Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Luận văn thạc sĩ ngành luật: Đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền và định hướng phát triển hệ thống pháp luật Việt Nam, cho các bạn tham khảo
Đề tài: Đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, HAY
1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
VŨ VĂN HUÂN
§ÆC §IÓM CñA PH¸P LUËT
TRONG NHµ N¦íC PH¸P QUYÒN Vµ ®Þnh H¦íNG
PH¸T TRIÓN HÖ THèNG PH¸P LUËT VIÖT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI – 2014
2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
VŨ VĂN HUÂN
§ÆC §IÓM CñA PH¸P LUËT
TRONG NHµ N¦íC PH¸P QUYÒN Vµ ®Þnh H¦íNG
PH¸T TRIÓN HÖ THèNG PH¸P LUËT VIÖT NAM
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS. TSKH. ĐÀO TRÍ ÚC
HÀ NỘI – 2014
3. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Vũ Văn Huân
4. MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: ĐẶC ĐIỂM PHÁP LUẬT TRONG NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN .................................................................................... 7
1.1. Lịch sử học thuyết Nhà nước pháp quyền........................................ 7
1.1.1. Tư tưởng nhà nước pháp quyền thời cổ đại .......................................... 7
1.1.2. Học thuyết tư sản về nhà nước pháp quyền .......................................... 8
1.1.3. Tư tưởng về nhà nước pháp quyền trong học thuyết Mác-
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh..........................................................10
1.2. Khái niệm và những đặc điểm cơ bản của nhà nước pháp quyền........12
1.2.1. Khái niệm nhà nước pháp quyền ........................................................12
1.2.2. Những đặc điểm cơ bản của nhà nước pháp quyền ............................12
1.3. Những quan điểm cơ bản về xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam XHCN ....................................................................13
1.4. Đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền ...................18
1.4.1. Các chuẩn mực quốc tế về đặc điểm của pháp luật trong nhà
nước pháp quyền .................................................................................18
1.4.2. Việt Nam trước yêu cầu hội nhập quốc tế trong lĩnh vực pháp luật ........18
1.4.3. Đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền..........................20
Chương 2: THỰC TRẠNG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
HIỆN NAY..........................................................................................32
2.1. Quan niệm về hệ thống pháp luật....................................................32
2.2. Thực trạng hệ thống pháp luật Việt Nam........................................32
5. 2.2.1. Đánh giá khái quát hệ thống pháp luật Việt Nam trước khi có
Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ
Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020..................32
2.2.2. Thực trạng hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay.............................38
2.3. Đánh giá nguyên nhân của thực trạng hệ thống pháp luật...........68
Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG PHÁP
LUẬT VIỆT NAM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CỦA NHÀ
NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN ........................................................72
3.1. Phát triển lý luận về pháp luật và hệ thống pháp luật phù hợp
với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN .........72
3.2. Xây dựng hệ thống pháp luật với đa dạng các nguồn luật............75
3.3. Nâng cao chất lượng, hiệu quả xây dựng pháp luật ......................77
3.3.1. Đổi mới việc lập và thông qua chương trình xây dựng luật, pháp lệnh.......77
3.3.2. Hoàn thiện pháp luật về đổi mới quy trình, nâng cao chất lượng
công tác xây dựng pháp luật.................................................................79
3.3.3. Tăng cường các điều kiện bảo đảm xây dựng pháp luật.....................80
3.4. Nâng cao chất lượng công tác tổ chức thi hành pháp luật............81
3.4.1. Tăng cường công tác theo dõi thi hành pháp luật...............................81
3.4.2. Phát triển hệ thống thông tin và phổ biến, giáo dục pháp luật,
tăng cường năng lực tiếp cận của nhân dân đối với hệ thống
pháp luật..............................................................................................82
3.4.3. Phát triển hệ thống đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực làm
công tác pháp luật................................................................................83
3.5. Thiết lập cơ chế và thiết chế tài phán đối với các vi phạm
Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp ......84
3.6. Hoàn thiện quy định và thực hiện pháp luật về dân chủ ..............85
3.7. Hoàn thiện quy định và bảo đảm thực thi pháp luật về
quyền con người, nhân đạo hóa vì con người.................................86
KẾT LUẬN....................................................................................................89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................90
6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BHYT: Bảo hiểm y tế
HĐND: Hội đồng nhân dân
PBGDPL: Phổ biến giáo dục pháp luật
QPPL: Quy phạm pháp luật
UBND: Ủy ban nhân dân
UBTVQH: Ủy ban thường vụ quốc hội
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
7. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cơ sở lý luận của việc nghiên cứu đề tài
Ngay từ khi ra đời, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là Nhà
nước Cộng hoà XHCN Việt Nam) đã là nhà nước mang bản chất của nhà
nước kiểu mới, đó là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Tính pháp quyền trong tổ chức, hoạt động của nhà nước đã thể hiện trong
nhiều văn kiện Đảng và thể hiện ngày càng rõ nét hơn phù hợp với từng giai
đoạn cách mạng trong các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980 và 1992. Mặc dù
vậy, khái niệm nhà nước pháp quyền mới được Đảng ta chính thức sử dụng
tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ năm 1994, và từ đó đến nay
Đảng ta luôn quan tâm chỉ đạo thực hiện và cụ thể hóa trong các văn kiện của
Đảng. Hai mươi năm đã trôi qua nhưng đến nay hệ thống lý luận nghiên cứu
về nhà nước pháp quyền XHCN còn chưa được xây dựng một cách đầy đủ,
toàn diện và khoa học. Nhiều nội dung đặc trưng của Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam vẫn còn đang trong quá trình hoàn thiện.
Việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền ở Việt Nam là
nhiệm vụ có tính tất yếu trước yêu cầu đổi mới mạnh mẽ về phương pháp và
tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý xã hội bằng pháp luật của nhà nước
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Xây dựng
Nhà nước pháp XHCN Việt Nam là xây dựng phương thức tổ chức nền chính
trị nhằm duy trì và phát huy dân chủ XHCN, làm cho nhà nước thật sự trong
sạch, vững mạnh, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước và quản lý xã hội.
Cùng với quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền, hệ thống pháp luật
Việt Nam trong gần ba thập kỷ qua kể từ khi Đảng ta tiến hành công cuộc đổi
mới đã có sự phát triển mạnh mẽ và đạt được nhiều thành tựu to lớn. Quy
8. 2
trình ban hành các văn bản quy phạm pháp luật được đổi mới. Nhiều bộ luật,
luật, pháp lệnh được ban hành đã tạo khuôn khổ pháp lý ngày càng hoàn
chỉnh hơn để nhà nước quản lý bằng pháp luật trên mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội. Nguyên tắc pháp quyền từng bước được đề cao và phát huy trên thực
tế. Công tác phổ biến và giáo dục pháp luật được tăng cường đáng kể. Những
tiến bộ đó đã góp phần thể chế hoá đường lối của Đảng, nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý điều hành của nhà nước, đẩy mạnh phát triển kinh tế, giữ
vững ổn định chính trị - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, do được xây dựng
trên nền tảng của một hệ thống chính trị - pháp lý đặc thù của thời kỳ chuyển
đổi từ nền kinh tế XHCN sang kinh tế thị trường nên nhiều khía cạnh pháp
luật như đặc điểm, cấu trúc, định chế của pháp luật… của Việt Nam cần được
tiếp tục nghiên cứu phát triển và hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà
nước pháp quyền.
Cơ sở thực tiễn
Trong những năm qua chúng ta đã có nhiều cố gắng xây dựng và phát
triển hệ thống pháp luật, song do một số nguyên nhân khác nhau mà hệ thống
pháp luật của chúng ta vẫn chưa toàn diện, thống nhất, chưa đáp ứng được
yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền. Chúng ta còn có nhiều bất cập trong
công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật, trong công tác tổ
chức thực hiện pháp luật và trong hoạt động kiểm tra, giám sát, rà soát và hệ
thống hóa văn bản quy phạm pháp luật cũng như trình độ chuyên môn nghiệp
vụ của cán bộ làm công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp
luật còn hạn chế. Chính vì vậy chất lượng và hiệu quả của pháp luật trong quá
trình điều chỉnh xã hội nói chung còn chưa cao. Bên cạnh đó, chúng ta đang
từng bước xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường theo định hướng
XHCN nên đặt ra yêu cầu phải xây dựng, phát triển và hoàn thiện hệ thống
pháp luật là một tất yếu khách quan.
9. 3
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Khái niệm nhà nước pháp quyền, hệ thống pháp luật, đặc điểm của
pháp luật là những vấn đề đã được nhiều nhà khoa học luật đề cập với các
cách tiếp cận khác nhau của nhiều chuyên ngành chuyên sâu trong lĩnh vực
pháp luật. Có thể nêu ra một số công trình nghiên cứu tiêu biểu sau:
Đề tài nghiên cứu khoa học “Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật đáp ứng các yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,
do dân, vì dân” do TS. Vũ Đức Khiển làm chủ nhiệm và các đề tài về hoàn
thiện hệ thống pháp luật trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội… do Bộ Tư
pháp thực hiện; Các giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật của các trường
đại học chuyên luật (ĐH Luật Hà Nội, ĐH Luật TP.HCM, Khoa luật ĐHQG,
Khoa luật ĐH Vinh, Khoa luật ĐH Huế, Cần Thơ…) cũng đề cập nhiều vấn
đề lý luận về nhà nước pháp quyền, khái niệm pháp luật, đặc điểm của pháp
luật…; Luận án Tiến sĩ luật học “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng
và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam” của NCS. Lê Minh Tâm (năm
1992) đã giải quyết khá cơ bản các vấn đề lý luận về hệ thống pháp luật, xây
dựng các khái niệm khoa học và những tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá mức độ
hoàn thiện của một hệ thống pháp luật, trên cơ sở đó đánh giá thực trạng và đề
xuất các giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong giai đoạn đầu
của thập kỷ 90 thế kỷ trước; Các công trình nghiên cứu, bài viết khác bàn về hệ
thống pháp luật như: “Các ngành luật cơ bản trong hệ thống pháp luật Việt
Nam” của tác giả Trần Ngọc Đường; “Những vấn đề cơ bản về nhà nước và
pháp luật” của Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật; “Về khái niệm hiệu
quả pháp luật và những tiêu chí xác định hiệu quả pháp luật” của tác giả Lê
Minh Tâm (đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật tháng 11/2000); Bài viết
“Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp
10. 4
quyền XHCN” của PGS.TS. Hà Hùng Cường (đăng trên Tạp chí Nghiên cứu
lập pháp năm 2009); Bài viết “Một số đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết
số 48-NQ/TW về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam” của TS. Dương Thị Thanh Mai và ThS. Nguyễn Văn Hiển (đăng trên
Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp năm 2009)…
Các công trình nghiên cứu nêu trên đã đặt ra nhiều vấn đề lý luận về
pháp luật và nêu những bất cập của hệ thống pháp luật Việt Nam, đồng thời
đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác xây dựng pháp luật và tổ chức
thi hành pháp luật. Tuy nhiên các công trình này đều có điểm chung là nghiên
cứu pháp luật ở các quy phạm, các văn bản luật, các tư tưởng và học thuyết
pháp lý; mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa xây dựng thể chế và tổ chức thi
hành pháp luật... mà chưa đề cập toàn diện và đầy đủ đến đặc điểm của pháp
luật trong nhà nước pháp quyền. Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài là yêu
cầu cần thiết góp phần phát triển pháp luật trong quá trình xây dựng Nhà nước
pháp quyền Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích của đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu những đặc điểm của pháp luật trong nhà nước
pháp quyền, nghiên cứu lý luận và thực tiễn xây dựng pháp luật của Việt Nam
trong những năm qua, tác giả đề tài đề xuất giải pháp cơ bản để góp phần phát
triển pháp luật cùng với quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ của đề tài
- Nghiên cứu lý luận về nhà nước pháp quyền nói chung và Nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam nói riêng, đặc điểm của pháp luật trong nhà
nước pháp quyền.
- Đánh giá thực trạng, nêu nguyên nhân của những tồn tại của hệ thống
pháp luật nước ta.
11. 5
- Xác định phương hướng xây dựng pháp luật cùng với quá trình xây
dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về nhà nước pháp quyền và đặc điểm của
pháp luật trong nhà nước pháp quyền, xác định rõ đặc điểm của pháp luật
trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam; Đánh giá thực trạng của hệ
thống pháp luật Việt Nam hiện nay và đề xuất một số giải pháp, phương
hướng cơ bản nhằm phát triển hệ thống pháp luật trong quá trình xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận là tư tưởng về nhà nước
pháp quyền và pháp luật trong nhà nước pháp quyền. Đồng thời dựa trên quan
điểm của chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của
Đảng ta về xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân.
Cơ sở thực tiễn của đề tài là các báo cáo tổng kết, đánh giá về chất
lượng, hiệu quả của hệ thống pháp luật, thực tiễn công tác xây dựng và thi
hành pháp luật ở nước ta trong những năm qua.
Phương pháp nghiên cứu: chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử. Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả sẽ sử dụng các
phương pháp nghiên cứu như: phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp
logic, phương pháp hệ thống, thống kê; phương pháp phân tích, tổng hợp;
phương pháp so sánh và điều tra xã hội.
6. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu sẽ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, làm sâu sắc thêm
về đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền. Từ đó góp phần xây
dựng và phát triển hệ thống pháp luật phù hợp với tiến trình xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
12. 6
Đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ làm công
tác nghiên cứu, giảng dạy về pháp luật, cán bộ công tác tại các cơ quan xây
dựng, bảo vệ pháp luật và học viên, sinh viên ngành luật. v.v…
7. Cấu trúc của luận văn
Luận văn bao gồm: phần mở đầu và 3 chương, kết luận và danh mục tài
liệu tham khảo.
13. 7
Chương 1
ĐẶC ĐIỂM PHÁP LUẬT TRONG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
1.1. Lịch sử học thuyết Nhà nước pháp quyền
Tư tưởng về nhà nước pháp quyền luôn gắn liền với tư tưởng dân chủ
đã hình thành ngay từ thời cổ đại. Nội dung tư tưởng đó luôn gắn liền với sự
khẳng định chủ quyền nhân dân, lên án sự độc đoán của nhà cầm quyền và
đòi hỏi nhà nước cũng phải phục tùng pháp luật. Các nhà tư tưởng tư sản thế
kỷ 17-18 đã phát triển quan niệm về nhà nước pháp quyền thời cổ đại với
một thế giới quan pháp lý mới và trở thành Học thuyết về nhà nước pháp
quyền. Ngày nay, Học thuyết về Nhà nước pháp quyền ngày càng được bổ
sung và hoàn thiện.
1.1.1. Tư tưởng nhà nước pháp quyền thời cổ đại
Ở phương Đông cổ đại, tư tưởng chính trị pháp lý tiêu biểu đã chứa
đựng những dấu hiệu của nhà nước pháp quyền. Trong đó, các quan điểm về
pháp luật của Khổng Tử thể hiện rất đặc sắc yếu tố pháp quyền vì đã đề cập
đến nhiều phương diện của pháp luật, có nhiều giá trị tích cực vì pháp luật
được xây dựng trên cơ sở luân lý và đạo đức.
Hàn Phi Tử là người phát triển tư tưởng chính trị pháp lý lên đỉnh cao.
Ông khẳng định pháp trị là phương pháp duy nhất để quản lý xã hội, các quy
định của pháp luật phải không thiên vị ai và phải có sự thay đổi. Tất cả mọi
người đều phải tôn trọng pháp luật, pháp luật phải nghiêm minh và có chế độ
thưởng, phạt đúng đắn.
Ở phương Tây: Hy Lạp, La Mã là nơi phát triển về chính trị, kinh tế và
văn hoá nên sớm hình thành tư tưởng về nhà nước pháp quyền. Các nhà tư
tưởng đã đề cập đến vai trò thống trị của pháp luật trong xã hội, tính tối cao,
tính hợp lý của các đạo luật; tuân thủ pháp luật là nghĩa vụ không phải chỉ đối
14. 8
với cá nhân mà cả nhà nước; pháp luật của nhà nước phải phù hợp với pháp
luật tự nhiên. Tư tưởng chính trị pháp lý ở phương Tây cổ đại còn đề cập đến
việc tổ chức bộ máy nhà nước sao cho hợp lý để tránh sự lạm quyền.
Solon, nhà tư tưởng Hy Lạp (638-559 Tr.CN) đã nêu ý tưởng về nhà
nước pháp quyền khi ông chủ trương cải cách nhà nước bằng việc đề cao vai
trò của pháp luật. Ông đưa ra tuyên bố: “Ta giải phóng tất cả mọi người bằng
quyền lực của pháp luật, bằng sự kết hợp giữa sức mạnh với pháp luật”[10].
Heraclit (520-460 Tr. CN) kêu gọi nhân dân “phải đấu tranh bảo vệ pháp luật
như bảo vệ chốn nương thân của mình”[10]. Xocrat (469-399 Tr.CN) đã nêu
quan điểm phục tùng và tôn trọng pháp luật là tôn trọng lý trí, công bằng và
giá trị phổ biến, nếu không quyền lực sẽ lạc lối. Nhà triết học Hy Lạp cổ đại
Platon (427-374 Tr. CN) lại nhấn mạnh đến nguy cơ của sự chà đạp, bất chấp
pháp luật: “Tôi nhìn thấy sự diệt vong của cái nhà nước ở nơi nào mà pháp luật
không có sức mạnh và dưới quyền lực của ai đó. Còn nơi nào mà pháp luật đứng
trên các nhà cầm quyền và các nhà cầm quyền chỉ là nô lệ của pháp luật thì ở đó
tôi thấy có sự cứu thoát của nhà nước” [8]. Aristote (384-322 Tr. CN) nhấn
mạnh đến tính tối cao của pháp luật trong một nhà nước được tổ chức theo
đúng nghĩa của nó. Ông cho rằng nhà nước có công bằng hay không đều phải
gắn với pháp luật, chỉ có pháp luật mới là tiêu chuẩn để điều chỉnh mọi giao
tiếp trong xã hội nên “ở nơi nào không có pháp luật thì không có hình thức
chế độ nhà nước”[8]...
1.1.2. Học thuyết tư sản về nhà nước pháp quyền
Các nhà tư tưởng tư sản đã tiếp thu và phát triển tư tưởng về nhà nước
pháp quyền từ thời cổ đại, thể hiện thế giới quan pháp lý mới, thể hiện thái độ
chống chế độ chuyên quyền phong kiến, tình trạng vô pháp luật, pháp luật tàn
bạo, đấu tranh vì một chế độ nhà nước hoạt động trên cơ sở pháp luật và phục
tùng pháp luật. Đồng thời nó khẳng định mạnh mẽ tính nhân đạo, nguyên tắc
15. 9
tự do, bình đẳng của cá nhân, bình đẳng trong quan hệ giữa nhà nước và cá
nhân, thừa nhận những quyền của con người không thể bị tước đoạt, đề cao
chủ quyền nhân dân và nguyên tắc phân chia quyền lực trong tổ chức và hoạt
động của nhà nước.
Người đặt nền móng cho sự ra đời Học thuyết về nhà nước pháp quyền
là John Locke (1632-1704), nhà tư tưởng người Anh. Trong mô hình nhà
nước mà ông đưa ra, pháp luật có vị trí cao nhất và luật này phải phù hợp với
luật tự nhiên, các quyền tự nhiên và tự do cá nhân được ghi nhận. Quyền lực
nhà nước bao gồm ba loại quyền lập pháp, hành pháp và quyền liên minh, liên
kết, trong đó quyền lập pháp phải là tối cao vì nó có quyền làm ra các đạo luật
có giá trị bắt buộc đối với mọi thành viên trong xã hội. Sau khi luật được làm
ra thì ngay chính những người làm ra luật cũng phải tuân theo các đạo luật đó,
nếu cơ quan lập pháp và nhà vua vi phạm pháp luật như vượt quá thẩm quyền
hay lạm dụng quyền lực thì đều có thể dẫn đến sự tan rã của chính quyền.
Các nhà khai sang Pháp, điển hình là Montesquieu và Rousseau đều
nêu lên tư tưởng về nhà nước pháp quyền và tư tưởng phân chia quyền lực
trong các tác phẩm của mình. Montesquieu (1698-1755) với tác phẩm nổi
tiếng “Tinh thần pháp luật” đã xây dựng thuyết phân chia quyền lực trong tổ
chức nhà nước. Theo ông, tự do chính trị, sự an ninh, an toàn của công dân
chỉ có được khi không có sự lạm dụng quyền lực. Ở mỗi nhà nước đều có ba
loại quyền, đó là quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp và ba
quyền đó được giao cho ba cơ quan khác nhau. Sự phân chia, kìm chế và đối
trọng lần nhau giữa ba quyền là điều kiện chủ yếu bảo đảm tự do chính trị
trong nhà nước và xã hội. Rousseau (1712-1788), người xây dựng học thuyết
về chủ quyền nhân dân cho rằng con người khi thoát ra khỏi trạng thái tự
nhiên với tính năng tự hoàn thiện phải liên kết lại với nhau thành xã hội để
bảo vệ quyền tự do vốn có của mình. Để tạo ra sức mạnh chung nhằm bảo vệ
16. 10
mọi thành viên trong xã hội cần phải có một hình thức liên kết giữa con người
với con người, cần có sự thoả thuận giữa nhân dân và nhà nước bằng khế ước
xã hội. Thông qua đó nhân dân thực hiện quyền của mình bằng cách uỷ quyền
cho các đại biểu trong bộ máy nhà nước. Với sự thoả thuận ấy, con người mất
đi cái tự do tự nhiên, bị hạn chế những điều muốn làm, bù lại họ có quyền tự
do dân sự và quyền sở hữu những cái mà con người có. Nếu nhà nước không
đảm bảo được tự do cá nhân, không đem lại lợi ích cho xã hội thì người ta có
quyền thoả thuận lại để giành tự do cho mình. Vì vậy, nếu quyền lực nhà
nước được tách ra thành các bộ phận thì chúng vẫn phải phụ thuộc lẫn nhau
mới thực hiện được ý chí chung.
Nhà triết học người Đức, Kant (1724-1804) đã đưa ra lập luận triết học
về nhà nước pháp quyền. Theo ông, nhà nước là tập hợp của nhiều người
cùng phục tùng pháp luật và các đạo luật pháp quyền, bản thân nhà nước cũng
phải phục tùng; nhà nước pháp quyền không phải là hiện thực kinh nghiệm
mà là mô hình lý tưởng cần phải tuân thủ. Heghen (1770-1831) đã đưa ra lập
luận: Cấu trúc của nhà nước pháp quyền với các yếu tố xã hội công dân, trật
tự pháp luật mang tính chất pháp quyền tạo thành.
Cùng với các nhà lý luận nổi tiếng nói trên, nhiều nhà luật học, nhà tư
tưởng vĩ đại khác cũng đã góp phần phát triển các tư tưởng về Nhà nước pháp
quyền như Thomas Jefferson (1743 – 1826, tác giả của Tuyên ngôn độc lập
Mỹ năm 1776), Thomas Paine (1737 - 1809), John Adams (1735 - 1826)…
1.1.3. Tư tưởng về nhà nước pháp quyền trong học thuyết Mác- Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh
Khi xây dựng Học thuyết chuyên chính vô sản - học thuyết về nhà
nước kiểu mới, các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác-Lênin chưa đề cập
đến khái niệm nhà nước pháp quyền với ý nghĩa đầy đủ. Song lý luận về
pháp chế XHCN, về dân chủ, tự do, công bằng… và pháp luật là công cụ
17. 11
để bảo đảm thực hiện, đã thể hiện được những tư tưởng cốt lõi về nhà nước
pháp quyền.
Ở Việt Nam, tư tưởng về nhà nước pháp quyền được thể hiện lần đầu
tiên bởi Hồ Chí Minh trong Bản yêu sách gửi đến Hội nghị Vecxay: “Bẩy xin
Hiến pháp ban hành, trăm điều phải có thần linh pháp quyền” (Việt Nam yêu
cầu ca, 1922). Ngay từ khi còn đang trong quá trình tìm tòi con đường cứu
nước, Hồ Chí Minh đã có những nhận thức sâu sắc về vai trò, ý nghĩa của nhà
nước pháp quyền đối với việc tổ chức và quản lý xã hội. Người chủ trương
sau khi Việt Nam giành được độc lập, chúng ta phải xây dựng một nhà nước
kiểu mới, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tư tưởng Hồ
Chí Minh về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân thể hiện ở cả mục đích, nguyên tắc tổ chức lẫn phương
thức hoạt động của nhà nước. Nhà nước đó phải được tổ chức một cách hợp
hiến, hợp pháp, hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và quản lý xã hội bằng
pháp luật, thể hiện sự kết hợp giữa đức trị và pháp trị… Nó phải thực sự là
công cụ quyền lực của nhân dân, phản ánh, thực hiện và bảo vệ lợi ích của
nhân dân lao động.
Xây dựng Nhà nước Viê ̣t Nam thành nhà nước của dân , do dân và vì
dân là cống hiến vĩ đa ̣i của Người vào kho tàng lý luâ ̣n của chủ nghĩa Mác -
Lênin về nhà nước. Sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh về nhà nước là từ việc
nghiên cứu kỹ các mô hình nhà nước trong lịch sử dân tộc cũng như trên thế
giới, Người đã lựa chọn một mô hình nhà nước phù hợp với thực tế của Việt
Nam. Ngoài ra, trong tư tưởng về xây dựng nhà nước kiểu mới, Hồ Chí Minh
còn chỉ rõ: Bản chất dân chủ triệt để của nhà nước, sự thống nhất giữa bản
chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc của nhà nước, kết
hợp cả đạo đức và pháp luật trong quản lý xã hội.
18. 12
1.2. Khái niệm và những đặc điểm cơ bản của nhà nước pháp quyền
1.2.1. Khái niệm nhà nước pháp quyền
Hiện nay chưa có một định nghĩa chính xác và thống nhất về nhà nước
pháp quyền. Trong lý luận có nhiều quan điểm, cách tiếp cận khác nhau về
nhà nước pháp quyền và nhà nước pháp quyền luôn được xem là một khái
niệm mới. Tuy nhiên nhìn chung các quan điểm thường nhấn mạnh đến một
trong những yếu tố cơ bản sau đây về nhà nước pháp quyền: Tính tối cao của
luật, nghĩa vụ tuân thủ pháp luật của nhà nước; cơ chế phân chia quyền lực,
kìm chế và đối trọng giữa các nhánh quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp;
dân chủ, xã hội công dân; quyền con người…
Nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước mà đó là những
giá trị phổ biến, là biểu hiện của một trình độ phát triển dân chủ, một cách thức
tổ chức nhà nước và xã hội trên nền tảng dân chủ. Trong đó nhà nước là một tổ
chức công quyền được thành lập và hoạt động trên cơ sở pháp luật với mục đích
mang lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân gắn liền với sự tồn tại và phát triển của
xã hội công dân, thông qua hệ thống các thể chế và yêu cầu dân chủ như đề cao
quyền làm chủ của nhân dân. Nhà nước đó có cơ chế tổ chức và thực hiện quyền
lực khoa học và hiệu quả, dân chủ hóa mọi mặt của đời sống xã hội. Hay nói
cách khác: Nhà nước pháp quyền là một hình thức tổ chức nhà nước.
1.2.2. Những đặc điểm cơ bản của nhà nước pháp quyền
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, có thể nêu những đặc điểm cơ bản về
nhà nước pháp quyền như sau:
- Là nhà nước có hệ thống pháp luật hoàn thiện, đảm bảo tính đồng bộ
và thống nhất để thực hiện có hiệu quả việc quản lý xã hội. Pháp luật trong
nhà nước pháp quyền phải giữ vai trò tối thượng, mang tính pháp lý cao,
khách quan, công bằng và nhân đạo và phù hợp với đạo đức xã hội.
- Mối quan hệ giữa nhà nước và công dân là bình đẳng về quyền và
nghĩa vụ. Mọi cá nhân, tổ chức, kể cả nhà nước đều phải tuân thủ pháp luật.
19. 13
- Quyền con người, quyền công dân được tôn trọng và bảo đảm thực
hiện. Quyền con người, quyền công dân vừa là bộ phận hợp thành của khái
niệm nhà nước pháp quyền, vừa là mục tiêu, nhiệm vụ của các hoạt động nhà
nước. Để đảm bảo quyền con người, quyền công dân trong nhà nước pháp
quyền, cần thiết phải thể chế hoá các quyền con người, quyền công dân,
không chỉ trong Hiến pháp mà còn trong cả một hệ thống pháp luật đồng bộ
và nhất quán.
- Việc tổ chức quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp quyền phải
đảm bảo nguyên tắc loại bỏ và ngăn ngừa việc độc quyền quyền lực, tức là
quyền lực nhà nước không thể tập trung vào một người, vào một cơ quan và
phải đảm bảo khả năng kiểm soát được quyền lực.
- Nhà nước được phân định với xã hội dân sự và quan hệ chặt chẽ với
xã hội dân sự. Nhà nước phải tôn trọng, đề cao xã hội dân sự, tạo mọi điều
kiện phát huy sức mạnh của mọi thiết chế xã hội nhằm đạt được các mục tiêu
của chế độ dân sự.
- Là nhà nước có trách nhiệm với cộng đồng thế giới, thực hiện các
cam kết quốc tế mà nhà nước là thành viên ký kết hay công nhận.
Những đặc điểm cơ bản nêu trên là tiêu chí để xác định nhà nước pháp
quyền. Trong lý luận chính trị pháp lý còn có thể nêu thêm nhiều đặc điểm
khác của nhà nước pháp quyền như tính minh bạch, công bằng và nhân đạo...
Tựu trung lại, nhà nước pháp quyền là hình thức tổ chức nhà nước ở trình độ
cao và tính pháp quyền được biểu hiện ở mọi lĩnh vực quan hệ xã hội. Nhà
nước đó có mục đích và nhiệm vụ là vì con người.
1.3. Những quan điểm cơ bản về xây dựng Nhà nước pháp quyền
Việt Nam XHCN
Kể từ khi thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước năm 1986,
trong nhận thức, Đảng ta đã thấy rõ sự cần thiết phải xây dựng và thực hiện quản
20. 14
lý nhà nước theo hướng nhà nước pháp quyền. Trên cơ sở nhận thức của Đảng,
chúng ta đã tiến hành sửa đổi Hiến pháp 1980 và ban hành Hiến pháp 1992. Sau
các lần sửa đổi, Hiến pháp Việt Nam năm 2013 tiếp tục khẳng định:
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm
chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là
liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ
trí thức [17].
Ở nước ta, xây dựng nhà nước pháp quyền tức là xây dựng một phương
thức tổ chức nền chính trị với mục đích là không ngừng duy trì bản chất giai
cấp công nhân và tính nhân dân của nhà nước, phát huy cao độ tính dân chủ,
làm cho bộ máy nhà nước thật sự trong sạch, vững mạnh, nâng cao hiệu lực
và hiệu quả quản lý và điều hành của nhà nước.
Những quan điểm cơ bản trong xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam bao gồm:
- Nhà nước pháp quyền Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân
Ở Việt Nam, nhân dân là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà
nước. Toàn bộ quyền lực nhà nước đều bắt nguồn từ nhân dân, do nhân dân
uỷ quyền cho bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân.
Bộ máy nhà nước được thiết lập là bộ máy thừa hành ý chí, nguyện vọng của
nhân dân. Đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước là công bộc của nhân dân. Là
nhà nước của dân, do chính nhân dân lập qua thông qua chế độ bầu cử dân
chủ. Bầu cử dân chủ là phương thức thành lập bộ máy nhà nước đã được xác
lập trong nền chính trị hiện đại, đảm bảo tính chính đáng của chính quyền khi
tiếp nhận sự uỷ quyền quyền lực từ nhân dân.
21. 15
Tư tưởng về một nhà nước của dân, do dân, vì dân đã được thể chế hoá
thành một mục tiêu hiến định ngay trong bản Hiến pháp đầu tiên của chính thể
dân chủ cộng hoà ở nước ta: “Xây dựng một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt
của nhân dân” (Lời nói đầu - Hiến pháp 1946). Đặc điểm này của Nhà nước ta
tiếp tục được khẳng định trong các bản Hiến pháp 1959, 1980, 1992 và 2013.
- Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch và
phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp, tư pháp và có sự kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền
lực nhà nước
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội” của Đảng năm 1991 đã khẳng định quan điểm về sự tồn tại của ba quyền
và sự phân công, phối hợp giữa ba phạm vi quyền lực đó của nhà nước trên cơ
sở tiếp thu, kế thừa, phát triển, vận dụng vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt
Nam các tri thức của nhân loại và trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Đến
Hội nghị Trung ương lần thứ tám (Khoá VII, 1995) quan niệm của Đảng về ba
quyền đã được sự bổ sung: Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công
và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền
lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nghị quyết đại hội XI và Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (sửa đổi, bổ sung năm 2011)
đều có bổ sung quan tâm vấn đề kiểm soát quyền lực trong cơ chế tổ chức
quyền lực nhà nước ở nước ta. Theo đó nguyên tắc quyền lực nhà nước là
thống nhất có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan thực hiện
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp đã được hoàn thiện một bước quan
trọng. Quan điểm về sự thống nhất quyền lực nhà nước, có sự phân công, phối
hợp, kiểm soát chặt chẽ giữa ba quyền và quyền lực nhà nước là một quan điểm
có tính nguyên tắc chỉ đạo trong thiết kế mô hình tổ chức Nhà nước pháp
quyền Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.
22. 16
- Nhà nước pháp quyền Việt Nam tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến
pháp và pháp luật, bảo đảm vị trí tối thượng của Hiến pháp, pháp luật trong
đời sống xã hội đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức
Trong Nhà nước pháp quyền Việt Nam, ý chí của nhân dân và sự lựa
chọn chính trị được xác lập một cách tập trung nhất, đầy đủ nhất và cao nhất
bằng Hiến pháp. Hiến pháp được coi là đạo luật cơ bản, có hiệu lực pháp lý
cao nhất, quy định chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an
ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và
hoạt động của các cơ quan nhà nước.
Pháp luật là kết quả của sự thể chế hoá đường lối, chính sách của
Đảng trên tất cả các mặt của đời sống kinh tế, xã hội. Pháp luật thể hiện ý
chí và nguyện vọng của nhân dân, phù hợp với hiện thực khách quan, thúc
đẩy tiến bộ xã hội nên pháp luật phải là phương thức quan trọng đối với tính
chất và hoạt động của nhà nước và là thước đo giá trị phổ biến của xã hội:
công bằng, dân chủ, bình đẳng và vì con người. Nhà nước pháp quyền phải
có một hệ thống pháp luật cần và đủ để điều chỉnh các quan hệ xã hội, làm
cơ sở cho sự tồn tại một trật tự pháp luật. Pháp luật thể chế hoá các nhu cầu
quản lý xã hội, là hình thức tồn tại của các cơ cấu và tổ chức xã hội và của
các thiết chế nhà nước. Vì vậy, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp
luật là lối sống có trật tự và lành mạnh nhất của xã hội. Tất cả các cơ quan
nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải nghiêm
chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật.
Trong quản lý xã hội, muốn cho pháp luật được người dân tôn trọng và
tự giác thực hiện thì pháp luật phải được bảo vệ, phải thể hiện được những giá
trị đạo đức. Do vậy quản lý xã hội bằng pháp luật kết hợp với giáo dục, nâng
cao đạo đức cũng là một tất yếu khách quan, xuất phát từ chính đòi hỏi từ
23. 17
thực tế. Nhà nước pháp quyền thượng tôn pháp luật nhưng không loại trừ đạo
đức vì pháp luật trong nhà nước pháp quyền suy cho cùng là hướng tới giá trị
nhân đạo, công bằng, tất cả vì mục đích phục vụ con người.
- Nhà nước pháp quyền Việt Nam tôn trọng và bảo vệ quyền con người,
các quyền và tự do của công dân, nâng cao trách nhiệm giữa nhà nước và
công dân, giữa nhà nước và xã hội
Vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công dân, mở rộng dân chủ,
nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, giữa công dân với
Nhà nước luôn được Đảng ta dành sự quan tâm đặc biệt. Đảng ta đã xác định
nguyên tắc: Dân chủ xã hội chủ nghĩa là vấn đề thuộc bản chất của Nhà nước
ta; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực, quyền làm chủ đó
được thể chế hoá bằng pháp luật; dân chủ đi đôi với kỷ cương, kỷ luật; xây
dựng cơ chế cụ thể để thực hiện phương châm: “dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra" đối với các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước.
Thực hiện tốt các cơ chế làm chủ của nhân dân: làm chủ thông qua đại diện,
làm chủ trực tiếp bằng các hình thức nhân dân tự quản, bằng việc xây dựng và
thực hiện các quy ước, hương ước tại cơ sở. Đảng và Nhà nước tiếp tục đổi
mới phong cách, bảo đảm dân chủ trong quá trình chuẩn bị ra quyết định và
thực hiện các quyết định.
- Nhà nước pháp quyền Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với đời sống xã hội và
đời sống nhà nước không những không trái với bản chất nhà nước pháp quyền
nói chung mà còn là điều kiện có ý nghĩa tiên quyết đối với quá trình xây
dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân ở nước ta.
Đối với Nhà nước, sự lãnh đạo của Đảng là lãnh đạo chính trị, quyết
định phương hướng chính trị của Nhà nước, bảo đảm cho Nhà nước ta thực sự
24. 18
là tổ chức thực hiện quyền lực của nhân dân, thực sự của dân, do dân và vì
dân, để thực hiện thành công công cuộc đổi mới đất nước. Nhà nước triển
khai tổ chức thực hiện các nghị quyết, chủ trương của Đảng bằng các hoạt
động quản lý nhà nước, tổ chức tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân tham gia
quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Những quan điểm về xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN
thể hiện sự sáng tạo của Đảng ta trong việc tiếp thu tính phổ biến, những giá
trị chung của nhân loại về nhà nước pháp quyền vận dụng vào hoàn cảnh đặc
thù của nước ta.
1.4. Đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền
1.4.1. Các chuẩn mực quốc tế về đặc điểm của pháp luật trong nhà
nước pháp quyền
- Đặc điểm cơ bản nhất của pháp luật trong nhà nước pháp quyền là sự
hiện diện của pháp luật trong đời sống xã hội với tư cách là ý chí của nhân
dân - cơ sở của một xã hội có trật tự pháp định dựa trên sự áp dụng phổ biến
của một hệ thống pháp luật.
- Về mặt hình thức pháp lý, sự ngự trị pháp luật phải đảm bảo sự ràng
buộc bởi pháp luật đối với nhà nước (là công cụ để giới hạn, kiểm soát chính
quyền bằng pháp luật), xã hội và mọi công dân. Nói cách khác, đó là một nhà
nước gắn chặt với pháp luật và được hợp pháp hóa bởi pháp luật.
- Về nội dung pháp lý, pháp luật phải mang tính pháp quyền, đảm bảo
yêu cầu khách quan, thúc đẩy tiến bộ xã hội.
- Pháp luật mang tính công bằng, trở thành đại biểu của công lý, là sự
tồn tại hiện hữu của ý chí tự do; được thực hiện nghiêm minh, được bắt nguồn
từ bản chất lý trí của con người; pháp luật được sử dụng vì con người.
1.4.2. Việt Nam trước yêu cầu hội nhập quốc tế trong lĩnh vực pháp luật
Xu hướng thế giới đang có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường. Đặc
25. 19
biệt cuộc khủng hoảng tài chính, kinh tế năm 2008-2009 đã làm bộc lộ những
vấn đề toàn cầu mới, buộc các quốc gia và các cộng đồng quốc tế phải có
những hợp tác mới để đối phó giải quyết. Nền kinh tế và chính trị thế giới
đứng trước thay đổi mới kế cả trong tư duy chiến lược và trong các hành động
thực tiễn của các quốc gia. Thay đổi đang là một xu thế tất yếu và là phương
châm hành động của nhiều quốc gia phát triển. Chính những thay đổi đã và
đang diễn ra tại các nước phát triển và trong các cộng đồng chính trị, kinh tế,
quốc tế đang tác động mạnh mẽ đến các quốc gia đang phát triển trong đó có
Việt Nam. Việt Nam đã và đang hội nhập ngày càng sâu vào đời sống quốc tế
và có vai trò ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Do vậy,
Việt Nam phải chủ động để thích ứng với những thay đổi đang diễn ra mạnh
mẽ trên thế giới và đối phó thành công với những thách thức nảy sinh từ
những thay đổi này đối với con đường phát triển của đất nước. Hội nhập quốc
tế và khu vực là một trong những điều kiện quan trọng để Việt Nam phát triển
và nâng cao vị thế quốc tế của mình. Sự hội nhập phụ thuộc vào nhiều yếu tố,
trong đó pháp luật là một trong những yếu tố quan trọng.
Để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường XHCN, bảo đảm công bằng xã
hội và phát huy dân chủ, càng đòi hỏi chúng ta phải quán triệt phương châm
quản lý xã hội bằng pháp luật, phải dựa vào pháp luật, nghiêm chỉnh chấp
hành pháp luật, đảm bảo thắng lợi của quá trình đổi mới. Đặc biệt, hiện nay
xây dựng nhà nước pháp quyền là một tất yếu khách quan trên con đường xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, nhằm tăng cường pháp chế XHCN và
quản lý xã hội bằng pháp luật. Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN
cần phải đề cao pháp luật, kỷ cương để đảm bảo sự lãnh đạo thống nhất từ
một khung pháp lý hoàn thiện duy trì được sự hợp tác trong cạnh tranh, đảm
bảo nền kinh tế phát triển đúng định hướng và yêu cầu quản lý xã hội. Quản
lý nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, nhằm bảo đảm
26. 20
quyền lực của nhân dân được thực hiện. Vị trí, vai trò của pháp luật được đặt
đúng tầm quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Pháp luật
thực sự trở thành công cụ chủ yếu để quản lý nhà nước, quản lý xã hội, bảo
đảm công bằng xã hội.
Vì vậy cần tiếp thu các giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền với ý
nghĩa là các giá trị chung của nhân loại, trong đó có pháp luật và tương hợp
với các đặc điểm lịch sử, văn hoá, chính trị của nước ta, đảm bảo được tính
pháp quyền của nhà nước theo các chuẩn mực đã được thừa nhận và là yếu tố
góp phần tạo ra những thành tựu tăng trưởng, phát triển đất nước.
1.4.3. Đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền
Xét từ góc độ pháp luật, khi nói đến nhà nước pháp quyền phải xác
định được đặc trưng của nó là pháp luật giữ vai trò chi phối đối với nhà nước
và xã hội. Trong nhà nước pháp quyền, ý chí, quyền lợi và nghĩa vụ của nhân
dân được luật hóa. Việc nhà nước pháp quyền quản lý xã hội bằng pháp luật
là quản lý bằng lý trí phổ biến của nhân dân chứ không phải bằng chỉ lệnh,
bằng luật định của cá nhân hay nhóm người nào đó. Giữ vị trí cao nhất trong
hệ thống pháp luật của nhà nước pháp quyền là hiến pháp. Nhà nước cũng
phải đặt mình dưới pháp luật, cả nhà nước và công dân đều có quyền hạn và
nghĩa vụ trước pháp luật. Công dân có trách nhiệm với nhà nước thế nào thì
nhà nước cũng phải có trách nhiệm với công dân như thế ấy. Điều đó có nghĩa
là quan hệ giữa nhà nước với công dân là bình đẳng.
Bản chất căn bản nhất của nhà nước pháp quyền là nhà nước thực thi
quyền lực của mình dựa trên nền tảng pháp luật được ban hành theo thủ tục do
hiến pháp quy định nhằm bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của nhân dân và
công lý. Nếu phân tích đầy đủ khái niệm này từ góc độ pháp luật, có thể thấy
rằng một nhà nước pháp quyền phải là nhà nước chịu sự kiểm soát của pháp
luật trong mọi hoạt động của mình. Chính vì vậy, công chức nhà nước chỉ được
27. 21
làm những gì mà pháp luật cho phép được coi như một trong những nguyên tắc
chi phối tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước pháp quyền. Ở khía cạnh
khác của nhà nước pháp quyền là yêu cầu về các quyền tự do, dân chủ của
nhân dân và công lý, nhà nước pháp quyền có nghĩa vụ phải bảo đảm bằng
pháp luật các quyền tự do, dân chủ của nhân dân, công lý và lẽ phải. Trong đó,
những công chức và cơ quan thực thi pháp luật không được có những hành vi
hoặc quyết định hạn chế hay tước quyền tự do, dân chủ và tiếp cận công lý của
người dân mà không dựa trên cơ sở của pháp luật. Công dân được quyền làm
bất cứ điều gì mà pháp luật không cấm được coi là nguyên tắc tổ chức và điều
chỉnh các quan hệ xã hội trong nhà nước pháp quyền.
Có thể nói rằng nhà nước pháp quyền gắn liền với pháp luật và được
hợp pháp hoá bởi quy định của pháp luật, pháp luật là nền tảng của nhà nước
pháp quyền. Điều quan trọng nhất là pháp luật trong nhà nước pháp quyền đó
phải là một hệ thống pháp luật không có những quy định làm hạn chế quyền
tự do dân chủ của nhân dân, cản trở sự tiến bộ xã hội, không bảo đảm được
công lý, bởi vì như vậy sẽ không đáp ứng được yêu cầu thứ hai của nhà nước
pháp quyền là bảo đảm quyền tự do, dân chủ của người dân và công lý. Xét ở
khía cạnh giá trị đạo đức xã hội thì pháp luật trong nhà nước pháp quyền phải
phục vụ và bảo đảm được các yếu tố trên.
Tuy nhiên, bảo đảm được giá trị đạo đức và tính tối thượng của pháp
luật vẫn chưa đủ. Khả năng tiếp cận pháp luật, tiếp cận công lý còn phụ thuộc
vào nhiều yếu tố khác nữa của pháp luật trong nhà nước pháp quyền.
Từ những phân tích trên, tiếp cận pháp luật từ góc độ nhà nước pháp
quyền có thể nhận diện được một số yêu cầu cơ bản sau đây đối với pháp luật:
- Bảo đảm tính toàn diện, đồng bộ và thống nhất của pháp luật
Đặc điểm này có nghĩa là pháp luật phải đảm bảo khả năng điều chỉnh
trên tất cả các lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội, các quy định pháp luật
28. 22
phải bao quát toàn bộ đời sống xã hội, các quan hệ xã hội có tính điển hình,
phổ biến cần có sự điều chỉnh bằng pháp luật thì đều có pháp luật điều chỉnh.
Về kết cấu, mỗi quy phạm pháp luật phải có cấu trúc logic, chặt chẽ;
mỗi chế định pháp luật đều có đầy đủ các quy phạm pháp luật cần thiết điều
chỉnh nhóm quan hệ xã hội; mỗi ngành luật có đầy đủ các chế định pháp luật
theo cơ cấu của ngành luật đó và cuối cùng là toàn bộ hệ thống pháp luật có
đủ các ngành luật, đáp ứng được nhu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội ở mỗi
giai đoạn phát triển của đất nước. Vấn đề này đòi hỏi khi ban hành các văn
bản QPPL chúng ta không những chỉ chú trọng tới các luật về tổ chức bộ máy
nhà nước, mà còn phải chú ý tới các luật điều chỉnh một cách toàn diện các
quan hệ xã hội, không chỉ chú trọng tới luật nội dung mà còn phải chú ý tới
luật hình thức.
Một quy phạm pháp luật hay một văn bản QPPL được tạo ra đều tác
động không phải trong sự độc lập, riêng lẻ mà trong một tổng thể những mối
liên hệ và những sự ràng buộc nhất định. Vì thế, tính toàn diện và đồng bộ
của pháp luật có ảnh hưởng rất lớn tới tính khả thi và hiệu quả của việc thực
hiện pháp luật. Bởi vì tất cả những mối liên hệ, những sự ràng buộc đó của
các quy định, các văn bản pháp luật với những yếu tố và hiện tượng khác
nhau trong đời sống xã hội đều có ảnh hưởng tới sự tác động, điều chỉnh của
pháp luật. Trong nhiều trường hợp, nếu thực hiện một quy phạm pháp luật
hay một chế định luật không tốt có thể sẽ dẫn đến việc thực hiện các quy
phạm, các chế định pháp luật khác gặp nhiều khó khăn thậm chí là không thể
thực hiện được, tuỳ theo vị trí, vai trò và các mối liên hệ của nó với các yếu
tố và các bộ phận khác.
Đặc điểm này của pháp luật còn thể hiện ở việc ban hành đầy đủ các văn
bản quy định chi tiết các văn bản, quy định pháp luật trong những trường hợp
cần có sự quy định chi tiết. Như vậy, khi văn bản pháp luật có hiệu lực thì có
29. 23
thể được tổ chức triển khai thực hiện ngay trên thực tế, tránh trường hợp văn
bản luật đã có hiệu lực nhưng chưa có văn bản hướng dẫn thi hành.
Khi xem xét tính thống nhất của pháp luật nghĩa là xem xét sự phù
hợp, sự đồng bộ trong các quy định của pháp luật. Với cách hiểu này, tính
thống nhất của pháp luật phải được xem xét trên cả hai phương diện sau đây:
Xét về mặt nội dung, tính thống nhất của pháp luật đòi hỏi quy định của
pháp luật phải bảo đảm không mâu thuẫn. Điều này thể hiện ở chỗ các văn
bản pháp luật trong cùng một lĩnh vực, hoặc trong nhiều lĩnh vực khác nhau
đều thống nhất trong việc xác lập mô hình hành vi, tránh tình trạng văn bản
luật thì cho phép nhưng xuống đến văn bản hướng dẫn thi hành lại không cho
phép. Hơn nữa, văn bản luật và văn bản có giá trị pháp lý thấp hơn luật đều
phải phù hợp với quy định của hiến pháp. Mặt khác, pháp luật phải bảo đảm
thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của chủ thể. Ví dụ: Quyền sở
hữu của công dân được hiến pháp quy định phải được bảo đảm bởi các luật và
văn bản có giá trị pháp lý dưới luật. Các văn bản pháp luật phải quy định
trách nhiệm cho các cơ quan nhà nước tạo mọi điều kiện thuận lợi để người
dân thực hiện được quyền sở hữu những gì mà pháp luật không cấm.
Xét về mặt hình thức, tính thống nhất của pháp luật còn được thể hiện
qua cấu trúc, cách sắp xếp, phân loại thứ bậc, hiệu lực của quy phạm pháp
luật. Cũng là các quy phạm cùng điều chỉnh về một quan hệ, nhưng tính thống
nhất đòi hỏi những quy phạm pháp luật được quy định trong hiến pháp phải
có giá trị pháp lý cao nhất, sau với đến những quy phạm pháp luật được chứa
đựng trong các bộ luật và luật, thứ nữa mới đến các quy phạm pháp luật chứa
đựng trong các văn bản QPPL khác. Như vậy, xét ở góc độ này, tính thống
nhất của pháp luật phải bảo đảm trên hai mức độ: sự thống nhất trong chính
văn bản QPPL đó và sự thống nhất trong toàn bộ hệ thống pháp luật.
Đối với một văn bản QPPL, sự đồng bộ, thống nhất thể hiện ngay trong
30. 24
cơ cấu của văn bản đó. Nghĩa là phải thể hiện được mối liên hệ logic giữa các
phần, chương, mục, điều, khoản, điểm với cách trình bày, cách đánh số thứ tự
thống nhất. Mỗi phần, chương, mục, điều, khoản, điểm đều có nội dung thể
hiện chủ đề chính của văn bản, hướng tới mục tiêu chung. Vì vậy, các phần cần
được bố trí, sắp xếp một cách hợp lý, phải thể hiện rõ được phần chung, phần
riêng, những đặc thù của văn bản nhìn từ khía cạnh logic hình thức. Tính thống
nhất trong cơ cấu còn thể hiện ở việc các quy định trong cùng một văn bản phải
tương quan với nhau, không mâu thuẫn, chồng chéo.
Ở khía cạnh khác, khi xem xét tính thống nhất, cần đặt văn bản QPPL
trong mối tương quan với toàn bộ hệ thống pháp luật. Khi xem xét tính thống
nhất của pháp luật, cần xem xét tính thống nhất giữa các quy phạm pháp luật,
các chế định pháp luật trong cùng một ngành luật và với các ngành luật khác.
Vấn đề này là hết sức cần thiết, bởi lẽ dù pháp luật được chia ra thành các
ngành luật nhưng trên thực tế, xã hội là tổng hòa các mối quan hệ xã hội, nên
giữa các quy phạm pháp luật luôn có mối liên hệ mật thiết, tác động qua lại
với nhau, dù thuộc về các ngành luật khác nhau.
Sự thống nhất, đồng bộ của pháp luật còn được xem xét trong mối quan
hệ giữa luật chung và luật chuyên ngành, luật nội dung và luật hình thức… Vì
thế, việc xem xét về tính thống nhất của pháp luật đòi hỏi phải có một cái nhìn
bao quát, toàn diện ở nhiều góc độ, nhiều cấp độ khác nhau. Tính thống nhất
của pháp luật đòi hỏi phải loại bỏ mâu thuẫn, trùng lặp hay chồng chéo ngay
trong bản thân hệ thống, trong mỗi ngành luật, mỗi chế định pháp luật và giữa
các quy phạm pháp luật với nhau, xác định ranh giới giữa các ngành luật và
định ra một hệ thống quy phạm pháp luật đồng bộ. Nếu một hệ thống pháp luật
không thống nhất, giữa các bộ phận của nó chứa đựng mâu thuẫn, chồng chéo,
thì hệ thống ấy không thể tạo ra sự điều chỉnh pháp luật một cách toàn diện,
đồng bộ và hiệu quả. Đặc điểm này của pháp luật còn phải được thể hiện trong
31. 25
tính thứ bậc của hệ thống văn bản pháp luật. Luật, pháp lệnh cũng như các văn
bản QPPL khác đều phải phù hợp với hiến pháp, những văn bản luật vi phạm
hiến pháp sẽ không có giá trị pháp lý.
Bảo đảm tính thống nhất của pháp luật chính là cơ sở để hướng dẫn
hành vi, thống nhất hành vi của các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ
pháp luật. Chỉ trong điều kiện pháp luật bảo đảm sự thống nhất mới tránh
được việc các chủ thể lựa chọn hành vi nào có lợi cho mình khi họ tham gia
vào các quan hệ pháp luật và điều này tạo nên sự xung đột trong hành vi xử
sự của các chủ thể pháp luật, là căn nguyên của sự xung đột pháp luật. Tính
thống nhất của pháp luật phản ánh tính thống nhất của hệ thống khách thể mà
pháp luật điều chỉnh.
- Bảo đảm tính ổn định của pháp luật: Đây là tiêu chí thể hiện sự tồn
tại ổn định của các quy phạm pháp luật, tính dự đoán cao của nhà làm luật
trong việc thiết kế các mô hình điều chỉnh các quan hệ xã hội. Đây là yêu
cầu cần thiết, bởi không thể thường xuyên đảo lộn các quan hệ xã hội bằng
việc thay đổi pháp luật.
- Bảo đảm tính khả thi của pháp luật: Đặc điểm này của có nghĩa là các
quy định pháp luật phải có khả năng thực hiện được trên thực tế. Tính khả thi
của pháp luật đòi hỏi các quy định pháp luật phải được ban hành phù hợp với
trình độ phát triển của đất nước ở từng giai đoạn phát triển nhất định. Nếu các
quy định pháp luật được ban hành quá cao hoặc quá thấp so với các điều kiện
phát triển của đất nước thì đều không đảm bảo chất lượng của pháp luật.
Trong những trường hợp như vậy có thể là các quy định của pháp luật sẽ
không có khả năng thực hiện được, hoặc thực hiện không triệt để, không
nghiêm, không phát huy hết vai trò, tác dụng của pháp luật đối với đời sống.
Khả năng có thể thực hiện được của pháp luật còn thể hiện ở việc các
quy định pháp luật phải được ban hành kịp thời, đáp ứng những nhu cầu mà
32. 26
cuộc sống đang đặt ra, đồng thời phải phù hợp với cơ chế thực hiện và áp
dụng pháp luật hiện hành. Vì vậy, khi ban hành pháp luật cần phải xem xét tới
điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước có cho phép thực hiện
được quy định hoặc văn bản pháp luật đó hay không, đồng thời phải tính đến
các điều kiện khác (như tổ chức bộ máy nhà nước, trình độ của đội ngũ cán
bộ, công chức có cho phép thực hiện được không, dư luận xã hội ủng hộ hay
không ủng hộ việc tiếp nhận quy định hoặc văn bản pháp luật đó, trình độ văn
hoá và kiến thức pháp lý của nhân dân...). Pháp luật phải đưa ra được phương
án tốt nhất với phương pháp điều chỉnh pháp luật phù hợp nhất, để thông qua
đó có thể đạt được mục đích điều chỉnh trong điều kiện kinh tế - xã hội khi
pháp luật được ban hành.
- Bảo đảm tính công khai, minh bạch của pháp luật: Công khai, minh
bạch của pháp luật nói chung cũng như trong xây dựng và ban hành văn bản
QPPL là việc cần được hết sứ c quan tâm chú trọng. Việc công khai, minh bạch
từ khâu soạn thảo cho đến khâu ban hành không những giúp cho người dân
sớm biết được định hướng chính sách, pháp luật trong tương lai để chuẩn bị các
điều kiện cho việc thực hiện, mà còn là một trong những kênh để người dân có
thể tham gia vào hoạt động xây dựng thể chế, làm cho pháp luật phản ánh được
sát hơn ý chí, nguyện vọng của nhân dân.
Trong nhà nước pháp quyền, yêu cầu đặt ra đối với pháp luật là không
thể thiếu được tính công khai, minh bạch, sự tham gia của công chúng trong
hoạch định chính sách, pháp luật. Yêu cầu dân chủ hóa, công khai hóa và
minh bạch hóa trong hê ̣thống văn bản QPPL là hợp lý và trước hết đó là đòi
hỏi trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay.
- Bảo đảm quyền con người, sự tiến bộ của xã hội, bảo vệ công lý và lẽ phải
Quyền con người là một phạm trù đa diện, hiểu theo nghĩa chung nhất,
đó là “những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người được ghi nhận
và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế” [11].
33. 27
Quyền con người có thể nhìn nhận từ nhiều góc độ khác nhau như đạo đức,
tôn giáo, xã hội… nhưng có mối liên hệ gần gũi hơn cả với pháp luật. Hầu hết
những nhu cầu vốn có, tự nhiên của con người không thể được bảo đảm đầy
đủ nếu không được ghi nhận bằng pháp luật.
Quyền con người được gắn liền với quyền công dân và không có sự
tách biệt hoàn toàn. Quyền công dân là một bộ phận của quyền con người
được pháp luật quốc gia ghi nhận và bảo vệ. Quyền con người và quyền
công dân trong mối quan hệ thống nhất biện chứng đều ghi nhận các quyền
của cá nhân. Song, không thể đồng nhất hai khái niệm đó xét cả hai phương
diện chủ thể của quyền và khái niệm của quyền. Quyền con người là khái
niệm rộng hơn, nó vừa ghi nhận trạng thái pháp lý về quyền cá nhân ở phạm
vi quốc tế, vừa là quyền công dân ở trong phạm vi từng quốc gia nhất định.
Một mặt, quyền con người không loại trừ khái niệm quyền công dân, bao
hàm quyền công dân như là một bộ phận, nội dung cơ bản của quyền con
người, mặt khác cũng không thể thay thế khái niệm đó. Ngược lại, quyền
công dân là khái niệm hẹp hơn. Trong ý nghĩa pháp lý, khái niệm quyền
công dân hẹp hơn chỉ trong phạm vi từng quốc gia nhất định, không bao quát
hết các quyền của cá nhân con người. Về phương diện chủ thể, quyền con
người ngoài những cá nhân được xác định là công dân, còn những người
không phải là công dân nước đó (người nước ngoài, người không có quốc
tịch, người bị pháp luật tước quyền công dân), những người này tuy không
được hưởng các quyền công dân nhưng vẫn có các quyền về con người với
tư cách là một thực thể tự nhiên - xã hội. Ngày nay, với sự phát triển của giá
trị nhân đạo, cộng đồng quốc tế ngày càng quan tâm và có ảnh hưởng nhiều
hơn trên lĩnh vực quyền con người, con người không chỉ tồn tại với tư cách
là một công dân của một quốc gia mà còn là thành viên của cộng đồng quốc
tế. Ở một mức độ nhất định thì trong mỗi nước, việc ghi nhận và bảo vệ
34. 28
quyền công dân tức là đã ghi nhận và bảo vệ quyền con người nói chung
được pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế ghi nhận.
Trong nhà nước pháp quyền, các quyền con người được pháp luật ghi
nhận, bảo đảm thực hiện và được bảo vệ không bị xâm phạm. Các quyền con
người trở thành đối tượng bảo đảm trong việc ghi nhận về pháp lý, trong hoạt
động thi hành pháp luật và xử lý vi phạm pháp luật của nhà nước.
Quyền con người được chia thành các nhóm cơ bản: các quyền chính
trị, các quyền dân sự, các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội.
- Quyền con người về chính trị: bao gồm quyền tham gia quản lý nhà
nước và thảo luận các vấn đề chung của cả nước, quyền bầu cử và ứng cử,
quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, quyền lập
hội, quyền được thông tin, quyền biểu tình, quyền bình đẳng nam nữ,
quyền khiếu nại, tố cáo v.v…;
- Quyền con người về dân sự: bao gồm quyền bất khả xâm phạm về
thân thể, về chỗ ở, quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, nhân
phẩm, danh dự, quyền được bảo đảm an toàn và bí mật về thư tín, điện thoại,
điện tín, quyền tự do đi lại và cư trú v.v…;
- Quyền con người về kinh tế, văn hóa, xã hội: bao gồm quyền học tập,
lao động, quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu tài sản hợp pháp, quyền phát
minh, sáng chế, quyền được bảo vệ sức khỏe, quyền được bảo hộ về hôn nhân,
gia đình, các quyền của các đối tượng đặc biệt như thương binh, bệnh binh, gia
đình liệt sĩ, người già, trẻ em, người tàn tật không nơi nương tựa v.v…
Nếu căn cứ vào mức độ điều chỉnh của pháp luật, quyền con người
được phân thành các quyền cơ bản và các quyền pháp lý khác:
- Quyền cơ bản của công dân: là các quyền quan trọng nhất, cơ bản
nhất thể hiện mối quan hệ cơ bản nhất giữa Nhà nước và công dân được ghi
nhận trong hiến pháp, làm cơ sở cho việc cụ thể hóa các quyền pháp lý khác.
35. 29
Trong Hiến pháp nước ta, các quyền cơ bản của công dân được quy định tại
Chương II bao gồm các quyền chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội.
- Quyền pháp lý khác: là sự cụ thể hóa các quyền cơ bản của công dân
trong các lĩnh vực pháp lý khác nhau được ghi nhận trong các văn bản pháp
luật cụ thể, trong từng lĩnh vực (hình sự, dân sự, hành chính, kinh tế…). Các
quyền con người cụ thể này được cụ thể hóa trên cơ sở các quyền cơ bản và
không trái với các quyền cơ bản được hiến pháp quy định. Quyền con người
và việc bảo đảm các quyền con người trong các lĩnh vực pháp lý cụ thể được
quy định phụ thuộc vào tính chất của ngành luật và chức năng của nhà nước
trong lĩnh vực đó.
Các quyền con người liên quan rất chặt chẽ với nhau, trong đó các quyền
cơ bản được hiến pháp quy định đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Chúng có tác
động quyết định đến việc bảo đảm thực hiện các quyền con người khác.
Ở Việt Nam, con người được đặt vào vị trí trung tâm trong mọi chính
sách kinh tế, xã hội và được tạo mọi điều kiện phát triển. Đảng ta đã xác định:
Mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con người.
Chiến lược kinh tế - xã hội đặt con người vào vị trí trung tâm; lợi ích của mỗi
người, của từng tập thể và của toàn xã hội gắn bó hữu cơ với nhau, trong đó
lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp. Điều 2 và Điều 3 Hiến pháp cũng ghi
nhận: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nhà nước
bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân ; công nhâ ̣n, tôn trọng, bảo
vê ̣và bảo đảm quyền con người , quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. Như vậy, trong nhà
nước pháp quyền, các quyền con người không chỉ được ghi nhận về mặt pháp
lý mà còn được bảo đảm thực hiện trên thực tế.
36. 30
Trong nhà nước pháp quyền, mối quan hệ qua lại giữa nhà nước và
công dân là quan hệ bình đẳng và trên cơ sở pháp luật. Quyền và nghĩa vụ của
nhà nước và công dân đều phải được pháp luật quy định rõ ràng, minh bạch.
Công dân có trách nhiệm với nhà nước như thế nào thì nhà nước cũng phải có
trách nhiệm trước công dân như thế, nhà nước không dùng pháp luật để cai trị
mà quản lý xã hội bằng pháp luật. Quan hệ giữa nhà nước và công dân phụ
thuộc rất nhiều vào bản chất của nhà nước. Ở nước ta, bản chất giai cấp, dân
tộc, dân chủ, nhân dân và nhân đạo của Nhà nước quy định tính chất, nội
dung và hình thức mối quan hệ qua lại giữa Nhà nước và công dân. Hiến pháp
nước ta đã thể hiện được các nguyên tắc về mối quan hệ giữa Nhà nước và
công dân. Trong đó, một số nguyên tắc quan trọng cần được tuân thủ tuyệt đối
trong quá trình thực hiện mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân, cụ thể:
Thứ nhất: trong Nhà nước pháp quyền Việt Nam, các quyền con người
được tôn trọng và bảo vệ. Nhà nước không chỉ quy định các quyền con người,
mà quan trọng là có hệ thống các bảo đảm để công dân thực hiện các quyền
đó trên thực tế, đồng thời áp dụng các biện pháp khác nhau để xử lý các hành
vi vi phạm quyền con người.
Thứ hai: Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân.
Pháp luật không chỉ quy định quyền mà cả quy định nghĩa vụ của công dân.
Nhà nước một mặt bảo đảm để công dân thực hiện các quyền của mình trên
thực tế nhưng Nhà nước cũng có quyền đòi hỏi công dân phải thực hiện nghĩa
vụ của mình trước Nhà nước và xã hội. Công dân không thực hiện nghĩa vụ
của mình phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước. Mối quan hệ qua lại này đảm
bảo một xã hội có trật tự, kỷ cương; đảm bảo cho việc Nhà nước quản lý xã
hội bằng pháp luật.
Thứ ba: Quyền và nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và luật quy
37. 31
định. Trong một nhà nước mà pháp luật có vị trí tối cao, quan hệ giữa nhà
nước và công dân phải được điều chỉnh bằng pháp luật. Các quyền và nghĩa
vụ công dân được quy định cụ thể trong các văn bản QPPL có hiệu lực cao là
hiến pháp và luật.
Trên đây là những yêu cầu cơ bản của pháp luật trong nhà nước pháp
quyền. Trong nhà nước pháp quyền XHCN thì pháp luật không những chỉ chú
trọng bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của nhân dân và công lý mà còn phải
chú trọng đến sự bình đẳng xã hội và công bằng xã hội. Pháp luật trong nhà
nước pháp quyền XHCN không chỉ bảo đảm cá nhân, tổ chức cùng tồn tại
trong sự hoà hợp và tự do mà cả trong sự bình đẳng, công bằng xã hội, chống
lại mọi sự phân biệt đối xử, phân biệt giàu nghèo và nhất là sự thống trị của
chủ nghĩa tự do cực đoan...
38. 32
Chương 2
THỰC TRẠNG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Quan niệm về hệ thống pháp luật
Hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về hệ thống pháp luật. Theo
quan niệm truyền thống thì “Hệ thống pháp luật là tổng thể các quy phạm
pháp luật có mối liên hệ nội tại thống nhất với nhau, được phân định thành
các chế định pháp luật, các ngành luật và được thể hiện trong các văn bản do
nhà nước ban hành theo những trình tự, thủ tục và hình thức nhất định” [21].
Theo cách hiểu này hệ thống pháp luật được cấu thành từ tổng thể các quy
phạm pháp luật, không bao gồm các yếu tố đảm bảo thực thi pháp luật (các
thiết chế, nguồn nhân lực thực thi pháp luật…). Quan điểm khác lại cho rằng
hệ thống pháp luật còn bao gồm các học thuyết, các nguyên tắc pháp lý và các
nguồn luật bất thành văn khác… Mỗi quan niệm đều có vai trò và ý nghĩa
nhất định về mặt lý luận và thực tiễn.
Trong nội dung đề tài, tác giả tiếp cận hệ thống pháp luật theo quan niệm
truyền thống, tức là hệ thống pháp luật là tổng thể các quy phạm pháp luật.
2.2. Thực trạng hệ thống pháp luật Việt Nam
2.2.1. Đánh giá khái quát hệ thống pháp luật Việt Nam trước khi có
Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến
lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010,
định hướng đến năm 2020
- Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới (năm 1986) dưới sự lãnh đạo của
Đảng, Nhà nước ta đã từng bước xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật,
góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam
XHCN, hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, cải
cách hành chính, cải cách tư pháp. Pháp luật đã bước đầu trở thành công cụ
39. 33
chủ yếu để quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Nguyên tắc nhà nước pháp
quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng đã từng bước được đề cao và phát huy hiệu
quả trên thực tế.
- Chúng ta đã xây dựng được một số luật tạo hành lang pháp lý cho
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; chế độ sở hữu và các
hình thức sở hữu, địa vị pháp lý của các doanh nghiệp, thương gia, quyền tự
do kinh doanh và tự do hợp đồng, các cơ chế khuyến khích và bảo đảm đầu
tư, khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội đã từng bước được
xác lập. Nhìn chung các thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN đã bước
đầu hình thành. Các quy định mang tính hành chính, mệnh lệnh điều chỉnh
các quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại đang từng bước được thay thế bằng
các quy định phù hợp với luật dân sự và tập quán truyền thống góp phần làm
giảm thiểu đáng kể sự can thiệp bằng các biện pháp hành chính của các cơ
quan nhà nước vào các quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại nói chung và hoạt
động của các doanh nghiệp nói riêng, giảm thiểu cơ chế xin cho; chế độ nhà
nước độc quyền về ngoại thương được xoá bỏ; nguyên tắc công dân được làm
tất cả những gì mà pháp luật không cấm trong hoạt động kinh doanh từng
bước được xác lập.
Trong lĩnh vực hành chính, nhà nước đã có những đổi mới tích cực về
pháp luật. Chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước, nhiệm vụ, quyền
hạn của công chức, nội dung và trách nhiệm công vụ từng bước được phân
định rành mạch, rõ ràng hơn; thủ tục hành chính bước đầu cải cách theo
hướng đơn giản, công khai, dễ tiếp cận, dễ kiểm tra, giám sát đã đạt được
những kết quả bước đầu tích cực; các dịch vụ công đang dần dần được xác
lập, từng bước đáp ứng nhu cầu của nhân dân và yêu cầu của cải cách hành
chính; lần đầu tiên hoạt động giám sát của Quốc hội và hội đồng nhân dân các
cấp được luật hoá bước đầu nâng cao hiệu lực và hiệu quả giám sát của Quốc
hội và hội đồng nhân dân các cấp.
40. 34
Pháp luật về lao động, việc làm, an sinh xã hội và các lĩnh vực xã hội
khác đã được quan tâm xây dựng, góp phần phát triển kinh tế đi đôi với hạn
chế những tiêu cực của nền kinh tế thị trường. Chủ trương, chính sách xoá đói
giảm nghèo, công bằng xã hội, đền ơn đáp nghĩa đã được thể chế hoá thành
luật và pháp lệnh.
Pháp luật trong lĩnh vực an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội
được tăng cường, góp phần giữ vững ổn định chính trị, phòng chống tội phạm
và vi phạm pháp luật.
Chủ trương dân chủ hoá mọi mặt đời sống xã hội đã được thể chế hoá
một bước quan trọng. Hoạt động của các cơ quan nhà nước đổi mới theo
hướng dân chủ hơn; phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”
đã được cụ thể hoá bằng pháp luật và từng bước được khẳng định trong thực
tế, tạo điều kiện để nhân dân tham gia và thực hiện quyền giám sát đối với
hoạt động của các cơ quan nhà nước, trong đó có quyền khởi kiện công chức
nhà nước và cơ quan nhà nước trước toà án. Vai trò của báo chí và các
phương tiện thông tin đại chúng, của các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội -
nghề nghiệp ngày càng được tăng cường.
Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, phát triển giáo dục - đào
tạo, khoa học - công nghệ và bảo vệ môi trường bước đầu được bảo đảm bằng
pháp luật. Quan điểm về phát triển bền vững với sự kết hợp hài hoà phát triển
kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường đang được xác lập và từng
bước được thể chế hoá bằng pháp luật.
Nhà nước đã ký kết hoặc gia nhập nhiều điều ước quốc tế phục vụ chủ
trương mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Pháp
lệnh về ký kết và thực hiện điều ước quốc tế năm 1998 đánh dấu một bước
phát triển quan trọng đưa việc ký kết và thực hiện điều ước quốc tế vào nền
nếp. Điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập trở thành một bộ
phận không thể tách rời sự phát triển của hệ thống pháp luật.
41. 35
- Công tác soạn thảo, thẩm định và ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật dần dần đi vào nền nếp, theo một quy trình thống nhất do luật định;
các tổ chức, công dân chịu sự tác động trực tiếp của văn bản đã được tạo điều
kiện tham gia đóng góp ý kiến vào các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật
ngày càng đông đảo và thực chất hơn. Chất lượng văn bản pháp luật được cải
thiện một bước quan trọng.
Hoạt động kiểm tra, rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp
luật được triển khai trên diện rộng và đang trở thành một trong những
nhiệm vụ thường xuyên của các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa
phương. Hoạt động pháp điển hoá bước đầu được chú trọng, một số lĩnh
vực quan trọng của đời sống xã hội đã được điều chỉnh bằng bộ luật, luật
và pháp lệnh; đã từng bước phân định rõ hơn chức năng lập pháp và chức
năng hành pháp của Nhà nước.
- Hoạt động thông tin, phổ biến và giáo dục pháp luật có sự chuyển
biến tích cực, đáp ứng tốt hơn các nhu cầu đa dạng về thông tin pháp luật
của công dân, tổ chức, góp phần từng bước nâng cao ý thức pháp luật của
cán bộ, nhân dân.
Các cơ sở dữ liệu pháp luật bước đầu được hình thành, đáp ứng tốt hơn
nhu cầu thông tin của tổ chức, doanh nghiệp và nhân dân; Giáo dục pháp luật
được đưa vào trường học. Hầu hết các xã, phường, thị trấn trong cả nước có
tủ sách pháp luật, bước đầu phát huy tác dụng trong công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật.
Hoạt động tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý và hoà giải được đẩy
mạnh. Trung tâm trợ giúp pháp lý được thiết lập ở tất cả các tỉnh, thành phố.
Tổ chức và hoạt động của các tổ hoà giải ở cơ sở được kiện toàn, phát huy tác
dụng tích cực trong việc giáo dục pháp luật cũng như giải quyết các vi phạm
pháp luật nhỏ và tranh chấp trong nội bộ nhân dân.
42. 36
- Để pháp luật đi vào cuộc sống và trở thành công cụ quản lý của nhà
nước, là phương tiện tổ chức đời sống và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
cá nhân, tổ chức, tất cả các giai đoạn, các hình thức thực hiện pháp luật đã
ngày càng được coi trọng. Cùng với việc nâng cao hiểu biết và ý thức tôn
trọng pháp luật của cán bộ, nhân dân, bước đầu xác lập nhận thức của xã hội
về nguyên tắc "cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp được làm những gì luật
không cấm; cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước chỉ được làm những gì
luật cho phép".
Trong hệ thống hành pháp, tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành
chính nhà nước trung ương đã được điều chỉnh một bước theo hướng tập
trung thực hiện chức năng quản lý vĩ mô và phân cấp mạnh cho địa phương.
Quyền tự chủ của tổ chức và doanh nghiệp từng bước được xác định. Cải cách
hành chính với bước đột phá là cải cách thủ tục hành chính được triển khai
trên một số lĩnh vực theo hướng đơn giản, công khai, dễ tiếp cận, dễ kiểm tra
và giám sát. Việc thí điểm mô hình “một cửa” đang được dư luận đồng tình
và đang được tổng kết rút kinh nghiệm cho các bước cải cách hành chính tiếp
theo. Việc chuyển đổi từ chế độ cấp phép sang đăng ký kinh doanh tạo thuận
lợi cơ bản cho các doanh nghiệp mở rộng kinh doanh. Các cơ quan nhà nước,
cán bộ, công chức có trách nhiệm hơn trước dân trong hoạt động của mình
phục vụ và đáp ứng tốt hơn các yêu cầu của tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân.
Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân đã được quan tâm và có
những chuyển biến tích cực. Số lượng các đơn thư khiếu nại tố cáo được các
cơ quan nhà nước xem xét, giải quyết và trả lời đạt tỷ lệ cao hơn trước.
Lĩnh vực tư pháp tuy chưa được đổi mới đồng bộ với cải cách hành
chính và đổi mới hoạt động lập pháp nhưng cũng đã có thành tựu bước đầu
quan trọng. Vị trí, vai trò của các cơ quan tư pháp được đề cao. Đã có những
điều chỉnh nhất định về tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của toà án, viện
43. 37
kiểm sát, các cơ quan điều tra, thi hành án, bổ trợ tư pháp. Nguyên tắc khi xét
xử, thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, được
quan tâm tạo điều kiện để hiện thực hoá. Hoạt động xét xử của toà án có sự
tham gia ngày càng nhiều của luật sư theo tinh thần tranh tụng. Việc giải quyết
các vụ án được tiến hành thận trọng, chính xác và khách quan hơn. Công tác thi
hành án phạt tù được cải thiện một bước, hệ thống trại giam được phân loại và
củng cố phù hợp hơn trước. Công tác thi hành án dân sự được tách khỏi chức
năng xét xử của toà án, chuyển giao sang Chính phủ. Hệ thống cơ quan thi
hành án dân sự được thành lập. Hoạt động bổ trợ tư pháp như luật sư, tư vấn
pháp luật, công chứng... được triển khai mạnh mẽ và rộng khắp, hỗ trợ công
dân, doanh nghiệp trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình,
góp phần bảo vệ công lý, bảo đảm an toàn về mặt pháp lý cho các giao dịch
dân sự, kinh tế. Trọng tài thương mại được thành lập và hoạt động góp phần
đảm bảo tốt hơn quyền tự định đoạt của doanh nghiệp trong lĩnh vực giải
quyết tranh chấp, qua đó hoàn thiện môi trường đầu tư, kinh doanh thêm một
bước. Công tác đào tạo luật, nghề luật, đào tạo các chức danh tư pháp, bồi
dưỡng nghiệp vụ pháp lý được coi trọng và phát triển mạnh, góp phần chuẩn
hoá cán bộ, công chức, từng bước nâng cao năng lực áp dụng và thi hành
pháp luật của đội ngũ cán bộ, công chức từ trung ương đến địa phương.
Hoạt động giám sát của Quốc hội và hội đồng nhân dân đối với việc thi
hành pháp luật từng bước được hiệu quả hơn. Nhiều kiến nghị qua giám sát đã
được Chính phủ và các cơ quan hữu quan tiếp thu, giải quyết. Thông qua hoạt
động giám sát, sự phối hợp giữa các cơ quan của Quốc hội, hội đồng nhân dân
với các cơ quan thi hành pháp luật ngày càng tốt hơn, nhất là trong việc thảo
luận, tìm biện pháp tháo gỡ những vướng mắc bảo đảm thi hành pháp luật có
hiệu quả hơn trong những lĩnh vực bức xúc mà xã hội quan tâm (như đất đai,
xây dựng, một số hoạt động tư pháp, thi hành án dân sự...).
44. 38
Để đạt được những thành tựu trên đây, trước hết là do nhận thức của các
tổ chức Đảng, Nhà nước và các tầng lớp nhân dân về vai trò của pháp luật trong
quản lý kinh tế - xã hội ngày càng được nâng lên; ý thức về các quyền cơ bản và
thực hiện các quyền, trong đó có các quyền dân chủ của công dân được coi
trọng. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật là nhiệm vụ vừa cơ bản, vừa
lâu dài và đã trở thành quyết tâm chính trị của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội.
Về mặt khách quan, những thành tựu trong lĩnh vực chính trị, kinh tế-
xã hội và các lĩnh vực khác đã tạo tiền đề vật chất và tinh thần quan trọng cho
việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Bối cảnh quốc tế tạo môi
trường hợp tác, cạnh tranh quyết liệt cũng đang thúc đẩy việc tập trung sức
thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, cải cách bộ máy nhà nước,
xây dựng và hoàn thiện pháp luật.
Mặc dù đã có những cố gắng và đạt được những kết quả quan trọng
trong xây dựng và thi hành pháp luật, nhưng nhìn chung hệ thống pháp luật
vẫn tồn tại nhiều yếu kém và bất cập. Trong gần hai mươi năm qua, hệ thống
pháp luật nước ta dù đã được đổi mới tương đối rõ nét, nhưng kết quả đạt
được mới chỉ là bước đầu. Nhìn chung, chất lượng của hệ thống pháp luật còn
hạn chế, còn chưa theo kịp và chưa đáp ứng đầy đủ cho nhu cầu phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; hệ thống các cơ quan thi hành và bảo vệ
pháp luật, đặc biệt là các cơ quan tư pháp chưa có những bước đột phá mạnh
mẽ; đội ngũ cán bộ, công chức còn nhiều yếu kém và hạn chế về trình độ,
chuyên môn, nghiệp vụ, tinh thần và trách nhiệm; ý thức sống và làm việc
theo pháp luật của cán bộ và nhân dân vẫn còn nhiều hạn chế.
2.2.2. Thực trạng hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay
2.2.2.1. Những thành tựu cơ bản đã đạt được
Ngày 24 tháng 5 năm 2005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 48-
NQ/TW về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
45. 39
đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. Đây là văn kiện của Đảng lần đầu
tiên đề cập chuyên sâu về công tác pháp luật của nước ta. Với Nghị quyết 48-
NQ/TW, chúng ta đã có một chiến lược dài hạn với những bước đi và giải pháp
tương đối cơ bản, đồng bộ cho việc xây dựng và thực thi pháp luật. Nghị quyết
số 48-NQ/TW ra đời đã tạo ra những chuyển biến tích cực trong nhận thức của
toàn xã hội về vị trí, vai trò của pháp luật và việc thi hành pháp luật trong đời
sống xã hội. Nghị quyết số 48-NQ/TW với những định hướng đúng đắn và các
giải pháp đồng bộ khi đi vào cuộc sống đã bước đầu tạo nên những chuyển
biến khá cơ bản, tích cực cả về nội dung, hình thức của hệ thống các văn bản
pháp luật và kỹ thuật lập pháp, làm cho hệ thống pháp luật ngày một hoàn thiện
hơn, đáp ứng tốt hơn các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội bền vững, hội nhập
quốc tế của đất nước.
Về nội dung văn bản: Các luật, pháp lệnh do Chính phủ chủ trì soạn
thảo và được Quốc hội ban hành đã bước đầu đáp ứng các tiêu chí của hệ thống
pháp luật về tính đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai và minh bạch. Các
văn bản pháp luật đã tập trung vào 6 định hướng được xác định trong Nghị
quyết số 48-NQ/TW thể hiện tư duy lập pháp mới, đảm bảo được sự phát triển
cân đối, đồng bộ giữa thể chế về kinh tế, chính trị, xã hội, môi trường, bảo vệ
quyền con người, phù hợp hơn với yêu cầu phát triển bền vững của đất nước.
Ví dụ cụ thể: xét ở góc độ hoạt động xây dựng pháp luật của Chính phủ
giai đoạn từ 2005-2010: có tổng số 124 luật, pháp lệnh do Quốc hội và Ủy ban
Thường vụ Quốc hội ban hành (đáp ứng khoảng trên 70% số lượng các văn bản
pháp luật mà Kế hoạch số 900/UBTVQH11 đề ra cho giai đoạn 2005-2012) đã
phủ đều trên các lĩnh vực, điều chỉnh được phần lớn các quan hệ xã hội cơ bản
của đời sống xã hội, trong đó có:
- 29 văn bản (chiếm 23,4%) thuộc lĩnh vực pháp luật về tổ chức và hoạt
động của các thiết chế trong hệ thống chính trị và pháp luật về bảo đảm quyền
con người, quyền tự do, dân chủ của công dân;