SlideShare a Scribd company logo
1 of 126
®¹i häc quèc gia hµ néi
khoa luËt
nguyÔn thÞ thóy ngäc
ng-êi cã quyÒn lîi, nghÜa vô
liªn quan trong tè tông h×nh sù -
nh÷ng vÊn ®Ò lý luËn vµ thùc tiÔn
luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc
Hµ néi - 2008
®¹i häc quèc gia hµ néi
khoa luËt
nguyÔn thÞ thóy ngäc
ng-êi cã quyÒn lîi, nghÜa vô
liªn quan trong tè tông h×nh sù -
nh÷ng vÊn ®Ò lý luËn vµ thùc tiÔn
Chuyªn ngµnh : LuËt h×nh sù
M· sè : 60 38 40
luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc
Ng-êi h-íng dÉn khoa häc: TS. NguyÔn Ngäc ChÝ
Hµ néi - 2008
Môc lôc
Trang
Trang phô b×a
Lêi cam ®oan
Môc lôc
Danh môc c¸c b¶ng
më ®Çu 1
Ch-¬ng 1: mét sè vÊn ®Ò lý luËn vÒ ng-êi cã quyÒn
lîi, nghÜa vô liªn quan ®Õn vô ¸n trong tè
tông h×nh sù
5
1.1. Kh¸i niÖm ng-êi cã quyÒn lîi, nghÜa vô liªn quan ®Õn vô ¸n 5
1.2. C¬ së cña viÖc quy ®Þnh ng-êi cã quyÒn lîi, nghÜa vô liªn
quan ®Õn vô ¸n trong luËt tè tông h×nh sù
16
1.3. Ph©n biÖt ng-êi cã quyÒn lîi, nghÜa vô liªn quan víi nh÷ng
ng-êi tham gia tè tông kh¸c
20
1.3.1. Ph©n biÖt ng-êi cã quyÒn lîi liªn quan víi ng-êi bÞ h¹i 20
1.3.2. Ph©n biÖt ng-êi cã quyÒn lîi liªn quan víi nguyªn ®¬n d©n sù 24
1.3.3. Ph©n biÖt ng-êi cã nghÜa vô liªn quan víi bÞ ®¬n d©n sù 27
1.3.4. Ph©n biÖt ng-êi cã quyÒn lîi, nghÜa vô liªn quan víi ng-êi
lµm chøng
29
1.3.5. Ph©n biÖt ng-êi cã quyÒn lîi, nghÜa vô liªn quan víi ng-êi
®¹i diÖn hîp ph¸p cña bÞ can, bÞ c¸o
32
1.4. LÞch sö c¸c quy ®Þnh cña ph¸p luËt vÒ ng-êi cã quyÒn lîi,
nghÜa vô liªn quan ®Õn vô ¸n
34
1.5. Quy ®Þnh cña ph¸p luËt mét sè n-íc vÒ ng-êi cã quyÒn lîi,
nghÜa vô liªn quan ®Õn vô ¸n
41
1.5.1. Céng hßa nh©n d©n Trung Hoa 41
1.5.2. Liªn bang Nga 42
1.5.3. Céng hßa Liªn bang §øc 43
1.5.4. Canada 44
1.5.5. Céng hßa Ph¸p 47
Ch-¬ng 2: quyÒn vµ nghÜa vô ph¸p lý cña ng-êi cã
quyÒn lîi, nghÜa vô liªn quan ®Õn vô ¸n theo
ph¸p luËt tè tông h×nh sù ViÖt nam
50
2.1. N¨ng lùc ph¸p luËt vµ n¨ng lùc hµnh vi tè tông h×nh sù cña
ng-êi cã quyÒn lîi, nghÜa vô liªn quan
50
2.2. QuyÒn vµ nghÜa vô cña ng-êi cã quyÒn lîi, nghÜa vô liªn
quan trong tè tông h×nh sù
53
2.2.1. QuyÒn cña ng-êi cã quyÒn lîi, nghÜa vô liªn quan trong tè
tông h×nh sù
53
2.2.1.1. QuyÒn ®-a ra tµi liÖu, ®å vËt, yªu cÇu trong c¸c giai ®o¹n tè tông 53
2.2.1.2. QuyÒn tham gia phiªn tßa, ph¸t biÓu ý kiÕn, tranh luËn t¹i
phiªn tßa ®Ó b¶o vÖ quyÒn vµ lîi Ých hîp ph¸p cña m×nh
55
2.2.1.3. QuyÒn ñy quyÒn cho ng-êi kh¸c tham gia tè tông 58
2.2.1.4. QuyÒn nhê ng-êi b¶o vÖ quyÒn vµ lîi Ých hîp ph¸p cña m×nh 59
2.2.1.5. QuyÒn kh¸ng c¸o, khiÕu n¹i b¶n ¸n, quyÕt ®Þnh cña Tßa ¸n
vÒ nh÷ng vÊn ®Ò trùc tiÕp liªn quan ®Õn quyÒn lîi, nghÜa vô
cña m×nh
62
2.2.1.6. QuyÒn khiÕu n¹i quyÕt ®Þnh, hµnh vi tè tông cña c¬ quan,
ng-êi cã thÈm quyÒn tiÕn hµnh tè tông
65
2.2.1.7. QuyÒn yªu cÇu thi hµnh ¸n 67
2.2.2. NghÜa vô vµ hËu qu¶ ph¸p lý cña viÖc kh«ng thùc hiÖn ®óng
nghÜa vô cña ng-êi cã quyÒn lîi, nghÜa vô liªn quan trong tè
tông h×nh sù
68
2.2.2.1. NghÜa vô tr×nh bµy trung thùc nh÷ng t×nh tiÕt trùc tiÕp liªn
quan ®Õn quyÒn lîi, nghÜa vô cña m×nh
69
2.2.2.2. NghÜa vô cã mÆt theo giÊy triÖu tËp 72
2.2.2.3. NghÜa vô tu©n thñ néi quy phiªn tßa 75
2.2.2.4. NghÜa vô thùc hiÖn b¶n ¸n, quyÕt ®Þnh cña Tßa ¸n 77
Ch-¬ng 3: thùc tiÔn ¸p dông vµ mét sè kiÕn nghÞ 79
3.1. Thùc tiÔn ¸p dông 79
3.2. Nguyªn nh©n vµ gi¶i ph¸p kh¾c phôc 96
3.2.1. Nguyªn nh©n 96
3.2.1.1. Nguyªn nh©n kh¸ch quan 96
3.2.1.2. Nguyªn nh©n chñ quan 97
3.2.2. Gi¶i ph¸p kh¾c phôc 98
3.2.2.1. VÒ lËp ph¸p 98
3.2.2.2. VÒ ¸p dông ph¸p luËt 104
3.2.2.3. VÒ c«ng t¸c c¸n bé 105
kÕt luËn 107
danh môc tµi liÖu tham kh¶o 109
phô lôc 113
danh môc c¸c b¶ng
Sè hiÖu
b¶ng
Tªn b¶ng Trang
3.1. Tæng hîp sè vô ¸n cã ng-êi cã quyÒn lîi, nghÜa vô liªn
quan tõ n¨m 2003 - 2007 t¹i Tßa ¸n nh©n d©n tØnh Hµ T©y
79
3.2. Tæng hîp sè vô ¸n cã ng-êi cã quyÒn lîi, nghÜa vô liªn
quan cã kh¸ng c¸o hoÆc bÞ kh¸ng c¸o, kh¸ng nghÞ tõ n¨m
2003 - 2007 t¹i Tßa ¸n nh©n d©n tØnh Hµ T©y
79
3.3. Tæng hîp kÕt qu¶ xÐt xö phóc phÈm sè vô ¸n cã ng-êi cã
quyÒn lîi, nghÜa vô liªn quan cã kh¸ng c¸o hoÆc bÞ kh¸ng
c¸o, kh¸ng nghÞ tõ n¨m 2003 - 2007 t¹i Tßa ¸n nh©n d©n
tØnh Hµ T©y
80
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong giải quyết vụ án hình sự, vấn đề trọng tâm và quan trọng là xác
định trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, ở nhiều vụ án còn đặt ra vấn đề trách
nhiệm dân sự và xử lý vật chứng. Thực tế, trong tổng số các vụ án hình sự, số
lượng án đòi hỏi phải giải quyết phần dân sự và vật chứng chiếm tỷ lệ không
ít, nếu không muốn nói là tương đối nhiều. Để giải quyết vụ án triệt để, các cơ
quan tiến hành tố tụng phải đưa những người có liên quan đến các vấn đề đó
vào vụ án hình sự để xem xét và quyết định về quyền lợi hoặc nghĩa vụ của
họ. Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành cũng như các văn bản pháp luật tố tụng
hình sự từ trước đến nay quy định chưa cụ thể, rõ ràng về người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Nhiều nội dung quan trọng còn bỏ ngỏ như:
chưa quy định khái niệm, các quyền và nghĩa vụ tố tụng ghi nhận chưa đầy
đủ, chưa có văn bản hướng dẫn để làm cơ sở cho sự phân biệt người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án với một số người tham gia tố tụng khác…
Do đó các cơ quan tiến hành tố tụng gặp không ít khó khăn, vướng mắc trong
xác định tư cách tham gia tố tụng, thường xảy ra sự nhầm lẫn giữa người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan với người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân
sự, người làm chứng, người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo. Điều đó làm
ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi chính đáng của người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan đến vụ án nói riêng và những người tham gia tố tụng nói chung.
Để góp phần tháo gỡ những vướng mắc trong việc xác định tư cách
tham gia tố tụng, tránh những nhầm lẫn không nên có, giúp cho việc áp dụng
pháp luật tố tụng hình sự được đúng đắn, thống nhất, việc nghiên cứu một
cách hệ thống cả về lý luận lẫn thực tiễn về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đến vụ án trong tố tụng hình sự là đòi hỏi cần thiết trong giai đoạn cải
cách tư pháp hiện nay. Vì vậy tác giả đã chọn đề tài "Người có quyền lợi,
2
nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự - những vấn đề lý luận và thực
tiễn" với mong muốn phần nào đáp ứng yêu cầu của việc xây dựng, hoàn
thiện pháp luật tố tụng hình sự cũng như áp dụng pháp luật tố tụng hình sự
trong giải quyết các vụ án hình sự nước ta.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong khoa học luật tố tụng hình sự, có nhiều công trình nghiên cứu
đưa ra cơ sở lý luận cho từng vấn đề của tố tụng hình sự. Tuy nhiên, đến nay
chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách cụ thể, chi tiết và
có hệ thống về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Mặc dù là
đề tài hẹp, song do đòi hỏi của tính khách quan, toàn diện trong giải quyết vụ
án hình sự, xuất phát từ tình hình thực tế các cơ quan tiến hành tố tụng nhiều
trường hợp xác định không chính xác tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan mà đề tài này cần được quan tâm tìm hiểu. Là một cán bộ ngành
Tòa án làm công tác thực tiễn, tác giả nhận thấy việc nghiên cứu về người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có vai trò, ý nghĩa rất lớn, đặc biệt là trong bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng, một trong những
nhiệm vụ của giải quyết án hình sự.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài nhằm mục đích làm rõ cơ sở lý luận, nội dung
các quyền và nghĩa vụ tố tụng của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan,
các biện pháp đảm bảo xác định đúng tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan trong vụ án hình sự. Qua đây nhằm đóng góp một vài ý kiến vào
việc xây dựng chế định này trong pháp luật tố tụng hình sự hiện nay, đồng
thời nâng cao hiệu quả hoạt động bảo vệ pháp luật của các cơ quan tiến hành
tố tụng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định của pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam, thực tiễn hoạt động tố tụng hình sự của các cơ quan tư
3
pháp, đặc biệt là Tòa án trong việc xác định, giải quyết quyền, nghĩa vụ của
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.
Trên cơ sở mục đích, đối tượng nghiên cứu đã xác định phạm vi nghiên
cứu đề tài chỉ tập trung vào những vấn đề liên quan đến người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và trong hoạt
động tố tụng hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự Việt Nam.
Luận văn cũng có tìm hiểu, so sánh với pháp luật tố tụng hình sự của một số
nước trên thế giới về vấn đề này.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng và Nhà nước.
Luận văn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học như:
phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, tổng
hợp, phương pháp đàm thoại…
6. Ý nghĩa khoa học của đề tài
- Với cơ quan lập pháp: Kết quả nghiên cứu đề tài người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự sẽ giúp xác định được khái niệm,
những quyền và nghĩa vụ pháp lý của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan,
ban hành văn bản hướng dẫn các cơ quan tiến hành tố tụng. Việc xây dựng
các quy phạm pháp luật phù hợp, đầy đủ, có hệ thống sẽ là cơ sở pháp lý quan
trọng để giải quyết vụ án hình sự.
- Với cơ quan thực hiện pháp luật: Trên cơ sở sự nhận thức đúng đắn
các quy định của pháp luật về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, bằng
thực tiễn tiến hành các hoạt động tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng có thể xác
định được đầy đủ, chính xác tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
những mối quan hệ pháp luật giữa họ với những người tham gia tố tụng khác
cần được giải quyết, áp dụng đúng các quyền và nghĩa vụ pháp lý đối với họ.
Từ đó góp phần giải quyết vụ án hình sự khách quan, toàn diện, đảm bảo
4
quyền lợi hợp pháp cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cũng như các
đương sự khác.
- Với người tham gia tố tụng: Bản thân người tham gia tố tụng khi có
sự hiểu biết về pháp luật nói chung và về chế định người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan nói riêng sẽ giúp họ xác định được mình có vị trí tố tụng như thế
nào, có những quyền gì, được làm gì và làm đến đâu; có nghĩa vụ gì, thực
hiện nghĩa vụ đó ra sao. Trên cơ sở đó họ sẽ bảo vệ được quyền và lợi ích hợp
pháp của mình tốt hơn.
7. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn đi vào làm rõ những vấn đề lý luận về người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan như: khái niệm, đặc điểm, cơ sở của việc quy định người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong luật tố tụng hình sự, phân biệt người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan với một số người tham gia tố tụng khác…; phân
tích nội dung các quyền và nghĩa vụ pháp lý của người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan; tìm hiểu thực tiễn áp dụng. Trên cơ sở đó, trong luận văn đề xuất
hướng hoàn thiện chế định người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong pháp
luật tố tụng hình sự và đưa ra các biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động áp
dụng pháp luật tố tụng hình sự nhằm giải quyết vụ án hình sự khách quan,
toàn diện, bảo vệ quyền lợi chính đáng của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan cũng như những người tham gia tố tụng khác.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đến vụ án trong tố tụng hình sự.
Chương 2: Quyền và nghĩa vụ pháp lý của người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị.
5
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƢỜI CÓ QUYỀN LỢI, NGHĨA VỤ
LIÊN QUAN ĐẾN VỤ ÁN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Luật tố tụng hình nhiều nước trên thế giới không có quy định về người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, chỉ một số nước, trong đó có Việt
Nam quy định về loại người này. Việc quy định hoặc không quy định loại
người này trong tố tụng hình sự xuất phát từ đặc điểm của hệ thống pháp luật,
đặc điểm kinh tế, xã hội mỗi quốc gia. Chương này của luận văn sẽ làm rõ
những nội dung sau: khái niệm người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; cơ sở
của việc quy định người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong luật tố tụng
hình sự; phân biệt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan với một số người
tham gia tố tụng khác; lịch sử các quy định của pháp luật Việt Nam về người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; quy định của pháp luật nước ngoài về người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
1.1. KHÁI NIỆM NGƢỜI CÓ QUYỀN LỢI, NGHĨA VỤ LIÊN QUAN ĐẾN
VỤ ÁN
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quy định trong
Bộ luật tố tụng hình sự 2003, tuy nhiên điều luật về loại người này không
định nghĩa nội hàm về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, như các điều
luật khác quy định về người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên
đơn dân sự, bị đơn dân sự, người làm chứng.
Trong khoa học pháp lý có nhiều quan điểm về khái niệm người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Các giáo trình của các cơ sở đào tạo luật cũng
không có sự đồng nhất về khái niệm người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến
vụ án. Cụ thể, giáo trình Luật tố tụng hình sự của Khoa Luật - Đại học Quốc gia
Hà Nội nêu: người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là người có
quyền lợi và nghĩa vụ bị ảnh hưởng bởi các quyết định của Tòa án [20, tr. 145];
6
giáo trình Luật tố tụng hình sự của Học viện Cảnh sát nhân dân và Đại học
Luật Hà Nội thì nêu: người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là
người có quyền lợi, nghĩa vụ bị ảnh hưởng trực tiếp bởi các quyết định của cơ
quan tiến hành tố tụng [18, tr. 112], [41, tr. 134]. Chúng ta còn tìm thấy khái
niệm về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong các tài liệu tham khảo
như Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng
hình sự. Nhìn chung, các tài liệu này đều đưa ra định nghĩa về người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan như định nghĩa trong giáo trình Luật tố tụng hình sự
của khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Ngoài ra, còn có tác giả nêu: người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự là người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến việc xét xử vụ án hình sự của Tòa án và được Tòa án
chấp nhận đưa họ vào tham gia với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến vụ án hình sự [24]. Như vậy, các giáo trình cũng như các sách
báo, tài liệu tham khảo khi định nghĩa về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan có sự khác nhau ở việc xác định chủ thể có thẩm quyền ra quyết định
ảnh hưởng đến quyền lợi, nghĩa vụ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan, có khái niệm xác định là Tòa án, có khái niệm xác định là cơ quan tiến
hành tố tụng. Trong thực tế, mặc dù tư cách tham gia tố tụng cũng như quyền
và nghĩa vụ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyết định chủ
yếu trong giai đoạn xét xử, bằng bản án của Tòa án. Song về nguyên tắc,
quyền lợi, nghĩa vụ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được giải
quyết trong bất kỳ giai đoạn nào của quá trình tố tụng. Chẳng hạn, ở giai đoạn
điều tra hay giai đoạn truy tố, nếu vụ án được đình chỉ thì Cơ quan điều tra
hoặc Viện kiểm sát sẽ quyết định việc xử lý vật chứng. Theo đó quyền lợi,
nghĩa vụ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan sẽ được giải quyết. Điều
này cho thấy, ngoài Tòa án, các cơ quan tiến hành tố tụng khác cũng có thẩm
quyền ra các quyết định ảnh hưởng đến quyền lợi, nghĩa vụ của người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Mặt khác, khoản 2 Điều 54 Bộ luật tố tụng hình
sự quy định: "Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án phải có mặt
theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án" [11]. Quy
7
định này đã góp phần khẳng định tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đến vụ án có trong các giai đoạn tố tụng, từ giai đoạn điều tra, đến truy
tố, xét xử và chịu tác động của cả ba cơ quan tiến hành tố tụng gồm Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Tuy nhiên, đây chưa phải là điều quan trọng,
cái quan trọng là phải nêu rõ những nội dung, đặc điểm của người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan.
Nên chăng xây dựng khái niệm về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan trong tố tụng hình sự như sau: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
đến vụ án hình sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi hoặc nghĩa vụ về
vật chất, tinh thần do có liên quan đến tội phạm, được các cơ quan tiến hành
tố tụng công nhận và xem xét, quyết định về những vấn đề ảnh hưởng trực
tiếp đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ.
Định nghĩa này đã phần nào khắc phục được hạn chế trong tất cả các
định nghĩa mà chúng ta vừa tìm hiểu, đó là chỉ ra được nội hàm của người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; đồng thời khẳng định quan điểm của tác giả về
xác định chủ thể có thẩm quyền ra các quyết định ảnh hưởng đến quyền lợi,
nghĩa vụ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Từ định nghĩa trên thì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có
những đặc điểm sau:
Thứ nhất: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chỉ xuất hiện khi có
hành vi phạm tội. Khi hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với một
mức độ đáng kể mà Bộ luật hình sự quy định là "tội phạm", nó không chỉ làm
phát sinh trách nhiệm hình sự, một loại trách nhiệm của người phạm tội đối
với Nhà nước, thể hiện mối quan hệ bất bình đẳng; mà còn làm phát sinh
trách nhiệm dân sự, một loại trách nhiệm giữa những người tham gia tố tụng
với nhau, thể hiện mối quan hệ mang tính bình đẳng, thỏa thuận. Cụ thể đó là
mối quan hệ giữa người bị thiệt hại (người bị hại, nguyên đơn dân sự, người
có quyền lợi liên quan) với người có trách nhiệm bồi thường hoặc hoàn trả tài
8
sản (bị can, bị cáo, bị đơn dân sự, người có nghĩa vụ liên quan). Bên cạnh đó,
khi hành vi phạm tội xảy ra, do đòi hỏi của quá trình điều tra thu thập chứng
cứ, cơ quan điều tra có thể đã tiến hành thu giữ những vật chứng và tài sản có
liên quan. Khi vụ án hình sự được giải quyết, các cơ quan tiến hành tố tụng
phải quyết định xử lý vật chứng, tài sản đó nhằm đảm bảo quyền lợi cho chủ
sở hữu hợp pháp. Vấn đề trách nhiệm dân sự, vấn đề xử lý vật chứng phát
sinh đã làm xuất hiện tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ
án hình sự. Tất nhiên, không phải hành vi phạm tội nào cũng làm phát sinh
hai vấn đề này và làm xuất hiện người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham
gia tố tụng. Song nếu không có hành vi phạm tội xảy ra thì không thể có
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Vì, nếu là hành vi vi phạm
pháp luật khác (không đủ yếu tố cấu thành tội phạm) thì vấn đề bồi thường,
trả lại tài sản sẽ được giải quyết bằng ngành luật quy định về hành vi vi phạm
đó và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đối với hành vi phạm tội sẽ được
xác định tư cách tham gia tố tụng theo pháp luật tố tụng dân sự.
Thứ hai: Quyền lợi, nghĩa vụ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan phải xuất phát từ các quan hệ do hành vi phạm tội gây ra. Trong vụ án
hình sự, vì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là người bị ảnh hưởng trực
tiếp bởi các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, đặc biệt là Tòa án, do
đó việc xác định quyền lợi và nghĩa vụ của một người nào đó có liên quan đến
vụ án hay không rất quan trọng. Xác định đúng quan hệ pháp luật và đúng tư
cách chủ thể mới có thể đưa ra được quyết định đúng đắn. Thực tế có những
vấn đề không hề liên quan đến vụ án hình sự nhưng Tòa án lại vẫn giải quyết
trong vụ án hình sự và xác định tư cách tố tụng của chủ thể là người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan là không đúng. Ví dụ A bán cho B một chiếc xe máy
nhưng B chưa trả hết tiền, vẫn còn nợ A 6 triệu. B đã dùng chiếc xe đó đi
cướp giật tài sản và bị truy tố. Khi xét xử Tòa án xác định A là người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Thực chất, việc A bán cho B chiếc
xe máy và B vẫn còn nợ A một số tiền là quan hệ pháp luật dân sự về hợp
9
đồng mua bán tài sản, không có liên quan gì đến vụ án hình sự đang giải
quyết.
Tuy nhiên, bên cạnh đó lại có những quan hệ pháp luật kinh tế hay
dân sự, nếu chỉ xét về hình thức thì không thấy liên quan đến hành vi phạm
tội của bị cáo nhưng xét về nghĩa vụ lại có liên quan đến hành vi phạm tội, thì
người đã tham gia vào giao dịch dân sự hay kinh tế đó vẫn được xác định là
người có quyền lợi liên quan đến vụ án và quyền lợi của họ được giải quyết
cùng với việc giải quyết vụ án hình sự. Ví dụ: vợ chồng ông H cho T dùng
giấy tờ sở hữu nhà của mình để T thế chấp vay tiền ngân hàng. Đến hạn T
không trả được nợ và bỏ trốn, cơ quan điều tra phải ra lệnh truy nã mới bắt
được T. Viện kiểm sát truy tố T về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Trong vụ án này vợ chồng ông H cần được xác định là người có quyền lợi và
nghĩa vụ liên quan. Đó là quyền lợi về ngôi nhà và nghĩa vụ là nghĩa vụ bảo
lãnh cho T vay tiền ngân hàng [23, tr. 116].
Trên cơ sở xem xét tính liên quan đến việc thực hiện hành vi phạm tội,
chúng ta có thể xác định người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thuộc hai
dạng sau:
Dạng thứ nhất: Đó là người không tham gia vào việc thực hiện tội
phạm nhưng quyền lợi hoặc nghĩa vụ của họ có liên quan đến vụ án. Thực tế
thường xảy ra các trường hợp như:
- Người giao tài sản, phương tiện cho người khác không nhằm mục
đích thực hiện tội phạm. Khi cho mượn, cho thuê tài sản họ đã không biết, không
buộc phải biết và không thể biết được người nhận tài sản lại sử dụng vào việc
thực hiện tội phạm. Thực tế người phạm tội đã dùng tài sản đó làm công cụ,
phương tiện phạm tội nên bị cơ quan tiến hành tố tụng thu giữ. Ví dụ cho người
khác mượn xe để đi công tác nhưng người đó dùng để chở hàng lậu...
- Người là chủ sở hữu tài sản nhưng vì lý do nào đó mà tài sản của chủ
sở hữu bị lẫn vào trong số tài sản liên quan đến hành vi phạm tội nên bị cơ
10
quan tiến hành tố tụng tạm giữ. Ví dụ 1: người mang vải đến hiệu may để may
quần áo nhưng số vải đó bị thu giữ cùng với số vải của người chủ hiệu may
phạm tội. Ví dụ 2: do thấy bị phát hiện, người phạm tội đã giấu chiếc bình
gốm vừa trộm được vào cửa hàng bán đồ gốm của người khác, cơ quan tiến
hành tố tụng đã thu giữ toàn bộ số đồ gốm tại cửa hàng.
- Người được người khác cho tài sản mà không biết đó là tài sản do
phạm tội mà có. Ví dụ A cướp được chiếc đồng hồ đeo tay đem về cho anh
trai mình, nói là nhặt được.
Dạng thứ hai: Người đã tham gia trong chừng mực nhất định vào việc
thực hiện tội phạm nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc được
miễn trách nhiệm hình sự nhưng phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại
hoặc trả lại tài sản được hưởng từ việc thực hiện tội phạm. Ví dụ A, B, C rủ
nhau đi trộm cắp tài sản, tài sản trộm được là một chiếc xe đạp có giá trị
400.000 đồng (theo kết luận của Hội đồng định giá tài sản). Cả 3 đã bán chiếc
xe đó lấy tiền chia nhau tiêu xài, nhưng chỉ có A bị khởi tố về hình sự, còn B,
C không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, khi vụ án được đưa ra
xét xử, Tòa án đã xác định B, C là người có nghĩa vụ liên quan để buộc A, B,
C phải liên đới bồi thường cho người bị hại.
Thứ ba: về chủ thể, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có thể là
cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức. Chúng ta có thể thấy dưới góc độ pháp luật tố
tụng hình sự thì không có một sự khẳng định rõ ràng và chắc chắn rằng người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chỉ có thể là cá nhân hay bao gồm cả cá nhân
và cơ quan, tổ chức? Có quan điểm cho rằng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan là con người cụ thể chứ không phải là cơ quan, tổ chức. Bởi lẽ, Điều 54
Bộ luật tố tụng hình sự quy định bằng từ "người" tức là chỉ cá nhân con
người, cũng giống như người bị hại được quy định tại Điều 51, chỉ có thể là
cá nhân. Tuy nhiên, theo quan điểm của chúng tôi thì người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự có thể là cá nhân hoặc cơ quan, tổ
11
chức. Để lý giải cho điều này, chúng ta hãy xem xét dưới các khía cạnh sau:
Thứ nhất, xét về mặt nội dung thì người bị hại là người bị thiệt hại về thể
chất, tinh thần hay tài sản do tội phạm gây ra. Họ là con người cụ thể bị chính
hành vi phạm tội trực tiếp xâm phạm. Thể chất, tinh thần, tài sản của họ là đối
tượng của sự xâm phạm đó. Còn người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có
thể là người không liên quan đến hành vi phạm tội nhưng vì lý do nào đó mà
tài sản của họ bị các cơ quan tiến hành tố tụng tịch thu, kê biên nên việc giải
quyết vụ án ảnh hưởng đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ. Những thiệt hại (nếu
có) của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cũng không phải là hậu quả
được mang lại do sự xâm phạm trực tiếp của hành vi phạm tội. Thứ hai, xét
về mặt hình thức thì người bị hại cũng như bị can, bị cáo là những chủ thể chỉ
có trong tố tụng hình sự. Còn các chủ thể khác như: nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều là những người tham
gia tố tụng có trong cả tố tụng hình sự và tố tụng dân sự. Vì vậy chúng ta có
thể vận dụng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự để xác định. Khoản 1 Điều 56
Bộ luật tố tụng dân sự đã khẳng định rõ: "Đương sự trong vụ án dân sự là cá
nhân, cơ quan, tổ chức bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan" [12]. Vì vậy, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
trong tố tụng hình sự có thể là cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức. Từ "người" là
một danh từ được sử dụng để chỉ một loại chủ thể trong quan hệ tố tụng nói
chung. Có thể lấy một vài ví dụ như sau:
Ví dụ 1: A là lái xe cho công ty cổ phần Taxi. Vì mục đích tư lợi, A đã
sử dụng xe của công ty để chở hàng lậu và bị cơ quan tiến hành tố tụng tịch
thu chiếc xe đó. Trong trường hợp này, chiếc xe là tài sản thuộc sở hữu của
công ty và đã bị người phạm tội dùng làm phương tiện để thực hiện tội phạm.
Rõ ràng công ty cổ phần Taxi đó phải được xác định là người có quyền lợi
liên quan, mà cụ thể là quyền đòi trả lại tài sản.
12
Ví dụ 2: Nhà trường đã mang vải đến hiệu may để may đồng phục cho
các em học sinh. Số vải này đã bị cơ quan tiến hành tố tụng thu giữ cùng với
số vải của người chủ hiệu may phạm tội đầu cơ. Trường hợp này nhà trường
là người có quyền lợi liên quan chứ không thể là một tư cách chủ thể nào khác
khi tham gia tố tụng.
Trên thực tế đã có những vụ án hình sự mà cơ quan tiến hành tố tụng
xác định người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là cơ quan, tổ chức.
Xin đơn cử hai vụ án sau:
Vụ án thứ nhất: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 269/2002/HSST ngày
30/12/2002 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tây và bản án hình sự phúc thẩm số
823/2003/HSPT ngày 24/6/2003 của Tòa án nhân dân tối cao đều xác định
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Công ty trách nhiệm hữu hạn Vĩnh
Phúc, tỉnh Vĩnh Phúc. Nội dung vụ án và kết quả giải quyết như sau:
Nguyễn Văn Khải không có giấy phép lái xe môtô phân khối lớn,
nhưng đã điều khiển xe môtô loại 70 phân khối chở vợ và con đi trên đường
cao tốc 1A mới theo hướng Hà Nam - Hà Nội. Khi đến Km 197 + 50 thuộc
địa phận thôn Hướng Dương, Thắng Lợi, Thường Tín, Hà Tây, Khải đã điều
khiển xe chạy sang phần đường giành riêng cho xe ôtô tải thì bị xe ôtô tải của
Trần Tuấn Dũng (là lái xe thuộc Công ty trách nhiệm hữu hạn Vĩnh Phúc, tỉnh
Vĩnh Phúc) chạy cùng chiều xe của Khải đâm vào phía sau xe máy do Khải
điều khiển. Hậu quả: vợ của Khải chết, con của Khải bị thương, hai xe môtô
và ôtô hư hỏng nhẹ. Khi xem xét vấn đề trách nhiệm dân sự, Tòa án sơ thẩm
xác định: các bị cáo và đại diện gia đình nạn nhân đã có sự tự thỏa thuận về
phần bồi thường, tại phiên tòa các bên không có tranh chấp hay đề nghị gì nên
Tòa không giải quyết. Sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo Nguyễn Văn Khải có
đơn kháng cáo yêu cầu Công ty trách nhiệm hữu hạn Vĩnh Phúc phải có
trách nhiệm bồi thường cho gia đình nạn nhân. Tòa án cấp phúc thẩm nhận
định: phía bị cáo Dũng và Công ty chủ quản là Công ty trách nhiệm hữu hạn
13
Vĩnh Phúc có hợp đồng mọi vấn đề lái xe phải tự chịu trách nhiệm (bút ký
sơ thẩm). Hơn nữa sau khi tai nạn xảy ra phía bị cáo Dũng và gia đình nạn
nhân đã có sự thỏa thuận như bị cáo Dũng phải bồi thường toàn bộ là
27.150.000đ (đã bồi thường xong). Do vậy yêu cầu kháng cáo về phần bồi
thường của bị cáo Khải đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn Vĩnh Phúc là
không có căn cứ chấp nhận.
Vụ án thứ hai: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 123/2007/HSST ngày
28/9/2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tây xác định: Khách sạn Anh Quân,
Ủy ban nhân dân thành phố Hà Đông, Công ty cổ phần cáp treo Chùa Hương,
Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tây là những người có quyền lợi liên quan. Nội
dung vụ án và kết quả giải quyết như sau:
Nguyễn Thị Hiền, Ngô Ngọc Lâm, Phạm Thị Thủy, Nguyễn Viết
Ngạch, Nguyễn Xuân Trường, Nguyễn Văn Đạo đã thực hiện các hành vi gây
rối tại Khách sạn Anh Quân, ủy ban nhân dân thành phố Hà Đông, Công ty cổ
phần cáp treo Chù Hương, ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tây gây thiệt hại cho các
tổ chức này. Tòa án tuyên bố các bị cáo phạm tội Gây rối trật tự công cộng.
Khi xem xét vấn đề trách nhiệm dân sự, vì các cơ quan và doanh nghiệp trên
không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường thiệt hại nên Tòa không xét. Vụ án
không có kháng cáo về phần dân sự.
Thứ tư: Họ có quyền lợi hoặc nghĩa vụ về vật chất, tinh thần. Nội
dung quyền và nghĩa vụ ở đây được hiểu là quyền và nghĩa vụ trong quan hệ
nội dung, chứ không phải quan hệ tố tụng. Quyền và nghĩa vụ tố tụng chúng
ta sẽ xem xét ở phần sau trên cơ sở quy định tại Điều 54 Bộ luật tố tụng hình
sự. Thực chất người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bao gồm hai loại người
là người có quyền lợi liên quan và người có nghĩa vụ liên quan. Điều 54 Bộ
luật tố tụng hình sự 2003 quy định hai tư cách tham gia tố tụng có quyền, lợi
ích hoàn toàn khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Trên thực tế xảy ra ba trường
14
hợp: người chỉ có quyền lợi; người chỉ có nghĩa vụ; người vừa có quyền lợi,
vừa có nghĩa vụ.
- Người có quyền lợi liên quan đến vụ án là người có lợi ích vật chất
hoặc tinh thần có liên quan đến tội phạm do bị can, bị cáo thực hiện và được
cơ quan tiến hành tố tụng công nhận. Đó thường là các quyền như: quyền đòi
trả lại tài sản mà người phạm tội đã sử dụng làm công cụ, phương tiện phạm
tội; đòi tài sản trong số tài sản của bị can, bị cáo mà cơ quan tiến hành tố tụng
đã tịch thu, kê biên; đòi bồi thường giá trị tài sản bị hư hỏng, giảm sút giá trị
sử dụng; đòi sửa chữa tài sản hư hỏng; đòi bồi thường những thiệt hại về lợi
ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản; quyền được cấp dưỡng, quyền
được bồi thường tổn thất về tinh thần…
- Người có nghĩa vụ liên quan đến vụ án là người có nghĩa vụ vật chất
hoặc tinh thần do có liên quan đến tội phạm mà bị can, bị cáo thực hiện.
Người có nghĩa vụ liên quan bao gồm những trường hợp sau:
+ Đó là người mà hành vi của họ có liên quan đến tội phạm do bị can,
bị cáo thực hiện và theo pháp luật họ phải có trách nhiệm về hành vi của
mình, trách nhiệm này chủ yếu là trách nhiệm vật chất. Ví dụ A, B, C cùng
gây thương tích cho D nhưng chỉ có A và B bị truy tố, còn C được miễn trách
nhiệm hình sự, Tòa án xác định C là người có nghĩa vụ liên quan và buộc A,
B, C phải liên đới bồi thường cho D. Tuy nhiên trong một số trường hợp
người có nghĩa vụ liên quan đến vụ án chỉ có trách nhiệm về mặt tinh thần. Ví
dụ: A và B đều có hành vi vu khống Q, nhưng Q chỉ yêu cầu khởi tố đối với
A nên A bị truy tố về tội vu khống còn B do người bị hại không yêu cầu khởi
tố nên B không bị truy tố về tội này, Tòa án xác định B là người có nghĩa vụ
liên quan và quyết định buộc A, B phải xin lỗi công khai Q [23, tr. 116].
Thông thường người có nghĩa vụ liên quan trong trường hợp này là người có
tham gia thực hiện tội phạm trong một chừng mực nhất định nhưng không bị
truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc được miễn trách nhiệm hình sự.
15
+ Họ cũng có thể là người không có liên quan đến việc thực hiện tội
phạm của bị can, bị cáo nhưng đã được hưởng những lợi ích từ việc phạm tội
nên phải có nghĩa vụ bồi hoàn những lợi ích đó. Ví dụ: A được B cho chiếc
túi sách mà B trộm cắp được. Khi giải quyết vụ án Tòa án xác định A là người
có nghĩa vụ liên quan và buộc A phải trả lại chiếc túi sách cho người bị hại.
+ Ngoài ra trên thực tế, các Tòa án vẫn thường xác định những người
có nghĩa vụ liên đới bồi thường (có thể là liên đới với bị can, bị cáo hoặc liên
đới với người tham gia tố tụng khác) là người có nghĩa vụ liên quan. Ví dụ: A để
xe máy ngoài sân, trên xe vẫn cắm chìa khóa điện. B là hàng xóm sang chơi
thấy vậy đã dùng xe để đi chợ mua thức ăn. Trên đường đi gây tai nạn làm
chết người. B bị truy tố về tội "Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện
giao thông đường bộ". Tòa án xác định A là người có nghĩa vụ liên quan và
buộc A và bị cáo B phải liên đới bồi thường cho người bị hại.
Thứ năm: Quyền lợi và nghĩa vụ của họ sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp bởi
quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng.
Hành vi phạm tội xảy ra làm phát sinh trách nhiệm dân sự. Bên cạnh
đó, khi hành vi phạm tội xảy ra, do đòi hỏi của quá trình điều tra thu thập
chứng cứ dẫn đến vấn đề phải xử lý vật chứng. Khi giải quyết vụ án, các cơ
quan tiến hành tố tụng phải quyết định về hai vấn đề này và làm ảnh hưởng
đến quyền lợi, nghĩa vụ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Sự ảnh
hưởng được thể hiện theo hai hướng: có lợi hoặc bất lợi. Có thể thấy trong tố
tụng dân sự, việc xác định tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
thường dựa vào đơn kiện. Người khởi kiện là nguyên đơn, người bị kiện là bị
đơn, còn người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không phải là người khởi
kiện cũng không phải là người bị kiện, họ chỉ là người tham gia vào vụ án dân
sự đã xảy ra giữa nguyên đơn và bị đơn để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
mình. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được chia ra làm hai loại, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập và người có quyền lợi,
16
nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập. Người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan có yêu cầu độc lập là người có yêu cầu độc lập với yêu cầu của
nguyên đơn và bị đơn. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu
cầu độc lập là người có yêu cầu đứng về phía nguyên đơn hoặc bị đơn, có
quyền lợi gắn liền với quyền lợi của nguyên đơn hoặc bị đơn. Tố tụng dân sự
không đòi hỏi xác định người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan rõ ràng là
người có quyền lợi liên quan và người có nghĩa vụ liên quan. Quyết định của
Tòa án có thể có lợi hoặc bất lợi cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
nói chung. Còn trong tố tụng hình sự, việc xác định là người có quyền lợi hay
người có nghĩa vụ liên quan căn cứ vào lợi ích được hưởng hay nghĩa vụ phải
gánh chịu. Thường thì người có quyền lợi liên quan sẽ chịu ảnh hưởng bởi
quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng theo hướng có lợi, còn người có
nghĩa vụ liên quan lại chịu ảnh hưởng theo hướng bất lợi.
Thứ sáu: Khi tham gia tố tụng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
có các quyền và nghĩa vụ tố tụng được quy định tại Điều 54 Bộ luật tố tụng
hình sự. Cụ thể: quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu trong các giai đoạn tố
tụng; quyền tham gia phiên tòa, phát biểu ý kiến, tranh luận tại phiên tòa để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; quyền kháng cáo bản án, quyết
định của Tòa án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ
của mình; quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng; nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập của Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án; nghĩa vụ trình bày trung thực những tình
tiết trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình. Ngoài ra mặc dù
Điều 54 Bộ luật tố tụng hình sự không quy định, song tại các quy định pháp
luật khác, khi tham gia vào quá trình tố tụng, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan còn có một số quyền và nghĩa vụ như: quyền ủy quyền cho người
khác tham gia tố tụng; quyền nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình; quyền yêu cầu thi hành án; nghĩa vụ tuân thủ nội quy phiên tòa; nghĩa
vụ thực hiện bản án, quyết định của Tòa án.
17
1.2. CƠ SỞ CỦA VIỆC QUY ĐỊNH NGƢỜI CÓ QUYỀN LỢI, NGHĨA VỤ
LIÊN QUAN ĐẾN VỤ ÁN TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Vụ án hình sự phát sinh khi có hành vi xâm hại đến các quan hệ xã hội
được Bộ luật hình sự bảo vệ. Người thực hiện hành vi đó cần phải bị xử lý
bằng trách nhiệm hình sự. Quá trình áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người
phạm tội của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền được gọi là tố tụng hình sự.
Tố tụng hình sự là toàn bộ hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng,
người tham gia tố tụng và cá nhân, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội nhằm
giải quyết vụ án khách quan, toàn diện, nhanh chóng, chính xác và đúng pháp
luật. Nó bao gồm hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án
hình sự [20, tr. 13].
Trong tố tụng hình sự, vấn đề trách nhiệm hình sự là trọng tâm và
người thực hiện hành vi phạm tội (tùy từng giai đoạn có thể được gọi là người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án) là chủ thể bắt buộc phải có. Tuy
nhiên để giải quyết vụ án hình sự một cách khách quan, toàn diện, đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức thì quá trình tố tụng không
thể bỏ qua những vấn đề liên quan đến vụ án. Một trong những vấn đề quan
trọng cần giải quyết là trách nhiệm dân sự. Các cơ quan tiến hành tố tụng
không chỉ có nhiệm vụ làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, định tội
danh, quyết định hình phạt đối với người phạm tội mà còn phải giải quyết vấn
đề dân sự liên quan đến lợi ích của các cá nhân, tổ chức bị thiệt hại. Đây thực
chất là quan hệ mang tính dân sự và quan hệ này được đặt ra giữa các chủ thể
là những người tham gia tố tụng bao gồm: người thực hiện hành vi phạm tội
nói chung, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan và những người đại diện hợp pháp của họ. Vì vậy khi
giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự đòi hỏi các chủ thể tiến hành tố
tụng phải áp dụng những nguyên tắc cơ bản của pháp luật về dân sự và tố
tụng dân sự, đặc biệt là phải đảm bảo nguyên tắc bình đẳng thỏa thuận và
nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự. Ngoài ra vấn đề xử lý vật
18
chứng, xử lý những tài sản đã thu giữ trong quá trình điều tra vụ án cũng là
một vấn đề không kém phần quan trọng đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng
phải quan tâm giải quyết, đảm bảo quyền lợi cho chủ sở hữu hợp pháp.
Tùy từng vụ án cụ thể mà trách nhiệm dân sự hay vấn đề xử lý vật
chứng có được đặt ra hay không và có những loại người nào tham gia vào quá
trình tố tụng.
Đối với nguyên đơn dân sự, để được tham gia vào quá trình tố tụng
đòi hỏi họ phải có đơn yêu cầu; còn đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan, theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, bắt buộc các cơ
quan tiến hành tố tụng phải đưa họ vào tham gia tố tụng. Có các chuỗi hệ lụy
được xác định là:
Thứ nhất: hành vi phạm tội xảy ra  gây thiệt hại về tính mạng, sức
khỏe, tinh thần, tài sản, danh dự, uy tín cho cá nhân, tổ chức  làm phát sinh
nghĩa vụ dân sự  các cơ quan tiến hành tố tụng phải xem xét, giải quyết
nghĩa vụ này  phải đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia
tố tụng.
Thứ hai: hành vi phạm tội xảy ra  cơ quan điều tra tiến hành điều
tra thu thập chứng cứ  thu giữ vật chứng, tài sản  đòi hỏi phải xử lý vật
chứng  phải đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố
tụng.
Do đó quy định tư cách tham gia tố tụng của người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự là một tất yếu.
Vậy ý nghĩa, vai trò của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong
giải quyết vụ án hình sự là gì?
Trước hết, việc đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham
gia tố tụng và giải quyết quyền lợi, nghĩa vụ của họ góp phần đảm bảo cho
việc giải quyết vụ án hình sự mang tính tổng thể và toàn diện. Quá trình giải
19
quyết vụ án, các cơ quan tiến hành tố tụng phải thu thập đầy đủ chứng cứ để
xem xét, quyết định nhiều vấn đề chứ không riêng gì trách nhiệm hình sự.
Những vấn đề ngoài trách nhiệm hình sự chủ yếu là trách nhiệm dân sự và xử
lý vật chứng. Khi giải quyết trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng sẽ làm ảnh
hưởng đến quyền lợi, nghĩa vụ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Do
đó cần thiết phải đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố
tụng để giải quyết vụ án hình sự được triệt để và toàn diện.
Bên cạnh đó, việc tham gia vào quá trình tố tụng của người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan còn bảo đảm cho việc giải quyết vụ án được khách
quan. Hành vi được coi là tội phạm bao giờ cũng xâm hại đến khách thể được
pháp luật hình sự bảo vệ. Khách thể đó có thể là tính mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản của con người hoặc tổ chức. Việc làm sáng tỏ
toàn bộ sự thật khách quan của vụ án không chỉ là tiền đề cho việc định tội danh,
quyết định hình phạt đối với người phạm tội, mà còn là cơ sở cho việc bồi
thường, bồi hoàn tài sản. Đồng thời, để làm sáng tỏ toàn bộ sự thật khách
quan của vụ án, cũng là để giải quyết vụ án được khách quan, đúng đắn đòi
hỏi phải đưa những chủ thể có liên quan vào tham gia tố tụng, trong đó không
thể thiếu người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khi họ là người có quyền lợi,
nghĩa vụ bị ảnh hưởng trực tiếp bởi quyết định của các cơ quan tiến hành tố
tụng.
Cuối cùng, mục đích của việc giải quyết vụ án hình sự là để đảm bảo
trật tự xã hội; đảm bảo pháp chế; bảo vệ những quyền và lợi ích chính đáng
của các cá nhân, tổ chức. Vì vậy khi giải quyết vụ án hình sự, các cơ quan tiến
hành tố tụng đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng
để xem xét, quyết định quyền lợi, nghĩa vụ của họ nhằm mục đích bảo vệ
quyền lợi hợp pháp cho chính họ.
Những vai trò trên có mối quan hệ biện chứng với nhau. Đưa người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng để xem xét, giải quyết toàn
diện các mặt, các vấn đề của vụ án mới đảm bảo được tính khách quan. Qua
20
đó nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan.
Có thể thấy việc giải quyết vấn đề dân sự ngay trong vụ án hình sự
giúp cơ quan tiến hành tố tụng tránh được việc tiến hành các hoạt động trùng
lặp một cách không cần thiết tức là xem xét hai lần các tình tiết của hành vi vi
phạm pháp luật hình sự và pháp luật dân sự đồng thời bảo đảm hiệu quả kinh
tế, tiết kiệm thời gian và chi phí cho việc xét xử cũng như tránh được việc gọi
đến Tòa án một lần nữa các bên tham gia tố tụng.
Nếu vấn đề dân sự được giải quyết ngay trong vụ án hình sự thì cơ
quan điều tra có thể làm sáng tỏ các tình tiết liên quan đến việc bồi thường
ngay từ khi tiến hành điều tra vụ án. Vì tuy là vấn đề dân sự nhưng nó là vấn
đề phát sinh từ vụ án hình sự. Ngược lại, nếu vấn đề đó được giải quyết riêng
ở phiên tòa dân sự thì khả năng đó sẽ không còn nữa bởi lẽ cơ quan điều tra
không có trách nhiệm điều tra, xác minh các tình tiết của vụ án dân sự [25, tr.
21].
Từ những ý nghĩa và vai trò nêu trên, Bộ luật tố tụng hình sự Việt
Nam đã dành hẳn một điều luật riêng quy định về người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan (Điều 54), ngoài ra chúng ta còn tìm thấy những quy định liên
quan đến chủ thể này trong các điều luật khác. Trên thế giới, qua tìm hiểu Bộ
luật tố tụng hình sự của một số nước chúng ta lại thấy hầu như không có quy
định về loại chủ thể này trong quan hệ tố tụng hình sự, như Bộ luật tố tụng
hình sự Liên bang Nga, Luật tố tụng hình sự Trung Quốc…
1.3. PHÂN BIỆT NGƢỜI CÓ QUYỀN LỢI, NGHĨA VỤ LIÊN QUAN VỚI
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG KHÁC
Để giải quyết đúng đắn vụ án hình sự, ngoài việc xem xét, quyết định
về trách nhiệm hình sự, hình phạt và các vấn đề khác liên quan đến bị can, bị
cáo thì việc xác định đúng tư cách tố tụng của những người tham gia tố tụng
khác có vai trò rất quan trọng. Nó là cơ sở cho việc giải quyết quyền lợi và
21
nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng được chính xác, đúng pháp luật,
đảm bảo nguyên tắc công bằng, khách quan.
Trong thực tiễn xét xử, có nhiều trường hợp việc xác định người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan rất phức tạp, thường có sự nhầm lẫn giữa người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan với người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự, người làm chứng, người đại diện của bị can, bị cáo. Hệ quả là quyết
định sai quyền lợi, nghĩa vụ của đương sự (bao gồm cả các quyền, nghĩa vụ
về nội dung và quyền, nghĩa vụ tố tụng, đặc biệt là quyền kháng cáo). Do đó
cần thiết phải đưa ra những dấu hiệu để phân biệt giữa người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan với những người tham gia tố tụng khác như đã nêu ở trên.
1.3.1. Phân biệt ngƣời có quyền lợi liên quan với ngƣời bị hại
Điều 51 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: "Người bị hại là người bị
thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra" [11].
Người bị hại chỉ có thể là thể nhân bị người phạm tội làm thiệt hại về
thể chất, về tinh thần hoặc về tài sản, chứ không thể là tổ chức. Luật tố tụng
hình sự nước ta không coi tổ chức là người bị hại. Trong khi đó người có
quyền lợi liên quan có thể là cá nhân hoặc tổ chức (như đã phân tích ở phần
trên). Đây chỉ là dấu hiệu về mặt hình thức, không phải là căn cứ để xác định
hai loại người này.
Để xác định đúng tư cách tham gia tố tụng, chúng ta cần tìm hiểu
những nội dung thuộc về bản chất. Người bị hại trong vụ án hình sự phải là
con người cụ thể bị hành vi phạm tội trực tiếp xâm hại về thể chất, tinh thần,
tài sản. Thể chất, tinh thần, tài sản của họ phải là đối tượng của tội phạm.
Thông qua việc tác động tới những đối tượng đó để xâm hại đến khách thể
của tội phạm. Thiệt hại xảy ra là biểu hiện về mặt khách quan của tội phạm,
phù hợp với mục đích của người phạm tội. Còn người có quyền lợi liên quan
có thể là cá nhân hay cơ quan, tổ chức. Nếu là cá nhân thì so với người bị hại,
người có quyền lợi liên quan cũng là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần,
22
tài sản do hành vi của người phạm tội gây ra, song chúng không phải là đối
tượng của tội phạm và thiệt hại xảy ra không phù hợp với mục đích của người
phạm tội, nhưng việc giải quyết vụ án đã ảnh hưởng đến quyền lợi của họ.
Trong những vụ án hình sự về xâm phạm quyền sở hữu, để xác định
đâu là người bị hại và đâu là người có quyền lợi liên quan là vấn đề phức tạp,
cần phải có sự phân tích, tìm hiểu. Ví dụ A là công nhân của công ty may đã
lợi dụng nhu cầu xin việc làm của một số người để lừa đảo chiếm đoạt tiền
của họ. A gặp B, C tự giới thiệu mình là em họ của Phó giám đốc công ty giầy
và có khả năng xin được việc cho một số người vào làm tại công ty đó. A yêu
cầu mỗi hồ sơ phải nộp 2.000.000 đồng. B, C tin tưởng A xin được việc nên
đã bảo những người thân quen làm hồ sơ. Qua B và C, A nhận hồ sơ của 10
người cùng 20.000.000 đồng. Số tiền này hiện chưa thu hồi được nhưng B, C
đã ứng trả hết cho những người xin việc. Khi xét xử sơ thẩm vụ án, Tòa án
xác định 10 người đã nộp hồ sơ xin việc và nộp tiền là những người bị hại,
còn B, C là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và buộc bị cáo
hoàn trả B, C số tiền là 20.000.000 đồng đã nhận. Tuy nhiên, Tòa án cấp phúc
thẩm lại cho rằng chính B, C mới là người bị hại, còn 10 người có nhu cầu xin
việc là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vì họ không trực tiếp giao tiền
cho bị cáo. Những người theo quan điểm này cho rằng những người xin việc
không có quan hệ gì với bị cáo, không giao tiền cho bị cáo nên bị cáo không
có trách nhiệm gì với họ. Họ trực tiếp đưa tiền cho B, C. Nếu B, C không xin
được việc cho họ thì B, C phải có trách nhiệm bồi thường trả họ, chứ không
phải bị cáo. Bị cáo chỉ có trách nhiệm bồi thường cho B, C. Vậy đối với bị
cáo, B, C mới là người bị hại, còn những người kia chỉ là người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan tới vụ án. Quan điểm thứ hai lại cho rằng: B, C là người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; 10 người có đơn xin việc, phải nộp tiền là
người bị hại. Bởi lẽ, mục đích chiếm đoạt của bị cáo nhằm vào người cần việc
làm, B, C chỉ là người trung gian giao dịch. Số tiền mà bị cáo chiếm đoạt là
tiền của những người có nhu cầu xin việc làm. Không thể vì B, C tự bỏ tiền ra
23
trả 10 người kia mà xác định B, C là người bị hại trong vụ án được [27, tr. 25-
26]. Theo chúng tôi giải quyết theo quan điểm thứ hai là đúng, cần xác định
B, C là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; 10 người có đơn xin việc, phải
nộp tiền là người bị hại. Vì tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tội có cấu thành
vật chất, tội phạm hoàn thành khi người thực hiện hành vi phạm tội chiếm
đoạt được tài sản của người bị hại. Trong trường hợp này, mục đích của bị
cáo là chiếm đoạt tiền của những người có nhu cầu xin việc. Để đạt được mục
đích này, bị cáo đã sử dụng B, C như là một công cụ tác động; thông qua B, C
để chiếm đoạt tài sản của những người xin việc; bị cáo gặp B, C nói với B, C
rằng mình có khả năng xin được việc cho một số người vào làm tại công ty
giầy là một thủ đoạn gian dối. Và thực tế bị cáo đã chiếm đoạt được
20.000.000đ của 10 người xin việc.
Chúng ta biết, luật nội dung và luật hình thức có quan hệ chặt chẽ với
nhau nên khi xác định tư cách người tham gia tố tụng theo Bộ luật tố tụng
hình sự ta cần phải dựa vào cả những quy định và các nguyên tắc, tinh thần
của Bộ luật hình sự. Người bị hại là người bị hành vi phạm tội trực tiếp xâm
hại. Thể chất, tinh thần, tài sản của người bị hại là đối tượng của tội phạm.
Thông qua việc tác động vào các đối tượng đó nhằm xâm hại đến khách thể là
yếu tố thuộc cấu thành tội phạm. Do đó dễ dàng xác định được người bị hại
đối với những nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự
của con người. Với những loại tội này thì người bị thiệt hại về tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm (như bị giết, bị gây thương tích, bị vu khống) được
xác định là người bị hại. Hoặc đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu thì người bị
thiệt hại về tài sản (như tài sản bị chiếm đoạt, bị làm hư hỏng…) được xác
định là người bị hại. Nhưng không phải vụ án hình sự nào cũng có khách thể
là quyền được tôn trọng và bảo vệ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, quyền sở hữu của con người; và có đối tượng tác động là con người, tài
sản. Bộ luật hình sự có những chương quy định về khách thể bị xâm hại là
24
hoạt động bình thường của chủ thể, trật tự nơi công cộng, trật tự quản lý hành
chính… như tội "Gây rối trật tự công cộng", "Chống người thi hành công vụ".
Đối với những nhóm tội danh này, thực tiễn xét xử nảy sinh nhiều bất cập
trong việc xác định tư cách người tham gia tố tụng. Quan điểm thứ nhất cho
rằng cần xác định người bị thiệt hại do hành vi của người phạm tội gây ra là
người bị hại trong vụ án, vì theo quy định tại Điều 51 Bộ luật tố tụng hình sự
thì họ là những người đã "bị thiệt hại về sức khỏe, tinh thần hoặc tài sản do tội
phạm gây ra". Quan điểm thứ hai lại cho rằng cần xác định người bị thiệt hại
là người có quyền lợi liên quan. Vì, thiệt hại xảy ra mặc dù do chính hành vi
của người phạm tội gây lên nhưng đó không phải là đối tượng trực tiếp của tội
phạm. Những hậu quả thiệt hại không phải là yếu tố cấu thành tội phạm. Nếu
thiệt hại do hành vi của người phạm tội gây ra đã đủ yếu tố để cấu thành một
tội danh độc lập khác như tội "Cố ý gây thương tích", tội "Hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản" thì người bị thiệt hại mới trở thành người bị hại của các
tội danh này. Còn ngược lại, nếu thiệt hại do hành vi của người phạm tội gây
ra không đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội danh độc lập nêu
trên thì sẽ không có người bị hại. Mà người bị thiệt hại trong trường hợp này
là người có quyền lợi liên quan. Trên thực tế các Tòa án hiện nay thường xác
định như vậy. Chúng tôi đồng ý với những lập luận của quan điểm thứ hai, họ
không thể là người bị hại. Tuy nhiên theo chúng tôi, họ cần được xác định là
nguyên đơn dân sự, chứ không phải là người có quyền lợi liên quan. Vì họ là
người bị thiệt hại do hành vi của người phạm tội (không phải hành vi phạm
tội) trực tiếp gây ra trong quá trình thực hiện tội phạm nên nếu muốn được bồi
thường thiệt hại thì họ phải có đơn yêu cầu; không phải do việc giải quyết vụ
án có ảnh hưởng đến quyền lợi của họ. Để rõ hơn chúng ta sẽ xem xét cụ thể
về nguyên đơn dân sự và người có quyền lợi liên quan ở mục dưới đây.
1.3.2. Phân biệt ngƣời có quyền lợi liên quan với nguyên đơn dân sự
25
Điều 52 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: "Nguyên đơn dân sự là cá
nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra và có đơn yêu cầu bồi
thường thiệt hại" [11].
Nguyên đơn dân sự có thể là các cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về vật
chất do hành vi phạm tội gây ra, những thiệt hại này có thể là thiệt hại về tài
sản hoặc những thiệt hại khác dẫn đến những tổn thất về vật chất như những
thiệt hại do danh dự, uy tín bị xâm hại… Nguyên đơn dân sự cũng có thể là cá
nhân bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do hành vi phạm tội gây ra. Tuy
nhiên, khác với người bị hại, nguyên đơn dân sự (trong trường hợp là cá
nhân) không phải là nạn nhân trực tiếp của tội phạm. Mặc dù bị thiệt hại
nhưng thể chất, tinh thần, tài sản của họ không phải là đối tượng của tội
phạm. Thiệt hại xảy ra cho nguyên đơn dân sự không phù hợp với mục đích
của người phạm tội. Nguyên đơn dân sự phải có đơn yêu cầu bồi thường thiệt
hại.
Như vậy, người có quyền lợi liên quan và nguyên đơn dân sự có
những điểm giống nhau như:
- Về chủ thể: Đều bao gồm cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do
hành vi phạm tội gây ra.
- Về quyền của chủ thể trong quan hệ nội dung: Đều có quyền yêu cầu
bồi thường thiệt hại.
Song để phân biệt người có quyền lợi liên quan với nguyên đơn dân
sự chúng ta cần dựa vào những tiêu chí sau:
Thứ nhất: Người có quyền lợi liên quan đến vụ án có thể là người
không liên quan đến việc thực hiện tội phạm nhưng các cơ quan tiến hành tố
tụng phải xử lý theo pháp luật những vấn đề có liên quan đến quyền lợi của
họ (như: người mà tài sản của họ bị kẻ phạm tội sử dụng làm công cụ, phương
tiện phạm tội; người mà tài sản của họ bị kê biên cùng tài sản của người phạm
tội). Còn nguyên đơn dân sự cũng có thể là người không liên quan đến việc
26
thực hiện tội phạm, không phải là đối tượng xâm hại của tội phạm, nhưng bị
thiệt hại do hành vi của người phạm tội trực tiếp gây ra (ví dụ 1: A can ngăn
B đánh người khác nên đã bị rách quần áo, mất đồng hồ. A là nguyên đơn dân
sự. Ví dụ 2: A cầm lựu đạn ném B nhưng ném trượt, lựu đạn rơi vào xe máy
của C đang dựng bên đường. Lựu đạn nổ làm hỏng toàn bộ xe máy của C. C
là nguyên đơn dân sự); hoặc bị thiệt hại do hành vi của người phạm tội gián
tiếp gây ra (ví dụ: một người bị người phạm tội xâm phạm đến sức khỏe, thân
nhân của họ phải nghỉ việc để chăm sóc, người chăm sóc bị mất một khoản
chi phí cho việc đi lại, chăm sóc và bị mất hoặc giảm sút thu nhập thực tế
trong thời gian chăm sóc, họ có quyền đòi bồi thường khoản chi phí, phần thu
nhập bị mất đó và trở thành nguyên đơn dân sự.
Thứ hai: Nếu là nguyên đơn dân sự thì xảy ra hai trường hợp: Trường
hợp thứ nhất: những thiệt hại đã xảy ra cho nguyên đơn dân sự không phù hợp
với mục đích của người phạm tội. Thể chất, tinh thần, tài sản của nguyên đơn
dân sự không phải là đối tượng của tội phạm. Thiệt hại đã xảy ra không phải
là biểu hiện về mặt khách quan của cấu thành tội phạm. Trong trường hợp này
nguyên đơn dân sự có thể là cá nhân hoặc là cơ quan, tổ chức. Trường hợp
thứ hai: nguyên đơn dân sự là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về vật chất do tội
phạm trực tiếp gây ra, thiệt hại này phù hợp với mục đích của người phạm tội,
là biểu hiện về mặt khách quan của cấu thành tội phạm (thiệt hại của nguyên
đơn dân sự trong trường hợp này có tính chất như người bị hại. Vì pháp luật
tố tụng hình sự Việt Nam chỉ coi người bị hại là cá nhân con người, chứ
không thừa nhận người bị hại là cơ quan, tổ chức nên cơ quan, tổ chức bị thiệt
hại trong trường hợp này được xác định là nguyên đơn dân sự, ví dụ như: tài
sản của cơ quan, tổ chức bị trộm cắp, tham ô, hủy hoại…). Đối với người có
quyền lợi liên quan thì chỉ có thể là: những thiệt hại đã xảy ra không phù hợp
với mục đích của người phạm tội. Thể chất, tinh thần, tài sản của người có
quyền lợi liên quan không phải là đối tượng của tội phạm. Thiệt hại đã xảy ra
không phải là biểu hiện về mặt khách quan của cấu thành tội phạm.
27
Thứ ba: Về ý nghĩa của sự thiệt hại trong việc đánh giá mức độ trách
nhiệm hình sự của người phạm tội: Đối với nguyên đơn dân sự, nếu thuộc
trường hợp thứ hai như trình bày ở trên (có tính chất như người bị hại) thì hậu
quả xảy ra đối với nguyên đơn dân sự được coi là tình tiết để đánh giá tính
chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, được xem như một tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội khi quyết định
hình phạt. Nếu là nguyên đơn dân sự thuộc trường hợp thứ nhất hay người có
quyền lợi liên quan thì hậu quả xảy ra đối với nguyên đơn dân sự và người có
quyền lợi liên quan không phải là tình tiết để đánh giá tính chất, mức độ nguy
hiểm của hành vi phạm tội; không được xem như một tình tiết tăng nặng, giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự cho người phạm tội khi quyết định hình phạt.
Thứ tư: Xét về mặt thủ tục tố tụng: Nguyên đơn dân sự đòi hỏi phải
có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại (đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại bao
gồm các hình thức như: đơn đề nghị được bồi thường thiệt hại, đơn trình báo
có chứa nội dung yêu cầu bồi thường thiệt hại, biên bản do cơ quan tiến hành
tố tụng lập ghi nhận lời trình bày về thiệt hại do tội phạm gây ra và yêu cầu
bồi thường thiệt hại của nguyên đơn). Còn người có quyền lợi liên quan thì
các cơ quan tiến hành tố tụng, đặc biệt là Tòa án bắt buộc phải đưa họ vào
tham gia tố tụng trong vụ án để giải quyết quyền lợi của họ.
Ngoài những căn cứ trên, theo chúng tôi điểm khác biệt quan trọng
nhất giữa người có quyền lợi liên quan với nguyên đơn dân sự cho phép phân
biệt rõ ràng và tránh những sự xác định nhầm lẫn thường xảy ra là:
Nguyên đơn dân sự là người bị thiệt hại do tội phạm gây ra, bao gồm
những thiệt hại do hành vi của người phạm tội trực tiếp gây ra (như thiệt hại
do số cốc chén của chủ quán bị vỡ trong quá trình bị cáo đánh gây thương
tích cho người bị hại); và những thiệt hại do hành vi của người phạm tội gián
tiếp gây ra (như khoản chi phí cho việc đi lại, chăm sóc, phần thu nhập thực
28
tế bị mất của người chăm sóc người bị hại trong vụ án cố ý gây thương tích) -
tức sự thiệt hại của người bị hại làm phát sinh những thiệt hại này.
Còn người có quyền lợi liên quan là người có tài sản liên quan đến
việc giải quyết vụ án (thường là liên quan đến vấn đề xử lý vật chứng). Hoặc
sự thiệt hại của người bị hại ảnh hưởng đến quyền lợi của họ (ví dụ: A đang
nuôi em trai bị bệnh tâm thần. A bị B giết chết dẫn đến ảnh hưởng đến quyền
lợi của người em trai, đó là mất đi sự nuôi dưỡng của A).
1.3.3. Phân biệt ngƣời có nghĩa vụ liên quan với bị đơn dân sự
Điều 53 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: "Bị đơn dân sự là cá nhân,
cơ quan, tổ chức mà pháp luật quy định phải chịu trách nhiệm bồi thường đối
với thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra".
Theo tinh thần của quy định này thì bị đơn dân sự là người phải bồi
thường những thiệt hại mà tội phạm gây ra cho người bị hại, nguyên đơn dân
sự hoặc cho cơ quan, tổ chức, cá nhân khác. Bị đơn dân sự không phải là
người gây ra thiệt hại cho nguyên đơn dân sự hoặc người bị hại, mà thiệt hại
đó do người phạm tội gây ra (một cách trực tiếp hoặc gián tiếp), nhưng theo
quy định của pháp luật thì họ phải bồi thường thay cho bị cáo.
Theo Bộ luật dân sự năm 2005, tại các điều 606, 618, 619, 620, 621,
622, 623, bị đơn dân sự được xác định là những người có nghĩa vụ bồi thường
thay cho người đã gây ra thiệt hại, đó là những trường hợp sau:
- Cha mẹ của bị can, bị cáo là người chưa thành niên; người giám hộ
của người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần.
- Trường học khi bị can, bị cáo là người dưới 15 tuổi gây thiệt hại
trong thời gian học tập tại trường (nếu trường có lỗi trong việc quản lý).
- Bệnh viện hoặc tổ chức khác khi bị can, bị cáo là người mất năng lực
hành vi dân sự gây thiệt hại trong thời gian chịu sự quản lý trực tiếp của bệnh
viện, tổ chức đó (nếu bệnh viện, tổ chức có lỗi trong việc quản lý).
29
- Pháp nhân khi bị can, bị cáo là người của pháp nhân gây thiệt hại
trong khi thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao.
- Cơ quan, tổ chức khi bị can, bị cáo là cán bộ, công chức gây thiệt hại
trong khi thi hành công vụ.
- Cơ quan tiến hành tố tụng khi bị can, bị cáo là người có thẩm quyền
của cơ quan gây thiệt hại khi thực hiện nhiệm vụ trong quá trình tiến hành tố tụng.
- Cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác khi bị can, bị cáo là người
làm công, học nghề gây thiệt hại trong khi thực hiện công việc được giao.
- Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn
nguy hiểm cao độ khi bị can, bị cáo là người sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ
gây thiệt hại...
Còn người có nghĩa vụ liên quan thường là người đã tham gia trong
một chừng mực nhất định vào việc thực hiện tội phạm nhưng không bị truy
cứu trách nhiệm hình sự hoặc được miễn trách nhiệm hình sự phải có trách
nhiệm về hành vi của mình (có thể là trách nhiệm vật chất như bồi thường, trả
lại tài sản được hưởng từ việc thực hiện tội phạm, có thể là trách nhiệm về
mặt tinh thần như phải công khai xin lỗi); hoặc là người không tham gia vào
việc thực hiện tội phạm nhưng đã được hưởng những lợi ích từ việc phạm tội,
phải có trách nhiệm bồi hoàn những lợi ích đó.
Có nhiều người quan niệm rằng: trong một vụ đồng phạm, nếu có bị
can được miễn trách nhiệm hình sự nhưng vẫn có trách nhiệm phải bồi thường
những thiệt hại mà mình và các bị can khác đã gây ra cho người bị hại,
nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi liên quan thì họ tham gia tố tụng với
tư cách bị đơn dân sự là không đúng với quy định tại khoản 1 Điều 53 Bộ luật
tố tụng hình sự [23, tr. 120]. Họ cần phải được xác định là người có nghĩa vụ
liên quan mới chính xác.
30
Có thể thấy bị đơn dân sự là người chỉ có trách nhiệm bồi thường; còn
người có nghĩa vụ liên quan ngoài trách nhiệm bồi thường, họ có thể còn là
người có trách nhiệm hoàn trả tài sản hoặc trách nhiệm về mặt tinh thần.
Tuy nhiên, để trách nhầm lẫn thì dấu hiệu quan trọng cho phép phân
biệt giữa bị đơn dân sự và người có nghĩa vụ liên quan là:
Bị đơn dân sự là người mà theo quy định của pháp luật phải chịu
trách nhiệm bồi thường toàn bộ những thiệt hại do hành vi phạm tội của bị
cáo gây ra. Bản thân họ không phải là người gây ra thiệt hại.
Người có nghĩa vụ liên quan là người đã tham gia thực hiện tội phạm
trong một chừng mực nhất định (tức họ tham gia gây thiệt hại) nên phải có
trách nhiệm bồi thường; hoặc bản thân họ không có liên quan đến tội phạm
do bị cáo thực hiện nhưng theo quy định của pháp luật thì họ phải có trách
nhiệm liên đới trong việc bồi thường thiệt hại.
1.3.4. Phân biệt ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan với ngƣời
làm chứng
Điều 55 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: "Người nào biết được
những tình tiết có liên quan đến vụ án đều có thể được triệu tập đến để làm
chứng" [11].
Như vậy người làm chứng là người biết được những tình tiết liên quan
đến vụ án mà cơ quan tiến hành tố tụng cần phải chứng minh như: sự việc
phạm tội, thời gian, địa điểm, hành vi phạm tội, người thực hiện tội phạm...
Họ có thể trực tiếp nhìn thấy, nghe thấy hoặc được người khác kể lại về các
tình tiết liên quan đến vụ án.
Người làm chứng là không thể thay thế được, không thể ủy quyền cho
người khác làm đại diện tham gia tố tụng vì họ là người biết về các tình tiết
liên quan đến vụ án nên họ phải trực tiếp tham gia tố tụng và thực hiện nghĩa
vụ khai báo trung thực tất cả những gì mình biết về vụ án.
31
Người làm chứng có vai trò rất quan trọng trong việc làm sáng tỏ sự
thật khách quan của vụ án. Việc họ trình bày trung thực về những gì mình biết
sẽ giúp cơ quan tiến hành tố tụng xác định được tội phạm, người phạm tội và
những vấn đề khác của vụ án.
Vì người làm chứng là cá nhân con người (không thể là tổ chức) nên
khi phân biệt người làm chứng với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
chúng ta cũng chỉ xem xét người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan dưới góc độ
là con người cụ thể. Có thể chỉ ra một vài điểm khác biệt sau:
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là người có quyền
lợi, nghĩa vụ bị ảnh hưởng trực tiếp bởi các quyết định của cơ quan tiến hành
tố tụng. Trên cơ sở quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng thì người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có thể được bồi thường thiệt hại, được nhận lại
tài sản đã kê biên hoặc phải có nghĩa vụ trả lại tài sản, bồi hoàn tài sản… Còn
người làm chứng thì hoàn toàn không có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến
vụ án. Họ chỉ là người biết về các tình tiết của vụ án và có nghĩa vụ trình bày
trung thực những gì mình biết. Họ tham gia tố tụng theo nghĩa vụ để làm sáng
tỏ sự thật khách quan của vụ án. Như vậy căn cứ đầu tiên và quan trọng để
phân biệt hai loại người này là dựa vào vai trò, mục đích tham gia tố tụng của
họ. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng để được giải
quyết quyền lợi và nghĩa vụ của mình có liên quan đến vụ án. Người làm
chứng tham gia tố tụng chỉ là để trình bày về những tình tiết có liên quan đến
vụ án mà mình biết được nhằm giúp các cơ quan tiến hành tố tụng làm sáng tỏ
vụ án.
- Người biết được các tình tiết có liên quan đến vụ án nhưng đồng thời
họ lại có quyền lợi, nghĩa vụ trong vụ án, đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố
tụng phải xem xét, quyết định thì họ được xác định là người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan, chứ không phải người làm chứng. Và khi triệu tập họ đến
tham gia tố tụng, ngoài việc hỏi về những vấn đề liên quan đến quyền lợi,
32
nghĩa vụ của họ thì cơ quan tiến hành tố tụng có thể hỏi về những vấn đề khác
có liên quan đến vụ án mà họ biết.
- Trong thực tế, việc xác định tư cách tham gia tố tụng là người làm
chứng hay người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cần dựa trên cơ sở: khi giải
quyết vụ án, cơ quan tiến hành tố tụng có phải xem xét, quyết định về quyền
lợi, nghĩa vụ của họ hay không.
Ví dụ: A đã có hành vi bán hóa đơn giá trị gia tăng khống cho công ty
của B để B hợp thức đầu vào nguồn hàng nông sản mà B mua trôi nổi trên thị
trờng (không có hóa đơn giá trị gia tăng) nhằm kê khai khấu trừ thuế. A, B bị
khởi tố về tội Trốn thuế. Sau đó vì A còn bán hóa đơn giá trị gia tăng khống
hàng cho một công ty X cũng nhằm mục đích trốn thuế nên cơ quan điều tra
đã tách hành vi của A chuyển sang giải quyết trong vụ án Trốn thuế xảy ra tại
công ty X. Khi tiến hành xét xử B, Toà án đã triệu tập A đến tham gia tố tụng
côngvới tư cách là người làm chứng để khai báo về các tình tiết liên quan đến
việc buộc tội B.
Như vậy, một người tham gia vào việc thực hiện tội phạm nhưng hành
vi của họ đã được tách ra để giải quyết trong một vụ án khác thì họ có thể
được xác định là người làm chứng trong việc buộc tội các bị cáo của vụ án đó.
Thực tế người có tham gia vào việc thực hiện tội phạm nhưng không
bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc được miễn trách nhiệm hình sự thì tùy
từng trường hợp, họ có thể được xác định là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan hoặc người làm chứng.
Ví dụ 1: Do không có tiền ăn tiêu, A, B rủ nhau sẽ dùng xe máy của A
để giật túi sách của người đi đường. Trên đường đi thực hiện ý định phạm tội
đó, A chợt nghĩ đến việc mẹ mình bị tai nạn giao thông dẫn đến chấn thương
sọ não cách đây 2 năm nên đã khuyên B dừng lại nhưng B không nghe, vừa
một tay điều khiển xe vừa một tay giật chiếc túi của người tham gia giao
thông. B bị truy tố về tội Cướp giật tài sản. A được miễn truy cứu trách nhiệm
33
hình sự. Vì chiếc xe máy (công cụ, phương tiện phạm tội) đã bị thu giữ nên
khi tiến hành xét xử, Tòa án xác định A là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đến vụ án.
Trong trường hợp này, A là người biết được các tình tiết của vụ án,
đồng thời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, bị ảnh hưởng trực tiếp
bởi quyết định của Tòa án nên việc xác định tư cách tham gia tố tụng của A
như trên là chính xác.
Ví dụ 2: A, B bàn nhau đánh cho C một trận vì C đã tán tỉnh người
yêu của A. Khi đến nơi, B giữ người C để A đánh C. Hậu quả C bị thương
tích 12%. Sau khi gây thương tích cho C về, B thấy ân hận và đã ra cơ quan
công an tự thú, khai rõ toàn bộ sự việc đồng thời tích cực bồi thường cho
người bị hại với số tiền 8 triệu đồng. Người bị hại không có yêu cầu gì về
trách nhiệm dân sự đối với B và có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự
cho B. A bị truy tố về tội "Cố ý gây thương tích", còn B được miễn trách
nhiệm hình sự.
Như vậy mặc dù B cùng tham gia thực hiện hành vi gây thương tích
cho người khác (vai trò giúp sức) nhưng đã được miễn trách nhiệm hình sự và
cũng không có trách nhiệm bồi thường nên B chỉ là người làm chứng, không
phải là người có nghĩa vụ liên quan.
1.3.5. Phân biệt ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan với ngƣời
đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo
Bộ luật tố tụng hình sự không có điều luật riêng quy định về người đại
diện hợp pháp của bị can, bị cáo. Điều 50 cũng không có quy định nào về
người đại diện. Song theo quy định tại khoản 2 Điều 57 chúng ta hiểu được
rằng trong những trường hợp nhất định thì bị can, bị cáo phải có người đại
diện tham gia tố tụng. Và theo chế định đại diện được quy định trong Bộ luật
dân sự thì khi bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm
về tâm thần hoặc thể chất phải có người đại diện. Người đại diện trong trường
34
hợp này là đại diện theo pháp luật, có thể là cha, mẹ của bị can, bị cáo hoặc
người giám hộ (trong trường hợp bị can, bị cáo không còn cha, mẹ hoặc cha,
mẹ không đủ điều hiện để đại diện).
Sở dĩ hay có sự nhầm lẫn trong việc xác định tư cách giữa người đại
diện hợp pháp của bị can, bị cáo với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là
bởi hai loại người này nhiều khi có sự giống nhau về trách nhiệm dân sự đối
với những thiệt hại do tội phạm gây ra. Và trong thực tế, có những trường hợp
chúng ta có thể dễ dàng phân biệt, nhưng ngược lại, cũng có những trường
hợp, việc xác định là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hay người đại
diện hợp pháp của bị can, bị cáo lại trở nên khó khăn, phức tạp. Cụ thể: người
đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do bị
can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm
thần gây ra. Còn người có nghĩa vụ liên quan có trách nhiệm bồi hoàn những
lợi ích đã được hưởng từ việc phạm tội hoặc có trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do có tham gia vào việc gây thiệt hại. Đối với những trường hợp này,
việc xác định tương đối dễ dàng. Sự nhầm lẫn chủ yếu thường xảy ra đối với
những trường hợp khác, phức tạp hơn, có thể lấy một ví dụ như: vụ án
Nguyễn Thế Hiển bị xét xử về tội "Giết người" theo khoản 2 Điều 93 Bộ
luật hình sự. Khi phạm tội và khi xét xử bị cáo bị bệnh tâm thần mức độ nhẹ,
khả năng kìm chế hành vi hạn chế, được Tòa án cấp sơ thẩm cho hưởng tình
tiết giảm nhẹ theo điểm n khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Tòa án triệu tập
ông Nguyễn Văn Thế (bố của bị cáo) đến phiên tòa với tư cách là người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (vì gia đình bị cáo bồi thường cho gia đình nạn
nhân 20 triệu đồng). Vụ án có kháng cáo, Tòa án cấp phúc thẩm xác định
ông Thế là người đại diện hợp pháp của bị cáo (vì bị cáo có nhược điểm về
tâm thần) [19, tr. 17-18].
35
Theo quy định tại Điều 606 Bộ luật dân sự và Công văn số
35/1999/KHXX ngày 26/4/1999 của Tòa án nhân dân tối cao giải đáp việc
xác định người tham gia tố tụng trong một số trường hợp cụ thể thì tư cách
người có nghĩa vụ liên quan được xác định như sau: Đối với bị cáo là người
chưa thành niên phạm tội và gây thiệt hại mà đến khi xét xử họ chưa đủ 15
tuổi thì cha mẹ là người đại diện hợp pháp của bị cáo và phải bồi thường toàn
bộ thiệt hại, nếu tài sản của cha mẹ không đủ bồi thường mà bị cáo có tài sản
riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu. Nếu khi gây thiệt hại bị
cáo là người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi nhưng đến khi xét xử đã đủ 18
tuổi và không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì cha mẹ là
người có nghĩa vụ liên quan và phải thực hiện bồi thường toàn bộ hoặc phần
còn thiếu do tài sản của bị can, bị cáo không có hoặc không đủ để bồi thường.
Như vậy nếu khi gây thiệt hại bị cáo là người từ đủ 15 tuổi đến dưới
18 tuổi và đến khi xét xử bị cáo vẫn chưa đủ 18 tuổi thì cha mẹ của họ được
xác định tư cách tham gia tố tụng là gì? Trách nhiệm về việc bồi thường như
thế nào? Trong trường hợp này, cha mẹ sẽ là người đại diện hợp pháp của bị
cáo (chứ không phải là người có nghĩa vụ liên quan) và thực hiện bồi thường
theo nguyên tắc: Nếu bị cáo có đủ tài sản để bồi thường thì bồi thường bằng
tài sản của bị cáo. Nếu bị cáo không có hoặc không đủ tài sản để bồi thường
thì cha mẹ phải bồi thường toàn bộ hoặc phần còn thiếu.
Chúng ta có thể rút ra một nguyên tắc là nếu một người vừa là người
đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo, vừa là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan thì cần ưu tiên xác định họ là người đại diện hợp pháp của bị cáo.
1.4. LỊCH SỬ CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ NGƢỜI CÓ QUYỀN
LỢI, NGHĨA VỤ LIÊN QUAN ĐẾN VỤ ÁN
Có thể thấy pháp luật Việt Nam giai đoạn trước năm 1945, do chế độ
kinh tế phong kiến lạc hậu, pháp luật chưa phát triển, chưa có sự phân biệt rõ
các quy định về dân sự, hình sự, tố tụng hình sự, tố tụng dân sự… Sau thắng
lợi của Cách mạng Tháng Tám, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, ngày
36
10/10/1945 chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh số 47/SL giữ tạm thời
các luật lệ hiện hành ở Bắc, Trung, Nam cho đến khi ban hành những bộ luật
mới áp dụng cho toàn quốc. Bên cạnh đó Chủ tịch Hồ Chí Minh còn ký ban
hành một loại các sắc lệnh như: Sắc lệnh ngày 13/9/1945 thiết lập tòa án quân
sự; Sắc lệnh số 7 ngày 15/1/1946 về việc bổ khuyết Sắc lệnh ngày 13/9/1945;
Sắc lệnh số 33/A ngày 13/9/1945 về việc định thể lệ cho ty liêm phóng và sở
cảnh sát tuân theo mỗi khi bắt người; Sắc lệnh ngày 26/9/1945 ấn định địa
phương thẩm quyền của các Tòa án quân sự; Sắc lệnh số 13/SL ngày
24/1/1946 tổ chức các Tòa án và các ngạch thẩm phán, đánh dấu sự phát triển
mới của lịch sử tố tụng tại Tòa án; Sắc lệnh số 23 ngày 21/2/1946 về việc
thành lập Việt Nam công an vụ thuộc Bộ nội vụ; Sắc lệnh số 51/SL ngày
17/4/1946 ấn định thẩm quyền của các Tòa án và sự phân công giữa các nhân
viên trong tòa; Sắc lệnh số 190 ngày 1/10/1946 về thẩm quyền truy tố của Tòa
án… Với các sắc lệnh trên, hoạt động tố tụng hình sự đã được quy định cho
các cơ quan tiến hành tố tụng như Tòa án, cơ quan Công an. Ngoài ra việc xét
xử những tội phạm hình sự cụ thể được quy định trong từng sắc lệnh đơn lẻ
như: Sắc lệnh số 6 ngày 15/1/1946 về việc truy tố những người can tội ăn
trộm, ăn cắp, tự ý phá hủy cắt dây điện thoại và dây điện tín; Sắc lệnh số 27
ngày 28/2/1946 về việc truy tố các tội bắt cóc, tống tiền, ám sát; Sắc lệnh số
26 ngày 25/2/1946 về việc truy tố các việc phá hủy công sản… Đặc biệt trong
các sắc lệnh thời kỳ này có Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ
máy tư pháp và luật tố tụng đã quy định những nguyên tắc cơ bản như: "Tòa
án chỉ thủ tiêu một phần hay toàn thể thủ tục nếu xét một hay nhiều hình thức
ghi trong luật tố tụng hình hoặc hộ có hại cho việc thẩm cứu hoặc đến quyền
lợi của đương sự" (Điều 17); "Về việc hình, người bị thiệt hại nào đã đầu đơn
kiện thì có quyền kháng cáo để xin tăng hình phạt, tiền bồi thường và khoản
bồi hoàn. Nhưng nếu người đó vì ác ý mà kháng cáo thì Tòa án có thể tự mình
hoặc theo lời thỉnh cầu của bị can mà bắt người ký đơn kháng cáo phải bồi
thường một số tiền tương đương với sự thiệt hại đã gây ra về vật chất cũng
như về tinh thần" (Điều 18); " Thẩm phán huyện dưới sự kiểm sát của Biện lý
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT

More Related Content

What's hot

Luận văn: Quyết định hình phạt tù có thời hạn tại TP Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...
Luận văn: Quyết định hình phạt tù có thời hạn tại TP Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...Luận văn: Quyết định hình phạt tù có thời hạn tại TP Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...
Luận văn: Quyết định hình phạt tù có thời hạn tại TP Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội theo luật - Gửi miễn phí...
Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội theo luật - Gửi miễn phí...Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội theo luật - Gửi miễn phí...
Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội theo luật - Gửi miễn phí...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

What's hot (19)

Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Vấn đề lý luận thực tiễn về thi hành hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề lý luận thực tiễn về thi hành hình phạt tử hìnhLuận văn: Vấn đề lý luận thực tiễn về thi hành hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề lý luận thực tiễn về thi hành hình phạt tử hình
 
Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Những người tiến hành tố tụng trong Cơ quan điều tra
Luận văn: Những người tiến hành tố tụng trong Cơ quan điều traLuận văn: Những người tiến hành tố tụng trong Cơ quan điều tra
Luận văn: Những người tiến hành tố tụng trong Cơ quan điều tra
 
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại tỉnh Bắc Ninh
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại tỉnh Bắc NinhLuận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại tỉnh Bắc Ninh
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại tỉnh Bắc Ninh
 
Luận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sựLuận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Chế định án tích trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Chế định án tích trong luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Chế định án tích trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Chế định án tích trong luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sựLuận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Quyết định hình phạt tù có thời hạn tại TP Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...
Luận văn: Quyết định hình phạt tù có thời hạn tại TP Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...Luận văn: Quyết định hình phạt tù có thời hạn tại TP Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...
Luận văn: Quyết định hình phạt tù có thời hạn tại TP Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...
 
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tộiLuận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
 
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niên
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niênBảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niên
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niên
 
Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội theo luật - Gửi miễn phí...
Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội theo luật - Gửi miễn phí...Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội theo luật - Gửi miễn phí...
Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội theo luật - Gửi miễn phí...
 
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩmLuận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
 
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAYLuận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
 
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sựLuận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt NamLuận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
 

Similar to Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT

ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...
Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...
Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...
ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...
ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...Luận Văn 1800
 

Similar to Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT (20)

Luận văn: Vai trò của luật sư trong phòng chống oan sai trong TTHS
Luận văn: Vai trò của luật sư trong phòng chống oan sai trong TTHSLuận văn: Vai trò của luật sư trong phòng chống oan sai trong TTHS
Luận văn: Vai trò của luật sư trong phòng chống oan sai trong TTHS
 
Luận văn: Vấn đề về chế định án tích trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Vấn đề về chế định án tích trong luật hình sự, HAYLuận văn: Vấn đề về chế định án tích trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Vấn đề về chế định án tích trong luật hình sự, HAY
 
Năng lực của Thẩm phán trong xét xử vụ án hành chính, HOT
Năng lực của Thẩm phán trong xét xử vụ án hành chính, HOTNăng lực của Thẩm phán trong xét xử vụ án hành chính, HOT
Năng lực của Thẩm phán trong xét xử vụ án hành chính, HOT
 
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...
 
Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...
Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...
Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...
 
Luận án: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HAYLuận án: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HAY
 
Thủ tục hỏi và tranh luận tại phiên tòa dân sự sơ thẩm.doc
Thủ tục hỏi và tranh luận tại phiên tòa dân sự sơ thẩm.docThủ tục hỏi và tranh luận tại phiên tòa dân sự sơ thẩm.doc
Thủ tục hỏi và tranh luận tại phiên tòa dân sự sơ thẩm.doc
 
Luận văn: Thủ tục giải quyết khiếu kiện hành chính tỉnh Hậu Giang
Luận văn: Thủ tục giải quyết khiếu kiện hành chính tỉnh Hậu GiangLuận văn: Thủ tục giải quyết khiếu kiện hành chính tỉnh Hậu Giang
Luận văn: Thủ tục giải quyết khiếu kiện hành chính tỉnh Hậu Giang
 
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAYLuận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án
Luận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa ánLuận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án
Luận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án
 
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOTLuận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
 
Luận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...
 
ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...
ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...
ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...
 
Luận văn: Quyền bào chữa của bị cáo là người chưa thành niên
Luận văn: Quyền bào chữa của bị cáo là người chưa thành niênLuận văn: Quyền bào chữa của bị cáo là người chưa thành niên
Luận văn: Quyền bào chữa của bị cáo là người chưa thành niên
 
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụngQuyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
 
Luận án: Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên
Luận án: Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niênLuận án: Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên
Luận án: Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên
 
Đề tài: Địa vị pháp lý của người bị hại trong tố tụng hình sự, HOT
Đề tài: Địa vị pháp lý của người bị hại trong tố tụng hình sự, HOTĐề tài: Địa vị pháp lý của người bị hại trong tố tụng hình sự, HOT
Đề tài: Địa vị pháp lý của người bị hại trong tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người được thi hành án
Luận văn: Bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người được thi hành ánLuận văn: Bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người được thi hành án
Luận văn: Bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người được thi hành án
 
Luận văn: Quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án
Luận văn: Quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành ánLuận văn: Quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án
Luận văn: Quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docDịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (19)

BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự, HOT

  • 1. ®¹i häc quèc gia hµ néi khoa luËt nguyÔn thÞ thóy ngäc ng-êi cã quyÒn lîi, nghÜa vô liªn quan trong tè tông h×nh sù - nh÷ng vÊn ®Ò lý luËn vµ thùc tiÔn luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc Hµ néi - 2008
  • 2. ®¹i häc quèc gia hµ néi khoa luËt nguyÔn thÞ thóy ngäc ng-êi cã quyÒn lîi, nghÜa vô liªn quan trong tè tông h×nh sù - nh÷ng vÊn ®Ò lý luËn vµ thùc tiÔn Chuyªn ngµnh : LuËt h×nh sù M· sè : 60 38 40 luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc Ng-êi h-íng dÉn khoa häc: TS. NguyÔn Ngäc ChÝ Hµ néi - 2008
  • 3. Môc lôc Trang Trang phô b×a Lêi cam ®oan Môc lôc Danh môc c¸c b¶ng më ®Çu 1 Ch-¬ng 1: mét sè vÊn ®Ò lý luËn vÒ ng-êi cã quyÒn lîi, nghÜa vô liªn quan ®Õn vô ¸n trong tè tông h×nh sù 5 1.1. Kh¸i niÖm ng-êi cã quyÒn lîi, nghÜa vô liªn quan ®Õn vô ¸n 5 1.2. C¬ së cña viÖc quy ®Þnh ng-êi cã quyÒn lîi, nghÜa vô liªn quan ®Õn vô ¸n trong luËt tè tông h×nh sù 16 1.3. Ph©n biÖt ng-êi cã quyÒn lîi, nghÜa vô liªn quan víi nh÷ng ng-êi tham gia tè tông kh¸c 20 1.3.1. Ph©n biÖt ng-êi cã quyÒn lîi liªn quan víi ng-êi bÞ h¹i 20 1.3.2. Ph©n biÖt ng-êi cã quyÒn lîi liªn quan víi nguyªn ®¬n d©n sù 24 1.3.3. Ph©n biÖt ng-êi cã nghÜa vô liªn quan víi bÞ ®¬n d©n sù 27 1.3.4. Ph©n biÖt ng-êi cã quyÒn lîi, nghÜa vô liªn quan víi ng-êi lµm chøng 29 1.3.5. Ph©n biÖt ng-êi cã quyÒn lîi, nghÜa vô liªn quan víi ng-êi ®¹i diÖn hîp ph¸p cña bÞ can, bÞ c¸o 32 1.4. LÞch sö c¸c quy ®Þnh cña ph¸p luËt vÒ ng-êi cã quyÒn lîi, nghÜa vô liªn quan ®Õn vô ¸n 34 1.5. Quy ®Þnh cña ph¸p luËt mét sè n-íc vÒ ng-êi cã quyÒn lîi, nghÜa vô liªn quan ®Õn vô ¸n 41
  • 4. 1.5.1. Céng hßa nh©n d©n Trung Hoa 41 1.5.2. Liªn bang Nga 42 1.5.3. Céng hßa Liªn bang §øc 43 1.5.4. Canada 44 1.5.5. Céng hßa Ph¸p 47 Ch-¬ng 2: quyÒn vµ nghÜa vô ph¸p lý cña ng-êi cã quyÒn lîi, nghÜa vô liªn quan ®Õn vô ¸n theo ph¸p luËt tè tông h×nh sù ViÖt nam 50 2.1. N¨ng lùc ph¸p luËt vµ n¨ng lùc hµnh vi tè tông h×nh sù cña ng-êi cã quyÒn lîi, nghÜa vô liªn quan 50 2.2. QuyÒn vµ nghÜa vô cña ng-êi cã quyÒn lîi, nghÜa vô liªn quan trong tè tông h×nh sù 53 2.2.1. QuyÒn cña ng-êi cã quyÒn lîi, nghÜa vô liªn quan trong tè tông h×nh sù 53 2.2.1.1. QuyÒn ®-a ra tµi liÖu, ®å vËt, yªu cÇu trong c¸c giai ®o¹n tè tông 53 2.2.1.2. QuyÒn tham gia phiªn tßa, ph¸t biÓu ý kiÕn, tranh luËn t¹i phiªn tßa ®Ó b¶o vÖ quyÒn vµ lîi Ých hîp ph¸p cña m×nh 55 2.2.1.3. QuyÒn ñy quyÒn cho ng-êi kh¸c tham gia tè tông 58 2.2.1.4. QuyÒn nhê ng-êi b¶o vÖ quyÒn vµ lîi Ých hîp ph¸p cña m×nh 59 2.2.1.5. QuyÒn kh¸ng c¸o, khiÕu n¹i b¶n ¸n, quyÕt ®Þnh cña Tßa ¸n vÒ nh÷ng vÊn ®Ò trùc tiÕp liªn quan ®Õn quyÒn lîi, nghÜa vô cña m×nh 62 2.2.1.6. QuyÒn khiÕu n¹i quyÕt ®Þnh, hµnh vi tè tông cña c¬ quan, ng-êi cã thÈm quyÒn tiÕn hµnh tè tông 65 2.2.1.7. QuyÒn yªu cÇu thi hµnh ¸n 67 2.2.2. NghÜa vô vµ hËu qu¶ ph¸p lý cña viÖc kh«ng thùc hiÖn ®óng nghÜa vô cña ng-êi cã quyÒn lîi, nghÜa vô liªn quan trong tè tông h×nh sù 68
  • 5. 2.2.2.1. NghÜa vô tr×nh bµy trung thùc nh÷ng t×nh tiÕt trùc tiÕp liªn quan ®Õn quyÒn lîi, nghÜa vô cña m×nh 69 2.2.2.2. NghÜa vô cã mÆt theo giÊy triÖu tËp 72 2.2.2.3. NghÜa vô tu©n thñ néi quy phiªn tßa 75 2.2.2.4. NghÜa vô thùc hiÖn b¶n ¸n, quyÕt ®Þnh cña Tßa ¸n 77 Ch-¬ng 3: thùc tiÔn ¸p dông vµ mét sè kiÕn nghÞ 79 3.1. Thùc tiÔn ¸p dông 79 3.2. Nguyªn nh©n vµ gi¶i ph¸p kh¾c phôc 96 3.2.1. Nguyªn nh©n 96 3.2.1.1. Nguyªn nh©n kh¸ch quan 96 3.2.1.2. Nguyªn nh©n chñ quan 97 3.2.2. Gi¶i ph¸p kh¾c phôc 98 3.2.2.1. VÒ lËp ph¸p 98 3.2.2.2. VÒ ¸p dông ph¸p luËt 104 3.2.2.3. VÒ c«ng t¸c c¸n bé 105 kÕt luËn 107 danh môc tµi liÖu tham kh¶o 109 phô lôc 113
  • 6. danh môc c¸c b¶ng Sè hiÖu b¶ng Tªn b¶ng Trang 3.1. Tæng hîp sè vô ¸n cã ng-êi cã quyÒn lîi, nghÜa vô liªn quan tõ n¨m 2003 - 2007 t¹i Tßa ¸n nh©n d©n tØnh Hµ T©y 79 3.2. Tæng hîp sè vô ¸n cã ng-êi cã quyÒn lîi, nghÜa vô liªn quan cã kh¸ng c¸o hoÆc bÞ kh¸ng c¸o, kh¸ng nghÞ tõ n¨m 2003 - 2007 t¹i Tßa ¸n nh©n d©n tØnh Hµ T©y 79 3.3. Tæng hîp kÕt qu¶ xÐt xö phóc phÈm sè vô ¸n cã ng-êi cã quyÒn lîi, nghÜa vô liªn quan cã kh¸ng c¸o hoÆc bÞ kh¸ng c¸o, kh¸ng nghÞ tõ n¨m 2003 - 2007 t¹i Tßa ¸n nh©n d©n tØnh Hµ T©y 80
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Trong giải quyết vụ án hình sự, vấn đề trọng tâm và quan trọng là xác định trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, ở nhiều vụ án còn đặt ra vấn đề trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng. Thực tế, trong tổng số các vụ án hình sự, số lượng án đòi hỏi phải giải quyết phần dân sự và vật chứng chiếm tỷ lệ không ít, nếu không muốn nói là tương đối nhiều. Để giải quyết vụ án triệt để, các cơ quan tiến hành tố tụng phải đưa những người có liên quan đến các vấn đề đó vào vụ án hình sự để xem xét và quyết định về quyền lợi hoặc nghĩa vụ của họ. Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành cũng như các văn bản pháp luật tố tụng hình sự từ trước đến nay quy định chưa cụ thể, rõ ràng về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Nhiều nội dung quan trọng còn bỏ ngỏ như: chưa quy định khái niệm, các quyền và nghĩa vụ tố tụng ghi nhận chưa đầy đủ, chưa có văn bản hướng dẫn để làm cơ sở cho sự phân biệt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án với một số người tham gia tố tụng khác… Do đó các cơ quan tiến hành tố tụng gặp không ít khó khăn, vướng mắc trong xác định tư cách tham gia tố tụng, thường xảy ra sự nhầm lẫn giữa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan với người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người làm chứng, người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo. Điều đó làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi chính đáng của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án nói riêng và những người tham gia tố tụng nói chung. Để góp phần tháo gỡ những vướng mắc trong việc xác định tư cách tham gia tố tụng, tránh những nhầm lẫn không nên có, giúp cho việc áp dụng pháp luật tố tụng hình sự được đúng đắn, thống nhất, việc nghiên cứu một cách hệ thống cả về lý luận lẫn thực tiễn về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án trong tố tụng hình sự là đòi hỏi cần thiết trong giai đoạn cải cách tư pháp hiện nay. Vì vậy tác giả đã chọn đề tài "Người có quyền lợi,
  • 8. 2 nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự - những vấn đề lý luận và thực tiễn" với mong muốn phần nào đáp ứng yêu cầu của việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự cũng như áp dụng pháp luật tố tụng hình sự trong giải quyết các vụ án hình sự nước ta. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong khoa học luật tố tụng hình sự, có nhiều công trình nghiên cứu đưa ra cơ sở lý luận cho từng vấn đề của tố tụng hình sự. Tuy nhiên, đến nay chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách cụ thể, chi tiết và có hệ thống về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Mặc dù là đề tài hẹp, song do đòi hỏi của tính khách quan, toàn diện trong giải quyết vụ án hình sự, xuất phát từ tình hình thực tế các cơ quan tiến hành tố tụng nhiều trường hợp xác định không chính xác tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mà đề tài này cần được quan tâm tìm hiểu. Là một cán bộ ngành Tòa án làm công tác thực tiễn, tác giả nhận thấy việc nghiên cứu về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có vai trò, ý nghĩa rất lớn, đặc biệt là trong bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng, một trong những nhiệm vụ của giải quyết án hình sự. 3. Mục đích nghiên cứu đề tài Việc nghiên cứu đề tài nhằm mục đích làm rõ cơ sở lý luận, nội dung các quyền và nghĩa vụ tố tụng của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, các biện pháp đảm bảo xác định đúng tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự. Qua đây nhằm đóng góp một vài ý kiến vào việc xây dựng chế định này trong pháp luật tố tụng hình sự hiện nay, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động bảo vệ pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, thực tiễn hoạt động tố tụng hình sự của các cơ quan tư
  • 9. 3 pháp, đặc biệt là Tòa án trong việc xác định, giải quyết quyền, nghĩa vụ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Trên cơ sở mục đích, đối tượng nghiên cứu đã xác định phạm vi nghiên cứu đề tài chỉ tập trung vào những vấn đề liên quan đến người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và trong hoạt động tố tụng hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự Việt Nam. Luận văn cũng có tìm hiểu, so sánh với pháp luật tố tụng hình sự của một số nước trên thế giới về vấn đề này. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng và Nhà nước. Luận văn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học như: phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, tổng hợp, phương pháp đàm thoại… 6. Ý nghĩa khoa học của đề tài - Với cơ quan lập pháp: Kết quả nghiên cứu đề tài người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự sẽ giúp xác định được khái niệm, những quyền và nghĩa vụ pháp lý của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, ban hành văn bản hướng dẫn các cơ quan tiến hành tố tụng. Việc xây dựng các quy phạm pháp luật phù hợp, đầy đủ, có hệ thống sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng để giải quyết vụ án hình sự. - Với cơ quan thực hiện pháp luật: Trên cơ sở sự nhận thức đúng đắn các quy định của pháp luật về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, bằng thực tiễn tiến hành các hoạt động tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng có thể xác định được đầy đủ, chính xác tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; những mối quan hệ pháp luật giữa họ với những người tham gia tố tụng khác cần được giải quyết, áp dụng đúng các quyền và nghĩa vụ pháp lý đối với họ. Từ đó góp phần giải quyết vụ án hình sự khách quan, toàn diện, đảm bảo
  • 10. 4 quyền lợi hợp pháp cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cũng như các đương sự khác. - Với người tham gia tố tụng: Bản thân người tham gia tố tụng khi có sự hiểu biết về pháp luật nói chung và về chế định người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nói riêng sẽ giúp họ xác định được mình có vị trí tố tụng như thế nào, có những quyền gì, được làm gì và làm đến đâu; có nghĩa vụ gì, thực hiện nghĩa vụ đó ra sao. Trên cơ sở đó họ sẽ bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình tốt hơn. 7. Những đóng góp mới của luận văn Luận văn đi vào làm rõ những vấn đề lý luận về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan như: khái niệm, đặc điểm, cơ sở của việc quy định người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong luật tố tụng hình sự, phân biệt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan với một số người tham gia tố tụng khác…; phân tích nội dung các quyền và nghĩa vụ pháp lý của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; tìm hiểu thực tiễn áp dụng. Trên cơ sở đó, trong luận văn đề xuất hướng hoàn thiện chế định người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong pháp luật tố tụng hình sự và đưa ra các biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động áp dụng pháp luật tố tụng hình sự nhằm giải quyết vụ án hình sự khách quan, toàn diện, bảo vệ quyền lợi chính đáng của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cũng như những người tham gia tố tụng khác. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án trong tố tụng hình sự. Chương 2: Quyền và nghĩa vụ pháp lý của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Chương 3: Thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị.
  • 11. 5 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƢỜI CÓ QUYỀN LỢI, NGHĨA VỤ LIÊN QUAN ĐẾN VỤ ÁN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ Luật tố tụng hình nhiều nước trên thế giới không có quy định về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, chỉ một số nước, trong đó có Việt Nam quy định về loại người này. Việc quy định hoặc không quy định loại người này trong tố tụng hình sự xuất phát từ đặc điểm của hệ thống pháp luật, đặc điểm kinh tế, xã hội mỗi quốc gia. Chương này của luận văn sẽ làm rõ những nội dung sau: khái niệm người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; cơ sở của việc quy định người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong luật tố tụng hình sự; phân biệt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan với một số người tham gia tố tụng khác; lịch sử các quy định của pháp luật Việt Nam về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; quy định của pháp luật nước ngoài về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. 1.1. KHÁI NIỆM NGƢỜI CÓ QUYỀN LỢI, NGHĨA VỤ LIÊN QUAN ĐẾN VỤ ÁN Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự 2003, tuy nhiên điều luật về loại người này không định nghĩa nội hàm về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, như các điều luật khác quy định về người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người làm chứng. Trong khoa học pháp lý có nhiều quan điểm về khái niệm người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Các giáo trình của các cơ sở đào tạo luật cũng không có sự đồng nhất về khái niệm người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Cụ thể, giáo trình Luật tố tụng hình sự của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội nêu: người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là người có quyền lợi và nghĩa vụ bị ảnh hưởng bởi các quyết định của Tòa án [20, tr. 145];
  • 12. 6 giáo trình Luật tố tụng hình sự của Học viện Cảnh sát nhân dân và Đại học Luật Hà Nội thì nêu: người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là người có quyền lợi, nghĩa vụ bị ảnh hưởng trực tiếp bởi các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng [18, tr. 112], [41, tr. 134]. Chúng ta còn tìm thấy khái niệm về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong các tài liệu tham khảo như Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự. Nhìn chung, các tài liệu này đều đưa ra định nghĩa về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan như định nghĩa trong giáo trình Luật tố tụng hình sự của khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Ngoài ra, còn có tác giả nêu: người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc xét xử vụ án hình sự của Tòa án và được Tòa án chấp nhận đưa họ vào tham gia với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự [24]. Như vậy, các giáo trình cũng như các sách báo, tài liệu tham khảo khi định nghĩa về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có sự khác nhau ở việc xác định chủ thể có thẩm quyền ra quyết định ảnh hưởng đến quyền lợi, nghĩa vụ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, có khái niệm xác định là Tòa án, có khái niệm xác định là cơ quan tiến hành tố tụng. Trong thực tế, mặc dù tư cách tham gia tố tụng cũng như quyền và nghĩa vụ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyết định chủ yếu trong giai đoạn xét xử, bằng bản án của Tòa án. Song về nguyên tắc, quyền lợi, nghĩa vụ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được giải quyết trong bất kỳ giai đoạn nào của quá trình tố tụng. Chẳng hạn, ở giai đoạn điều tra hay giai đoạn truy tố, nếu vụ án được đình chỉ thì Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát sẽ quyết định việc xử lý vật chứng. Theo đó quyền lợi, nghĩa vụ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan sẽ được giải quyết. Điều này cho thấy, ngoài Tòa án, các cơ quan tiến hành tố tụng khác cũng có thẩm quyền ra các quyết định ảnh hưởng đến quyền lợi, nghĩa vụ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Mặt khác, khoản 2 Điều 54 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: "Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án phải có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án" [11]. Quy
  • 13. 7 định này đã góp phần khẳng định tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có trong các giai đoạn tố tụng, từ giai đoạn điều tra, đến truy tố, xét xử và chịu tác động của cả ba cơ quan tiến hành tố tụng gồm Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Tuy nhiên, đây chưa phải là điều quan trọng, cái quan trọng là phải nêu rõ những nội dung, đặc điểm của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Nên chăng xây dựng khái niệm về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự như sau: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi hoặc nghĩa vụ về vật chất, tinh thần do có liên quan đến tội phạm, được các cơ quan tiến hành tố tụng công nhận và xem xét, quyết định về những vấn đề ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ. Định nghĩa này đã phần nào khắc phục được hạn chế trong tất cả các định nghĩa mà chúng ta vừa tìm hiểu, đó là chỉ ra được nội hàm của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; đồng thời khẳng định quan điểm của tác giả về xác định chủ thể có thẩm quyền ra các quyết định ảnh hưởng đến quyền lợi, nghĩa vụ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Từ định nghĩa trên thì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có những đặc điểm sau: Thứ nhất: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chỉ xuất hiện khi có hành vi phạm tội. Khi hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với một mức độ đáng kể mà Bộ luật hình sự quy định là "tội phạm", nó không chỉ làm phát sinh trách nhiệm hình sự, một loại trách nhiệm của người phạm tội đối với Nhà nước, thể hiện mối quan hệ bất bình đẳng; mà còn làm phát sinh trách nhiệm dân sự, một loại trách nhiệm giữa những người tham gia tố tụng với nhau, thể hiện mối quan hệ mang tính bình đẳng, thỏa thuận. Cụ thể đó là mối quan hệ giữa người bị thiệt hại (người bị hại, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi liên quan) với người có trách nhiệm bồi thường hoặc hoàn trả tài
  • 14. 8 sản (bị can, bị cáo, bị đơn dân sự, người có nghĩa vụ liên quan). Bên cạnh đó, khi hành vi phạm tội xảy ra, do đòi hỏi của quá trình điều tra thu thập chứng cứ, cơ quan điều tra có thể đã tiến hành thu giữ những vật chứng và tài sản có liên quan. Khi vụ án hình sự được giải quyết, các cơ quan tiến hành tố tụng phải quyết định xử lý vật chứng, tài sản đó nhằm đảm bảo quyền lợi cho chủ sở hữu hợp pháp. Vấn đề trách nhiệm dân sự, vấn đề xử lý vật chứng phát sinh đã làm xuất hiện tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự. Tất nhiên, không phải hành vi phạm tội nào cũng làm phát sinh hai vấn đề này và làm xuất hiện người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng. Song nếu không có hành vi phạm tội xảy ra thì không thể có người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Vì, nếu là hành vi vi phạm pháp luật khác (không đủ yếu tố cấu thành tội phạm) thì vấn đề bồi thường, trả lại tài sản sẽ được giải quyết bằng ngành luật quy định về hành vi vi phạm đó và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đối với hành vi phạm tội sẽ được xác định tư cách tham gia tố tụng theo pháp luật tố tụng dân sự. Thứ hai: Quyền lợi, nghĩa vụ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải xuất phát từ các quan hệ do hành vi phạm tội gây ra. Trong vụ án hình sự, vì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là người bị ảnh hưởng trực tiếp bởi các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, đặc biệt là Tòa án, do đó việc xác định quyền lợi và nghĩa vụ của một người nào đó có liên quan đến vụ án hay không rất quan trọng. Xác định đúng quan hệ pháp luật và đúng tư cách chủ thể mới có thể đưa ra được quyết định đúng đắn. Thực tế có những vấn đề không hề liên quan đến vụ án hình sự nhưng Tòa án lại vẫn giải quyết trong vụ án hình sự và xác định tư cách tố tụng của chủ thể là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là không đúng. Ví dụ A bán cho B một chiếc xe máy nhưng B chưa trả hết tiền, vẫn còn nợ A 6 triệu. B đã dùng chiếc xe đó đi cướp giật tài sản và bị truy tố. Khi xét xử Tòa án xác định A là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Thực chất, việc A bán cho B chiếc xe máy và B vẫn còn nợ A một số tiền là quan hệ pháp luật dân sự về hợp
  • 15. 9 đồng mua bán tài sản, không có liên quan gì đến vụ án hình sự đang giải quyết. Tuy nhiên, bên cạnh đó lại có những quan hệ pháp luật kinh tế hay dân sự, nếu chỉ xét về hình thức thì không thấy liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nhưng xét về nghĩa vụ lại có liên quan đến hành vi phạm tội, thì người đã tham gia vào giao dịch dân sự hay kinh tế đó vẫn được xác định là người có quyền lợi liên quan đến vụ án và quyền lợi của họ được giải quyết cùng với việc giải quyết vụ án hình sự. Ví dụ: vợ chồng ông H cho T dùng giấy tờ sở hữu nhà của mình để T thế chấp vay tiền ngân hàng. Đến hạn T không trả được nợ và bỏ trốn, cơ quan điều tra phải ra lệnh truy nã mới bắt được T. Viện kiểm sát truy tố T về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Trong vụ án này vợ chồng ông H cần được xác định là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Đó là quyền lợi về ngôi nhà và nghĩa vụ là nghĩa vụ bảo lãnh cho T vay tiền ngân hàng [23, tr. 116]. Trên cơ sở xem xét tính liên quan đến việc thực hiện hành vi phạm tội, chúng ta có thể xác định người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thuộc hai dạng sau: Dạng thứ nhất: Đó là người không tham gia vào việc thực hiện tội phạm nhưng quyền lợi hoặc nghĩa vụ của họ có liên quan đến vụ án. Thực tế thường xảy ra các trường hợp như: - Người giao tài sản, phương tiện cho người khác không nhằm mục đích thực hiện tội phạm. Khi cho mượn, cho thuê tài sản họ đã không biết, không buộc phải biết và không thể biết được người nhận tài sản lại sử dụng vào việc thực hiện tội phạm. Thực tế người phạm tội đã dùng tài sản đó làm công cụ, phương tiện phạm tội nên bị cơ quan tiến hành tố tụng thu giữ. Ví dụ cho người khác mượn xe để đi công tác nhưng người đó dùng để chở hàng lậu... - Người là chủ sở hữu tài sản nhưng vì lý do nào đó mà tài sản của chủ sở hữu bị lẫn vào trong số tài sản liên quan đến hành vi phạm tội nên bị cơ
  • 16. 10 quan tiến hành tố tụng tạm giữ. Ví dụ 1: người mang vải đến hiệu may để may quần áo nhưng số vải đó bị thu giữ cùng với số vải của người chủ hiệu may phạm tội. Ví dụ 2: do thấy bị phát hiện, người phạm tội đã giấu chiếc bình gốm vừa trộm được vào cửa hàng bán đồ gốm của người khác, cơ quan tiến hành tố tụng đã thu giữ toàn bộ số đồ gốm tại cửa hàng. - Người được người khác cho tài sản mà không biết đó là tài sản do phạm tội mà có. Ví dụ A cướp được chiếc đồng hồ đeo tay đem về cho anh trai mình, nói là nhặt được. Dạng thứ hai: Người đã tham gia trong chừng mực nhất định vào việc thực hiện tội phạm nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc được miễn trách nhiệm hình sự nhưng phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại hoặc trả lại tài sản được hưởng từ việc thực hiện tội phạm. Ví dụ A, B, C rủ nhau đi trộm cắp tài sản, tài sản trộm được là một chiếc xe đạp có giá trị 400.000 đồng (theo kết luận của Hội đồng định giá tài sản). Cả 3 đã bán chiếc xe đó lấy tiền chia nhau tiêu xài, nhưng chỉ có A bị khởi tố về hình sự, còn B, C không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, khi vụ án được đưa ra xét xử, Tòa án đã xác định B, C là người có nghĩa vụ liên quan để buộc A, B, C phải liên đới bồi thường cho người bị hại. Thứ ba: về chủ thể, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có thể là cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức. Chúng ta có thể thấy dưới góc độ pháp luật tố tụng hình sự thì không có một sự khẳng định rõ ràng và chắc chắn rằng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chỉ có thể là cá nhân hay bao gồm cả cá nhân và cơ quan, tổ chức? Có quan điểm cho rằng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là con người cụ thể chứ không phải là cơ quan, tổ chức. Bởi lẽ, Điều 54 Bộ luật tố tụng hình sự quy định bằng từ "người" tức là chỉ cá nhân con người, cũng giống như người bị hại được quy định tại Điều 51, chỉ có thể là cá nhân. Tuy nhiên, theo quan điểm của chúng tôi thì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự có thể là cá nhân hoặc cơ quan, tổ
  • 17. 11 chức. Để lý giải cho điều này, chúng ta hãy xem xét dưới các khía cạnh sau: Thứ nhất, xét về mặt nội dung thì người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần hay tài sản do tội phạm gây ra. Họ là con người cụ thể bị chính hành vi phạm tội trực tiếp xâm phạm. Thể chất, tinh thần, tài sản của họ là đối tượng của sự xâm phạm đó. Còn người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có thể là người không liên quan đến hành vi phạm tội nhưng vì lý do nào đó mà tài sản của họ bị các cơ quan tiến hành tố tụng tịch thu, kê biên nên việc giải quyết vụ án ảnh hưởng đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ. Những thiệt hại (nếu có) của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cũng không phải là hậu quả được mang lại do sự xâm phạm trực tiếp của hành vi phạm tội. Thứ hai, xét về mặt hình thức thì người bị hại cũng như bị can, bị cáo là những chủ thể chỉ có trong tố tụng hình sự. Còn các chủ thể khác như: nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều là những người tham gia tố tụng có trong cả tố tụng hình sự và tố tụng dân sự. Vì vậy chúng ta có thể vận dụng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự để xác định. Khoản 1 Điều 56 Bộ luật tố tụng dân sự đã khẳng định rõ: "Đương sự trong vụ án dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan" [12]. Vì vậy, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự có thể là cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức. Từ "người" là một danh từ được sử dụng để chỉ một loại chủ thể trong quan hệ tố tụng nói chung. Có thể lấy một vài ví dụ như sau: Ví dụ 1: A là lái xe cho công ty cổ phần Taxi. Vì mục đích tư lợi, A đã sử dụng xe của công ty để chở hàng lậu và bị cơ quan tiến hành tố tụng tịch thu chiếc xe đó. Trong trường hợp này, chiếc xe là tài sản thuộc sở hữu của công ty và đã bị người phạm tội dùng làm phương tiện để thực hiện tội phạm. Rõ ràng công ty cổ phần Taxi đó phải được xác định là người có quyền lợi liên quan, mà cụ thể là quyền đòi trả lại tài sản.
  • 18. 12 Ví dụ 2: Nhà trường đã mang vải đến hiệu may để may đồng phục cho các em học sinh. Số vải này đã bị cơ quan tiến hành tố tụng thu giữ cùng với số vải của người chủ hiệu may phạm tội đầu cơ. Trường hợp này nhà trường là người có quyền lợi liên quan chứ không thể là một tư cách chủ thể nào khác khi tham gia tố tụng. Trên thực tế đã có những vụ án hình sự mà cơ quan tiến hành tố tụng xác định người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là cơ quan, tổ chức. Xin đơn cử hai vụ án sau: Vụ án thứ nhất: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 269/2002/HSST ngày 30/12/2002 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tây và bản án hình sự phúc thẩm số 823/2003/HSPT ngày 24/6/2003 của Tòa án nhân dân tối cao đều xác định người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Công ty trách nhiệm hữu hạn Vĩnh Phúc, tỉnh Vĩnh Phúc. Nội dung vụ án và kết quả giải quyết như sau: Nguyễn Văn Khải không có giấy phép lái xe môtô phân khối lớn, nhưng đã điều khiển xe môtô loại 70 phân khối chở vợ và con đi trên đường cao tốc 1A mới theo hướng Hà Nam - Hà Nội. Khi đến Km 197 + 50 thuộc địa phận thôn Hướng Dương, Thắng Lợi, Thường Tín, Hà Tây, Khải đã điều khiển xe chạy sang phần đường giành riêng cho xe ôtô tải thì bị xe ôtô tải của Trần Tuấn Dũng (là lái xe thuộc Công ty trách nhiệm hữu hạn Vĩnh Phúc, tỉnh Vĩnh Phúc) chạy cùng chiều xe của Khải đâm vào phía sau xe máy do Khải điều khiển. Hậu quả: vợ của Khải chết, con của Khải bị thương, hai xe môtô và ôtô hư hỏng nhẹ. Khi xem xét vấn đề trách nhiệm dân sự, Tòa án sơ thẩm xác định: các bị cáo và đại diện gia đình nạn nhân đã có sự tự thỏa thuận về phần bồi thường, tại phiên tòa các bên không có tranh chấp hay đề nghị gì nên Tòa không giải quyết. Sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo Nguyễn Văn Khải có đơn kháng cáo yêu cầu Công ty trách nhiệm hữu hạn Vĩnh Phúc phải có trách nhiệm bồi thường cho gia đình nạn nhân. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: phía bị cáo Dũng và Công ty chủ quản là Công ty trách nhiệm hữu hạn
  • 19. 13 Vĩnh Phúc có hợp đồng mọi vấn đề lái xe phải tự chịu trách nhiệm (bút ký sơ thẩm). Hơn nữa sau khi tai nạn xảy ra phía bị cáo Dũng và gia đình nạn nhân đã có sự thỏa thuận như bị cáo Dũng phải bồi thường toàn bộ là 27.150.000đ (đã bồi thường xong). Do vậy yêu cầu kháng cáo về phần bồi thường của bị cáo Khải đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn Vĩnh Phúc là không có căn cứ chấp nhận. Vụ án thứ hai: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 123/2007/HSST ngày 28/9/2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tây xác định: Khách sạn Anh Quân, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Đông, Công ty cổ phần cáp treo Chùa Hương, Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tây là những người có quyền lợi liên quan. Nội dung vụ án và kết quả giải quyết như sau: Nguyễn Thị Hiền, Ngô Ngọc Lâm, Phạm Thị Thủy, Nguyễn Viết Ngạch, Nguyễn Xuân Trường, Nguyễn Văn Đạo đã thực hiện các hành vi gây rối tại Khách sạn Anh Quân, ủy ban nhân dân thành phố Hà Đông, Công ty cổ phần cáp treo Chù Hương, ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tây gây thiệt hại cho các tổ chức này. Tòa án tuyên bố các bị cáo phạm tội Gây rối trật tự công cộng. Khi xem xét vấn đề trách nhiệm dân sự, vì các cơ quan và doanh nghiệp trên không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường thiệt hại nên Tòa không xét. Vụ án không có kháng cáo về phần dân sự. Thứ tư: Họ có quyền lợi hoặc nghĩa vụ về vật chất, tinh thần. Nội dung quyền và nghĩa vụ ở đây được hiểu là quyền và nghĩa vụ trong quan hệ nội dung, chứ không phải quan hệ tố tụng. Quyền và nghĩa vụ tố tụng chúng ta sẽ xem xét ở phần sau trên cơ sở quy định tại Điều 54 Bộ luật tố tụng hình sự. Thực chất người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bao gồm hai loại người là người có quyền lợi liên quan và người có nghĩa vụ liên quan. Điều 54 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định hai tư cách tham gia tố tụng có quyền, lợi ích hoàn toàn khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Trên thực tế xảy ra ba trường
  • 20. 14 hợp: người chỉ có quyền lợi; người chỉ có nghĩa vụ; người vừa có quyền lợi, vừa có nghĩa vụ. - Người có quyền lợi liên quan đến vụ án là người có lợi ích vật chất hoặc tinh thần có liên quan đến tội phạm do bị can, bị cáo thực hiện và được cơ quan tiến hành tố tụng công nhận. Đó thường là các quyền như: quyền đòi trả lại tài sản mà người phạm tội đã sử dụng làm công cụ, phương tiện phạm tội; đòi tài sản trong số tài sản của bị can, bị cáo mà cơ quan tiến hành tố tụng đã tịch thu, kê biên; đòi bồi thường giá trị tài sản bị hư hỏng, giảm sút giá trị sử dụng; đòi sửa chữa tài sản hư hỏng; đòi bồi thường những thiệt hại về lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản; quyền được cấp dưỡng, quyền được bồi thường tổn thất về tinh thần… - Người có nghĩa vụ liên quan đến vụ án là người có nghĩa vụ vật chất hoặc tinh thần do có liên quan đến tội phạm mà bị can, bị cáo thực hiện. Người có nghĩa vụ liên quan bao gồm những trường hợp sau: + Đó là người mà hành vi của họ có liên quan đến tội phạm do bị can, bị cáo thực hiện và theo pháp luật họ phải có trách nhiệm về hành vi của mình, trách nhiệm này chủ yếu là trách nhiệm vật chất. Ví dụ A, B, C cùng gây thương tích cho D nhưng chỉ có A và B bị truy tố, còn C được miễn trách nhiệm hình sự, Tòa án xác định C là người có nghĩa vụ liên quan và buộc A, B, C phải liên đới bồi thường cho D. Tuy nhiên trong một số trường hợp người có nghĩa vụ liên quan đến vụ án chỉ có trách nhiệm về mặt tinh thần. Ví dụ: A và B đều có hành vi vu khống Q, nhưng Q chỉ yêu cầu khởi tố đối với A nên A bị truy tố về tội vu khống còn B do người bị hại không yêu cầu khởi tố nên B không bị truy tố về tội này, Tòa án xác định B là người có nghĩa vụ liên quan và quyết định buộc A, B phải xin lỗi công khai Q [23, tr. 116]. Thông thường người có nghĩa vụ liên quan trong trường hợp này là người có tham gia thực hiện tội phạm trong một chừng mực nhất định nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc được miễn trách nhiệm hình sự.
  • 21. 15 + Họ cũng có thể là người không có liên quan đến việc thực hiện tội phạm của bị can, bị cáo nhưng đã được hưởng những lợi ích từ việc phạm tội nên phải có nghĩa vụ bồi hoàn những lợi ích đó. Ví dụ: A được B cho chiếc túi sách mà B trộm cắp được. Khi giải quyết vụ án Tòa án xác định A là người có nghĩa vụ liên quan và buộc A phải trả lại chiếc túi sách cho người bị hại. + Ngoài ra trên thực tế, các Tòa án vẫn thường xác định những người có nghĩa vụ liên đới bồi thường (có thể là liên đới với bị can, bị cáo hoặc liên đới với người tham gia tố tụng khác) là người có nghĩa vụ liên quan. Ví dụ: A để xe máy ngoài sân, trên xe vẫn cắm chìa khóa điện. B là hàng xóm sang chơi thấy vậy đã dùng xe để đi chợ mua thức ăn. Trên đường đi gây tai nạn làm chết người. B bị truy tố về tội "Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ". Tòa án xác định A là người có nghĩa vụ liên quan và buộc A và bị cáo B phải liên đới bồi thường cho người bị hại. Thứ năm: Quyền lợi và nghĩa vụ của họ sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp bởi quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng. Hành vi phạm tội xảy ra làm phát sinh trách nhiệm dân sự. Bên cạnh đó, khi hành vi phạm tội xảy ra, do đòi hỏi của quá trình điều tra thu thập chứng cứ dẫn đến vấn đề phải xử lý vật chứng. Khi giải quyết vụ án, các cơ quan tiến hành tố tụng phải quyết định về hai vấn đề này và làm ảnh hưởng đến quyền lợi, nghĩa vụ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Sự ảnh hưởng được thể hiện theo hai hướng: có lợi hoặc bất lợi. Có thể thấy trong tố tụng dân sự, việc xác định tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thường dựa vào đơn kiện. Người khởi kiện là nguyên đơn, người bị kiện là bị đơn, còn người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không phải là người khởi kiện cũng không phải là người bị kiện, họ chỉ là người tham gia vào vụ án dân sự đã xảy ra giữa nguyên đơn và bị đơn để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được chia ra làm hai loại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập và người có quyền lợi,
  • 22. 16 nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập là người có yêu cầu độc lập với yêu cầu của nguyên đơn và bị đơn. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập là người có yêu cầu đứng về phía nguyên đơn hoặc bị đơn, có quyền lợi gắn liền với quyền lợi của nguyên đơn hoặc bị đơn. Tố tụng dân sự không đòi hỏi xác định người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan rõ ràng là người có quyền lợi liên quan và người có nghĩa vụ liên quan. Quyết định của Tòa án có thể có lợi hoặc bất lợi cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nói chung. Còn trong tố tụng hình sự, việc xác định là người có quyền lợi hay người có nghĩa vụ liên quan căn cứ vào lợi ích được hưởng hay nghĩa vụ phải gánh chịu. Thường thì người có quyền lợi liên quan sẽ chịu ảnh hưởng bởi quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng theo hướng có lợi, còn người có nghĩa vụ liên quan lại chịu ảnh hưởng theo hướng bất lợi. Thứ sáu: Khi tham gia tố tụng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có các quyền và nghĩa vụ tố tụng được quy định tại Điều 54 Bộ luật tố tụng hình sự. Cụ thể: quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu trong các giai đoạn tố tụng; quyền tham gia phiên tòa, phát biểu ý kiến, tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình; quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án; nghĩa vụ trình bày trung thực những tình tiết trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình. Ngoài ra mặc dù Điều 54 Bộ luật tố tụng hình sự không quy định, song tại các quy định pháp luật khác, khi tham gia vào quá trình tố tụng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan còn có một số quyền và nghĩa vụ như: quyền ủy quyền cho người khác tham gia tố tụng; quyền nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; quyền yêu cầu thi hành án; nghĩa vụ tuân thủ nội quy phiên tòa; nghĩa vụ thực hiện bản án, quyết định của Tòa án.
  • 23. 17 1.2. CƠ SỞ CỦA VIỆC QUY ĐỊNH NGƢỜI CÓ QUYỀN LỢI, NGHĨA VỤ LIÊN QUAN ĐẾN VỤ ÁN TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ Vụ án hình sự phát sinh khi có hành vi xâm hại đến các quan hệ xã hội được Bộ luật hình sự bảo vệ. Người thực hiện hành vi đó cần phải bị xử lý bằng trách nhiệm hình sự. Quá trình áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền được gọi là tố tụng hình sự. Tố tụng hình sự là toàn bộ hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và cá nhân, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội nhằm giải quyết vụ án khách quan, toàn diện, nhanh chóng, chính xác và đúng pháp luật. Nó bao gồm hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự [20, tr. 13]. Trong tố tụng hình sự, vấn đề trách nhiệm hình sự là trọng tâm và người thực hiện hành vi phạm tội (tùy từng giai đoạn có thể được gọi là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án) là chủ thể bắt buộc phải có. Tuy nhiên để giải quyết vụ án hình sự một cách khách quan, toàn diện, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức thì quá trình tố tụng không thể bỏ qua những vấn đề liên quan đến vụ án. Một trong những vấn đề quan trọng cần giải quyết là trách nhiệm dân sự. Các cơ quan tiến hành tố tụng không chỉ có nhiệm vụ làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, định tội danh, quyết định hình phạt đối với người phạm tội mà còn phải giải quyết vấn đề dân sự liên quan đến lợi ích của các cá nhân, tổ chức bị thiệt hại. Đây thực chất là quan hệ mang tính dân sự và quan hệ này được đặt ra giữa các chủ thể là những người tham gia tố tụng bao gồm: người thực hiện hành vi phạm tội nói chung, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và những người đại diện hợp pháp của họ. Vì vậy khi giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự đòi hỏi các chủ thể tiến hành tố tụng phải áp dụng những nguyên tắc cơ bản của pháp luật về dân sự và tố tụng dân sự, đặc biệt là phải đảm bảo nguyên tắc bình đẳng thỏa thuận và nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự. Ngoài ra vấn đề xử lý vật
  • 24. 18 chứng, xử lý những tài sản đã thu giữ trong quá trình điều tra vụ án cũng là một vấn đề không kém phần quan trọng đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng phải quan tâm giải quyết, đảm bảo quyền lợi cho chủ sở hữu hợp pháp. Tùy từng vụ án cụ thể mà trách nhiệm dân sự hay vấn đề xử lý vật chứng có được đặt ra hay không và có những loại người nào tham gia vào quá trình tố tụng. Đối với nguyên đơn dân sự, để được tham gia vào quá trình tố tụng đòi hỏi họ phải có đơn yêu cầu; còn đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, bắt buộc các cơ quan tiến hành tố tụng phải đưa họ vào tham gia tố tụng. Có các chuỗi hệ lụy được xác định là: Thứ nhất: hành vi phạm tội xảy ra  gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tinh thần, tài sản, danh dự, uy tín cho cá nhân, tổ chức  làm phát sinh nghĩa vụ dân sự  các cơ quan tiến hành tố tụng phải xem xét, giải quyết nghĩa vụ này  phải đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng. Thứ hai: hành vi phạm tội xảy ra  cơ quan điều tra tiến hành điều tra thu thập chứng cứ  thu giữ vật chứng, tài sản  đòi hỏi phải xử lý vật chứng  phải đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng. Do đó quy định tư cách tham gia tố tụng của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự là một tất yếu. Vậy ý nghĩa, vai trò của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong giải quyết vụ án hình sự là gì? Trước hết, việc đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng và giải quyết quyền lợi, nghĩa vụ của họ góp phần đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hình sự mang tính tổng thể và toàn diện. Quá trình giải
  • 25. 19 quyết vụ án, các cơ quan tiến hành tố tụng phải thu thập đầy đủ chứng cứ để xem xét, quyết định nhiều vấn đề chứ không riêng gì trách nhiệm hình sự. Những vấn đề ngoài trách nhiệm hình sự chủ yếu là trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng. Khi giải quyết trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng sẽ làm ảnh hưởng đến quyền lợi, nghĩa vụ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Do đó cần thiết phải đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng để giải quyết vụ án hình sự được triệt để và toàn diện. Bên cạnh đó, việc tham gia vào quá trình tố tụng của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan còn bảo đảm cho việc giải quyết vụ án được khách quan. Hành vi được coi là tội phạm bao giờ cũng xâm hại đến khách thể được pháp luật hình sự bảo vệ. Khách thể đó có thể là tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản của con người hoặc tổ chức. Việc làm sáng tỏ toàn bộ sự thật khách quan của vụ án không chỉ là tiền đề cho việc định tội danh, quyết định hình phạt đối với người phạm tội, mà còn là cơ sở cho việc bồi thường, bồi hoàn tài sản. Đồng thời, để làm sáng tỏ toàn bộ sự thật khách quan của vụ án, cũng là để giải quyết vụ án được khách quan, đúng đắn đòi hỏi phải đưa những chủ thể có liên quan vào tham gia tố tụng, trong đó không thể thiếu người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khi họ là người có quyền lợi, nghĩa vụ bị ảnh hưởng trực tiếp bởi quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng. Cuối cùng, mục đích của việc giải quyết vụ án hình sự là để đảm bảo trật tự xã hội; đảm bảo pháp chế; bảo vệ những quyền và lợi ích chính đáng của các cá nhân, tổ chức. Vì vậy khi giải quyết vụ án hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng để xem xét, quyết định quyền lợi, nghĩa vụ của họ nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho chính họ. Những vai trò trên có mối quan hệ biện chứng với nhau. Đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng để xem xét, giải quyết toàn diện các mặt, các vấn đề của vụ án mới đảm bảo được tính khách quan. Qua
  • 26. 20 đó nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Có thể thấy việc giải quyết vấn đề dân sự ngay trong vụ án hình sự giúp cơ quan tiến hành tố tụng tránh được việc tiến hành các hoạt động trùng lặp một cách không cần thiết tức là xem xét hai lần các tình tiết của hành vi vi phạm pháp luật hình sự và pháp luật dân sự đồng thời bảo đảm hiệu quả kinh tế, tiết kiệm thời gian và chi phí cho việc xét xử cũng như tránh được việc gọi đến Tòa án một lần nữa các bên tham gia tố tụng. Nếu vấn đề dân sự được giải quyết ngay trong vụ án hình sự thì cơ quan điều tra có thể làm sáng tỏ các tình tiết liên quan đến việc bồi thường ngay từ khi tiến hành điều tra vụ án. Vì tuy là vấn đề dân sự nhưng nó là vấn đề phát sinh từ vụ án hình sự. Ngược lại, nếu vấn đề đó được giải quyết riêng ở phiên tòa dân sự thì khả năng đó sẽ không còn nữa bởi lẽ cơ quan điều tra không có trách nhiệm điều tra, xác minh các tình tiết của vụ án dân sự [25, tr. 21]. Từ những ý nghĩa và vai trò nêu trên, Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam đã dành hẳn một điều luật riêng quy định về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (Điều 54), ngoài ra chúng ta còn tìm thấy những quy định liên quan đến chủ thể này trong các điều luật khác. Trên thế giới, qua tìm hiểu Bộ luật tố tụng hình sự của một số nước chúng ta lại thấy hầu như không có quy định về loại chủ thể này trong quan hệ tố tụng hình sự, như Bộ luật tố tụng hình sự Liên bang Nga, Luật tố tụng hình sự Trung Quốc… 1.3. PHÂN BIỆT NGƢỜI CÓ QUYỀN LỢI, NGHĨA VỤ LIÊN QUAN VỚI NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG KHÁC Để giải quyết đúng đắn vụ án hình sự, ngoài việc xem xét, quyết định về trách nhiệm hình sự, hình phạt và các vấn đề khác liên quan đến bị can, bị cáo thì việc xác định đúng tư cách tố tụng của những người tham gia tố tụng khác có vai trò rất quan trọng. Nó là cơ sở cho việc giải quyết quyền lợi và
  • 27. 21 nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng được chính xác, đúng pháp luật, đảm bảo nguyên tắc công bằng, khách quan. Trong thực tiễn xét xử, có nhiều trường hợp việc xác định người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan rất phức tạp, thường có sự nhầm lẫn giữa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan với người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người làm chứng, người đại diện của bị can, bị cáo. Hệ quả là quyết định sai quyền lợi, nghĩa vụ của đương sự (bao gồm cả các quyền, nghĩa vụ về nội dung và quyền, nghĩa vụ tố tụng, đặc biệt là quyền kháng cáo). Do đó cần thiết phải đưa ra những dấu hiệu để phân biệt giữa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan với những người tham gia tố tụng khác như đã nêu ở trên. 1.3.1. Phân biệt ngƣời có quyền lợi liên quan với ngƣời bị hại Điều 51 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: "Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra" [11]. Người bị hại chỉ có thể là thể nhân bị người phạm tội làm thiệt hại về thể chất, về tinh thần hoặc về tài sản, chứ không thể là tổ chức. Luật tố tụng hình sự nước ta không coi tổ chức là người bị hại. Trong khi đó người có quyền lợi liên quan có thể là cá nhân hoặc tổ chức (như đã phân tích ở phần trên). Đây chỉ là dấu hiệu về mặt hình thức, không phải là căn cứ để xác định hai loại người này. Để xác định đúng tư cách tham gia tố tụng, chúng ta cần tìm hiểu những nội dung thuộc về bản chất. Người bị hại trong vụ án hình sự phải là con người cụ thể bị hành vi phạm tội trực tiếp xâm hại về thể chất, tinh thần, tài sản. Thể chất, tinh thần, tài sản của họ phải là đối tượng của tội phạm. Thông qua việc tác động tới những đối tượng đó để xâm hại đến khách thể của tội phạm. Thiệt hại xảy ra là biểu hiện về mặt khách quan của tội phạm, phù hợp với mục đích của người phạm tội. Còn người có quyền lợi liên quan có thể là cá nhân hay cơ quan, tổ chức. Nếu là cá nhân thì so với người bị hại, người có quyền lợi liên quan cũng là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần,
  • 28. 22 tài sản do hành vi của người phạm tội gây ra, song chúng không phải là đối tượng của tội phạm và thiệt hại xảy ra không phù hợp với mục đích của người phạm tội, nhưng việc giải quyết vụ án đã ảnh hưởng đến quyền lợi của họ. Trong những vụ án hình sự về xâm phạm quyền sở hữu, để xác định đâu là người bị hại và đâu là người có quyền lợi liên quan là vấn đề phức tạp, cần phải có sự phân tích, tìm hiểu. Ví dụ A là công nhân của công ty may đã lợi dụng nhu cầu xin việc làm của một số người để lừa đảo chiếm đoạt tiền của họ. A gặp B, C tự giới thiệu mình là em họ của Phó giám đốc công ty giầy và có khả năng xin được việc cho một số người vào làm tại công ty đó. A yêu cầu mỗi hồ sơ phải nộp 2.000.000 đồng. B, C tin tưởng A xin được việc nên đã bảo những người thân quen làm hồ sơ. Qua B và C, A nhận hồ sơ của 10 người cùng 20.000.000 đồng. Số tiền này hiện chưa thu hồi được nhưng B, C đã ứng trả hết cho những người xin việc. Khi xét xử sơ thẩm vụ án, Tòa án xác định 10 người đã nộp hồ sơ xin việc và nộp tiền là những người bị hại, còn B, C là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và buộc bị cáo hoàn trả B, C số tiền là 20.000.000 đồng đã nhận. Tuy nhiên, Tòa án cấp phúc thẩm lại cho rằng chính B, C mới là người bị hại, còn 10 người có nhu cầu xin việc là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vì họ không trực tiếp giao tiền cho bị cáo. Những người theo quan điểm này cho rằng những người xin việc không có quan hệ gì với bị cáo, không giao tiền cho bị cáo nên bị cáo không có trách nhiệm gì với họ. Họ trực tiếp đưa tiền cho B, C. Nếu B, C không xin được việc cho họ thì B, C phải có trách nhiệm bồi thường trả họ, chứ không phải bị cáo. Bị cáo chỉ có trách nhiệm bồi thường cho B, C. Vậy đối với bị cáo, B, C mới là người bị hại, còn những người kia chỉ là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tới vụ án. Quan điểm thứ hai lại cho rằng: B, C là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; 10 người có đơn xin việc, phải nộp tiền là người bị hại. Bởi lẽ, mục đích chiếm đoạt của bị cáo nhằm vào người cần việc làm, B, C chỉ là người trung gian giao dịch. Số tiền mà bị cáo chiếm đoạt là tiền của những người có nhu cầu xin việc làm. Không thể vì B, C tự bỏ tiền ra
  • 29. 23 trả 10 người kia mà xác định B, C là người bị hại trong vụ án được [27, tr. 25- 26]. Theo chúng tôi giải quyết theo quan điểm thứ hai là đúng, cần xác định B, C là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; 10 người có đơn xin việc, phải nộp tiền là người bị hại. Vì tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tội có cấu thành vật chất, tội phạm hoàn thành khi người thực hiện hành vi phạm tội chiếm đoạt được tài sản của người bị hại. Trong trường hợp này, mục đích của bị cáo là chiếm đoạt tiền của những người có nhu cầu xin việc. Để đạt được mục đích này, bị cáo đã sử dụng B, C như là một công cụ tác động; thông qua B, C để chiếm đoạt tài sản của những người xin việc; bị cáo gặp B, C nói với B, C rằng mình có khả năng xin được việc cho một số người vào làm tại công ty giầy là một thủ đoạn gian dối. Và thực tế bị cáo đã chiếm đoạt được 20.000.000đ của 10 người xin việc. Chúng ta biết, luật nội dung và luật hình thức có quan hệ chặt chẽ với nhau nên khi xác định tư cách người tham gia tố tụng theo Bộ luật tố tụng hình sự ta cần phải dựa vào cả những quy định và các nguyên tắc, tinh thần của Bộ luật hình sự. Người bị hại là người bị hành vi phạm tội trực tiếp xâm hại. Thể chất, tinh thần, tài sản của người bị hại là đối tượng của tội phạm. Thông qua việc tác động vào các đối tượng đó nhằm xâm hại đến khách thể là yếu tố thuộc cấu thành tội phạm. Do đó dễ dàng xác định được người bị hại đối với những nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người. Với những loại tội này thì người bị thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm (như bị giết, bị gây thương tích, bị vu khống) được xác định là người bị hại. Hoặc đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu thì người bị thiệt hại về tài sản (như tài sản bị chiếm đoạt, bị làm hư hỏng…) được xác định là người bị hại. Nhưng không phải vụ án hình sự nào cũng có khách thể là quyền được tôn trọng và bảo vệ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, quyền sở hữu của con người; và có đối tượng tác động là con người, tài sản. Bộ luật hình sự có những chương quy định về khách thể bị xâm hại là
  • 30. 24 hoạt động bình thường của chủ thể, trật tự nơi công cộng, trật tự quản lý hành chính… như tội "Gây rối trật tự công cộng", "Chống người thi hành công vụ". Đối với những nhóm tội danh này, thực tiễn xét xử nảy sinh nhiều bất cập trong việc xác định tư cách người tham gia tố tụng. Quan điểm thứ nhất cho rằng cần xác định người bị thiệt hại do hành vi của người phạm tội gây ra là người bị hại trong vụ án, vì theo quy định tại Điều 51 Bộ luật tố tụng hình sự thì họ là những người đã "bị thiệt hại về sức khỏe, tinh thần hoặc tài sản do tội phạm gây ra". Quan điểm thứ hai lại cho rằng cần xác định người bị thiệt hại là người có quyền lợi liên quan. Vì, thiệt hại xảy ra mặc dù do chính hành vi của người phạm tội gây lên nhưng đó không phải là đối tượng trực tiếp của tội phạm. Những hậu quả thiệt hại không phải là yếu tố cấu thành tội phạm. Nếu thiệt hại do hành vi của người phạm tội gây ra đã đủ yếu tố để cấu thành một tội danh độc lập khác như tội "Cố ý gây thương tích", tội "Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản" thì người bị thiệt hại mới trở thành người bị hại của các tội danh này. Còn ngược lại, nếu thiệt hại do hành vi của người phạm tội gây ra không đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội danh độc lập nêu trên thì sẽ không có người bị hại. Mà người bị thiệt hại trong trường hợp này là người có quyền lợi liên quan. Trên thực tế các Tòa án hiện nay thường xác định như vậy. Chúng tôi đồng ý với những lập luận của quan điểm thứ hai, họ không thể là người bị hại. Tuy nhiên theo chúng tôi, họ cần được xác định là nguyên đơn dân sự, chứ không phải là người có quyền lợi liên quan. Vì họ là người bị thiệt hại do hành vi của người phạm tội (không phải hành vi phạm tội) trực tiếp gây ra trong quá trình thực hiện tội phạm nên nếu muốn được bồi thường thiệt hại thì họ phải có đơn yêu cầu; không phải do việc giải quyết vụ án có ảnh hưởng đến quyền lợi của họ. Để rõ hơn chúng ta sẽ xem xét cụ thể về nguyên đơn dân sự và người có quyền lợi liên quan ở mục dưới đây. 1.3.2. Phân biệt ngƣời có quyền lợi liên quan với nguyên đơn dân sự
  • 31. 25 Điều 52 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: "Nguyên đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra và có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại" [11]. Nguyên đơn dân sự có thể là các cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về vật chất do hành vi phạm tội gây ra, những thiệt hại này có thể là thiệt hại về tài sản hoặc những thiệt hại khác dẫn đến những tổn thất về vật chất như những thiệt hại do danh dự, uy tín bị xâm hại… Nguyên đơn dân sự cũng có thể là cá nhân bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do hành vi phạm tội gây ra. Tuy nhiên, khác với người bị hại, nguyên đơn dân sự (trong trường hợp là cá nhân) không phải là nạn nhân trực tiếp của tội phạm. Mặc dù bị thiệt hại nhưng thể chất, tinh thần, tài sản của họ không phải là đối tượng của tội phạm. Thiệt hại xảy ra cho nguyên đơn dân sự không phù hợp với mục đích của người phạm tội. Nguyên đơn dân sự phải có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại. Như vậy, người có quyền lợi liên quan và nguyên đơn dân sự có những điểm giống nhau như: - Về chủ thể: Đều bao gồm cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra. - Về quyền của chủ thể trong quan hệ nội dung: Đều có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại. Song để phân biệt người có quyền lợi liên quan với nguyên đơn dân sự chúng ta cần dựa vào những tiêu chí sau: Thứ nhất: Người có quyền lợi liên quan đến vụ án có thể là người không liên quan đến việc thực hiện tội phạm nhưng các cơ quan tiến hành tố tụng phải xử lý theo pháp luật những vấn đề có liên quan đến quyền lợi của họ (như: người mà tài sản của họ bị kẻ phạm tội sử dụng làm công cụ, phương tiện phạm tội; người mà tài sản của họ bị kê biên cùng tài sản của người phạm tội). Còn nguyên đơn dân sự cũng có thể là người không liên quan đến việc
  • 32. 26 thực hiện tội phạm, không phải là đối tượng xâm hại của tội phạm, nhưng bị thiệt hại do hành vi của người phạm tội trực tiếp gây ra (ví dụ 1: A can ngăn B đánh người khác nên đã bị rách quần áo, mất đồng hồ. A là nguyên đơn dân sự. Ví dụ 2: A cầm lựu đạn ném B nhưng ném trượt, lựu đạn rơi vào xe máy của C đang dựng bên đường. Lựu đạn nổ làm hỏng toàn bộ xe máy của C. C là nguyên đơn dân sự); hoặc bị thiệt hại do hành vi của người phạm tội gián tiếp gây ra (ví dụ: một người bị người phạm tội xâm phạm đến sức khỏe, thân nhân của họ phải nghỉ việc để chăm sóc, người chăm sóc bị mất một khoản chi phí cho việc đi lại, chăm sóc và bị mất hoặc giảm sút thu nhập thực tế trong thời gian chăm sóc, họ có quyền đòi bồi thường khoản chi phí, phần thu nhập bị mất đó và trở thành nguyên đơn dân sự. Thứ hai: Nếu là nguyên đơn dân sự thì xảy ra hai trường hợp: Trường hợp thứ nhất: những thiệt hại đã xảy ra cho nguyên đơn dân sự không phù hợp với mục đích của người phạm tội. Thể chất, tinh thần, tài sản của nguyên đơn dân sự không phải là đối tượng của tội phạm. Thiệt hại đã xảy ra không phải là biểu hiện về mặt khách quan của cấu thành tội phạm. Trong trường hợp này nguyên đơn dân sự có thể là cá nhân hoặc là cơ quan, tổ chức. Trường hợp thứ hai: nguyên đơn dân sự là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về vật chất do tội phạm trực tiếp gây ra, thiệt hại này phù hợp với mục đích của người phạm tội, là biểu hiện về mặt khách quan của cấu thành tội phạm (thiệt hại của nguyên đơn dân sự trong trường hợp này có tính chất như người bị hại. Vì pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam chỉ coi người bị hại là cá nhân con người, chứ không thừa nhận người bị hại là cơ quan, tổ chức nên cơ quan, tổ chức bị thiệt hại trong trường hợp này được xác định là nguyên đơn dân sự, ví dụ như: tài sản của cơ quan, tổ chức bị trộm cắp, tham ô, hủy hoại…). Đối với người có quyền lợi liên quan thì chỉ có thể là: những thiệt hại đã xảy ra không phù hợp với mục đích của người phạm tội. Thể chất, tinh thần, tài sản của người có quyền lợi liên quan không phải là đối tượng của tội phạm. Thiệt hại đã xảy ra không phải là biểu hiện về mặt khách quan của cấu thành tội phạm.
  • 33. 27 Thứ ba: Về ý nghĩa của sự thiệt hại trong việc đánh giá mức độ trách nhiệm hình sự của người phạm tội: Đối với nguyên đơn dân sự, nếu thuộc trường hợp thứ hai như trình bày ở trên (có tính chất như người bị hại) thì hậu quả xảy ra đối với nguyên đơn dân sự được coi là tình tiết để đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, được xem như một tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội khi quyết định hình phạt. Nếu là nguyên đơn dân sự thuộc trường hợp thứ nhất hay người có quyền lợi liên quan thì hậu quả xảy ra đối với nguyên đơn dân sự và người có quyền lợi liên quan không phải là tình tiết để đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; không được xem như một tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người phạm tội khi quyết định hình phạt. Thứ tư: Xét về mặt thủ tục tố tụng: Nguyên đơn dân sự đòi hỏi phải có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại (đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại bao gồm các hình thức như: đơn đề nghị được bồi thường thiệt hại, đơn trình báo có chứa nội dung yêu cầu bồi thường thiệt hại, biên bản do cơ quan tiến hành tố tụng lập ghi nhận lời trình bày về thiệt hại do tội phạm gây ra và yêu cầu bồi thường thiệt hại của nguyên đơn). Còn người có quyền lợi liên quan thì các cơ quan tiến hành tố tụng, đặc biệt là Tòa án bắt buộc phải đưa họ vào tham gia tố tụng trong vụ án để giải quyết quyền lợi của họ. Ngoài những căn cứ trên, theo chúng tôi điểm khác biệt quan trọng nhất giữa người có quyền lợi liên quan với nguyên đơn dân sự cho phép phân biệt rõ ràng và tránh những sự xác định nhầm lẫn thường xảy ra là: Nguyên đơn dân sự là người bị thiệt hại do tội phạm gây ra, bao gồm những thiệt hại do hành vi của người phạm tội trực tiếp gây ra (như thiệt hại do số cốc chén của chủ quán bị vỡ trong quá trình bị cáo đánh gây thương tích cho người bị hại); và những thiệt hại do hành vi của người phạm tội gián tiếp gây ra (như khoản chi phí cho việc đi lại, chăm sóc, phần thu nhập thực
  • 34. 28 tế bị mất của người chăm sóc người bị hại trong vụ án cố ý gây thương tích) - tức sự thiệt hại của người bị hại làm phát sinh những thiệt hại này. Còn người có quyền lợi liên quan là người có tài sản liên quan đến việc giải quyết vụ án (thường là liên quan đến vấn đề xử lý vật chứng). Hoặc sự thiệt hại của người bị hại ảnh hưởng đến quyền lợi của họ (ví dụ: A đang nuôi em trai bị bệnh tâm thần. A bị B giết chết dẫn đến ảnh hưởng đến quyền lợi của người em trai, đó là mất đi sự nuôi dưỡng của A). 1.3.3. Phân biệt ngƣời có nghĩa vụ liên quan với bị đơn dân sự Điều 53 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: "Bị đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức mà pháp luật quy định phải chịu trách nhiệm bồi thường đối với thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra". Theo tinh thần của quy định này thì bị đơn dân sự là người phải bồi thường những thiệt hại mà tội phạm gây ra cho người bị hại, nguyên đơn dân sự hoặc cho cơ quan, tổ chức, cá nhân khác. Bị đơn dân sự không phải là người gây ra thiệt hại cho nguyên đơn dân sự hoặc người bị hại, mà thiệt hại đó do người phạm tội gây ra (một cách trực tiếp hoặc gián tiếp), nhưng theo quy định của pháp luật thì họ phải bồi thường thay cho bị cáo. Theo Bộ luật dân sự năm 2005, tại các điều 606, 618, 619, 620, 621, 622, 623, bị đơn dân sự được xác định là những người có nghĩa vụ bồi thường thay cho người đã gây ra thiệt hại, đó là những trường hợp sau: - Cha mẹ của bị can, bị cáo là người chưa thành niên; người giám hộ của người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần. - Trường học khi bị can, bị cáo là người dưới 15 tuổi gây thiệt hại trong thời gian học tập tại trường (nếu trường có lỗi trong việc quản lý). - Bệnh viện hoặc tổ chức khác khi bị can, bị cáo là người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại trong thời gian chịu sự quản lý trực tiếp của bệnh viện, tổ chức đó (nếu bệnh viện, tổ chức có lỗi trong việc quản lý).
  • 35. 29 - Pháp nhân khi bị can, bị cáo là người của pháp nhân gây thiệt hại trong khi thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao. - Cơ quan, tổ chức khi bị can, bị cáo là cán bộ, công chức gây thiệt hại trong khi thi hành công vụ. - Cơ quan tiến hành tố tụng khi bị can, bị cáo là người có thẩm quyền của cơ quan gây thiệt hại khi thực hiện nhiệm vụ trong quá trình tiến hành tố tụng. - Cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác khi bị can, bị cáo là người làm công, học nghề gây thiệt hại trong khi thực hiện công việc được giao. - Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ khi bị can, bị cáo là người sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại... Còn người có nghĩa vụ liên quan thường là người đã tham gia trong một chừng mực nhất định vào việc thực hiện tội phạm nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc được miễn trách nhiệm hình sự phải có trách nhiệm về hành vi của mình (có thể là trách nhiệm vật chất như bồi thường, trả lại tài sản được hưởng từ việc thực hiện tội phạm, có thể là trách nhiệm về mặt tinh thần như phải công khai xin lỗi); hoặc là người không tham gia vào việc thực hiện tội phạm nhưng đã được hưởng những lợi ích từ việc phạm tội, phải có trách nhiệm bồi hoàn những lợi ích đó. Có nhiều người quan niệm rằng: trong một vụ đồng phạm, nếu có bị can được miễn trách nhiệm hình sự nhưng vẫn có trách nhiệm phải bồi thường những thiệt hại mà mình và các bị can khác đã gây ra cho người bị hại, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi liên quan thì họ tham gia tố tụng với tư cách bị đơn dân sự là không đúng với quy định tại khoản 1 Điều 53 Bộ luật tố tụng hình sự [23, tr. 120]. Họ cần phải được xác định là người có nghĩa vụ liên quan mới chính xác.
  • 36. 30 Có thể thấy bị đơn dân sự là người chỉ có trách nhiệm bồi thường; còn người có nghĩa vụ liên quan ngoài trách nhiệm bồi thường, họ có thể còn là người có trách nhiệm hoàn trả tài sản hoặc trách nhiệm về mặt tinh thần. Tuy nhiên, để trách nhầm lẫn thì dấu hiệu quan trọng cho phép phân biệt giữa bị đơn dân sự và người có nghĩa vụ liên quan là: Bị đơn dân sự là người mà theo quy định của pháp luật phải chịu trách nhiệm bồi thường toàn bộ những thiệt hại do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Bản thân họ không phải là người gây ra thiệt hại. Người có nghĩa vụ liên quan là người đã tham gia thực hiện tội phạm trong một chừng mực nhất định (tức họ tham gia gây thiệt hại) nên phải có trách nhiệm bồi thường; hoặc bản thân họ không có liên quan đến tội phạm do bị cáo thực hiện nhưng theo quy định của pháp luật thì họ phải có trách nhiệm liên đới trong việc bồi thường thiệt hại. 1.3.4. Phân biệt ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan với ngƣời làm chứng Điều 55 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: "Người nào biết được những tình tiết có liên quan đến vụ án đều có thể được triệu tập đến để làm chứng" [11]. Như vậy người làm chứng là người biết được những tình tiết liên quan đến vụ án mà cơ quan tiến hành tố tụng cần phải chứng minh như: sự việc phạm tội, thời gian, địa điểm, hành vi phạm tội, người thực hiện tội phạm... Họ có thể trực tiếp nhìn thấy, nghe thấy hoặc được người khác kể lại về các tình tiết liên quan đến vụ án. Người làm chứng là không thể thay thế được, không thể ủy quyền cho người khác làm đại diện tham gia tố tụng vì họ là người biết về các tình tiết liên quan đến vụ án nên họ phải trực tiếp tham gia tố tụng và thực hiện nghĩa vụ khai báo trung thực tất cả những gì mình biết về vụ án.
  • 37. 31 Người làm chứng có vai trò rất quan trọng trong việc làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Việc họ trình bày trung thực về những gì mình biết sẽ giúp cơ quan tiến hành tố tụng xác định được tội phạm, người phạm tội và những vấn đề khác của vụ án. Vì người làm chứng là cá nhân con người (không thể là tổ chức) nên khi phân biệt người làm chứng với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chúng ta cũng chỉ xem xét người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan dưới góc độ là con người cụ thể. Có thể chỉ ra một vài điểm khác biệt sau: - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là người có quyền lợi, nghĩa vụ bị ảnh hưởng trực tiếp bởi các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng. Trên cơ sở quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng thì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có thể được bồi thường thiệt hại, được nhận lại tài sản đã kê biên hoặc phải có nghĩa vụ trả lại tài sản, bồi hoàn tài sản… Còn người làm chứng thì hoàn toàn không có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Họ chỉ là người biết về các tình tiết của vụ án và có nghĩa vụ trình bày trung thực những gì mình biết. Họ tham gia tố tụng theo nghĩa vụ để làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Như vậy căn cứ đầu tiên và quan trọng để phân biệt hai loại người này là dựa vào vai trò, mục đích tham gia tố tụng của họ. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng để được giải quyết quyền lợi và nghĩa vụ của mình có liên quan đến vụ án. Người làm chứng tham gia tố tụng chỉ là để trình bày về những tình tiết có liên quan đến vụ án mà mình biết được nhằm giúp các cơ quan tiến hành tố tụng làm sáng tỏ vụ án. - Người biết được các tình tiết có liên quan đến vụ án nhưng đồng thời họ lại có quyền lợi, nghĩa vụ trong vụ án, đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng phải xem xét, quyết định thì họ được xác định là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, chứ không phải người làm chứng. Và khi triệu tập họ đến tham gia tố tụng, ngoài việc hỏi về những vấn đề liên quan đến quyền lợi,
  • 38. 32 nghĩa vụ của họ thì cơ quan tiến hành tố tụng có thể hỏi về những vấn đề khác có liên quan đến vụ án mà họ biết. - Trong thực tế, việc xác định tư cách tham gia tố tụng là người làm chứng hay người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cần dựa trên cơ sở: khi giải quyết vụ án, cơ quan tiến hành tố tụng có phải xem xét, quyết định về quyền lợi, nghĩa vụ của họ hay không. Ví dụ: A đã có hành vi bán hóa đơn giá trị gia tăng khống cho công ty của B để B hợp thức đầu vào nguồn hàng nông sản mà B mua trôi nổi trên thị trờng (không có hóa đơn giá trị gia tăng) nhằm kê khai khấu trừ thuế. A, B bị khởi tố về tội Trốn thuế. Sau đó vì A còn bán hóa đơn giá trị gia tăng khống hàng cho một công ty X cũng nhằm mục đích trốn thuế nên cơ quan điều tra đã tách hành vi của A chuyển sang giải quyết trong vụ án Trốn thuế xảy ra tại công ty X. Khi tiến hành xét xử B, Toà án đã triệu tập A đến tham gia tố tụng côngvới tư cách là người làm chứng để khai báo về các tình tiết liên quan đến việc buộc tội B. Như vậy, một người tham gia vào việc thực hiện tội phạm nhưng hành vi của họ đã được tách ra để giải quyết trong một vụ án khác thì họ có thể được xác định là người làm chứng trong việc buộc tội các bị cáo của vụ án đó. Thực tế người có tham gia vào việc thực hiện tội phạm nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc được miễn trách nhiệm hình sự thì tùy từng trường hợp, họ có thể được xác định là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hoặc người làm chứng. Ví dụ 1: Do không có tiền ăn tiêu, A, B rủ nhau sẽ dùng xe máy của A để giật túi sách của người đi đường. Trên đường đi thực hiện ý định phạm tội đó, A chợt nghĩ đến việc mẹ mình bị tai nạn giao thông dẫn đến chấn thương sọ não cách đây 2 năm nên đã khuyên B dừng lại nhưng B không nghe, vừa một tay điều khiển xe vừa một tay giật chiếc túi của người tham gia giao thông. B bị truy tố về tội Cướp giật tài sản. A được miễn truy cứu trách nhiệm
  • 39. 33 hình sự. Vì chiếc xe máy (công cụ, phương tiện phạm tội) đã bị thu giữ nên khi tiến hành xét xử, Tòa án xác định A là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Trong trường hợp này, A là người biết được các tình tiết của vụ án, đồng thời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, bị ảnh hưởng trực tiếp bởi quyết định của Tòa án nên việc xác định tư cách tham gia tố tụng của A như trên là chính xác. Ví dụ 2: A, B bàn nhau đánh cho C một trận vì C đã tán tỉnh người yêu của A. Khi đến nơi, B giữ người C để A đánh C. Hậu quả C bị thương tích 12%. Sau khi gây thương tích cho C về, B thấy ân hận và đã ra cơ quan công an tự thú, khai rõ toàn bộ sự việc đồng thời tích cực bồi thường cho người bị hại với số tiền 8 triệu đồng. Người bị hại không có yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự đối với B và có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho B. A bị truy tố về tội "Cố ý gây thương tích", còn B được miễn trách nhiệm hình sự. Như vậy mặc dù B cùng tham gia thực hiện hành vi gây thương tích cho người khác (vai trò giúp sức) nhưng đã được miễn trách nhiệm hình sự và cũng không có trách nhiệm bồi thường nên B chỉ là người làm chứng, không phải là người có nghĩa vụ liên quan. 1.3.5. Phân biệt ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan với ngƣời đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo Bộ luật tố tụng hình sự không có điều luật riêng quy định về người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo. Điều 50 cũng không có quy định nào về người đại diện. Song theo quy định tại khoản 2 Điều 57 chúng ta hiểu được rằng trong những trường hợp nhất định thì bị can, bị cáo phải có người đại diện tham gia tố tụng. Và theo chế định đại diện được quy định trong Bộ luật dân sự thì khi bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất phải có người đại diện. Người đại diện trong trường
  • 40. 34 hợp này là đại diện theo pháp luật, có thể là cha, mẹ của bị can, bị cáo hoặc người giám hộ (trong trường hợp bị can, bị cáo không còn cha, mẹ hoặc cha, mẹ không đủ điều hiện để đại diện). Sở dĩ hay có sự nhầm lẫn trong việc xác định tư cách giữa người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bởi hai loại người này nhiều khi có sự giống nhau về trách nhiệm dân sự đối với những thiệt hại do tội phạm gây ra. Và trong thực tế, có những trường hợp chúng ta có thể dễ dàng phân biệt, nhưng ngược lại, cũng có những trường hợp, việc xác định là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hay người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo lại trở nên khó khăn, phức tạp. Cụ thể: người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần gây ra. Còn người có nghĩa vụ liên quan có trách nhiệm bồi hoàn những lợi ích đã được hưởng từ việc phạm tội hoặc có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do có tham gia vào việc gây thiệt hại. Đối với những trường hợp này, việc xác định tương đối dễ dàng. Sự nhầm lẫn chủ yếu thường xảy ra đối với những trường hợp khác, phức tạp hơn, có thể lấy một ví dụ như: vụ án Nguyễn Thế Hiển bị xét xử về tội "Giết người" theo khoản 2 Điều 93 Bộ luật hình sự. Khi phạm tội và khi xét xử bị cáo bị bệnh tâm thần mức độ nhẹ, khả năng kìm chế hành vi hạn chế, được Tòa án cấp sơ thẩm cho hưởng tình tiết giảm nhẹ theo điểm n khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Tòa án triệu tập ông Nguyễn Văn Thế (bố của bị cáo) đến phiên tòa với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (vì gia đình bị cáo bồi thường cho gia đình nạn nhân 20 triệu đồng). Vụ án có kháng cáo, Tòa án cấp phúc thẩm xác định ông Thế là người đại diện hợp pháp của bị cáo (vì bị cáo có nhược điểm về tâm thần) [19, tr. 17-18].
  • 41. 35 Theo quy định tại Điều 606 Bộ luật dân sự và Công văn số 35/1999/KHXX ngày 26/4/1999 của Tòa án nhân dân tối cao giải đáp việc xác định người tham gia tố tụng trong một số trường hợp cụ thể thì tư cách người có nghĩa vụ liên quan được xác định như sau: Đối với bị cáo là người chưa thành niên phạm tội và gây thiệt hại mà đến khi xét xử họ chưa đủ 15 tuổi thì cha mẹ là người đại diện hợp pháp của bị cáo và phải bồi thường toàn bộ thiệt hại, nếu tài sản của cha mẹ không đủ bồi thường mà bị cáo có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu. Nếu khi gây thiệt hại bị cáo là người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi nhưng đến khi xét xử đã đủ 18 tuổi và không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì cha mẹ là người có nghĩa vụ liên quan và phải thực hiện bồi thường toàn bộ hoặc phần còn thiếu do tài sản của bị can, bị cáo không có hoặc không đủ để bồi thường. Như vậy nếu khi gây thiệt hại bị cáo là người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi và đến khi xét xử bị cáo vẫn chưa đủ 18 tuổi thì cha mẹ của họ được xác định tư cách tham gia tố tụng là gì? Trách nhiệm về việc bồi thường như thế nào? Trong trường hợp này, cha mẹ sẽ là người đại diện hợp pháp của bị cáo (chứ không phải là người có nghĩa vụ liên quan) và thực hiện bồi thường theo nguyên tắc: Nếu bị cáo có đủ tài sản để bồi thường thì bồi thường bằng tài sản của bị cáo. Nếu bị cáo không có hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì cha mẹ phải bồi thường toàn bộ hoặc phần còn thiếu. Chúng ta có thể rút ra một nguyên tắc là nếu một người vừa là người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo, vừa là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì cần ưu tiên xác định họ là người đại diện hợp pháp của bị cáo. 1.4. LỊCH SỬ CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ NGƢỜI CÓ QUYỀN LỢI, NGHĨA VỤ LIÊN QUAN ĐẾN VỤ ÁN Có thể thấy pháp luật Việt Nam giai đoạn trước năm 1945, do chế độ kinh tế phong kiến lạc hậu, pháp luật chưa phát triển, chưa có sự phân biệt rõ các quy định về dân sự, hình sự, tố tụng hình sự, tố tụng dân sự… Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, ngày
  • 42. 36 10/10/1945 chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh số 47/SL giữ tạm thời các luật lệ hiện hành ở Bắc, Trung, Nam cho đến khi ban hành những bộ luật mới áp dụng cho toàn quốc. Bên cạnh đó Chủ tịch Hồ Chí Minh còn ký ban hành một loại các sắc lệnh như: Sắc lệnh ngày 13/9/1945 thiết lập tòa án quân sự; Sắc lệnh số 7 ngày 15/1/1946 về việc bổ khuyết Sắc lệnh ngày 13/9/1945; Sắc lệnh số 33/A ngày 13/9/1945 về việc định thể lệ cho ty liêm phóng và sở cảnh sát tuân theo mỗi khi bắt người; Sắc lệnh ngày 26/9/1945 ấn định địa phương thẩm quyền của các Tòa án quân sự; Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946 tổ chức các Tòa án và các ngạch thẩm phán, đánh dấu sự phát triển mới của lịch sử tố tụng tại Tòa án; Sắc lệnh số 23 ngày 21/2/1946 về việc thành lập Việt Nam công an vụ thuộc Bộ nội vụ; Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946 ấn định thẩm quyền của các Tòa án và sự phân công giữa các nhân viên trong tòa; Sắc lệnh số 190 ngày 1/10/1946 về thẩm quyền truy tố của Tòa án… Với các sắc lệnh trên, hoạt động tố tụng hình sự đã được quy định cho các cơ quan tiến hành tố tụng như Tòa án, cơ quan Công an. Ngoài ra việc xét xử những tội phạm hình sự cụ thể được quy định trong từng sắc lệnh đơn lẻ như: Sắc lệnh số 6 ngày 15/1/1946 về việc truy tố những người can tội ăn trộm, ăn cắp, tự ý phá hủy cắt dây điện thoại và dây điện tín; Sắc lệnh số 27 ngày 28/2/1946 về việc truy tố các tội bắt cóc, tống tiền, ám sát; Sắc lệnh số 26 ngày 25/2/1946 về việc truy tố các việc phá hủy công sản… Đặc biệt trong các sắc lệnh thời kỳ này có Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng đã quy định những nguyên tắc cơ bản như: "Tòa án chỉ thủ tiêu một phần hay toàn thể thủ tục nếu xét một hay nhiều hình thức ghi trong luật tố tụng hình hoặc hộ có hại cho việc thẩm cứu hoặc đến quyền lợi của đương sự" (Điều 17); "Về việc hình, người bị thiệt hại nào đã đầu đơn kiện thì có quyền kháng cáo để xin tăng hình phạt, tiền bồi thường và khoản bồi hoàn. Nhưng nếu người đó vì ác ý mà kháng cáo thì Tòa án có thể tự mình hoặc theo lời thỉnh cầu của bị can mà bắt người ký đơn kháng cáo phải bồi thường một số tiền tương đương với sự thiệt hại đã gây ra về vật chất cũng như về tinh thần" (Điều 18); " Thẩm phán huyện dưới sự kiểm sát của Biện lý