất kích thích mạnh
khác thì không được miễn TNHS”.
Nhƣ vậy, BLHS năm 1985 cũng nhƣ BLHS năm 1999 chƣa có điều luật cụ
thể quy định về tình trạng có năng lực trách nhiệm hình sự mà chỉ quy định về tình
trạng không có năng lực TNHS trong các điều kiện của chủ thể chịu TNHS.
BLHS năm 1999 về cơ bản đã giữ nguyên quy định về tình trạng không có năng
lực TNHS trong Điều 12 BLHS năm 1985. Tuy có thay đổi một số câu chữ trong
điều luật nhƣng nội dung cơ bản vẫn đƣợc giữ nguyên. Theo Điều 12 BLHS năm
1985 thì ngƣời không có năng lực trách nhiệm hình sự khi thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội là ngƣời đang mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả
năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình. Điều này này có
nghĩa là về y học họ đang trong tình trạng mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm
mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi, còn về mặt tâm lý –
pháp lý họ bị mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình,
tức là họ không nhận thức đƣợc mặt thực tế và cả mặt pháp lý của hành vi do
mình thực hiện. Những trƣờng hợp này không phải chịu TNHS mà chỉ phải bị áp
dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.
Nhƣ vậy, điều luật quy định tình trạng không có năng lực TNHS là tình
trạng mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi do đang mắc
bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác.
1.3. Quy định của Bộ luật hình sự một số nước về chủ thể chịu trách
nhiệm hình sự
1.3.1. Quy định về chủ thể chịu trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự
Liên bang Nga
Theo quy định tại Điều 14 BLHS Liên bang Nga thì tội phạm là hành vi
có lỗi gây nguy hiểm cho xã hội, bị cấm bởi BLHS này và phải chịu hình
phạt. BLHS của Liên bang Nga cũng phân loại tội phạm thành tội phạm ít
15
nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng.
Về chủ thể chịu TNHS, BLHS Liên bang Nga dành hẳn một chƣơng
(Chƣơng 4) quy định về những ngƣời phải chịu TNHS. Điều 19 của chƣơng
này quy định chỉ cá nhân có năng lực TNHS và đạt độ tuổi theo quy định thì
mới phải chịu TNHS. BLHS Việt Nam và BLHS Liên bang Nga có chung
quy định về chủ thể chịu TNHS chỉ là cá nhân ngƣời phạm tội. Các điều kiện
của chủ thể chịu TNHS theo BLHS Liên bang Nga cũng tƣơng tự nhƣ quy
định trong BLHS Việt Nam ở chỗ, chủ thể chịu TNHS phải đạt đủ hai điều
kiện về năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS.
Về năng lực TNHS: Theo quy định tại Điều 21 BLHS Liên bang Nga
thì một ngƣời không có năng lực TNHS vào đúng thời điểm thực hiện tội
phạm thì không phải chịu TNHS. Để không phải chịu TNHS thì ngƣời đó
phải không thể nhận thức đƣợc tính chất thực tế và mức độ nguy hiểm do
hành vi của mình gây ra hoặc không thể điều khiển hành vi của mình do tâm
thần kinh niên, rối loạn thần kinh tạm thời, thiểu năng hoặc mắc một bệnh
khác về thần kinh. Mặc dù ngƣời không có năng lực TNHS không phải chịu
TNHS khi thực hiện hành vi phạm tội, nhƣng ngƣời đó vẫn phải chịu áp dụng
các biện pháp y tế bắt buộc quy định trong Bộ luật này và do Toà án chỉ định.
BLHS Liên bang Nga cũng quy định các trƣờng hợp ngƣời có năng lực
TNHS bị rối loạn thần kinh và ngƣời có năng lực TNHS đang trong tình trạng
say đều phải chịu TNHS khi thực hiện hành vi phạm tội.
Về độ tuổi: Ngƣời phạm tội phải là ngƣời đạt đến độ tuổi nhất định thì
mới phải chịu TNHS. Cụ thể đƣợc quy định tại Điều 20 nhƣ sau:
“1. Ngƣời đủ 16 tuổi trƣớc thời điểm thực hiện tội phạm phải chịu trách
nhiệm hình sự.
16
2. Những ngƣời đủ 14 tuổi trƣớc thời điểm thực hiện tội phạm phải
chịu trách nhiệm hình sự do thực hiện các tội sau: Tội giết ngƣời (Điều 105),
tội cố ý gây thƣơng tích rất nặng cho sức khỏe ngƣời khác (Điều 111); .. tội
cƣỡng dâm (Điều 132); .. tội cƣớp (Điều 161), tội cƣớp giật (Điều 162); .. tội
khủng bố (Điều 205) .. tội chiếm đoạt hoặc cƣỡng đoạt các chất ma tuý và
hƣớng thần (Điều 229) ...”[5, Điều 20]
Ngoài ra, BLHS Liên bang Nga cũng còn quy định trƣờng hợp ngƣời
chƣa thành niên trong độ tuổi nêu trên nhƣng do thần kinh chậm phát triển mà
không liên quan tới bệnh tâm thần vào đúng thời điểm thực hiện tội phạm
không thể nhận thức đầy đủ tính chất thực tế và mức độ nguy hiểm do hành vi
gây ra hoặc không điều khiển đƣợc hành vi của mình thì không phải chịu
TNHS (Khoản 3 Điều 20).
Nhƣ vậy, luật hình sự của Liên bang Nga có những quy định cụ thể về
điều kiện chung của chủ thể chịu TNHS và các trƣờng hợp không phải chịu
TNHS do không có năng lực TNHS và do thần kinh chậm phát triển tuy đạt
độ tuổi luật định khi thực hiện hành vi phạm tội. Về mặt kỹ thuật lập pháp và
về nội dung quy định BLHS Việt Nam có những điểm tƣơng đồng so với
BLHS Liên bang Nga. Tuy nhiên cũng có một số vấn đề khác biệt nhƣ: BLHS
Nga đã có xác định cụ thể những tội danh mà ngƣời từ đủ 14 đến dƣới 16 phải
chịu TNHS trong điều 20 của BLHS. Mà không giống nhƣ BLHS Việt Nam
xác định TNHS của những ngƣời từ đủ 14 tuổi đến dƣới 16 tuổi theo loại tội
phạm và theo lỗi của ngƣời phạm tội. Cách xác định của mỗi quốc gia cũng
có những ƣu điểm và nhƣợc điểm nhất định.
1.3.2. Quy định về chủ thể chịu trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
Bộ luật hình sự Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là một trong số BLHS
có quy định về TNHS của tổ chức.
17
Theo quy định của BLHS Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thì cơ sở của
TNHS đƣợc quy định tại Điều 3 nhƣ sau: “Chỉ những hành vi nào mà pháp
luật quy định rõ là hành vi phạm tội thì mới bị kết án và xử phạt; còn những
hành vi nào mà pháp luật không quy định rõ là hành vi phạm tội thì không bị
kết án hoặc xử phạt” [8, Điều 3]. Nhƣ vậy, cũng nhƣ BLHS Việt Nam cơ sở
của TNHS chính là việc thực hiện hành vi mà pháp luật quy định là tội phạm.
Chủ thể chịu TNHS theo BLHS Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đƣợc
chia thành hai loại chủ thể: Chủ thể chịu TNHS là cá nhân và chủ thể chịu
TNHS là tổ chức.
Về chủ thể chịu TNHS là cá nhân, về cơ bản BLHS Cộng hòa Nhân
dân Trung Hoa BLHS Việt Nam đều quy định hai điều kiện để một ngƣời
phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội đã thực hiện là có năng lực
TNHS và đạt độ tuổi luật định.
Tuổi chịu trách nhiệm hình sự đƣợc quy định tại Điều 17 BLHS Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa nhƣ sau: “Người đủ 16 tuổi phạm tội phải chịu trách
nhiệm hình sự.
Người từ đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 16 tuổi thì phải chịu TNHS về tội
giết người hoặc cố ý gây thương tích dẫn đến thương tích nặng hoặc chết
người, hiếp dâm, cướp giật, mua bán chất ma túy, đốt nhà, đặt bom, đầu
độc.”[8, Điều 17]
Về năng lực trách nhiệm hình sự: Điều 18 BLHS Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa quy định nhƣ sau:
“Người mắc bệnh tâm thần gây hậu quả nguy hiểm trong khi mất khả
năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, sau khi được xác
nhận thông qua các thủ tục pháp lý thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Nhưng người nhà hoặc người bảo lãnh có nghĩa vụ phải tăng cường giám sát
18
nghiêm ngặt và chữa bệnh cho họ. Trong trường hợp cần thiết chính quyền có
thể cưỡng chế chữa bệnh.
Người mắc bệnh tâm thần gián đoạn mà phạm tội khi thần kinh đang
bình thường thì phải chịu trách nhiệm hình sự.
Người mắc bệnh tâm thần phạm tội vào thời điểm chưa hoàn toàn mất
hết khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi của mình phải chịu trách
nhiệm hình sự nhưng có thể được giảm nhẹ hình phạt.
Người phạm tội do say rượu phải chịu trách nhiệm hình sự.”
Nhƣ vậy, cũng tƣơng tự nhƣ BLHS Việt Nam, thì BLHS Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa cũng xác định ngƣời gây hậu quả nguy hiểm trong tình
trạng mắc bệnh tâm thần mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển
hành vi của mình thì không phải chịu TNHS và những trƣờng hợp này nếu
cần thiết có thể bắt buộc chữa bệnh.
Về chủ thể chịu TNHS là tổ chức thì Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là
một trong số các quốc gia có quy định về TNHS của tổ chức. Theo Điều 30
BLHS Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thì: “Công ty, xí nghiệp, cơ quan, tổ
chức, đoàn thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, pháp luật coi là đơn
vị phạm tội và phải chịu trách nhiệm hình sự” [8, Điều 18].
Nhƣ vậy, chủ thể là tổ chức phải chịu TNHS không chỉ dừng lại ở các
chủ thể là các tổ chức kinh tế nhƣ một số quốc gia khác mà BLHS Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa xác định cả những cơ quan, tổ chức, đoàn thể cũng có
thể phải chịu TNHS nếu thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Cách xác
định phạm vi nhƣ vậy là tƣơng đối rộng bởi lẽ phần đông các quốc gia khác
đều loại trừ cơ quan, tổ chức nhà nƣớc ra khỏi phạm vi tổ chức phải chịu
TNHS [36, tr20]. Cũng theo Điều 30 BLHS của nƣớc Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa thì các tổ chức nêu trên chỉ phải chịu TNHS về những tội phạm
đƣợc xác định rõ trong từng điều luật. Các tội phạm này chủ yếu tập trung vào
19
các tội phạm của chƣơng III BLHS “Các tội xâm phạm trật tự kinh tế thị
trƣờng xã hội chủ nghĩa”
1.3.3. Quy định về chủ thể chịu trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình
sự Nhật Bản
BLHS của Nhật Bản không quy định rõ về TNHS hay chủ thể chịu
TNHS trong một điều luật cụ thể. Nhƣng có quy định về trƣờng hợp mất năng
lực nhận thức và giảm năng lực nhận thức tại Điều 39, quy định về độ tuổi
chịu TNHS tại Điều 41.
Quy định về mất năng lực nhận thức và giảm năng lực nhận thức trong
BLHS của Nhật Bản có sự khác biệt so với quy định về trƣờng hợp mất khả
năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi trong BLHS Việt Nam. Điều
39 BLHS Nhật Bản quy định “1. Không xử phạt hành vi của người mất năng
lực nhận thức. 2. Giảm nhẹ hình phạt đối với hành vi của người giảm năng
lực nhận thức”. Nhƣ vậy, điều luật quy định về trƣờng hợp giảm nhẹ hình
phạt, cùng với đó là giảm nhẹ TNHS cho ngƣời thực hiện hành vi phạm tội.
Cũng tƣơng tự nhƣ BLHS của Việt Nam và của một số quốc gia khác, BLHS
Nhật Bản không xác định rõ ràng thế nào là tình trạng có năng lực trách
nhiệm hình sự mà chỉ xác định không xử phạt đối với ngƣời mất năng lực
nhận thức, tức không đặt ra vấn đề TNHS đối với những ngƣời bị mất năng
lực nhận thức. Tuy nhiên, BLHS Nhật Bản lại không có quy định cụ thể thế
nào là ngƣời bị mất năng lực nhận thức nhƣ trong BLHS của Việt Nam và
Liên bang Nga.
Về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, Điều 41 BLHS Nhật bản quy
định: “Không xử phạt hành vi của người chưa đủ 14 tuổi”. Nhƣ vậy, tuổi chịu
TNHS theo quy định của BLHS Nhật Bản là từ 14 tuổi trở lên. Cũng tƣơng tự
nhƣ BLHS một số quốc gia khác trên thế giới, BLHS chỉ xác định một mức
20
độ tuổi chịu TNHS là từ đủ 14 tuổi trở lên mà không chia thành hai nhóm độ
tuổi nhƣ BLHS Việt Nam.
Ngoài quy định chủ thể chịu TNHS là cá nhân thì Nhật Bản còn là một
quốc gia châu Á nhƣng đã có sự gặp gỡ và tiếp thu pháp luật Phƣơng Tây
trong việc quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với một số tội
phạm nhất định. Vào những năm 60-70 của thế kỷ XX dƣ luận Nhật Bản kịch
liệt phản đối sự đầu tƣ lớn và việc gây ô nhiễm môi trƣờng trầm trọng của các
công ty. Pháp luật hình sự ban hành thời kỳ này có nhiều quy định về trách
nhiệm hình sự của công ty và ngƣời đại diện công ty. Một ví dụ điển hình là
theo Điều 142 Luật về hình phạt, tội làm ô nhiễm môi trƣờng ảnh hƣởng tới
sức khỏe con ngƣời đã quy định, do lỗi cố ý hoặc vô ý mà “những công
trƣờng, xí nghiệp trong quá trình hoạt động thải ra những chất (bao gồm cả
những chất mà làm tổn hại đến sức khỏe con ngƣời một cách dần dần tức là
tích tụ lâu ngày trên cơ thể con ngƣời) làm tổn hại đến sức khỏe con ngƣời,
thì những ngƣời làm phát sinh nguy hiểm đối với sinh mệnh công chúng
phạm vào điều này. Không chỉ những ngƣời trực tiếp gây ra hậu quả bị xử
phạt mà ngay cả những ngƣời đại diện của pháp nhân và pháp nhân đều bị xử
phạt.”[37, tr.82-84]
1.3.4. Quy định trong về chủ thể chịu trách nhiệm hình sự trong Bộ luật
hình sự Cộng hòa Liên bang Đức
Quy định về tuổi chịu TNHS của cá nhân ngƣời phạm tội trong BLHS
Cộng hòa Liên bang Đức có sự khác biệt so với BLHS Việt Nam. Điều 19
BLHS Cộng hòa Liên bang Đức quy định về không có năng lực lỗi ở trẻ em
nhƣ sau: “Người không có năng lực lỗi là người khi thực hiện hành vi chưa
đủ mười bốn tuổi”. Nhƣ vậy, về độ tuổi chịu TNHS theo quy định của BLHS
Liên bang đức là từ đủ 14 tuổi trở lên. Các ngƣời hợp thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội đƣợc coi là không có năng lực lỗi khi thực hiện hành vi đó
21
khi chƣa đủ 14 tuổi. So sánh với quy định của BLHS Việt Nam chúng ta thấy
điểm khác biệt của BLHS Liên bang Đức đó là không xác định hai mức độ
tuổi chịu TNHS nhƣ BLHS Việt Nam là đủ 14 tuổi đến dƣới 16 tuổi và từ đủ
16 tuổi trở lên.
Về năng lực TNHS thì BLHS Liên bang Đức cũng giống nhƣ BLHS
một số quốc gia khác trên thế giới trong đó có Việt Nam là không xác định
thế nào là ngƣời có năng lực TNHS mà chỉ xác định ngƣời không có năng lực
lỗi do các rối loạn tâm thần (tức là ngƣời không có năng lực TNHS do các
bệnh liên quan đến tâm thần). Điều 20 BLHS Liên bang Đức quy định:
“Người nào khi thực hiện hành vi mà không có năng lực nhận thức sự không
hợp pháp của hành vi hoặc không có năng lực thực hiện hành vi theo nhận
thức này do rối loạn tâm thần bệnh lý, rối loạn ý thức nặng hoặc do thiểu
năng hoặc do các bất bình thường nặng khác về tâm thần thì họ thực hiện
không có lỗi”. Nhƣ vậy, BLHS Liên bang Đức đã quy định ngƣời thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội mà trong tình trạng không có năng lực nhận
thức hoặc năng lực thực hiện hành vi do rối loạn tâm thần là ngƣời không có
lỗi và do đó không phải chịu TNHS.
22
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Trên cơ sở những phân tích tại Chƣơng 1 Những vấn đề chung về chủ
thể chịu TNHS, tác giả đã nêu và phân tích các quan điểm khác nhau liên
quan đến chủ thể chịu TNHS. Đối với quan điểm thứ nhất cũng là quan điểm
hiện đƣợc ghi nhận trong BLHS Việt Nam hiện hành quy định chủ thể chịu
trách nhiệm hình sự là cá nhân phải chịu những hậu quả pháp lý bất lợi do đã
thực hiện hành vi phạm tội đƣợc quy định trong BLHS khi có năng lực TNHS
và đạt độ tuổi luật định. Quan điểm thứ hai hiện cũng là xu thế của các nƣớc
trên thế giới quy định chủ thể chịu TNHS gồm cá nhân và và tổ chức khi thỏa
mãn các điều kiện nhất định. Tác giả đã phân tích lịch sử phát triển các quy
định về chủ thể chịu TNHS trong luật hình sự Việt Nam qua các thời kỳ, đồng
thời có sự so sánh với các quy định của BLHS một số nƣớc trên thế giới với
mục đích đƣa ra cái nhìn tổng quan nhất về lý luận chung các quy định liên
quan đến chủ thể chịu TNHS.
23
Chương 2
THỰC TIỄN QUY ĐỊNH VỀ CHỦ THỂ CHỊU TRÁCH NHIỆM HÌNH
SỰ TRONG BLHS VIỆT NAM HIỆN HÀNH
2.1. Các dấu hiệu chung của chủ thể chịu trách nhiệm hình sự
2.1.1. Năng lực trách nhiệm hình sự
Năng lực TNHS là điều kiện cần thiết để có thể xác định con ngƣời có
lỗi khi họ thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Chỉ ngƣời có năng lực
TNHS mới có thể trở thành chủ thể của tội phạm.
“Người có năng lực TNHS là người khi thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của
hành vi của mình và có khả năng điều khiển được hành vi ấy” [11, tr122].
Nếu một ngƣời thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhƣng họ không
nhận thức đƣợc hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội hoặc nhận thức đƣợc
nhƣng không điều khiển đƣợc hành vi đó là ngƣời không có năng lực TNHS.
Con ngƣời sinh ra không phải có ngay năng lực TNHS, năng lực TNHS là
năng lực tự ý thức của từng cá nhân đƣợc hình thành trong quá trình phát triển
về mặt tự nhiên và xã hội của cá nhân đó. Mỗi cá nhân sống trong xã hội đều
có khả năng hình thành, phát triển ý thức và tự ý thức. Quá trình đó phải diễn
ra trong một khoảng thời gian nhất định khi con ngƣời đó sống trong môi
trƣờng xã hội.
Ngƣời có năng lực TNHS là ngƣời khi thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội có khả năng nhận thức đƣợc tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi
của mình và có khả năng kìm chế hành vi đó để lựa chọn thực hiện hành vi
khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội. Do vậy, năng lực TNHS là điều kiện cần
thiết để có thể xác định một ngƣời có lỗi khi họ thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội. Chỉ những ngƣời có năng lực TNHS mới có thể có lỗi và mới có
24
thể là chủ thể của tội phạm khi đã đạt độ tuổi luật định. Luật hình sự Việt
Nam không quy định năng lực TNHS một cách trực tiếp mà quy định gián
tiếp qua quy định tuổi chịu TNHS và quy định về tình trạng không có năng
lực TNHS.
Theo quy định tại Điều 13 BLHS năm 1999 thì ngƣời ở trong tình trạng
không có năng lực TNHS là ngƣời thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng
nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình. Nhƣ vậy, có hai dấu
hiệu để xác định tình trạng không có năng lực TNHS: Dấu hiệu y học (mắc
bệnh tâm thần hoặc bệnh khác) và dấu hiệu tâm lý (mất năng lực nhận thức
hoặc năng lực điều khiển hành vi).
- Về dấu hiệu y học: Ngƣời trong tình trạng không có năng lực TNHS
là ngƣời mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm rối loạn hoạt động tâm thần.
Tuy nhiên, không phải những đối tƣợng nào mắc các bệnh này cũng
thuộc trƣờng hợp dẫn đến bị mất năng lực nhận thức và năng lực điều khiển
hành vi, ví dụ nhƣ các rối loạn phát triển về tâm lý hoặc các rối loạn hành vi
và cảm xúc khởi phát ở tuổi trẻ em và thanh thiếu niên (bệnh tăng động hoặc
bệnh tự kỷ) không liên quan đến việc mất hoàn toàn khả năng nhận thức và
khả năng điều khiển hành vi. Chính vì vậy, việc xác định một ngƣời có bị mắc
bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức và khả năng điều
khiển hành vi hay không cần phải có hoạt động xác định của chuyên môn y
khoa trong giám định pháp y tâm thần.
- Về dấu hiệu tâm lý: Ngƣời trong tình trạng không có năng lực TNHS
là ngƣời đã mất năng lực hiểu biết những đòi hỏi của xã hội liên quan đến
hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện, là ngƣời không có năng lực đánh
giá hành vi đã thực hiện là đúng hay sai, nên làm hay không nên làm. Và nhƣ
vậy, họ cũng không thể có đƣợc năng lực kiềm chế việc thực hiện hành vi
25
nguy hiểm cho xã hội để thực hiện xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội.
Ngƣời trong tình trạng không có năng lực TNHS còn có thể là ngƣời tuy có
năng lực nhận thức, tuy có khả năng đánh giá đƣợc tính chất nguy hiểm cho
xã hội của hành vi của mình nhƣng do các xung động bệnh lý không thể kiềm
chế đƣợc việc thực hiện hành vi đó.
Dấu hiệu y học và dấu hiệu tâm lý có mối liên quan chặt chẽ với nhau,
dấu hiệu này là tiền đề của dấu hiệu kia và ngƣợc lại. Một ngƣời vì mắc bệnh
nên bị mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi và họ bị mất
khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi là do họ mắc bệnh. Một ngƣời
đƣợc xác định là ở trong tình trạng không có năng lực TNHS khi thỏa mãn cả
hai dấu hiệu này. Điều đó có nghĩa chỉ khi nào ngƣời mắc bệnh tâm thần hoặc
bệnh khác tới mức làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành
vi của mình mới đƣợc coi là ngƣời ở trong tình trạng không có năng lực TNHS.
Nếu bệnh của họ chƣa tới mức làm mất khả năng nhận thức tính nguy hiểm cho
xã hội của hành vi của mình thì tùy từng trƣờng hợp cụ thể, họ phải chịu TNHS
một phần hoặc toàn bộ. Trƣờng hợp ngƣời trong khi thực hiện hành vi phạm tội
không mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc
khả năng điều khiển hành vi nhƣng sau khi thực hiện hành vi phạm tội họ lâm
vào tình trạng này thì phải áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh cho đến khi
khỏi bệnh thì họ có thể phải chịu TNHS đối với hành vi của mình.
Trong trƣờng hợp ngƣời thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội khi
đang ở trong tình trạng không có năng lực nhận thức và năng lực điều khiển
hành vi do dùng rƣợu hoặc chất kích thích mạnh khác thì ngƣời này không
đƣợc coi là ngƣời ở trong tình trạng không có năng lực TNHS và TNHS vẫn
đặt ra đối với họ. Về TNHS của ngƣời trong tình trạng say do dùng rƣợu hoặc
chất kích thích Điều 14 BLHS quy định: “Người phạm tội trong tình trạng
say do dùng rượu hoặc chất kích thích mạnh khác, thì vẫn phải chịu TNHS”.
26
Luật hình sự Việt Nam cũng nhƣ nhiều nƣớc trên thế giới không loại trừ trách
nhiệm cho ngƣời phạm tội do say rƣợu hoặc do dùng chất kích thích mạnh
khác. Say rƣợu là một hiện tƣợng không bình thƣờng trong xã hội, là một thói
xấu trong sinh hoạt, việc bắt ngƣời say rƣợu phải chịu TNHS về hành vi phạm
tội do họ gây ra còn là biểu thị thái độ nghiêm khắc của xã hội đối với tệ nạn
say rƣợu. Trƣớc khi dùng rƣợu hoặc chất kích thích mạnh khác thì họ là
những ngƣời có năng lực TNHS và sau đó họ bị say là do họ tự đặt mình vào
tình trạng đó nên họ có lỗi.
2.1.2. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự
Theo lý luận về luật hình sự, con ngƣời không phải bẩm sinh đã có
năng lực TNHS. Năng lực TNHS là năng lực của tự ý thức đƣợc hình thành
trong quá trình phát triển của cá thể về mặt tự nhiên và xã hội. Ở mỗi con
ngƣời bình thƣờng đều có khả năng hình thành và phát triển ý thức và tự ý
thức. Nhƣng phải trải qua quá trình hoạt động và giáo dục trong điều kiện xã
hội, khả năng đó mới có thể trở thành hiện thực. Nhƣ vậy, năng lực TNHS chỉ
đƣợc hình thành khi con ngƣời đã đạt độ tuổi nhất định và năng lực đó sẽ tiếp
tục phát triển hoàn thiện trong thời gian nhất định tiếp theo. Khi đã đạt độ tuổi
đó, con ngƣời nói chung sẽ có năng lực TNHS, trừ những trƣờng hợp cá biệt
– những ngƣời mà BLHS coi là trong tình trạng không có năng lực TNHS
[11, tr128]. Nhƣ vậy, mối quan hệ biện chứng giữa năng lực TNHS và tuổi
chịu TNHS là rất rõ ràng. Một ngƣời chỉ có năng lực TNHS khi đạt một độ
tuổi nhất định, đồng thời một ngƣời đạt một độ tuổi nhất định thì chƣa chắc
đã là chủ thể có đầy đủ năng lực TNHS mà phải không ở trong tình trạng
không có năng lực TNHS.
Luật hình sự các nƣớc dựa trên các kết quả nghiên cứu, khảo sát về tâm
lý cũng nhƣ căn cứ vào chính sách hình sự của mình đã quy định tuổi bắt đầu
có năng lực TNHS và tuổi có năng lực TNHS đầy đủ. Mức tuổi cụ thể của
27
tuổi bắt đầu có năng lực TNHS và của tuổi năng lực TNHS đầy đủ đƣợc xác
định ở mỗi nƣớc và có thể ở mỗi thời gian nhất định trong mỗi nƣớc không
hoàn toàn giống nhau.
Tại Việt Nam, căn cứ vào điều kiện thực tế, căn cứ vào thực tiễn đấu
tranh phòng chống tội phạm, Điều 12 BLHS năm 1999 đã quy định về tuổi
chịu TNHS: “1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu TNHS về tội
phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”. Quy
định về độ tuổi chịu TNHS đã đƣợc thể hiện lần đầu tiên trong BLHS năm
1985 và đƣợc kế thừa trong BLHS năm 1999.
Độ tuổi chịu TNHS là một trong các dấu hiệu quan trọng của chủ thể
chịu TNHS. Theo quy định tại Điều 58 BLHS năm 1985 thì ngƣời từ 14 tuổi trở
lên nhƣng chƣa đủ 16 tuổi phải chịu TNHS về những tội phạm nghiêm trọng do
cố ý. Ngƣời từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm. Tuy nhiên,
trong quá trình áp dụng vào thực tế đã xuất hiện những điểm hạn chế. Ngày
21/12/1999, Quốc hội nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành
BLHS, theo quy định tại Điều 12 BLHS về tuổi chịu TNHS thì ngƣời từ đủ 16
tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm. Ngƣời từ 14 tuổi trở nên nhƣng
chƣa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu TNHS về những tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý
hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng nghiêm trọng do cố ý.
Nhƣ vậy, quy định về độ tuổi chịu TNHS trong BLHS năm 1999 đã
quy định cụ thể hơn về việc chịu TNHS đối với ngƣời từ độ tuổi từ 14 đến
dƣới 16 tuổi, khắc phục đƣợc những hạn chế, bất cập trong điều luật về độ
tuổi chịu TNHS của BLHS năm 1985.
Quy định nhƣ BLHS năm 1999 là phù hợp với yêu cầu đấu tranh chống
và phòng ngừa tội phạm ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, phù hợp với xu
hƣớng phát triển của luật hình sự trên thế giới và bảo đảm các quyền con
28
ngƣời cơ bản của trẻ em phạm tội... Về chính sách hình sự của Nhà nƣớc, nhƣ
đã phân tích ở trên, trƣớc khi Nhà nƣớc ban hành BLHS năm 1985 đã xác
định: “Nói chung, đối với trẻ em hƣ dƣới 14 tuổi thì không đƣa ra tòa án xét
xử’ từ 14 tuổi đến 18 tuổi, nếu phạm pháp cần thiết phải đƣa ra xét xử thì có
châm chƣớc đến tuổi đời còn non trẻ của chúng, riêng đối với loại từ 14 tuổi
đến dƣới 16 tuổi, chỉ nên xét xử trong những trƣờng hợp phạm tội nghiêm
trọng” [38]. Bởi vì: “Nói chung, những trẻ em dƣới 14 tuổi chƣa ý thức đầy
đủ và thƣờng chịu ảnh hƣởng của môi trƣờng xung quanh và do đó không có
năng lực trách nhiệm hình sự. Cá biệt có thể có trẻ em tuy dƣới 14 tuổi nhƣng
do cơ thể phát triển sớm hoặc do tham gia hoạt động xã hội sớm nên đã có ý
thức tƣơng đối đầy đủ về các hoạt động sai trái của mình, nhất là các hành
động có tính nguy hại lớn cho xã hội. Nếu chỉ xét riêng về khía cạnh năng lực
trách nhiệm hình sự thì đối với các trƣờng hợp cá biệt đó cũng có thể đặt ra
vấn đề truy cứu trách nhiệm hình sự các em dƣới 14 tuổi đƣợc. Nhƣng không
nên đơn thuần chỉ nhìn vấn đề này dƣới giác độ năng lực trách nhiệm hình sự
mà, và là điều chủ yếu, phải nhìn cả dƣới giác độ yêu cầu của xã hội đối với
nhiệm vụ giáo dục thiếu niên nữa.” [38]
Tại Phần chung của BLHS năm 1999 quy định về độ tuổi chịu TNHS
tại Điều 12 và về cơ bản vẫn giữ nguyên quy định về độ tuổi chịu TNHS nhƣ
BLHS năm 1985. Riêng về TNHS đối với ngƣời từ đủ 14 tuổi đến dƣới 16
tuổi thì có điểm sửa đổi căn bản là thay đổi phạm vi xử lý hình sự với ngƣời
chƣa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dƣới 16 tuổi về những hành vi nguy hiểm
cho xã hội. Trƣớc đây, theo Điều 58 BLHS năm 1985, quy định ngƣời từ đủ
14 tuổi trở lên những chƣa đủ 16 tuổi phải chịu TNHS về những tội phạm
nghiêm trọng do cố ý. Điều đó cũng có nghĩa là những ngƣời ở lứa tuổi trên
không phải chịu TNHS về những tội phạm ít nghiêm trọng (kể cả cố ý và vô
ý) và những tội phạm nghiêm trọng do vô ý.
29
Việc phân loại tội phạm, theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 8
BLHS năm 1999 thì tội phạm đƣợc phân chia thành 4 loại: tội phạm ít nghiêm
trọng; tội phạm nghiêm trọng; tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng. Nhƣ vậy, so với BLHS năm 1985 thì BLHS năm 1999 đã mở
rộng phạm vi áp dụng TNHS đối với ngƣời phạm tội ở lứa tuổi từ đủ 14 tuổi
đến dƣới 16 tuổi về hình thức lỗi. Theo BLHS năm 1999 thì một ngƣời từ đủ
14 tuổi trở lên nhƣng chƣa đủ 16 tuổi thực hiện một tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng mặc dù với lỗi vô ý vẫn không đƣợc loại trừ TNHS và họ vẫn bị áp
dụng hình phạt cao nhất là tới 15 năm tù (Nếu tổng hợp hình phạt thay vì 12
năm nhƣ quy định của BLHS năm 1985).
Về cơ bản cách tính tuổi chịu TNHS là tính tuổi tròn. Trong trƣờng hợp
có đủ điều kiện để xác định ngày, tháng, năm sinh của ngƣời đó. Việc xác
định độ tuổi của ngƣời phạm tội thông thƣờng dựa trên các giấy tờ hợp pháp
nhƣ giấy khai sinh, sổ hộ khẩu, giấy chứng minh nhân dân.... Khi xét xử các
vụ án hình sự có bị cáo là ngƣời trong độ tuổi chƣa thành niên, Tòa án cần
phải xác định đúng tuổi của họ cũng nhƣ sự phát triển về thể chất, tinh thần và
mức độ nhận thức hành vi phạm tội của họ. Trong trƣờng hợp bị cáo không
đƣợc khai sinh thì phải kiểm tra sổ hộ tịch, nếu không có thì tiến hành điều tra
kết luận tuổi của ngƣời phạm tội theo nguyên tắc quy định trong Thông tƣ
liên tịch số 01/2011/TTLT-VKSTC-TANDTC-BCA-BQP-BLĐTBXH.
2.2. Dấu hiệu đặc biệt của chủ thể chịu trách nhiệm hình sự.
Chủ thể chịu TNHS phải đáp ứng đủ các dấu hiệu về đạt độ tuổi chịu
TNHS và có năng lực TNHS. Đối với một số tội, chủ thể chịu TNHS không
chỉ đáp ứng đủ hai dấu hiệu trên mà cần phải có một số dấu hiệu khác, vì chỉ
khi có những dấu hiệu đó chủ thể mới có thể thực hiện đƣợc hành vi phạm tội
và bị xử lý theo luật hình sự, những chủ thể này gọi là chủ thể đặc biệt.
30
Dấu hiệu nhận biết chủ thể đặc biệt thƣờng thông qua dấu hiệu về đặc
điểm nhân thân nhƣ: Đặc điểm liên quan đến chức vụ, quyền hạn; đặc điểm
liên quan đến nghề nghiệp, tính chất công việc; đặc điểm liên quan đến nghĩa
vụ phải thực hiện; đặc điểm hạn chế về độ tuổi; đặc điểm về giới tính; đặc
điểm về quan hệ gia đình, họ hàng và đặc điểm xấu về nhân thân. Các đặc
điểm nêu trên khi đã đƣợc quy định trong cấu thành tội phạm thì trở thành dấu
hiệu của chủ thể đặc biệt và là dấu hiệu bắt buộc, dấu hiệu định tội.
Thứ nhất, dấu hiệu đặc biệt của chủ thể chịu TNHS liên quan đến chức
vụ, quyền hạn. Nhƣ ở phần trên đã phân tích, dấu hiệu về năng lực TNHS và
độ tuổi chịu TNHS là dấu hiệu bắt buộc phải có của chủ thể chịu TNHS. Tuy
nhiên, đối với một số loại tội phạm thì ngoài hai dấu hiệu trên đòi hỏi phải có
thêm các dấu hiệu khác, trong đó có nhóm tội phạm về chức vụ nói chung và
các tội phạm về tham nhũng nói riêng, các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp.
Đó là những tội phạm đòi hỏi chủ thể ngoài các dấu hiệu thông thƣờng của
chủ thể chịu TNHS thì còn bắt buộc phải có dấu hiệu thứ ba, là ngƣời có chức
vụ, quyền hạn trong lĩnh vực nhất định.
Đối với các Tội phạm về chức vụ quy định trong Chƣơng XXI gồm 15
điều luật, trong đó có 12 Điều (trừ Điều 277, 289, 290) quy định chủ thể của
tội phạm phải là ngƣời có chức vụ quyền hạn, đã sử dụng chức vụ quyền hạn
của mình để thực hiện các hành vi phạm tội.
Khái niệm ngƣời có chức vụ, quyền hạn có thể là chủ thể của tội phạm
về chức vụ đƣợc đề cập chính thức lần đầu tiên trong Thông tƣ hƣớng dẫn
giải thích việc vận dụng Pháp lệnh Trừng trị tội hối lộ của TAND tối cao ngày
06/8/1982. Theo đó, “Ngƣời có chức vụ, quyền hạn bao gồm những ngƣời
đƣợc cơ quan Nhà nƣớc hoặc tổ chức xã hội chính thức giao đảm nhiệm một
công tác thƣờng xuyên hoặc nhất thời không kể Quy chế (do bổ nhiệm, dân
cử, hợp đồng, nghĩa vụ, có hƣởng lƣơng hoặc không hƣởng lƣơng) hoặc cấp
31
bậc nhƣ thế nào (ngƣời phụ trách hay nhân viên phục vụ) có quyền năng đối
với ngƣời khác trong khi thực hiện công tác”. Trên cơ sở đó, BLHS đầu tiên
của nƣớc ta ra đời (27/6/1985), khái niệm ngƣời có chức vụ, quyền hạn đƣợc
đƣa ra một cách rõ ràng, đầy đủ hơn. Qua các lần sửa đổi, bổ sung không có
gì thay đổi cơ bản, trong BLHS năm 1999 Điều 277 quy định: Ngƣời có chức
vụ, quyền hạn “là ngƣời do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc một hình
thức khác, có hƣởng lƣơng hoặc không hƣởng lƣơng, đƣợc giao thực hiện một
công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ”.
Theo khoản 3, Điều 1 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005, thì ngƣời có
chức vụ, quyền hạn bao gồm 4 nhóm đối tƣơng sau:
- Cán bộ, công chức, viên chức;
- Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ quan,
đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan
chuyên môn - kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân;
- Cán bộ lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp của Nhà nƣớc; cán bộ lãnh
đạo, quản lý là ngƣời đại diện phần vốn góp của Nhà nƣớc tại doanh nghiệp;
- Ngƣời đƣợc giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ có quyền hạn trong khi
thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó.
Đối với một số tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp, chủ thể của các tội
phạm này phải là những ngƣời có trách nhiệm, quyền hạn trong các cơ quan
tƣ pháp, họ là những ngƣời có thẩm quyền trong hoạt động điều tra, truy tố,
xét xử, thi hành án. Các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp do ngƣời có chức vụ
quyền hạn trong hoạt động tƣ pháp thực hiện; đƣợc quy định tại 11 điều luật
gồm các tội: Tội truy cứu TNHS ngƣời không có tội (Điều 293); Tội không
truy cứu TNHS ngƣời có tội (Điều 294), chủ thể của hai tội phạm này chỉ bao
gồm những ngƣời có thẩm quyền trong việc thực hiện hành vi tố tụng là truy
cứu TNHS ngƣời phạm tội gồm ngƣời có quyền ra quyết định khởi tố bị can,
32
ngƣời có quyền đề nghị truy tố và ngƣời có quyền quyết định truy tố bị can
trƣớc tòa án; Tội ra bản án trái pháp luật (Điều 295), chủ thể của tội này chỉ
có thể là thẩm phán và hội thẩm nhân dân đã tham gia hội đồng xét xử và ra
bản án trái pháp luật; Tội ra quyết định trái pháp luật (Điều 296); Tội dùng
nhục hình (Điều 298), chủ thể của hai tội phạm này là ngƣời có thẩm quyền ra
quyết định trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; Tội bức cung
(Điều 299), chủ thể của tội phạm là ngƣời có trách nhiệm khi tiến hành điều
tra, truy tố, xét xử; Tội làm sai lệch hồ sơ vụ án (Điều 300), chủ thể của tội
phạm gồm điều tra viên, kiểm sát viên, các thành viên của hội đồng xét xử;
thƣ ký tòa án, nhân viên tƣ pháp, ngƣời bào chữa, ngƣời bảo vệ quyền, lợi ích
của đƣơng sự đối với những hồ sơ thuộc công việc đƣợc phân công hoặc nhận
tham gia xử lý vụ án; Tội tha trái pháp luật ngƣời đang bị giam, giữ (Điều
302); Tội lợi dụng chức vụ quyền hạn giam, giữ ngƣời trái pháp luật (Điều
303) chủ thể của các tội phạm này chỉ bao gồm những ngƣời có thẩm quyền
ra lệnh tha hoặc có trách nhiệm thực hiện các lệnh đó cụ thể gồm: thủ trƣởng
hoặc phó thủ trƣởng cơ quan điều tra; viện trƣởng, phó viện trƣởng Viện kiểm
sát nhân dân; chánh án, phó chánh án tòa án nhân dân; thẩm phán cấp tỉnh;
giám thị trại giam…; Tội không thi hành án (Điều 305), chủ thể là ngƣời có
thẩm quyền không ra quyết định thi hành án hoặc là ngƣời có trách nhiệm thi
hành quyết định đó; Đối với tội thiếu trách nhiệm để ngƣời bị giam, giữ trốn
(Điều 301), chủ thể của tội phạm là ngƣời có trách nhiệm trực tiếp quản lý,
canh gác, dẫn giải ngƣời bị giam, giữ.
Thứ hai, dấu hiệu đặc biệt liên quan đến nghề nghiệp, tính chất công
việc. Trong Phần các tội phạm của BLHS có một số tội phạm thì chủ thể chịu
TNHS ngoài các dấu hiệu cơ bản còn yêu cầu phải có thêm dấu hiệu đặc biệt
về nghề nghiệp, tính chất công việc.
33
Ví dụ: Do đặc điểm riêng của phƣơng tiện hàng không đòi hỏi sự tham
gia điều khiển thông qua sự phối hợp của những ngƣời đƣợc giao trách nhiệm
chấp hành quy định về điều khiển phƣơng tiện hàng không. Theo quy định
của Điều 216 BLHS Tội vi phạm quy định điều khiển tàu bay (Điều 216) có
chủ thể đặc biệt là ngƣời chỉ huy, điều khiển tàu bay. Hƣớng dẫn tại khoản 1,
2 Điều 12 Thông tƣ liên tịch 09/2013/TTLT-BCA-BQP-BTP-VKSNDTC-
TANDTC ngày 28/8/2013 hƣớng dẫn áp dụng quy định tại Chƣơng XIX của
Bộ luật Hình sự về các tội xâm phạm trật tự, an toàn giao thông xác định:
Người điều khiển tàu bay là thành viên tổ lái, gồm: lái chính, lái phụ và nhân
viên hàng không khác phù hợp với loại tàu bay; Người chỉ huy tàu bay là
thành viên tổ lái đƣợc ngƣời khai thác tàu bay chỉ định cho một chuyến bay;
đối với hoạt động hàng không chung không vì mục đích thƣơng mại thì do
chủ sở hữu tàu bay chỉ định.
Chủ thể của tội Tội điều khiển tàu bay vi phạm các quy định về hàng
không của nƣớc Cộng hòa XHCNVN (Điều 222); Tội điều khiển phƣơng tiện
hàng hải vi phạm các quy định về hàng hải của nƣớc Cộng hòa XHCNVN
(Điều 223) chủ thể của hai tội phạm này là ngƣời trực tiếp điều khiển hoặc
các thành viên đƣợc giao nhiệm vụ điều khiển phƣơng tiện giao thông này.
Thứ ba, dấu hiệu chủ thể đặc biệt liên quan đến nghĩa vụ, trách nhiệm
phải thực hiện. Họ là những ngƣời có đủ điều kiện hoặc dấu hiệu nhất định
mà pháp luật hình sự yêu cầu phải thực hiện nghĩa vụ nhƣng đã không thực
thi nghĩa vụ đấy.
Cụ thể gồm Tội không chấp hành án (Điều 304), chủ thể của tội phạm
là ngƣời có nghĩa vụ phải chấp hành bản án hoặc quyết định của tòa án đã có
hiệu lực pháp luật nhƣng họ đã không thi hành.
Tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự (Điều 259) chủ thể của tội phạm này là
ngƣời đủ điều kiện, tiêu chuẩn để thực hiện thực hiện nghĩa vụ quân sự và cố
34
tình không chấp hành các quy định này (theo Điều 12, 25 Luật nghĩa vụ quân
sự năm 2015, tuổi thực hiện nghĩa vụ quân sự đối với nam giới từ 17 tuổi đến
45 tuổi; nữ từ 18 tuổi đến hết 40 tuổi không thuộc các trƣờng hợp quy định tại
Điều 13. Đối tƣợng không đƣợc đăng ký nghĩa vụ quân sự và Điều 14 Đối
tƣợng miễn đăng ký nghĩa vụ quân sự).
Đối với Tội không chấp hành lệnh gọi quân nhân dự bị nhập ngũ (Điều
260), chủ thể của tội phạm là ngƣời có lệnh gọi nhập ngũ.
Đối các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân quy định
tại Chƣơng XXIII (từ Điều 315 đến Điều 340), chủ thể của các tội này phải là
đối tƣợng đƣợc quy định tại Điều 315 BLHS năm 1999, cụ thể: "Quân nhân
tại ngũ, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện, công dân đƣợc
trƣng tập vào phục vụ trong quân đội, dân quân, tự vệ phối thuộc với quân đội
trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội
phạm do mình thực hiện đƣợc quy định tại Chƣơng này". Ví dụ, nhƣ tội Đào
ngũ (Điều 325) là quân nhân đang thực hiện các nghĩa vụ quân sự và chế độ
phục vụ trong quân đội đã rời bỏ hàng ngũ quân đội nhằm trốn tránh các nghĩa
vụ phải thực hiện. Đối với nhóm tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của
quân nhân chủ thể của tội phạm ngoài đạt độ tuổi luật định và có năng lực
TNHS còn đòi hỏi phải là quân nhân tại ngũ, quân nhân dự bị trong thời gian
tập trung huấn luyện, công dân đƣợc trƣng tập phục vụ trong quân đội, dân
quân, tự vệ phối thuộc với quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu.
Thứ tư, dấu hiệu đặc biệt của chủ thể về độ tuổi. Nhƣ trên đã phân tích,
dấu hiệu chung của chủ thể chịu TNHS gồm đạt độ tuổi chịu TNHS và có
năng lực trách nhiệm hình sự. Ngoài ra, đối với một số tội đòi hỏi chủ thể
phải đạt đƣợc độ tuổi nhất định mới trở thành chủ thể của tội phạm đó. Ví dụ,
chủ thể của các tội mà nạn nhân chỉ có thể là ngƣời chƣa thành niên hoặc trẻ
em, đƣợc quy định phải là ngƣời đã thành niên, tức là từ đủ 18 tuổi trở lên.
35
Đó là tội giao cấu với trẻ em (Điều 115) và tội dâm ô với trẻ em (Điều 116).
Một số tội phạm khác tuy không quy định chủ thể của tội phạm là ngƣời đã
thành niên nhƣng căn cứ vào các điều kiện, dấu hiệu tội phạm thì chỉ ngƣời đã
thành niên mới thực hiện đƣợc hành vi phạm tội đó, cụ thể đó gồm các tội:
Tội dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp ngƣời chƣa thành niên phạm pháp (Điều
252); tội mua dâm ngƣời chƣa thành niên (Điều 256). Ngoài ra, chủ thể của
tội tảo hôn (Điều 148) tuy không đƣợc mô tả cụ thể phải là ngƣời đã đủ tuổi
kết hôn nhƣng vẫn phải đƣợc xác định nhƣ vậy. Trên thực tế, về chủ thể của
tội tảo hôn đã từng đƣợc hƣớng dẫn mục 4.5 Thông tƣ liên tịch số
01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC ngày 25-9-2001 của Bộ Tƣ
pháp, Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao về
việc hƣớng dẫn áp dụng các quy định tại Chƣơng XV "Các tội xâm phạm chế
độ hôn nhân và gia đình của BLHS năm 1999": “Chủ thể của tội tảo hôn là
bất kỳ ngƣời nào có năng lực trách nhiệm hình sự đã đủ tuổi kết hôn theo quy
định của pháp luật hôn nhân và gia đình. Theo quy định tại Điều 8 Luật hôn
nhân và gia đình năm 2014 thì tuổi kết hôn đối với nam là từ đủ 20 tuổi trở
lên, tuổi kết hôn đối với nữ là từ đủ18 tuổi trở lên.”
Thứ năm, dấu hiệu đặc biệt của chủ thể liên quan đến đặc điểm về giới
tính của chủ thể chịu TNHS. VD chủ thể của tội giết con mới đẻ (Điều 94) là
ngƣời mẹ mới sinh con trong 7 ngày. Ngoài ra, thực tiễn áp dụng các quy định
về chủ thể đặc biệt của một số tội phạm, các cơ quan tiến hành tố tụng vận
dụng các văn bản dƣới luật xác định đặc điểm giới tính của một số loại tội
phạm nhƣ Tội hiếp dâm (Điều 111 BLHS), Tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112
BLHS), Tội cƣỡng dâm (Điều 113). Tuy nhiên, dấu hiệu đặc biệt về giới lại
không đƣợc mô tả cụ thể trong CTTP của các tội phạm này. Hiện nay đa số
các nhà khoa học đều thừa nhận rằng, do các đặc điểm riêng biệt về cấu tạo
sinh học và sinh lý mà chỉ nam giới mới có thể thực hiện đƣợc hành vi hiếp
36
dâm. Chính vì vậy nên đặc điểm về giới tính trong trƣờng hợp này có ý nghĩa
là điểm đặc biệt của chủ thể chịu TNHS của Tội hiếp dâm (Điều 111 BLHS),
Tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112 BLHS), Tội cƣỡng dâm (Điều 113).
Thứ sáu, dấu hiệu đặc biệt của chủ thể chịu TNHS liên quan đến quan
hệ gia đình, quan hệ họ hàng giữa chủ thể tội phạm và nạn nhân. Trong một
số tội phạm thuộc phần các tội phạm ngoài hai dấu hiệu về năng lực TNHS và
tuổi chịu TNHS thì còn cần dấu hiệu đặc biệt thể hiện mối quan hệ gia đình
hoặc mối quan hệ họ hàng giữa ngƣời phạm tội và nạn nhân. Tội loạn luân
(Điều 150 BLHS) đòi hỏi chủ thể phải là ngƣời có quan hệ huyết thống với
ngƣời thuận tình giao cấu với mình. Tội ngƣợc đãi hoặc hành hạ ông bà, cha
mẹ, vợ chồng, con, cháu, ngƣời có công nuôi dƣỡng (Điều 151 BLHS) đòi hỏi
chủ thể là ngƣời có quan hệ hôn nhân hoặc gia đình đối với nạn nhân. Tội từ
chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dƣỡng (Điều 151 BLHS) đòi hỏi chủ thể là
ngƣời có nghĩa vụ cấp dƣỡng đối với ngƣời mà theo luật hôn nhân và gia đình
phải có nghĩa vụ cấp dƣỡng; Tội giết con mới đẻ (Điều 94 BLHS) đòi hỏi
ngƣời phạm tội phải là mẹ đẻ của nạn nhân của tội phạm.
Thứ bẩy, các dấu hiệu chủ thể đặc biệt liên quan đến các đặc điểm xấu
về nhân thân của chủ thể chịu TNHS. Trong trƣờng hợp này chủ thể của tội
phạm ngoài việc thỏa mãn điều kiện đủ độ tuổi chịu TNHS và năng lực
TNHS thì phải thỏa mãn các dấu hiệu nhƣ đã bị xử phạt hành chính, đã bị xử
lý kỷ luật, đã bị kết án mà chƣa đƣợc xóa án tích đƣợc quy định thành dấu
hiệu định tội.
Theo quy định của phần các tội phạm BLHS thì có ba nhóm các tội
phạm có quy định dấu hiệu đặc biệt về nhân thân xấu là ngƣời phạm tội đã bị
lý xử phạt hành chính; bị kỷ luật hoặc đã bị kết án nhƣng chƣa đƣợc xóa án
tích, gồm có:
37
- Dấu hiệu đã bị xử lý hành chính hoặc xử lý kỷ luật về hành vi này
hoặc đã bị kết án về loại tội này chƣa đƣợc xóa án tích mà còn vi phạm, là dấu
hiệu định tội độc lập tại 9 điều luật gồm các Điều 125, 129, 146, 148, 233,
259, 270, 273, 274.
Chủ thể của các tội này phải là ngƣời đã bị xử lý hành chính hoặc xử lý
kỷ luật về cùng hành vi này hoặc đã bị kết án về loại tội này chƣa đƣợc xóa án
tích nay lại tiếp tục thực hiện cùng hành vi đã bị xử lý trƣớc đó thì sẽ bị truy
cứu TNHS. Ví dụ nhƣ tội Xâm phạm bí mật hoặc an toàn thƣ tín, điện thoại,
điện tín của ngƣời khác (Điều 125 BLHS) quy định: “Người nào chiếm đoạt
thư, điện báo, telex, fax hoặc các văn bản khác được truyền đưa bằng phương
tiện viễn thông và máy tính hoặc có hành vi trái pháp luật xâm phạm bí mật
hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác đã bị xử lý kỷ luật
hoặc xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì...”
- Đặc điểm xấu về nhân thân là dấu hiệu bổ sung cho dấu hiệu hậu quả,
bổ sung cho dấu hiệu hành vi khi dấu hiệu hậu quả chƣa đạt mức độ mà điều
luật quy định. Ví dụ: Tội Trộm cắp tài sản (Điều 138) quy định ngƣời thực
hiện hành vi trộm cắp tài sản có giá trị từ 2.000.000 đồng là chủ thể của Tội
trộm cắp tài sản (Điều 138); trƣờng hợp trộm cắp tài sản dƣới 2.000.000 đồng
nhƣng thuộc trƣờng hợp gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành
chính về hành vi chiếm đoạt; hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chƣa
đƣợc xoá án tích mà còn vi phạm vẫn bị xử lý hình sự về hành vi trộm cắp.
- Đặc điểm về nhân thân là dấu hiệu tƣơng đƣơng có thể thay thế cho
dấu hiệu hậu quả. Đặc trƣng của những tội phạm có chủ thể đặc biệt này là
bên cạnh cấu thành tội phạm cơ bản là hành vi phạm tội đƣợc thực hiện gây
hậu quả nghiêm trọng, trƣờng hợp không gây hậu quả nghiêm trọng mà chủ
thể của tội phạm có đặc điểm xấu về nhân thân thì mới bị truy cứu TNHS.
38
Ví dụ, tội sử dụng trái phép tài sản quy định: ngƣời nào vì vụ lợi mà sử
dụng trái phép tài sản của ngƣời khác có giá trị từ 50.000.000 đồng trở lên
gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc
đã bị kết án về tội này mà chƣa đƣợc xóa án tích. Theo quy định này thì đặc
điểm xấu về nhân thân có thể thay cho dấu hiệu “gây hậu quả nghiêm trọng”
trong trƣờng hợp chủ thể của tội phạm đã sử dụng trái phép tài sản có giá trị
từ 50.000.000 đồng của ngƣời khác.
Việc BLHS quy định đặc điểm xấu về nhân thân của chủ thể tội phạm
là căn cứ định tội trong một số tội phạm hiện có quan điểm không đồng tình
vì cho rằng đặc điểm xấu về nhân thân chỉ nên quy định là dấu hiệu định
khung hình phạt tăng nặng hoặc tình tiết tăng nặng TNHS. Theo quan điểm
này thì việc BLHS quy định đặc điểm đã bị xử phạt hành chính; đã bị xử lý kỷ
luật; đã bị kết án là dấu hiệu định tội của nhiều tội phạm cụ thể là không
đúng, trái với nguyên tắc của luật hình sự [33, tr. 62,63].
39
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2
Trong Chƣơng II “Thực tiễn quy định về chủ thể chịu TNHS trong
BLHS Việt Nam hiện hành”, tác giả đã phân tích, đánh giá những quy định
của BLHS Việt Nam về chủ thể chịu TNHS. BLHS hiện hành quy định chủ
thể chịu TNHS là cá nhân có năng lực TNHS và đạt độ tuổi luật định. BLHS
Việt Nam tuy không quy định thế nào là năng lực TNHS nhƣng có quy định
về tuổi chịu TNHS là ngƣời từ đủ 14 tuổi (Điều 12) và về tình trạng không có
năng lực TNHS tại Điều 13. Căn cứ vào hai điều luật này, chúng ta xác định
những trƣờng hợp đủ tuổi chịu TNHS và không thuộc trƣờng hợp tại Điều 13
BLHS là những ngƣời có năng lực TNHS. Khi chủ thể của tội phạm hình sự
thực hiện các hành vi nguy hiểm cho xã hội, ngƣời phạm tội có những dấu
hiệu có tính chất đặc trƣng cho loại tội phạm cụ thể thì ngƣời đó sẽ phải chịu
chịu TNHS hay nói cách khác họ là chủ thể chịu TNHS.
Bên cạnh hai dấu hiệu cơ bản là năng lực TNHS và tuổi chịu TNHS,
BLHS Việt Nam có những quy định cụ thể về chủ thể đặc biệt, đó là những
ngƣời thỏa mãn những dấu hiệu luật định khi thực hiện các hành vi nguy hiểm
cho xã hội, bởi chỉ những ngƣời có đủ các dấu hiệu đặc trƣng đó mới có điều
kiện thực hiện hành vi phạm tội.
40
Chương 3
THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH VỀ CHỦ THỂ CHỊU TRÁCH
NHIỆM HÌNH SỰ VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT, NÂNG
CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG NHỮNG QUY ĐỊNH NÀY
3.1. Thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về chủ thể
chịu trách nhiệm hình sự
3.1.1. Thực tiễn áp dụng quy định về tình trạng không có năng lực chịu TNHS
Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành thì chỉ cá nhân
mới là chủ thể chịu TNHS; tổ chức, pháp nhân không phải là chủ thể chịu
TNHS
Chủ thể của tội phạm theo quy định tại BLHS hiện hành phải là cá
nhân, là ngƣời có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đủ độ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự khi thực hiện các hành vi bị luật hình sự cấm. BLHS không
quy định về năng lực TNHS mà chỉ quy định về tuổi chịu TNHS và trƣờng
hợp không có năng lực TNHS tại Điều 13 BLHS. Điều đó đồng nghĩa với
trƣờng hợp một ngƣời khi thực hiện hành vi bị luật hình sự cấm khi đủ tuổi
chịu TNHS và không thuộc trƣờng hợp quy định tại Điều 13 BLHS thì ngƣời
đó phải chịu TNHS.
Theo quy định tại Điều 13 BLHS chỉ ngƣời nào thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội trong tình trạng họ đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh
khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi thì mới
không bị truy cứu TNHS. Tuy nhiên, để xác định tình trạng mất năng lực
nhận thức, điều khiển hành vi của một ngƣời tại thời điểm thực hiện hành vi
không phải là việc dễ dàng, bởi việc kết luận một ngƣời có hay mất năng lực
hành vi phải do Hội đồng giám định pháp y tâm thần kết luận ngƣời đó mắc
bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT

More Related Content

What's hot

Vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền con người ở giai đoạn khởi tố điều tra...
Vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền con người ở giai đoạn khởi tố điều tra...Vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền con người ở giai đoạn khởi tố điều tra...
Vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền con người ở giai đoạn khởi tố điều tra...nataliej4
 

What's hot (19)

Đề tài: Hình sự hóa trong các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Đề tài: Hình sự hóa trong các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sảnĐề tài: Hình sự hóa trong các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Đề tài: Hình sự hóa trong các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản
 
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAYLuận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
 
Thi hành án phạt tù ở Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp
Thi hành án phạt tù ở Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư phápThi hành án phạt tù ở Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp
Thi hành án phạt tù ở Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp
 
Luận văn: Bắt người trong trường hợp khẩn cấp theo pháp luật
Luận văn: Bắt người trong trường hợp khẩn cấp theo pháp luậtLuận văn: Bắt người trong trường hợp khẩn cấp theo pháp luật
Luận văn: Bắt người trong trường hợp khẩn cấp theo pháp luật
 
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt NamLuận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Áp dụng pháp luật hình sự về các tội phạm về ma túy
Luận văn: Áp dụng pháp luật hình sự về các tội phạm về ma túyLuận văn: Áp dụng pháp luật hình sự về các tội phạm về ma túy
Luận văn: Áp dụng pháp luật hình sự về các tội phạm về ma túy
 
Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận án: Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, HAY
Luận án: Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, HAYLuận án: Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, HAY
Luận án: Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Áp dụng hình phạt tại huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai, 9đ
Luận văn: Áp dụng hình phạt tại huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai, 9đLuận văn: Áp dụng hình phạt tại huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai, 9đ
Luận văn: Áp dụng hình phạt tại huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai, 9đ
 
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiLuận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền con người ở giai đoạn khởi tố điều tra...
Vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền con người ở giai đoạn khởi tố điều tra...Vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền con người ở giai đoạn khởi tố điều tra...
Vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền con người ở giai đoạn khởi tố điều tra...
 
Luận văn: Biện pháp bắt người trong pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Biện pháp bắt người trong pháp luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Biện pháp bắt người trong pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Biện pháp bắt người trong pháp luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Thi hành án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ, HOT
Luận văn: Thi hành án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ, HOTLuận văn: Thi hành án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ, HOT
Luận văn: Thi hành án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ, HOT
 
Luận văn: Cơ quan Cảnh sát điều tra trong tố tụng hình sự
Luận văn: Cơ quan Cảnh sát điều tra trong tố tụng hình sự Luận văn: Cơ quan Cảnh sát điều tra trong tố tụng hình sự
Luận văn: Cơ quan Cảnh sát điều tra trong tố tụng hình sự
 
Luận văn: Trách nhiệm của pháp nhân thương mại theo pháp luật
Luận văn: Trách nhiệm của pháp nhân thương mại theo pháp luậtLuận văn: Trách nhiệm của pháp nhân thương mại theo pháp luật
Luận văn: Trách nhiệm của pháp nhân thương mại theo pháp luật
 
Luận văn: Vấn đề lý luận thực tiễn về thi hành hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề lý luận thực tiễn về thi hành hình phạt tử hìnhLuận văn: Vấn đề lý luận thực tiễn về thi hành hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề lý luận thực tiễn về thi hành hình phạt tử hình
 

Similar to Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT

ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...
Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...
Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 

Similar to Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT (20)

Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạtĐề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
 
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự, HAYLuận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật TTHS Việt Nam
Luận văn: Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật TTHS Việt NamLuận văn: Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật TTHS Việt Nam
Luận văn: Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật TTHS Việt Nam
 
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt NamLuận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự Việt NamLuận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự Việt Nam
 
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hotluan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
 
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...
 
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAYLuận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
 
Luận văn: Tái phạm nguy hiểm theo luật hình sự tỉnh Bắc Ninh, 9đ
Luận văn: Tái phạm nguy hiểm theo luật hình sự tỉnh Bắc Ninh, 9đLuận văn: Tái phạm nguy hiểm theo luật hình sự tỉnh Bắc Ninh, 9đ
Luận văn: Tái phạm nguy hiểm theo luật hình sự tỉnh Bắc Ninh, 9đ
 
Luận văn: Định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội theo luật
Luận văn: Định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội theo luậtLuận văn: Định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội theo luật
Luận văn: Định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội theo luật
 
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sựBảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
 
Luận văn: Bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người được thi hành án
Luận văn: Bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người được thi hành ánLuận văn: Bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người được thi hành án
Luận văn: Bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người được thi hành án
 
Luận văn: Quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án
Luận văn: Quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành ánLuận văn: Quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án
Luận văn: Quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án
 
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạmĐề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
 
Trách nhiệm của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ, HOT
Trách nhiệm của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ, HOTTrách nhiệm của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ, HOT
Trách nhiệm của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ, HOT
 
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt NamLuận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
 
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAIGIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI
 
Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...
Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...
Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docDịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfNguyen Thanh Tu Collection
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanmyvh40253
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảohoanhv296
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngYhoccongdong.com
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢImyvh40253
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxNhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxhoangvubaongoc112011
 
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh choCD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh chonamc250
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxNhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
 
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh choCD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 

Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN PHÚ BIỀN MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHỦ THỂ CHỊU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN PHÚ BIỀN MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHỦ THỂ CHỊU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Lê Thị Sơn HÀ NỘI – 2015
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Lê Thị Sơn. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn!
  • 4. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT PHẦN MỞ ĐẦU............................................................................................... 1 Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHỦ THỂ CHỊU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ............................................................................................ 6 1.1. Khái niệm chủ thể chịu trách nhiệm hình sự .......................................... 6 1.2. Lịch sử quy định về chủ thể chịu trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam .................................................................................................10 1.2.1. Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trƣớc khi Bộ luật hình sự năm 1985 có hiệu lực...........................................................................10 1.2.2. Từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trƣớc khi Bộ luật hình sự năm 1999 có hiệu lực...................................................................12 1.3. Quy định của Bộ luật hình sự một số nƣớc về chủ thể chịu trách nhiệm hình sự..........................................................................................................14 1.3.1. Quy định về chủ thể chịu trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự Liên bang Nga...........................................................................................14 1.3.2. Quy định về chủ thể chịu trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa................................................................16 1.3.3. Quy định về chủ thể chịu trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Nhật Bản...............................................................................................19 1.3.4. Quy định trong về chủ thể chịu trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự Cộng hòa Liên bang Đức .............................................................20 Chƣơng 2: THỰC TIỄN QUY ĐỊNH VỀ CHỦ THỂ CHỊU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRONG BLHS VIỆT NAM HIỆN HÀNH...................................23 2.1. Các dấu hiệu chung của chủ thể chịu trách nhiệm hình sự...................23
  • 5. 2.1.1. Năng lực trách nhiệm hình sự.........................................................23 2.1.2. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự........................................................26 2.2. Dấu hiệu đặc biệt của chủ thể chịu trách nhiệm hình sự. .....................29 Chƣơng 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH VỀ CHỦ THỂ CHỊU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT, NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG NHỮNG QUY ĐỊNH NÀY ..............40 3.1. Thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về chủ thể chịu trách nhiệm hình sự..............................................................................40 3.1.1. Thực tiễn áp dụng quy định về tình trạng không có năng lực chịu TNHS ........................................................................................................40 3.1.2. Thực tiễn áp dụng quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự.......44 3.1.3 Thực tiễn áp dụng quy định về dấu hiệu đặc biệt của chủ thể chịu trách nhiệm hình sự...................................................................................50 3.2. Phƣơng hƣớng hoàn thiện quy định của BLHS về chủ thể chịu trách nhiệm hình sự...............................................................................................56 3.2.1 Vấn đề trách nhiệm hình sự của pháp nhân và loại tội pháp nhân chịu trách nhiệm hình sự:..........................................................................57 3.2.2 Các quy định về tuổi chịu TNHS:....................................................62 3.3.3 Phƣơng hƣớng hoàn thiện quy định về dấu hiệu đặc biệt của chủ thể chịu trách nhiệm hình sự...........................................................................65 3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về chủ thể chịu trách nhiệm hình sự..............................................................................67 KẾT LUẬN.....................................................................................................71 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................74
  • 6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS BLHS CQĐT Cơ quan điều tra TA Toà án TAND Toà án nhân dân TNHS Trách nhiệm hình sự VKS Viện kiểm sát VKSND Viện kiểm sát nhân dân
  • 7. 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Một trong những vấn đề quan trọng của luật hình sự là vấn đề chủ thể chịu TNHS. Xác định đúng chủ thể chịu TNHS có ý nghĩa quan trọng không chỉ trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động tố tụng, mà còn trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của ngƣời dân. Đây không chỉ là vấn đề luôn đòi hỏi các cơ quan tƣ pháp có thẩm quyền phải giải quyết trong việc điều tra, xác định tội phạm, xử lý ngƣời phạm tội mà việc giải quyết vấn đề này còn có ý nghĩa to lớn về mặt lý luận và trong thực tiễn áp dụng Luật Hình sự, trong việc phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm nói chung. BLHS năm 1999, kế thừa và phát triển BLHS năm 1985, là bƣớc phát triển mới trong quy định về chủ thể chịu TNHS trong luật hình sự nƣớc ta. Nhiều quy định liên quan đến TNHS và chủ thể chịu TNHS đã đƣợc sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn, tạo điều kiện cho các cơ quan áp dụng pháp luật đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm có hiệu quả. So với BLHS năm 1985 thì BLHS năm 1999 có nhiều điểm mới trong quy định về chủ thể chịu TNHS, đặc biệt thể hiện ở quy định về tuổi chịu TNHS. Tuy nhiên, từ khi BLHS năm 1999 có hiệu lực đến nay vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau trong nhận thức, đánh giá cả về mặt lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định về chủ thể chịu TNHS. Mặt khác, bản thân các quy định về vấn đề này trong BLHS năm 1999 đã bộc lộ những hạn chế, bất cập, đặc biệt là so với yêu cầu đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm trong giai đoạn hiện nay và việc áp dụng các quy định này cũng còn có những vƣớng mắc nhất định. Các vấn đề nổi cộm đƣợc đặt ra nhƣ: Có nên quy định pháp nhân là chủ thể chịu TNHS hay không? Có cần sửa đổi quy định về tuổi chịu
  • 8. 2 TNHS của ngƣời phạm tội theo hƣớng thấp hơn để phù hợp với trình độ dân trí ngày càng phát triển cao hay không …? Vì vậy, việc nghiên cứu một cách sâu sắc để làm sáng tỏ về mặt lý luận các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về chủ thể chịu TNHS, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định này, qua đó đƣa ra những đề xuất nhằm hoàn thiện hơn nữa các quy định về chủ thể chịu TNHS là cần thiết và có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận và thực tiễn. Từ những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ thể chịu TNHS theo luật hình sự Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Chủ thể chịu TNHS là một trong những vấn đề cơ bản quan trọng và phức tạp của luật hình sự. Cho đến nay đã có những công trình nghiên cứu của các tác giả có liên quan đến vấn đề này nhƣ: - Ở khía cạnh nghiên cứu về chủ thể chịu TNHS theo hƣớng là chủ thể của tội phạm nói chung có thể kể đến các công trình nghiên cứu nhƣ các bài viết của tác giả Hồ Sỹ Sơn: “Chủ thể của tội phạm qua so sánh pháp luật hình sự của một số nƣớc thuộc hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa”, Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật 2/2008 và “Chủ thể của tội phạm qua so sánh pháp luật một số nƣớc trên thế giới”, Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật số 3/2013. - Nghiên cứu cụ thể về các dấu hiệu của chủ thể chịu TNHS nhƣ tuổi, năng lực chịu TNHS có thể kể đến các công trình nhƣ: “Vấn đề năng lực TNHS - từ lí thuyết đến sự thể hiện trong BLHS Việt Nam” của GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa, Tạp chí luật học số 4/2014; “Thực thi công ước quyền trẻ em ở Việt Nam: Tuổi chịu trách nhiệm hình sự và chế tài đối với người chưa thành niên phạm tội”của tác giả Phạm Thị Thanh Nga, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số 8/2014. “Tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam”, của tác giả Phạm Văn Báu, Tạp chí Luật học số 10/2014.; “Năng lực
  • 9. 3 trách nhiệm hình sự nhìn từ góc độ so sánh pháp luật một số quốc gia trên thế giới”, của PGS.TS. Hồ Sĩ Sơn, Tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật số 2/2011. - Nghiên cứu về dạng chủ thể chịu TNHS là tổ chức hoặc pháp nhân trong luật hình sự thì hiện nay có tƣơng đối nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này nhƣ: “TNHS của pháp nhân: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của GS.TSKH. Lê Văn Cảm, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 3/2000; “Pháp nhân có phải là chủ thể của tội phạm không”, của PGS.TS. Phạm Hồng Hải, Tạp chí Luật học 6/1999; “Về vấn đề TNHS của pháp nhân”, của tác giả Nguyễn Công Quý, Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật 10/2010; “Các học thuyết về cơ sở TNHS của pháp nhân” của PGS.TS. Trần Văn Độ, Tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật 6/2011; “Trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong pháp luật hình sự” của PGS.TS. Trịnh Quốc Toản, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, năm 2011; “Sự cần thiết của việc quy định TNHS đối với pháp nhân ở Việt Nam hiện nay” của PGS.TS. Cao Thị Oanh, Tạp chí luật học 12/2011; “Trách nhiệm hình sự của chủ thể là tổ chức và vấn đề sửa đổi Bộ luật hình sự Việt Nam” của GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, Tạp chí Luật học, số 12/2014... Các công trình nghiên cứu khoa học trên đã đƣa ra bàn luận và giải quyết nhiều vấn đề bức xúc mà lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đặt ra. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của các công trình này cũng cho thấy, các quy định về chủ thể chịu TNHS mặc dù là một trong những nội dung cơ bản, quan trọng nhất của luật hình sự nhƣng cũng là một trong những nội dung còn nhiều vấn đề còn có nhiều quan điểm khác nhau của các nhà nghiên cứu luật học. Cho đến nay vẫn chƣa có một công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện về chủ thể chịu TNHS trong luật hình sự Việt Nam. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và các quy định về chủ thể chịu TNHS trong luật hình sự Việt Nam, đồng thời luận văn cũng nghiên cứu thực tiễn
  • 10. 4 áp dụng các quy định về chủ thể chịu TNHS trong luật hình sự Việt Nam và trên cơ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện quy định hiện hành về chủ thể chịu TNHS và các biện pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định này trong thực tiễn. - Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu một số khía cạnh cơ bản nhất về mặt lý luận và thực trạng quy định về chủ thể chịu TNHS theo quy định của BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009. Ngoài ra, đề tài còn nghiên cứu thực tiễn áp dụng quy định của BLHS hiện hành về chủ thể chịu TNHS thông qua nghiên cứu các bản án hình sự đã xét xử. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là đề xuất giải pháp hoàn thiện quy định của BLHS hiện hành về chủ thể chịu TNHS và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định này. - Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu nêu trên, các nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là: + Phân tích, làm rõ những vấn đề chung về chủ thể chịu TNHS. + Phân tích, đánh giá các quy định của BLHS hiện hành về chủ thể chịu TNHS. + Đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của BLHS hiện hành về chủ thể chịu TNHS. + Đề xuất kiến nghị hoàn thiện các quy định của BLHS hiện hành về chủ thể chịu TNHS và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định này. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận văn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể nhƣ phƣơng pháp lịch sử, phân tích, tổng hợp và so sánh.
  • 11. 5 6. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn Luận văn hoàn thành là công trình nghiên cứu có tính hệ thống và toàn diện những vấn đề lý luận và thực tiễn của các quy định về chủ thể chịu TNHS trong BLHS hiện hành, trên cơ sở đó đƣa ra giải pháp hoàn thiện các quy định này và nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực tiễn. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong thực tiễn áp dụng của các cán bộ thực tiễn, làm tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên cứu của các học gia, học viên và sinh viên chuyên ngành luật. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo luận văn gồm 3 chƣơng Chương 1: Những vấn đề chung về chủ thể chịu trách nhiệm hình sự Chương 2: Thực tiễn quy định về chủ thể chịu trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành Chương 3: Thực tiễn áp dụng quy định về chủ thể chịu trách nhiệm hình sự và giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định này
  • 12. 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHỦ THỂ CHỊU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm chủ thể chịu trách nhiệm hình sự Khái niệm chủ thể chịu TNHS là một khái niệm tƣơng đối phức tạp trong luật hình sự. Khái niệm này đƣợc quan niệm xuất phát từ khái niệm chủ thể của tội phạm. Trong khoa học pháp lý, khái niệm chủ thể của tội phạm đã đƣợc nghiên cứu tƣơng đối đầy đủ ở các khía cạnh khác nhau. Chủ thể của tội phạm đƣợc coi là một trong bốn yếu tố cấu thành tội phạm, là yếu tố không thể thiếu trong việc xác định tội phạm. Hiện nay trên thế giới quan niệm truyền thống và phổ biến cho rằng chủ thể của tội phạm hay nói cách khác là chủ thể chịu TNHS là cá nhân con ngƣời cụ thể. Tuy nhiên, bên cạnh quan điểm đó còn quan điểm khác khi cho rằng chủ thể của tội phạm hoặc chủ thể chịu TNHS không những chỉ là cá nhân mà còn có thể là tổ chức (có thể là pháp nhân hoặc loại hình tổ chức khác không phải là pháp nhân). Quan điểm thứ hai này đang ngày càng đƣợc thừa nhận rộng rãi và đƣợc thể hiện trong BLHS của nhiều quốc gia trên thế giới. Quan niệm cho rằng chủ thể chịu TNHS chỉ có thể là các cá nhân, con ngƣời cụ thể đã tồn tại rất lâu trong lịch sử của khoa học luật hình sự. Xuất phát điểm của quan niệm này là việc coi tội phạm theo nghĩa truyền thống chỉ có thể do con ngƣời cụ thể thực hiện. Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự trƣớc tiên phải là chủ thể của tội phạm. Mà theo khoa học luật hình sự thì "Chủ thể của tội phạm là ngƣời có năng lực TNHS, đạt độ tuổi luật định và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể” [11, tr122]. Nhƣ vậy, cũng nhƣ chủ thể của tội phạm, một ngƣời trở thành chủ thể chịu trách nhiệm hình sự khi thỏa mãn những điều kiện nhất định. Thông thƣờng, về cơ bản là các điều kiện nhƣ là
  • 13. 7 ngƣời thực hiện hành vi đƣợc luật hình sự quy định là tội phạm, có năng lực TNHS và đạt độ tuổi chịu TNHS. Năng lực trách nhiệm hình sự là một điều kiện của chủ thể chịu TNHS. Ngƣời cụ thể có năng lực TNHS mới có thể là chủ thể của tội phạm và mới có thể phải chịu TNHS. Năng lực TNHS là khả năng nhận thức (ý nghĩa xã hội của hành vi) và khả năng điều khiển hành vi của cá nhân khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Đó là khả năng tâm lý của con ngƣời, không phụ thuộc vào quy định của pháp luật. Điều kiện thứ hai của chủ thể chịu TNHS là đạt độ tuổi chịu TNHS. Lý luận về tuổi chịu TNHS dựa trên sự nhận thức rằng không phải tất cả mọi ngƣời đƣợc sinh ra là đã trở thành ngƣời có đủ khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi, tức là đã có năng lực TNHS. Một ngƣời từ khi đƣợc sinh ra muốn có đủ khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi phải trải qua một quá trình sinh sống nhất định phù hợp với quá trình trƣởng thành và phát triển của trạng thái cơ thể cũng nhƣ trạng thái tâm lý. Có nghĩa là phải trải qua những năm tháng nhất định và đạt độ tuổi nhất định thì con ngƣời mới có đủ năng lực TNHS. Tuổi chịu TNHS đƣợc xác định bằng một mốc thời gian nhất định, mà cá nhân đó đạt đƣợc. Từ sự phân tích về các điều kiện của chủ thể chịu TNHS là cá nhân có thể đƣa ra định nghĩa về chủ thể chịu trách nhiệm hình sự nhƣ sau: Chủ thể chịu TNHS theo là người cụ thể phải chịu những hậu quả pháp lý bất lợi do đã thực hiện hành vi phạm tội được quy định trong luật hình sự khi có năng lực TNHS và đạt độ tuổi chịu TNHS. Diễn đạt một cách khác có thể quan niệm chủ thể chịu TNHS là ngƣời cụ thể khi thỏa mãn các điều kiện nhất định. Bên cạnh quan niệm truyền thống cho rằng chủ thể chịu TNHS là cá nhân con ngƣời cụ thể là quan điểm mở rộng phạm vi chủ thể chịu TNHS khi cho rằng chủ thể chịu TNHS không chỉ là cá nhân mà còn có thể là tổ chức.
  • 14. 8 Xuất phát điểm của quan niệm này là từ việc xác định tổ chức là một thực thể độc lập, đƣợc thành lập bởi các cá nhân theo trình tự, thủ tục luật định, hoạt động của tổ chức đƣợc thực hiện bởi bộ máy vận hành là sự tập hợp của nhiều ngƣời, tổ chức chỉ theo đuổi những mục tiêu đặt ra trong văn kiện sáng lập ra nó. Tổ chức hoàn toàn có ý riêng của mình, bởi vì nó sinh ra và tồn tại bằng sự gặp gỡ với những ý chí cá nhân của các thành viên của mình. Những ngƣời theo quan điểm đồng ý thiết lập trách nhiệm hình sự của tổ chức cho rằng pháp nhân là một thực thể có thực (giống nhƣ thể nhân), có ý thức và có thể thực hiện hành vi của mình; và khi thực hiện hành vi thì nó cũng sẽ có thể có lỗi. Nhƣ vậy, tổ chức có thể tự quyết định một cách tự do và hoạt động theo những mục tiêu cụ thể của mình và độc lập với những lợi ích của các cá nhân tạo nên pháp nhân đó. Tổ chức đƣợc thành lập, hoạt động, tồn tại và phát triển bằng sự gặp gỡ giữa các ý chí cá nhân của các thành viên của mình. Tổ chức có ý thức, ý chí, mong muốn riêng của mình, đƣợc xử sự tự do và hƣởng quyền tự chủ của chủ thể có thể so sánh với quyền tự chủ của cá nhân và vì vậy, có năng lực thực hiện tội phạm một cách có lỗi và đƣơng nhiên có thể bị xử lý về hình sự. Trƣờng hợp áp dụng hình phạt đối với tổ chức thì thay cho hình phạt tử hình hoặc các hình phạt tƣớc hoặc hạn chế quyền tự do thân thể không thể áp dụng với tổ chức phạm tội, những loại hình phạt khác đƣợc xây dựng trong luật hình sự tƣơng hợp hoàn toàn với bản chất các tổ chức phạm tội với mục đích làm cho nó phải chịu hình phạt về những gì tổ chức đã gây ra. Từ những lập luận trên, quan điểm ủng hộ tổ chức có thể là chủ thể chịu TNHS đã và đang ngày càng phát triển ở các nƣớc trên thế giới. Hiện nay trên thế giới, nhiều quốc gia đã quy định trong luật hình sự tổ chức là chủ thể chịu TNHS. Việc thừa nhận tổ chức cũng là chủ thể chịu TNHS luôn đƣợc gắn với những điều kiện nhất định. Một tổ chức phải thỏa mãn các điều kiện nhất định mới có thể trở thành chủ thể chịu TNHS. Thông thƣờng là các điều kiện sau:
  • 15. 9 Thứ nhất, tổ chức phải thuộc phạm vi tổ chức là chủ thể của TNHS; Không phải tất cả các tổ chức đều có thể trở thành chủ thể chịu TNHS mà chỉ phạm vi tổ chức nhất định, có những đặc điểm nhất định mới đƣợc thừa nhận có thể là chủ thể chịu TNHS. Các quốc gia khác nhau thừa nhận phạm vi các tổ chức khác nhau có thể là chủ thể chịu TNHS. Trong khi Trung quốc xác định công ty, xí nghiệp, tổ chức, đoàn thể thuộc phạm vi tổ chức chịu TNHS [8, Điều 30] thì một loạt các quốc gia khác lại xác định phạm vi tổ chức khác trong đó có pháp nhân thuộc chủ thể chịu TNHS. Ví dụ, theo Pháp là các pháp nhân (trừ Nhà nƣớc); theo Áo là pháp nhân, các công ty hợp danh, các hiệp hội vì lợi ích kinh tế châu âu và theo Thụy Sĩ là pháp nhân theo luật tƣ, pháp nhân theo luật công, các công ty, các doanh nghiệp tƣ nhân [33, tr82] Thứ hai, tổ chức phải thuộc phạm vi chủ thể của các tội danh mà tổ chức có thể phải chịu TNHS. Các quốc gia thừa nhận TNHS của tổ chức cũng xác định phạm vi các tội danh khác nhau mà chủ thể phải chịu TNHS. Ví dụ nhƣ Trung Quốc giới hạn tổ chức chỉ phải chịu TNHS về một số tội phạm đƣợc xác định rõ trong từng điều luật. Trong khi nhiều quốc gia khác lại không giới hạn mà xác định tổ chức có thể phải chịu TNHS về mọi tội phạm. Thứ ba, tổ chức phải thỏa mãn các điều kiện chịu TNHS. Tổ chức phải chịu TNHS về các tội phạm khi có đủ các điều kiện nhất định. Các điều kiện này thƣờng là: Tội phạm đƣợc thực hiện nhân danh tổ chức và tội phạm đƣợc thực hiện vì lợi ích của tổ chức. Nhƣ vậy, tổ chức là chủ thể chịu TNHS đối với tội phạm đƣợc xác định tổ chức là chủ thể của tội phạm và đƣợc thực hiện nhân danh tổ chức, vì lợi ích của tổ chức. Từ những phân tích trên có thể rút ra định nghĩa chung về chủ thể chịu TNHS nhƣ sau: Chủ thể chịu TNHS gồm người có năng lực TNHS, đạt độ tuổi chịu TNHS hoặc tổ chức khi thỏa mãn các điều kiện luật định thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội một cách có lỗi, bị luật hình sự cấm.
  • 16. 10 1.2. Lịch sử quy định về chủ thể chịu trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam 1.2.1. Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi Bộ luật hình sự năm 1985 có hiệu lực Sau Cách mạng tháng 8/1945, cùng với việc hình thành và phát triển đất nƣớc, hệ thống pháp luật hình sự cũng đƣợc hình thành và trải qua quá trình phát triển phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc, đáp ứng yêu cầu thực tiễn cách mạng đặt ra trong từng giai đoạn lịch sử. Nguồn luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1985 chịu ảnh hƣởng sâu sắc bởi các điều kiện lịch sử của đất nƣớc trong giai đoạn này. Giai đoạn này nƣớc ta chƣa có một đạo luật hình sự thống nhất, các quy phạm pháp luật hình sự đƣợc quy định trong nhiều văn bản khác nhau nhƣng chƣa có văn bản nào quy định về khái niệm TNHS hay chủ thể chịu TNHS. Trong những giai đoạn này, vấn đề xác định chủ thể chịu TNHS đã đƣợc ghi nhận trong các văn bản của Nhà nƣớc. Điều này tạo điều kiện thuận lợi trong việc quản lý, duy trì trật tự xã hội, bảo vệ thành công của cuộc cách mạng cũng nhƣ bảo vệ chính quyền nhân dân còn non trẻ. Trong những ngày đầu mới thành lập, Nhà nƣớc Việt Nam dân chủ Cộng hoà vừa phải đối phó với thù trong giặc ngoài, vừa phải từng bƣớc xây dựng xã hội mới. Ngày 10/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 47- SL cho phép áp dụng tạm thời các luật lệ hiện hành của thực dân Pháp nếu xét thấy không trái với những mục tiêu cơ bản của Nhà nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hoà. Nhƣ vậy, giai đoạn này có đặc điểm là sự áp dụng pháp luật của đế quốc và phong kiến theo tinh thần mới. Ở Bắc kỳ vẫn áp dụng luật phong kiến là hình luật An Nam, ở Trung kỳ vẫn áp dụng Hoàng Việt hình luật, còn ở Nam kỳ thì áp dụng Hình luật Pháp tu chính, các TA đã căn cứ vào chính sách của Đảng và Chính phủ để xét xử. Việc áp dụng pháp luật của ba miền khác
  • 17. 11 nhau nên dẫn đến nhiều bất cập trong xử lý tội phạm. Chính vì vậy, ngày 30/6/1955, Bộ trƣởng Bộ tƣ pháp đã ban hành Thông tƣ số 19 yêu cầu Tòa án không nên áp dụng luật lệ của đế quốc và phong kiến. Nhƣng phải đến năm 1959 thì Tòa án nhân dân tối cao mới ban hành đƣợc Chỉ thị số 772 về vấn đề đình chỉ áp dụng pháp luật của đế quốc và phong kiến, từng bƣớc ban hành và áp dụng văn bản pháp luật mới. Trong quá trình đó, Nhà nƣớc ta đã ban hành một số văn bản pháp luật hình sự nhƣ: Sắc lệnh 13/SL do Bộ trƣởng Bộ tƣ pháp ký ngày 14/1/1946 về tổ chức và ngạch thẩm phán của nƣớc ta, Sắc lệnh số 223 ngày 27/1/1946 về “Truy tố các tội hối lộ, phù lạm, biển thủ công quỹ”, Sắc lệnh số 163 ngày 14/4/1948 “Về trừng trị tội đánh bạc”, Sắc lệnh số 180 ngày 20/12/1950 “Về trừng trị các hành vi xâm phạm hệ thống tiền tệ”, Sắc lệnh số 133 ngày 20/11/1953 “Về trừng trị những tội phạm đến an toàn nhà nƣớc, đối nội và đối ngoại”... phục vụ cho việc quản lý và đấu tranh phòng, chống tội phạm. Ngoài ra, từ trƣớc những năm 1960 đến trƣớc khi ban hành BLHS năm 1985, Nhà nƣớc ta đã ban hành một số văn bản pháp luật hình sự nhằm đấu tranh, trấn áp tội phạm. Ví dụ nhƣ Pháp lệnh ngày 30/7/1967 Về trừng trị các tội phản cách mạng, Pháp lệnh ngày 20/5/1981 Về trừng trị tội hối lộ, Pháp lệnh ngày 30/6/1982 về trừng trị các tội đầu cơ, làm hàng giả và kinh doanh trái phép... Qua các kỳ hội nghị tổng kết hàng năm và qua các văn bản hƣớng dẫn, Tòa án nhân dân tối cao đã hƣớng dẫn xác định độ tuổi của ngƣời phải chịu TNHS nhƣ sau: - Về nguyên tắc, từ 14 tuổi tròn trở lên coi là có TNHS; - Nói chung đối với lứa tuổi từ 14 đến 16 thì chỉ nên truy tố, xét xử trong những trƣờng hợp phạm các tội nghiêm trọng nhƣ giết ngƣời, cƣớp của, hiếp dâm... Riêng hiếp dâm nói chung vẫn chủ yếu là giáo dục và cũng chỉ nên truy tố, xét xử trong trƣờng hợp nghiêm trọng;
  • 18. 12 - Đối với lứa tuổi từ 16 đến 18, nếu hành vi phạm pháp có tính chất tƣơng đối nghiêm trọng, nói chung cần xét xử, nhƣng so với ngƣời lớn, cần xét xử nhẹ hơn [35, tr 13,14]. Nhƣ vậy, trong thời kỳ này một nội dung quan trọng của chủ thể chịu TNHS là tuổi chịu TNHS chƣa đƣợc quy định chính thức trong một văn bản luật hình sự mà đƣợc hƣớng dẫn xác định trong một văn bản hƣớng dẫn xét xử của TANHTC. Tuy nhiên, các nội dung hƣớng dẫn này đã tạo nền móng cho các quy định sau này về tuổi chịu TNHS trong BLHS năm 1985. 1.2.2. Từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước khi Bộ luật hình sự năm 1999 có hiệu lực BLHS năm 1985 đã kế thừa và phát triển những thành tựu của luật hình sự nƣớc ta từ năm 1945 đến thời điểm ban hành, đây là sự tổng kết những kinh nghiệm lập pháp, tổng kết những tri thức lý luận của khoa học luật hình sự, đồng thời là sự tổng kết kinh nghiệm đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm ở nƣớc ta trong nhiều năm qua. Trong suốt quá trình áp dụng, BLHS năm 1985 đã qua bốn lần sửa đổi, bổ sung vào các năm 1989, 1991, 1992, 1997. Nhìn chung, BLHS năm 1985 có sự xắp xếp các phần chung và phần các tội phạm một cách chặt chẽ, logic. Nhiều khái niệm và chế định lần đầu tiên đƣợc quy định cụ thể trong BLHS, trong đó có “Khái niệm tội phạm”; “khái niệm hình phạt”; “Cơ sở của TNHS”; “Tình trạng không có năng lực TNHS”; “Tuổi chịu TNHS”... Cơ sở của TNHS đƣợc quy định tại Điều 2 nhƣ sau: “Chỉ người nào phạm một tội đã được Luật hình sự quy định mới phải chịu TNHS. Hình phạt phải do TA quyết định”. Trách nhiệm phải chịu hậu quả pháp lý bất lợi của ngƣời phạm tội có thể đƣợc thể hiện thông qua hình phạt do Tòa án tuyên. Về độ tuổi chịu TNHS, Điều 58 quy định: “1- Người từ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải TNHS về những tội phạm nghiêm trọng do cố ý. 2- Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm”.
  • 19. 13 Về tội phạm nghiêm trọng, khoản 2 Điều 8 có quy định: “2- Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên năm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Những tội phạm khác là tội phạm ít nghiêm trọng”. Nhƣ vậy, BLHS năm 1985 mới chỉ phân loại thành 2 loại tội phạm là tội phạm nghiêm trọng và tội phạm ít nghiêm trọng. Nhƣ vậy, BLHS năm 1985 đã xác định hai mức độ tuổi chịu TNHS là ngƣời từ đủ 14 đến dƣới 16 tuổi phải chịu TNHS về những tội phạm nghiêm trọng do cố ý, tức là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên năm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Do đó, đối với những trƣờng hợp phạm tội ít nghiêm trọng và hoặc tội nghiêm trọng do vô ý thì không phải chịu TNHS. So sánh với BLHS hiện hành thấy rằng BLHS 1985 quy định tƣơng đối khác so với BLHS năm 1999 bởi lẽ, cách phân loại tội phạm trong BLHS năm 1985 là chỉ phân loại thành hai loại tội phạm là ít nghiêm trọng và nghiêm trọng, còn BLHS năm 1999 thì chia tội phạm thành bốn loại là ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Thứ hai, độ tuổi chịu TNHS đối với mọi loại tội phạm là từ đủ 16 tuổi trở lên. Về cơ bản BLHS năm 1999 vẫn giữ nguyên quy định là ngƣời từ đủ 16 tuổi phải chịu TNHS đối với mọi tội phạm. Về năng lực TNHS, BLHS năm 1985 chƣa có điều luật nào quy định rõ vấn đề này mà chỉ có quy định về tình trạng không có năng lực TNHS tại Điều 12: “1- Người thực hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu TNHS. Đối với người này sẽ áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh. 2- Người phạm tội trong khi có năng lực TNHS, nhưng đã lâm vào tình trạng nói ở khoản 1 Điều này trước khi bị kết án, thì cũng được áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh. Sau khi khỏi bệnh người đó có thể phải chịu TNHS.
  • 20. 14 3- Người phạm tội do say rượu hoặc do dùng chất kích thích mạnh khác thì không được miễn TNHS”. Nhƣ vậy, BLHS năm 1985 cũng nhƣ BLHS năm 1999 chƣa có điều luật cụ thể quy định về tình trạng có năng lực trách nhiệm hình sự mà chỉ quy định về tình trạng không có năng lực TNHS trong các điều kiện của chủ thể chịu TNHS. BLHS năm 1999 về cơ bản đã giữ nguyên quy định về tình trạng không có năng lực TNHS trong Điều 12 BLHS năm 1985. Tuy có thay đổi một số câu chữ trong điều luật nhƣng nội dung cơ bản vẫn đƣợc giữ nguyên. Theo Điều 12 BLHS năm 1985 thì ngƣời không có năng lực trách nhiệm hình sự khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội là ngƣời đang mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình. Điều này này có nghĩa là về y học họ đang trong tình trạng mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi, còn về mặt tâm lý – pháp lý họ bị mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, tức là họ không nhận thức đƣợc mặt thực tế và cả mặt pháp lý của hành vi do mình thực hiện. Những trƣờng hợp này không phải chịu TNHS mà chỉ phải bị áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh. Nhƣ vậy, điều luật quy định tình trạng không có năng lực TNHS là tình trạng mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi do đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác. 1.3. Quy định của Bộ luật hình sự một số nước về chủ thể chịu trách nhiệm hình sự 1.3.1. Quy định về chủ thể chịu trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự Liên bang Nga Theo quy định tại Điều 14 BLHS Liên bang Nga thì tội phạm là hành vi có lỗi gây nguy hiểm cho xã hội, bị cấm bởi BLHS này và phải chịu hình phạt. BLHS của Liên bang Nga cũng phân loại tội phạm thành tội phạm ít
  • 21. 15 nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Về chủ thể chịu TNHS, BLHS Liên bang Nga dành hẳn một chƣơng (Chƣơng 4) quy định về những ngƣời phải chịu TNHS. Điều 19 của chƣơng này quy định chỉ cá nhân có năng lực TNHS và đạt độ tuổi theo quy định thì mới phải chịu TNHS. BLHS Việt Nam và BLHS Liên bang Nga có chung quy định về chủ thể chịu TNHS chỉ là cá nhân ngƣời phạm tội. Các điều kiện của chủ thể chịu TNHS theo BLHS Liên bang Nga cũng tƣơng tự nhƣ quy định trong BLHS Việt Nam ở chỗ, chủ thể chịu TNHS phải đạt đủ hai điều kiện về năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS. Về năng lực TNHS: Theo quy định tại Điều 21 BLHS Liên bang Nga thì một ngƣời không có năng lực TNHS vào đúng thời điểm thực hiện tội phạm thì không phải chịu TNHS. Để không phải chịu TNHS thì ngƣời đó phải không thể nhận thức đƣợc tính chất thực tế và mức độ nguy hiểm do hành vi của mình gây ra hoặc không thể điều khiển hành vi của mình do tâm thần kinh niên, rối loạn thần kinh tạm thời, thiểu năng hoặc mắc một bệnh khác về thần kinh. Mặc dù ngƣời không có năng lực TNHS không phải chịu TNHS khi thực hiện hành vi phạm tội, nhƣng ngƣời đó vẫn phải chịu áp dụng các biện pháp y tế bắt buộc quy định trong Bộ luật này và do Toà án chỉ định. BLHS Liên bang Nga cũng quy định các trƣờng hợp ngƣời có năng lực TNHS bị rối loạn thần kinh và ngƣời có năng lực TNHS đang trong tình trạng say đều phải chịu TNHS khi thực hiện hành vi phạm tội. Về độ tuổi: Ngƣời phạm tội phải là ngƣời đạt đến độ tuổi nhất định thì mới phải chịu TNHS. Cụ thể đƣợc quy định tại Điều 20 nhƣ sau: “1. Ngƣời đủ 16 tuổi trƣớc thời điểm thực hiện tội phạm phải chịu trách nhiệm hình sự.
  • 22. 16 2. Những ngƣời đủ 14 tuổi trƣớc thời điểm thực hiện tội phạm phải chịu trách nhiệm hình sự do thực hiện các tội sau: Tội giết ngƣời (Điều 105), tội cố ý gây thƣơng tích rất nặng cho sức khỏe ngƣời khác (Điều 111); .. tội cƣỡng dâm (Điều 132); .. tội cƣớp (Điều 161), tội cƣớp giật (Điều 162); .. tội khủng bố (Điều 205) .. tội chiếm đoạt hoặc cƣỡng đoạt các chất ma tuý và hƣớng thần (Điều 229) ...”[5, Điều 20] Ngoài ra, BLHS Liên bang Nga cũng còn quy định trƣờng hợp ngƣời chƣa thành niên trong độ tuổi nêu trên nhƣng do thần kinh chậm phát triển mà không liên quan tới bệnh tâm thần vào đúng thời điểm thực hiện tội phạm không thể nhận thức đầy đủ tính chất thực tế và mức độ nguy hiểm do hành vi gây ra hoặc không điều khiển đƣợc hành vi của mình thì không phải chịu TNHS (Khoản 3 Điều 20). Nhƣ vậy, luật hình sự của Liên bang Nga có những quy định cụ thể về điều kiện chung của chủ thể chịu TNHS và các trƣờng hợp không phải chịu TNHS do không có năng lực TNHS và do thần kinh chậm phát triển tuy đạt độ tuổi luật định khi thực hiện hành vi phạm tội. Về mặt kỹ thuật lập pháp và về nội dung quy định BLHS Việt Nam có những điểm tƣơng đồng so với BLHS Liên bang Nga. Tuy nhiên cũng có một số vấn đề khác biệt nhƣ: BLHS Nga đã có xác định cụ thể những tội danh mà ngƣời từ đủ 14 đến dƣới 16 phải chịu TNHS trong điều 20 của BLHS. Mà không giống nhƣ BLHS Việt Nam xác định TNHS của những ngƣời từ đủ 14 tuổi đến dƣới 16 tuổi theo loại tội phạm và theo lỗi của ngƣời phạm tội. Cách xác định của mỗi quốc gia cũng có những ƣu điểm và nhƣợc điểm nhất định. 1.3.2. Quy định về chủ thể chịu trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Bộ luật hình sự Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là một trong số BLHS có quy định về TNHS của tổ chức.
  • 23. 17 Theo quy định của BLHS Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thì cơ sở của TNHS đƣợc quy định tại Điều 3 nhƣ sau: “Chỉ những hành vi nào mà pháp luật quy định rõ là hành vi phạm tội thì mới bị kết án và xử phạt; còn những hành vi nào mà pháp luật không quy định rõ là hành vi phạm tội thì không bị kết án hoặc xử phạt” [8, Điều 3]. Nhƣ vậy, cũng nhƣ BLHS Việt Nam cơ sở của TNHS chính là việc thực hiện hành vi mà pháp luật quy định là tội phạm. Chủ thể chịu TNHS theo BLHS Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đƣợc chia thành hai loại chủ thể: Chủ thể chịu TNHS là cá nhân và chủ thể chịu TNHS là tổ chức. Về chủ thể chịu TNHS là cá nhân, về cơ bản BLHS Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa BLHS Việt Nam đều quy định hai điều kiện để một ngƣời phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội đã thực hiện là có năng lực TNHS và đạt độ tuổi luật định. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự đƣợc quy định tại Điều 17 BLHS Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa nhƣ sau: “Người đủ 16 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự. Người từ đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 16 tuổi thì phải chịu TNHS về tội giết người hoặc cố ý gây thương tích dẫn đến thương tích nặng hoặc chết người, hiếp dâm, cướp giật, mua bán chất ma túy, đốt nhà, đặt bom, đầu độc.”[8, Điều 17] Về năng lực trách nhiệm hình sự: Điều 18 BLHS Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quy định nhƣ sau: “Người mắc bệnh tâm thần gây hậu quả nguy hiểm trong khi mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, sau khi được xác nhận thông qua các thủ tục pháp lý thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Nhưng người nhà hoặc người bảo lãnh có nghĩa vụ phải tăng cường giám sát
  • 24. 18 nghiêm ngặt và chữa bệnh cho họ. Trong trường hợp cần thiết chính quyền có thể cưỡng chế chữa bệnh. Người mắc bệnh tâm thần gián đoạn mà phạm tội khi thần kinh đang bình thường thì phải chịu trách nhiệm hình sự. Người mắc bệnh tâm thần phạm tội vào thời điểm chưa hoàn toàn mất hết khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi của mình phải chịu trách nhiệm hình sự nhưng có thể được giảm nhẹ hình phạt. Người phạm tội do say rượu phải chịu trách nhiệm hình sự.” Nhƣ vậy, cũng tƣơng tự nhƣ BLHS Việt Nam, thì BLHS Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cũng xác định ngƣời gây hậu quả nguy hiểm trong tình trạng mắc bệnh tâm thần mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình thì không phải chịu TNHS và những trƣờng hợp này nếu cần thiết có thể bắt buộc chữa bệnh. Về chủ thể chịu TNHS là tổ chức thì Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là một trong số các quốc gia có quy định về TNHS của tổ chức. Theo Điều 30 BLHS Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thì: “Công ty, xí nghiệp, cơ quan, tổ chức, đoàn thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, pháp luật coi là đơn vị phạm tội và phải chịu trách nhiệm hình sự” [8, Điều 18]. Nhƣ vậy, chủ thể là tổ chức phải chịu TNHS không chỉ dừng lại ở các chủ thể là các tổ chức kinh tế nhƣ một số quốc gia khác mà BLHS Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa xác định cả những cơ quan, tổ chức, đoàn thể cũng có thể phải chịu TNHS nếu thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Cách xác định phạm vi nhƣ vậy là tƣơng đối rộng bởi lẽ phần đông các quốc gia khác đều loại trừ cơ quan, tổ chức nhà nƣớc ra khỏi phạm vi tổ chức phải chịu TNHS [36, tr20]. Cũng theo Điều 30 BLHS của nƣớc Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thì các tổ chức nêu trên chỉ phải chịu TNHS về những tội phạm đƣợc xác định rõ trong từng điều luật. Các tội phạm này chủ yếu tập trung vào
  • 25. 19 các tội phạm của chƣơng III BLHS “Các tội xâm phạm trật tự kinh tế thị trƣờng xã hội chủ nghĩa” 1.3.3. Quy định về chủ thể chịu trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Nhật Bản BLHS của Nhật Bản không quy định rõ về TNHS hay chủ thể chịu TNHS trong một điều luật cụ thể. Nhƣng có quy định về trƣờng hợp mất năng lực nhận thức và giảm năng lực nhận thức tại Điều 39, quy định về độ tuổi chịu TNHS tại Điều 41. Quy định về mất năng lực nhận thức và giảm năng lực nhận thức trong BLHS của Nhật Bản có sự khác biệt so với quy định về trƣờng hợp mất khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi trong BLHS Việt Nam. Điều 39 BLHS Nhật Bản quy định “1. Không xử phạt hành vi của người mất năng lực nhận thức. 2. Giảm nhẹ hình phạt đối với hành vi của người giảm năng lực nhận thức”. Nhƣ vậy, điều luật quy định về trƣờng hợp giảm nhẹ hình phạt, cùng với đó là giảm nhẹ TNHS cho ngƣời thực hiện hành vi phạm tội. Cũng tƣơng tự nhƣ BLHS của Việt Nam và của một số quốc gia khác, BLHS Nhật Bản không xác định rõ ràng thế nào là tình trạng có năng lực trách nhiệm hình sự mà chỉ xác định không xử phạt đối với ngƣời mất năng lực nhận thức, tức không đặt ra vấn đề TNHS đối với những ngƣời bị mất năng lực nhận thức. Tuy nhiên, BLHS Nhật Bản lại không có quy định cụ thể thế nào là ngƣời bị mất năng lực nhận thức nhƣ trong BLHS của Việt Nam và Liên bang Nga. Về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, Điều 41 BLHS Nhật bản quy định: “Không xử phạt hành vi của người chưa đủ 14 tuổi”. Nhƣ vậy, tuổi chịu TNHS theo quy định của BLHS Nhật Bản là từ 14 tuổi trở lên. Cũng tƣơng tự nhƣ BLHS một số quốc gia khác trên thế giới, BLHS chỉ xác định một mức
  • 26. 20 độ tuổi chịu TNHS là từ đủ 14 tuổi trở lên mà không chia thành hai nhóm độ tuổi nhƣ BLHS Việt Nam. Ngoài quy định chủ thể chịu TNHS là cá nhân thì Nhật Bản còn là một quốc gia châu Á nhƣng đã có sự gặp gỡ và tiếp thu pháp luật Phƣơng Tây trong việc quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với một số tội phạm nhất định. Vào những năm 60-70 của thế kỷ XX dƣ luận Nhật Bản kịch liệt phản đối sự đầu tƣ lớn và việc gây ô nhiễm môi trƣờng trầm trọng của các công ty. Pháp luật hình sự ban hành thời kỳ này có nhiều quy định về trách nhiệm hình sự của công ty và ngƣời đại diện công ty. Một ví dụ điển hình là theo Điều 142 Luật về hình phạt, tội làm ô nhiễm môi trƣờng ảnh hƣởng tới sức khỏe con ngƣời đã quy định, do lỗi cố ý hoặc vô ý mà “những công trƣờng, xí nghiệp trong quá trình hoạt động thải ra những chất (bao gồm cả những chất mà làm tổn hại đến sức khỏe con ngƣời một cách dần dần tức là tích tụ lâu ngày trên cơ thể con ngƣời) làm tổn hại đến sức khỏe con ngƣời, thì những ngƣời làm phát sinh nguy hiểm đối với sinh mệnh công chúng phạm vào điều này. Không chỉ những ngƣời trực tiếp gây ra hậu quả bị xử phạt mà ngay cả những ngƣời đại diện của pháp nhân và pháp nhân đều bị xử phạt.”[37, tr.82-84] 1.3.4. Quy định trong về chủ thể chịu trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự Cộng hòa Liên bang Đức Quy định về tuổi chịu TNHS của cá nhân ngƣời phạm tội trong BLHS Cộng hòa Liên bang Đức có sự khác biệt so với BLHS Việt Nam. Điều 19 BLHS Cộng hòa Liên bang Đức quy định về không có năng lực lỗi ở trẻ em nhƣ sau: “Người không có năng lực lỗi là người khi thực hiện hành vi chưa đủ mười bốn tuổi”. Nhƣ vậy, về độ tuổi chịu TNHS theo quy định của BLHS Liên bang đức là từ đủ 14 tuổi trở lên. Các ngƣời hợp thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đƣợc coi là không có năng lực lỗi khi thực hiện hành vi đó
  • 27. 21 khi chƣa đủ 14 tuổi. So sánh với quy định của BLHS Việt Nam chúng ta thấy điểm khác biệt của BLHS Liên bang Đức đó là không xác định hai mức độ tuổi chịu TNHS nhƣ BLHS Việt Nam là đủ 14 tuổi đến dƣới 16 tuổi và từ đủ 16 tuổi trở lên. Về năng lực TNHS thì BLHS Liên bang Đức cũng giống nhƣ BLHS một số quốc gia khác trên thế giới trong đó có Việt Nam là không xác định thế nào là ngƣời có năng lực TNHS mà chỉ xác định ngƣời không có năng lực lỗi do các rối loạn tâm thần (tức là ngƣời không có năng lực TNHS do các bệnh liên quan đến tâm thần). Điều 20 BLHS Liên bang Đức quy định: “Người nào khi thực hiện hành vi mà không có năng lực nhận thức sự không hợp pháp của hành vi hoặc không có năng lực thực hiện hành vi theo nhận thức này do rối loạn tâm thần bệnh lý, rối loạn ý thức nặng hoặc do thiểu năng hoặc do các bất bình thường nặng khác về tâm thần thì họ thực hiện không có lỗi”. Nhƣ vậy, BLHS Liên bang Đức đã quy định ngƣời thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà trong tình trạng không có năng lực nhận thức hoặc năng lực thực hiện hành vi do rối loạn tâm thần là ngƣời không có lỗi và do đó không phải chịu TNHS.
  • 28. 22 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 Trên cơ sở những phân tích tại Chƣơng 1 Những vấn đề chung về chủ thể chịu TNHS, tác giả đã nêu và phân tích các quan điểm khác nhau liên quan đến chủ thể chịu TNHS. Đối với quan điểm thứ nhất cũng là quan điểm hiện đƣợc ghi nhận trong BLHS Việt Nam hiện hành quy định chủ thể chịu trách nhiệm hình sự là cá nhân phải chịu những hậu quả pháp lý bất lợi do đã thực hiện hành vi phạm tội đƣợc quy định trong BLHS khi có năng lực TNHS và đạt độ tuổi luật định. Quan điểm thứ hai hiện cũng là xu thế của các nƣớc trên thế giới quy định chủ thể chịu TNHS gồm cá nhân và và tổ chức khi thỏa mãn các điều kiện nhất định. Tác giả đã phân tích lịch sử phát triển các quy định về chủ thể chịu TNHS trong luật hình sự Việt Nam qua các thời kỳ, đồng thời có sự so sánh với các quy định của BLHS một số nƣớc trên thế giới với mục đích đƣa ra cái nhìn tổng quan nhất về lý luận chung các quy định liên quan đến chủ thể chịu TNHS.
  • 29. 23 Chương 2 THỰC TIỄN QUY ĐỊNH VỀ CHỦ THỂ CHỊU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRONG BLHS VIỆT NAM HIỆN HÀNH 2.1. Các dấu hiệu chung của chủ thể chịu trách nhiệm hình sự 2.1.1. Năng lực trách nhiệm hình sự Năng lực TNHS là điều kiện cần thiết để có thể xác định con ngƣời có lỗi khi họ thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Chỉ ngƣời có năng lực TNHS mới có thể trở thành chủ thể của tội phạm. “Người có năng lực TNHS là người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và có khả năng điều khiển được hành vi ấy” [11, tr122]. Nếu một ngƣời thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhƣng họ không nhận thức đƣợc hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội hoặc nhận thức đƣợc nhƣng không điều khiển đƣợc hành vi đó là ngƣời không có năng lực TNHS. Con ngƣời sinh ra không phải có ngay năng lực TNHS, năng lực TNHS là năng lực tự ý thức của từng cá nhân đƣợc hình thành trong quá trình phát triển về mặt tự nhiên và xã hội của cá nhân đó. Mỗi cá nhân sống trong xã hội đều có khả năng hình thành, phát triển ý thức và tự ý thức. Quá trình đó phải diễn ra trong một khoảng thời gian nhất định khi con ngƣời đó sống trong môi trƣờng xã hội. Ngƣời có năng lực TNHS là ngƣời khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức đƣợc tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và có khả năng kìm chế hành vi đó để lựa chọn thực hiện hành vi khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội. Do vậy, năng lực TNHS là điều kiện cần thiết để có thể xác định một ngƣời có lỗi khi họ thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Chỉ những ngƣời có năng lực TNHS mới có thể có lỗi và mới có
  • 30. 24 thể là chủ thể của tội phạm khi đã đạt độ tuổi luật định. Luật hình sự Việt Nam không quy định năng lực TNHS một cách trực tiếp mà quy định gián tiếp qua quy định tuổi chịu TNHS và quy định về tình trạng không có năng lực TNHS. Theo quy định tại Điều 13 BLHS năm 1999 thì ngƣời ở trong tình trạng không có năng lực TNHS là ngƣời thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình. Nhƣ vậy, có hai dấu hiệu để xác định tình trạng không có năng lực TNHS: Dấu hiệu y học (mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác) và dấu hiệu tâm lý (mất năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển hành vi). - Về dấu hiệu y học: Ngƣời trong tình trạng không có năng lực TNHS là ngƣời mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm rối loạn hoạt động tâm thần. Tuy nhiên, không phải những đối tƣợng nào mắc các bệnh này cũng thuộc trƣờng hợp dẫn đến bị mất năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi, ví dụ nhƣ các rối loạn phát triển về tâm lý hoặc các rối loạn hành vi và cảm xúc khởi phát ở tuổi trẻ em và thanh thiếu niên (bệnh tăng động hoặc bệnh tự kỷ) không liên quan đến việc mất hoàn toàn khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi. Chính vì vậy, việc xác định một ngƣời có bị mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi hay không cần phải có hoạt động xác định của chuyên môn y khoa trong giám định pháp y tâm thần. - Về dấu hiệu tâm lý: Ngƣời trong tình trạng không có năng lực TNHS là ngƣời đã mất năng lực hiểu biết những đòi hỏi của xã hội liên quan đến hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện, là ngƣời không có năng lực đánh giá hành vi đã thực hiện là đúng hay sai, nên làm hay không nên làm. Và nhƣ vậy, họ cũng không thể có đƣợc năng lực kiềm chế việc thực hiện hành vi
  • 31. 25 nguy hiểm cho xã hội để thực hiện xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội. Ngƣời trong tình trạng không có năng lực TNHS còn có thể là ngƣời tuy có năng lực nhận thức, tuy có khả năng đánh giá đƣợc tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình nhƣng do các xung động bệnh lý không thể kiềm chế đƣợc việc thực hiện hành vi đó. Dấu hiệu y học và dấu hiệu tâm lý có mối liên quan chặt chẽ với nhau, dấu hiệu này là tiền đề của dấu hiệu kia và ngƣợc lại. Một ngƣời vì mắc bệnh nên bị mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi và họ bị mất khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi là do họ mắc bệnh. Một ngƣời đƣợc xác định là ở trong tình trạng không có năng lực TNHS khi thỏa mãn cả hai dấu hiệu này. Điều đó có nghĩa chỉ khi nào ngƣời mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác tới mức làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình mới đƣợc coi là ngƣời ở trong tình trạng không có năng lực TNHS. Nếu bệnh của họ chƣa tới mức làm mất khả năng nhận thức tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình thì tùy từng trƣờng hợp cụ thể, họ phải chịu TNHS một phần hoặc toàn bộ. Trƣờng hợp ngƣời trong khi thực hiện hành vi phạm tội không mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi nhƣng sau khi thực hiện hành vi phạm tội họ lâm vào tình trạng này thì phải áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh cho đến khi khỏi bệnh thì họ có thể phải chịu TNHS đối với hành vi của mình. Trong trƣờng hợp ngƣời thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội khi đang ở trong tình trạng không có năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi do dùng rƣợu hoặc chất kích thích mạnh khác thì ngƣời này không đƣợc coi là ngƣời ở trong tình trạng không có năng lực TNHS và TNHS vẫn đặt ra đối với họ. Về TNHS của ngƣời trong tình trạng say do dùng rƣợu hoặc chất kích thích Điều 14 BLHS quy định: “Người phạm tội trong tình trạng say do dùng rượu hoặc chất kích thích mạnh khác, thì vẫn phải chịu TNHS”.
  • 32. 26 Luật hình sự Việt Nam cũng nhƣ nhiều nƣớc trên thế giới không loại trừ trách nhiệm cho ngƣời phạm tội do say rƣợu hoặc do dùng chất kích thích mạnh khác. Say rƣợu là một hiện tƣợng không bình thƣờng trong xã hội, là một thói xấu trong sinh hoạt, việc bắt ngƣời say rƣợu phải chịu TNHS về hành vi phạm tội do họ gây ra còn là biểu thị thái độ nghiêm khắc của xã hội đối với tệ nạn say rƣợu. Trƣớc khi dùng rƣợu hoặc chất kích thích mạnh khác thì họ là những ngƣời có năng lực TNHS và sau đó họ bị say là do họ tự đặt mình vào tình trạng đó nên họ có lỗi. 2.1.2. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự Theo lý luận về luật hình sự, con ngƣời không phải bẩm sinh đã có năng lực TNHS. Năng lực TNHS là năng lực của tự ý thức đƣợc hình thành trong quá trình phát triển của cá thể về mặt tự nhiên và xã hội. Ở mỗi con ngƣời bình thƣờng đều có khả năng hình thành và phát triển ý thức và tự ý thức. Nhƣng phải trải qua quá trình hoạt động và giáo dục trong điều kiện xã hội, khả năng đó mới có thể trở thành hiện thực. Nhƣ vậy, năng lực TNHS chỉ đƣợc hình thành khi con ngƣời đã đạt độ tuổi nhất định và năng lực đó sẽ tiếp tục phát triển hoàn thiện trong thời gian nhất định tiếp theo. Khi đã đạt độ tuổi đó, con ngƣời nói chung sẽ có năng lực TNHS, trừ những trƣờng hợp cá biệt – những ngƣời mà BLHS coi là trong tình trạng không có năng lực TNHS [11, tr128]. Nhƣ vậy, mối quan hệ biện chứng giữa năng lực TNHS và tuổi chịu TNHS là rất rõ ràng. Một ngƣời chỉ có năng lực TNHS khi đạt một độ tuổi nhất định, đồng thời một ngƣời đạt một độ tuổi nhất định thì chƣa chắc đã là chủ thể có đầy đủ năng lực TNHS mà phải không ở trong tình trạng không có năng lực TNHS. Luật hình sự các nƣớc dựa trên các kết quả nghiên cứu, khảo sát về tâm lý cũng nhƣ căn cứ vào chính sách hình sự của mình đã quy định tuổi bắt đầu có năng lực TNHS và tuổi có năng lực TNHS đầy đủ. Mức tuổi cụ thể của
  • 33. 27 tuổi bắt đầu có năng lực TNHS và của tuổi năng lực TNHS đầy đủ đƣợc xác định ở mỗi nƣớc và có thể ở mỗi thời gian nhất định trong mỗi nƣớc không hoàn toàn giống nhau. Tại Việt Nam, căn cứ vào điều kiện thực tế, căn cứ vào thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm, Điều 12 BLHS năm 1999 đã quy định về tuổi chịu TNHS: “1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm. 2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”. Quy định về độ tuổi chịu TNHS đã đƣợc thể hiện lần đầu tiên trong BLHS năm 1985 và đƣợc kế thừa trong BLHS năm 1999. Độ tuổi chịu TNHS là một trong các dấu hiệu quan trọng của chủ thể chịu TNHS. Theo quy định tại Điều 58 BLHS năm 1985 thì ngƣời từ 14 tuổi trở lên nhƣng chƣa đủ 16 tuổi phải chịu TNHS về những tội phạm nghiêm trọng do cố ý. Ngƣời từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng vào thực tế đã xuất hiện những điểm hạn chế. Ngày 21/12/1999, Quốc hội nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành BLHS, theo quy định tại Điều 12 BLHS về tuổi chịu TNHS thì ngƣời từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm. Ngƣời từ 14 tuổi trở nên nhƣng chƣa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu TNHS về những tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng nghiêm trọng do cố ý. Nhƣ vậy, quy định về độ tuổi chịu TNHS trong BLHS năm 1999 đã quy định cụ thể hơn về việc chịu TNHS đối với ngƣời từ độ tuổi từ 14 đến dƣới 16 tuổi, khắc phục đƣợc những hạn chế, bất cập trong điều luật về độ tuổi chịu TNHS của BLHS năm 1985. Quy định nhƣ BLHS năm 1999 là phù hợp với yêu cầu đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, phù hợp với xu hƣớng phát triển của luật hình sự trên thế giới và bảo đảm các quyền con
  • 34. 28 ngƣời cơ bản của trẻ em phạm tội... Về chính sách hình sự của Nhà nƣớc, nhƣ đã phân tích ở trên, trƣớc khi Nhà nƣớc ban hành BLHS năm 1985 đã xác định: “Nói chung, đối với trẻ em hƣ dƣới 14 tuổi thì không đƣa ra tòa án xét xử’ từ 14 tuổi đến 18 tuổi, nếu phạm pháp cần thiết phải đƣa ra xét xử thì có châm chƣớc đến tuổi đời còn non trẻ của chúng, riêng đối với loại từ 14 tuổi đến dƣới 16 tuổi, chỉ nên xét xử trong những trƣờng hợp phạm tội nghiêm trọng” [38]. Bởi vì: “Nói chung, những trẻ em dƣới 14 tuổi chƣa ý thức đầy đủ và thƣờng chịu ảnh hƣởng của môi trƣờng xung quanh và do đó không có năng lực trách nhiệm hình sự. Cá biệt có thể có trẻ em tuy dƣới 14 tuổi nhƣng do cơ thể phát triển sớm hoặc do tham gia hoạt động xã hội sớm nên đã có ý thức tƣơng đối đầy đủ về các hoạt động sai trái của mình, nhất là các hành động có tính nguy hại lớn cho xã hội. Nếu chỉ xét riêng về khía cạnh năng lực trách nhiệm hình sự thì đối với các trƣờng hợp cá biệt đó cũng có thể đặt ra vấn đề truy cứu trách nhiệm hình sự các em dƣới 14 tuổi đƣợc. Nhƣng không nên đơn thuần chỉ nhìn vấn đề này dƣới giác độ năng lực trách nhiệm hình sự mà, và là điều chủ yếu, phải nhìn cả dƣới giác độ yêu cầu của xã hội đối với nhiệm vụ giáo dục thiếu niên nữa.” [38] Tại Phần chung của BLHS năm 1999 quy định về độ tuổi chịu TNHS tại Điều 12 và về cơ bản vẫn giữ nguyên quy định về độ tuổi chịu TNHS nhƣ BLHS năm 1985. Riêng về TNHS đối với ngƣời từ đủ 14 tuổi đến dƣới 16 tuổi thì có điểm sửa đổi căn bản là thay đổi phạm vi xử lý hình sự với ngƣời chƣa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dƣới 16 tuổi về những hành vi nguy hiểm cho xã hội. Trƣớc đây, theo Điều 58 BLHS năm 1985, quy định ngƣời từ đủ 14 tuổi trở lên những chƣa đủ 16 tuổi phải chịu TNHS về những tội phạm nghiêm trọng do cố ý. Điều đó cũng có nghĩa là những ngƣời ở lứa tuổi trên không phải chịu TNHS về những tội phạm ít nghiêm trọng (kể cả cố ý và vô ý) và những tội phạm nghiêm trọng do vô ý.
  • 35. 29 Việc phân loại tội phạm, theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 8 BLHS năm 1999 thì tội phạm đƣợc phân chia thành 4 loại: tội phạm ít nghiêm trọng; tội phạm nghiêm trọng; tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Nhƣ vậy, so với BLHS năm 1985 thì BLHS năm 1999 đã mở rộng phạm vi áp dụng TNHS đối với ngƣời phạm tội ở lứa tuổi từ đủ 14 tuổi đến dƣới 16 tuổi về hình thức lỗi. Theo BLHS năm 1999 thì một ngƣời từ đủ 14 tuổi trở lên nhƣng chƣa đủ 16 tuổi thực hiện một tội phạm đặc biệt nghiêm trọng mặc dù với lỗi vô ý vẫn không đƣợc loại trừ TNHS và họ vẫn bị áp dụng hình phạt cao nhất là tới 15 năm tù (Nếu tổng hợp hình phạt thay vì 12 năm nhƣ quy định của BLHS năm 1985). Về cơ bản cách tính tuổi chịu TNHS là tính tuổi tròn. Trong trƣờng hợp có đủ điều kiện để xác định ngày, tháng, năm sinh của ngƣời đó. Việc xác định độ tuổi của ngƣời phạm tội thông thƣờng dựa trên các giấy tờ hợp pháp nhƣ giấy khai sinh, sổ hộ khẩu, giấy chứng minh nhân dân.... Khi xét xử các vụ án hình sự có bị cáo là ngƣời trong độ tuổi chƣa thành niên, Tòa án cần phải xác định đúng tuổi của họ cũng nhƣ sự phát triển về thể chất, tinh thần và mức độ nhận thức hành vi phạm tội của họ. Trong trƣờng hợp bị cáo không đƣợc khai sinh thì phải kiểm tra sổ hộ tịch, nếu không có thì tiến hành điều tra kết luận tuổi của ngƣời phạm tội theo nguyên tắc quy định trong Thông tƣ liên tịch số 01/2011/TTLT-VKSTC-TANDTC-BCA-BQP-BLĐTBXH. 2.2. Dấu hiệu đặc biệt của chủ thể chịu trách nhiệm hình sự. Chủ thể chịu TNHS phải đáp ứng đủ các dấu hiệu về đạt độ tuổi chịu TNHS và có năng lực TNHS. Đối với một số tội, chủ thể chịu TNHS không chỉ đáp ứng đủ hai dấu hiệu trên mà cần phải có một số dấu hiệu khác, vì chỉ khi có những dấu hiệu đó chủ thể mới có thể thực hiện đƣợc hành vi phạm tội và bị xử lý theo luật hình sự, những chủ thể này gọi là chủ thể đặc biệt.
  • 36. 30 Dấu hiệu nhận biết chủ thể đặc biệt thƣờng thông qua dấu hiệu về đặc điểm nhân thân nhƣ: Đặc điểm liên quan đến chức vụ, quyền hạn; đặc điểm liên quan đến nghề nghiệp, tính chất công việc; đặc điểm liên quan đến nghĩa vụ phải thực hiện; đặc điểm hạn chế về độ tuổi; đặc điểm về giới tính; đặc điểm về quan hệ gia đình, họ hàng và đặc điểm xấu về nhân thân. Các đặc điểm nêu trên khi đã đƣợc quy định trong cấu thành tội phạm thì trở thành dấu hiệu của chủ thể đặc biệt và là dấu hiệu bắt buộc, dấu hiệu định tội. Thứ nhất, dấu hiệu đặc biệt của chủ thể chịu TNHS liên quan đến chức vụ, quyền hạn. Nhƣ ở phần trên đã phân tích, dấu hiệu về năng lực TNHS và độ tuổi chịu TNHS là dấu hiệu bắt buộc phải có của chủ thể chịu TNHS. Tuy nhiên, đối với một số loại tội phạm thì ngoài hai dấu hiệu trên đòi hỏi phải có thêm các dấu hiệu khác, trong đó có nhóm tội phạm về chức vụ nói chung và các tội phạm về tham nhũng nói riêng, các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp. Đó là những tội phạm đòi hỏi chủ thể ngoài các dấu hiệu thông thƣờng của chủ thể chịu TNHS thì còn bắt buộc phải có dấu hiệu thứ ba, là ngƣời có chức vụ, quyền hạn trong lĩnh vực nhất định. Đối với các Tội phạm về chức vụ quy định trong Chƣơng XXI gồm 15 điều luật, trong đó có 12 Điều (trừ Điều 277, 289, 290) quy định chủ thể của tội phạm phải là ngƣời có chức vụ quyền hạn, đã sử dụng chức vụ quyền hạn của mình để thực hiện các hành vi phạm tội. Khái niệm ngƣời có chức vụ, quyền hạn có thể là chủ thể của tội phạm về chức vụ đƣợc đề cập chính thức lần đầu tiên trong Thông tƣ hƣớng dẫn giải thích việc vận dụng Pháp lệnh Trừng trị tội hối lộ của TAND tối cao ngày 06/8/1982. Theo đó, “Ngƣời có chức vụ, quyền hạn bao gồm những ngƣời đƣợc cơ quan Nhà nƣớc hoặc tổ chức xã hội chính thức giao đảm nhiệm một công tác thƣờng xuyên hoặc nhất thời không kể Quy chế (do bổ nhiệm, dân cử, hợp đồng, nghĩa vụ, có hƣởng lƣơng hoặc không hƣởng lƣơng) hoặc cấp
  • 37. 31 bậc nhƣ thế nào (ngƣời phụ trách hay nhân viên phục vụ) có quyền năng đối với ngƣời khác trong khi thực hiện công tác”. Trên cơ sở đó, BLHS đầu tiên của nƣớc ta ra đời (27/6/1985), khái niệm ngƣời có chức vụ, quyền hạn đƣợc đƣa ra một cách rõ ràng, đầy đủ hơn. Qua các lần sửa đổi, bổ sung không có gì thay đổi cơ bản, trong BLHS năm 1999 Điều 277 quy định: Ngƣời có chức vụ, quyền hạn “là ngƣời do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc một hình thức khác, có hƣởng lƣơng hoặc không hƣởng lƣơng, đƣợc giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ”. Theo khoản 3, Điều 1 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005, thì ngƣời có chức vụ, quyền hạn bao gồm 4 nhóm đối tƣơng sau: - Cán bộ, công chức, viên chức; - Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn - kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân; - Cán bộ lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp của Nhà nƣớc; cán bộ lãnh đạo, quản lý là ngƣời đại diện phần vốn góp của Nhà nƣớc tại doanh nghiệp; - Ngƣời đƣợc giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó. Đối với một số tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp, chủ thể của các tội phạm này phải là những ngƣời có trách nhiệm, quyền hạn trong các cơ quan tƣ pháp, họ là những ngƣời có thẩm quyền trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp do ngƣời có chức vụ quyền hạn trong hoạt động tƣ pháp thực hiện; đƣợc quy định tại 11 điều luật gồm các tội: Tội truy cứu TNHS ngƣời không có tội (Điều 293); Tội không truy cứu TNHS ngƣời có tội (Điều 294), chủ thể của hai tội phạm này chỉ bao gồm những ngƣời có thẩm quyền trong việc thực hiện hành vi tố tụng là truy cứu TNHS ngƣời phạm tội gồm ngƣời có quyền ra quyết định khởi tố bị can,
  • 38. 32 ngƣời có quyền đề nghị truy tố và ngƣời có quyền quyết định truy tố bị can trƣớc tòa án; Tội ra bản án trái pháp luật (Điều 295), chủ thể của tội này chỉ có thể là thẩm phán và hội thẩm nhân dân đã tham gia hội đồng xét xử và ra bản án trái pháp luật; Tội ra quyết định trái pháp luật (Điều 296); Tội dùng nhục hình (Điều 298), chủ thể của hai tội phạm này là ngƣời có thẩm quyền ra quyết định trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; Tội bức cung (Điều 299), chủ thể của tội phạm là ngƣời có trách nhiệm khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử; Tội làm sai lệch hồ sơ vụ án (Điều 300), chủ thể của tội phạm gồm điều tra viên, kiểm sát viên, các thành viên của hội đồng xét xử; thƣ ký tòa án, nhân viên tƣ pháp, ngƣời bào chữa, ngƣời bảo vệ quyền, lợi ích của đƣơng sự đối với những hồ sơ thuộc công việc đƣợc phân công hoặc nhận tham gia xử lý vụ án; Tội tha trái pháp luật ngƣời đang bị giam, giữ (Điều 302); Tội lợi dụng chức vụ quyền hạn giam, giữ ngƣời trái pháp luật (Điều 303) chủ thể của các tội phạm này chỉ bao gồm những ngƣời có thẩm quyền ra lệnh tha hoặc có trách nhiệm thực hiện các lệnh đó cụ thể gồm: thủ trƣởng hoặc phó thủ trƣởng cơ quan điều tra; viện trƣởng, phó viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân; chánh án, phó chánh án tòa án nhân dân; thẩm phán cấp tỉnh; giám thị trại giam…; Tội không thi hành án (Điều 305), chủ thể là ngƣời có thẩm quyền không ra quyết định thi hành án hoặc là ngƣời có trách nhiệm thi hành quyết định đó; Đối với tội thiếu trách nhiệm để ngƣời bị giam, giữ trốn (Điều 301), chủ thể của tội phạm là ngƣời có trách nhiệm trực tiếp quản lý, canh gác, dẫn giải ngƣời bị giam, giữ. Thứ hai, dấu hiệu đặc biệt liên quan đến nghề nghiệp, tính chất công việc. Trong Phần các tội phạm của BLHS có một số tội phạm thì chủ thể chịu TNHS ngoài các dấu hiệu cơ bản còn yêu cầu phải có thêm dấu hiệu đặc biệt về nghề nghiệp, tính chất công việc.
  • 39. 33 Ví dụ: Do đặc điểm riêng của phƣơng tiện hàng không đòi hỏi sự tham gia điều khiển thông qua sự phối hợp của những ngƣời đƣợc giao trách nhiệm chấp hành quy định về điều khiển phƣơng tiện hàng không. Theo quy định của Điều 216 BLHS Tội vi phạm quy định điều khiển tàu bay (Điều 216) có chủ thể đặc biệt là ngƣời chỉ huy, điều khiển tàu bay. Hƣớng dẫn tại khoản 1, 2 Điều 12 Thông tƣ liên tịch 09/2013/TTLT-BCA-BQP-BTP-VKSNDTC- TANDTC ngày 28/8/2013 hƣớng dẫn áp dụng quy định tại Chƣơng XIX của Bộ luật Hình sự về các tội xâm phạm trật tự, an toàn giao thông xác định: Người điều khiển tàu bay là thành viên tổ lái, gồm: lái chính, lái phụ và nhân viên hàng không khác phù hợp với loại tàu bay; Người chỉ huy tàu bay là thành viên tổ lái đƣợc ngƣời khai thác tàu bay chỉ định cho một chuyến bay; đối với hoạt động hàng không chung không vì mục đích thƣơng mại thì do chủ sở hữu tàu bay chỉ định. Chủ thể của tội Tội điều khiển tàu bay vi phạm các quy định về hàng không của nƣớc Cộng hòa XHCNVN (Điều 222); Tội điều khiển phƣơng tiện hàng hải vi phạm các quy định về hàng hải của nƣớc Cộng hòa XHCNVN (Điều 223) chủ thể của hai tội phạm này là ngƣời trực tiếp điều khiển hoặc các thành viên đƣợc giao nhiệm vụ điều khiển phƣơng tiện giao thông này. Thứ ba, dấu hiệu chủ thể đặc biệt liên quan đến nghĩa vụ, trách nhiệm phải thực hiện. Họ là những ngƣời có đủ điều kiện hoặc dấu hiệu nhất định mà pháp luật hình sự yêu cầu phải thực hiện nghĩa vụ nhƣng đã không thực thi nghĩa vụ đấy. Cụ thể gồm Tội không chấp hành án (Điều 304), chủ thể của tội phạm là ngƣời có nghĩa vụ phải chấp hành bản án hoặc quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhƣng họ đã không thi hành. Tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự (Điều 259) chủ thể của tội phạm này là ngƣời đủ điều kiện, tiêu chuẩn để thực hiện thực hiện nghĩa vụ quân sự và cố
  • 40. 34 tình không chấp hành các quy định này (theo Điều 12, 25 Luật nghĩa vụ quân sự năm 2015, tuổi thực hiện nghĩa vụ quân sự đối với nam giới từ 17 tuổi đến 45 tuổi; nữ từ 18 tuổi đến hết 40 tuổi không thuộc các trƣờng hợp quy định tại Điều 13. Đối tƣợng không đƣợc đăng ký nghĩa vụ quân sự và Điều 14 Đối tƣợng miễn đăng ký nghĩa vụ quân sự). Đối với Tội không chấp hành lệnh gọi quân nhân dự bị nhập ngũ (Điều 260), chủ thể của tội phạm là ngƣời có lệnh gọi nhập ngũ. Đối các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân quy định tại Chƣơng XXIII (từ Điều 315 đến Điều 340), chủ thể của các tội này phải là đối tƣợng đƣợc quy định tại Điều 315 BLHS năm 1999, cụ thể: "Quân nhân tại ngũ, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện, công dân đƣợc trƣng tập vào phục vụ trong quân đội, dân quân, tự vệ phối thuộc với quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội phạm do mình thực hiện đƣợc quy định tại Chƣơng này". Ví dụ, nhƣ tội Đào ngũ (Điều 325) là quân nhân đang thực hiện các nghĩa vụ quân sự và chế độ phục vụ trong quân đội đã rời bỏ hàng ngũ quân đội nhằm trốn tránh các nghĩa vụ phải thực hiện. Đối với nhóm tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân chủ thể của tội phạm ngoài đạt độ tuổi luật định và có năng lực TNHS còn đòi hỏi phải là quân nhân tại ngũ, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện, công dân đƣợc trƣng tập phục vụ trong quân đội, dân quân, tự vệ phối thuộc với quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu. Thứ tư, dấu hiệu đặc biệt của chủ thể về độ tuổi. Nhƣ trên đã phân tích, dấu hiệu chung của chủ thể chịu TNHS gồm đạt độ tuổi chịu TNHS và có năng lực trách nhiệm hình sự. Ngoài ra, đối với một số tội đòi hỏi chủ thể phải đạt đƣợc độ tuổi nhất định mới trở thành chủ thể của tội phạm đó. Ví dụ, chủ thể của các tội mà nạn nhân chỉ có thể là ngƣời chƣa thành niên hoặc trẻ em, đƣợc quy định phải là ngƣời đã thành niên, tức là từ đủ 18 tuổi trở lên.
  • 41. 35 Đó là tội giao cấu với trẻ em (Điều 115) và tội dâm ô với trẻ em (Điều 116). Một số tội phạm khác tuy không quy định chủ thể của tội phạm là ngƣời đã thành niên nhƣng căn cứ vào các điều kiện, dấu hiệu tội phạm thì chỉ ngƣời đã thành niên mới thực hiện đƣợc hành vi phạm tội đó, cụ thể đó gồm các tội: Tội dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp ngƣời chƣa thành niên phạm pháp (Điều 252); tội mua dâm ngƣời chƣa thành niên (Điều 256). Ngoài ra, chủ thể của tội tảo hôn (Điều 148) tuy không đƣợc mô tả cụ thể phải là ngƣời đã đủ tuổi kết hôn nhƣng vẫn phải đƣợc xác định nhƣ vậy. Trên thực tế, về chủ thể của tội tảo hôn đã từng đƣợc hƣớng dẫn mục 4.5 Thông tƣ liên tịch số 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC ngày 25-9-2001 của Bộ Tƣ pháp, Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc hƣớng dẫn áp dụng các quy định tại Chƣơng XV "Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình của BLHS năm 1999": “Chủ thể của tội tảo hôn là bất kỳ ngƣời nào có năng lực trách nhiệm hình sự đã đủ tuổi kết hôn theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình. Theo quy định tại Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì tuổi kết hôn đối với nam là từ đủ 20 tuổi trở lên, tuổi kết hôn đối với nữ là từ đủ18 tuổi trở lên.” Thứ năm, dấu hiệu đặc biệt của chủ thể liên quan đến đặc điểm về giới tính của chủ thể chịu TNHS. VD chủ thể của tội giết con mới đẻ (Điều 94) là ngƣời mẹ mới sinh con trong 7 ngày. Ngoài ra, thực tiễn áp dụng các quy định về chủ thể đặc biệt của một số tội phạm, các cơ quan tiến hành tố tụng vận dụng các văn bản dƣới luật xác định đặc điểm giới tính của một số loại tội phạm nhƣ Tội hiếp dâm (Điều 111 BLHS), Tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112 BLHS), Tội cƣỡng dâm (Điều 113). Tuy nhiên, dấu hiệu đặc biệt về giới lại không đƣợc mô tả cụ thể trong CTTP của các tội phạm này. Hiện nay đa số các nhà khoa học đều thừa nhận rằng, do các đặc điểm riêng biệt về cấu tạo sinh học và sinh lý mà chỉ nam giới mới có thể thực hiện đƣợc hành vi hiếp
  • 42. 36 dâm. Chính vì vậy nên đặc điểm về giới tính trong trƣờng hợp này có ý nghĩa là điểm đặc biệt của chủ thể chịu TNHS của Tội hiếp dâm (Điều 111 BLHS), Tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112 BLHS), Tội cƣỡng dâm (Điều 113). Thứ sáu, dấu hiệu đặc biệt của chủ thể chịu TNHS liên quan đến quan hệ gia đình, quan hệ họ hàng giữa chủ thể tội phạm và nạn nhân. Trong một số tội phạm thuộc phần các tội phạm ngoài hai dấu hiệu về năng lực TNHS và tuổi chịu TNHS thì còn cần dấu hiệu đặc biệt thể hiện mối quan hệ gia đình hoặc mối quan hệ họ hàng giữa ngƣời phạm tội và nạn nhân. Tội loạn luân (Điều 150 BLHS) đòi hỏi chủ thể phải là ngƣời có quan hệ huyết thống với ngƣời thuận tình giao cấu với mình. Tội ngƣợc đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, ngƣời có công nuôi dƣỡng (Điều 151 BLHS) đòi hỏi chủ thể là ngƣời có quan hệ hôn nhân hoặc gia đình đối với nạn nhân. Tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dƣỡng (Điều 151 BLHS) đòi hỏi chủ thể là ngƣời có nghĩa vụ cấp dƣỡng đối với ngƣời mà theo luật hôn nhân và gia đình phải có nghĩa vụ cấp dƣỡng; Tội giết con mới đẻ (Điều 94 BLHS) đòi hỏi ngƣời phạm tội phải là mẹ đẻ của nạn nhân của tội phạm. Thứ bẩy, các dấu hiệu chủ thể đặc biệt liên quan đến các đặc điểm xấu về nhân thân của chủ thể chịu TNHS. Trong trƣờng hợp này chủ thể của tội phạm ngoài việc thỏa mãn điều kiện đủ độ tuổi chịu TNHS và năng lực TNHS thì phải thỏa mãn các dấu hiệu nhƣ đã bị xử phạt hành chính, đã bị xử lý kỷ luật, đã bị kết án mà chƣa đƣợc xóa án tích đƣợc quy định thành dấu hiệu định tội. Theo quy định của phần các tội phạm BLHS thì có ba nhóm các tội phạm có quy định dấu hiệu đặc biệt về nhân thân xấu là ngƣời phạm tội đã bị lý xử phạt hành chính; bị kỷ luật hoặc đã bị kết án nhƣng chƣa đƣợc xóa án tích, gồm có:
  • 43. 37 - Dấu hiệu đã bị xử lý hành chính hoặc xử lý kỷ luật về hành vi này hoặc đã bị kết án về loại tội này chƣa đƣợc xóa án tích mà còn vi phạm, là dấu hiệu định tội độc lập tại 9 điều luật gồm các Điều 125, 129, 146, 148, 233, 259, 270, 273, 274. Chủ thể của các tội này phải là ngƣời đã bị xử lý hành chính hoặc xử lý kỷ luật về cùng hành vi này hoặc đã bị kết án về loại tội này chƣa đƣợc xóa án tích nay lại tiếp tục thực hiện cùng hành vi đã bị xử lý trƣớc đó thì sẽ bị truy cứu TNHS. Ví dụ nhƣ tội Xâm phạm bí mật hoặc an toàn thƣ tín, điện thoại, điện tín của ngƣời khác (Điều 125 BLHS) quy định: “Người nào chiếm đoạt thư, điện báo, telex, fax hoặc các văn bản khác được truyền đưa bằng phương tiện viễn thông và máy tính hoặc có hành vi trái pháp luật xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì...” - Đặc điểm xấu về nhân thân là dấu hiệu bổ sung cho dấu hiệu hậu quả, bổ sung cho dấu hiệu hành vi khi dấu hiệu hậu quả chƣa đạt mức độ mà điều luật quy định. Ví dụ: Tội Trộm cắp tài sản (Điều 138) quy định ngƣời thực hiện hành vi trộm cắp tài sản có giá trị từ 2.000.000 đồng là chủ thể của Tội trộm cắp tài sản (Điều 138); trƣờng hợp trộm cắp tài sản dƣới 2.000.000 đồng nhƣng thuộc trƣờng hợp gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt; hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chƣa đƣợc xoá án tích mà còn vi phạm vẫn bị xử lý hình sự về hành vi trộm cắp. - Đặc điểm về nhân thân là dấu hiệu tƣơng đƣơng có thể thay thế cho dấu hiệu hậu quả. Đặc trƣng của những tội phạm có chủ thể đặc biệt này là bên cạnh cấu thành tội phạm cơ bản là hành vi phạm tội đƣợc thực hiện gây hậu quả nghiêm trọng, trƣờng hợp không gây hậu quả nghiêm trọng mà chủ thể của tội phạm có đặc điểm xấu về nhân thân thì mới bị truy cứu TNHS.
  • 44. 38 Ví dụ, tội sử dụng trái phép tài sản quy định: ngƣời nào vì vụ lợi mà sử dụng trái phép tài sản của ngƣời khác có giá trị từ 50.000.000 đồng trở lên gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này mà chƣa đƣợc xóa án tích. Theo quy định này thì đặc điểm xấu về nhân thân có thể thay cho dấu hiệu “gây hậu quả nghiêm trọng” trong trƣờng hợp chủ thể của tội phạm đã sử dụng trái phép tài sản có giá trị từ 50.000.000 đồng của ngƣời khác. Việc BLHS quy định đặc điểm xấu về nhân thân của chủ thể tội phạm là căn cứ định tội trong một số tội phạm hiện có quan điểm không đồng tình vì cho rằng đặc điểm xấu về nhân thân chỉ nên quy định là dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng hoặc tình tiết tăng nặng TNHS. Theo quan điểm này thì việc BLHS quy định đặc điểm đã bị xử phạt hành chính; đã bị xử lý kỷ luật; đã bị kết án là dấu hiệu định tội của nhiều tội phạm cụ thể là không đúng, trái với nguyên tắc của luật hình sự [33, tr. 62,63].
  • 45. 39 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 Trong Chƣơng II “Thực tiễn quy định về chủ thể chịu TNHS trong BLHS Việt Nam hiện hành”, tác giả đã phân tích, đánh giá những quy định của BLHS Việt Nam về chủ thể chịu TNHS. BLHS hiện hành quy định chủ thể chịu TNHS là cá nhân có năng lực TNHS và đạt độ tuổi luật định. BLHS Việt Nam tuy không quy định thế nào là năng lực TNHS nhƣng có quy định về tuổi chịu TNHS là ngƣời từ đủ 14 tuổi (Điều 12) và về tình trạng không có năng lực TNHS tại Điều 13. Căn cứ vào hai điều luật này, chúng ta xác định những trƣờng hợp đủ tuổi chịu TNHS và không thuộc trƣờng hợp tại Điều 13 BLHS là những ngƣời có năng lực TNHS. Khi chủ thể của tội phạm hình sự thực hiện các hành vi nguy hiểm cho xã hội, ngƣời phạm tội có những dấu hiệu có tính chất đặc trƣng cho loại tội phạm cụ thể thì ngƣời đó sẽ phải chịu chịu TNHS hay nói cách khác họ là chủ thể chịu TNHS. Bên cạnh hai dấu hiệu cơ bản là năng lực TNHS và tuổi chịu TNHS, BLHS Việt Nam có những quy định cụ thể về chủ thể đặc biệt, đó là những ngƣời thỏa mãn những dấu hiệu luật định khi thực hiện các hành vi nguy hiểm cho xã hội, bởi chỉ những ngƣời có đủ các dấu hiệu đặc trƣng đó mới có điều kiện thực hiện hành vi phạm tội.
  • 46. 40 Chương 3 THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH VỀ CHỦ THỂ CHỊU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT, NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG NHỮNG QUY ĐỊNH NÀY 3.1. Thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về chủ thể chịu trách nhiệm hình sự 3.1.1. Thực tiễn áp dụng quy định về tình trạng không có năng lực chịu TNHS Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành thì chỉ cá nhân mới là chủ thể chịu TNHS; tổ chức, pháp nhân không phải là chủ thể chịu TNHS Chủ thể của tội phạm theo quy định tại BLHS hiện hành phải là cá nhân, là ngƣời có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đủ độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự khi thực hiện các hành vi bị luật hình sự cấm. BLHS không quy định về năng lực TNHS mà chỉ quy định về tuổi chịu TNHS và trƣờng hợp không có năng lực TNHS tại Điều 13 BLHS. Điều đó đồng nghĩa với trƣờng hợp một ngƣời khi thực hiện hành vi bị luật hình sự cấm khi đủ tuổi chịu TNHS và không thuộc trƣờng hợp quy định tại Điều 13 BLHS thì ngƣời đó phải chịu TNHS. Theo quy định tại Điều 13 BLHS chỉ ngƣời nào thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong tình trạng họ đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi thì mới không bị truy cứu TNHS. Tuy nhiên, để xác định tình trạng mất năng lực nhận thức, điều khiển hành vi của một ngƣời tại thời điểm thực hiện hành vi không phải là việc dễ dàng, bởi việc kết luận một ngƣời có hay mất năng lực hành vi phải do Hội đồng giám định pháp y tâm thần kết luận ngƣời đó mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả