SlideShare a Scribd company logo
1 of 122
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
HOÀNG THU TRANG
HỆ THỐNG BẦU CỬ Ở MỘT SỐ QUỐC GIA
TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội – 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
HOÀNG THU TRANG
HỆ THỐNG BẦU CỬ Ở MỘT SỐ QUỐC GIA
TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Vũ Công Giao
Hà Nội – 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy
và trung thực.
Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa
vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cám ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Hoàng Thu Trang
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đồ, hình vẽ
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: Lý luận chung về bầu cử và hệ thống bầu cử 7
1.1. Bầu cử 7
1.1.1. Khái niệm bầu cử 7
1.1.2. Vị trí, vai trò của bầu cử 9
1.1.3. Các nguyên tắc bầu cử phổ biến trên thế giới 11
1.2. Hệ thống bầu cử 18
1.2.1. Khái niệm hệ thống bầu cử 18
1.2.2. Bản chất của hệ thống bầu cử 20
1.2.3. Vị trí, vai trò của hệ thống bầu cử 22
1.2.4. Tiêu chí đánh giá hệ thống bầu cử 25
CHƯƠNG II: Hệ thống bầu cử trên thế giới 38
2.1. Các hệ thống bầu cử điển hình 38
2.1.1. Phân loại các hệ thống bầu cử điển hình 38
2.1.1.1. Hệ thống bầu cử đa số 39
2.1.1.2. Hệ thống bầu cử đại diện tỉ lệ 43
2.1.1.3. Hệ thống bầu cử hỗn hợp 48
2.1.1.4. Một số hệ thống bầu cử khác 51
2.1.2. Ưu điểm, hạn chế của các hệ thống bầu cử 52
2.2. Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia 58
2.2.1. Hệ thống bầu cử ở Ấn Độ 59
2.2.2. Hệ thống bầu cử ở Cộng Hòa Ailen 63
2.2.3. Hệ thống bầu cử ở New Zealand 68
2.3. Xu hướng phát triển của hệ thống bầu cử trên thế giới 72
CHƯƠNG III: Thực trạng và việc hoàn thiện hệ thống bầu cử ở Việt Nam 80
3.1. Hệ thống bầu cử Việt Nam từ năm 1945 đến nay 80
3.1.1. Khái quát các giai đoạn phát triển của hệ thống bầu cử Việt
Nam từ năm 1945 đến nay 80
3.1.2. Những điểm mới về hệ thống bầu cử trong Hiến pháp năm 2013
và Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND năm 2015 84
3.2. Thực trạng hệ thống bầu cử ở Việt Nam hiện nay 88
3.2.1. Những thành tựu cơ bản của hệ thống bầu cử ở Việt Nam
hiện nay 88
3.2.2. Một số bất cập, hạn chế của hệ thống bầu cử ở Việt Nam
hiện nay 91
3.3. Quan điểm, giải pháp hoàn thiện hệ thống bầu cử ở nước ta
hiện nay 99
3.3.1 Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng 99
3.3.2. Đổi mới công tác hiệp thương 100
3.3.3. Đổi mới về tổ chức phụ trách bầu cử 102
3.3.4. Đổi mới về đơn vị bầu cử 103
3.3.5. Đổi mới về công tác tuyên truyền và vận động bầu cử 105
KẾT LUẬN 106
Tài liệu tham khảo 110
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AV : Phương pháp bầu cử lá phiếu có thể thay thế (Alternative Vote)
BC : Phương pháp bầu cử Borda (The Borda Count)
BV : Phương pháp bầu cử lá phiếu khối (Block Vote)
FPTP : Phương pháp bầu cử về đích trước (First Past The Post)
HĐND : Hội đồng nhân dân
IDEA : Viện Quốc tế về Dân chủ và Hỗ trợ bầu cử (The International
Institute for Democracy and Electoral Assistance)
List PR : Phương pháp bầu cử đại diện tỉ lệ theo danh sách (List
Proportional Representation)
LV : Phương pháp bầu cử lá phiếu hạn chế (Limited Vote)
MMP : Phương pháp bầu cử đại diện tỉ lệ hỗn hợp (Mixed Member
Proportional)
MTTQ : Mặt trận tổ quốc
NXB : Nhà xuất bản
PBV : Phương pháp bầu cử lá phiếu khối theo đảng phái chính trị
(Party Block Vote)
PR : Phương pháp bầu cử song song (Parallel Systems)
SNTV : Phương pháp bầu cử lá phiếu duy nhất không chuyển nhượng
(Sing Non-Transferable Vote)
STV : Phương pháp bầu cử lá phiếu duy nhất có thể chuyển nhượng
(Single Transferable Vote)
TRS : Phương pháp bầu cử hai vòng (Two-Round System)
UBTVQH : Ủy ban thường vụ Quốc hội
UNESCO : Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc
(United Nations Educational Scientific and Cultural Organization)
DANH MỤC CÁC BẢNG
STT Nội dung Trang
1 Bảng 2.1: So sánh ưu điểm, nhược điểm của các hệ thống bầu cử 53
2
Bảng 2.2: Hiệu quả hoạt động của Đảng BJP ở các cuộc tổng
tuyển cử ở Ấn Độ
61
3 Bảng 2.3: Sự thay đổi hệ thống bầu cử gần đây 74
4 Bảng 2.4: Phân bố các hệ thống bầu cử 78
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, HÌNH VẼ
STT Nội dung Trang
1 Hình 2.1: Sơ đồ các hệ thống bầu cử 39
2
Hình 2.2: Nhóm hệ thống bầu cử: Số lượng các quốc
gia và vùng lãnh thổ
76
3
Hình 2.3: Hệ thống bầu cử: Số lượng quốc gia và vùng
lãnh thổ
77
4 Hình 2.4: Hệ thống bầu cử: Tổng số dân (triệu) 77
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Điểm 3 Điều 21 Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người của Liên hợp
quốc thông qua năm 1948 đã trịnh trọng tuyên bố: “Ý chí của nhân dân là cơ
sở quyền lực của nhà nước, ý chí này phải được thể hiện qua các cuộc bầu cử
thường kỳ và chân thực, được tổ chức theo nguyên tắc bình đẳng, phổ thông
đầu phiếu và bỏ phiếu kín hoặc bằng những tiến trình bầu cử tự do tương
đương” [20, tr.113]. Điều 25 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính
trị năm 1966 cũng quy định rõ ràng: “Mọi công dân, không có sự phân biệt
nào... và không có sự hạn chế bất hợp lý nào, đều có quyền và cơ hội để: a)
Tham gia vào việc điều hành các công việc xã hội một cách trực tiếp hoặc
thông qua những người đại diện được họ tự do lựa chọn; b) Bầu cử và ứng cử
trong các cuộc bầu cử định kỳ chân thực, bằng phổ thông đầu phiếu, bình
đẳng và bỏ phiếu kín nhằm đảm bảo cho cử tri tự do bày tỏ ý nguyện của
mình...” [20, tr.113, 114]. Như vậy, ý chí của người dân được xem là nền tảng
của quyền lực nhà nước. Thông qua bầu cử, nhân dân thể hiện được ý chí của
bản thân để lựa chọn ra các chức danh đại diện cho mình thực hiện quyền lực
trong bộ máy nhà nước. Bầu cử tự do và công bằng được xem là tiền đề của
nền dân chủ, là phương pháp hợp pháp nhất trong số các phương pháp hợp
pháp để thành lập chính quyền. Do đó, lựa chọn hệ thống bầu cử phù hợp để
đảm bảo ý nguyện của người dân là một quyết định rất quan trọng đối với các
nước theo chế độ dân chủ, có ảnh hưởng sâu sắc đến sự ổn định và bền vững
của thể chế chính trị. Tuy nhiên, ở nhiều quốc gia trên thế giới, hệ thống bầu
cử được lựa chọn một cách ngẫu nhiên, thường do ảnh hưởng tổ hợp của lịch
sử, các xu hướng chính trị hoặc tác động của các nước lân cận.
Quá trình toàn cầu hóa đã mang lại thay đổi nhanh chóng và năng động
không chỉ về kinh tế, mà cả về nhiều vấn đề chính trị - pháp lý khác ở các
2
quốc gia, trong đó có bầu cử. Trong khoảng 3 thập kỷ gần đây, cách thức tổ
chức, quản lý, quy trình, thủ tục và phương pháp tổ chức bầu cử ở nhiều quốc
gia trên thế giới đã có những thay đổi rất lớn, một phần là để đáp ứng các yêu
cầu ngày càng cao về quyền làm chủ của người dân, phần khác là để áp dụng
những thành tựu vượt bậc của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ
thông tin vào hoạt động tổ chức bầu cử.
Bầu cử dân chủ đã được thực hiện ở Việt Nam ngay sau khi đất nước
giành được độc lập, khởi đầu bằng cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc Hội đầu tiên
(ngày 06 tháng 01 năm 1946). Hiến pháp năm 1946 đã xác lập những nguyên
tắc và quy định nền tảng, rất tiến bộ về bầu cử dân chủ, mà tiếp tục được kế
thừa và phát triển trong những Hiến pháp sau này. Ngoài Hiến pháp, hệ thống
pháp luật về bầu cử của nước ta còn bao gồm nhiều văn bản khác, trong đó
quan trọng nhất là các luật bầu cử. Hệ thống văn bản pháp luật này cũng được
xác lập từ rất sớm và chứa đựng những nội dung tiến bộ về bầu cử mà về cơ
bản là tương thích với các tiêu chuẩn quốc tế về vấn đề này.
Mặc dù vậy, sự hội nhập ngày càng sâu rộng vào cộng đồng quốc tế
cũng như sự phát triển nhanh chóng về mọi mặt của đất nước đang đặt ra
những yêu cầu cấp thiết về hoàn thiện pháp luật trên nhiều lĩnh vực, trong đó
có pháp luật về bầu cử. Để thực thi Hiến pháp 2013, nhiều đạo luật đã được
soạn thảo mới và sửa đổi, bổ sung, trong đó bao gồm Luật bầu cử đại biểu
Quốc Hội và đại biểu HĐND. Mặc dù vậy, do bầu cử là một vấn đề rất rộng
lớn và phức tạp, hiện vẫn còn rất nhiều nội dung, trong đó bao gồm cách thức
tổ chức bầu cử cần được nghiên cứu hoàn thiện ở nước ta.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, tác giả đã chọn đề tài: “Hệ thống
bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới và ở Việt Nam hiện nay” để nghiên
cứu và làm văn luận tốt nghiệp với mục đích khái quát về một số hệ thống bầu
cử trên thế giới, phân tích các ưu – khuyết điểm của từng mô hình để từ đó rút
3
ra bài học kinh nghiệm quý giá nhằm hoàn thiện hơn nữa hệ thống bầu cử ở
Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trên phạm vi quốc tế, các cuộc bầu cử dân chủ bắt đầu được tổ chức
từ thế kỷ 17 ở Tây Âu và Bắc Mỹ. Do vậy, số lượng công trình nghiên cứu về
bầu cử nói chung và hệ thống bầu cử nói riêng khá phong phú và đa dạng.
Trong số những nghiên cứu hiện nay về hệ thống bầu cử, ấn phẩm “Thiết kế
Hệ thống bầu cử” (Electoral system design) của Viện quốc tế về dân chủ và
hỗ trợ bầu cử (IDEA) được xuất bản năm 2005 tỏ ra hữu ích hơn cả. Nó đề
cập một cách trực tiếp và toàn diện đến những vấn đề lý luận, thực tiễn về hệ
thống bầu cử ở 213 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Ở Việt Nam, cho đến nay, đã có nhiều công trình khoa học, các bài viết
đăng tạp chí... về hệ thống bầu cử. Nổi bật trong những nghiên cứu hiện hành
là luận án tiến sĩ của tác giả Vũ Văn Nhiêm “Chế độ bầu cử ở nước ta –
những vấn đề lý luận và thực tiễn”, bảo vệ tại Đại học Luật Hà Nội năm
2009. Bên cạnh đó, còn có những nghiên cứu tiêu biểu như: mục “Các hệ
thống bầu cử điển hình trên thế giới” (Mục 3.2, Chương 3) trong “Giáo trình
bầu cử trong nhà nước pháp quyền” của Trường Đại học Luật Thành phố Hồ
Chí Minh (nhà xuất bản Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Thành
phố Hồ Chí Minh, 2008). Thêm nữa, mục “Hệ thống bầu cử theo Hiến pháp
một số nước” (Mục III – Chương II) trong sách chuyên khảo “Một số vấn đề
cơ bản của Hiến pháp các nước trên thế giới” (nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia – Sự thật, Hà Nội, 2012) do Ban biên tập dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm
1992 ấn hành cũng rất có ý nghĩa trong việc nghiên cứu về hệ thống bầu cử.
Ngoài ra, Chương VII: “Chế độ bầu cử” trong Giáo trình Luật Hiến pháp
Việt Nam của Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội (nhà xuất ban Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2014) cũng là một tài liệu nghiên cứu rất hữu ích.
4
Mặt khác, cũng có một số nghiên cứu của các chuyên gia về nội dung này,
tiêu biểu như bài viết “Một số hệ thống bầu cử phổ biến trên thế giới” của TS.
Vũ Văn Nhiêm đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 5 (99), tháng 5 năm
2007. Hay bài viết của GS.TS. Thái Vĩnh Thắng với tiêu đề “Những bất cập
của chế độ bầu cử ở Việt Nam hiện nay”, đăng trong cuốn “Sửa đổi bổ sung
Hiến pháp 1992 – những vẫn đề lý luận và thực tiễn, tập 1” (nhà xuất bản
Hồng Đức, Hà Nội, 2012)....
Có thể nói, những công trình nghiên cứu nêu trên đã cung cấp những
kiến thức và thông tin khá toàn diện về hệ thống bầu cử trên thế giới và ở Việt
Nam. Mặc dù vậy, các nghiên cứu hiện có đều chưa đề xuất được một cách
đầy đủ sự cần thiết phải đổi mới cũng như cách thức đổi mới hệ thống bầu cử
như thế nào để phù hợp với bối cảnh Việt Nam. Chính vì vậy, vẫn cần có
thêm những nghiên cứu chuyên sâu về hệ thống bầu cử ở nước ta. Luận văn
này góp phần khoả lấp khoảng trống đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu các vấn đề lý luận chung hệ thống bầu cử và các
hệ thống bầu cử điển hình trên thế giới. Bên cạnh đó, luận văn cũng nghiên
cứu và có những đánh giá chung về hệ thống bầu cử ở Việt Nam trong thời
gian qua. Từ đó, chỉ ra những hạn chế của hệ thống bầu cử ở nước ta và đưa
ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa hệ thống bầu cử ở Việt Nam.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục đích trên, luận văn phải giải quyết các nhiệm vụ cụ
thể sau:
+ Làm rõ khái niệm và các vấn đề lý luận về hệ thống bầu cử.
5
+ Nghiên cứu các hệ thống bầu cử điển hình trên thế giới, làm sáng rõ
những ưu – khuyết điểm của từng hệ thống bầu cử. Phân tích hệ thống bầu cử
ở một số quốc gia trên thế giới.
+ Đánh giá thực trạng hệ thống bầu cử ở nước ta và đưa ra quan điểm, giải
pháp nhằm hoàn thiện hệ thống bầu cử ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề lý luận, pháp lý và thực trạng tổ
chức các cuộc bầu cử chính trị ở các quốc gia trên thế giới và ở Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu về pháp luật bầu
cử của một số quốc gia dân chủ trên thế giới và pháp luật bầu cử hiện hành
của Việt Nam.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn áp dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác – Lênin và các phương pháp nghiên cứu phổ biến của
khoa học xã hội, bao gồm tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh... để làm rõ
các câu hỏi nghiên cứu đặt ra.
6. Những điểm mới và ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận văn
Những điểm mới của luận văn bao gồm:
Một là, làm rõ khái niệm và các vấn đề lý luận về hệ thống bầu cử.
Hai là, phân loại các hệ thống bầu cử điển hình trên thế giới, đánh giá
được các ưu điểm và khuyết điểm của từng hệ thống bầu cử. Lấy ví dụ về hệ
thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới.
Ba là, đánh giá thực trạng của hệ thống bầu cử ở Việt Nam. Từ đó, nêu
lên những quan điểm, giải pháp để hoàn thiện hệ thống bầu cử phù hợp với
thực tiễn của nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Với những điểm mới nêu trên, về mặt lý luận, luận văn góp phần bổ
sung những kiến thức lý luận về bầu cử ở Việt Nam. Đồng thời, về mặt thực
6
tiễn, luận văn khái quát, giới thiệu thực trạng hệ thống bầu cử ở nước ta và
đưa ra những quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa hệ thống bầu cử
trong giai đoạn hiện nay. Luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho các cơ
quan nhà nước trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về bầu cử. Đồng thời,
bổ sung một học liệu cho việc nghiên cứu, học tập của các sinh viên, học viên
ngành luật ở Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội và các cơ sở đào tạo khác
của Việt Nam.
7. Kết cấu luận văn
Kết cấu luận văn bao gồm: Mở đầu, phần nội dung, kết luận và danh
mục tài liệu tham khảo. Phần nội dung của luận văn được chia thành 03
chương như sau:
- Chương I: Lý luận chung về bầu cử và hệ thống bầu cử
- Chương II: Hệ thống bầu cử trên thế giới
- Chương III: Thực trạng và việc hoàn thiện hệ thống bầu cử ở Việt Nam
7
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ
BẦU CỬ VÀ HỆ THỐNG BẦU CỬ
1.1. Bầu cử
1.1.1. Khái niệm bầu cử
Bầu cử được xem là “trái tim của dân chủ” [27, tr.174]; là một chế định
trọng tâm của các chính thể dân chủ đại diện.
Có nhiều định nghĩa về bầu cử, tuy nhiên, từ góc độ khái quát nhất, có
thể hiểu bầu cử là một quy trình chính trị - pháp lý trong đó người dân tự do
bỏ phiếu lựa chọn ra những người vào làm việc trong bộ máy nhà nước để
thay mặt mình quản lý xã hội [7, tr.341]. Hay nói một cách đơn giản hơn, bầu
cử là phương thức để nhân dân lựa chọn người đại diện và ủy thác quyền lực
cho người đại diện [20, tr.15]. Điều này được thể hiện ở các góc độ sau:
Thứ nhất, bầu cử là một loại hoạt động xã hội mang tính lựa chọn của
con người. Bất cứ một quốc gia nào, một xã hội nào trong giai đoạn nào thì
khi nói đến bầu cử là nói đến việc lựa chọn. Mặc dù vậy, đối tượng được lựa
chọn có thể không giống nhau. Hiện nay, phổ biến nhất trong hệ thống bầu cử
ở nhiều nước là lựa chọn các đại biểu trong cơ quan lập pháp. Các nước tư sản
được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc phân chia quyền lực, vì vậy, bầu
cử không những là phương thức thành lập cơ quan lập pháp mà còn được áp
dụng để bầu các chức danh trong các nhánh quyền lực khác như Tổng thống,
các Thị trưởng và có thể là các chức danh trong các cơ quan tư pháp [2, tr.80].
Đối với các nước xã hội chủ nghĩa, quyền lực nhà nước là thống nhất, thuộc
về nhân dân cho nên bầu cử là phương thức để thành lập ra các cơ quan đại
diện quyền lực nhà nước. Tóm lại, các đại biểu, các chức danh từ kết quả của
8
bầu cử đều trở thành người đại diện cho nhân dân vì họ do nhân dân trực tiếp
bầu ra và trao quyền.
Thứ hai, bầu cử là việc ủy thác quyền lực của nhân dân đến người
được chọn lựa. Điều đó có nghĩa là thông qua hành vi bỏ phiếu, người dân lựa
chọn và đồng thời trao quyền lực của mình cho người mà mình đã lựa chọn.
Chủ thể nào được lựa chọn thông qua bầu cử thì chủ thể đó nhận quyền lực từ
nhân dân. Tuy nhiên, mức độ quyền lực mà người đại diện được nhân dân ủy
quyền không chỉ đơn thuần là hành vi bỏ phiếu mà còn liên quan đến việc chủ
thể nào quy định quyền lực của cơ quan đại diện và quyền hạn, nhiệm vụ đại
biểu dân cử. Trong các nền dân chủ đương đại thì vấn đề phân công quyền lực
nhà nước và mức độ trao quyền lực thường được quy định trong Hiến pháp
của mỗi nước. Như vậy, phạm vi thẩm quyền của người đại diện không do cử
tri trực tiếp quyết định trong bầu cử mà do Hiến pháp quy định. Nói cách
khác, trong bầu cử, cử tri chỉ trao quyền cho người đại diện. Ai được cử tri
lựa chọn thì người đó sẽ nhận được quyền lực từ nhân dân còn vấn đề nhận
được bao nhiêu quyền lực sẽ do Hiến pháp quy định. Như vậy, nếu Hiến pháp
– văn bản phân công quyền lực là do nhân dân thông qua thì nhân dân không
những trực tiếp lựa chọn, trực tiếp trao quyền mà còn trực tiếp quy định về
phạm vi thẩm quyền cho người đại diện. Trong trường hợp nhân dân không
thông qua Hiến pháp thì nhân dân chỉ trao quyền cho người đại diện thông
qua bầu cử. Phạm vi thẩm quyền bao nhiêu, “nhiều” hay “ít” là do Hiến pháp
ấn định [20, tr.17,18]. Tuy thẩm quyền của người đại diện được quy định
trong Hiến pháp, nhưng nếu không được người dân chọn qua bầu cử thì
không thể tồn tại quyền lực của người đại diện. Do vậy, ngay cả trong trường
hợp nhân dân không trực tiếp thông qua Hiến pháp thì vẫn có thể khẳng định
rằng hành vi bỏ phiếu của cử tri đồng nghĩa với việc cử tri trao quyền lực của
mình cho người mình chọn.
9
Tóm lại, bầu cử trước hết là một loại hoạt động xã hội mang tính lựa
chọn của con người. Nó phát triển cùng với quá trình phát triển của con người
và bầu cử ngày càng mang tính chính trị - pháp lý sâu sắc. Thông qua bầu cử,
ý chí của người dân được “chuyển hóa” sang cơ quan đại diện. Có thể nói,
bầu cử không những quyết định ứng cử viên, đảng phái chính trị, lực lượng xã
hội nào được bầu chọn mà nó còn quyết định cách thức chuyển hóa quyền lực
từ nhân dân sang người đại diện. Kết quả của bầu cử phản ánh tỷ lệ “thu
phục” niềm tin đối với cử tri của các đảng phái chính trị, lực lượng chính trị
và “biến” tương quan đó thành “ghế” trong cơ quan đại diện [2, tr.82].
1.1.2. Vị trí, vai trò của bầu cử
Thứ nhất, bầu cử là nền tảng của dân chủ, có vai trò đặc biệt quan
trọng đối với việc kiến tạo chế độ dân chủ [38, tr.1]. Một chế độ chỉ được coi
là dân chủ khi và chỉ khi có các cuộc bầu cử. Đó là bởi bầu cử cho phép người
dân không chỉ trao quyền cho những người đại diện thay mặt mình quản lý xã
hội mà còn là công cụ quan trọng để nhân dân giám sát quyền lực nhà nước,
chế ngự sự tha hóa, lạm quyền của bộ máy nhà nước. UNESCO cũng đã
khẳng định có bốn yếu tố cấu thành căn bản của một nền dân chủ, đó là: 1)
Các quyền và tự do cơ bản của con người; 2) Các cuộc bầu cử tự do và công
bằng; 3) Chính quyền công khai và chịu trách nhiệm giải trình; 4) Có sự hiện
hữu của một xã hội dân chủ, hay nói cách khác là một xã hội “dân sự” [40].
Thông qua bầu cử, người dân có thể tự do lựa chọn những người thay mặt
mình thực hiện quyền lực nhà nước và cũng chỉ những người được chọn lựa
qua bầu cử mới trở thành đại diện cho nhân dân để thực thi quyền lực thay
cho nhân dân. Nếu các nguyên tắc bầu cử được tuân thủ, bầu cử cho phép
người dân chọn ra những đại diện tốt nhất về năng lực và tư cách theo ý
nguyện của mình để ủy quyền điều hành đất nước. Mặt khác, việc tổ chức bầu
cử định kỳ, có sự cạnh tranh giữa các ứng cử viên sẽ cho công chúng khả
10
năng phế truất những chính khách tha hóa, yếu kém và giám sát hành động
của những chính khách khi đương chức thông qua kế hoạch, ý định điều hành
đất nước mà họ nêu ra trong quá trình tranh cử. Như vậy, bầu cử tạo điều kiện
để người dân tạo dựng và kiểm soát bộ máy nhà nước hoạt động theo các tiêu
chuẩn pháp quyền và dân chủ [7, tr.347].
Thứ hai, bầu cử có vai trò hợp pháp hóa chính quyền, bảo đảm tính
“chính danh” và sự ổn định của chính quyền. Bầu cử là cách thức lựa chọn
những người thực thi quyền lực nhà nước thông qua bỏ phiếu phổ thông theo
các thủ tục quy định trong Hiến pháp và pháp luật, trong đó mọi công dân đủ
điều kiện đều có quyền tham gia, vì thế quyền lực của những người được lựa
chọn có tính hợp pháp, từ đó tạo cơ sở cho cho sự ổn định của bộ máy chính
quyền. Hội nghị an ninh và hợp tác châu Âu (Organization for Security and
Co-operation in Europe - CSCE) đã khẳng định “ý chí của nhân dân thông
qua bầu cử định kỳ và chân thực là nền tảng cho thẩm quyền và tính hợp
pháp của quyền lực nhà nước” [39]. Trong thế giới hiện đại, chính quyền
thành lập không qua bầu cử, như bằng đảo chính quân sự, bất luận dù nhằm
mục đích gì (kể cả được coi là chính đáng, như chính quyền quá “thối nát”),
thường không được các quốc gia, các tổ chức quốc tế công nhận, hoặc có
chăng thì sự thừa nhận hết sức dè dặt. Ngược lại, một chính quyền do người
dân thành lập thông qua bầu cử theo những nguyên tắc tiến bộ: tự do, công
bằng và trung thực, thì về nguyên tắc, chính quyền đó được coi là hợp pháp
và được sự thừa nhận của cộng đồng quốc tế [20, tr.53, 54]. Chỉ khi một chính
quyền được thiết lập nên bằng bầu cử thực chất, chính quyền đó mới được
người dân trong nước và cộng đồng quốc tế công nhận, do đó mới có thể tồn
tại, hoạt động ổn định, lâu dài.
Thứ ba, bầu cử là phương thức nhằm bảo đảm các quyền tự do dân chủ
của nhân dân, gồm quyền bỏ phiếu, quyền ứng cử, quyền vận động tranh cử,
11
quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, lập hội...
và cao nhất là quyền được lựa chọn và thay đổi chính quyền. Những quyền
này thuộc nhóm quyền về chính trị, dân sự đã được ghi nhận trong luật nhân
quyền quốc tế và Hiến pháp của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Một số
trong các quyền này không thể thực hiện được nếu không có bầu cử (ví dụ:
quyền bỏ phiếu, quyền ứng cử, quyền vận động tranh cử...); số khác (ví dụ:
quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, lập hội...)
tuy có thể thực hiện trong nhiều bối cảnh, song bầu cử vẫn là cơ hội cho phép
các quyền này được thể hiện một cách tập trung, mạnh mẽ và sâu đậm nhất
[7, tr.345].
1.1.3. Các nguyên tắc bầu cử phổ biến trên thế giới
Các nguyên tắc bầu cử là yếu tố quyết định chế độ bầu cử của một nước
có tiến bộ, minh bạch và hiệu quả hay không. Năm nguyên tắc bầu cử phổ
biến hiện nay được nhiều nước trên thế giới áp dụng là nguyên tắc tự do, phổ
thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Các nguyên tắc này không những
thống nhất mà còn có mối quan hệ biện chứng chặt chẽ với nhau, là yếu tố
bảo đảm cho các cuộc bầu cử khách quan, dân chủ và tiến bộ.
Thứ nhất, nguyên tắc bầu cử tự do.
Bầu cử tự do là một nguyên tắc được ghi nhận trong Hiến pháp của
nhiều quốc gia. Tuy nhiên, nội hàm của nguyên tắc này cũng được hiểu ít
nhiều khác nhau.
Cách hiểu thứ nhất đề cập đến ý chí tự nguyện của người dân khi tham
gia vào tiến trình bầu cử. Cụ thể, nguyên tắc bầu cử tự do có nghĩa là mọi cử
tri có quyền tự quyết định có đi bỏ phiếu hay không và rộng ra là quyền tự
quyết định có tham gia vào tiến trình bầu cử hay không. Không một ai có
quyền gây ảnh hưởng hay bắt buộc công dân phải tham gia bầu cử. Cũng
không có công dân nào có thể bị trừng phạt nếu không tham gia bầu cử. Quy
12
định như vậy thể hiện sự tôn trọng tối đa quyền tự quyết của cử tri. Tuy nhiên,
cũng có một số nước quy định bầu cử là nghĩa vụ (hoặc đồng thời là nghĩa
vụ). Tính đến năm 2004, trên thế giới có 31 quốc gia quy định bầu cử là nghĩa
vụ bắt buộc, bao gồm: Achentina, Áo, Úc, Bỉ, Bôlivia, Braxin, Chile, Costa
Rica, Síp, Cộng hòa Đôminica, Ecuado, Ai Cập, Fiji, Ga-bông, Hy Lạp,
Goatemala, Hondurat, Ý, Liechtenstein, Lucxembua, Mehico, Nauru, Hà Lan,
Paraguay, Peru, Singapore, Thụy Sỹ, Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Uraguay,
Venezuela [43, tr.109]. Thực trạng trên xuất phát từ quan điểm về quyền và
nghĩa vụ bầu cử trên thế giới rất khác nhau. Những quốc gia quy định bầu cử
là nghĩa vụ cho rằng dân chủ cũng đòi hỏi trách nhiệm tham gia của công dân,
đặc biệt trong việc bỏ phiếu bầu ra người đại diện cho mình. Thêm vào đó
quy định bầu cử là nghĩa vụ sẽ tiết kiệm được ngân sách nhà nước và thời
gian của xã hội phải dành cho bầu cử. Tuy nhiên, những quốc gia quy định
bầu cử là tự nguyện thì cho rằng việc bắt buộc công dân đi bầu cử trái với tinh
thần tự do của một xã hội dân chủ, vi phạm quyền tự do tư tưởng của công
dân. Mặt khác, việc quy định bầu cử bắt buộc có thể gây ra sự phản kháng
ngầm. Nghiên cứu cho thấy ở các nước quy định bầu cử là nghĩa vụ, tỷ lệ
phiếu trống và phiếu không hợp lệ trong các cuộc bầu cử cao hơn so với
những nước quy định bầu cử tự do [43, tr. 106].
Cách hiểu thứ hai về nguyên tắc bầu cử tự do nhấn mạnh quyền được
“tự do lựa chọn” của công dân trong việc bỏ phiếu như được nêu trong luật
nhân quyền quốc tế. Cụ thể, về vấn đề này, Điều 21 Tuyên ngôn toàn thế giới
về nhân quyền năm 1948 quy định: “1. Mọi người đều có quyền tham gia
quản lý đất nước mình, một cách trực tiếp hoặc thông qua các đại diện mà họ
tự do lựa chọn; 2. Mọi người đều có quyền được tiếp cận các cơ quan công
quyền ở nước mình một cách bình đẳng; 3. Ý chí của người dân phải là cơ sở
tạo nên quyền lực của chính quyền, ý chí đó phải được thể hiện qua các cuộc
13
bầu cử định kỳ và chân thực, được tổ chức theo nguyên tắc phổ thông bầu
phiếu, bình đẳng và bỏ phiếu kín, hoặc bằng những thủ tục bầu cử tự do
tương tự”. Mở rộng hơn, cách hiểu này còn bao gồm tự do ứng cử, đề cử, vận
động tranh cử. Người dân có toàn quyền quyết định đề cử, ứng cử, bỏ phiếu
bầu ra người đại diện thay mặt mình thực thi quyền lực nhà nước mà không
phải chịu bất kỳ sự áp đặt, cưỡng chế hay chi phối không chính đáng từ bất kỳ
chủ thể nào, bao gồm nhà nước, các đảng phái chính trị, tổ chức hay cá nhân.
Theo cách hiểu thứ hai, nguyên tắc bầu cử tự do phản ánh trình độ dân chủ ở
mức độ cao của xã hội. Nó là yếu tố quan trọng để phân biệt các cuộc bầu cử
hình thức và các cuộc bầu cử thực chất, cũng như để xác định tính “chính
danh” của các nhà nước. Ở đây, nếu bầu cử không tự do thì kết quả bầu cử
không có tính chân thực (không phản ánh đúng ý chí của người dân) và nếu
kết quả bầu cử không chân thực thì nhà nước không có tính chính danh
(không được lập nên do ý chí của người dân nên không được coi là nhà nước
của dân). Hiện nay, Hiến pháp của khá nhiều quốc gia (ví dụ như Hiến pháp
Ý, Liên bang Nga, Thụy Điển, Tây Ban Nha, Indonesia...) đã quy định
nguyên tắc bầu cử tự do theo nghĩa thứ hai hoặc kết hợp cả nghĩa thứ nhất và
thứ hai [7, tr.352].
Thứ hai, nguyên tắc bầu cử phổ thông.
Nguyên tắc bầu cử phổ thông phản ánh sự tham gia của nhân dân trong
bầu cử. Nội dung của nguyên tắc này trả lời cho câu hỏi: Ai có quyền bầu cử?
Nguyên tắc bầu cử phổ thông không những bảo đảm việc bỏ phiếu
(quyền bầu cử chủ động) được tiến hành rộng rãi mà còn đòi hỏi pháp luật
bầu cử tạo điều kiện thuận lợi nhất cho công dân ứng cử để có thể được bầu
vào cơ quan đại diện (quyền bầu cử bị động). Nguyên tắc bầu cử này được thể
hiện: công dân đến tuổi trưởng thành không phân biệt về chủng tộc, màu da,
giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến, nguồn gốc xã hội, tài sản, nơi sinh…
14
đều có quyền bầu cử. Nói chung, quyền bầu cử càng được mở rộng cho nhiều
người tham gia một cách hợp lý, càng thể hiện mức độ dân chủ của chế độ
bầu cử. Mọi qui định của pháp luật hoặc những biện pháp tổ chức cản trở, hạn
chế quyền bầu cử của công dân trong việc bỏ phiếu, trong việc trở thành ứng
cử viên không vì mục đích chính đáng đều ảnh hưởng đến bầu cử dân chủ. Do
đó, việc hạn chế quyền bầu cử cần được qui định chặt chẽ, rõ ràng trong các
văn bản pháp luật và chỉ được áp dụng khi có lý do chính đáng bảo đảm lợi
ích hợp lý, chính đáng và tương xứng của toàn xã hội. Ví dụ: người chưa
thành niên, người thiểu năng trí tuệ và người bị kết tội bởi bản án của Tòa án
thì không có quyền bầu cử, vì những đối tượng chưa hoặc không có khả năng
lựa chọn những người xứng đáng thay mặt cho mình quản lý xã hội.
Thực tiễn sinh động trên thế giới cho chúng ta thấy quyền bầu cử và
bầu cử phổ thông là chặng đường đấu tranh lâu dài vì quyền con người và dân
chủ [17]. Việc ghi nhận và tuân thủ nguyên tắc bầu cử phổ thông là thước đo
quan trọng mức độ dân chủ của một quốc gia. Về nguyên tắc, không thể coi
một quốc gia là có trình độ dân chủ cao nếu pháp luật loại bỏ hay hạn chế
quyền bầu cử của một hoặc một số nhóm xã hội nào đó. Mặc dù vậy, nguyên
tắc này không loại trừ ba yêu cầu cơ bản đối với cử tri là quốc tịch, độ tuổi và
năng lực hành vi. Về độ tuổi, thông thường pháp luật các quốc gia ấn định độ
tuổi bắt đầu tham gia bầu cử là 18. Về năng lực hành vi, nguyên tắc chung là
cử tri phải có đủ năng lực hành vi tuy nhiên việc xác định năng lực hành vi
của mỗi người (tiêu chí, biện pháp, chủ thể có quyền tuyên bố...) không giống
nhau trong pháp luật của các quốc gia. Xét riêng về khía cạnh chủ thể, để phù
hợp với các nguyên tắc của nhà nước pháp quyền, chỉ có Tòa án mới có
quyền tuyên bố một công dân không đủ năng lực hành vi bầu cử [7, tr.349].
Thứ ba, nguyên tắc bầu cử bình đẳng.
15
Đây là là nguyên tắc nhằm bảo đảm giá trị như nhau của mọi công dân
trong bầu cử. Bình đẳng trong bầu cử thể hiện qua các nội dung cơ bản sau:
Trước hết, đó là sự bình đẳng giữa các cử tri. Điều này được thể hiện:
Một là, trong việc bỏ phiếu không có sự phân biệt nào về chủng tộc, giới tính,
ngôn ngữ, tôn giáo, nguồn gốc xã hội,… Hai là, trong một cuộc bầu cử, mỗi
cử tri có một phiếu bầu. Ba là, giá trị của mỗi lá phiếu trong hệ thống bầu cử
phải tương đương nhau. Tuy nhiên, để giá trị của các phiếu như nhau là một
vấn đề khá phức tạp, đặc biệt ở chế độ bầu cử có cách tính kết quả theo
phương pháp đa số. Chẳng hạn, hai đại biểu được bầu ở hai đơn vị bầu cử
khác nhau thì đại biểu được bầu ở đơn vị bầu cử có dân số ít hơn sẽ có giá trị
hơn [17]. Do vậy, để đảm bảo các phiếu bầu có sức nặng như nhau, thì
nguyên lý bình đẳng về dân số phải được thực hiện. Nói một cách khác, sự ấn
định và phân bổ số lượng đại biểu đối với từng đơn vị bầu cử phải dựa trên
nền tảng sự bình đẳng dân số.
Mặt khác phải có sự bình đẳng giữa các ứng cử viên trong bầu cử. Đây
là nội dung rất quan trọng trong các cuộc bầu cử, vì nó ảnh hưởng, tác động
rất lớn, thậm chí quyết định ai được nhân dân lựa chọn và trao quyền lực.
Bình đẳng giữa các ứng cử viên được thể hiện: Một là, bình đẳng trong việc
đề cử, ứng cử: không ai có thể bị hạn chế quyền ứng cử, trừ những đối tượng
do luật bầu cử qui định chặt chẽ, rõ ràng và phải đảm bảo sự hợp lý. Hai là,
bình đẳng trong việc vận động tranh cử, không phụ thuộc vào việc họ xuất
thân từ đâu, từ đảng phái chính trị nào; họ được đề cử hay tự ứng cử. Ba là,
các ứng cử viên phải bình đẳng trong việc sử dụng ngân quỹ trong vận động
tranh cử, bình đẳng trong việc tiếp cận thông tin, sử dụng các phương tiện
truyền thông và đảm bảo trong việc kiến nghị, yêu cầu, khiếu nại, tố cáo về
những vấn đề liên quan đến bầu cử, nhất là trong việc yêu cầu Tòa án xem
xét, giải quyết các hành vi gian lận trong bầu cử. Tuy nhiên, nguyên tắc bình
16
đẳng cần được hiểu trong bối cảnh tổng thể của quốc gia mà đòi hỏi sự phân
bố hợp lý về cơ cấu, thành phần và số lượng đại biểu để đảm bảo tiếng nói đại
diện của các giới, các vùng miền, các tầng lớp xã hội, các dân tộc trong các cơ
quan dân cử. Do đó, luật bầu cử của nhiều quốc gia trên thế giới quy định
những tỷ lệ cố định đại biểu nữ hoặc đại biểu các nhóm thiểu số trong nghị
viện hoặc hội đồng địa phương. Xét về hình thức, quy định như vậy là mâu
thuẫn với nguyên tắc bình đẳng. Tuy nhiên nếu xét trong bối cảnh tổng thể thì
quy định này sẽ giúp kiến tạo sự bình đẳng thực chất về chính trị giữa các
tầng lớp, thành phần và khu vực trong một quốc gia [7, tr.350].
Bên cạnh đó là sự bình đẳng giữa các đảng phái chính trị, các lực lượng
xã hội tham gia tranh cử. Xu hướng phát triển của bầu cử là nhân dân không
chỉ lựa chọn, trao quyền cho các cá nhân mà quan trọng hơn, mỗi cử tri có
quyền lựa chọn một đường lối chính trị. Đối với bất cứ chế độ bầu cử nào,
mỗi ứng cử viên phải có một lực lượng xã hội nhất định ủng hộ và đứng
“đằng sau” họ. Do vậy, sự bình đẳng trong bầu cử không thể không nói tới sự
bình đẳng giữa các lực lượng này. Sự bình đẳng phải được pháp luật qui định
và được đảm bảo thực hiện trong tất cả các công đoạn bầu cử, từ việc giới
thiệu ứng cử viên, vận động bầu cử, cho đến việc chứng kiến kiểm phiếu, bình
đẳng trong việc khiếu nại, khởi kiện, tố cáo đối với các hoạt động bầu cử.
Thứ tư, nguyên tắc bầu cử trực tiếp.
Nguyên tắc này đề cập cách thức thể hiện ý chí của nhân dân. Bầu cử
trực tiếp có nghĩa là cử tri phải tự đi bầu, tự viết và bỏ phiếu bầu vào hòm
phiếu, không được nhờ người bầu hộ, bầu thay. Nguyên tắc này bảo đảm nhân
dân trực tiếp lựa chọn người đại diện và ngược lại, người đại diện (trúng cử
trong kỳ bầu cử) trực tiếp nhận quyền lực từ nhân dân. So với bầu cử gián
tiếp, bầu cử trực tiếp mang tính dân chủ cao hơn. Tuy nhiên, bầu cử gián tiếp,
về bản chất không được hiểu là bầu cử đích thực theo nghĩa hiện đại, vì nhân
17
dân không trực tiếp lựa chọn và trao quyền cho “người đại diện”; thực chất,
đó là ủy quyền “bước hai”, mang tính phái sinh, tương tự như Quốc hội/ Hội
đồng nhân dân bầu ra các cơ quan của Quốc hội/Hội đồng nhân dân ở nước ta
hiện nay. Kết quả bầu cử gián tiếp không phải là thể hiện trực tiếp ý chí của nhân
dân, mà là thể hiện ý chí gián tiếp của nhân dân (thông qua người đại diện).
Nguyên tắc bầu cử trực tiếp không loại trừ việc bầu cử thông qua bưu
điện, hay bằng internet…vì thực chất, những phương tiện đó chỉ mang tính
chất kỹ thuật giúp cử tri thuận lợi hơn trong việc bỏ phiếu. Dù thông qua các
phương tiện đó nhưng ý chí của người dân vẫn được bảo đảm, họ vẫn hoàn
toàn trực tiếp quyết định lựa chọn ứng cử viên nào mà mình tín nhiệm. Việc
áp dụng các biện pháp bỏ phiếu mà không cần trực tiếp đến các khu vực bầu
cử là việc nên làm đối với các nước. Nếu điều kiện kỹ thuật cho phép, việc bỏ
phiếu bằng máy tại các khu vực công cộng hoặc bằng thẻ công dân, qua
internet… cần được khuyến khích, vì nó không những giúp tiết kiệm công
sức, thời gian của cử tri, mà còn góp phần làm tăng tỉ lệ cử tri bỏ phiếu, đảm
bảo quyền bầu cử thực tế của một bộ phận dân cư. Nếu không áp dụng các
biện pháp đó, họ rất khó hoặc không thể thực hiện quyền bầu cử.
Thứ năm, nguyên tắc bỏ phiếu kín.
Nguyên tắc này đề cập về cách thức bỏ phiếu. Bỏ phiếu kín là biện
pháp nhằm đảm bảo cho cử tri được tự do thể hiện ý chí của mình khi lựa
chọn người đại diện mà không bị ảnh hưởng của bất kỳ mọi sự tác động nào.
Nếu không bảo đảm tự do trong việc lựa chọn, thì bầu cử sẽ không đảm bảo ý
chí của nhân dân khi thể hiện trên các phiếu bầu, tức là cuộc bầu cử sẽ không
đảm bảo dân chủ. Nguyên tắc bỏ phiếu kín thể hiện: Có phòng viết phiếu kín,
bàn phiếu kín; Phiếu không có dấu hiệu đặc biệt, in sẵn tên để không phát
hiện ra phiếu của người nào; Cử tri phải trực tiếp viết phiếu và bỏ phiếu, nếu
không biết viết (gạch tên) thì có thể nhờ người viết hộ nhưng phải tự mình bỏ
18
vào hòm phiếu. Việc thực hiện nguyên tắc này đảm bảo sự lựa chọn (đồng
thời là trao quyền) đúng với ý chí của cử tri khi bầu cử. Nói cách khác, nó
đảm bảo sự thống nhất giữa hành vi lựa chọn trong phiếu bầu và suy nghĩ,
nhận thức của cử tri trong việc lựa chọn.
Tuy nhiên, không phải không có ý kiến phản đối việc bỏ phiếu kín.
John Stuart Mill từng cho rằng việc bỏ phiếu nên diễn ra công khai để những
người bỏ phiếu có thể cho đồng bào của mình biết về sự lựa chọn của họ, qua
đó đồng bào của họ sẽ cân nhắc lợi ích chung hơn là lợi ích cá nhân hẹp hòi
[40]. Một số nước vẫn áp dụng nguyên tắc bầu cử công khai để giám sát cử tri
bỏ phiếu cho đảng phái của mình. Ngay ở Liên Xô cho đến năm 1936 vẫn còn
áp dụng bầu cử công khai. Mặc dù vậy, đa số ý kiến cho rằng bỏ phiếu công
khai mang tính tiêu cực nhiều hơn tính tích cực, trong đó đặc biệt là làm cho
người bỏ phiếu phải chịu áp lực từ những chủ thể có quyền lực mong muốn
tiếp tục được bầu để duy trì quyền lực của họ. Vì thế, bỏ phiếu kín được xem
là nguyên tắc tiến bộ, dân chủ, được hầu hết các nước áp dụng [10, tr.179].
Tóm lại, các nguyên tắc bầu cử là những tư tưởng chủ đạo, mang tính
xuyên suốt cả hoạt động xây dựng pháp luật và họat động áp dụng pháp luật.
Việc tuân thủ các nguyên tắc bầu cử không ngoài mục đích đảm bảo ý chí của
nhân dân trong bầu cử.
1.2. Hệ thống bầu cử
1.2.1. Khái niệm hệ thống bầu cử
Đối với các quốc gia theo chế độ dân chủ, việc lựa chọn hệ thống bầu
cử phù hợp là một trong những quyết định quan trọng nhất. Hầu hết bất cứ sự
lựa chọn nào cũng sẽ có ảnh hưởng sâu sắc đến thể chế chính trị của mỗi quốc
gia. Hơn nữa, khi quốc gia đã lựa chọn được một hệ thống bầu cử nhất định
thì nó sẽ ít khi thay đổi mà chính các cơ chế chính trị sẽ thích nghi theo những
động cơ mà hệ thống đó tạo ra.
19
Hiện nay, có nhiều khái niệm về hệ thống bầu cử được đề cập ở các tài
liệu trong nước và trên thế giới.
Theo IDEA, ở cấp độ cơ bản nhất, hệ thống bầu cử (Electoral System)
là quá trình để chuyển dịch số phiếu được bỏ trong một cuộc tổng tuyển cử
thành ghế đại diện cho những đảng phái và những ứng cử viên đã trúng cử.
Các biến số chính là công thức bầu cử (tùy vào hệ thống bầu cử và công thức
toán học được sử dụng để tính toán phân bổ ghế đại diện), cấu trúc phiếu bầu
(bỏ phiếu cho đảng phái hay cho ứng viên; chỉ được chọn một lần hay được
xếp hạng các sự lựa chọn) và quy mô đơn vị bầu cử (một đơn vị bầu cử như
một quận, tỉnh bầu bao nhiêu đại diện vào cơ quan lập pháp). Những khía
cạnh hành chính của các cuộc bầu cử (như việc phân phối địa điểm bỏ phiếu,
đề cử ứng cử viên, đăng ký cử tri, ai là người điều hành các cuộc bầu cử...) là
những vấn đề rất quan trọng. Việc thiết kế hệ thống bầu cử cũng ảnh hưởng
đến các mảng luật bầu cử khác: cách thức phân định ranh giới của đơn vị bầu
cử, cách đăng ký cử tri, cách thiết kế lá phiếu, cách tính lá phiếu và nhiều khía
cạnh khác của quá trình bầu cử [38, tr.5].
Ở Việt Nam, cũng có những định nghĩa về hệ thống bầu cử. Nếu hiểu
theo nghĩa rộng thì hệ thống bầu cử là tổng hợp các qui định của pháp luật
bầu cử và những nguyên lý vận hành của hệ thống chính trị có tác động, ảnh
hưởng đến quá trình bầu cử của mỗi quốc gia. Mặt khác, nếu hiểu theo nghĩa
hẹp, hệ thống bầu cử được hiểu là cách thức (phương thức) “chuyển hóa” từ
những lá phiếu của cử tri thành “các ghế” trong các cơ quan dân cử. Hệ thống
bầu cử là tổ hợp các nguyên tắc trong bầu cử để chuyển hóa ý chí của nhân
dân (thể hiện trong những lá phiếu) thành những “ghế” (trong cơ quan đại
diện) [20, tr.116, 117].
Tóm lại, nhìn nhận dưới góc độ hình thức, hệ thống bầu cử do tổng thể
các qui định pháp luật bầu cử của một quốc gia hợp thành. Còn xét về bản
20
chất, hệ thống bầu cử là công cụ pháp lý, là phương tiện để “chuyển tải” ý chí
của cử tri thành “ghế” trong cơ quan đại diện.
1.2.2. Bản chất của hệ thống bầu cử
Hệ thống bầu cử có vai trò như một “phần mềm” để chuyển tải sự lựa
chọn từ ý chí của hàng triệu cử tri thành “ghế” trong cơ quan dân cử. Sự
chuyển tải của “phần mềm” đó càng “tiệm cận” ý chí của hàng triệu chủ nhân
đi bỏ phiếu, càng chứng tỏ “phần mềm” (hệ thống bầu cử) đó càng có “chất
lượng” tốt [20, tr.20].
Bản chất của hệ thống bầu cử được thể hiện ở hai vấn đề cơ bản:
Thứ nhất, sự lựa chọn đó như thế nào: Ai có quyền bầu cử? Nhân dân,
nhưng nhân dân là những ai? Ai có thể được bầu? Bầu ứng cử viên hay đảng
phái chính trị, lực lượng xã hội? Bầu như thế nào? Trình tự, thủ tục và cơ chế
đảm bảo thực hiện ra sao? Làm sao để đảm bảo đúng ý chí của nhân dân khi
bầu cử?
Thứ hai, việc trao quyền lực của nhân dân cho người đại diện ra sao:
Cách thiết kế đơn vị bầu cử? Theo tiêu chí lãnh thổ hay theo đảng phái chính
trị? Phương thức xác định kết quả bầu cử như thế nào: Đa số hay tỉ lệ? Ủy
thác cho các cá nhân hay đảng phái? Công thức hay kỹ thuật nào để quá trình
chuyển hóa kết quả bầu cử thành “ghế” trong cơ quan đại diện phản ánh trung
thực sự trao quyền lực của các cử tri vào các đại biểu hay các đảng phái trong
cơ quan đại diện.
Tuy nhiên, vấn đề chính được đặt ra là làm thế nào để đánh giá hệ
thống bầu cử đó thể hiện ý chí của nhân dân? Đây là vấn đề rất phức tạp,
ngoài những lý do về chính trị, thì con người vẫn đang trong hành trình tìm
kiếm để tìm ra những cách thức, những bộ tiêu chí khả dĩ nhất để đáp ứng
mục đích đó. Có thể khẳng định rằng: một hệ thống bầu cử dân chủ, thể hiện
ý chí của nhân dân trong bầu cử, trước hết hệ thống bầu cử đó cần tuân theo
21
các chuẩn mực được nhiều quốc gia dân chủ trên thế giới thừa nhận. Bầu cử
tự do, phổ thông, bình đẳng, trực tiếp, định kỳ và bỏ phiếu kín có thể được coi
như những “tinh hoa” của loài người về bầu cử. Nó được tranh luận, đúc rút
về lý luận trên rất nhiều các diễn đàn khác nhau, được kiểm nghiệm trong
thực tiễn bầu cử ở phạm vi nhiều nước, nhiều khu vực trên thế giới, qua nhiều
thời kỳ. Một hệ thống bầu cử tuân theo những nguyên tắc đó là tuân theo
những chuẩn mực tốt nhất để đảm bảo bầu cử phản ánh đúng ý chí của nhân
dân trong bầu cử. Do vậy, có thể nói rằng việc qui định, thực thi các nguyên
tắc bầu cử nói trên, mức độ của các nguyên tắc đó được thể chế trong hệ
thống bầu cử là những thước đo quan trọng để đánh giá hệ thống bầu cử của
một nước.
Bên cạnh đó, hệ thống bầu cử không hoạt động độc lập mà nó vận hành
trong những chế độ chính trị, chế độ nhà nước nhất định. Sự tác động, ảnh
hưởng qua lại giữa chế độ chính trị, chế độ nhà nước với hệ thống bầu cử là
vấn đề mang tính hiển nhiên. Hệ thống bầu cử của mỗi nước cần phải căn cứ
vào những đặc điểm của thể chế chính trị, xã hội và phải nhằm thực hiện
những mục tiêu cụ thể nhất định của nhà nước, của chế độ chính trị. Do vậy,
các chế độ chính trị, xã hội khác nhau có chuẩn mực về hệ thống bầu cử khác
nhau. Nói cách khác, hệ thống bầu cử là một bộ phận của chính trị, là một
định chế để thành lập các cơ quan nhà nước; do đó, nó không thể không mang
tính giai cấp, không thể không là công cụ để phục vụ cho những mục tiêu
chính trị, mục tiêu của bộ máy nhà nước. Vậy nên, đối với các chế độ chính
trị khác nhau, hệ thống bầu cử có những “bộ tiêu chí” áp dụng khác nhau. Mặt
khác, ngay trong một nhà nước, trong các giai đoạn khác nhau, yêu cầu đặt ra
đối với hệ thống bầu cử là khác nhau. Nếu hệ thống bầu cử vận hành phục vụ
tốt mục đích đề ra của nhà nước, của hệ thống chính trị, chứng tỏ nó có hiệu
quả và phù hợp. Bên cạnh đó, đối với các chế độ chính trị - xã hội khác nhau,
22
nội dung và cách hiểu đối với từng nguyên tắc bầu cử phổ biến nói trên cũng
không giống nhau, thậm chí rất khác nhau. Do vậy, không phải nhất nhất tuân
theo một cách cứng nhắc những nguyên tắc đó có nghĩa là đảm bảo hệ thống
bầu cử dân chủ, mà quan trọng là phải hiểu thấu đáo mỗi nguyên tắc đó có nội
dung gì, nó phục vụ gì cho mục tiêu của nhà nước và cho nền dân chủ; nó có
thể áp dụng trong điều kiện nào, trên nền tảng chính trị, xã hội, kinh tế, truyền
thống, lịch sử…như thế nào. Đó là những vấn đề cần được đặt ra và giải quyết
khi áp dụng.
Tóm lại, đối với mỗi quốc gia dân chủ nào, hệ thống bầu cử là phương
tiện, là “thước đo” để “chuyển tải” ý chí của nhân dân thành đại biểu trong cơ
quan đại diện. Một hệ thống bầu cử dân chủ phải có hai khả năng: Một là, nó
phải tạo điều kiện, cơ hội cho nhân dân chọn đúng người cần chọn. Hai là, hệ
thống bầu cử phải chuyển tải quyền lực của nhân dân cho đúng đối tượng cần
trao. Ngoài ra, hệ thống bầu cử phải tương thích với thể chế chính trị mà nó
tồn tại, phù hợp với đặc điểm về đạo đức, tập quán, truyền thống của dân tộc,
phù hợp với tính chất, trình độ dân chủ, điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước
và thực hiện các mục tiêu chính trị của nhà nước và dân tộc trong từng giai
đoạn lịch sử nhất định [20, tr. 20 – 23].
1.2.3. Vị trí, vai trò của hệ thống bầu cử
Thứ nhất, hệ thống bầu cử có ảnh hưởng mạnh mẽ đến cơ chế chính trị.
Hệ thống bầu cử tạo ra sự tác động qua lại giữa các thực thể chính trị
trong thể chế chính trị và bộ máy nhà nước. Đặc biệt, nó còn ảnh hưởng đến
mức độ cạnh tranh của Nghị trường. Trong cơ chế chính trị đa đảng, hệ thống
bầu cử thậm chí được coi là công cụ tác động mạnh mẽ nhất đối với chính trị,
vì nó không những quyết định cách thức “chuyển hóa” từ những lá phiếu của
cử tri thành các “ghế” trong cơ quan lập pháp, quyết định ai, đảng phái nào sẽ
được bầu chọn, mà còn quyết định quyền uy, sức mạnh của các đảng phái
23
chính trị. Hệ thống bầu cử là tiền đề quan trọng không những trong việc tạo ra
“hình hài” của Nghị viện. Mặt khác, nó còn ảnh hưởng đến “diện mạo” của
Chính phủ và chi phối các thiết chế nhà nước khác. Tất nhiên, cơ chế tổ chức,
hoạt động của Nghị viện, cũng như nguyên lý vận hành của thể chế chính trị,
đến lượt nó, tác động và ấn định trở lại đối với hệ thống. Lijphart, một trong
những nhà nghiên cứu nổi tiếng, tác giả của nhiều cuốn sách về chính trị và
bầu cử đã viết rằng “Lựa chọn hệ thống bầu cử, đặc biệt giữa việc lựa chọn
bầu cử đa số hay bầu cử theo đại diện tỉ lệ là vấn đề quan trọng trong tất cả
các định chế tạo thành nền dân chủ” [42, tr. 208].
Thứ hai, hệ thống bầu cử là một trong những yếu tố quan trọng tác
động đến các đảng phái chính trị.
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, hệ thống bầu cử có tác động rất lớn
đến số lượng cũng như cơ chế hoạt động của các đảng phái chính trị. Ngay cả
khi các cử tri bỏ phiếu giống nhau và mỗi đảng phái được số phiếu y chang
nhau, hệ thống bầu cử A có thể dẫn đến chính phủ liên minh hoặc chính phủ
thiểu số trong khi hệ thống bầu cử B có thể cho phép một đảng duy nhất nắm
quyền kiểm soát đa số. Do đó, lựa chọn hệ thống bầu cử nào để áp dụng có
thể ảnh hưởng đến ai là người trúng cử và đảng phái nào nắm giữ quyền lực.
Trong khi một số hệ thống khuyến khích, hoặc thậm chí thúc đẩy sự hình
thành của các đảng chính trị thì một số khác chỉ công nhận cá nhân ứng cử
viên. Hệ thống bầu cử đa số thường hạn chế số lượng các đảng phái. Trong
khi hệ thống tỷ lệ thường tạo ra một Nghị viện cũng như thể chế chính trị đa
đảng, thậm chí đại diện các đảng nhỏ và các ứng cử viên tự do cũng có thể có
mặt trong Nghị viện [41, tr.115]. Ngoài ra, sự liên hiệp hay không liên hiệp,
mức độ liên hiệp của các đảng phái chính trị trong việc thành lập Chính phủ
và mức độ ổn định của Chính phủ trong việc điều hành đất nước đều do sự tác
động và quyết định trực tiếp từ hệ thống bầu cử. Một số hệ thống bầu cử có
24
thể khuyến khích bè phái vì các đảng liên tục mâu thuẫn với nhau. Trong khi
một số hệ thống khác có thể khuyến khích các bên hợp tác và hạn chế bất
đồng chính kiến.
Thứ ba, hệ thống bầu cử có khả năng quản lý xung đột.
Những tác động nói trên càng nhấn mạnh vai trò quan trọng của hệ
thống bầu cử thường đối với việc quản lý xung đột. Rõ ràng là hệ thống bầu
cử khác nhau có thể làm trầm trọng thêm, hoặc giải toả những căng thẳng và
xung đột trong xã hội. Ở một mức độ nào đó, luôn luôn sẽ có sự căng thẳng
giữa hệ thống coi trọng quyền được đại diện của các nhóm thiểu số và hệ
thống khuyến khích chính phủ độc đảng. Ở cấp độ khác, một hệ thống bầu cử
không được coi là công bằng nếu như các khuôn khổ chính trị không cho
phép phe đối lập hi vọng có cơ hội để chiến thắng lần sau. Như vậy có thể dẫn
đến tình trạng phe đối lập sẽ sử dụng biện pháp thiếu dân chủ, thậm chí cả
chiến thuật bạo lực. Thêm vào đó, vì sự lựa chọn hệ thống bầu cử sẽ quyết
định tầm phức tạp của việc bỏ phiếu cho nên nó chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến
các dân tộc thiểu số và các nhóm bị thiệt thòi trong xã hội. Đây luôn luôn là
điều đáng cân nhắc và đặc biệt quan trọng trong những xã hội có số lượng lớn
cử tri ít kinh nghiệm bầu cử hoặc mù chữ.
Thứ tư, hệ thống bầu cử có tác động đến tâm lý của cử tri khi đi bỏ phiếu.
Các hệ thống bầu cử khác nhau có xu hướng khuyến khích các đảng
phái khác nhau. Hệ thống đa số thường hạn chế số lượng các đảng phái, trong
khi hệ thống tỷ lệ “dễ dãi” hơn và kết quả là thường có nhiều đảng đa dạng
hơn. Chính điều này tác động đến tâm lý của cử tri khi đi bỏ phiếu. Ví dụ
như: theo phương pháp về đích trước (FPTP), những cử tri muốn ủng hộ một
đảng nhỏ thường phải đối mặt với một tình thế khó xử là làm sao để tránh
"lãng phí" phiếu của họ vì mỗi đơn vị bầu cử chỉ có thể trúng cử một ứng cử
viên. Kết quả của thế “tiến thoái lưỡng nan” này là nhiều cử tri sẽ không lựa
25
chọn người họ ưng ý nhất nhưng ít có cơ hội chiến thắng mà lại bỏ phiếu cho
ứng cử viên từ một đảng lớn. Bởi lẽ, cử tri tin tưởng rằng đó là người có tỷ lệ
thắng cử cao hơn. Như vậy, hậu quả tổng thể của tác động tâm lý này là càng
tăng cường thế áp đảo của đảng lớn so với đảng nhỏ. Ngược lại, hệ thống tỷ lệ
với nhiều sự lựa chọn ứng cử viên có khả năng tạo điều kiện cho các đảng
nhỏ trúng cử. Do đó, áp lực bỏ phiếu theo “chiến lược” sẽ giảm đi.
1.2.4. Tiêu chí đánh giá hệ thống bầu cử
Hệ thống bầu cử rất hiếm khi được thiết kế trên một trang giấy trắng
mà không bị ảnh hưởng bởi các tiền lệ. Để thiết kế hệ thống bầu cử hoạt động
có hiệu quả trước hết cần có những căn cứ để đánh giá những ưu điểm, khuyết
điểm của từng hệ thống bầu cử. Thông qua những tiêu chí đánh giá đó, các
nhà cầm quyền sẽ tổng hợp được những điều mà họ mong muốn hệ thống bầu
cử đạt được cũng như những điều mà họ muốn tránh. Một số căn cứ cơ bản
sau đây có thể sử dụng để phân tích, đánh giá các hệ thống bầu cử:
Thứ nhất, một hệ thống bầu cử có hiệu quả cần rõ ràng, dễ hiểu, dễ
sử dụng không chỉ với các ứng cử viên mà đối với cả cử tri.
Tính dễ sử dụng của việc bỏ phiếu được xác định bởi các yếu tố như độ
phức tạp của lá phiếu, sự thuận lợi của địa điểm bỏ phiếu, cách thức cập nhật
danh sách đăng ký bầu cử và tầm tin tưởng của cử tri về việc lá phiếu của
mình là bí mật [38, tr.10]. Do vậy, cần thiết phải có những quy định đơn
giản, rõ ràng về việc lập danh sách cử tri, đơn vị bầu cử, khu vực bỏ phiếu,
ngày, giờ bầu cử … cho đến việc thiết kế lá phiếu, cách lựa chọn, cách thể
hiện (gạch, đục lỗ hay đánh dấu … đối với các ứng cử viên) của cử tri khi bầu
cử để việc cử tri khi đi bỏ phiếu thuận lợi nhất. Ví dụ như ở nhiều bang ở Mỹ,
các máy bầu cử được đặt trong các siêu thị và những nơi công cộng khác
trong vòng 3 tuần trước ngày bầu cử để công dân có thể tiện đường ghé vào
bỏ phiếu. Tại một số bang, công dân có thể bỏ phiếu bằng thư. Tại bang
26
Oregon, tất cả các công dân được nhận một lá phiếu 20 ngày trước ngày bầu
cử và họ có thể gửi trả lá phiếu bằng thư hoặc tự mình bỏ phiếu tại những địa
điểm được chỉ định. Nhiều nơi khác, như bang Seattle, hoặc tại hạt King
(bang Washington) cũng áp dụng việc bỏ phiếu bằng thư. Một số địa phương
khác sử dụng DRE (thiết bị điện tử nghi nhận trực tiếp có màn hình cảm ứng
được vi tính hóa – giống như máy tự động ở ngân hàng). Trên toàn nước Mỹ,
hơn 1/5 tổng số cử tri bỏ phiếu trước ngày bầu cử [31, tr.22, 23].
Ngược lại, nếu như việc bỏ phiếu trở nên quá khó khăn, phức tạp sẽ
khiến cho cử tri khó tiếp cận và ý nghĩa của việc bầu cử sẽ giảm đi. Bầu cử
quá phức tạp, cách thức bỏ phiếu không rõ ràng, hoặc “công thức” tính phiếu
quá rối rắm… có thể dẫn đến sự hiểu nhầm cũng như sự ngờ vực của cử tri.
Chẳng hạn, bỏ phiếu bằng cách “đục lỗ thẻ”: lá phiếu được làm trên một chiếc
thẻ nơi người ta đục lỗ bên cạnh tên của ứng cử viên, hoặc chiếc thẻ được đưa
vào một bộ phận ứng với lá phiếu và sau đó phiếu được đục lỗ. Tại một số
nơi, thiết kế của lá phiếu làm cho cử tri lung túng, đặc biệt là những người cao
tuổi. Điều này có thể khiến cử tri bỏ phiếu cho một ứng cử viên không phải là
người mà họ định bầu. Đây là hình thức bỏ phiếu gây tranh cãi trong việc
kiểm phiếu của cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ năm 2000 tại Florida. Do hậu
quả của trường hợp này, các thiết bị đục lỗ thẻ cũng dần dần bị loại bỏ [31,
tr.22, 23].
Thứ hai, hệ thống bầu cử tiến bộ phải là một hệ thống bầu cử có tác
dụng làm cực đại ảnh hưởng của cử tri.
Có thể xem đây là một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của hệ
thống bầu cử, bởi lẽ bầu cử là việc nhân dân trực tiếp lựa chọn những người
đại diện để thay mặt họ thực hiện quyền lực trong nhà nước. Do vậy, cần thiết
kế một hệ thống bầu cử sao cho trong từng công đoạn đều phải đảm bảo vai
trò của cử tri. Cần xem thể chế pháp luật chỉ là “công cụ” để “chuyển tải” sự
27
lựa chọn của cử tri, chứ “nó” không phải là công cụ để làm sai lệch ý chí của
cử tri [20, tr.117]. Nếu không đảm bảo tiêu chí này, kết quả bầu cử không
phản ánh ý chí của nhân dân, tức là cuộc bầu cử không công bằng và không
trung thực. Nguyên tắc này đòi hỏi cần được đảm bảo trong tất cả các công
đoạn bầu cử, từ việc đề cử, giới thiệu ứng cử viên; vận động tranh cử, phương
pháp xác định kết quả bầu cử. Chỉ cần một công đoạn nào đó hạ thấp hoặc
loại trừ vai trò của cử tri, đặc biệt là các công đoạn đầu, sẽ hạ thấp hoặc vô
hiệu hóa vai trò của cử tri trong bầu cử.
Thứ ba, hệ thống bầu cử cần được thiết kế sao cho kết quả bầu cử
phải phản ánh tính đại diện.
Vỗn dĩ, bầu cử là việc “so bó đũa, chọn cột cờ”. Cử tri sẽ chọn ra
những đại diện tiêu biểu nhất để bỏ phiếu. Do vậy, cơ quan dân cử chính là
“hình ảnh thu nhỏ” của cử tri, nhân dân cả nước hoặc một địa phương nhất
định. Cụ thể, tính đại diện của cơ quan dân cử thể hiện ít nhất qua ba tiêu chí
sau đây: Một là, đại diện địa lý theo từng khu vực, có thể là một thị trấn hay
thành phố, một tỉnh hoặc một khu vực bầu cử. Điều này có nghĩa là mỗi khu
vực địa lý sẽ được phân bổ một số lượng đại biểu nhất định và các đại biểu đó
phải chịu trách nhiệm trước cử tri tại khu vực địa lý của họ. Hai là, đại diện tư
tưởng thông qua đại diện của các đảng phái chính trị, người đại diện độc lập,
hoặc kết hợp cả hai. Nếu một nửa số cử tri bỏ phiếu cho một đảng phái chính
trị nhưng bên đó không thắng, hoặc hầu như không giành được ghế trong cơ
quan lập pháp thì hệ thống đó không thể đại diện đầy đủ cho ý chí của nhân
dân. Một cuộc bầu cử thành công khi kết quả là một nghị viện ra đời bao gồm
những đại biểu đại diện cho các đảng phái chính trị và các nhóm tư tưởng
trong xã hội. Ba là, đại diện miêu tả cho rằng cơ quan lập pháp nên là một
“tấm gương xã hội” để phản ánh cái nhìn, cảm nhận, suy nghĩ và hành động
của người dân nói chung. Một cơ quan lập pháp đại diện miêu tả sẽ bao gồm
28
cả nam giới - nữ giới, người trẻ - người già, người giàu - người nghèo, phản
ánh được các tôn giáo, tín ngưỡng và các sắc tộc khác nhau... trong một xã hội.
Thứ tư, hệ thống bầu cử cần khích lệ các đảng phái chính trị phát triển.
Thực tế cho thấy rằng, điều kiện để một nền dân chủ tồn tại bền vững
và cách ly khỏi những thách thức chính trị trong nước là các đảng phái chính
trị phải không ngừng phát triển và tăng cường tính hiệu quả của mình. Các
đảng phái chính trị dựa trên các giá trị và tư tưởng bao quát sẽ có khả năng để
hoạch định đường lối phù hợp và làm giảm xung đột xã hội so với các đảng
chủ yếu dựa trên bè phái hoặc khu vực. Hệ thống bầu cử nên khuyến khích
những điều trên thay vì cố thủ hoặc tạo ra xung đột chia rẽ đảng phái. Thiết kế
hệ thống bầu cử cũng có thể tạo điều kiện hoặc làm giảm xu hướng dùng đảng
chính trị như một phương tiện cho cá nhân lãnh đạo.
Đa số các chuyên gia cũng cho rằng hệ thống bầu cử cần phải khuyến
khích tính đại diện cho các phe đảng, bởi suy cho cùng nói đến các đảng phái
chính trị là nói tới các đường lối chính trị. Khi cử tri đi bỏ phiếu, họ không
chỉ lựa chọn “cá nhân” người đại diện, mà đồng thời họ chọn “đường hướng
chính trị” của người đại diện [20, tr.117]. Cùng với xu thế phát triển của dân
chủ, xu hướng cử tri quan tâm về đường lối chính trị hơn là cá nhân người đại
diện ngày càng trở thành phổ biến. Quan trọng hơn, trong bầu cử, phải ít nhất
là hai đường lối chính trị khác nhau thì cử tri mới có thể “lựa chọn” một cách
thực sự. Mặt khác, phải là đảng phái chính trị mới đủ sức bảo đảm và thực
hiện “lời hứa” với cử tri khi vận động tranh cử sau khi họ đắc cử chứ không
phải là một cá nhân độc lập. Thông qua sự vận động và cạnh tranh giữa các
đảng phái chính trị mà cử tri mới có khả năng tiếp cận những thông tin về
đường lối của các đảng phái chính trị. Đây là cơ sở để các lá phiếu của cử tri
mang “sức mạnh chính trị” chứ không phải là những lá phiếu cảm tính, “vô
hồn” [20, tr.120].
29
Thứ năm, hệ thống bầu cử phải khuyến khích sự giám sát từ phe đối lập.
Khi nắm giữ quyền lực trong tay nếu không có cơ chế giám sát thì xu
thế lạm quyền là tất yếu. Thúc đẩy và tạo ra một nghị trường đối lập
(parliamentary opposition) là một cơ chế hữu hiệu để chế ngự xu thế đó. Bầu
cử là tiền đề cực kỳ quan trọng để đảm bảo cơ chế này bởi lẽ trong một cuộc
bầu cử, không những cử tri lựa chọn một ứng cử viên cụ thể, mà họ còn lựa
chọn một đường lối, một phương hướng cụ thể. Và quan trọng hơn để đảm
bảo việc thực hiện lời hứa sau bầu cử - điều mà các ứng cử viên “tự do”, hoặc
các đảng phái nhỏ khó có thể làm được - không gì khác chính là tạo ra sự tồn
tại của các đảng phái chính trị. Hệ thống bầu cử sẽ hình thành và đảm bảo sự
hiện diện của các đảng phái chính trị đối lập để các đảng phái này có thể phê
bình, đánh giá pháp luật, đặt câu hỏi về hiệu suất của đảng điều hành, bảo vệ
quyền lợi của thiểu số và đại diện cho quần chúng. Cơ chế này có thể phát
sinh những “thủ đoạn chính trị” giữa các phe phái để hạ thấp uy tín của nhau
nhưng xét về tổng thể, rõ ràng điều này tạo cơ chế cạnh tranh giữa các đảng
phái chính trị trong việc hoạch định đường lối, chính sách; tạo ra sự “phản
biện” giữa các đảng phái chính trị; mang lại những lợi ích nhất định cho
người dân.
Trong chế độ đại nghị, phe đối lập cần có đủ đại diện để có thể cạnh
tranh với chính phủ hiện tại. Mặc dù sức mạnh của phe đối lập phụ thuộc vào
nhiều yếu tố khác ngoài hệ thống bầu cử tuy nhưng nếu hệ thống không tạo
được hoặc làm bất lực phe đối lập thì chính nó sẽ làm suy yếu nền dân chủ.
Một lý do chính khi New Zealand thay đổi thành hệ thống bầu cử đại diện tỉ
lệ hỗn hợp (MMP) là vì phương pháp về đích trước (FPTP) luôn làm thiệt số
ghế đại diện của các đảng đối lập nhỏ. Ngoài ra, hệ thống bầu cử còn cần cản
trở sự phát triển của việc “người thắng có tất cả” vì nó khiến cho đảng cầm
30
quyền không nắm được các nhu cầu và mong muốn của cử tri phe đối lập, và
coi bầu cử và chính phủ là cuộc thi một mất một còn (zero-sum game).
Trong chế độ tổng thống, tổng thống cần sự hỗ trợ của một nhóm lập
pháp đáng tin cậy. Tuy nhiên, những người có vai trò đối lập và rà soát chính
phủ cũng không kém phần quan trọng. Phân chia quyền lực giữa các cơ quan
lập pháp và hành pháp có hiệu quả nghĩa là không chỉ các thành viên đối lập
mà tất cả các nhà lập pháp có nhiệm vụ giám sát cơ quan hành pháp. Do đó,
hệ thống bầu cử cần lưu tâm đến tầm quan trọng tương đối giữa các đảng
chính trị và ứng cử viên, giữa các đảng chính trị và các thành viên được bầu.
Thứ sáu, hệ thống bầu cử cần cung cấp ưu đãi đối với việc hoà giải.
Hệ thống bầu cử không chỉ tạo ra các cơ quan quản lý nhà nước mà còn
là một công cụ để giải quyết các xung đột trong xã hội. Một số hệ thống sẽ
khuyến khích các bên tham gia hỗ trợ bầu cử bỏ phiếu bên ngoài cơ sở cốt lõi
của mình. Ví dụ, một đảng phái dựa chủ yếu vào cử tri da đen nhưng hệ thống
bầu cử có thể cung cấp những ưu đãi để thu hút cử tri da trắng hoặc từ các sắc
tộc khác. Như vậy, nền tảng chính sách của đảng thắng cử sẽ trở nên ít bị chia
rẽ, trở nên thống nhất và toàn diện hơn. Khuyến khích các hệ thống bầu cử tương
tự có thể hạn chế sự phân biệt về sắc tộc, khu vực, ngôn ngữ, hay ý thức.
Mặt khác, hệ thống bầu cử có thể khuyến khích các cử tri nhìn ra bên
ngoài nhóm của mình để bỏ phiếu cho các nhóm khác. Những hệ thống cho
phép cử tri bỏ nhiều phiếu theo danh sách ưu tiên giúp các cử tri vượt qua
ranh giới thành kiến về các nhóm khác nhau. Ví dụ như cuộc bầu cử năm
1998 ở Bắc Ireland, phiếu được chuyển nhượng theo hệ thống bầu theo
phương pháp bầu cử lá phiếu duy nhất có thể chuyển nhượng (STV) ủng hộ
đảng phái “hoà bình” trong khi vẫn cung cấp kết quả tỷ lệ cân đối. Tuy nhiên,
tại cuộc bầu cử năm 2003, khi cử tri ưu tiên đảng phái bảo thủ, hiệu ứng này
đã bị mất.
31
Thứ bảy, hệ thống bầu cử phải đảm bảo tính có hiệu quả của nghị viện.
Triển vọng cho một nghị viện ổn định và hiệu quả không chỉ dựa vào
hệ thống bầu cử nhưng kết quả của một hệ thống bầu cử có thể đóng góp cho
sự ổn định chính trị trong những khía cạnh quan trọng. Mọi cử tri khi bầu cử
đều mong muốn một nhà nước công bằng, nghị viện có thể ban hành luật và
quản lý đất nước một cách hiệu quả.
Nhận thức về việc kết quả có công bằng hay không khác nhau giữa các
quốc gia. Hai lần ở Vương quốc Anh năm 1951 và 1974, bên thắng nhiều
phiếu nhất trong nước lại giành ít chỗ ngồi hơn đối thủ của mình. Tuy nhiên,
điều này được coi là rủi ro hơn là một sự bất công hoàn toàn cần được đảo
ngược. Ngược lại, kết quả tương tự ở New Zealand vào năm 1978 và 1981,
trong đó Đảng Quốc gia tái nhiệm bất chấp giành được ít phiếu hơn phe đối
lập Đảng Lao động, được ghi nhận là thời điểm khởi nguồn phong trào cải
cách dẫn đến sự thay đổi của hệ thống bầu cử.
Việc Nghị viện có thể ban hành luật một cách hiệu quả là một phần liên
quan đến việc Nghị viện có thể tụ hội được các thành phần đại biểu như thế
nào và điều này lại liên quan đến hệ thống bầu cử. Như một quy luật chung,
hệ thống bầu cử đa số có nhiều khả năng để tạo ra cơ quan lập pháp trong đó
một bên có thể áp đảo các phe đối lập khác, trong khi hệ thống đại diện tỉ lệ
có nhiều khả năng phát triển thành chính phủ liên minh. Tuy nhiên, cũng có
trường hợp hệ thống đại diện tỉ lệ cũng có thể sản xuất đa số độc đảng, và hệ
thống đa số có thể không tạo được một đảng đa số. Phần lớn phụ thuộc vào
cấu trúc của hệ thống đảng và bản chất của xã hội.
Cuối cùng, hệ thống bầu cử nên hành động một cách trung lập trong
bầu cử đối với tất cả các bên và các ứng cử viên; nó không nên công khai
phân biệt đối xử chống lại bất kỳ nhóm chính trị nào. Khi đã có nhận thức
rằng bầu cử trong một nền dân chủ là một sân chơi không đồng đều thì đó là
32
dấu hiệu cho thấy trật tự chính trị bị suy yếu và bất ổn chính trị sẽ có nguy cơ
diễn ra trong tương lai gần. Một ví dụ rất ấn tượng về điều này là cuộc bầu cử
năm 1998 ở Lesotho. Khi đó, Đại hội Dân chủ giành chiến thắng tất cả các
ghế trong cơ quan lập pháp, mặc dù chỉ có 60% số phiếu, theo phương pháp
về đích trước (FPTP). Những bất ổn sau đó, đỉnh điểm là yêu cầu can thiệp
quân sự từ các quốc gia trong Cộng đồng Phát triển Nam Phi, đã chứng minh
rằng kết quả bầu cử như vậy không chỉ là không công bằng mà còn nguy
hiểm, và hệ thống bầu cử do đó đã được thay đổi cho các cuộc bầu cử về sau.
Thứ tám, hệ thống bầu cử phải tăng cường chế độ trách nhiệm của
cơ quan dân cử với cử tri.
Trách nhiệm là một trong những nền tảng của chính quyền đại diện. Sự
thiếu trách nhiệm của Nghị viện có thể dẫn đến sự mất ổn định lâu dài. Trong
một hệ thống chính trị có uy tín, Nghị viện cần chịu trách nhiệm trước cử tri
đến mức độ cao nhất có thể. Cử tri sẽ có quyền ảnh hưởng đến cơ cấu của
Nghị viện bằng cách thay đổi liên minh các đảng cầm quyền, hoặc loại trừ
một đảng duy nhất nếu họ thất bại trong việc lãnh đạo. Hệ thống bầu cử được
thiết kế phù hợp để tạo điều kiện cho mục tiêu này.
Thường thì các hệ thống đa số như phương pháp về đích trước (FPTP)
được coi là có lợi cho các đảng phái độc nhất, trong khi hệ thống đại diện tỉ lệ
theo tỷ lệ đại diện (PR) thuận lợi đối với các liên minh đa đảng. Tuy nhiên, đã
có bằng chứng rõ ràng trong những năm gần đây các cuộc bầu cử theo
phương pháp FPTP có thể dẫn đến chính phủ đa đảng (ví dụ như ở Ấn Độ), và
các cuộc bầu cử theo phương pháp PR lại dẫn đến chính phủ độc đảng mạnh
(ví dụ như ở Nam Phi) [38, tr.12]. Do đó, không thể kết luận rằng các hệ
thống bầu cử sẽ dẫn đến cùng một kết quả nhất định. Điều ta có thể khẳng
định được đó là hệ thống bầu cử có tác động lớn về các vấn đề quản trị nói
chung, cho cả chế độ tổng thống và chế độ đại nghị.
33
Thứ chín, hệ thống bầu cử cần đề cao vấn đề trách nhiệm cá nhân
của các đại biểu.
Đặt ra yêu cầu về trách nhiệm cá nhân đối với các đại biểu là phương
pháp giúp cử tri có thể kiểm tra một cách hiệu quả đối với những đại biểu sau
khi được bầu không thực hiện những điều đã hứa hẹn hoặc tỏ ra bất lực và
biếng nhác khi lãnh đạo, điều hành công việc. Một số hệ thống bầu cử không
đề cao vai trò của ứng cử viên được đề cử bởi một đảng chính trị nhiều quyền
lực mà nhấn mạnh vai trò của các ứng cử viên phổ biến tại địa phương.
Hệ thống đa nguyên/đa số được xem là hệ thống có thể tối đa hóa khả
năng của các cử tri để loại bỏ những đại biểu không đạt yêu cầu. Tuy nhiên,
nguyên tắc này trở nên mong manh hơn ở những nơi cử tri bầu theo đảng phái
chứ không theo ứng cử viên. Đồng thời, hệ thống danh sách mở, danh sách tự
do và phương pháp bầu cử lá phiếu duy nhất có thể chuyển nhượng (STV)
được thiết kế để cho phép cử tri lựa chọn ứng cử viên trong bối cảnh của một
hệ thống theo tỷ lệ. Chính điều này giúp cho hệ thống bầu cử có khả năng
đảm bảo trách nhiệm cá nhân của những ứng cử viên.
Thứ mười, hệ thống bầu cử phải phù hợp với đặc điểm của một chế
độ chính trị - xã hội cụ thể và đáp ứng những mục tiêu mà hệ thống chính
trị đó đặt ra.
Có thể một mô hình bầu cử rất thành công ở quốc gia này nhưng không
thành công ở quốc gia khác. Và tương tự như vậy, cũng có hệ thống bầu cử
không thành công ở một nước này nhưng lại phù hợp với nước khác. Ảnh
hưởng của một hệ thống bầu cử đến mỗi quốc gia phụ thuộc phần lớn vào bối
cảnh chính trị, xã hội nơi nó được sử dụng. Ví dụ như quan điểm cho rằng hệ
thống đa số có xu hướng hạn chế số lượng các đảng phái đại diện còn hệ
thống tỷ lệ lại khuyến khích nhiều đảng phái hay các quy tắc đa số sẽ tạo ra
hệ thống hai đảng còn quy tắc tỷ lệ lại tạo ra hệ thống đa đảng đã ngày càng
34
trở nên lỗi thời. Trong những năm gần đây, phương pháp về đích trước
(FPTP) đã không hạn chế số lượng đảng phái trong các nền dân chủ đã có nền
móng như Canada và Ấn Độ và nó cũng không dẫn đến sự hình thành của các
đảng phái lâu đời như dự kiến ở Papua New Guinea. Mặt khác, hệ thống tỷ lệ
lại được áp dùng trong những cuộc bầu cử của các chế độ độc đảng thống trị
ở Namibia, Nam Phi và các nơi khác. Như vậy, có thể khái quát rằng, hệ quả
của sự lựa chọn hệ thống bầu cử phụ thuộc vào các cấu trúc của một xã hội về
mảng tư tưởng, tôn giáo, dân tộc, màu da chủng tộc, địa lý, ngôn ngữ và giai
cấp kinh tế. Ngoài ra, còn phụ thuộc vào việc đất nước là nền dân chủ có nền
móng, hay nền dân chủ chuyển tiếp, hay nền dân chủ còn non trẻ; việc có hay
không có các đảng phái lâu đời và liệu người ủng hộ những đảng phái này tập
trung hay phân tán trên các vùng địa lý.
Do vậy, các nhà thiết kế hệ thống bầu cử phải cẩn thận áp dụng một
quá trình để ưu tiên những tiêu chí quan trọng nhất trong bối cảnh chính trị cụ
thể, trước khi chọn xem hệ thống bầu cử nào là hiệu quả và phù hợp nhất.
Cách hữu ích nhất là lên danh sách những điều phải tránh bất cứ giá nào,
chẳng hạn như thảm họa chính trị có thể dẫn đến sự sụp đổ của nền dân chủ.
Ví dụ, một quốc gia đa tộc có thể tìm mọi cách để tránh không loại bỏ đại
diện của các nhóm sắc tộc thiểu số để thúc đẩy tính hợp pháp của quá trình
bầu cử và tránh việc người dân có nhận thức rằng hệ thống bầu cử không
công bằng. Ngược lại, một nền dân chủ non trẻ ở những nước khác có thể đề
cao hơn các mục tiêu như đảm bảo rằng nghị viện có thể ban hành pháp luật
một cách hiệu quả hoặc đảm bảo cử tri có quyền loại bỏ lãnh đạo không thích
hợp... Chỉ có những người trực tiếp tham gia vào quá trình thiết kế thể chế
mới có thể thiết lập các ưu tiên trong số các tiêu chí cạnh tranh.
Mười một, khi thiết kế hệ thống bầu cử cần tính đến những tiêu
chuẩn quốc tế
35
Ngày nay, việc thiết kế hệ thống bầu cử diễn ra trong bối cảnh nhiều
công ước, hiệp ước quốc tế và các công cụ pháp lý ảnh hưởng đến các vấn đề
chính trị. Trong khi thế giới không có một danh sách hoàn chỉnh duy nhất về
các tiêu chuẩn quốc tế cho bầu cử thì vẫn có sự đồng thuận chung cho rằng
các tiêu chuẩn này bao gồm các nguyên tắc về: bầu cử miễn phí, công bằng,
tổ chức định kỳ, đảm bảo phổ thông đầu phiếu cho cử tri, đảm bảo bí mật của
các lá phiếu, đảm bảo tự do bầu cử, theo nguyên tắc một người một phiếu [38,
tr.14]. Hơn nữa, mặc dù không hệ thống bầu cử nào được xem là tốt nhất
trong mọi trường hợp nhưng không thể phủ nhận hệ thống bầu cử đóng vai trò
quan trọng trong các nguyên tắc như đại diện công bằng cho tất cả công dân,
bảo đảm quyền bình đẳng giới và quyền của các nhóm yếu thế như người tàn
tật, dân tộc thiểu số... Những nguyên tắc trên được chính thức hóa trong các
công cụ pháp lý quốc tế, chẳng hạn như Tuyên ngôn nhân quyền năm 1948,
Công ước Quốc tế về quyền dân sự và quyền chính trị năm 1966, và các công
ước và cam kết liên quan đến bầu cử dân chủ tổ chức cấp vùng như ở Liên
minh Châu Âu (EU) và Tổ chức an ninh và hợp tác Châu Âu (OSCE).
Mười hai, đảm bảo tài chính để quá trình bầu cử được bền vững
Mọi cuộc bầu cử không diễn ra trên giấy mà diễn ra trong thế giới thực.
Vì vậy, ở mức độ nào đó, việc lựa chọn áp dụng một hệ thống bầu cử nào
cũng phải phụ thuộc vào chi phí và khả năng hành chính của đất nước. Mặc
dù nhà tài trợ thường cung cấp hỗ trợ tài chính đáng kể cho lần bầu cử đầu
tiên và thậm chí là những lần sau đó. Tuy nhiên, sự hỗ trợ này sẽ không phải
là mãi mãi đối với các quốc gia trong quá trình chuyển đổi. Trong khuôn khổ
chính trị bền vững, ta cần tính đến nguồn lực của một quốc gia, về năng lực
của người có kỹ năng quản trị quá trình bầu cử và về tình hình tài chính của
ngân sách quốc gia.
36
Ví dụ, một nước nghèo có thể không đủ khả năng thực hiện nhiều cuộc
bầu cử theo yêu cầu của phương pháp bầu cử hai vòng hoặc quản lý việc đếm
phiếu ưu đãi mang tính phức tạp. Tuy nhiên, đơn giản hóa ngắn hạn cũng
không hẳn đã làm tăng hiệu quả tiết kiệm chi phí trong thời gian dài. Một hệ
thống bầu cử có thể đạt được tiêu chí ít tốn kém và dễ dàng quản lý nhưng nó
lại không đáp ứng được hết các nhu cầu bức xúc của một quốc gia. Khi một
hệ thống bầu cử đi ngược với nhu cầu của một quốc gia, kết quả có thể là
thảm họa. Một hệ thống có vẻ tốn kém và phức tạp nhưng nếu phù hợp nó có thể
đảm bảo sự ổn định của đất nước và củng cố nền dân chủ phát triển hơn nữa.
Tóm lại, các tiêu chí trên đây bao gồm nhiều lĩnh vực. Đôi khi chúng
mâu thuẫn, thậm chí loại trừ lẫn nhau. Ví dụ, ta có thể muốn tạo cơ hội cho
các ứng cử viên độc lập được bầu đồng thời khuyến khích sự phát triển của
các đảng chính trị mạnh mẽ. Hoặc các nhà thiết kế hệ thống bầu cử có thể
nghĩ rằng cần xây dựng hệ thống để cung cấp cho cử tri nhiều sự lựa chọn
giữa các ứng cử viên và các đảng, nhưng điều này có thể dẫn đến lá phiếu
phức tạp, gây khó khăn cho các cử tri ít được giáo dục. Bí quyết trong việc
lựa chọn (hoặc cải cách) một hệ thống bầu cử là ưu tiên các tiêu chí quan
trọng nhất và sau đó đánh giá xem hệ thống bầu cử nào hoặc sự kết hợp của
hệ thống nào là phù hợp nhất và đạt được những mục tiêu đã đặt ra trước đó.
37
KẾT LUẬN CHƯƠNG I
Bầu cử tự do và công bằng được xem là tiền đề của nền dân chủ, là
phương pháp hợp pháp nhất để thành lập chính quyền. Thông qua bầu cử,
nhân dân sẽ chuyển giao quyền lực của mình cho những người trong cơ quan
đại diện nhà nước để họ điều hành và quản lý xã hội. Do đó, việc lựa chọn hệ
thống bầu cử phù hợp là một trong những quyết định quan trọng nhất đối với
các nước theo chế độ dân chủ, có ảnh hưởng sâu sắc đến sự ổn định và bền
vững của thể chế chính trị.
Nội dung chương I luận văn chia làm hai phần rõ ràng:
Một là, làm rõ các vấn đề cơ bản về bầu cử bao gồm: khái niệm; vị trí,
vai trò; các nguyên tắc bầu cử phổ biến trên thế giới.
Hai là, trình bày chi tiết những vấn đề lý luận về hệ thống bầu cử xét
trên nhiều phương diện như: khái niệm; bản chất; vị trí, vai trò và các tiêu chí
đánh giá một hệ thống bầu cử.
Đây được xem là cơ sở lý luận chung nhất, cơ bản nhất có vai trò nền
tảng trong việc phân tích, đánh giá sâu hơn, cụ thể các hệ thống bầu cử trên
thế giới và ở Việt Nam.
Trong chương tiếp theo, luận văn sẽ nghiên cứu về các hệ thống bầu cử
điển hình trên thế giới và tổng kết những ưu, nhược điểm của từng hệ thống.
Mặt khác, chương II cũng phân tích sâu về hệ thống bầu cử ở ba quốc gia là
Ấn Độ, Cộng hòa Ailen và New Zealand và đề cập đến xu thế phát triển hệ
thống bầu cử trên thế giới.
38
CHƯƠNG II
HỆ THỐNG BẦU CỬ TRÊN THẾ GIỚI
2.1. Các hệ thống bầu cử điển hình
2.1.1. Phân loại các hệ thống bầu cử điển hình
Hiện nay, hệ thống bầu cử ở các nước trên thế giới có vô số biến thể
khác nhau. Tuy nhiên, căn cứ vào phương thức “chuyển hóa” từ những lá
phiếu của cử tri thành “các ghế” trong các cơ quan dân cử có thể phân loại hệ
thống bầu cử trên thế giới thành ba hệ thống lớn: hệ thống bầu cử theo đa số
(plurality/majority systems); hệ thống bầu cử tỷ lệ (proportional systems) và
hệ thống bầu cử hỗn hợp (mixed systems).
Ba hệ thống này lại được chia nhỏ thành 9 phương pháp bầu cử. Hệ
thống bầu cử theo đa số bao gồm 5 phương pháp: phương pháp về đích trước
(First Past The Post -FPTP), phương pháp lá phiếu khối (Block Vote - BV),
phương pháp lá phiếu khối theo đảng phái chính trị (Party Block Vote - PBV),
phương pháp lá phiếu có thể thay thế (Alternative Vote - AV) và phương pháp
bầu cử hai vòng (Two-Round System -TRS). Hệ thống bầu cử tỷ lệ được chia
thành 2 phương pháp: phương pháp đại diện tỉ lệ theo danh sách (List
Proportional Representation - List PR) và phương pháp bầu cử lá phiếu duy nhất
có thể chuyển nhượng (Single Transferable Vote - STV). Hệ thống bầu cử hỗn
hợp gồm 2 phương pháp: phương pháp đại diện tỉ lệ hỗn hợp (Mixed Member
Proportional - MMP) và phương pháp song song (Parallel Systems – PR).
Ngoài ra, còn có một số phương pháp khác không thuộc về ba hệ thống
lớn trên, có thể coi như ba nhóm nhỏ riêng biệt. Đó là: phương pháp bầu cử lá
phiếu duy nhất không được chuyển nhượng (Sing Non-Transferable Vote -
SNTV), phương pháp lá phiếu hạn chế (Limited Vote), phương pháp Borda
(The Borda Count).
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Luận văn: Quyền của người đồng tính, HAY, 9đ
Luận văn: Quyền của người đồng tính, HAY, 9đLuận văn: Quyền của người đồng tính, HAY, 9đ
Luận văn: Quyền của người đồng tính, HAY, 9đ
 
Luận văn: Văn bản quy phạm pháp luật - Vấn đề lý luận và thực tiễn
Luận văn: Văn bản quy phạm pháp luật - Vấn đề lý luận và thực tiễnLuận văn: Văn bản quy phạm pháp luật - Vấn đề lý luận và thực tiễn
Luận văn: Văn bản quy phạm pháp luật - Vấn đề lý luận và thực tiễn
 
Luận văn: Vận dụng thừa kế pháp luật thời nhà Lê, nhà Nguyễn
Luận văn: Vận dụng thừa kế pháp luật thời nhà Lê, nhà NguyễnLuận văn: Vận dụng thừa kế pháp luật thời nhà Lê, nhà Nguyễn
Luận văn: Vận dụng thừa kế pháp luật thời nhà Lê, nhà Nguyễn
 
Luận văn: Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng, HOT
Luận văn: Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng, HOTLuận văn: Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng, HOT
Luận văn: Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng, HOT
 
Luận văn: Quyền của người đồng tính theo pháp luật hiện nay, 9đ
Luận văn: Quyền của người đồng tính theo pháp luật hiện nay, 9đLuận văn: Quyền của người đồng tính theo pháp luật hiện nay, 9đ
Luận văn: Quyền của người đồng tính theo pháp luật hiện nay, 9đ
 
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền của phụ nữ, HAY
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền của phụ nữ, HAYLuận văn: Hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền của phụ nữ, HAY
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền của phụ nữ, HAY
 
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã, HAY
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã, HAYLuận văn: Tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã, HAY
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã, HAY
 
Luận văn: Cơ chế bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật ở Việt Nam
Luận văn: Cơ chế bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật ở Việt NamLuận văn: Cơ chế bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật ở Việt Nam
Luận văn: Cơ chế bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật ở Việt Nam
 
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOTLuận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
 
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân.
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân.Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân.
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân.
 
Luận văn: Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong thi hành công vụ
Luận văn: Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong thi hành công vụLuận văn: Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong thi hành công vụ
Luận văn: Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong thi hành công vụ
 
Luận văn: Nguyên nhân điều kiện tội trộm cắp tài sản tại TPHCM
Luận văn: Nguyên nhân điều kiện tội trộm cắp tài sản tại TPHCMLuận văn: Nguyên nhân điều kiện tội trộm cắp tài sản tại TPHCM
Luận văn: Nguyên nhân điều kiện tội trộm cắp tài sản tại TPHCM
 
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnhLuận văn: Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh
 
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễnLuận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
 
Luận văn: Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, HAY
Luận văn: Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, HAYLuận văn: Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, HAY
Luận văn: Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Kết hôn đồng giới theo pháp luật một số quốc gia, HOT
Luận văn: Kết hôn đồng giới theo pháp luật một số quốc gia, HOTLuận văn: Kết hôn đồng giới theo pháp luật một số quốc gia, HOT
Luận văn: Kết hôn đồng giới theo pháp luật một số quốc gia, HOT
 
Bài mẫu Khóa luận về Hôn nhân đồng giới, HAY, 9 ĐIỂM
Bài mẫu Khóa luận về Hôn nhân đồng giới, HAY, 9 ĐIỂMBài mẫu Khóa luận về Hôn nhân đồng giới, HAY, 9 ĐIỂM
Bài mẫu Khóa luận về Hôn nhân đồng giới, HAY, 9 ĐIỂM
 
Luận văn: Những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt NamLuận văn: Những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Đạo đức và pháp luật trong hôn nhân gia đình, HOT
Luận văn: Đạo đức và pháp luật trong hôn nhân gia đình, HOTLuận văn: Đạo đức và pháp luật trong hôn nhân gia đình, HOT
Luận văn: Đạo đức và pháp luật trong hôn nhân gia đình, HOT
 

Similar to Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT

Similar to Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT (20)

Luận văn: Đổi mới tổ chức của cơ quan quản lý bầu cử, HAY
Luận văn: Đổi mới tổ chức của cơ quan quản lý bầu cử, HAYLuận văn: Đổi mới tổ chức của cơ quan quản lý bầu cử, HAY
Luận văn: Đổi mới tổ chức của cơ quan quản lý bầu cử, HAY
 
Luận văn: Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta
Luận văn: Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta Luận văn: Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta
Luận văn: Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta
 
Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta, HAY.docx
Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta, HAY.docxĐổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta, HAY.docx
Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta, HAY.docx
 
Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta, HAY.docx
Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta, HAY.docxĐổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta, HAY.docx
Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta, HAY.docx
 
Luận văn: Bãi miễn đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp theo luật
Luận văn: Bãi miễn đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp theo luậtLuận văn: Bãi miễn đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp theo luật
Luận văn: Bãi miễn đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp theo luật
 
Luận văn: Thừa phát lại trong thi hành án dân sự, HAY
Luận văn: Thừa phát lại trong thi hành án dân sự, HAYLuận văn: Thừa phát lại trong thi hành án dân sự, HAY
Luận văn: Thừa phát lại trong thi hành án dân sự, HAY
 
Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...
Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...
Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...
 
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAYChế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
 
Đề tài: Đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, HAY
Đề tài: Đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, HAYĐề tài: Đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, HAY
Đề tài: Đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, HAY
 
Luận văn: Giám sát, phản biện xã hội của Hội Liên hiệp phụ nữ, 9đ
Luận văn: Giám sát, phản biện xã hội của Hội Liên hiệp phụ nữ, 9đLuận văn: Giám sát, phản biện xã hội của Hội Liên hiệp phụ nữ, 9đ
Luận văn: Giám sát, phản biện xã hội của Hội Liên hiệp phụ nữ, 9đ
 
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAYĐề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
 
Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay, HAY
Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay, HAYCơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay, HAY
Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay, HAY
 
Luận án: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam
Luận án: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt NamLuận án: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam
Luận án: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam
 
Luận án: Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở, HAY
Luận án: Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở, HAYLuận án: Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở, HAY
Luận án: Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở, HAY
 
Đề tài: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam, HAY
Đề tài: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam, HAYĐề tài: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam, HAY
Đề tài: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Sự phát triển của hiến pháp trong tiến trình dân chủ hóa
Luận văn: Sự phát triển của hiến pháp trong tiến trình dân chủ hóaLuận văn: Sự phát triển của hiến pháp trong tiến trình dân chủ hóa
Luận văn: Sự phát triển của hiến pháp trong tiến trình dân chủ hóa
 
Sự phát triển của hiến pháp trong tiến trình dân chủ hóa ở Đông Á
Sự phát triển của hiến pháp trong tiến trình dân chủ hóa ở Đông ÁSự phát triển của hiến pháp trong tiến trình dân chủ hóa ở Đông Á
Sự phát triển của hiến pháp trong tiến trình dân chủ hóa ở Đông Á
 
Đề tài: Sự phát triển của hiến pháp trong dân chủ hóa ở Đông Á
Đề tài: Sự phát triển của hiến pháp trong dân chủ hóa ở Đông ÁĐề tài: Sự phát triển của hiến pháp trong dân chủ hóa ở Đông Á
Đề tài: Sự phát triển của hiến pháp trong dân chủ hóa ở Đông Á
 
Pháp luật về dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính, HOT
Pháp luật về dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính, HOTPháp luật về dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính, HOT
Pháp luật về dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính, HOT
 
Pháp luật về dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính
Pháp luật về dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chínhPháp luật về dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính
Pháp luật về dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Recently uploaded

Recently uploaded (20)

40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...
 
Thực trạng ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực giống cây trồng: Nghiên cứu điển...
Thực trạng ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực giống cây trồng: Nghiên cứu điển...Thực trạng ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực giống cây trồng: Nghiên cứu điển...
Thực trạng ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực giống cây trồng: Nghiên cứu điển...
 
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
 
Báo cáo bài tập Quản trị Marketing Kế hoạch marketing cho ống hút cỏ của Gree...
Báo cáo bài tập Quản trị Marketing Kế hoạch marketing cho ống hút cỏ của Gree...Báo cáo bài tập Quản trị Marketing Kế hoạch marketing cho ống hút cỏ của Gree...
Báo cáo bài tập Quản trị Marketing Kế hoạch marketing cho ống hút cỏ của Gree...
 
CHỦ ĐỀ VÀ TÍNH LIÊN KẾT TRONG DIỄN NGÔN CHÍNH LUẬN TIẾNG VIỆT
CHỦ ĐỀ VÀ TÍNH LIÊN KẾT TRONG DIỄN NGÔN CHÍNH LUẬN TIẾNG VIỆTCHỦ ĐỀ VÀ TÍNH LIÊN KẾT TRONG DIỄN NGÔN CHÍNH LUẬN TIẾNG VIỆT
CHỦ ĐỀ VÀ TÍNH LIÊN KẾT TRONG DIỄN NGÔN CHÍNH LUẬN TIẾNG VIỆT
 
NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptx
NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptxNGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptx
NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptx
 
Báo cáo tốt nghiệp Phát triển sản phẩm thẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần K...
Báo cáo tốt nghiệp Phát triển sản phẩm thẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần K...Báo cáo tốt nghiệp Phát triển sản phẩm thẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần K...
Báo cáo tốt nghiệp Phát triển sản phẩm thẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần K...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...
 
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...
 
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...
 
Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...
Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...
Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...
 
Tóm tắt luận văn Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
Tóm tắt luận văn Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi phápTóm tắt luận văn Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
Tóm tắt luận văn Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
 
Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi phápHệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
 
Tiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdf
Tiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdfTiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdf
Tiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
 
Giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty TNHH Sơn Alex Việt Nam
Giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty TNHH Sơn Alex Việt NamGiải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty TNHH Sơn Alex Việt Nam
Giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty TNHH Sơn Alex Việt Nam
 
PHONG TRÀO “XUNG KÍCH, TÌNH NGUYỆN VÌ CUỘC SỐNG CỘNG ĐỒNG” CỦA ĐOÀN TNCS HỒ...
PHONG TRÀO “XUNG KÍCH, TÌNH NGUYỆN VÌ CUỘC SỐNG   CỘNG ĐỒNG” CỦA ĐOÀN TNCS HỒ...PHONG TRÀO “XUNG KÍCH, TÌNH NGUYỆN VÌ CUỘC SỐNG   CỘNG ĐỒNG” CỦA ĐOÀN TNCS HỒ...
PHONG TRÀO “XUNG KÍCH, TÌNH NGUYỆN VÌ CUỘC SỐNG CỘNG ĐỒNG” CỦA ĐOÀN TNCS HỒ...
 

Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HOÀNG THU TRANG HỆ THỐNG BẦU CỬ Ở MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2015
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HOÀNG THU TRANG HỆ THỐNG BẦU CỬ Ở MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật Mã số: 60 38 01 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Vũ Công Giao Hà Nội – 2015
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cám ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Hoàng Thu Trang
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt Danh mục các bảng Danh mục các biểu đồ, hình vẽ MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG I: Lý luận chung về bầu cử và hệ thống bầu cử 7 1.1. Bầu cử 7 1.1.1. Khái niệm bầu cử 7 1.1.2. Vị trí, vai trò của bầu cử 9 1.1.3. Các nguyên tắc bầu cử phổ biến trên thế giới 11 1.2. Hệ thống bầu cử 18 1.2.1. Khái niệm hệ thống bầu cử 18 1.2.2. Bản chất của hệ thống bầu cử 20 1.2.3. Vị trí, vai trò của hệ thống bầu cử 22 1.2.4. Tiêu chí đánh giá hệ thống bầu cử 25 CHƯƠNG II: Hệ thống bầu cử trên thế giới 38 2.1. Các hệ thống bầu cử điển hình 38 2.1.1. Phân loại các hệ thống bầu cử điển hình 38 2.1.1.1. Hệ thống bầu cử đa số 39 2.1.1.2. Hệ thống bầu cử đại diện tỉ lệ 43 2.1.1.3. Hệ thống bầu cử hỗn hợp 48 2.1.1.4. Một số hệ thống bầu cử khác 51 2.1.2. Ưu điểm, hạn chế của các hệ thống bầu cử 52
  • 5. 2.2. Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia 58 2.2.1. Hệ thống bầu cử ở Ấn Độ 59 2.2.2. Hệ thống bầu cử ở Cộng Hòa Ailen 63 2.2.3. Hệ thống bầu cử ở New Zealand 68 2.3. Xu hướng phát triển của hệ thống bầu cử trên thế giới 72 CHƯƠNG III: Thực trạng và việc hoàn thiện hệ thống bầu cử ở Việt Nam 80 3.1. Hệ thống bầu cử Việt Nam từ năm 1945 đến nay 80 3.1.1. Khái quát các giai đoạn phát triển của hệ thống bầu cử Việt Nam từ năm 1945 đến nay 80 3.1.2. Những điểm mới về hệ thống bầu cử trong Hiến pháp năm 2013 và Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND năm 2015 84 3.2. Thực trạng hệ thống bầu cử ở Việt Nam hiện nay 88 3.2.1. Những thành tựu cơ bản của hệ thống bầu cử ở Việt Nam hiện nay 88 3.2.2. Một số bất cập, hạn chế của hệ thống bầu cử ở Việt Nam hiện nay 91 3.3. Quan điểm, giải pháp hoàn thiện hệ thống bầu cử ở nước ta hiện nay 99 3.3.1 Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng 99 3.3.2. Đổi mới công tác hiệp thương 100 3.3.3. Đổi mới về tổ chức phụ trách bầu cử 102 3.3.4. Đổi mới về đơn vị bầu cử 103 3.3.5. Đổi mới về công tác tuyên truyền và vận động bầu cử 105 KẾT LUẬN 106 Tài liệu tham khảo 110
  • 6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT AV : Phương pháp bầu cử lá phiếu có thể thay thế (Alternative Vote) BC : Phương pháp bầu cử Borda (The Borda Count) BV : Phương pháp bầu cử lá phiếu khối (Block Vote) FPTP : Phương pháp bầu cử về đích trước (First Past The Post) HĐND : Hội đồng nhân dân IDEA : Viện Quốc tế về Dân chủ và Hỗ trợ bầu cử (The International Institute for Democracy and Electoral Assistance) List PR : Phương pháp bầu cử đại diện tỉ lệ theo danh sách (List Proportional Representation) LV : Phương pháp bầu cử lá phiếu hạn chế (Limited Vote) MMP : Phương pháp bầu cử đại diện tỉ lệ hỗn hợp (Mixed Member Proportional) MTTQ : Mặt trận tổ quốc NXB : Nhà xuất bản PBV : Phương pháp bầu cử lá phiếu khối theo đảng phái chính trị (Party Block Vote) PR : Phương pháp bầu cử song song (Parallel Systems) SNTV : Phương pháp bầu cử lá phiếu duy nhất không chuyển nhượng (Sing Non-Transferable Vote) STV : Phương pháp bầu cử lá phiếu duy nhất có thể chuyển nhượng (Single Transferable Vote) TRS : Phương pháp bầu cử hai vòng (Two-Round System) UBTVQH : Ủy ban thường vụ Quốc hội UNESCO : Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc (United Nations Educational Scientific and Cultural Organization)
  • 7. DANH MỤC CÁC BẢNG STT Nội dung Trang 1 Bảng 2.1: So sánh ưu điểm, nhược điểm của các hệ thống bầu cử 53 2 Bảng 2.2: Hiệu quả hoạt động của Đảng BJP ở các cuộc tổng tuyển cử ở Ấn Độ 61 3 Bảng 2.3: Sự thay đổi hệ thống bầu cử gần đây 74 4 Bảng 2.4: Phân bố các hệ thống bầu cử 78
  • 8. DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, HÌNH VẼ STT Nội dung Trang 1 Hình 2.1: Sơ đồ các hệ thống bầu cử 39 2 Hình 2.2: Nhóm hệ thống bầu cử: Số lượng các quốc gia và vùng lãnh thổ 76 3 Hình 2.3: Hệ thống bầu cử: Số lượng quốc gia và vùng lãnh thổ 77 4 Hình 2.4: Hệ thống bầu cử: Tổng số dân (triệu) 77
  • 9. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Điểm 3 Điều 21 Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người của Liên hợp quốc thông qua năm 1948 đã trịnh trọng tuyên bố: “Ý chí của nhân dân là cơ sở quyền lực của nhà nước, ý chí này phải được thể hiện qua các cuộc bầu cử thường kỳ và chân thực, được tổ chức theo nguyên tắc bình đẳng, phổ thông đầu phiếu và bỏ phiếu kín hoặc bằng những tiến trình bầu cử tự do tương đương” [20, tr.113]. Điều 25 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 cũng quy định rõ ràng: “Mọi công dân, không có sự phân biệt nào... và không có sự hạn chế bất hợp lý nào, đều có quyền và cơ hội để: a) Tham gia vào việc điều hành các công việc xã hội một cách trực tiếp hoặc thông qua những người đại diện được họ tự do lựa chọn; b) Bầu cử và ứng cử trong các cuộc bầu cử định kỳ chân thực, bằng phổ thông đầu phiếu, bình đẳng và bỏ phiếu kín nhằm đảm bảo cho cử tri tự do bày tỏ ý nguyện của mình...” [20, tr.113, 114]. Như vậy, ý chí của người dân được xem là nền tảng của quyền lực nhà nước. Thông qua bầu cử, nhân dân thể hiện được ý chí của bản thân để lựa chọn ra các chức danh đại diện cho mình thực hiện quyền lực trong bộ máy nhà nước. Bầu cử tự do và công bằng được xem là tiền đề của nền dân chủ, là phương pháp hợp pháp nhất trong số các phương pháp hợp pháp để thành lập chính quyền. Do đó, lựa chọn hệ thống bầu cử phù hợp để đảm bảo ý nguyện của người dân là một quyết định rất quan trọng đối với các nước theo chế độ dân chủ, có ảnh hưởng sâu sắc đến sự ổn định và bền vững của thể chế chính trị. Tuy nhiên, ở nhiều quốc gia trên thế giới, hệ thống bầu cử được lựa chọn một cách ngẫu nhiên, thường do ảnh hưởng tổ hợp của lịch sử, các xu hướng chính trị hoặc tác động của các nước lân cận. Quá trình toàn cầu hóa đã mang lại thay đổi nhanh chóng và năng động không chỉ về kinh tế, mà cả về nhiều vấn đề chính trị - pháp lý khác ở các
  • 10. 2 quốc gia, trong đó có bầu cử. Trong khoảng 3 thập kỷ gần đây, cách thức tổ chức, quản lý, quy trình, thủ tục và phương pháp tổ chức bầu cử ở nhiều quốc gia trên thế giới đã có những thay đổi rất lớn, một phần là để đáp ứng các yêu cầu ngày càng cao về quyền làm chủ của người dân, phần khác là để áp dụng những thành tựu vượt bậc của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin vào hoạt động tổ chức bầu cử. Bầu cử dân chủ đã được thực hiện ở Việt Nam ngay sau khi đất nước giành được độc lập, khởi đầu bằng cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc Hội đầu tiên (ngày 06 tháng 01 năm 1946). Hiến pháp năm 1946 đã xác lập những nguyên tắc và quy định nền tảng, rất tiến bộ về bầu cử dân chủ, mà tiếp tục được kế thừa và phát triển trong những Hiến pháp sau này. Ngoài Hiến pháp, hệ thống pháp luật về bầu cử của nước ta còn bao gồm nhiều văn bản khác, trong đó quan trọng nhất là các luật bầu cử. Hệ thống văn bản pháp luật này cũng được xác lập từ rất sớm và chứa đựng những nội dung tiến bộ về bầu cử mà về cơ bản là tương thích với các tiêu chuẩn quốc tế về vấn đề này. Mặc dù vậy, sự hội nhập ngày càng sâu rộng vào cộng đồng quốc tế cũng như sự phát triển nhanh chóng về mọi mặt của đất nước đang đặt ra những yêu cầu cấp thiết về hoàn thiện pháp luật trên nhiều lĩnh vực, trong đó có pháp luật về bầu cử. Để thực thi Hiến pháp 2013, nhiều đạo luật đã được soạn thảo mới và sửa đổi, bổ sung, trong đó bao gồm Luật bầu cử đại biểu Quốc Hội và đại biểu HĐND. Mặc dù vậy, do bầu cử là một vấn đề rất rộng lớn và phức tạp, hiện vẫn còn rất nhiều nội dung, trong đó bao gồm cách thức tổ chức bầu cử cần được nghiên cứu hoàn thiện ở nước ta. Xuất phát từ những lý do nêu trên, tác giả đã chọn đề tài: “Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới và ở Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu và làm văn luận tốt nghiệp với mục đích khái quát về một số hệ thống bầu cử trên thế giới, phân tích các ưu – khuyết điểm của từng mô hình để từ đó rút
  • 11. 3 ra bài học kinh nghiệm quý giá nhằm hoàn thiện hơn nữa hệ thống bầu cử ở Việt Nam. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trên phạm vi quốc tế, các cuộc bầu cử dân chủ bắt đầu được tổ chức từ thế kỷ 17 ở Tây Âu và Bắc Mỹ. Do vậy, số lượng công trình nghiên cứu về bầu cử nói chung và hệ thống bầu cử nói riêng khá phong phú và đa dạng. Trong số những nghiên cứu hiện nay về hệ thống bầu cử, ấn phẩm “Thiết kế Hệ thống bầu cử” (Electoral system design) của Viện quốc tế về dân chủ và hỗ trợ bầu cử (IDEA) được xuất bản năm 2005 tỏ ra hữu ích hơn cả. Nó đề cập một cách trực tiếp và toàn diện đến những vấn đề lý luận, thực tiễn về hệ thống bầu cử ở 213 quốc gia và vùng lãnh thổ. Ở Việt Nam, cho đến nay, đã có nhiều công trình khoa học, các bài viết đăng tạp chí... về hệ thống bầu cử. Nổi bật trong những nghiên cứu hiện hành là luận án tiến sĩ của tác giả Vũ Văn Nhiêm “Chế độ bầu cử ở nước ta – những vấn đề lý luận và thực tiễn”, bảo vệ tại Đại học Luật Hà Nội năm 2009. Bên cạnh đó, còn có những nghiên cứu tiêu biểu như: mục “Các hệ thống bầu cử điển hình trên thế giới” (Mục 3.2, Chương 3) trong “Giáo trình bầu cử trong nhà nước pháp quyền” của Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (nhà xuất bản Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, 2008). Thêm nữa, mục “Hệ thống bầu cử theo Hiến pháp một số nước” (Mục III – Chương II) trong sách chuyên khảo “Một số vấn đề cơ bản của Hiến pháp các nước trên thế giới” (nhà xuất bản Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2012) do Ban biên tập dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 ấn hành cũng rất có ý nghĩa trong việc nghiên cứu về hệ thống bầu cử. Ngoài ra, Chương VII: “Chế độ bầu cử” trong Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam của Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội (nhà xuất ban Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2014) cũng là một tài liệu nghiên cứu rất hữu ích.
  • 12. 4 Mặt khác, cũng có một số nghiên cứu của các chuyên gia về nội dung này, tiêu biểu như bài viết “Một số hệ thống bầu cử phổ biến trên thế giới” của TS. Vũ Văn Nhiêm đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 5 (99), tháng 5 năm 2007. Hay bài viết của GS.TS. Thái Vĩnh Thắng với tiêu đề “Những bất cập của chế độ bầu cử ở Việt Nam hiện nay”, đăng trong cuốn “Sửa đổi bổ sung Hiến pháp 1992 – những vẫn đề lý luận và thực tiễn, tập 1” (nhà xuất bản Hồng Đức, Hà Nội, 2012).... Có thể nói, những công trình nghiên cứu nêu trên đã cung cấp những kiến thức và thông tin khá toàn diện về hệ thống bầu cử trên thế giới và ở Việt Nam. Mặc dù vậy, các nghiên cứu hiện có đều chưa đề xuất được một cách đầy đủ sự cần thiết phải đổi mới cũng như cách thức đổi mới hệ thống bầu cử như thế nào để phù hợp với bối cảnh Việt Nam. Chính vì vậy, vẫn cần có thêm những nghiên cứu chuyên sâu về hệ thống bầu cử ở nước ta. Luận văn này góp phần khoả lấp khoảng trống đó. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu các vấn đề lý luận chung hệ thống bầu cử và các hệ thống bầu cử điển hình trên thế giới. Bên cạnh đó, luận văn cũng nghiên cứu và có những đánh giá chung về hệ thống bầu cử ở Việt Nam trong thời gian qua. Từ đó, chỉ ra những hạn chế của hệ thống bầu cử ở nước ta và đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa hệ thống bầu cử ở Việt Nam. - Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích trên, luận văn phải giải quyết các nhiệm vụ cụ thể sau: + Làm rõ khái niệm và các vấn đề lý luận về hệ thống bầu cử.
  • 13. 5 + Nghiên cứu các hệ thống bầu cử điển hình trên thế giới, làm sáng rõ những ưu – khuyết điểm của từng hệ thống bầu cử. Phân tích hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới. + Đánh giá thực trạng hệ thống bầu cử ở nước ta và đưa ra quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống bầu cử ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề lý luận, pháp lý và thực trạng tổ chức các cuộc bầu cử chính trị ở các quốc gia trên thế giới và ở Việt Nam. - Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu về pháp luật bầu cử của một số quốc gia dân chủ trên thế giới và pháp luật bầu cử hiện hành của Việt Nam. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn áp dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin và các phương pháp nghiên cứu phổ biến của khoa học xã hội, bao gồm tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh... để làm rõ các câu hỏi nghiên cứu đặt ra. 6. Những điểm mới và ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận văn Những điểm mới của luận văn bao gồm: Một là, làm rõ khái niệm và các vấn đề lý luận về hệ thống bầu cử. Hai là, phân loại các hệ thống bầu cử điển hình trên thế giới, đánh giá được các ưu điểm và khuyết điểm của từng hệ thống bầu cử. Lấy ví dụ về hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới. Ba là, đánh giá thực trạng của hệ thống bầu cử ở Việt Nam. Từ đó, nêu lên những quan điểm, giải pháp để hoàn thiện hệ thống bầu cử phù hợp với thực tiễn của nước ta trong giai đoạn hiện nay. Với những điểm mới nêu trên, về mặt lý luận, luận văn góp phần bổ sung những kiến thức lý luận về bầu cử ở Việt Nam. Đồng thời, về mặt thực
  • 14. 6 tiễn, luận văn khái quát, giới thiệu thực trạng hệ thống bầu cử ở nước ta và đưa ra những quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa hệ thống bầu cử trong giai đoạn hiện nay. Luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho các cơ quan nhà nước trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về bầu cử. Đồng thời, bổ sung một học liệu cho việc nghiên cứu, học tập của các sinh viên, học viên ngành luật ở Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội và các cơ sở đào tạo khác của Việt Nam. 7. Kết cấu luận văn Kết cấu luận văn bao gồm: Mở đầu, phần nội dung, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Phần nội dung của luận văn được chia thành 03 chương như sau: - Chương I: Lý luận chung về bầu cử và hệ thống bầu cử - Chương II: Hệ thống bầu cử trên thế giới - Chương III: Thực trạng và việc hoàn thiện hệ thống bầu cử ở Việt Nam
  • 15. 7 CHƯƠNG I LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẦU CỬ VÀ HỆ THỐNG BẦU CỬ 1.1. Bầu cử 1.1.1. Khái niệm bầu cử Bầu cử được xem là “trái tim của dân chủ” [27, tr.174]; là một chế định trọng tâm của các chính thể dân chủ đại diện. Có nhiều định nghĩa về bầu cử, tuy nhiên, từ góc độ khái quát nhất, có thể hiểu bầu cử là một quy trình chính trị - pháp lý trong đó người dân tự do bỏ phiếu lựa chọn ra những người vào làm việc trong bộ máy nhà nước để thay mặt mình quản lý xã hội [7, tr.341]. Hay nói một cách đơn giản hơn, bầu cử là phương thức để nhân dân lựa chọn người đại diện và ủy thác quyền lực cho người đại diện [20, tr.15]. Điều này được thể hiện ở các góc độ sau: Thứ nhất, bầu cử là một loại hoạt động xã hội mang tính lựa chọn của con người. Bất cứ một quốc gia nào, một xã hội nào trong giai đoạn nào thì khi nói đến bầu cử là nói đến việc lựa chọn. Mặc dù vậy, đối tượng được lựa chọn có thể không giống nhau. Hiện nay, phổ biến nhất trong hệ thống bầu cử ở nhiều nước là lựa chọn các đại biểu trong cơ quan lập pháp. Các nước tư sản được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc phân chia quyền lực, vì vậy, bầu cử không những là phương thức thành lập cơ quan lập pháp mà còn được áp dụng để bầu các chức danh trong các nhánh quyền lực khác như Tổng thống, các Thị trưởng và có thể là các chức danh trong các cơ quan tư pháp [2, tr.80]. Đối với các nước xã hội chủ nghĩa, quyền lực nhà nước là thống nhất, thuộc về nhân dân cho nên bầu cử là phương thức để thành lập ra các cơ quan đại diện quyền lực nhà nước. Tóm lại, các đại biểu, các chức danh từ kết quả của
  • 16. 8 bầu cử đều trở thành người đại diện cho nhân dân vì họ do nhân dân trực tiếp bầu ra và trao quyền. Thứ hai, bầu cử là việc ủy thác quyền lực của nhân dân đến người được chọn lựa. Điều đó có nghĩa là thông qua hành vi bỏ phiếu, người dân lựa chọn và đồng thời trao quyền lực của mình cho người mà mình đã lựa chọn. Chủ thể nào được lựa chọn thông qua bầu cử thì chủ thể đó nhận quyền lực từ nhân dân. Tuy nhiên, mức độ quyền lực mà người đại diện được nhân dân ủy quyền không chỉ đơn thuần là hành vi bỏ phiếu mà còn liên quan đến việc chủ thể nào quy định quyền lực của cơ quan đại diện và quyền hạn, nhiệm vụ đại biểu dân cử. Trong các nền dân chủ đương đại thì vấn đề phân công quyền lực nhà nước và mức độ trao quyền lực thường được quy định trong Hiến pháp của mỗi nước. Như vậy, phạm vi thẩm quyền của người đại diện không do cử tri trực tiếp quyết định trong bầu cử mà do Hiến pháp quy định. Nói cách khác, trong bầu cử, cử tri chỉ trao quyền cho người đại diện. Ai được cử tri lựa chọn thì người đó sẽ nhận được quyền lực từ nhân dân còn vấn đề nhận được bao nhiêu quyền lực sẽ do Hiến pháp quy định. Như vậy, nếu Hiến pháp – văn bản phân công quyền lực là do nhân dân thông qua thì nhân dân không những trực tiếp lựa chọn, trực tiếp trao quyền mà còn trực tiếp quy định về phạm vi thẩm quyền cho người đại diện. Trong trường hợp nhân dân không thông qua Hiến pháp thì nhân dân chỉ trao quyền cho người đại diện thông qua bầu cử. Phạm vi thẩm quyền bao nhiêu, “nhiều” hay “ít” là do Hiến pháp ấn định [20, tr.17,18]. Tuy thẩm quyền của người đại diện được quy định trong Hiến pháp, nhưng nếu không được người dân chọn qua bầu cử thì không thể tồn tại quyền lực của người đại diện. Do vậy, ngay cả trong trường hợp nhân dân không trực tiếp thông qua Hiến pháp thì vẫn có thể khẳng định rằng hành vi bỏ phiếu của cử tri đồng nghĩa với việc cử tri trao quyền lực của mình cho người mình chọn.
  • 17. 9 Tóm lại, bầu cử trước hết là một loại hoạt động xã hội mang tính lựa chọn của con người. Nó phát triển cùng với quá trình phát triển của con người và bầu cử ngày càng mang tính chính trị - pháp lý sâu sắc. Thông qua bầu cử, ý chí của người dân được “chuyển hóa” sang cơ quan đại diện. Có thể nói, bầu cử không những quyết định ứng cử viên, đảng phái chính trị, lực lượng xã hội nào được bầu chọn mà nó còn quyết định cách thức chuyển hóa quyền lực từ nhân dân sang người đại diện. Kết quả của bầu cử phản ánh tỷ lệ “thu phục” niềm tin đối với cử tri của các đảng phái chính trị, lực lượng chính trị và “biến” tương quan đó thành “ghế” trong cơ quan đại diện [2, tr.82]. 1.1.2. Vị trí, vai trò của bầu cử Thứ nhất, bầu cử là nền tảng của dân chủ, có vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc kiến tạo chế độ dân chủ [38, tr.1]. Một chế độ chỉ được coi là dân chủ khi và chỉ khi có các cuộc bầu cử. Đó là bởi bầu cử cho phép người dân không chỉ trao quyền cho những người đại diện thay mặt mình quản lý xã hội mà còn là công cụ quan trọng để nhân dân giám sát quyền lực nhà nước, chế ngự sự tha hóa, lạm quyền của bộ máy nhà nước. UNESCO cũng đã khẳng định có bốn yếu tố cấu thành căn bản của một nền dân chủ, đó là: 1) Các quyền và tự do cơ bản của con người; 2) Các cuộc bầu cử tự do và công bằng; 3) Chính quyền công khai và chịu trách nhiệm giải trình; 4) Có sự hiện hữu của một xã hội dân chủ, hay nói cách khác là một xã hội “dân sự” [40]. Thông qua bầu cử, người dân có thể tự do lựa chọn những người thay mặt mình thực hiện quyền lực nhà nước và cũng chỉ những người được chọn lựa qua bầu cử mới trở thành đại diện cho nhân dân để thực thi quyền lực thay cho nhân dân. Nếu các nguyên tắc bầu cử được tuân thủ, bầu cử cho phép người dân chọn ra những đại diện tốt nhất về năng lực và tư cách theo ý nguyện của mình để ủy quyền điều hành đất nước. Mặt khác, việc tổ chức bầu cử định kỳ, có sự cạnh tranh giữa các ứng cử viên sẽ cho công chúng khả
  • 18. 10 năng phế truất những chính khách tha hóa, yếu kém và giám sát hành động của những chính khách khi đương chức thông qua kế hoạch, ý định điều hành đất nước mà họ nêu ra trong quá trình tranh cử. Như vậy, bầu cử tạo điều kiện để người dân tạo dựng và kiểm soát bộ máy nhà nước hoạt động theo các tiêu chuẩn pháp quyền và dân chủ [7, tr.347]. Thứ hai, bầu cử có vai trò hợp pháp hóa chính quyền, bảo đảm tính “chính danh” và sự ổn định của chính quyền. Bầu cử là cách thức lựa chọn những người thực thi quyền lực nhà nước thông qua bỏ phiếu phổ thông theo các thủ tục quy định trong Hiến pháp và pháp luật, trong đó mọi công dân đủ điều kiện đều có quyền tham gia, vì thế quyền lực của những người được lựa chọn có tính hợp pháp, từ đó tạo cơ sở cho cho sự ổn định của bộ máy chính quyền. Hội nghị an ninh và hợp tác châu Âu (Organization for Security and Co-operation in Europe - CSCE) đã khẳng định “ý chí của nhân dân thông qua bầu cử định kỳ và chân thực là nền tảng cho thẩm quyền và tính hợp pháp của quyền lực nhà nước” [39]. Trong thế giới hiện đại, chính quyền thành lập không qua bầu cử, như bằng đảo chính quân sự, bất luận dù nhằm mục đích gì (kể cả được coi là chính đáng, như chính quyền quá “thối nát”), thường không được các quốc gia, các tổ chức quốc tế công nhận, hoặc có chăng thì sự thừa nhận hết sức dè dặt. Ngược lại, một chính quyền do người dân thành lập thông qua bầu cử theo những nguyên tắc tiến bộ: tự do, công bằng và trung thực, thì về nguyên tắc, chính quyền đó được coi là hợp pháp và được sự thừa nhận của cộng đồng quốc tế [20, tr.53, 54]. Chỉ khi một chính quyền được thiết lập nên bằng bầu cử thực chất, chính quyền đó mới được người dân trong nước và cộng đồng quốc tế công nhận, do đó mới có thể tồn tại, hoạt động ổn định, lâu dài. Thứ ba, bầu cử là phương thức nhằm bảo đảm các quyền tự do dân chủ của nhân dân, gồm quyền bỏ phiếu, quyền ứng cử, quyền vận động tranh cử,
  • 19. 11 quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, lập hội... và cao nhất là quyền được lựa chọn và thay đổi chính quyền. Những quyền này thuộc nhóm quyền về chính trị, dân sự đã được ghi nhận trong luật nhân quyền quốc tế và Hiến pháp của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Một số trong các quyền này không thể thực hiện được nếu không có bầu cử (ví dụ: quyền bỏ phiếu, quyền ứng cử, quyền vận động tranh cử...); số khác (ví dụ: quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, lập hội...) tuy có thể thực hiện trong nhiều bối cảnh, song bầu cử vẫn là cơ hội cho phép các quyền này được thể hiện một cách tập trung, mạnh mẽ và sâu đậm nhất [7, tr.345]. 1.1.3. Các nguyên tắc bầu cử phổ biến trên thế giới Các nguyên tắc bầu cử là yếu tố quyết định chế độ bầu cử của một nước có tiến bộ, minh bạch và hiệu quả hay không. Năm nguyên tắc bầu cử phổ biến hiện nay được nhiều nước trên thế giới áp dụng là nguyên tắc tự do, phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Các nguyên tắc này không những thống nhất mà còn có mối quan hệ biện chứng chặt chẽ với nhau, là yếu tố bảo đảm cho các cuộc bầu cử khách quan, dân chủ và tiến bộ. Thứ nhất, nguyên tắc bầu cử tự do. Bầu cử tự do là một nguyên tắc được ghi nhận trong Hiến pháp của nhiều quốc gia. Tuy nhiên, nội hàm của nguyên tắc này cũng được hiểu ít nhiều khác nhau. Cách hiểu thứ nhất đề cập đến ý chí tự nguyện của người dân khi tham gia vào tiến trình bầu cử. Cụ thể, nguyên tắc bầu cử tự do có nghĩa là mọi cử tri có quyền tự quyết định có đi bỏ phiếu hay không và rộng ra là quyền tự quyết định có tham gia vào tiến trình bầu cử hay không. Không một ai có quyền gây ảnh hưởng hay bắt buộc công dân phải tham gia bầu cử. Cũng không có công dân nào có thể bị trừng phạt nếu không tham gia bầu cử. Quy
  • 20. 12 định như vậy thể hiện sự tôn trọng tối đa quyền tự quyết của cử tri. Tuy nhiên, cũng có một số nước quy định bầu cử là nghĩa vụ (hoặc đồng thời là nghĩa vụ). Tính đến năm 2004, trên thế giới có 31 quốc gia quy định bầu cử là nghĩa vụ bắt buộc, bao gồm: Achentina, Áo, Úc, Bỉ, Bôlivia, Braxin, Chile, Costa Rica, Síp, Cộng hòa Đôminica, Ecuado, Ai Cập, Fiji, Ga-bông, Hy Lạp, Goatemala, Hondurat, Ý, Liechtenstein, Lucxembua, Mehico, Nauru, Hà Lan, Paraguay, Peru, Singapore, Thụy Sỹ, Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Uraguay, Venezuela [43, tr.109]. Thực trạng trên xuất phát từ quan điểm về quyền và nghĩa vụ bầu cử trên thế giới rất khác nhau. Những quốc gia quy định bầu cử là nghĩa vụ cho rằng dân chủ cũng đòi hỏi trách nhiệm tham gia của công dân, đặc biệt trong việc bỏ phiếu bầu ra người đại diện cho mình. Thêm vào đó quy định bầu cử là nghĩa vụ sẽ tiết kiệm được ngân sách nhà nước và thời gian của xã hội phải dành cho bầu cử. Tuy nhiên, những quốc gia quy định bầu cử là tự nguyện thì cho rằng việc bắt buộc công dân đi bầu cử trái với tinh thần tự do của một xã hội dân chủ, vi phạm quyền tự do tư tưởng của công dân. Mặt khác, việc quy định bầu cử bắt buộc có thể gây ra sự phản kháng ngầm. Nghiên cứu cho thấy ở các nước quy định bầu cử là nghĩa vụ, tỷ lệ phiếu trống và phiếu không hợp lệ trong các cuộc bầu cử cao hơn so với những nước quy định bầu cử tự do [43, tr. 106]. Cách hiểu thứ hai về nguyên tắc bầu cử tự do nhấn mạnh quyền được “tự do lựa chọn” của công dân trong việc bỏ phiếu như được nêu trong luật nhân quyền quốc tế. Cụ thể, về vấn đề này, Điều 21 Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948 quy định: “1. Mọi người đều có quyền tham gia quản lý đất nước mình, một cách trực tiếp hoặc thông qua các đại diện mà họ tự do lựa chọn; 2. Mọi người đều có quyền được tiếp cận các cơ quan công quyền ở nước mình một cách bình đẳng; 3. Ý chí của người dân phải là cơ sở tạo nên quyền lực của chính quyền, ý chí đó phải được thể hiện qua các cuộc
  • 21. 13 bầu cử định kỳ và chân thực, được tổ chức theo nguyên tắc phổ thông bầu phiếu, bình đẳng và bỏ phiếu kín, hoặc bằng những thủ tục bầu cử tự do tương tự”. Mở rộng hơn, cách hiểu này còn bao gồm tự do ứng cử, đề cử, vận động tranh cử. Người dân có toàn quyền quyết định đề cử, ứng cử, bỏ phiếu bầu ra người đại diện thay mặt mình thực thi quyền lực nhà nước mà không phải chịu bất kỳ sự áp đặt, cưỡng chế hay chi phối không chính đáng từ bất kỳ chủ thể nào, bao gồm nhà nước, các đảng phái chính trị, tổ chức hay cá nhân. Theo cách hiểu thứ hai, nguyên tắc bầu cử tự do phản ánh trình độ dân chủ ở mức độ cao của xã hội. Nó là yếu tố quan trọng để phân biệt các cuộc bầu cử hình thức và các cuộc bầu cử thực chất, cũng như để xác định tính “chính danh” của các nhà nước. Ở đây, nếu bầu cử không tự do thì kết quả bầu cử không có tính chân thực (không phản ánh đúng ý chí của người dân) và nếu kết quả bầu cử không chân thực thì nhà nước không có tính chính danh (không được lập nên do ý chí của người dân nên không được coi là nhà nước của dân). Hiện nay, Hiến pháp của khá nhiều quốc gia (ví dụ như Hiến pháp Ý, Liên bang Nga, Thụy Điển, Tây Ban Nha, Indonesia...) đã quy định nguyên tắc bầu cử tự do theo nghĩa thứ hai hoặc kết hợp cả nghĩa thứ nhất và thứ hai [7, tr.352]. Thứ hai, nguyên tắc bầu cử phổ thông. Nguyên tắc bầu cử phổ thông phản ánh sự tham gia của nhân dân trong bầu cử. Nội dung của nguyên tắc này trả lời cho câu hỏi: Ai có quyền bầu cử? Nguyên tắc bầu cử phổ thông không những bảo đảm việc bỏ phiếu (quyền bầu cử chủ động) được tiến hành rộng rãi mà còn đòi hỏi pháp luật bầu cử tạo điều kiện thuận lợi nhất cho công dân ứng cử để có thể được bầu vào cơ quan đại diện (quyền bầu cử bị động). Nguyên tắc bầu cử này được thể hiện: công dân đến tuổi trưởng thành không phân biệt về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến, nguồn gốc xã hội, tài sản, nơi sinh…
  • 22. 14 đều có quyền bầu cử. Nói chung, quyền bầu cử càng được mở rộng cho nhiều người tham gia một cách hợp lý, càng thể hiện mức độ dân chủ của chế độ bầu cử. Mọi qui định của pháp luật hoặc những biện pháp tổ chức cản trở, hạn chế quyền bầu cử của công dân trong việc bỏ phiếu, trong việc trở thành ứng cử viên không vì mục đích chính đáng đều ảnh hưởng đến bầu cử dân chủ. Do đó, việc hạn chế quyền bầu cử cần được qui định chặt chẽ, rõ ràng trong các văn bản pháp luật và chỉ được áp dụng khi có lý do chính đáng bảo đảm lợi ích hợp lý, chính đáng và tương xứng của toàn xã hội. Ví dụ: người chưa thành niên, người thiểu năng trí tuệ và người bị kết tội bởi bản án của Tòa án thì không có quyền bầu cử, vì những đối tượng chưa hoặc không có khả năng lựa chọn những người xứng đáng thay mặt cho mình quản lý xã hội. Thực tiễn sinh động trên thế giới cho chúng ta thấy quyền bầu cử và bầu cử phổ thông là chặng đường đấu tranh lâu dài vì quyền con người và dân chủ [17]. Việc ghi nhận và tuân thủ nguyên tắc bầu cử phổ thông là thước đo quan trọng mức độ dân chủ của một quốc gia. Về nguyên tắc, không thể coi một quốc gia là có trình độ dân chủ cao nếu pháp luật loại bỏ hay hạn chế quyền bầu cử của một hoặc một số nhóm xã hội nào đó. Mặc dù vậy, nguyên tắc này không loại trừ ba yêu cầu cơ bản đối với cử tri là quốc tịch, độ tuổi và năng lực hành vi. Về độ tuổi, thông thường pháp luật các quốc gia ấn định độ tuổi bắt đầu tham gia bầu cử là 18. Về năng lực hành vi, nguyên tắc chung là cử tri phải có đủ năng lực hành vi tuy nhiên việc xác định năng lực hành vi của mỗi người (tiêu chí, biện pháp, chủ thể có quyền tuyên bố...) không giống nhau trong pháp luật của các quốc gia. Xét riêng về khía cạnh chủ thể, để phù hợp với các nguyên tắc của nhà nước pháp quyền, chỉ có Tòa án mới có quyền tuyên bố một công dân không đủ năng lực hành vi bầu cử [7, tr.349]. Thứ ba, nguyên tắc bầu cử bình đẳng.
  • 23. 15 Đây là là nguyên tắc nhằm bảo đảm giá trị như nhau của mọi công dân trong bầu cử. Bình đẳng trong bầu cử thể hiện qua các nội dung cơ bản sau: Trước hết, đó là sự bình đẳng giữa các cử tri. Điều này được thể hiện: Một là, trong việc bỏ phiếu không có sự phân biệt nào về chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, nguồn gốc xã hội,… Hai là, trong một cuộc bầu cử, mỗi cử tri có một phiếu bầu. Ba là, giá trị của mỗi lá phiếu trong hệ thống bầu cử phải tương đương nhau. Tuy nhiên, để giá trị của các phiếu như nhau là một vấn đề khá phức tạp, đặc biệt ở chế độ bầu cử có cách tính kết quả theo phương pháp đa số. Chẳng hạn, hai đại biểu được bầu ở hai đơn vị bầu cử khác nhau thì đại biểu được bầu ở đơn vị bầu cử có dân số ít hơn sẽ có giá trị hơn [17]. Do vậy, để đảm bảo các phiếu bầu có sức nặng như nhau, thì nguyên lý bình đẳng về dân số phải được thực hiện. Nói một cách khác, sự ấn định và phân bổ số lượng đại biểu đối với từng đơn vị bầu cử phải dựa trên nền tảng sự bình đẳng dân số. Mặt khác phải có sự bình đẳng giữa các ứng cử viên trong bầu cử. Đây là nội dung rất quan trọng trong các cuộc bầu cử, vì nó ảnh hưởng, tác động rất lớn, thậm chí quyết định ai được nhân dân lựa chọn và trao quyền lực. Bình đẳng giữa các ứng cử viên được thể hiện: Một là, bình đẳng trong việc đề cử, ứng cử: không ai có thể bị hạn chế quyền ứng cử, trừ những đối tượng do luật bầu cử qui định chặt chẽ, rõ ràng và phải đảm bảo sự hợp lý. Hai là, bình đẳng trong việc vận động tranh cử, không phụ thuộc vào việc họ xuất thân từ đâu, từ đảng phái chính trị nào; họ được đề cử hay tự ứng cử. Ba là, các ứng cử viên phải bình đẳng trong việc sử dụng ngân quỹ trong vận động tranh cử, bình đẳng trong việc tiếp cận thông tin, sử dụng các phương tiện truyền thông và đảm bảo trong việc kiến nghị, yêu cầu, khiếu nại, tố cáo về những vấn đề liên quan đến bầu cử, nhất là trong việc yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết các hành vi gian lận trong bầu cử. Tuy nhiên, nguyên tắc bình
  • 24. 16 đẳng cần được hiểu trong bối cảnh tổng thể của quốc gia mà đòi hỏi sự phân bố hợp lý về cơ cấu, thành phần và số lượng đại biểu để đảm bảo tiếng nói đại diện của các giới, các vùng miền, các tầng lớp xã hội, các dân tộc trong các cơ quan dân cử. Do đó, luật bầu cử của nhiều quốc gia trên thế giới quy định những tỷ lệ cố định đại biểu nữ hoặc đại biểu các nhóm thiểu số trong nghị viện hoặc hội đồng địa phương. Xét về hình thức, quy định như vậy là mâu thuẫn với nguyên tắc bình đẳng. Tuy nhiên nếu xét trong bối cảnh tổng thể thì quy định này sẽ giúp kiến tạo sự bình đẳng thực chất về chính trị giữa các tầng lớp, thành phần và khu vực trong một quốc gia [7, tr.350]. Bên cạnh đó là sự bình đẳng giữa các đảng phái chính trị, các lực lượng xã hội tham gia tranh cử. Xu hướng phát triển của bầu cử là nhân dân không chỉ lựa chọn, trao quyền cho các cá nhân mà quan trọng hơn, mỗi cử tri có quyền lựa chọn một đường lối chính trị. Đối với bất cứ chế độ bầu cử nào, mỗi ứng cử viên phải có một lực lượng xã hội nhất định ủng hộ và đứng “đằng sau” họ. Do vậy, sự bình đẳng trong bầu cử không thể không nói tới sự bình đẳng giữa các lực lượng này. Sự bình đẳng phải được pháp luật qui định và được đảm bảo thực hiện trong tất cả các công đoạn bầu cử, từ việc giới thiệu ứng cử viên, vận động bầu cử, cho đến việc chứng kiến kiểm phiếu, bình đẳng trong việc khiếu nại, khởi kiện, tố cáo đối với các hoạt động bầu cử. Thứ tư, nguyên tắc bầu cử trực tiếp. Nguyên tắc này đề cập cách thức thể hiện ý chí của nhân dân. Bầu cử trực tiếp có nghĩa là cử tri phải tự đi bầu, tự viết và bỏ phiếu bầu vào hòm phiếu, không được nhờ người bầu hộ, bầu thay. Nguyên tắc này bảo đảm nhân dân trực tiếp lựa chọn người đại diện và ngược lại, người đại diện (trúng cử trong kỳ bầu cử) trực tiếp nhận quyền lực từ nhân dân. So với bầu cử gián tiếp, bầu cử trực tiếp mang tính dân chủ cao hơn. Tuy nhiên, bầu cử gián tiếp, về bản chất không được hiểu là bầu cử đích thực theo nghĩa hiện đại, vì nhân
  • 25. 17 dân không trực tiếp lựa chọn và trao quyền cho “người đại diện”; thực chất, đó là ủy quyền “bước hai”, mang tính phái sinh, tương tự như Quốc hội/ Hội đồng nhân dân bầu ra các cơ quan của Quốc hội/Hội đồng nhân dân ở nước ta hiện nay. Kết quả bầu cử gián tiếp không phải là thể hiện trực tiếp ý chí của nhân dân, mà là thể hiện ý chí gián tiếp của nhân dân (thông qua người đại diện). Nguyên tắc bầu cử trực tiếp không loại trừ việc bầu cử thông qua bưu điện, hay bằng internet…vì thực chất, những phương tiện đó chỉ mang tính chất kỹ thuật giúp cử tri thuận lợi hơn trong việc bỏ phiếu. Dù thông qua các phương tiện đó nhưng ý chí của người dân vẫn được bảo đảm, họ vẫn hoàn toàn trực tiếp quyết định lựa chọn ứng cử viên nào mà mình tín nhiệm. Việc áp dụng các biện pháp bỏ phiếu mà không cần trực tiếp đến các khu vực bầu cử là việc nên làm đối với các nước. Nếu điều kiện kỹ thuật cho phép, việc bỏ phiếu bằng máy tại các khu vực công cộng hoặc bằng thẻ công dân, qua internet… cần được khuyến khích, vì nó không những giúp tiết kiệm công sức, thời gian của cử tri, mà còn góp phần làm tăng tỉ lệ cử tri bỏ phiếu, đảm bảo quyền bầu cử thực tế của một bộ phận dân cư. Nếu không áp dụng các biện pháp đó, họ rất khó hoặc không thể thực hiện quyền bầu cử. Thứ năm, nguyên tắc bỏ phiếu kín. Nguyên tắc này đề cập về cách thức bỏ phiếu. Bỏ phiếu kín là biện pháp nhằm đảm bảo cho cử tri được tự do thể hiện ý chí của mình khi lựa chọn người đại diện mà không bị ảnh hưởng của bất kỳ mọi sự tác động nào. Nếu không bảo đảm tự do trong việc lựa chọn, thì bầu cử sẽ không đảm bảo ý chí của nhân dân khi thể hiện trên các phiếu bầu, tức là cuộc bầu cử sẽ không đảm bảo dân chủ. Nguyên tắc bỏ phiếu kín thể hiện: Có phòng viết phiếu kín, bàn phiếu kín; Phiếu không có dấu hiệu đặc biệt, in sẵn tên để không phát hiện ra phiếu của người nào; Cử tri phải trực tiếp viết phiếu và bỏ phiếu, nếu không biết viết (gạch tên) thì có thể nhờ người viết hộ nhưng phải tự mình bỏ
  • 26. 18 vào hòm phiếu. Việc thực hiện nguyên tắc này đảm bảo sự lựa chọn (đồng thời là trao quyền) đúng với ý chí của cử tri khi bầu cử. Nói cách khác, nó đảm bảo sự thống nhất giữa hành vi lựa chọn trong phiếu bầu và suy nghĩ, nhận thức của cử tri trong việc lựa chọn. Tuy nhiên, không phải không có ý kiến phản đối việc bỏ phiếu kín. John Stuart Mill từng cho rằng việc bỏ phiếu nên diễn ra công khai để những người bỏ phiếu có thể cho đồng bào của mình biết về sự lựa chọn của họ, qua đó đồng bào của họ sẽ cân nhắc lợi ích chung hơn là lợi ích cá nhân hẹp hòi [40]. Một số nước vẫn áp dụng nguyên tắc bầu cử công khai để giám sát cử tri bỏ phiếu cho đảng phái của mình. Ngay ở Liên Xô cho đến năm 1936 vẫn còn áp dụng bầu cử công khai. Mặc dù vậy, đa số ý kiến cho rằng bỏ phiếu công khai mang tính tiêu cực nhiều hơn tính tích cực, trong đó đặc biệt là làm cho người bỏ phiếu phải chịu áp lực từ những chủ thể có quyền lực mong muốn tiếp tục được bầu để duy trì quyền lực của họ. Vì thế, bỏ phiếu kín được xem là nguyên tắc tiến bộ, dân chủ, được hầu hết các nước áp dụng [10, tr.179]. Tóm lại, các nguyên tắc bầu cử là những tư tưởng chủ đạo, mang tính xuyên suốt cả hoạt động xây dựng pháp luật và họat động áp dụng pháp luật. Việc tuân thủ các nguyên tắc bầu cử không ngoài mục đích đảm bảo ý chí của nhân dân trong bầu cử. 1.2. Hệ thống bầu cử 1.2.1. Khái niệm hệ thống bầu cử Đối với các quốc gia theo chế độ dân chủ, việc lựa chọn hệ thống bầu cử phù hợp là một trong những quyết định quan trọng nhất. Hầu hết bất cứ sự lựa chọn nào cũng sẽ có ảnh hưởng sâu sắc đến thể chế chính trị của mỗi quốc gia. Hơn nữa, khi quốc gia đã lựa chọn được một hệ thống bầu cử nhất định thì nó sẽ ít khi thay đổi mà chính các cơ chế chính trị sẽ thích nghi theo những động cơ mà hệ thống đó tạo ra.
  • 27. 19 Hiện nay, có nhiều khái niệm về hệ thống bầu cử được đề cập ở các tài liệu trong nước và trên thế giới. Theo IDEA, ở cấp độ cơ bản nhất, hệ thống bầu cử (Electoral System) là quá trình để chuyển dịch số phiếu được bỏ trong một cuộc tổng tuyển cử thành ghế đại diện cho những đảng phái và những ứng cử viên đã trúng cử. Các biến số chính là công thức bầu cử (tùy vào hệ thống bầu cử và công thức toán học được sử dụng để tính toán phân bổ ghế đại diện), cấu trúc phiếu bầu (bỏ phiếu cho đảng phái hay cho ứng viên; chỉ được chọn một lần hay được xếp hạng các sự lựa chọn) và quy mô đơn vị bầu cử (một đơn vị bầu cử như một quận, tỉnh bầu bao nhiêu đại diện vào cơ quan lập pháp). Những khía cạnh hành chính của các cuộc bầu cử (như việc phân phối địa điểm bỏ phiếu, đề cử ứng cử viên, đăng ký cử tri, ai là người điều hành các cuộc bầu cử...) là những vấn đề rất quan trọng. Việc thiết kế hệ thống bầu cử cũng ảnh hưởng đến các mảng luật bầu cử khác: cách thức phân định ranh giới của đơn vị bầu cử, cách đăng ký cử tri, cách thiết kế lá phiếu, cách tính lá phiếu và nhiều khía cạnh khác của quá trình bầu cử [38, tr.5]. Ở Việt Nam, cũng có những định nghĩa về hệ thống bầu cử. Nếu hiểu theo nghĩa rộng thì hệ thống bầu cử là tổng hợp các qui định của pháp luật bầu cử và những nguyên lý vận hành của hệ thống chính trị có tác động, ảnh hưởng đến quá trình bầu cử của mỗi quốc gia. Mặt khác, nếu hiểu theo nghĩa hẹp, hệ thống bầu cử được hiểu là cách thức (phương thức) “chuyển hóa” từ những lá phiếu của cử tri thành “các ghế” trong các cơ quan dân cử. Hệ thống bầu cử là tổ hợp các nguyên tắc trong bầu cử để chuyển hóa ý chí của nhân dân (thể hiện trong những lá phiếu) thành những “ghế” (trong cơ quan đại diện) [20, tr.116, 117]. Tóm lại, nhìn nhận dưới góc độ hình thức, hệ thống bầu cử do tổng thể các qui định pháp luật bầu cử của một quốc gia hợp thành. Còn xét về bản
  • 28. 20 chất, hệ thống bầu cử là công cụ pháp lý, là phương tiện để “chuyển tải” ý chí của cử tri thành “ghế” trong cơ quan đại diện. 1.2.2. Bản chất của hệ thống bầu cử Hệ thống bầu cử có vai trò như một “phần mềm” để chuyển tải sự lựa chọn từ ý chí của hàng triệu cử tri thành “ghế” trong cơ quan dân cử. Sự chuyển tải của “phần mềm” đó càng “tiệm cận” ý chí của hàng triệu chủ nhân đi bỏ phiếu, càng chứng tỏ “phần mềm” (hệ thống bầu cử) đó càng có “chất lượng” tốt [20, tr.20]. Bản chất của hệ thống bầu cử được thể hiện ở hai vấn đề cơ bản: Thứ nhất, sự lựa chọn đó như thế nào: Ai có quyền bầu cử? Nhân dân, nhưng nhân dân là những ai? Ai có thể được bầu? Bầu ứng cử viên hay đảng phái chính trị, lực lượng xã hội? Bầu như thế nào? Trình tự, thủ tục và cơ chế đảm bảo thực hiện ra sao? Làm sao để đảm bảo đúng ý chí của nhân dân khi bầu cử? Thứ hai, việc trao quyền lực của nhân dân cho người đại diện ra sao: Cách thiết kế đơn vị bầu cử? Theo tiêu chí lãnh thổ hay theo đảng phái chính trị? Phương thức xác định kết quả bầu cử như thế nào: Đa số hay tỉ lệ? Ủy thác cho các cá nhân hay đảng phái? Công thức hay kỹ thuật nào để quá trình chuyển hóa kết quả bầu cử thành “ghế” trong cơ quan đại diện phản ánh trung thực sự trao quyền lực của các cử tri vào các đại biểu hay các đảng phái trong cơ quan đại diện. Tuy nhiên, vấn đề chính được đặt ra là làm thế nào để đánh giá hệ thống bầu cử đó thể hiện ý chí của nhân dân? Đây là vấn đề rất phức tạp, ngoài những lý do về chính trị, thì con người vẫn đang trong hành trình tìm kiếm để tìm ra những cách thức, những bộ tiêu chí khả dĩ nhất để đáp ứng mục đích đó. Có thể khẳng định rằng: một hệ thống bầu cử dân chủ, thể hiện ý chí của nhân dân trong bầu cử, trước hết hệ thống bầu cử đó cần tuân theo
  • 29. 21 các chuẩn mực được nhiều quốc gia dân chủ trên thế giới thừa nhận. Bầu cử tự do, phổ thông, bình đẳng, trực tiếp, định kỳ và bỏ phiếu kín có thể được coi như những “tinh hoa” của loài người về bầu cử. Nó được tranh luận, đúc rút về lý luận trên rất nhiều các diễn đàn khác nhau, được kiểm nghiệm trong thực tiễn bầu cử ở phạm vi nhiều nước, nhiều khu vực trên thế giới, qua nhiều thời kỳ. Một hệ thống bầu cử tuân theo những nguyên tắc đó là tuân theo những chuẩn mực tốt nhất để đảm bảo bầu cử phản ánh đúng ý chí của nhân dân trong bầu cử. Do vậy, có thể nói rằng việc qui định, thực thi các nguyên tắc bầu cử nói trên, mức độ của các nguyên tắc đó được thể chế trong hệ thống bầu cử là những thước đo quan trọng để đánh giá hệ thống bầu cử của một nước. Bên cạnh đó, hệ thống bầu cử không hoạt động độc lập mà nó vận hành trong những chế độ chính trị, chế độ nhà nước nhất định. Sự tác động, ảnh hưởng qua lại giữa chế độ chính trị, chế độ nhà nước với hệ thống bầu cử là vấn đề mang tính hiển nhiên. Hệ thống bầu cử của mỗi nước cần phải căn cứ vào những đặc điểm của thể chế chính trị, xã hội và phải nhằm thực hiện những mục tiêu cụ thể nhất định của nhà nước, của chế độ chính trị. Do vậy, các chế độ chính trị, xã hội khác nhau có chuẩn mực về hệ thống bầu cử khác nhau. Nói cách khác, hệ thống bầu cử là một bộ phận của chính trị, là một định chế để thành lập các cơ quan nhà nước; do đó, nó không thể không mang tính giai cấp, không thể không là công cụ để phục vụ cho những mục tiêu chính trị, mục tiêu của bộ máy nhà nước. Vậy nên, đối với các chế độ chính trị khác nhau, hệ thống bầu cử có những “bộ tiêu chí” áp dụng khác nhau. Mặt khác, ngay trong một nhà nước, trong các giai đoạn khác nhau, yêu cầu đặt ra đối với hệ thống bầu cử là khác nhau. Nếu hệ thống bầu cử vận hành phục vụ tốt mục đích đề ra của nhà nước, của hệ thống chính trị, chứng tỏ nó có hiệu quả và phù hợp. Bên cạnh đó, đối với các chế độ chính trị - xã hội khác nhau,
  • 30. 22 nội dung và cách hiểu đối với từng nguyên tắc bầu cử phổ biến nói trên cũng không giống nhau, thậm chí rất khác nhau. Do vậy, không phải nhất nhất tuân theo một cách cứng nhắc những nguyên tắc đó có nghĩa là đảm bảo hệ thống bầu cử dân chủ, mà quan trọng là phải hiểu thấu đáo mỗi nguyên tắc đó có nội dung gì, nó phục vụ gì cho mục tiêu của nhà nước và cho nền dân chủ; nó có thể áp dụng trong điều kiện nào, trên nền tảng chính trị, xã hội, kinh tế, truyền thống, lịch sử…như thế nào. Đó là những vấn đề cần được đặt ra và giải quyết khi áp dụng. Tóm lại, đối với mỗi quốc gia dân chủ nào, hệ thống bầu cử là phương tiện, là “thước đo” để “chuyển tải” ý chí của nhân dân thành đại biểu trong cơ quan đại diện. Một hệ thống bầu cử dân chủ phải có hai khả năng: Một là, nó phải tạo điều kiện, cơ hội cho nhân dân chọn đúng người cần chọn. Hai là, hệ thống bầu cử phải chuyển tải quyền lực của nhân dân cho đúng đối tượng cần trao. Ngoài ra, hệ thống bầu cử phải tương thích với thể chế chính trị mà nó tồn tại, phù hợp với đặc điểm về đạo đức, tập quán, truyền thống của dân tộc, phù hợp với tính chất, trình độ dân chủ, điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước và thực hiện các mục tiêu chính trị của nhà nước và dân tộc trong từng giai đoạn lịch sử nhất định [20, tr. 20 – 23]. 1.2.3. Vị trí, vai trò của hệ thống bầu cử Thứ nhất, hệ thống bầu cử có ảnh hưởng mạnh mẽ đến cơ chế chính trị. Hệ thống bầu cử tạo ra sự tác động qua lại giữa các thực thể chính trị trong thể chế chính trị và bộ máy nhà nước. Đặc biệt, nó còn ảnh hưởng đến mức độ cạnh tranh của Nghị trường. Trong cơ chế chính trị đa đảng, hệ thống bầu cử thậm chí được coi là công cụ tác động mạnh mẽ nhất đối với chính trị, vì nó không những quyết định cách thức “chuyển hóa” từ những lá phiếu của cử tri thành các “ghế” trong cơ quan lập pháp, quyết định ai, đảng phái nào sẽ được bầu chọn, mà còn quyết định quyền uy, sức mạnh của các đảng phái
  • 31. 23 chính trị. Hệ thống bầu cử là tiền đề quan trọng không những trong việc tạo ra “hình hài” của Nghị viện. Mặt khác, nó còn ảnh hưởng đến “diện mạo” của Chính phủ và chi phối các thiết chế nhà nước khác. Tất nhiên, cơ chế tổ chức, hoạt động của Nghị viện, cũng như nguyên lý vận hành của thể chế chính trị, đến lượt nó, tác động và ấn định trở lại đối với hệ thống. Lijphart, một trong những nhà nghiên cứu nổi tiếng, tác giả của nhiều cuốn sách về chính trị và bầu cử đã viết rằng “Lựa chọn hệ thống bầu cử, đặc biệt giữa việc lựa chọn bầu cử đa số hay bầu cử theo đại diện tỉ lệ là vấn đề quan trọng trong tất cả các định chế tạo thành nền dân chủ” [42, tr. 208]. Thứ hai, hệ thống bầu cử là một trong những yếu tố quan trọng tác động đến các đảng phái chính trị. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, hệ thống bầu cử có tác động rất lớn đến số lượng cũng như cơ chế hoạt động của các đảng phái chính trị. Ngay cả khi các cử tri bỏ phiếu giống nhau và mỗi đảng phái được số phiếu y chang nhau, hệ thống bầu cử A có thể dẫn đến chính phủ liên minh hoặc chính phủ thiểu số trong khi hệ thống bầu cử B có thể cho phép một đảng duy nhất nắm quyền kiểm soát đa số. Do đó, lựa chọn hệ thống bầu cử nào để áp dụng có thể ảnh hưởng đến ai là người trúng cử và đảng phái nào nắm giữ quyền lực. Trong khi một số hệ thống khuyến khích, hoặc thậm chí thúc đẩy sự hình thành của các đảng chính trị thì một số khác chỉ công nhận cá nhân ứng cử viên. Hệ thống bầu cử đa số thường hạn chế số lượng các đảng phái. Trong khi hệ thống tỷ lệ thường tạo ra một Nghị viện cũng như thể chế chính trị đa đảng, thậm chí đại diện các đảng nhỏ và các ứng cử viên tự do cũng có thể có mặt trong Nghị viện [41, tr.115]. Ngoài ra, sự liên hiệp hay không liên hiệp, mức độ liên hiệp của các đảng phái chính trị trong việc thành lập Chính phủ và mức độ ổn định của Chính phủ trong việc điều hành đất nước đều do sự tác động và quyết định trực tiếp từ hệ thống bầu cử. Một số hệ thống bầu cử có
  • 32. 24 thể khuyến khích bè phái vì các đảng liên tục mâu thuẫn với nhau. Trong khi một số hệ thống khác có thể khuyến khích các bên hợp tác và hạn chế bất đồng chính kiến. Thứ ba, hệ thống bầu cử có khả năng quản lý xung đột. Những tác động nói trên càng nhấn mạnh vai trò quan trọng của hệ thống bầu cử thường đối với việc quản lý xung đột. Rõ ràng là hệ thống bầu cử khác nhau có thể làm trầm trọng thêm, hoặc giải toả những căng thẳng và xung đột trong xã hội. Ở một mức độ nào đó, luôn luôn sẽ có sự căng thẳng giữa hệ thống coi trọng quyền được đại diện của các nhóm thiểu số và hệ thống khuyến khích chính phủ độc đảng. Ở cấp độ khác, một hệ thống bầu cử không được coi là công bằng nếu như các khuôn khổ chính trị không cho phép phe đối lập hi vọng có cơ hội để chiến thắng lần sau. Như vậy có thể dẫn đến tình trạng phe đối lập sẽ sử dụng biện pháp thiếu dân chủ, thậm chí cả chiến thuật bạo lực. Thêm vào đó, vì sự lựa chọn hệ thống bầu cử sẽ quyết định tầm phức tạp của việc bỏ phiếu cho nên nó chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến các dân tộc thiểu số và các nhóm bị thiệt thòi trong xã hội. Đây luôn luôn là điều đáng cân nhắc và đặc biệt quan trọng trong những xã hội có số lượng lớn cử tri ít kinh nghiệm bầu cử hoặc mù chữ. Thứ tư, hệ thống bầu cử có tác động đến tâm lý của cử tri khi đi bỏ phiếu. Các hệ thống bầu cử khác nhau có xu hướng khuyến khích các đảng phái khác nhau. Hệ thống đa số thường hạn chế số lượng các đảng phái, trong khi hệ thống tỷ lệ “dễ dãi” hơn và kết quả là thường có nhiều đảng đa dạng hơn. Chính điều này tác động đến tâm lý của cử tri khi đi bỏ phiếu. Ví dụ như: theo phương pháp về đích trước (FPTP), những cử tri muốn ủng hộ một đảng nhỏ thường phải đối mặt với một tình thế khó xử là làm sao để tránh "lãng phí" phiếu của họ vì mỗi đơn vị bầu cử chỉ có thể trúng cử một ứng cử viên. Kết quả của thế “tiến thoái lưỡng nan” này là nhiều cử tri sẽ không lựa
  • 33. 25 chọn người họ ưng ý nhất nhưng ít có cơ hội chiến thắng mà lại bỏ phiếu cho ứng cử viên từ một đảng lớn. Bởi lẽ, cử tri tin tưởng rằng đó là người có tỷ lệ thắng cử cao hơn. Như vậy, hậu quả tổng thể của tác động tâm lý này là càng tăng cường thế áp đảo của đảng lớn so với đảng nhỏ. Ngược lại, hệ thống tỷ lệ với nhiều sự lựa chọn ứng cử viên có khả năng tạo điều kiện cho các đảng nhỏ trúng cử. Do đó, áp lực bỏ phiếu theo “chiến lược” sẽ giảm đi. 1.2.4. Tiêu chí đánh giá hệ thống bầu cử Hệ thống bầu cử rất hiếm khi được thiết kế trên một trang giấy trắng mà không bị ảnh hưởng bởi các tiền lệ. Để thiết kế hệ thống bầu cử hoạt động có hiệu quả trước hết cần có những căn cứ để đánh giá những ưu điểm, khuyết điểm của từng hệ thống bầu cử. Thông qua những tiêu chí đánh giá đó, các nhà cầm quyền sẽ tổng hợp được những điều mà họ mong muốn hệ thống bầu cử đạt được cũng như những điều mà họ muốn tránh. Một số căn cứ cơ bản sau đây có thể sử dụng để phân tích, đánh giá các hệ thống bầu cử: Thứ nhất, một hệ thống bầu cử có hiệu quả cần rõ ràng, dễ hiểu, dễ sử dụng không chỉ với các ứng cử viên mà đối với cả cử tri. Tính dễ sử dụng của việc bỏ phiếu được xác định bởi các yếu tố như độ phức tạp của lá phiếu, sự thuận lợi của địa điểm bỏ phiếu, cách thức cập nhật danh sách đăng ký bầu cử và tầm tin tưởng của cử tri về việc lá phiếu của mình là bí mật [38, tr.10]. Do vậy, cần thiết phải có những quy định đơn giản, rõ ràng về việc lập danh sách cử tri, đơn vị bầu cử, khu vực bỏ phiếu, ngày, giờ bầu cử … cho đến việc thiết kế lá phiếu, cách lựa chọn, cách thể hiện (gạch, đục lỗ hay đánh dấu … đối với các ứng cử viên) của cử tri khi bầu cử để việc cử tri khi đi bỏ phiếu thuận lợi nhất. Ví dụ như ở nhiều bang ở Mỹ, các máy bầu cử được đặt trong các siêu thị và những nơi công cộng khác trong vòng 3 tuần trước ngày bầu cử để công dân có thể tiện đường ghé vào bỏ phiếu. Tại một số bang, công dân có thể bỏ phiếu bằng thư. Tại bang
  • 34. 26 Oregon, tất cả các công dân được nhận một lá phiếu 20 ngày trước ngày bầu cử và họ có thể gửi trả lá phiếu bằng thư hoặc tự mình bỏ phiếu tại những địa điểm được chỉ định. Nhiều nơi khác, như bang Seattle, hoặc tại hạt King (bang Washington) cũng áp dụng việc bỏ phiếu bằng thư. Một số địa phương khác sử dụng DRE (thiết bị điện tử nghi nhận trực tiếp có màn hình cảm ứng được vi tính hóa – giống như máy tự động ở ngân hàng). Trên toàn nước Mỹ, hơn 1/5 tổng số cử tri bỏ phiếu trước ngày bầu cử [31, tr.22, 23]. Ngược lại, nếu như việc bỏ phiếu trở nên quá khó khăn, phức tạp sẽ khiến cho cử tri khó tiếp cận và ý nghĩa của việc bầu cử sẽ giảm đi. Bầu cử quá phức tạp, cách thức bỏ phiếu không rõ ràng, hoặc “công thức” tính phiếu quá rối rắm… có thể dẫn đến sự hiểu nhầm cũng như sự ngờ vực của cử tri. Chẳng hạn, bỏ phiếu bằng cách “đục lỗ thẻ”: lá phiếu được làm trên một chiếc thẻ nơi người ta đục lỗ bên cạnh tên của ứng cử viên, hoặc chiếc thẻ được đưa vào một bộ phận ứng với lá phiếu và sau đó phiếu được đục lỗ. Tại một số nơi, thiết kế của lá phiếu làm cho cử tri lung túng, đặc biệt là những người cao tuổi. Điều này có thể khiến cử tri bỏ phiếu cho một ứng cử viên không phải là người mà họ định bầu. Đây là hình thức bỏ phiếu gây tranh cãi trong việc kiểm phiếu của cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ năm 2000 tại Florida. Do hậu quả của trường hợp này, các thiết bị đục lỗ thẻ cũng dần dần bị loại bỏ [31, tr.22, 23]. Thứ hai, hệ thống bầu cử tiến bộ phải là một hệ thống bầu cử có tác dụng làm cực đại ảnh hưởng của cử tri. Có thể xem đây là một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của hệ thống bầu cử, bởi lẽ bầu cử là việc nhân dân trực tiếp lựa chọn những người đại diện để thay mặt họ thực hiện quyền lực trong nhà nước. Do vậy, cần thiết kế một hệ thống bầu cử sao cho trong từng công đoạn đều phải đảm bảo vai trò của cử tri. Cần xem thể chế pháp luật chỉ là “công cụ” để “chuyển tải” sự
  • 35. 27 lựa chọn của cử tri, chứ “nó” không phải là công cụ để làm sai lệch ý chí của cử tri [20, tr.117]. Nếu không đảm bảo tiêu chí này, kết quả bầu cử không phản ánh ý chí của nhân dân, tức là cuộc bầu cử không công bằng và không trung thực. Nguyên tắc này đòi hỏi cần được đảm bảo trong tất cả các công đoạn bầu cử, từ việc đề cử, giới thiệu ứng cử viên; vận động tranh cử, phương pháp xác định kết quả bầu cử. Chỉ cần một công đoạn nào đó hạ thấp hoặc loại trừ vai trò của cử tri, đặc biệt là các công đoạn đầu, sẽ hạ thấp hoặc vô hiệu hóa vai trò của cử tri trong bầu cử. Thứ ba, hệ thống bầu cử cần được thiết kế sao cho kết quả bầu cử phải phản ánh tính đại diện. Vỗn dĩ, bầu cử là việc “so bó đũa, chọn cột cờ”. Cử tri sẽ chọn ra những đại diện tiêu biểu nhất để bỏ phiếu. Do vậy, cơ quan dân cử chính là “hình ảnh thu nhỏ” của cử tri, nhân dân cả nước hoặc một địa phương nhất định. Cụ thể, tính đại diện của cơ quan dân cử thể hiện ít nhất qua ba tiêu chí sau đây: Một là, đại diện địa lý theo từng khu vực, có thể là một thị trấn hay thành phố, một tỉnh hoặc một khu vực bầu cử. Điều này có nghĩa là mỗi khu vực địa lý sẽ được phân bổ một số lượng đại biểu nhất định và các đại biểu đó phải chịu trách nhiệm trước cử tri tại khu vực địa lý của họ. Hai là, đại diện tư tưởng thông qua đại diện của các đảng phái chính trị, người đại diện độc lập, hoặc kết hợp cả hai. Nếu một nửa số cử tri bỏ phiếu cho một đảng phái chính trị nhưng bên đó không thắng, hoặc hầu như không giành được ghế trong cơ quan lập pháp thì hệ thống đó không thể đại diện đầy đủ cho ý chí của nhân dân. Một cuộc bầu cử thành công khi kết quả là một nghị viện ra đời bao gồm những đại biểu đại diện cho các đảng phái chính trị và các nhóm tư tưởng trong xã hội. Ba là, đại diện miêu tả cho rằng cơ quan lập pháp nên là một “tấm gương xã hội” để phản ánh cái nhìn, cảm nhận, suy nghĩ và hành động của người dân nói chung. Một cơ quan lập pháp đại diện miêu tả sẽ bao gồm
  • 36. 28 cả nam giới - nữ giới, người trẻ - người già, người giàu - người nghèo, phản ánh được các tôn giáo, tín ngưỡng và các sắc tộc khác nhau... trong một xã hội. Thứ tư, hệ thống bầu cử cần khích lệ các đảng phái chính trị phát triển. Thực tế cho thấy rằng, điều kiện để một nền dân chủ tồn tại bền vững và cách ly khỏi những thách thức chính trị trong nước là các đảng phái chính trị phải không ngừng phát triển và tăng cường tính hiệu quả của mình. Các đảng phái chính trị dựa trên các giá trị và tư tưởng bao quát sẽ có khả năng để hoạch định đường lối phù hợp và làm giảm xung đột xã hội so với các đảng chủ yếu dựa trên bè phái hoặc khu vực. Hệ thống bầu cử nên khuyến khích những điều trên thay vì cố thủ hoặc tạo ra xung đột chia rẽ đảng phái. Thiết kế hệ thống bầu cử cũng có thể tạo điều kiện hoặc làm giảm xu hướng dùng đảng chính trị như một phương tiện cho cá nhân lãnh đạo. Đa số các chuyên gia cũng cho rằng hệ thống bầu cử cần phải khuyến khích tính đại diện cho các phe đảng, bởi suy cho cùng nói đến các đảng phái chính trị là nói tới các đường lối chính trị. Khi cử tri đi bỏ phiếu, họ không chỉ lựa chọn “cá nhân” người đại diện, mà đồng thời họ chọn “đường hướng chính trị” của người đại diện [20, tr.117]. Cùng với xu thế phát triển của dân chủ, xu hướng cử tri quan tâm về đường lối chính trị hơn là cá nhân người đại diện ngày càng trở thành phổ biến. Quan trọng hơn, trong bầu cử, phải ít nhất là hai đường lối chính trị khác nhau thì cử tri mới có thể “lựa chọn” một cách thực sự. Mặt khác, phải là đảng phái chính trị mới đủ sức bảo đảm và thực hiện “lời hứa” với cử tri khi vận động tranh cử sau khi họ đắc cử chứ không phải là một cá nhân độc lập. Thông qua sự vận động và cạnh tranh giữa các đảng phái chính trị mà cử tri mới có khả năng tiếp cận những thông tin về đường lối của các đảng phái chính trị. Đây là cơ sở để các lá phiếu của cử tri mang “sức mạnh chính trị” chứ không phải là những lá phiếu cảm tính, “vô hồn” [20, tr.120].
  • 37. 29 Thứ năm, hệ thống bầu cử phải khuyến khích sự giám sát từ phe đối lập. Khi nắm giữ quyền lực trong tay nếu không có cơ chế giám sát thì xu thế lạm quyền là tất yếu. Thúc đẩy và tạo ra một nghị trường đối lập (parliamentary opposition) là một cơ chế hữu hiệu để chế ngự xu thế đó. Bầu cử là tiền đề cực kỳ quan trọng để đảm bảo cơ chế này bởi lẽ trong một cuộc bầu cử, không những cử tri lựa chọn một ứng cử viên cụ thể, mà họ còn lựa chọn một đường lối, một phương hướng cụ thể. Và quan trọng hơn để đảm bảo việc thực hiện lời hứa sau bầu cử - điều mà các ứng cử viên “tự do”, hoặc các đảng phái nhỏ khó có thể làm được - không gì khác chính là tạo ra sự tồn tại của các đảng phái chính trị. Hệ thống bầu cử sẽ hình thành và đảm bảo sự hiện diện của các đảng phái chính trị đối lập để các đảng phái này có thể phê bình, đánh giá pháp luật, đặt câu hỏi về hiệu suất của đảng điều hành, bảo vệ quyền lợi của thiểu số và đại diện cho quần chúng. Cơ chế này có thể phát sinh những “thủ đoạn chính trị” giữa các phe phái để hạ thấp uy tín của nhau nhưng xét về tổng thể, rõ ràng điều này tạo cơ chế cạnh tranh giữa các đảng phái chính trị trong việc hoạch định đường lối, chính sách; tạo ra sự “phản biện” giữa các đảng phái chính trị; mang lại những lợi ích nhất định cho người dân. Trong chế độ đại nghị, phe đối lập cần có đủ đại diện để có thể cạnh tranh với chính phủ hiện tại. Mặc dù sức mạnh của phe đối lập phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác ngoài hệ thống bầu cử tuy nhưng nếu hệ thống không tạo được hoặc làm bất lực phe đối lập thì chính nó sẽ làm suy yếu nền dân chủ. Một lý do chính khi New Zealand thay đổi thành hệ thống bầu cử đại diện tỉ lệ hỗn hợp (MMP) là vì phương pháp về đích trước (FPTP) luôn làm thiệt số ghế đại diện của các đảng đối lập nhỏ. Ngoài ra, hệ thống bầu cử còn cần cản trở sự phát triển của việc “người thắng có tất cả” vì nó khiến cho đảng cầm
  • 38. 30 quyền không nắm được các nhu cầu và mong muốn của cử tri phe đối lập, và coi bầu cử và chính phủ là cuộc thi một mất một còn (zero-sum game). Trong chế độ tổng thống, tổng thống cần sự hỗ trợ của một nhóm lập pháp đáng tin cậy. Tuy nhiên, những người có vai trò đối lập và rà soát chính phủ cũng không kém phần quan trọng. Phân chia quyền lực giữa các cơ quan lập pháp và hành pháp có hiệu quả nghĩa là không chỉ các thành viên đối lập mà tất cả các nhà lập pháp có nhiệm vụ giám sát cơ quan hành pháp. Do đó, hệ thống bầu cử cần lưu tâm đến tầm quan trọng tương đối giữa các đảng chính trị và ứng cử viên, giữa các đảng chính trị và các thành viên được bầu. Thứ sáu, hệ thống bầu cử cần cung cấp ưu đãi đối với việc hoà giải. Hệ thống bầu cử không chỉ tạo ra các cơ quan quản lý nhà nước mà còn là một công cụ để giải quyết các xung đột trong xã hội. Một số hệ thống sẽ khuyến khích các bên tham gia hỗ trợ bầu cử bỏ phiếu bên ngoài cơ sở cốt lõi của mình. Ví dụ, một đảng phái dựa chủ yếu vào cử tri da đen nhưng hệ thống bầu cử có thể cung cấp những ưu đãi để thu hút cử tri da trắng hoặc từ các sắc tộc khác. Như vậy, nền tảng chính sách của đảng thắng cử sẽ trở nên ít bị chia rẽ, trở nên thống nhất và toàn diện hơn. Khuyến khích các hệ thống bầu cử tương tự có thể hạn chế sự phân biệt về sắc tộc, khu vực, ngôn ngữ, hay ý thức. Mặt khác, hệ thống bầu cử có thể khuyến khích các cử tri nhìn ra bên ngoài nhóm của mình để bỏ phiếu cho các nhóm khác. Những hệ thống cho phép cử tri bỏ nhiều phiếu theo danh sách ưu tiên giúp các cử tri vượt qua ranh giới thành kiến về các nhóm khác nhau. Ví dụ như cuộc bầu cử năm 1998 ở Bắc Ireland, phiếu được chuyển nhượng theo hệ thống bầu theo phương pháp bầu cử lá phiếu duy nhất có thể chuyển nhượng (STV) ủng hộ đảng phái “hoà bình” trong khi vẫn cung cấp kết quả tỷ lệ cân đối. Tuy nhiên, tại cuộc bầu cử năm 2003, khi cử tri ưu tiên đảng phái bảo thủ, hiệu ứng này đã bị mất.
  • 39. 31 Thứ bảy, hệ thống bầu cử phải đảm bảo tính có hiệu quả của nghị viện. Triển vọng cho một nghị viện ổn định và hiệu quả không chỉ dựa vào hệ thống bầu cử nhưng kết quả của một hệ thống bầu cử có thể đóng góp cho sự ổn định chính trị trong những khía cạnh quan trọng. Mọi cử tri khi bầu cử đều mong muốn một nhà nước công bằng, nghị viện có thể ban hành luật và quản lý đất nước một cách hiệu quả. Nhận thức về việc kết quả có công bằng hay không khác nhau giữa các quốc gia. Hai lần ở Vương quốc Anh năm 1951 và 1974, bên thắng nhiều phiếu nhất trong nước lại giành ít chỗ ngồi hơn đối thủ của mình. Tuy nhiên, điều này được coi là rủi ro hơn là một sự bất công hoàn toàn cần được đảo ngược. Ngược lại, kết quả tương tự ở New Zealand vào năm 1978 và 1981, trong đó Đảng Quốc gia tái nhiệm bất chấp giành được ít phiếu hơn phe đối lập Đảng Lao động, được ghi nhận là thời điểm khởi nguồn phong trào cải cách dẫn đến sự thay đổi của hệ thống bầu cử. Việc Nghị viện có thể ban hành luật một cách hiệu quả là một phần liên quan đến việc Nghị viện có thể tụ hội được các thành phần đại biểu như thế nào và điều này lại liên quan đến hệ thống bầu cử. Như một quy luật chung, hệ thống bầu cử đa số có nhiều khả năng để tạo ra cơ quan lập pháp trong đó một bên có thể áp đảo các phe đối lập khác, trong khi hệ thống đại diện tỉ lệ có nhiều khả năng phát triển thành chính phủ liên minh. Tuy nhiên, cũng có trường hợp hệ thống đại diện tỉ lệ cũng có thể sản xuất đa số độc đảng, và hệ thống đa số có thể không tạo được một đảng đa số. Phần lớn phụ thuộc vào cấu trúc của hệ thống đảng và bản chất của xã hội. Cuối cùng, hệ thống bầu cử nên hành động một cách trung lập trong bầu cử đối với tất cả các bên và các ứng cử viên; nó không nên công khai phân biệt đối xử chống lại bất kỳ nhóm chính trị nào. Khi đã có nhận thức rằng bầu cử trong một nền dân chủ là một sân chơi không đồng đều thì đó là
  • 40. 32 dấu hiệu cho thấy trật tự chính trị bị suy yếu và bất ổn chính trị sẽ có nguy cơ diễn ra trong tương lai gần. Một ví dụ rất ấn tượng về điều này là cuộc bầu cử năm 1998 ở Lesotho. Khi đó, Đại hội Dân chủ giành chiến thắng tất cả các ghế trong cơ quan lập pháp, mặc dù chỉ có 60% số phiếu, theo phương pháp về đích trước (FPTP). Những bất ổn sau đó, đỉnh điểm là yêu cầu can thiệp quân sự từ các quốc gia trong Cộng đồng Phát triển Nam Phi, đã chứng minh rằng kết quả bầu cử như vậy không chỉ là không công bằng mà còn nguy hiểm, và hệ thống bầu cử do đó đã được thay đổi cho các cuộc bầu cử về sau. Thứ tám, hệ thống bầu cử phải tăng cường chế độ trách nhiệm của cơ quan dân cử với cử tri. Trách nhiệm là một trong những nền tảng của chính quyền đại diện. Sự thiếu trách nhiệm của Nghị viện có thể dẫn đến sự mất ổn định lâu dài. Trong một hệ thống chính trị có uy tín, Nghị viện cần chịu trách nhiệm trước cử tri đến mức độ cao nhất có thể. Cử tri sẽ có quyền ảnh hưởng đến cơ cấu của Nghị viện bằng cách thay đổi liên minh các đảng cầm quyền, hoặc loại trừ một đảng duy nhất nếu họ thất bại trong việc lãnh đạo. Hệ thống bầu cử được thiết kế phù hợp để tạo điều kiện cho mục tiêu này. Thường thì các hệ thống đa số như phương pháp về đích trước (FPTP) được coi là có lợi cho các đảng phái độc nhất, trong khi hệ thống đại diện tỉ lệ theo tỷ lệ đại diện (PR) thuận lợi đối với các liên minh đa đảng. Tuy nhiên, đã có bằng chứng rõ ràng trong những năm gần đây các cuộc bầu cử theo phương pháp FPTP có thể dẫn đến chính phủ đa đảng (ví dụ như ở Ấn Độ), và các cuộc bầu cử theo phương pháp PR lại dẫn đến chính phủ độc đảng mạnh (ví dụ như ở Nam Phi) [38, tr.12]. Do đó, không thể kết luận rằng các hệ thống bầu cử sẽ dẫn đến cùng một kết quả nhất định. Điều ta có thể khẳng định được đó là hệ thống bầu cử có tác động lớn về các vấn đề quản trị nói chung, cho cả chế độ tổng thống và chế độ đại nghị.
  • 41. 33 Thứ chín, hệ thống bầu cử cần đề cao vấn đề trách nhiệm cá nhân của các đại biểu. Đặt ra yêu cầu về trách nhiệm cá nhân đối với các đại biểu là phương pháp giúp cử tri có thể kiểm tra một cách hiệu quả đối với những đại biểu sau khi được bầu không thực hiện những điều đã hứa hẹn hoặc tỏ ra bất lực và biếng nhác khi lãnh đạo, điều hành công việc. Một số hệ thống bầu cử không đề cao vai trò của ứng cử viên được đề cử bởi một đảng chính trị nhiều quyền lực mà nhấn mạnh vai trò của các ứng cử viên phổ biến tại địa phương. Hệ thống đa nguyên/đa số được xem là hệ thống có thể tối đa hóa khả năng của các cử tri để loại bỏ những đại biểu không đạt yêu cầu. Tuy nhiên, nguyên tắc này trở nên mong manh hơn ở những nơi cử tri bầu theo đảng phái chứ không theo ứng cử viên. Đồng thời, hệ thống danh sách mở, danh sách tự do và phương pháp bầu cử lá phiếu duy nhất có thể chuyển nhượng (STV) được thiết kế để cho phép cử tri lựa chọn ứng cử viên trong bối cảnh của một hệ thống theo tỷ lệ. Chính điều này giúp cho hệ thống bầu cử có khả năng đảm bảo trách nhiệm cá nhân của những ứng cử viên. Thứ mười, hệ thống bầu cử phải phù hợp với đặc điểm của một chế độ chính trị - xã hội cụ thể và đáp ứng những mục tiêu mà hệ thống chính trị đó đặt ra. Có thể một mô hình bầu cử rất thành công ở quốc gia này nhưng không thành công ở quốc gia khác. Và tương tự như vậy, cũng có hệ thống bầu cử không thành công ở một nước này nhưng lại phù hợp với nước khác. Ảnh hưởng của một hệ thống bầu cử đến mỗi quốc gia phụ thuộc phần lớn vào bối cảnh chính trị, xã hội nơi nó được sử dụng. Ví dụ như quan điểm cho rằng hệ thống đa số có xu hướng hạn chế số lượng các đảng phái đại diện còn hệ thống tỷ lệ lại khuyến khích nhiều đảng phái hay các quy tắc đa số sẽ tạo ra hệ thống hai đảng còn quy tắc tỷ lệ lại tạo ra hệ thống đa đảng đã ngày càng
  • 42. 34 trở nên lỗi thời. Trong những năm gần đây, phương pháp về đích trước (FPTP) đã không hạn chế số lượng đảng phái trong các nền dân chủ đã có nền móng như Canada và Ấn Độ và nó cũng không dẫn đến sự hình thành của các đảng phái lâu đời như dự kiến ở Papua New Guinea. Mặt khác, hệ thống tỷ lệ lại được áp dùng trong những cuộc bầu cử của các chế độ độc đảng thống trị ở Namibia, Nam Phi và các nơi khác. Như vậy, có thể khái quát rằng, hệ quả của sự lựa chọn hệ thống bầu cử phụ thuộc vào các cấu trúc của một xã hội về mảng tư tưởng, tôn giáo, dân tộc, màu da chủng tộc, địa lý, ngôn ngữ và giai cấp kinh tế. Ngoài ra, còn phụ thuộc vào việc đất nước là nền dân chủ có nền móng, hay nền dân chủ chuyển tiếp, hay nền dân chủ còn non trẻ; việc có hay không có các đảng phái lâu đời và liệu người ủng hộ những đảng phái này tập trung hay phân tán trên các vùng địa lý. Do vậy, các nhà thiết kế hệ thống bầu cử phải cẩn thận áp dụng một quá trình để ưu tiên những tiêu chí quan trọng nhất trong bối cảnh chính trị cụ thể, trước khi chọn xem hệ thống bầu cử nào là hiệu quả và phù hợp nhất. Cách hữu ích nhất là lên danh sách những điều phải tránh bất cứ giá nào, chẳng hạn như thảm họa chính trị có thể dẫn đến sự sụp đổ của nền dân chủ. Ví dụ, một quốc gia đa tộc có thể tìm mọi cách để tránh không loại bỏ đại diện của các nhóm sắc tộc thiểu số để thúc đẩy tính hợp pháp của quá trình bầu cử và tránh việc người dân có nhận thức rằng hệ thống bầu cử không công bằng. Ngược lại, một nền dân chủ non trẻ ở những nước khác có thể đề cao hơn các mục tiêu như đảm bảo rằng nghị viện có thể ban hành pháp luật một cách hiệu quả hoặc đảm bảo cử tri có quyền loại bỏ lãnh đạo không thích hợp... Chỉ có những người trực tiếp tham gia vào quá trình thiết kế thể chế mới có thể thiết lập các ưu tiên trong số các tiêu chí cạnh tranh. Mười một, khi thiết kế hệ thống bầu cử cần tính đến những tiêu chuẩn quốc tế
  • 43. 35 Ngày nay, việc thiết kế hệ thống bầu cử diễn ra trong bối cảnh nhiều công ước, hiệp ước quốc tế và các công cụ pháp lý ảnh hưởng đến các vấn đề chính trị. Trong khi thế giới không có một danh sách hoàn chỉnh duy nhất về các tiêu chuẩn quốc tế cho bầu cử thì vẫn có sự đồng thuận chung cho rằng các tiêu chuẩn này bao gồm các nguyên tắc về: bầu cử miễn phí, công bằng, tổ chức định kỳ, đảm bảo phổ thông đầu phiếu cho cử tri, đảm bảo bí mật của các lá phiếu, đảm bảo tự do bầu cử, theo nguyên tắc một người một phiếu [38, tr.14]. Hơn nữa, mặc dù không hệ thống bầu cử nào được xem là tốt nhất trong mọi trường hợp nhưng không thể phủ nhận hệ thống bầu cử đóng vai trò quan trọng trong các nguyên tắc như đại diện công bằng cho tất cả công dân, bảo đảm quyền bình đẳng giới và quyền của các nhóm yếu thế như người tàn tật, dân tộc thiểu số... Những nguyên tắc trên được chính thức hóa trong các công cụ pháp lý quốc tế, chẳng hạn như Tuyên ngôn nhân quyền năm 1948, Công ước Quốc tế về quyền dân sự và quyền chính trị năm 1966, và các công ước và cam kết liên quan đến bầu cử dân chủ tổ chức cấp vùng như ở Liên minh Châu Âu (EU) và Tổ chức an ninh và hợp tác Châu Âu (OSCE). Mười hai, đảm bảo tài chính để quá trình bầu cử được bền vững Mọi cuộc bầu cử không diễn ra trên giấy mà diễn ra trong thế giới thực. Vì vậy, ở mức độ nào đó, việc lựa chọn áp dụng một hệ thống bầu cử nào cũng phải phụ thuộc vào chi phí và khả năng hành chính của đất nước. Mặc dù nhà tài trợ thường cung cấp hỗ trợ tài chính đáng kể cho lần bầu cử đầu tiên và thậm chí là những lần sau đó. Tuy nhiên, sự hỗ trợ này sẽ không phải là mãi mãi đối với các quốc gia trong quá trình chuyển đổi. Trong khuôn khổ chính trị bền vững, ta cần tính đến nguồn lực của một quốc gia, về năng lực của người có kỹ năng quản trị quá trình bầu cử và về tình hình tài chính của ngân sách quốc gia.
  • 44. 36 Ví dụ, một nước nghèo có thể không đủ khả năng thực hiện nhiều cuộc bầu cử theo yêu cầu của phương pháp bầu cử hai vòng hoặc quản lý việc đếm phiếu ưu đãi mang tính phức tạp. Tuy nhiên, đơn giản hóa ngắn hạn cũng không hẳn đã làm tăng hiệu quả tiết kiệm chi phí trong thời gian dài. Một hệ thống bầu cử có thể đạt được tiêu chí ít tốn kém và dễ dàng quản lý nhưng nó lại không đáp ứng được hết các nhu cầu bức xúc của một quốc gia. Khi một hệ thống bầu cử đi ngược với nhu cầu của một quốc gia, kết quả có thể là thảm họa. Một hệ thống có vẻ tốn kém và phức tạp nhưng nếu phù hợp nó có thể đảm bảo sự ổn định của đất nước và củng cố nền dân chủ phát triển hơn nữa. Tóm lại, các tiêu chí trên đây bao gồm nhiều lĩnh vực. Đôi khi chúng mâu thuẫn, thậm chí loại trừ lẫn nhau. Ví dụ, ta có thể muốn tạo cơ hội cho các ứng cử viên độc lập được bầu đồng thời khuyến khích sự phát triển của các đảng chính trị mạnh mẽ. Hoặc các nhà thiết kế hệ thống bầu cử có thể nghĩ rằng cần xây dựng hệ thống để cung cấp cho cử tri nhiều sự lựa chọn giữa các ứng cử viên và các đảng, nhưng điều này có thể dẫn đến lá phiếu phức tạp, gây khó khăn cho các cử tri ít được giáo dục. Bí quyết trong việc lựa chọn (hoặc cải cách) một hệ thống bầu cử là ưu tiên các tiêu chí quan trọng nhất và sau đó đánh giá xem hệ thống bầu cử nào hoặc sự kết hợp của hệ thống nào là phù hợp nhất và đạt được những mục tiêu đã đặt ra trước đó.
  • 45. 37 KẾT LUẬN CHƯƠNG I Bầu cử tự do và công bằng được xem là tiền đề của nền dân chủ, là phương pháp hợp pháp nhất để thành lập chính quyền. Thông qua bầu cử, nhân dân sẽ chuyển giao quyền lực của mình cho những người trong cơ quan đại diện nhà nước để họ điều hành và quản lý xã hội. Do đó, việc lựa chọn hệ thống bầu cử phù hợp là một trong những quyết định quan trọng nhất đối với các nước theo chế độ dân chủ, có ảnh hưởng sâu sắc đến sự ổn định và bền vững của thể chế chính trị. Nội dung chương I luận văn chia làm hai phần rõ ràng: Một là, làm rõ các vấn đề cơ bản về bầu cử bao gồm: khái niệm; vị trí, vai trò; các nguyên tắc bầu cử phổ biến trên thế giới. Hai là, trình bày chi tiết những vấn đề lý luận về hệ thống bầu cử xét trên nhiều phương diện như: khái niệm; bản chất; vị trí, vai trò và các tiêu chí đánh giá một hệ thống bầu cử. Đây được xem là cơ sở lý luận chung nhất, cơ bản nhất có vai trò nền tảng trong việc phân tích, đánh giá sâu hơn, cụ thể các hệ thống bầu cử trên thế giới và ở Việt Nam. Trong chương tiếp theo, luận văn sẽ nghiên cứu về các hệ thống bầu cử điển hình trên thế giới và tổng kết những ưu, nhược điểm của từng hệ thống. Mặt khác, chương II cũng phân tích sâu về hệ thống bầu cử ở ba quốc gia là Ấn Độ, Cộng hòa Ailen và New Zealand và đề cập đến xu thế phát triển hệ thống bầu cử trên thế giới.
  • 46. 38 CHƯƠNG II HỆ THỐNG BẦU CỬ TRÊN THẾ GIỚI 2.1. Các hệ thống bầu cử điển hình 2.1.1. Phân loại các hệ thống bầu cử điển hình Hiện nay, hệ thống bầu cử ở các nước trên thế giới có vô số biến thể khác nhau. Tuy nhiên, căn cứ vào phương thức “chuyển hóa” từ những lá phiếu của cử tri thành “các ghế” trong các cơ quan dân cử có thể phân loại hệ thống bầu cử trên thế giới thành ba hệ thống lớn: hệ thống bầu cử theo đa số (plurality/majority systems); hệ thống bầu cử tỷ lệ (proportional systems) và hệ thống bầu cử hỗn hợp (mixed systems). Ba hệ thống này lại được chia nhỏ thành 9 phương pháp bầu cử. Hệ thống bầu cử theo đa số bao gồm 5 phương pháp: phương pháp về đích trước (First Past The Post -FPTP), phương pháp lá phiếu khối (Block Vote - BV), phương pháp lá phiếu khối theo đảng phái chính trị (Party Block Vote - PBV), phương pháp lá phiếu có thể thay thế (Alternative Vote - AV) và phương pháp bầu cử hai vòng (Two-Round System -TRS). Hệ thống bầu cử tỷ lệ được chia thành 2 phương pháp: phương pháp đại diện tỉ lệ theo danh sách (List Proportional Representation - List PR) và phương pháp bầu cử lá phiếu duy nhất có thể chuyển nhượng (Single Transferable Vote - STV). Hệ thống bầu cử hỗn hợp gồm 2 phương pháp: phương pháp đại diện tỉ lệ hỗn hợp (Mixed Member Proportional - MMP) và phương pháp song song (Parallel Systems – PR). Ngoài ra, còn có một số phương pháp khác không thuộc về ba hệ thống lớn trên, có thể coi như ba nhóm nhỏ riêng biệt. Đó là: phương pháp bầu cử lá phiếu duy nhất không được chuyển nhượng (Sing Non-Transferable Vote - SNTV), phương pháp lá phiếu hạn chế (Limited Vote), phương pháp Borda (The Borda Count).