SlideShare a Scribd company logo
1 of 90
Download to read offline
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
*************
NGUYỄN THỊ THƠM
CĂN CỨ LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT
NAM NĂM 2014
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
*************
NGUYỄN THỊ THƠM
CĂN CỨ LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT
NAM NĂM 2014
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60 38 01 03
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Lan
HÀ NỘI - 2015
1
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong
Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví
dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy, tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội
xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Thị Thơm
2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 5
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CĂN CỨ LY HÔN.................. 11
1.1. Khái niệm về ly hôn và căn cứ ly hôn...............................................11
1.1.1. Khái niệm ly hôn .........................................................................11
1.1.2. Khái niệm căn cứ ly hôn.............................................................14
1.1.3. Ý nghĩa của việc quy định căn cứ ly hôn...................................15
1.2. Khái lược pháp luật Việt Nam về căn cứ ly hôn qua các giai đoạn
lịch sử ..........................................................................................................18
1.2.1. Căn cứ ly hôn theo pháp luật thời kỳ phong kiến. ....................19
1.2.2. Căn cứ ly hôn theo pháp luật thời kì Pháp thuộc......................21
1.2.3. Căn cứ ly hôn từ năm 1945 tới nay............................................23
1.2.4. Căn cứ ly hôn của luật hôn nhân gia đình từ năm 1975 đến nay.
26
1.3. Căn cứ ly hôn theo pháp luật của một số quốc gia............................30
1.3.1. Căn cứ ly hôn theo pháp luật nước Pháp ....................................30
1.3.2. Căn cứ ly hôn theo pháp luật Thái Lan.......................................30
CHƢƠNG 2: CĂN CỨ LY HÔN THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH ... 33
2.1. Căn cứ ly hôn trong trường hợp thuận tình ly hôn...........................33
2.2. Căn cứ ly hôn trong trường hợp ly hôn do một bên vợ hoặc chồng
yêu cầu.........................................................................................................39
2.2.1. Trường hợp có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia
đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm
cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể
kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. ................................40
3
2.2.2. Vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu
ly hôn51
2.3 Căn cứ ly hôn trong trường hợp ly hôn theo yêu cầu của cha, mẹ,
người thân thích khác ................................................................................53
CHƢƠNG 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CĂN CỨ LY HÔN VÀ MỘT SỐ
KIẾN NGHỊ................................................................................................... 60
3.1 Nhận xét chung.....................................................................................60
3.2. Thực tiễn áp dụng căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2014 qua một số vụ án cụ thể.............................................................71
3.3 Một sô kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh pháp luật về
căn cứ ly hôn...............................................................................................77
3.3.1 Hoàn thiện pháp luật về căn cứ ly hôn.............................................78
3.3.2. Nâng cao nhận thức, kỹ năng, nghiệp vụ cho cán bộ Tòa án........81
3.3.3 Nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật về ly hôn và căn cứ ly hôn
cho người dân .............................................................................................82
KẾT LUẬN.................................................................................................... 85
4
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
HN&GĐ : Hôn nhân và gia đình
TAND : Tòa án nhân dân
ThS : Thạc sỹ
TTDS : Tố tụng dân sự
BLDS : Bộ luật dân sự
5
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của nghiên cứu đề tài
Luật Hôn nhân và gia đình là một ngành luật trong hệ thống pháp luật
Việt Nam, được tạo thành bởi nhiều chế định khác nhau như chế định kết hôn,
chế định ly hôn nhằm điều chỉnh những quan hệ xã hội trong lĩnh vực hôn
nhân và gia đình như quan hệ nhân thân, quan hệ tài sản giữa vợ chồng, giữa
cha mẹ và con cái, giữa các thành viên trong gia đình với nhau. Tuy nhiên, so
với các quan hệ trong lĩnh vực pháp luật khác thì quan hệ pháp luật trong hôn
nhân gia đình đặc biệt hơn. Chế định Ly hôn được coi là chế định quan trọng,
thiết yếu của Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam.
Đời sống hôn nhân gia đình luôn là một vấn đề rất nhạy cảm và phức
tạp. Hiện nay, tình trạng ly hôn ngày càng có xu hướng tăng cao. Lĩnh vực
hôn nhân, gia đình đã được nhà nước ta quan tâm từ rất lâu thể hiện qua các
văn bản Luật điều chỉnh lĩnh vực này. Vậy Luật Hôn nhân & Gia đình 2014
thay thế cho Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã có những qui định như
thế nào về căn cứ ly hôn và việc áp dụng các thực tiễn này trong thực tiễn xét
xử ra sao?
Thực tiễn thời gian qua cho thấy, số lượng vụ án ly hôn xảy ra rất nhiều
và có xu hướng tăng mạnh, bên cạnh đó có nhiều vụ án chưa được xử lý, giải
quyết thỏa đáng, chưa đúng căn cứ lý hôn theo quy định của pháp luật hôn
nhân và gia đình Việt Nam. Có nhiều nguyên nhân của vấn đề này đó là:
chuyên môn nghiệp vụ chưa đồng đều, một số ít công chức chưa đạt chuẩn về
trình độ, chủ yếu mới qua tập huấn đào tạo, chế độ chính sách còn thấp. Việc
thực thi công vụ do đó vừa thiếu tính chuyên nghiệp, vừa không đáp ứng kịp
thời yêu cầu của người dân.
Khi đời sống hôn nhân không thể duy trì được nữa thì ly hôn là một
giải pháp cần thiết cho cả đôi bên vợ chồng cũng như cho xã hội . Ly hôn có
6
thể coi là điểm cuối của hôn nhân khi quan hê ̣này thực sự tan rã. Ly hôn giải
thoát cho các că ̣p vợchồng và những thành viên trong gia đình khỏi xung đột,
mâu thuẫn bế tắc trong cuộc sống . Dù quan hệ gia đình có đổ vỡ thì sự bình
đẳng về quyền và lợi ích giữa vợ và chồng vẫn được đảm bảo.
Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 ra đời đã bảo vệ quyền lợi của
mọi thành viên trong gia đình, hướng tới xây dựng hạnh phúc, mô hình xã hội
chủ nghĩa, là căn cứ để Tòa án giải quyết các vụ việc hôn nhân gia đình một
cách thâú tình đạt lý. Bằng các quy đi ̣nh về ly hôn, Nhà nước cũng hướng tới
bảo vệ lợi ích của gia đình, của xã hội khi xác định những điều kiện cho phép
chấm dứ t quan hê ̣hôn nhân trước pháp luâ ̣t, gọi chung là căn cứ ly hôn.
Tuy nhiên, căn cứ ly hôn hiện nay rất chung chung, khó xác định, ảnh
hưởng đến công tác xét xử ly hôn. Các căn cứ ly hôn được quy định tại điều
55 và Điều 56 của Luật HN&GĐ 2014 còn chưa cụ thể, và chưa có nghị định
hướng dẫn về việc áp dụng các căn cứ ly hôn đó. Bởi vậy, Với mong muốn
tìm hiểu rõ hơn về các căn cứ ly hôn, tác giả lựa chọn nội dung “Căn cứ ly
hôn theo Luật Hôn nhân và gia đìnhViệt Nam năm 2014” để phân tích làm
rõ nội dung của vấn đề căn cứ ly hôn, từ đó đưa ra các kiến nghị hoàn thiện
hơn quy định của pháp luật. Từ đó, bản thân tôi sẽ được nâng cao hiểu biết về
các căn cứ ly hôn theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình Việt
Nam. Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài sẽ có thể góp phần nâng cao hiệu quả
của pháp luật hôn nhân và gia đình nói chung và hoạt động giải quyết các vụ
án ly hôn nói riêng trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay cũng như tại các
địa phương khác ở nước ta.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề căn cứ ly hôn trong luật hôn nhân và gia đình Việt Nam cũng
đã và đang được nhắc tới khá nhiều trong các công trình nghiên cứu khoa học.
7
Một số công trình nghiên cứu khoa học đề cập sâu đến vấn đề về này phải kể
đến đó là:
Bài viết “Căn cứ ly hôn trong cổ luật Việt Nam”, thạc sỹ Nguyễn Thị
Thu Vân, tạp chí Nhà nước và pháp luật.- 8/2005.- Số 208.- Tr.55-61. Bài viết
đề cập đến diện mạo của căn cứ ly hôn trong cổ luật Việt Nam, giai đoạn
được tính từ khi ra đời Bộ luật Hồng Đức đến trước thời kỳ pháp thuộc, khi
pháp luật Việt Nam nói chung và căn cứ ly hôn nói riêng chịu ảnh hưởng sâu
sắc của học thuyết Nho giáo và tư tưởng pháp lý Trung Hoa.
Khóa luận tốt nghiệp “Căn cứ ly hôn: Quy định của pháp luật và thực
tiễn áp dụng”, tác giả Dương Thị Hồng Cẩm; Người hướng dẫn: ThS. Lê Thị
Mận - Tp. Hồ Chí Minh, 2013. 51tr.
Khoá luận tốt nghiệp “Căn cứ ly hôn theo quy định pháp luật hôn nhân
và gia đình Việt Nam hiện hành” của tác giả Nguyễn Thị Kim Oanh; Người
hướng dẫn: ThS.Lê Vĩnh Châu . Tp.Hồ Chí Minh, 2015. - 58tr.
Luận văn thạc sỹ: “Căn cứ ly hôn – một số vấn đề lý luận và thực tiễn
áp dụng tại Lạng Sơn”, của tác giả Nông Thị Nhung, năm 2014.
Như vậy, vấn đề căn cứ ly hôn trong luật hôn nhân và gia đình Việt
Nam đã được nghiên cứu khá nhiều trong các công trình nghiên cứu khoa
học. Đa phần các đề tài trên mới chỉ nghiên cứu các căn cứ ly hôn theo Luật
HN&GĐ năm 2000, hiện chưa có nhiều đề tài nghiên cứu tới căn cứ ly hôn
theo pháp luật HN&GĐ 2014.
Như vậy, đề tài “Căn cứ ly hôn theo Luật hôn nhân và gia đình Việt
Nam năm 2014 ” vẫn là một nội dung nghiên cứu khá mới mẻ. Vì vậy, em đã
lựa chọn đề tài này và lấy thực tiễn thành phố Hà Nội để làm luận văn tốt
nghiệp của mình.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
8
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài: Luật hôn nhân và gia đình
năm 2014 và các văn bản pháp luật có liên quan tới vấn đề ly hôn. Với việc đi
sâu nghiên cứu các quy định về ly hôn của các nước như Pháp, Thái Lan; ly
hôn theo pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ và các quy định hiện hành về ly
hôn, thực tế giải quyết các vụ án về ly hôn để cho thấy sự thừa kế, phát triển
cũng như những bất cập của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, đồng thời
so sánh Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 với Luật hôn nhân và gia đình
năm 2000, để từ đó có những nhận xét, những kiến nghị phù hợp, nhằm đóng
góp ý kiến về những mặt ưu điểm và hạn chế của Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2014.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là vấn để về căn cứ ly hôn theo pháp luật
Việt Nam – một đề tài không bao gồm giải quyết việc ly hôn có yếu tố nước
ngoài và không nghiên cứu trình tự, thủ tục tố tụng về ly hôn. Luận văn
nghiên cứu cơ sở lý luận của căn cứ ly hôn theo pháp luật hôn nhân và gia
đình Việt Nam năm 2014; làm rõ thực trạng ly hôn khi áp dụng căn cứ ly hôn;
đưa ra quan điểm, đề xuất giải pháp về căn cứ ly hôn để hoàn thiện hơn pháp
luật về hôn nhân và gia đình Việt Nam.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài khoa học được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác – Lê nin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử;
tư tưởng Hồ Chí Minh về gia đình, và đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà
nước.
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu khoa học đó là phương
pháp tư duy trừu tượng, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp,
phương pháp quy nạp và diễn dịch, phương pháp hệ thống và phương pháp so
sánh.
9
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là dựa trên cơ sở cac squy định
của Luật Hôn nhân và gia đình về ly hôn, có sự kết hợp với các thủ tục giải
quyết các vụ việc ly hôn để phân tích, đánh giá, từ đó kiến nghị nhằm hoàn
thiện vấn đề ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam.
Luận văn thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu những vấn đề khái quát chung về ly hôn như: khái
niệm ly hôn, căn cứ ly hôn, tìm hiểu một cách đầy đủ có hệ thống về chế định
ly hôn trong pháp luật Việt Nam qua các giai đoạn phát triển.
- Nghiên cứu những vấn đề về căn cứ ly hôn, đồng thời so sánh
căn cứ ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 với Luật hôn nhân và
gia đình năm 2014. Từ đó rút ra những nhận xét về căn cứ ly hôn, những ưu
điểm và hạn chế của quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam.
- Nghiên cứu phân tích thực trạng về việc thực hiện các căn cứ ly
hôn của các quy định của pháp luật thông qua một số vụ án điển hình, đồng
thời đưa ra các kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện hơn các quy định của
pháp luật về căn cứ ly hôn trong pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam.
6. Điểm mới của Luận văn
Luận văn phân tích được những căn cứ ly hôn theo luật hôn nhân và gia
đình năm 2014. Ngoài ra, Luận văn đưa ra được những vấn đề thực tiễn, khó
khăn và tồn tại của căn cứ ly hôn, cũng như những ưu điểm, hạn chế của các
quy định về căn cứ ly hôn theo pháp luật hôn nhân và gia đình năm 2014 so
với Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Đặc biệt, bài viết đi sâu vào phân
tích các căn cứ ly hôn, nhận xét đưa ra những ưu điểm, hạn chế của các quy
định về căn cứ ly hôn. Trên cơ sở đó, đưa ra các quan điểm, giải pháp về căn
cứ ly hôn theo pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam.
10
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được chia thành 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về căn cứ ly hôn.
Chương 2: Căn cứ ly hôn theo pháp luật hiện hành.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng căn cứ ly hôn và một số kiến nghị.
11
CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CĂN CỨ LY HÔN
1.1. Khái niệm về ly hôn và căn cứ ly hôn
1.1.1. Khái niệm ly hôn
Cuộc sống vợ chồng thường xuyên xảy ra những xung đột, mâu thuẫn
sâu sắc đến mức họ không thể chung sống với nhau nữa. Ly hôn là giải pháp
cho cả vợ và chồng cùng các thành viên khác khi mà tình cảm vợ chồng đã
thực sự tan vỡ.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác –Lênin, quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lênin thể hiện quyền tự do kết hôn của nam nữ nhằm xác lập quan hệ
vợ chồng và quyền tự do ly hôn của vợ chồng nhằm chấm dứt quan hệ vợ
chồng và quyền tự do ly hôn theo đúng bản chất của một sự kiện – đó là hôn
nhân "đã chết", sự tồn tại của nó chỉ là bề ngoài và lừa dối.
Pháp luật về ly hôn của mỗi nước trên thế giới là khác nhau. Pháp luật
của Nhà nước xã hội chủ nghĩa công nhận quyền tự do ly hôn chính đáng của
vợ chồng, không cấm hoặc đặt ra những những điều kiện nhằm hạn chế quyền
tự do ly hôn. Pháp luật của nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản quy định có
thể cấm ly hôn, không quy định căn cứ ly hôn mà chỉ công nhận quyền vợ
chồng được sống tách biệt nhau bằng chế định ly thân; bằng hạn chế quyền ly
hôn theo thời gian xác lập quan hệ hôn nhân; theo độ tuổi của vợ chồng; và
thường quy định xét xử ly hôn dựa trên cơ sở lỗi của vợ, chồng hay của cả hai
vợ chồng. Một số nước Châu Âu mới từ bỏ quan niệm cấm ly hôn cách đây
không lâu: ở Ý từ năm 1975, ở Tây Ban Nha từ năm 1982,... hay ở các nước
theo đạo Thiên Chúa, với quan niệm sự gắn bó giữa vợ chồng để trở nên một
là do Thiên Chúa thiết lập. Bởi đó, “Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người
không được phân ly”, vì phá đổ sự kết hợp này chính là phá đổ công trình của
12
Thiên Chúa, là bôi bác hình ảnh của Thiên Chúa đã có đó trong cuộc sống
hôn nhân.
Theo từ điển luật học của Viện khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp, ly hôn
được hiểu là: “chấm dứt quan hệ vợ chồng do Tòa án nhân dân công nhận
hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng”[31,
Tr. 460]. Cách giải thích này được sử dụng nhiều trong các nghiên cứu, giải
thích cho các đương sự liên quan trong thực tiễn giải quyết vụ việc ly hôn.
Theo khái niệm này, ly hôn được phản ánh rõ nét, đó là việc “chấm dứt quan
hệ vợ chồng”, nghĩa là giữa hai bên vợ chồng không còn tồn tại quan hệ hôn
nhân, mọi quyền và nghĩa vụ của hai bên sẽ được pháp luật giải quyết thỏa
đáng, đảm bảo quyền lợi cho các bên.
Theo Lê-nin: “thực ra tự do ly hôn tuyệt không có nghĩa là làm “tan
rã” những mối liên hệ gia đình mà ngược lại, nó củng cố những mối liên hệ
đó trên những cơ sở dân chủ, những cơ sở duy nhất có thể có và vững chắc
trong một xã hội văn minh” [32, Tr. 355], Theo quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lênin, ly hôn là hiện tượng xã hội mang tính giai cấp sâu sắc. Trong
từng giai đoạn phát triển của lịch sử, ở mỗi chế độ xã hội khác nhau, giai cấp
thống trị đều thông qua Nhà nước, bằng pháp luật (hay tục lệ) quy định chế
độ hôn nhân phù hợp với ý chí của Nhà nước. Tức là Nhà nước bằng pháp
luật quy định những điều kiện nào xác lập quan hệ vợ chồng, đồng thời xác
lập trong những điều kiện căn cứ nhất định mới được phép xóa bỏ (chấm dứt)
quan hệ hôn nhân.
Trong khoa học pháp lý nói chung và khoa học Luật hôn nhân và gia
đình nói riêng, việc đưa ra khái niệm đầy đủ về ly hôn có ý nghĩa quan trọng,
phản ánh quan điểm chung nhất của nhà nước ta về ly hôn, tạo cơ sở lý luận
cho việc xác định bản chất pháp lý của ly hôn, xác định nội dung, phạm vi
13
điểu chỉnh của các quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình về ly hôn và các
vấn đề phát sinh khác.
Điều 8 Khoản 8 Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 quy
định: “8. Ly hôn là chấm dứt quan hệ hôn nhân do Tòa án công nhận hoặc
quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc của chồng hoặc cả hai vợ chồng;”.
Điều 3 Khoản 14 Luât Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014 quy
định: “Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có
hiệu lực pháp luật của Tòa án”.
Nhìn chung, khái niệm ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014
có sự thay đổi cơ bản so với khái niệm ly hôn trong Luật hôn nhân và gia đình
năm 2000. Tuy nhiên, về bản chất, hai điều luật đó đều phản ánh được ly hôn
là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng, quan hệ hôn nhân, để giúp các bên trong
quan hệ hôn nhân được giải thoát khỏi tình trạng hôn nhân đổ vỡ. Khái niệm
ly hôn trong luật hôn nhân và gia đình năm 2014 mang tính chất chặt chẽ hơn
khi đề cập tới nội dung: “bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa
án”. Thông qua đó để phản ánh tính quyền lực của nhà nước, cũng như phản
ánh bản chất của ly hôn nói riêng là mang tính chất giai cấp.
Tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền xét xử, có vai trò quan trọng
trong việc đóng góp phần tuân thủ, chấp hành các quy định của pháp luật.
phán quyết ly hôn của Tòa án thể hiện dưới hình thức: bản án, quyết định.
Nếu hai bên vợ chồng thuận tình ly hôn, giải quyết với nhau được tất cả các
nội dung sau khi ly hôn thì Tòa án công nhận ly hôn và ra quyết định dưới
hình thức quyết định công nhận thuận tình ly hôn. Nếu vợ chồng mâu thuẫn,
tranh chấp thì Tòa án xét xử và ra phán quyết ly hôn dưới dạng bản án.
Việc giải quyết ly hôn là tất yếu đối với quan hệ hôn nhân đã thực sự
tan vỡ, điều đó là hoàn toàn có lợi cho vợ, chồng, con cái và các thành viên
trong gia đình. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực của việc ly hôn, thì ly
14
hôn có nhiều điểm tiêu cực: gây chia rẽ quan hệ gia đình, gây ảnh hưởng trực
tiếp tới đời sống và tương lai của các thành viên, đặc biệt là các con, bên cạnh
đó còn ảnh hưởng tới xã hội.
Như vậy, ly hôn chính là sự kiện pháp lý làm chấm dứt quan hệ vợ
chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Ly hôn dựa
trên sự tự nguyện của vợ chồng, nó là kết quả của hành vi có ý chí của vợ
chồng khi thực hiện quyền ly hôn của mình.
1.1.2. Khái niệm căn cứ ly hôn
Hôn nhân là hiện tượng mang tính xã hội mang tính giai cấp sâu sắc. Ở
mỗi chế độ xã hội khác nhau, giai cấp thống trị đều thông qua nhà nước, bằng
pháp luật quy định chế độ hôn nhân phù hợp với lợi ích của giai cấp mình nhà
nước xác định rõ những trường hợp được phép kết hôn và những trường hợp
được phép ly hôn.
Nhà nước quy định những căn cứ để được kết hôn và những điều kiện
để được ly hôn, ý chí của các bên đương sự không phải là điều kiện quyết
định để phá bỏ hôn nhân mà việc ly hôn phải căn cứ vào điều kiện được quy
đinh trong Luật hôn nhân và gia đình, nó phản ánh hôn nhân không thể tồn tại
được nữa nghĩa là hôn nhân đã chết.
Việc quy định những căn cứ ly hôn phải phù hợp với bản chất của sự
việc, phù hợp với tình trạng thực tế của hôn nhân, phải xác định trong điều
kiện nào thì cuộc hôn nhân đã không còn tồn tại. Việc tòa án xét xử cho ly
hôn chỉ là công việc công nhận một thực tế khách quan là cuộc hôn nhân đó
không tồn tại nữa. Chính vì vậy mà căn cứ ly hôn là rất khó, nó đòi hỏi phải
hết sức khoa học, phù hợp với bản chất, đạo đức Nhà nước xã hội chủ nghĩa,
phù hợp với ý chí và nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân lao
động.
15
Như vậy, căn cứ ly hôn là những tình tiết hay các điều kiện pháp lý do
pháp luật quy định. Và chỉ khi có những tình tiết, hay điều kiện đó, thì Tòa án
mới quyết định cho vợ chồng ly hôn. Đó là điều kiện cần và đủ được quy định
một cách thống nhất trong pháp luật, dựa trên các điều kiện đó thì Tòa án cho
phép vợ chồng ly hôn.
1.1.3. Cơ sở và ý nghĩa của việc quy định căn cứ ly hôn
Hệ thống pháp luật Hôn nhân và gia đình của nhà nước ta từ năm 1945
đến nay đã quy định căn cứ ly hôn ngày càng hoàn thiện, phù hợp, là cơ sở
pháp lí để tòa án giải quyết các án kiện ly hôn.
Cơ sở để quy định căn cứ ly hôn theo quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin thể hiện quyền tự do kết hôn
của nam nữ nhằm xác lập quan hệ vợ chồng và quyền tự do ly hôn của vợ
chồng nhằm chấm dứt quan hệ vợ chồng và quyền tự do ly hôn theo đúng bản
chất của một sự kiện – đó là hôn nhân "đã chết", sự tồn tại của nó chỉ là bề
ngoài và lừa dối. Đương nhiên, không phải ý chí của nhà lập pháp, cũng phải
sự tùy tiện của các cá nhân, mà chỉ bản chất của sự kiện mới quyết định được
cuộc sống hôn nhân này "đã chết" hay chưa... Nhà lập pháp chỉ có thể xác
định những điều kiện bản chất của mối quan hệ, theo đó những trường hợp
nào về mặt pháp lý hôn nhân được coi là sự tan vỡ nghĩa là về thực chất, hôn
nhân tự nó đã phá vỡ và việc tòa án cho phép phá bỏ hôn nhân chỉ là việc ghi
biên bản công nhận sự tan vỡ bên trong của nó và chỉ khi nào hôn nhân xét về
bản chất không còn là hôn nhân nữa, tòa án mới được xử cho ly hôn.
Hệ tư tưởng tôn giáo luôn có ảnh hưởng không nhỏ tới các quy định
của pháp luật, đặc biệt là vấn đề ly hôn là quan hệ tình cảm, bị chi phối bởi
các tư tưởng tôn giáo, xã hội đương thời. Đối với những nước chịu ảnh hưởng
16
của tôn giáo theo kinh thánh, hôn nhân là do sự tác hợp của Chúa – không thể
tự ý xóa bỏ nên nhiều nước chịu ảnh hưởng của tôn giáo không cho phép vợ
chồng ly hôn. Chế độ Ngô Đình Diệm với Luật gia đình năm 1959 quy định
vấn đề ly thân nhưng lại cấm ly hôn.
Căn cứ ly hôn được quy định trên cơ sở các điều kiện kinh tế, xã hội,
văn hóa trong từng thời kỳ lịch sử. Pháp luật phong kiến đề cao bảo vệ quyền
gia trưởng của người đàn ông, trách nhiệm của người đàn ông. Do đó, pháp
luật phong kiến luôn “trọng nam, khinh nữ” gây ra sự bất bình đẳng trong vấn
đề ly hôn giữa vợ và chồng. Căn cứ ly hôn trên cơ sở đạo đức Nho giáo, đặt ra
đối với người đàn ông với vai trò gia trưởng trong gia đình. Tới thời kỳ thực
dân Pháp, chủ nghĩa nhân dân ảnh hưởng tới từng gia đình, từng quy định
pháp lý. Luật cho phép thuận tình ly hôn trong trường hợp vợ chồng không
hợp tính tình. Nhiều quy định của pháp luật hôn nhân thời kỳ Pháp thuộc có
ảnh hưởng rất lớn tới đời sống nhân dân ta. Khi tới thời kỳ xã hội chủ nghĩa,
kinh tế phát triển, vị thế của người phụ nữ ngày càng được nâng cao. Các quy
định của pháp luật về ly hôn nói chung và căn cứ ly hôn nói riêng có sự quy
định cụ thể, rõ ràng hơn, bình đẳng hơn giữa vợ và chồng, nhằm bảo vệ quyền
lợi của các bên.
Sắc lệnh số 159/SL quy định căn cứ ly hôn vẫn dựa trên cơ sở “lỗi” của
vợ chồng. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 (Điều 26), Luật Hôn nhân và
gia đình năm 1986 (Điều 40), Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 (Điều 89)
và hiện nay là Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 (Điều 55 và Điều 56) đã
quy định căn cứ ly hôn theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin. Luật Hôn
nhân và gia đình Việt Nam trước đây không quy định những căn cứ ly hôn
riêng biệt mà quy định căn cứ ly hôn chung nhất, dựa vào bản chất của quan
hệ hôn nhân đã tan vỡ. Nhưng với Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đã có
17
sự lồng ghép quy định về căn cứ ly hôn vào quy định về thuận tình ly hôn
cũng như ly hôn theo yêu cầu của một bên.
Như vậy, căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 của
Nhà nước ta được quy định dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin,
từ thực tiễn kinh tế, văn hóa, xã hội. Các căn cứ ly hôn có cơ sở khoa học và
đã qua thực tiễn kiểm nghiệm trong mấy chục năm qua, từ khi Nhà nước ta
ban hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959.
Nhà nước quy định về căn cứ ly hôn, đây là căn cứ pháp lý, công vụ để
Tòa án có thể giải quyết yêu cầu ly hôn một cách chính xác và thỏa đáng. Quy
định căn cứ ly hôn trong pháp luật là cần thiết, có ý nghĩa quan trọng được thể
hiện trong một số nội dung sau:
Thứ nhất, quy định căn cứ ly hôn đảm bảo lợi ích của giai cấp thống trị,
của nhà nước, của xã hội trong việc điều chỉnh quan hệ gia đình, trong đó có
quan hệ vợ chồng. Xã hội muốn vững mạnh thì tế bào của xã hội – gia đình
phải ổn định. Nhà nước chỉ chấp nhận cho phép chấm dứt quan hệ hôn nhân
giữa vợ và chồng khi việc ly hôn không trái với lợi ích gia đình. Ví dụ: trong
pháp luật phong kiến, lợi ích của gia đình được chú trọng đứng trên lợi ích
của vợ và chồng, do đó, khi có căn cứ làm ảnh hưởng tới lợi ích của gia đình,
thì vợ chồng được ly hôn.
Thứ hai, căn cứ ly hôn đảm bảo sự công bằng về lợi ích giữa các bên
đương sự. Khi giải quyết ly hôn, cần hiểu điều đó nói lên một thực trạng hôn
nhân đã tan vỡ, quan hệ vợ chồng không thể tồn tại được nữa, vì “sự tồn tại
của nó chỉ là bề ngoài và giả dối” và ly hôn là một giải pháp tích cực để giải
phóng cho vợ chồng, đảm bảo lợi ích của vợ chồng, của gia đình và xã hội.
Ly hôn bảo đảm quyền lợi ích các bên, giải thoát xung đột, bế tắc trong đời
18
sống hôn nhân, đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của các bên trong quan
hệ hôn nhân.
Thứ ba, quy định căn cứ ly hôn giúp cho vợ chồng nhận thức, điều
chỉnh hành vi của mình để có thể tự dàn xếp, thỏa thuận để quan hệ vợ chồng
tốt đẹp hơn; hoặc đưa ra quyết định ly hôn. Thông qua đó, là biện pháp hữu
hiệu trong việc củng cố quan hệ gia đình, bảo vệ lợi ích chính đáng của các
đương sự và trên hết là bảo vệ cuộc hôn nhân đã được xác lập, vì chỉ có người
trong cuộc mới thực sự hiểu tình trạng thực tế của cuộc sống vợ chồng.
Thứ tư, căn cứ ly hôn là cơ sơ pháp lý để cơ quan có thẩm quyền xem
xét giải quyết việc ly hôn của vợ chồng khi có yêu cầu. Tòa án chỉ giải quyết
ly hôn khi việc ly hôn là cần thiết, phù hợp với thực tế của quan hệ vợ chồng
và đảm bảo sự thống nhất trong việc xét xử. Trường hợp Tòa án xét thấy quan
hệ hôn nhân của vợ và chồng không có đủ căn cứ để đưa ra quyết định, bản án
ly hôn thì Tòa sẽ không ra quyết định, bản án ly hôn. Đồng thời, Tòa tiến
hành cho các bên hòa giải tại cơ sở, phân tích, giải thích để cho các bên hiểu
và suy nghĩ lại.
Thứ năm, căn cứ ly hôn nhằm bình ổn quan hệ hôn nhân, bảo vệ và
thúc đẩy sự phát triển của xã hội, góp phần củng cố chế độ một vợ một chồng,
tự nguyện, tiến bộ, góp phần khẳng định nguyên tắc bình đẳng giữa vợ chồng.
Căn cứ ly hôn là cơ sở đảm bảo sự nhất quán, thống nhất trong việc xây dựng
những chế định, những quy phạm pháp luật hôn nhân và gia đình. Khi tế bào
gia đình của một xã hội ổn định thì xã hội đó cũng được ổn định. Các quy
định về căn cứ ly hôn được quy định chặt chẽ thì sẽ góp phần giảm tình trạng
ly hôn, khi tình trạng hôn nhân chưa đáp ứng đủ các căn cứ ly hôn theo pháp
luật quy định thì Tòa sẽ không giải quyết ly hôn. Căn cứ ly hôn thể hiện sự
bình đẳng ở việc pháp luật không “thiên vị” chủ thể nào, pháp luật quy định
quyền yêu cầu ly hôn, đưa ra và chứng minh các căn cứ ly hôn là quyền của
19
cả vợ và chồng. Điều này được quy định trong Luật HN&GĐ 2014 là hoàn
toàn tiến bộ so với pháp luật ở những thời kỳ trước – thiên vị người chồng
hơn.
1.2. Khái lược pháp luật Việt Nam về căn cứ ly hôn qua các giai
đoạn lịch sử
1.2.1. Căn cứ ly hôn theo pháp luật thời kỳ phong kiến.
Lịch sử Việt Nam gắn liền với chế độ phong kiền tập quyền kéo dài
hàng nghìn năm. Thời kỳ phong kiến có bộ luật Quốc triều hình luật ban hành
dưới triều vua Lê Thánh Tông (Luật Hồng Đức) và Hoàng Việt Luật lệ được
ban hành dưới triều vua Gia Long (Luật Gia Long). Bộ quốc triều hình luật
gồm sáu quyển, 13 chương, trong đó có 3 quyển gồm 58 điều quy định về hôn
nhân.
Trong pháp luật phong kiến Việt Nam, căn cứ ly hôn thường được biết
dưới dạng “duyên cớ ly hôn”, các căn cứ này được chia thành 3 loại: thứ nhất:
người chồng đơn phương bỏ vợ khi vợ phạm “thất xuất”; ly hôn bắt buộc và
ly hôn thuận tình.
Luật pháp về hôn nhân và gia đình ở thời kỳ phong kiến chịu ảnh
hưởng của nhiều tư tưởng triết học Nho giáo, Phật giáo; có liên quan đến
nhiều phong tục và đạo đức, rất nhiều điều luật bắt nguồn từ phong tục tập
quán của Việt Nam và đi sâu vào tiềm thức và thành thói quen ứng xử trong
nhân dân.
Dưới thời Lê, pháp luật phong kiến đã quy định căn cứ ly hôn phản ánh
sự bất bình đẳng, tùy tiện và có lợi cho đàn ông, lỗi luôn thuộc về người đàn
bà. Quan hệ hôn nhân gia đình được thiêt lập trên những nguyên tắc mang
tính chất “bảo thủ”: bảo đảm tôn ti trật tự, bình đẳng trong quan hệ giữa các
thành viên, trọng nam khinh nữ, xác lập quyền tối cao của người gia trưởng…
20
Trong quan hệ ly hôn, người chồng có quyền tự ý bỏ vợ hoặc hai bên thỏa
thuận hoặc bị bắt buộc. Theo điều 388 của bộ Luật Hồng Đức, người chồng
có quyền bỏ vợ khi vợ phạm tội “thất xuất” - bảy lỗi của người vợ, người
chồng buộc phải bỏ vợ, nếu không bỏ vợ thì pháp luật cũng buộc họ phải bỏ,
đồng thời người chồng còn bị xử biếm. Điều 310 Bộ luật Hồng Đức quy định
khi vợ hay nàng hầu phạm lỗi sau mà nếu người chồng không bỏ sẽ bị chém
đầu bao gồm:“ không có con, dâm đãng, ghen tuông, trộm cắp, bất hòa, ác
tật, không kính trọng bố mẹ chồng”… Như vậy sự bất bình đẳng được thể
hiện giữa vợ và chồng bởi chỉ thừa nhận quyền bỏ vợ đơn phương từ phía
người chồng.
Trường hợp ly hôn bắt buộc, Bộ luật Hồng Đức cũng có những quy
định để bảo vệ quyền lợi của người vợ: Điều 308 có quy định: “Phàm chồng
đã bỏ lửng vợ năm tháng mà không đi lại (vợ được trình với quan sở tại và
quan làm chứng), thì mất vợ. Nếu vợ đã có con thì cho thời hạn một năm, vì
việc quan phải đi xa thì không theo luật này. Nếu đã bỏ vợ mà ngăn người
khác lấy vợ mình thì phải tội biếm.” Như vậy, pháp luật thời kỳ này cũng có
những quy định bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ.
Tuy nhiên, trong cái xã hội phong kiến, người phụ nữ bị xem thường
thì mặc dù pháp luật phong kiến có quy định cho họ một chút đi chăng nữa thì
thực tế quyền lợi đó không có điều kiện để thực hiện. Người đàn bà trong xã
hội phong kiến đời sống bị duy trì kìm hãm trong vòng tối tăm hà khắc của xã
hội.
Như vậy, những điều kiện quy định về ly hôn trong pháp luật của nhà
nước phong kiến dưới thời Lê đã không phản ánh thực chất được tình trạng
cuộc hôn nhân tan vỡ hay chưa mà nó chỉ là những cái cớ để người chồng bỏ
vợ mà thôi.
21
Dưới triều Nguyễn, Luật Gia Long có một số căn cứ ly hôn điển hình
như sau: quy định các trường hợp bắt buộc ly hôn đó là trường hợp vợ mưu
sát chồng, chồng bán vợ làm lẽ, chồng cho thuê hay cầm cố … Điều 108 Bộ
luật Gia Long quy định: “Khi người vợ không ở trong trường hợp “thất
xuất” hay không làm một hành vi nào tuyệt nghĩa vợ chồng, nếu người chồng
tự tiện bỏ vợ sẽ bị phạt 80 trượng”.
Trong trường hợp người vợ phạm vào điều “thất xuất” nhưng chứng
minh được rằng ở trong tình trạng “tam bất khứ” mà người chồng vẫn bỏ thì
người chồng bị phạt trượng và buộc hai vợ chồng về đoàn tụ. Có ba trường
hợp người chồng không được bỏ vợ (tam bất khứ): “Tiền bần tận, hậu phú
quý (khi lấy nhau vợ chồng nghèo nhưng sau giàu có), giữ canh niên tam tang
(khi vợ đã để tang nhà chồng 3 năm), sở thú vô sở quy (khi lấy nhau vợ còn
bà con hàng xóm nhưng khi bỏ nhau, vợ không có nơi nương tựa). Trong
trường hợp người vợ “tuyệt nghĩa” mà người chồng vẵn không bỏ thì bị phạt
80 trượng. Quy định này thể hiện tính nhân đạo, quan tâm tới người phụ nữ.
Quy định này xuất phát từ phong tục, tình nghĩa vợ chồng nhằm bảo vệ quyền
lợi cơ bản tối thiểu nhất của người vợ phù hợp với đạo lý của Việt Nam.
Như vậy, Quốc Việt Luật lệ đã có đôi chút tiến bộ so với Luật Hồng
Đức về vấn đề ly hôn của vợ chồng, đảm bảo quyền lợi cho phụ nữ hơn, và đã
ưng thuận vấn đề ly hôn của cả hai bên mà không xét tội.
Thông qua việc nghiên cứu hai bộ luật trên ta thấy căn cứ ly hôn chia
làm 3 loại:
Thứ nhất, trường hợp “thất xuất” không nằm trong hoàn cảnh “tam bất
khứ”. Căn cứ này chỉ dành cho người chồng có quyền bỏ vợ.
Thứ hai, trường hợp “tuyệt nghĩa” căn cứ cho người chồng có quyền
bỏ vợ, người vợ có quyền bỏ chồng.
22
Thứ ba, thuận tình ly hôn: quy định này mang tính hình thức, trên thực
tế ít khi được áp dụng do sự trói buộc chặt chẽ của lễ giáo phong kiến kết hợp
với tư tưởng trọng nam khinh nữ hai vợ chồng ít khi có quyền tự do ly hôn.
Điểm chung của hai bộ luật trên là đều coi sự đồng tình xin ly hôn theo
cả bộ luật Hông Đức và bộ luật Gia Long đều là căn cứ ly hôn. Những quy
định “thất xuất” trong bộ luật Gia Long cũng giống như trong bộ luật Hồng
Đức. Quan hệ vợ chồng được củng cố bằng nhiều nghĩa vụ khác nhau và
được duy trì bởi lễ giáo phong kiến. Các nhà làm luật đã đặt lợi ích, danh dự
của gia đình lên trên lợi ích của cá nhân. Nhìn chung, lễ giáo phong kiến có
ảnh hưởng mạnh mẽ tới các quy định về căn cứ ly hôn trong pháp luật phong
kiến.
Như vậy, căn cứ ly hôn được quy định trong pháp luật phong kiến tuân
theo trật tự tự nhiên. Ngoài ra còn các trường hợp cưỡng bức ly hôn nếu hai
vợ chồng tuyệt nghĩa với nhau.
1.2.2. Căn cứ ly hôn theo pháp luật thời kì Pháp thuộc.
Trong thời kỳ Pháp thuộc, nước ta chia thành ba miền và áp dụng ba bộ
luật để điều chỉnh các vấn đề hôn nhân và gia đình, trong đó có các căn cứ ly
hôn. Có thể khẳng định rằng ở thời kỳ này pháp luật quy định về căn cứ ly
hôn có nhiều tiến bộ hơn.
Căn cứ ly hôn vẫn dựa trên yếu tố lỗi, tuy nhiên có sự tiến bộ hơn là
không chỉ có sự dựa vào lỗi của vợ, chồng mà còn dựa vào lỗi của cả hai
người vợ và chồng. Vấn đề ly hôn ở thời kỳ này chủ yếu được xây dựng dựa
theo tư tưởng Nho giáo phong kiến, và theo Dân Luật của Pháp năm 1804 với
quan điểm thuần túy coi hôn nhân là một hợp đồng do Dân luật điều chỉnh,
chính vì vậy, yếu tố lỗi được đặt lên trước tiên.
23
Tại Điều 118 Bộ dân luật Bắc kỳ(1931), Điều 155 Bộ dân luật Trung kỳ
(1936), quy định: Ly hôn phải do tòa án xét xử, phải có những lý do đã được
quy định trong luật. Cả Bộ Dân luật Bắc kỳ và Bộ Dân luật Trung kỳ đã chia
căn cứ ly hôn ra làm 3 loại:
Thứ nhất, căn cứ để chồng xin ly hôn: vợ ngoại tình; người vợ thứ đánh
chửi, hành hạ vợ chính; vợ tự ý bỏ về nhà mẹ đẻ mặc dù đã được chồng đến
gọi về nhà chồng. Tuy nhiên hai bộ luật này cũng quy định cụ thể trường hợp
việc bỏ nhà ra đi của vợ là do chồng có thái độ, cách xử xự khiến cuộc sống
chung trở nên bức bối hoặc không thể chấp nhận được nữa thì không được coi
là căn cứ ly hôn.
Thứ hai, căn cứ để vợ xin ly hôn: người chồng không thực hiện nghĩa
vụ cấp dưỡng cho con; chồng bỏ nhà hơn hai năm (Bộ dân luật bắc kỳ) và
hơn một năm (Bộ dân luật Trung kỳ) mà không có lý do chính đáng; chồng
đuổi vợ ra khỏi nhà mà không có lý do chính đáng; chồng làm rối loan trật tự
thê thiếp.
Thứ ba, căn cứ chung cho hai bên xin ly hôn: vợ hay chồng phạm tội
đại hình (trừ tội chính trị); vợ hoặc chồng thiếu đaọ đức khiến cuộc sống
chung không thể tiếp tục được; vợ hoặc chồng ngược đãi, hành hạ, sỉ nhục
bản thân hoặc ông bà, cha mẹ người kia; một người bị bệnh điên hoặc bị bệnh
kinh niên ở vĩnh viễn trong bệnh viện.
1.2.3. Căn cứ ly hôn từ năm 1945 tới nay.
1.2.3.1. Quy định cuả pháp luật về căn cứ ly hôn giai đoạn từ
1945- 1954
Sau tháng Tám 1945 Nhà nước tiến hành phong trào “vận động đời
sống mới”, nhằm vận động quần chúng nhân dân tự nguyện xóa bỏ những hủ
tục phong kiến lạc hậu trong đời sống hôn nhân và gia đình.
24
Năm 1950 nhà nước ta ban hành sắc lệnh 97- SL ngày 22/5/1950 về
sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật, có 15 điều trong đó có 8
điều quy định về hôn nhân và gia đình.
Sắc lệnh 159- SL ngày 17/11/1950 quy định về vấn đề ly hôn, gồm 9
điều chia thành 3 mục: duyên cớ ly hôn, thủ tục ly hôn và hiệu lực của việc ly
hôn. Sắc lệnh 159- SL ngày 17/11/1950 thừa nhận khả năng ly hôn do lỗi, do
một các bên mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo, thậm chí do không
hợp tính tình ( Điều 2). Đây cũng là một trong những điểm hạn chế của sắc
lệnh sắc lệnh 159- SL ngày 17/11/1950.
Sắc lệnh quy định duyên cớ ly hôn cho cả hai vợ chồng: vợ, chồng, có
quyền ly hôn nếu một bên ngoại tình, một bên can án phạt giam, một bên mắc
bệnh điên hoặc bệnh khó chữa; một bên bỏ nhà đi không có duyên cớ chính
đáng; vợ chồng tính tình không hợp hoặc đối xử với nhau đến nỗi không thể
sống chung được (điều 2).
Các văn bản pháp luật dân sự do thực dân Pháp ban hành trước năm
1945 thường quy định căn cứ ly hôn dựa vào “lỗi” của vợ. Nhưng có thể thấy
trong giai đoạn (1945-1954) điểm tiến bộ lớn là quy định về quyền yêu cầu ly
hôn đã đến với người vợ. Sắc lệnh thực hiện nguyên tắc bảo vệ phụ nữ có thai
và thai nhi khi ly hôn. Trường hợp mà người vợ có thai thì vợ hay chồng có
thể xin tòa án hoãn đến sau kỳ sinh nở mới xử việc ly hôn ( điều 5).
Sắc lệnh 97- SL ngày 22/5/1950 và sắc lệnh 159-SL ngày 17/11/1950
quy định về ly hôn đã được ban hành lúc đó nhằm giải quyết những vấn đề
cấp bách, góp phần vào việc xóa bỏ ảnh hưởng của chế độ hôn nhân và gia
đình phong kiến đế quốc, thực hiện bình đẳng giữa nam và nữ.
Như vậy, hai sắc lệnh đã có những điểm tiến bộ hơn so với pháp luật
hôn nhân thời phong kiến, thể hiện tính dân chủ và tiến bộ của một nền pháp
chế mới.
25
1.2.3.2. Quy định cuả pháp luật về căn cứ ly hôn giai đoạn từ
1954-1975
Ở miền Bắc, Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 có hiệu lực kể từ
ngày 13/1/1960, lần đầu tiên căn cứ ly hôn được xác định hoàn toàn khác, dựa
trên thực trạng của quan hệ hôn nhân. Trong vấn đề căn cứ ly hôn luật Hôn
nhân gia đình năm 1959 Điều 26 quy định: “Khi một bên vợ hoặc chồng xin
ly hôn, cơ quan có thẩm quyền sẽ điều tra và hòa giải. Hòa giải không được,
Tòa án nhân dân sẽ xét xử. Nếu tình trạng trầm trọng, đời sống chung không
thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, thì Tòa án nhân dân sẽ
cho ly hôn.”. Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 đã có những điểm tiến bộ
hơn so với pháp luật ở những thời kỳ trước, chỉ quy định căn cứ ly hôn dựa
trên yếu tố “lỗi”.
Ở Miền Nam, năm 1959 Luật hôn nhân gia đình của Ngô Đình Diệm ra
đời cấm vợ chồng ruồng bỏ và ly hôn. Những trường hợp đặc biệt muốn được
ly hôn phải do tổng thống xem xét (điều 55 luật này). Luật hôn nhân gia đình
năm 1959 nhấn mạnh đến trường hợp lấy nhầm phải đầu sỏ cộng sản giết
người thì phải ly hôn. Căn cứ này thể hiện ý chí của chính quyền Diệm một
chính quyền chống “cộng sản” điên cuồng, đồng thời thấy được chế độ hôn
nhân gia đình ở thời kỳ này không được quan tâm đúng mực.
Điều 170 Bộ dân luật 1972 coi ngoại tình là căn cứ ly hôn. Mặc dù đã
bãi bỏ chế độ đa thê, nhưng vẫn thể hiện sự bất bình đẳng, bảo vệ quyền gia
trưởng, người vợ phụ thuộc chồng. Quy định về căn cứ ly hôn chỉ mang tính
vỏ bọc, hình thức. Bộ hình luật định tội ngoại tình của vợ sẽ bị trừng phạt
(điều 336, điều 338) còn chồng ngoại tình thì không bị trừng phạt. Trong khi
theo Bộ dân luật 1972 muốn có chứng cứ về việc ngoại tình thì nguyên đơn
phải có bản án do tòa án hình sự xét xử. Người vợ không thể có bản án đó vì
người chồng không được coi là phạm tội, muốn chứng minh chồng có ngoại
26
tình vợ phải dùng các biện pháp khác được pháp luật chấp nhận nhưng khó
khăn hơn nhiều.
Như vậy, căn cứ ly hôn do chế độ cũ quy định nhìn chung đều mang
tính hình thức và thể hiện sự không bình đẳng trong xã hội. Giai cấp thống trị
chỉ đưa ra những quy định về căn cứ ly hôn theo hướng có lợi cho giai cấp
thống trị.
1.2.4. Căn cứ ly hôn của luật hôn nhân gia đình từ năm 1975 đến
nay.
Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam 1986 ra đời, luật HN&GĐ mới
được ban hành thay thế cho luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959 đã ghi nhận
nhiều quy định tiến bộ, góp phần xóa bỏ những phong tục tập quán lạc hậu và
tàn tích của chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến;
Theo điều 40 Luật hôn nhân và gia đình 1986 quy định: “Khi vợ hoặc
chồng, hoặc cả hai vợ chồng có đơn xin ly hôn thì Toà án nhân dân tiến hành
điều tra và hoà giải. Trong trường hợp cả hai vợ chồng xin ly hôn, nếu hoà
giải không thành và nếu xét đúng là hai bên thật sự tự nguyện ly hôn, thì Toà
án nhân dân công nhận cho thuận tình ly hôn. Trong trường hợp một bên vợ
hoặc chồng xin ly hôn, nếu hoà giải không thành thì Toà án nhân dân xét xử.
Nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục
đích của hôn nhân không đạt được thì Toà án nhân dân xử cho ly hôn”.
Điều 40 đã nêu ra những căn cứ ly hôn có mối liên hệ mật thiết không
tách rời nhau. Tình trạng trầm trọng đời sống chung không thể kéo dài bao
hàm vấn đề về tình cảm và cả mâu thuẫn vợ chồng sâu sắc đến mức không
thể giải quyết được, ảnh hưởng đến đời sống mọi người trong gia đình, ảnh
hưởng đến việc giáo dục con cái.
27
Quan hệ đời sống hằng ngày phát sinh nhiều vấn đề cần giải quyết: tính
cách khác nhau, quan điểm sống khác nhau, sinh hoạt khác nhau, sở thích cá
nhân…nếu vợ chồng không cùng nhau giải quyết thì gây nên mâu thuẫn giữa
quan hệ giữa vợ chồng, hoặc với các thành viên trong gia đình bên vợ hoặc
bên chồng, là điều đương nhiên, từ đó phát sinh mâu thuẫn trong quan hệ vợ
chồng. Ví dụ: việc cư xử không khéo giữa nàng dâu với mẹ chồng, anh em
bên chồng…là một trong những nguyên nhân gây nên mâu thuẫn trong quan
hệ vợ chồng dẫn đến ly hôn.
Điểm chung của Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 và Luật hôn nhân
và gia đình năm 1986, là trường hợp thuận tình ly hôn không áp dụng căn cứ
ly hôn, nếu các bên tự nguyện ly hôn thì Tòa án ra quyết định thuận tình ly
hôn. Căn cứ ly hôn chỉ áp dụng đối với trường hợp ly hôn do một bên yêu
cầu, khi vợ chồng có đơn yêu cầu ly hôn, Tòa án có trách nhiệm điều tra, hòa
giải, xem xét “tình trạng trầm trọng” có đúng hay không, “mục đích hôn
nhân” có đạt được hay không để Tòa án có những quyết định đúng đắn, khách
quan nhất.
Việc áp dụng căn cứ ly hôn theo Điều 40 luật hôn nhân và gia đình năm
1986 đã phản ánh đúng bản chất quan hệ hôn nhân thực tế đã tan vỡ. Ly hôn
chỉ là việc xác nhận một sự kiện rằng đó là cuộc hôn nhân đã chết, sự tồn tại
của nó chỉ là bề ngoài, lừa dối. Thực tế hôn nhân đã tan vỡ, Tòa án cho phép
phá bỏ hôn nhân, chỉ là ghi biên bản công nhận sự tan rã bên trong của nó.
Căn cứ ly hôn theo Luật hôn nhân gia đình Việt Nam năm 2000.
Điều 89 Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 có quy định về
căn cứ ly hôn:
“ 1. Tòa án xem xét yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy tình trạng trầm trọng,
đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì
tòa án quyết định cho ly hôn.”
28
2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bi Tòa án tuyên bố mất
tích xin ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.”
Ngoài sự kế thừa của các căn cứ ly hôn ở thời kỳ trước, đặc biệt là Luật
hôn nhân và gia đình năm 1986 thì Luật hôn nhân gia đình 2000 đã quy định
thêm căn cứ ly hôn nữa là “trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bi Tòa
án tuyên bố mất tích xin ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn”. Trong quan
hệ vợ chồng, việc chồng hoặc vợ bị mất tích, chết đã ảnh hưởng sâu sắc tới
quan hệ vợ chồng và các thành viên trong gia đình. Đây là điềm tiến bộ về
căn cứ ly hôn của Luật hôn nhân gia đình 2000 phù hợp với yêu cầu của thực
tế. Quy định này đã cụ thể hóa hậu quả của việc tòa án tuyên bố mất tích
trong Bộ luật dân sự của Nhà nước ta.
Như vậy, so với Luật hôn nhân và gia đình năm 1986, Luật hôn nhân
và gia đình năm 2000 đã kế thừa, phát triển, mở rộng và cụ thể, chi tiết hơn
nhằm mục đích giải quyết tốt nhất vấn đề ly hôn trong xã hội Việt Nam thời
kỳ đó.
Căn cứ ly hôn theo Luật hôn nhân gia đình Việt Nam năm 2014.
Kế thừa và phát triển Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 và Luật hôn
nhân và gia đình năm 1986, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000; Luật hôn
nhân và gia đình năm 2014 có quy định về căn cứ ly hôn tại Điều 55 và Điều
56.
Điều 55 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về thuận
tình ly hôn. Điều này được giữ nguyên như điều 90 Luật hôn nhân và gia đình
năm 2000.
Điều 56 được sửa đổi, bổ sung trên cơ sở điều 91 Luật hôn nhân và gia
đình năm 2000. Theo đó, bổ sung sau quy định “Khi vợ hoặc chồng yêu cầu
ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn”
nội dung “nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi
29
phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào
tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn
nhân không đạt được”. Và bổ sung: Trong trường hợp vợ hoặc chồng của
người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly
hôn. Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51
của Luật này thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ
có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức
khỏe, tinh thần của người kia.
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định căn cứ ly hôn tại Điều
89 là áp dụng cho cả thuận tình ly hôn và ly hôn do một bên yêu cầu, bởi vậy
thực tế, nguyên nhân phát sinh tranh chấp trong cuộc sống vợ chồng dẫn tới
ly hôn hay thuận tình ly hôn đều do tình cảm các bên rạn nứt, các bên đã
không làm tròn nghĩa vụ với nhau. Trong khi đó, Luật hôn nhân và gia đình
năm 2014 lại quy định rõ ràng, cụ thể hơn về căn cứ ly hôn: Điều 55 về thuận
tình ly hôn; Điều 56 về Ly hôn theo yêu cầu của một bên. Pháp luật đã quy
định cụ thể chi tiết về quyền nghĩa vụ của các bên trước khi ly hôn, cũng như
các căn cứ để Tòa án xác định tình trạng hôn nhân để đưa tới quyết định ly
hôn.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 (Điều 55 và Điều 56) đã quy định
căn cứ ly hôn theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin. Luật Hôn nhân và
gia đình Việt Nam trước đây không quy định những căn cứ ly hôn riêng biệt
mà quy định căn cứ ly hôn chung nhất, dựa vào bản chất của quan hệ hôn
nhân đã tan vỡ. Nhưng với Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đã có sự lồng
ghép quy định về căn cứ ly hôn vào quy định về thuận tình ly hôn cũng như ly
hôn theo yêu cầu của một bên.
Tóm lại, ta có thể thấy rằng pháp luật hôn nhân gia đình nói chung và
pháp luật về các căn lý ly hôn nói riêng, từ năm 1945 đến nay, các căn cứ ly
30
hôn đã được sửa đổi, bổ sung để trở lên hoàn thiện hơn, phù hợp với từng thời
kỳ lịch sử. Căn cứ ly hôn được quy định trong Luật hôn nhân và gia đình năm
2014 là tiến bộ nhất, bởi các quy định về căn cứ ly hôn đã được quy định chi
tiết, rõ ràng hơn đối với từng trường hợp: thuận tình ly hôn, ly hôn theo yêu
cầu của một bên.
1.3. Căn cứ ly hôn theo pháp luật của một số quốc gia
1.3.1. Căn cứ ly hôn theo pháp luật nước Pháp
Cộng hòa Pháp là quốc gia có nền độc lập phát triển và có ảnh hưởng
lớn tới các nước trong khu vực và thế giới. Bộ luật Napoleon 1804 là sản
phẩm pháp điển hóa, là khuôn mẫu để các nước khác xây dựng luật pháp.
Hôn nhân là sự gắn kết đời sống của hai bên nam nữ dựa trên cơ sở tự
nguyện, bình đẳng, chân chính. Trường hợp các bên có lỗi nghĩa là đã tự mình
phá vỡ quan hệ tình cảm, hôn nhân giữa các bên.
Pháp luật Pháp căn cứ trên cơ sở lỗi và xem xét đến tình trạng hôn nhân
thực tế của vợ chồng, với các quy định “lỗi” một cách bình đẳng cho cả vợ và
chồng. Trường hợp vợ hoặc chồng có lỗi, một bên có quyền kiện đòi ly hôn.
Điều 229 Bộ luật Napoleon quy định: “Có thể giải quyết cho ly hôn trong các
trường hợp sau: ly hôn do lỗi”. Điều 243 Bộ luật Napoleon quy định: “vợ
hoặc chồng có thể xin ly hôn khi nêu ra toàn bộ những sự việc bắt nguồn từ
bên vợ hoặc chồng là do cuộc sống chung không thể tiếp tục”. Một bên vợ
hoặc chồng làm đơn đến Tòa xin ly hôn trong đó nêu lỗi của bên kia, được
bên kia thừa nhận lỗi trước Tòa án thì Tòa sẽ ra quyết định tuyên bố ly hôn.
Trường hợp hai bên thuận tình ly hôn, không xem xét tới yếu tố lỗi:
Điều 230 Bộ luật Napoleon quy định: “Nếu hai vợ chồng cùng xin ly hôn thì
phải nói rõ lý do”, quy định này có phần tiến bộ vì đã đảm bảo quyền tự do ý
chí cũng như quyền bình đẳng của các bên trong quan hệ hôn nhân. Trong
31
trường hợp này, các căn cứ ly hôn được xác định nếu việc ly hôn do bên kia
làm cho đời sống hôn nhân không thể tiếp tục và bên kia chấp nhận ly hôn thì
Thẩm phán tuyên bố cho ly hôn mà không cần xem xét tới yếu tố lỗi. Quy
định này phù hợp với bản chất của hôn nhân theo quy định của pháp luật Pháp
là một hợp đồng dân sự.
Trường hợp cả hai vợ chồng đã sống riêng biệt từ hai năm trở lên, tính
từ thời điểm có quyết định triệu tập ra tòa để giải quyết việc ly hôn (Điều 238
Bộ luật Napoleon). Từ thời điểm đó, quan hệ vợ chồng được coi là hoàn toàn
chấm dứt.
1.3.2. Căn cứ ly hôn theo pháp luật Thái Lan
Pháp luật Thái Lan coi hôn nhân là một hợp đồng dân sự, vợ và chồng
có quyền và nghĩa vụ ngang nhau về quan hệ nhân thân và tài sản. Pháp luật
Thái Lan thừa nhận hai trường hợp ly hôn là thuận tình ly hôn và theo quy
định của Tòa án khi một bên vợ chồng có đơn yêu cầu.
Pháp luật Thái Lan rất tôn trọng nguyên tắc một vợ một chồng, đề cao
sự chung thủy của vợ chồng. Điều 1516 Bộ luật Dân sự và thương mại Thái
Lan quy định căn cứ để ly hôn, một trong hai bên có quyền kiện đòi ly hôn:
Thứ nhất, người chồng đã nuôi dưỡng hoặc thờ phụng một người đàn
bà khác như vợ mình hoặc người vợ có ngoại tình. Pháp luật Thái Lan quy
định chi tiết về các hành vi, điều kiện của vợ chồng để làm căn cứ ly hôn.
Thứ hai, Căn cứ khoản 2, 3 Điều 1516 Bộ Luật dân sự và thương mại
Thái Lan, vợ hoặc chồng có phạm lỗi, có hành vi đạo đức xấu, bất kể hành vi
đó có phải là một tội hình sự hay không, nếu nó gây hại cho người kia... vợ
hoặc chồng bị hành hạ nghiêm trọng về thể xác và tinh thần, lăng mạ người
kia hoặc con cái người đó....
Thứ ba, nếu người vợ hoặc chồng đã rời bỏ người kia hơn một năm; bị
tuyên bố mất tích hoặc rời khỏi nơi cư trú của mình hơn ba năm mà không
32
biết chắc là người đó sống hay chết thì người còn lại có quyền kiện đòi ly
hôn.
Thứ tư, vợ hoặc chồng đã phá vỡ cam kết của mình để giữ đạo đức tốt.
Khi quan hệ vợ chồng không thể tiếp tục bởi nhiều nguyên nhân, trong
đó có nguyên nhân là họ không chung sống, không chăm sóc nhau trong một
thời gian dài: hơn một năm hoặc hơn ba năm... thì như vậy, quan hệ tình cảm
giữa vợ và chồng cũng như các thành viên trong gia đình – mục đích của hôn
nhân đã không đạt được. Hôn nhân đổ vỡ, một trong hai bên vợ hoặc chồng
có quyền xin ly hôn, đó là nhu cầu chính đáng xuất phát từ bản thân nguyện
vọng của mỗi cá nhân, từ thực tiễn của quan hệ hôn nhân.
Ta có thể nhận thây điểm chung của pháp luật Thái Lan và Cộng hòa
Pháp đó là chia ra hai trường hợp ly hôn theo thuận tình và ly hôn theo yêu
cầu của một bên. Cũng như pháp luật Pháp, pháp luật Thái Lan cũng đề cao
yếu tố lỗi trong quan hệ hôn nhân giữa vợ chồng. Pháp luật của cả hai nước
luôn đề cao sự bình đẳng trong quan hệ hôn nhân giữa vợ và chồng, tôn trọng
quyền ly hôn của các bên, hạn chế tình trạng bạo lực gia đình.
Tóm lại, qua nghiên cứu về căn cứ ly hôn theo pháp luật của Pháp và
Thái Lan, ta có thể thấy đây là hai quốc gia phát triển, có những quy định tiến
bộ, mang tính nhân văn tiên tiến trong quan hệ hôn nhân, những quy định có
tính dự trù sâu sa về quan hệ hôn nhân.
33
CHƢƠNG 2
CĂN CỨ LY HÔN THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
2.1. Căn cứ ly hôn trong trường hợp thuận tình ly hôn
Điều 55 Luật HN&GĐ 2014 quy định về thuận tình ly hôn:
“Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy hai bên
thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom,
nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng
của vợ và con thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn; nếu không thỏa thuận
được hoặc có thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ
và con thì Tòa án giải quyết việc ly hôn.”
Việc giải quyết ly hôn cần dựa trên các điều kiện nhất định phải được
tiến hành ở Tòa án nhân dân, pháp luật quy định việc thuận tình ly hôn là
công nhận và đảm bảo quyền tự do ly hôn chính đáng của hai bên vợ chồng.
Thuận tình ly hôn là trường hợp cả hai vợ chồng cùng yêu cầu chấm dứt hôn
nhân được thể hiện bằng đơn thuận tình ly hôn của vợ chồng. Theo quy định
của Luật hôn nhân và gia đình 2014 thì trong trường hợp hai vợ chồng cùng
có yêu cầu thuận tình ly hôn, sự tự nguyện của hai vợ chồng khi yêu cầu
chấm dứt hôn nhân là một căn cứ quyết định việc chấm dứt hôn nhân.
Tự nguyện ly hôn là cả hai vợ chồng đều tự do trình bày nguyện vọng,
ý chí, không cưỡng ép, không bị lừa dối trong việc thuận tình ly hôn. Việc thể
hiện ý chí thật sự tự nguyện ly hôn phải xuất phát từ trách nhiệm đối với gia
đình, phù hợp với yêu cầu của pháp luật và chuẩn mực đạo đức xã hội và nhu
cầu của bản thân chủ thể trong việc quyết định ly hôn; đồng thời cả hai bên
đều nhận thức được hậu quả của việc ly hôn.
Theo quy định của pháp luật, người vợ và người chồng cùng thuận tình
ly hôn là thể hiện rõ ý chí, ý nguyện của các bên về việc giải quyết mối quan
hệ hôn nhân giữa hai vợ chồng. Khi bản thân hai vợ chồng xét thấy cuộc sống
34
gia đình không hạnh phúc, cuộc sống chung có nhiều khúc mắc, không đạt
được mục đích của cuộc hôn nhân và họ tự nhận thức được việc ly hôn là cần
thiết thì hai vợ chồng đồng tình cùng nhau yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly
hôn.
Căn cứ để Tòa án quyết định cho vợ chồng ly hôn là ý chí tự nguyện
của các bên, thật sự nghiêm túc và chắc chắn, không bị cưỡng ép, không bị
lừa dối của vợ và chồng trong việc thuận tình ly hôn bảo đảm thật sự tự
nguyện ly hôn. Trong quá trình hòa giải, thẩm phán có thể tiến hành tất cả các
biện pháp điều tra, xác minh cần thiết, thậm chí có thể tìm hiểu để làm rõ
động cơ xin ly hôn của các đương sự.
Cũng trong Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định
trong việc thuận tình ly hôn, ngoài ý chí thật sự tự nguyện xin thuận tình ly
hôn của vợ chồng, đòi hỏi hai vợ chồng còn phải có sự thoả thuận về việc
chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở
đảm bảo quyền lợi chính đáng của vợ và con. Quy định này có nghĩa rằng
thỏa thuận của hai bên vợ chồng là việc thống nhất quan điểm về toàn bộ các
vấn đề: “tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ
sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con”.
Về vấn đề tài sản: các bên sẽ tiến hành tự thỏa thuận dựa trên những
nguyên tắc chung mà pháp luật dân sự đã quy định tại BLDS 2005. Tài sản
chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động,
hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và
thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân. Quyền sử dụng đất mà vợ,
chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp
vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông
qua giao dịch bằng tài sản riêng. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi.
Tuy nhiên, việc chia tài sản dựa trên các nguyên tắc sau: một là, hoàn cảnh
35
của gia đình và của vợ, chồng; hai là, công sức đóng góp của vợ, chồng vào
việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Việc nội trợ của vợ,
chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập; ba là, bảo vệ lợi ích
chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên
có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập; bốn là, lỗi của mỗi bên trong vi
phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
Vấn đề con cái: về nguyên tắc, việc ai là người nuôi con khi ly hôn có
thể được các đương sự (vợ, chồng) tự thỏa thuận với nhau và được tòa ghi
nhận trong bản án. Sau khi ly hôn, vợ, chồng vẫn có nghĩa vụ trông nom,
chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chưa thành niên (dưới 18 tuổi) hoặc đã
thành niên nhưng bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, hoặc không có khả
năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Bên còn lại – tức là bên
không được trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng (mức cấp dưỡng tuỳ
theo điều kiện kinh tế hoặc theo thoả thuận) để người kia chăm sóc, nuôi
dưỡng con cho đến khi trưởng thành.
Về vấn đề bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con: Quy định của
luật HN&GĐ về việc thuận tình ly hôn cũng đã hướng tới việc bảo vệ quyền
làm mẹ của người vợ bằng việc quy định “chỉ cho phép vợ chồng đồng thuận
ly hôn khi đảm bảo được quyền lợi chính đáng của người vợ và con”.
Khoản 4 Điều 2 Luật HN&GĐ năm 2014 có quy định về nguyên tắc
vấn đề bảo vệ quyền lợi chính đáng của bà mẹ và trẻ em: “4. Nhà nước, xã
hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, hỗ trợ trẻ em, người cao tuổi, người
khuyết tật thực hiện các quyền về hôn nhân và gia đình; giúp đỡ các bà mẹ
thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ; thực hiện kế hoạch hóa gia
đình”. Quy định về căn cứ ly hôn khi đảm bảo quyền lợi chính đáng của vợ và
con đã thể hiện tính thống nhất, quy định chặt chẽ của pháp luật hôn nhân và
gia đình.
36
Bảo vệ quyền phụ nữ và trẻ em bằng pháp luật là việc Nhà nước ghi
nhận quyền phụ nữ và trẻ em đồng thời ban hành những quy phạm pháp luật
nhằm bảo đảm việc thực hiện các quyền phụ nữ và trẻ em trên thực tế.Trẻ em
có vai trò quan trọng đối với gia đình, với xã hội, với quốc gia và thế giới. Vì
vậy, việc bảo vệ quyền lợi của trẻ em khi cha mẹ ly hôn phải được đặc biệt
quan tâm.
Trong trường hợp thuận tình ly hôn, cả vợ và chồng đều thống nhất và
đồng thuận trong việc giải quyết các hậu quả của việc ly hôn: hai bên thật sự
có ý nguyện ly hôn, không bị cưỡng ép hay chi phối bởi yếu tố nào khác; hai
bên phân chia tài sản rõ ràng, không có khúc mắc gì; hai bên cùng nhau thỏa
thuận đầy đủ về việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con. Với
những điều kiện đặt ra như trên mà thật sự có sự đảm bảo quyền lợi chính
đáng cho người vợ và con thì Tòa án nhất trí giải quyết cho vợ chồng ly hôn.
Tuy nhiên, pháp luật lại quy định chặt chẽ hơn, nếu trong trường hợp những
vấn đề đã nêu trên mà không đảm bảo quyền lợi chính đáng cho người vợ,
người con thì Tòa án sẽ xem xét lại việc thuận tình ly hôn của hai bên.
Pháp luật chưa có quy định cụ thể về khái niệm “không bảo đảm quyền
lợi chính đáng của vợ và con”. Tuy nhiên, ta có thể hiểu rằng, không bảo đảm
quyền lợi chính đáng của vợ và con là việc thỏa thuận về tài sản, nhân thân,
con cái của hai bên làm ảnh hưởng hoặc chưa đáp ứng được nhu cầu của vợ
và con. Thông qua quy định này, ta có thể thấy được pháp luật hôn nhân và
gia đình Việt Nam có xu hướng bảo vệ phụ nữ và trẻ em – “thế yếu” trong
quan hệ hôn nhân và gia đình. Không chỉ dừng lại ở đó, việc ghi nhận của
pháp luật đối với vấn đề bảo vệ quyền lợi chính đáng về tài sản của phụ nữ và
trẻ em khi vợ chồng ly hôn còn là sự tiếp nối truyền thống đạo đức của dân
tộc.
37
Trường hợp vợ chồng không thỏa thuận được với nhau về việc
vợ/chồng hay chồng/vợ là người trực tiếp nuôi con; cũng như nếu vợ/ chồng
có đủ cơ sở để chứng minh việc chồng/vợ không đảm bảo được các quyền lợi
của con (như điều kiện về nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục; đặc biệt là các
điều kiện cần thiết cho sự phát triển về thể chất, bảo đảm về việc học hành và
các điều kiện cho sự phát triển tốt về tinh thần của con) trong khi đó,
vợ/chồng lại đáp ứng được đầy đủ được những điều kiện này, thì Tòa án có
thể xem xét, quyết định cho vợ/chồng được quyền nuôi con. Nhìn chung, khi
quyết định trao quyền nuôi con cho người vợ hay người chồng, Tòa án đều
phải xem xét quyền lợi về mọi mặt của cháu bé trên thực tế.
Ví dụ: trường hợp anh A và chị B thỏa thuận về việc ly hôn, hai bên
thỏa thuận về việc con chung là C đủ 6 tuổi – chưa thành niên, sẽ do chị B
nuôi nấng, tuy nhiên, do tính chất công việc của chị B là thường xuyên đi
công tác, không có thời gian chăm sóc con cái; kinh tế khó khăn hơn anh A vì
phải nuôi mẹ già. Như vậy, thỏa thuận của A và B là không hợp lý, không
đảm bảo được quyền lợi chính đáng của C.
Trong trường hợp hòa giải tại Tòa mà không thỏa thuận được một trong
các điều kiện trên thì Tòa án sẽ lập biên bản về việc hòa giải không thành.
Trong đó nêu rõ những vấn đề hai bên không thoả thuận được hoặc có thoả
thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con, đồng thời
tiến hành mở phiên toà xét xử vụ án ly hôn theo thủ tục chung.
Trường hợp sự thỏa thuận không thể hiện đầy đủ quyền và lợi ích chính
đáng của vợ và con, thẩm phán có thể đi đến quyết định bác đơn xin thuận
tình ly hôn của các bên; tuy nhiên, trên thực tế, thẩm phán chỉ bác đơn khi đã
xem xét thỏa thuận ban đầu và đã yêu cầu các bên về việc sửa đổi những chi
tiết cần thiết nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của vợ và con mà các
bên không sửa đổi hoặc sửa đổi không thỏa đáng. Trong trường hợp các
38
đương sự chỉ báo cho thẩm phán nội dung thỏa thuận về vấn đề con cái mà
không làm rõ các thỏa thuận về tài sản, thì thẩm phán phải yêu cầu các đương
sự thông báo bổ sung về các thỏa thuận cần thiết đó. Trên thực tế, thẩm phán
vẫn quyết định cho ly hôn trong trường hợp này và, về phần tài sản được ghi
nhận một cách đơn giản trong bản án: các đương sự đã thỏa thuận xong hoặc
các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Thực tế, nguyên nhân phát sinh tranh chấp trong cuộc sống vợ chồng
dẫn đến ly hôn hay thuận tình ly hôn cũng là do tình cảm của vợ chồng bị rạn
nứt, một trong hai bên đã không làm tròn nghĩa vụ của mình với gia đình hay
vì tự ái cá nhân hoặc hiểu lầm trong quan hệ của vợ hoặc chồng mình nên đã
quyết định yêu cầu Tòa án giải quyết cho họ được ly hôn. Nhưng khi có sự
giải thích, phân tích đúng, sai trong quan hệ của họ của người làm công tác
hòa giải để khuyên họ nên bỏ qua những lầm lỗi, tha thứ cho nhau để quay lại
chung sống với nhau thì họ đã hiểu ra và quay lại đoàn tụ chung sống với
nhau và Tòa án cũng không phải giải quyết về các vấn đề kéo theo như con và
tài sản. Nếu hoà giải thành tức là vợ chồng rút đơn thuận tình ly hôn thì Toà
án lập biên bản hoà giải thành, sau 15 ngày kể từ ngày Toà án lập biên bản
hoà giải thành mà các bên đương sự không thay đổi ý kiến thì Toà án ra quyết
định đình chỉ giải quyết vụ án (Điều 10, Điều 186, Điều 187 Bộ luật Tố tụng
dân sự 2011).
Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu xin ly hôn thì Toà án vẫn tiến
hành hoà giải. Việc cho ly hôn trong trường hợp thuận tình này đối với Tòa
án là không phải dễ, bởi vì khó có thể định lượng khi chỉ dựa trên yếu tố thỏa
thuận tự nguyện thật sự của hai vợ chồng nếu không xem xét đến các yếu tố
tình trạng mâu thuẫn vợ chồng đến đâu, mức độ ảnh hưởng đến cuộc sống
hôn nhân đến cấp độ nào và gắn với việc thỏa thuận của họ đến đâu về việc
chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn.
39
Trong thực tế có nhiều trường hợp các bên “giả tự nguyện ly hôn” và
“giả thỏa thuận ly hôn” nhằm lừa dối cơ quan có thẩm quyền vì một mục
đích nào đó. Việc ly hôn “để đạt được mục đích khác mà không nhằm mục
đích chấm dứt hôn nhân” xem là hành vi ly hôn giả tạo và bị xử phạt hành
chính. Khoản 15 Điều 3 Luật HN&GĐ 2014 có quy định về khái niệm ly hôn
giả tạo: “Ly hôn giả tạo là việc lợi dụng ly hôn để trốn tránh nghĩa vụ tài sản,
vi phạm chính sách, pháp luật về dân số hoặc để đạt được mục đích khác mà
không nhằm mục đích chấm dứt hôn nhân”. Hiện tượng ly hôn giả tạo nhằm
mưu cầu lợi ích riêng. Họ tự nghĩ ra nhưng mâu thuẫn và lý do chính đáng
nhưng thực tế họ lại không mong muốn chấm dứt quan hệ vợ chồng và giữa
họ không hề có mâu thuẫn. Nếu không điều tra kỹ thì Tòa án có thể kết luận
là họ đã có đủ căn cứ để công nhận thuận tình ly hôn. Trong những trường
hợp này Tòa án cần xử bác đơn xin thuận tình ly hôn của đương sự đồng thời
phê phán, giáo dục đương sự về những hành vi sai trái đó.
Như vậy, vấn đề xác định căn cứ ly hôn là sự tự nguyện và tự thỏa
thuận của các bên rất khó để xác định sự tự nguyện thực sự. Bởi vậy, Tòa án
cần đưa ra các quyết định chính xác để bảo vệ quyền lợi của các bên Tránh
trương hợp các bên thuận tình ly hôn giả nhằm mục đích: chuyển hộ khẩu,
phụ cấp người ăn theo; lấy vợ lẽ nhằm tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ về
tài sản của vợ chồng đối với người khác...
2.2. Căn cứ ly hôn trong trường hợp ly hôn do một bên vợ hoặc
chồng yêu cầu
Ly hôn theo yêu cầu của một bên là trường hợp chỉ có một trong hai vợ
chồng, hoặc cha, mẹ, người thân thích của một trong hai bên yêu cầu được
chấm dứt quan hệ hôn nhân.
40
Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về ly hôn theo
yêu cầu của một bên như sau:
“1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không
thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có
hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ,
chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung
không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.
2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất
tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.
3. Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều
51 của Luật này thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng,
vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng,
sức khỏe, tinh thần của người kia.”
Quy định về căn cứ ly hôn do một bên yêu cầu của Luật hôn nhân và
gia đình Việt Nam năm 2014 có tính chi tiết, cụ thể hơn Luật hôn nhân và gia
đình Việt Nam năm 2000. Điều 91 Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm
2000 quy định về ly hôn theo yêu cầu của một bên: “Khi một bên vợ hoặc
chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án xem xét,
giải quyết việc ly hôn”. Quy định của Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam
năm 2000 vẫn còn mang tính chung chung và chưa mô tả đầy đủ các trường
hợp, căn cứ ly hôn.
Như vậy, từ sự kế thừa của Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm
2000, Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014 đã có những điểm mới,
tiến bộ hơn về các căn cứ ly hôn quy định tại Điều 56. Khi có yêu cầu ly hôn
của vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng, Tòa án phải tiến hành xác định tình
trạng quan hệ hôn nhân đó và áp dụng căn cứ ly hôn để giải quyết, việc giải
41
quyết ly hôn cần phải chính xác và đòi hỏi sự linh hoạt trong việc vận dụng
căn cứ ly hôn đối với mỗi trường hợp cụ thể.
2.2.1. Trường hợp có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia
đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho
hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài,
mục đích của hôn nhân không đạt được.
Thứ nhất, về hành vi bạo lực gia đình: Theo khoản 2 Điều 1 Luật
phòng chống bạo lực gia đình số 02/2007/QH12 quy định về khái niệm bạo
lực gia đình: “2. Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây
tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với
thành viên khác trong gia đình”.
Các hành vi được coi là hành vi bạo lực gia đình được liệt kê rất cụ thể
tại Điều 2 Khoản 1 Luật phòng chống bạo lực gia đình năm 2007: “a) Hành
hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khoẻ, tính
mạng; b) Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm; c)
Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu quả nghiêm
trọng; d) Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình
giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị,
em với nhau; đ) Cưỡng ép quan hệ tình dục; e) Cưỡng ép tảo hôn; cưỡng ép
kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ; g) Chiếm đoạt, huỷ
hoại, đập phá hoặc có hành vi khác cố ý làm hư hỏng tài sản riêng của thành
viên khác trong gia đình hoặc tài sản chung của các thành viên gia đình; h)
Cưỡng ép thành viên gia đình lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả
năng của họ; kiểm soát thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình
trạng phụ thuộc về tài chính; i) Có hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia
đình ra khỏi chỗ ở”.
42
Một bên vợ hoặc chồng có một trong số các hành vi kể trên đều bị coi
là có hành vi bạo lực gia đình. Hành vi vi phạm đó tác động tới một bên vợ
hoặc chồng, làm ảnh hưởng không nhỏ tới thể lực, trí lực, tâm tư tình cảm của
vợ hoặc chồng, làm rạn nứt quan hệ tình cảm trong thời kỳ hôn nhân. Tình
trạng bạo lực trong gia đình ngày càng gia tăng và thể hiện tính chất nghiêm
trọng xảy ra với nhiều lý do khác nhau. Việc Luật HN&GĐ năm 2014 quy
định như vậy phù hợp với thực tiễn hiện nay. Bởi qua thực tiễn giải quyết các
án ly hôn của Tòa án cho thấy số vụ ly hôn có hành vi ngược đãi, đánh đập
chiếm tỉ lệ cao nhất và phụ nữ đa phần là nạn nhân của tình trạng này.
Thứ hai, về hành vi vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ
chồng: khi tham gia quan hệ hôn nhân, vợ, chồng bình đẳng với nhau, có
quyền, nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình, trong việc thực hiện
các quyền, nghĩa vụ của công dân được quy định trong Hiến pháp, pháp luật
có liên quan (Điều 17 Luật HN&GĐ 2014). Vợ chồng không chỉ có nghĩa vụ
thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng
nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình; mà còn có nghĩa vụ sống
chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu
của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác. Vợ, chồng có nghĩa vụ tôn trọng,
giữ gìn và bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín cho nhau.
Hôn nhân của vợ chồng là do cả vợ và chồng xây dựng, vun đắp lên.
Nhưng khi các bên không thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ của mình đối với
vợ, chồng, đối với cuộc hôn nhân thì quan hệ hôn nhân đó sẽ dần đổ vỡ và
dẫn tới bế tắc.
Hành vi vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ chồng là một
trong những căn cứ để Tòa án quyết định giai quyết việc ly hôn cho vợ và
chồng. Tuy nhiên, hiện nay pháp luật cũng chưa có quy định cụ thể về việc:
43
hành vi vi phạm như thế nào được coi là nghiêm trọng? Hiện nay, quy định
này chỉ mang tính chất chung chung và chưa có hướng dẫn áp dụng cụ thể.
Như vậy, Luật HN&GĐ năm 2014 đã bổ sung điểm mới so với Luật
HN&GĐ năm 2000 khi quy định rõ “bạo lực gia đình và hành vi vi phạm
nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng” là căn cứ để giải quyết cho
các bên ly hôn. Hậu quả của hai hành vi kể trên là vô cùng nặng nề; bên cạnh
đó với những hành vi vi phạm khác, những mâu thuẫn, xung đột, bất đồng
trong đời sống vợ chồng làm cho tình trạng hôn nhân trở lên trầm trọng, đời
sống chung vợ chồng không thể kéo dài, ,mục đích của hôn nhân không đạt
được.
Đời sống hôn nhân có nhiều điểm mâu thuẫn, xung đột tồn tại không
thể khắc phục được trong cuộc sống vợ chồng là một thực trạng khá phổ biến.
Quy định này khá chung chung, chưa rõ ràng, khó xác định thế nào là tình
trạng vợ chồng rơi vào trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, và mục
đích hôn nhân không đạt được?
Trước hết cần hiểu quan hệ vợ chồng rơi vào tình trạng trầm trọng:
Mỗi chúng ta được nuôi dạy trong một gia đình khác nhau, lớn lên với
những truyền thống và nề nếp khác nhau. Vì được trưởng dưỡng trong những
gia đình khác nhau, với những kinh nghiệm sống khác nhau, mỗi chúng ta có
những sở thích, suy nghĩ, ý kiến, quan điểm khác nhau, từ đó chúng ta có
những trông mong, chọn lựa và quyết định khác nhau. Khi bước vào hôn
nhân, hai con người khác nhau đó kết hợp làm một và chia xẻ cùng một đời
sống, vì thế vợ chồng không thể nào tránh được những lúc bất đồng ý kiến
hay xung đột với nhau.
Tình trạng trầm trọng của vợ chồng có thể hiểu là: Vợ, chồng không
thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau như người nào chỉ biết bổn
phận người đó, bỏ mặc người vợ hoặc người chồng muốn sống ra sao thì
44
sống, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, hoà
giải nhiều lần.
Hiện nay pháp luật chưa có quy định cụ thể về khái niệm “vợ, chồng
không thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau”. Quan hệ vợ chồng là
quan hệ tình cảm nên không thể mang ra để cân đo. Quy định về bỏ mặc
người vợ hoặc người chồng muốn sống ra sao thì sống cũng rất trừu tượng,
mơ hồ. Việc đánh giá các yếu tố đó chỉ mang tính chất chủ quan của Thẩm
phán. Luật chỉ quy định được về những hành vi hành động, còn những hành
vi không hành động thì còn nặng nề hơn nhiều, tuy nhiên, pháp luật vẫn chưa
có quy định cụ thể, chi tiết.
Nhìn chung, có thể hiểu quy định này của pháp luật quy định về vấn đề
vợ chồng xa lánh nhau, không giúp đỡ nhau trong cuộc sống hôn nhân; việc
làm của họ làm mất đi tính chất của quan hệ vợ chồng là cùng nhau chung
sống. Đồng thời, ngoài việc không thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ
nhau, người nào chỉ biết bổn phận người đó, bỏ mặc người vợ hoặc người
chồng muốn sống ra sao thì sống thì vấn đề vợ chồng xa lánh nhau, bỏ mặc
nhau đã được người thân hoặc cơ quan chức năng khuyên nhủ nhiều lần
nhưng vẫn không thay đổi. Tuy nhiên, việc “đã được bà con thân thích của
họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, hoà giải nhiều lần” như thế nào được
quy định là được nhắc nhở, hòa giải nhiều lần; bao nhiêu lần là nhiều. Về mặt
khách quan, ta có thể hiểu hơn hai lần là nhiều lần, tuy nhiên, về mặt pháp lý
thì pháp luật cần quy định chính xác, cụ thể hơn nữa để căn cứ ly hôn được áp
dụng đúng đắn nhất, bảo vệ quyền lợi của đương sự.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng đã quy định hành vi bạo lực
gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng là căn
cứ ly hôn.
45
Trường hợp vợ chồng có hành vi xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm và
uy tín của nhau. Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân
được pháp luật đề cập tới trong nhiều văn bản. Điều 20 Hiến pháp 2013 đã
nêu rõ: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật
bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy
bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức
khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”. Ðiều 37 Bộ luật Dân sự cũng nêu:
“Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật
bảo vệ”. Thông qua các quy định của pháp luật, ta có thể thấy pháp luật bảo
vệ và coi trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của con người. Trường hợp vợ
chồng tự nguyện kết hôn với nhau, chung sống chung với nhau, nhưng họ lại
không tôn trọng nhau, có những hành vi xúc phạm tới danh dự, nhân phẩm,
uy tín của vợ hoặc chồng thì một bên vợ hoặc chồng hoàn toàn có quyền kiện
đòi ly hôn ra trước Tòa án để bảo vệ quyền lợi của mình.
Tuy nhiên, trường hợp vợ hoặc chồng xúc phạm danh dự, nhân phẩm
của bên còn lại, tuy có thể làm ảnh hưởng tới họ, nhưng nếu ở mức độ hai bên
vẫn có thể kiên nhẫn, hòa giải, có thể bỏ qua được cho nhau thì quan hệ của
họ vẫn chưa ở mức trầm trọng - ly hôn. Hành vi hành động của các bên được
bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, đoàn thể nhắc nhở, hoà giải
nhiều lần mà vẫn không thay đổi, vấn đề tiếp diễn này cho thấy tình trạng xúc
phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín diễn ra kéo dài, gây ảnh hưởng trực tiếp tới
tâm lý, tình cảm của vợ hoặc chồng khi bị xúc phạm. Vấn đề này đòi hỏi sự
can thiệp của cơ quan chức năng và Tòa án.
Khi vợ chồng không chung thuỷ với nhau như có quan hệ ngoại tình,
đã được người vợ hoặc người chồng hoặc bà con thân thích của họ hoặc cơ
quan, tổ chức, nhắc nhở, khuyên bảo nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình
cũng dẫn đến đời sống hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng.Trong quan hệ
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT

More Related Content

What's hot

Bài tập an sinh xã hội
Bài tập an sinh xã hộiBài tập an sinh xã hội
Bài tập an sinh xã hộihajz_zjah
 
Chế định kết hôn trong luật hôn nhân và gia đình vấn đề lý luận và thực tiễn
Chế định kết hôn trong luật hôn nhân và gia đình   vấn đề lý luận và thực tiễnChế định kết hôn trong luật hôn nhân và gia đình   vấn đề lý luận và thực tiễn
Chế định kết hôn trong luật hôn nhân và gia đình vấn đề lý luận và thực tiễnhttps://www.facebook.com/garmentspace
 
Đề tài: Thời hiệu khởi kiện về thừa kế theo pháp luật dân sự Việt Nam - Lý lu...
Đề tài: Thời hiệu khởi kiện về thừa kế theo pháp luật dân sự Việt Nam - Lý lu...Đề tài: Thời hiệu khởi kiện về thừa kế theo pháp luật dân sự Việt Nam - Lý lu...
Đề tài: Thời hiệu khởi kiện về thừa kế theo pháp luật dân sự Việt Nam - Lý lu...Dịch vụ viết thuê Khóa Luận - ZALO 0932091562
 

What's hot (20)

Bài tập an sinh xã hội
Bài tập an sinh xã hộiBài tập an sinh xã hội
Bài tập an sinh xã hội
 
Đề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOT
Đề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOTĐề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOT
Đề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOT
 
Luận văn: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn tại Hà Nội
Luận văn: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn tại Hà NộiLuận văn: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn tại Hà Nội
Luận văn: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn tại Hà Nội
 
Báo cáo thực tập pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hôn
Báo cáo thực tập pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hônBáo cáo thực tập pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hôn
Báo cáo thực tập pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hôn
 
Chế định kết hôn trong luật hôn nhân và gia đình vấn đề lý luận và thực tiễn
Chế định kết hôn trong luật hôn nhân và gia đình   vấn đề lý luận và thực tiễnChế định kết hôn trong luật hôn nhân và gia đình   vấn đề lý luận và thực tiễn
Chế định kết hôn trong luật hôn nhân và gia đình vấn đề lý luận và thực tiễn
 
Đề tài: Hủy việc kết hôn trái pháp luật theo Luật Hôn nhân Gia đình
Đề tài: Hủy việc kết hôn trái pháp luật theo Luật Hôn nhân Gia đìnhĐề tài: Hủy việc kết hôn trái pháp luật theo Luật Hôn nhân Gia đình
Đề tài: Hủy việc kết hôn trái pháp luật theo Luật Hôn nhân Gia đình
 
Luận văn: Hòa giải vụ án hôn nhân và gia đình, HAY
Luận văn: Hòa giải vụ án hôn nhân và gia đình, HAYLuận văn: Hòa giải vụ án hôn nhân và gia đình, HAY
Luận văn: Hòa giải vụ án hôn nhân và gia đình, HAY
 
Luận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAY
Luận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAYLuận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAY
Luận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAY
 
Thẩm quyền của Tòa án Việt Nam giải quyết vụ việc dân sự nước ngoài
Thẩm quyền của Tòa án Việt Nam giải quyết vụ việc dân sự nước ngoàiThẩm quyền của Tòa án Việt Nam giải quyết vụ việc dân sự nước ngoài
Thẩm quyền của Tòa án Việt Nam giải quyết vụ việc dân sự nước ngoài
 
Đề tài: Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn
Đề tài: Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hônĐề tài: Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn
Đề tài: Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn
 
CĂN CỨ LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM NĂM 2014 
CĂN CỨ LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM NĂM 2014 CĂN CỨ LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM NĂM 2014 
CĂN CỨ LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM NĂM 2014 
 
Đề tài: Thời hiệu khởi kiện về thừa kế theo pháp luật dân sự Việt Nam - Lý lu...
Đề tài: Thời hiệu khởi kiện về thừa kế theo pháp luật dân sự Việt Nam - Lý lu...Đề tài: Thời hiệu khởi kiện về thừa kế theo pháp luật dân sự Việt Nam - Lý lu...
Đề tài: Thời hiệu khởi kiện về thừa kế theo pháp luật dân sự Việt Nam - Lý lu...
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải, 9đ
Luận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải, 9đLuận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải, 9đ
Luận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải, 9đ
 
Luận văn: Kết hôn đồng giới theo pháp luật một số quốc gia, HOT
Luận văn: Kết hôn đồng giới theo pháp luật một số quốc gia, HOTLuận văn: Kết hôn đồng giới theo pháp luật một số quốc gia, HOT
Luận văn: Kết hôn đồng giới theo pháp luật một số quốc gia, HOT
 
Luận văn: Pháp luật về quản lý chung cư ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về quản lý chung cư ở Việt Nam, HOTLuận văn: Pháp luật về quản lý chung cư ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về quản lý chung cư ở Việt Nam, HOT
 
Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hônGiải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
 
Luận văn: Chế định kết hôn trong Luật Hôn nhân và Gia đình, HOT
Luận văn: Chế định kết hôn trong Luật Hôn nhân và Gia đình, HOTLuận văn: Chế định kết hôn trong Luật Hôn nhân và Gia đình, HOT
Luận văn: Chế định kết hôn trong Luật Hôn nhân và Gia đình, HOT
 
Đề tài: Hiệu lực thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng, HOT
Đề tài: Hiệu lực thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng, HOTĐề tài: Hiệu lực thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng, HOT
Đề tài: Hiệu lực thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng, HOT
 
Luận văn: Phân chia tài sản chung của vợ chồng theo Luật, HAY
Luận văn: Phân chia tài sản chung của vợ chồng theo Luật, HAYLuận văn: Phân chia tài sản chung của vợ chồng theo Luật, HAY
Luận văn: Phân chia tài sản chung của vợ chồng theo Luật, HAY
 
Luận văn: Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng, HOT
Luận văn: Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng, HOTLuận văn: Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng, HOT
Luận văn: Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng, HOT
 

Similar to Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT

Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế
Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên HuếXét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế
Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huếluanvantrust
 
Những Khía Cạnh Pháp Lý Của Thực Tế Chung Sống Như Vợ Chồng Không Đăng Ký Kết...
Những Khía Cạnh Pháp Lý Của Thực Tế Chung Sống Như Vợ Chồng Không Đăng Ký Kết...Những Khía Cạnh Pháp Lý Của Thực Tế Chung Sống Như Vợ Chồng Không Đăng Ký Kết...
Những Khía Cạnh Pháp Lý Của Thực Tế Chung Sống Như Vợ Chồng Không Đăng Ký Kết...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế
Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế
Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế anh hieu
 
Tìm hiểu về điều kiện kết hôn, các trường hợp kết hôn trái pháp luật và xử lý...
Tìm hiểu về điều kiện kết hôn, các trường hợp kết hôn trái pháp luật và xử lý...Tìm hiểu về điều kiện kết hôn, các trường hợp kết hôn trái pháp luật và xử lý...
Tìm hiểu về điều kiện kết hôn, các trường hợp kết hôn trái pháp luật và xử lý...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản trong các vụ án ly hôn theo pháp luật...
Luận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản trong các vụ án ly hôn theo pháp luật...Luận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản trong các vụ án ly hôn theo pháp luật...
Luận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản trong các vụ án ly hôn theo pháp luật...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 

Similar to Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT (20)

Căn Cứ Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình, HOT
Căn Cứ Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình, HOTCăn Cứ Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình, HOT
Căn Cứ Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình, HOT
 
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, HOTLuận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Kết hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam, HAY
Luận văn: Kết hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam, HAYLuận văn: Kết hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam, HAY
Luận văn: Kết hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam, HAY
 
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia ĐìnhHủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Theo Luật Hôn Nhân Gia Đình
 
Hủy việc kết hôn trái pháp luật theo Luật Hôn nhân và Gia đình
Hủy việc kết hôn trái pháp luật theo Luật Hôn nhân và Gia đình Hủy việc kết hôn trái pháp luật theo Luật Hôn nhân và Gia đình
Hủy việc kết hôn trái pháp luật theo Luật Hôn nhân và Gia đình
 
Đề tài: Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân gia đình
Đề tài: Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân gia đìnhĐề tài: Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân gia đình
Đề tài: Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân gia đình
 
Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế
Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên HuếXét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế
Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế
 
Những Khía Cạnh Pháp Lý Của Thực Tế Chung Sống Như Vợ Chồng Không Đăng Ký Kết...
Những Khía Cạnh Pháp Lý Của Thực Tế Chung Sống Như Vợ Chồng Không Đăng Ký Kết...Những Khía Cạnh Pháp Lý Của Thực Tế Chung Sống Như Vợ Chồng Không Đăng Ký Kết...
Những Khía Cạnh Pháp Lý Của Thực Tế Chung Sống Như Vợ Chồng Không Đăng Ký Kết...
 
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAYNhững bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
Những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005, HAY
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Luận văn: Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hônLuận văn: Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Luận văn: Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
 
Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế
Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế
Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế
 
Tìm hiểu về điều kiện kết hôn, các trường hợp kết hôn trái pháp luật và xử lý...
Tìm hiểu về điều kiện kết hôn, các trường hợp kết hôn trái pháp luật và xử lý...Tìm hiểu về điều kiện kết hôn, các trường hợp kết hôn trái pháp luật và xử lý...
Tìm hiểu về điều kiện kết hôn, các trường hợp kết hôn trái pháp luật và xử lý...
 
Luận văn: Di chúc chung của vợ chồng theo pháp luật Dân sự, HOT
Luận văn: Di chúc chung của vợ chồng theo pháp luật Dân sự, HOTLuận văn: Di chúc chung của vợ chồng theo pháp luật Dân sự, HOT
Luận văn: Di chúc chung của vợ chồng theo pháp luật Dân sự, HOT
 
Hậu quả pháp lý của việc nam, nữ chung sống như vợ chồng, HAY
Hậu quả pháp lý của việc nam, nữ chung sống như vợ chồng, HAYHậu quả pháp lý của việc nam, nữ chung sống như vợ chồng, HAY
Hậu quả pháp lý của việc nam, nữ chung sống như vợ chồng, HAY
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản trong các vụ án ly hôn theo pháp luật...
Luận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản trong các vụ án ly hôn theo pháp luật...Luận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản trong các vụ án ly hôn theo pháp luật...
Luận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản trong các vụ án ly hôn theo pháp luật...
 
Luận Văn Thạc Sĩ Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án
Luận Văn Thạc Sĩ Xét Xử Sơ Thẩm Vụ ÁnLuận Văn Thạc Sĩ Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án
Luận Văn Thạc Sĩ Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án
 
Luận Văn Thạc Sĩ Xét Xử Sơ Thẩm Các Vụ Án Ly Hôn
Luận Văn Thạc Sĩ Xét Xử Sơ Thẩm Các Vụ Án Ly HônLuận Văn Thạc Sĩ Xét Xử Sơ Thẩm Các Vụ Án Ly Hôn
Luận Văn Thạc Sĩ Xét Xử Sơ Thẩm Các Vụ Án Ly Hôn
 
Luận văn: Chế độ hôn sản trong Luật hôn nhân, HOT
Luận văn: Chế độ hôn sản trong Luật hôn nhân, HOTLuận văn: Chế độ hôn sản trong Luật hôn nhân, HOT
Luận văn: Chế độ hôn sản trong Luật hôn nhân, HOT
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế
Luận văn: Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên HuếLuận văn: Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế
Luận văn: Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế
 
Báo Cáo Thực Tập Tại Toà Án Nhân Dân Quận Gò Vấp.docx
Báo Cáo Thực Tập Tại Toà Án Nhân Dân Quận Gò Vấp.docxBáo Cáo Thực Tập Tại Toà Án Nhân Dân Quận Gò Vấp.docx
Báo Cáo Thực Tập Tại Toà Án Nhân Dân Quận Gò Vấp.docx
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocBai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocVnPhan58
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếHệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếngTonH1
 
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )lamdapoet123
 
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập PLDC.pdf
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập  PLDC.pdf200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập  PLDC.pdf
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập PLDC.pdfdong92356
 
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào môBryan Williams
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptxCHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx22146042
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11zedgaming208
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếMa trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếngTonH1
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Học viện Kstudy
 

Recently uploaded (20)

Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocBai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếHệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
 
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
 
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập PLDC.pdf
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập  PLDC.pdf200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập  PLDC.pdf
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập PLDC.pdf
 
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptxCHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếMa trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
 

Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ************* NGUYỄN THỊ THƠM CĂN CỨ LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM NĂM 2014 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ************* NGUYỄN THỊ THƠM CĂN CỨ LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM NĂM 2014 Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự Mã số: 60 38 01 03 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Lan HÀ NỘI - 2015
  • 3. 1 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy, tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn của mình. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Nguyễn Thị Thơm
  • 4. 2 MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 5 CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CĂN CỨ LY HÔN.................. 11 1.1. Khái niệm về ly hôn và căn cứ ly hôn...............................................11 1.1.1. Khái niệm ly hôn .........................................................................11 1.1.2. Khái niệm căn cứ ly hôn.............................................................14 1.1.3. Ý nghĩa của việc quy định căn cứ ly hôn...................................15 1.2. Khái lược pháp luật Việt Nam về căn cứ ly hôn qua các giai đoạn lịch sử ..........................................................................................................18 1.2.1. Căn cứ ly hôn theo pháp luật thời kỳ phong kiến. ....................19 1.2.2. Căn cứ ly hôn theo pháp luật thời kì Pháp thuộc......................21 1.2.3. Căn cứ ly hôn từ năm 1945 tới nay............................................23 1.2.4. Căn cứ ly hôn của luật hôn nhân gia đình từ năm 1975 đến nay. 26 1.3. Căn cứ ly hôn theo pháp luật của một số quốc gia............................30 1.3.1. Căn cứ ly hôn theo pháp luật nước Pháp ....................................30 1.3.2. Căn cứ ly hôn theo pháp luật Thái Lan.......................................30 CHƢƠNG 2: CĂN CỨ LY HÔN THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH ... 33 2.1. Căn cứ ly hôn trong trường hợp thuận tình ly hôn...........................33 2.2. Căn cứ ly hôn trong trường hợp ly hôn do một bên vợ hoặc chồng yêu cầu.........................................................................................................39 2.2.1. Trường hợp có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. ................................40
  • 5. 3 2.2.2. Vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn51 2.3 Căn cứ ly hôn trong trường hợp ly hôn theo yêu cầu của cha, mẹ, người thân thích khác ................................................................................53 CHƢƠNG 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CĂN CỨ LY HÔN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ................................................................................................... 60 3.1 Nhận xét chung.....................................................................................60 3.2. Thực tiễn áp dụng căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 qua một số vụ án cụ thể.............................................................71 3.3 Một sô kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh pháp luật về căn cứ ly hôn...............................................................................................77 3.3.1 Hoàn thiện pháp luật về căn cứ ly hôn.............................................78 3.3.2. Nâng cao nhận thức, kỹ năng, nghiệp vụ cho cán bộ Tòa án........81 3.3.3 Nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật về ly hôn và căn cứ ly hôn cho người dân .............................................................................................82 KẾT LUẬN.................................................................................................... 85
  • 6. 4 DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT HN&GĐ : Hôn nhân và gia đình TAND : Tòa án nhân dân ThS : Thạc sỹ TTDS : Tố tụng dân sự BLDS : Bộ luật dân sự
  • 7. 5 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của nghiên cứu đề tài Luật Hôn nhân và gia đình là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, được tạo thành bởi nhiều chế định khác nhau như chế định kết hôn, chế định ly hôn nhằm điều chỉnh những quan hệ xã hội trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình như quan hệ nhân thân, quan hệ tài sản giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái, giữa các thành viên trong gia đình với nhau. Tuy nhiên, so với các quan hệ trong lĩnh vực pháp luật khác thì quan hệ pháp luật trong hôn nhân gia đình đặc biệt hơn. Chế định Ly hôn được coi là chế định quan trọng, thiết yếu của Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam. Đời sống hôn nhân gia đình luôn là một vấn đề rất nhạy cảm và phức tạp. Hiện nay, tình trạng ly hôn ngày càng có xu hướng tăng cao. Lĩnh vực hôn nhân, gia đình đã được nhà nước ta quan tâm từ rất lâu thể hiện qua các văn bản Luật điều chỉnh lĩnh vực này. Vậy Luật Hôn nhân & Gia đình 2014 thay thế cho Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã có những qui định như thế nào về căn cứ ly hôn và việc áp dụng các thực tiễn này trong thực tiễn xét xử ra sao? Thực tiễn thời gian qua cho thấy, số lượng vụ án ly hôn xảy ra rất nhiều và có xu hướng tăng mạnh, bên cạnh đó có nhiều vụ án chưa được xử lý, giải quyết thỏa đáng, chưa đúng căn cứ lý hôn theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam. Có nhiều nguyên nhân của vấn đề này đó là: chuyên môn nghiệp vụ chưa đồng đều, một số ít công chức chưa đạt chuẩn về trình độ, chủ yếu mới qua tập huấn đào tạo, chế độ chính sách còn thấp. Việc thực thi công vụ do đó vừa thiếu tính chuyên nghiệp, vừa không đáp ứng kịp thời yêu cầu của người dân. Khi đời sống hôn nhân không thể duy trì được nữa thì ly hôn là một giải pháp cần thiết cho cả đôi bên vợ chồng cũng như cho xã hội . Ly hôn có
  • 8. 6 thể coi là điểm cuối của hôn nhân khi quan hê ̣này thực sự tan rã. Ly hôn giải thoát cho các că ̣p vợchồng và những thành viên trong gia đình khỏi xung đột, mâu thuẫn bế tắc trong cuộc sống . Dù quan hệ gia đình có đổ vỡ thì sự bình đẳng về quyền và lợi ích giữa vợ và chồng vẫn được đảm bảo. Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 ra đời đã bảo vệ quyền lợi của mọi thành viên trong gia đình, hướng tới xây dựng hạnh phúc, mô hình xã hội chủ nghĩa, là căn cứ để Tòa án giải quyết các vụ việc hôn nhân gia đình một cách thâú tình đạt lý. Bằng các quy đi ̣nh về ly hôn, Nhà nước cũng hướng tới bảo vệ lợi ích của gia đình, của xã hội khi xác định những điều kiện cho phép chấm dứ t quan hê ̣hôn nhân trước pháp luâ ̣t, gọi chung là căn cứ ly hôn. Tuy nhiên, căn cứ ly hôn hiện nay rất chung chung, khó xác định, ảnh hưởng đến công tác xét xử ly hôn. Các căn cứ ly hôn được quy định tại điều 55 và Điều 56 của Luật HN&GĐ 2014 còn chưa cụ thể, và chưa có nghị định hướng dẫn về việc áp dụng các căn cứ ly hôn đó. Bởi vậy, Với mong muốn tìm hiểu rõ hơn về các căn cứ ly hôn, tác giả lựa chọn nội dung “Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đìnhViệt Nam năm 2014” để phân tích làm rõ nội dung của vấn đề căn cứ ly hôn, từ đó đưa ra các kiến nghị hoàn thiện hơn quy định của pháp luật. Từ đó, bản thân tôi sẽ được nâng cao hiểu biết về các căn cứ ly hôn theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam. Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài sẽ có thể góp phần nâng cao hiệu quả của pháp luật hôn nhân và gia đình nói chung và hoạt động giải quyết các vụ án ly hôn nói riêng trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay cũng như tại các địa phương khác ở nước ta. 2. Tình hình nghiên cứu Vấn đề căn cứ ly hôn trong luật hôn nhân và gia đình Việt Nam cũng đã và đang được nhắc tới khá nhiều trong các công trình nghiên cứu khoa học.
  • 9. 7 Một số công trình nghiên cứu khoa học đề cập sâu đến vấn đề về này phải kể đến đó là: Bài viết “Căn cứ ly hôn trong cổ luật Việt Nam”, thạc sỹ Nguyễn Thị Thu Vân, tạp chí Nhà nước và pháp luật.- 8/2005.- Số 208.- Tr.55-61. Bài viết đề cập đến diện mạo của căn cứ ly hôn trong cổ luật Việt Nam, giai đoạn được tính từ khi ra đời Bộ luật Hồng Đức đến trước thời kỳ pháp thuộc, khi pháp luật Việt Nam nói chung và căn cứ ly hôn nói riêng chịu ảnh hưởng sâu sắc của học thuyết Nho giáo và tư tưởng pháp lý Trung Hoa. Khóa luận tốt nghiệp “Căn cứ ly hôn: Quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng”, tác giả Dương Thị Hồng Cẩm; Người hướng dẫn: ThS. Lê Thị Mận - Tp. Hồ Chí Minh, 2013. 51tr. Khoá luận tốt nghiệp “Căn cứ ly hôn theo quy định pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam hiện hành” của tác giả Nguyễn Thị Kim Oanh; Người hướng dẫn: ThS.Lê Vĩnh Châu . Tp.Hồ Chí Minh, 2015. - 58tr. Luận văn thạc sỹ: “Căn cứ ly hôn – một số vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng tại Lạng Sơn”, của tác giả Nông Thị Nhung, năm 2014. Như vậy, vấn đề căn cứ ly hôn trong luật hôn nhân và gia đình Việt Nam đã được nghiên cứu khá nhiều trong các công trình nghiên cứu khoa học. Đa phần các đề tài trên mới chỉ nghiên cứu các căn cứ ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2000, hiện chưa có nhiều đề tài nghiên cứu tới căn cứ ly hôn theo pháp luật HN&GĐ 2014. Như vậy, đề tài “Căn cứ ly hôn theo Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014 ” vẫn là một nội dung nghiên cứu khá mới mẻ. Vì vậy, em đã lựa chọn đề tài này và lấy thực tiễn thành phố Hà Nội để làm luận văn tốt nghiệp của mình. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
  • 10. 8 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài: Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 và các văn bản pháp luật có liên quan tới vấn đề ly hôn. Với việc đi sâu nghiên cứu các quy định về ly hôn của các nước như Pháp, Thái Lan; ly hôn theo pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ và các quy định hiện hành về ly hôn, thực tế giải quyết các vụ án về ly hôn để cho thấy sự thừa kế, phát triển cũng như những bất cập của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, đồng thời so sánh Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 với Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, để từ đó có những nhận xét, những kiến nghị phù hợp, nhằm đóng góp ý kiến về những mặt ưu điểm và hạn chế của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Phạm vi nghiên cứu của đề tài là vấn để về căn cứ ly hôn theo pháp luật Việt Nam – một đề tài không bao gồm giải quyết việc ly hôn có yếu tố nước ngoài và không nghiên cứu trình tự, thủ tục tố tụng về ly hôn. Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận của căn cứ ly hôn theo pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014; làm rõ thực trạng ly hôn khi áp dụng căn cứ ly hôn; đưa ra quan điểm, đề xuất giải pháp về căn cứ ly hôn để hoàn thiện hơn pháp luật về hôn nhân và gia đình Việt Nam. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài Đề tài khoa học được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh về gia đình, và đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu khoa học đó là phương pháp tư duy trừu tượng, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp quy nạp và diễn dịch, phương pháp hệ thống và phương pháp so sánh.
  • 11. 9 5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là dựa trên cơ sở cac squy định của Luật Hôn nhân và gia đình về ly hôn, có sự kết hợp với các thủ tục giải quyết các vụ việc ly hôn để phân tích, đánh giá, từ đó kiến nghị nhằm hoàn thiện vấn đề ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam. Luận văn thực hiện những nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu những vấn đề khái quát chung về ly hôn như: khái niệm ly hôn, căn cứ ly hôn, tìm hiểu một cách đầy đủ có hệ thống về chế định ly hôn trong pháp luật Việt Nam qua các giai đoạn phát triển. - Nghiên cứu những vấn đề về căn cứ ly hôn, đồng thời so sánh căn cứ ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 với Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Từ đó rút ra những nhận xét về căn cứ ly hôn, những ưu điểm và hạn chế của quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam. - Nghiên cứu phân tích thực trạng về việc thực hiện các căn cứ ly hôn của các quy định của pháp luật thông qua một số vụ án điển hình, đồng thời đưa ra các kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện hơn các quy định của pháp luật về căn cứ ly hôn trong pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam. 6. Điểm mới của Luận văn Luận văn phân tích được những căn cứ ly hôn theo luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Ngoài ra, Luận văn đưa ra được những vấn đề thực tiễn, khó khăn và tồn tại của căn cứ ly hôn, cũng như những ưu điểm, hạn chế của các quy định về căn cứ ly hôn theo pháp luật hôn nhân và gia đình năm 2014 so với Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Đặc biệt, bài viết đi sâu vào phân tích các căn cứ ly hôn, nhận xét đưa ra những ưu điểm, hạn chế của các quy định về căn cứ ly hôn. Trên cơ sở đó, đưa ra các quan điểm, giải pháp về căn cứ ly hôn theo pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam.
  • 12. 10 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được chia thành 3 chương: Chương 1: Khái quát chung về căn cứ ly hôn. Chương 2: Căn cứ ly hôn theo pháp luật hiện hành. Chương 3: Thực tiễn áp dụng căn cứ ly hôn và một số kiến nghị.
  • 13. 11 CHƢƠNG 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CĂN CỨ LY HÔN 1.1. Khái niệm về ly hôn và căn cứ ly hôn 1.1.1. Khái niệm ly hôn Cuộc sống vợ chồng thường xuyên xảy ra những xung đột, mâu thuẫn sâu sắc đến mức họ không thể chung sống với nhau nữa. Ly hôn là giải pháp cho cả vợ và chồng cùng các thành viên khác khi mà tình cảm vợ chồng đã thực sự tan vỡ. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác –Lênin, quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin thể hiện quyền tự do kết hôn của nam nữ nhằm xác lập quan hệ vợ chồng và quyền tự do ly hôn của vợ chồng nhằm chấm dứt quan hệ vợ chồng và quyền tự do ly hôn theo đúng bản chất của một sự kiện – đó là hôn nhân "đã chết", sự tồn tại của nó chỉ là bề ngoài và lừa dối. Pháp luật về ly hôn của mỗi nước trên thế giới là khác nhau. Pháp luật của Nhà nước xã hội chủ nghĩa công nhận quyền tự do ly hôn chính đáng của vợ chồng, không cấm hoặc đặt ra những những điều kiện nhằm hạn chế quyền tự do ly hôn. Pháp luật của nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản quy định có thể cấm ly hôn, không quy định căn cứ ly hôn mà chỉ công nhận quyền vợ chồng được sống tách biệt nhau bằng chế định ly thân; bằng hạn chế quyền ly hôn theo thời gian xác lập quan hệ hôn nhân; theo độ tuổi của vợ chồng; và thường quy định xét xử ly hôn dựa trên cơ sở lỗi của vợ, chồng hay của cả hai vợ chồng. Một số nước Châu Âu mới từ bỏ quan niệm cấm ly hôn cách đây không lâu: ở Ý từ năm 1975, ở Tây Ban Nha từ năm 1982,... hay ở các nước theo đạo Thiên Chúa, với quan niệm sự gắn bó giữa vợ chồng để trở nên một là do Thiên Chúa thiết lập. Bởi đó, “Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly”, vì phá đổ sự kết hợp này chính là phá đổ công trình của
  • 14. 12 Thiên Chúa, là bôi bác hình ảnh của Thiên Chúa đã có đó trong cuộc sống hôn nhân. Theo từ điển luật học của Viện khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp, ly hôn được hiểu là: “chấm dứt quan hệ vợ chồng do Tòa án nhân dân công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng”[31, Tr. 460]. Cách giải thích này được sử dụng nhiều trong các nghiên cứu, giải thích cho các đương sự liên quan trong thực tiễn giải quyết vụ việc ly hôn. Theo khái niệm này, ly hôn được phản ánh rõ nét, đó là việc “chấm dứt quan hệ vợ chồng”, nghĩa là giữa hai bên vợ chồng không còn tồn tại quan hệ hôn nhân, mọi quyền và nghĩa vụ của hai bên sẽ được pháp luật giải quyết thỏa đáng, đảm bảo quyền lợi cho các bên. Theo Lê-nin: “thực ra tự do ly hôn tuyệt không có nghĩa là làm “tan rã” những mối liên hệ gia đình mà ngược lại, nó củng cố những mối liên hệ đó trên những cơ sở dân chủ, những cơ sở duy nhất có thể có và vững chắc trong một xã hội văn minh” [32, Tr. 355], Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, ly hôn là hiện tượng xã hội mang tính giai cấp sâu sắc. Trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử, ở mỗi chế độ xã hội khác nhau, giai cấp thống trị đều thông qua Nhà nước, bằng pháp luật (hay tục lệ) quy định chế độ hôn nhân phù hợp với ý chí của Nhà nước. Tức là Nhà nước bằng pháp luật quy định những điều kiện nào xác lập quan hệ vợ chồng, đồng thời xác lập trong những điều kiện căn cứ nhất định mới được phép xóa bỏ (chấm dứt) quan hệ hôn nhân. Trong khoa học pháp lý nói chung và khoa học Luật hôn nhân và gia đình nói riêng, việc đưa ra khái niệm đầy đủ về ly hôn có ý nghĩa quan trọng, phản ánh quan điểm chung nhất của nhà nước ta về ly hôn, tạo cơ sở lý luận cho việc xác định bản chất pháp lý của ly hôn, xác định nội dung, phạm vi
  • 15. 13 điểu chỉnh của các quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình về ly hôn và các vấn đề phát sinh khác. Điều 8 Khoản 8 Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 quy định: “8. Ly hôn là chấm dứt quan hệ hôn nhân do Tòa án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc của chồng hoặc cả hai vợ chồng;”. Điều 3 Khoản 14 Luât Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014 quy định: “Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án”. Nhìn chung, khái niệm ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có sự thay đổi cơ bản so với khái niệm ly hôn trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Tuy nhiên, về bản chất, hai điều luật đó đều phản ánh được ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng, quan hệ hôn nhân, để giúp các bên trong quan hệ hôn nhân được giải thoát khỏi tình trạng hôn nhân đổ vỡ. Khái niệm ly hôn trong luật hôn nhân và gia đình năm 2014 mang tính chất chặt chẽ hơn khi đề cập tới nội dung: “bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án”. Thông qua đó để phản ánh tính quyền lực của nhà nước, cũng như phản ánh bản chất của ly hôn nói riêng là mang tính chất giai cấp. Tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền xét xử, có vai trò quan trọng trong việc đóng góp phần tuân thủ, chấp hành các quy định của pháp luật. phán quyết ly hôn của Tòa án thể hiện dưới hình thức: bản án, quyết định. Nếu hai bên vợ chồng thuận tình ly hôn, giải quyết với nhau được tất cả các nội dung sau khi ly hôn thì Tòa án công nhận ly hôn và ra quyết định dưới hình thức quyết định công nhận thuận tình ly hôn. Nếu vợ chồng mâu thuẫn, tranh chấp thì Tòa án xét xử và ra phán quyết ly hôn dưới dạng bản án. Việc giải quyết ly hôn là tất yếu đối với quan hệ hôn nhân đã thực sự tan vỡ, điều đó là hoàn toàn có lợi cho vợ, chồng, con cái và các thành viên trong gia đình. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực của việc ly hôn, thì ly
  • 16. 14 hôn có nhiều điểm tiêu cực: gây chia rẽ quan hệ gia đình, gây ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống và tương lai của các thành viên, đặc biệt là các con, bên cạnh đó còn ảnh hưởng tới xã hội. Như vậy, ly hôn chính là sự kiện pháp lý làm chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Ly hôn dựa trên sự tự nguyện của vợ chồng, nó là kết quả của hành vi có ý chí của vợ chồng khi thực hiện quyền ly hôn của mình. 1.1.2. Khái niệm căn cứ ly hôn Hôn nhân là hiện tượng mang tính xã hội mang tính giai cấp sâu sắc. Ở mỗi chế độ xã hội khác nhau, giai cấp thống trị đều thông qua nhà nước, bằng pháp luật quy định chế độ hôn nhân phù hợp với lợi ích của giai cấp mình nhà nước xác định rõ những trường hợp được phép kết hôn và những trường hợp được phép ly hôn. Nhà nước quy định những căn cứ để được kết hôn và những điều kiện để được ly hôn, ý chí của các bên đương sự không phải là điều kiện quyết định để phá bỏ hôn nhân mà việc ly hôn phải căn cứ vào điều kiện được quy đinh trong Luật hôn nhân và gia đình, nó phản ánh hôn nhân không thể tồn tại được nữa nghĩa là hôn nhân đã chết. Việc quy định những căn cứ ly hôn phải phù hợp với bản chất của sự việc, phù hợp với tình trạng thực tế của hôn nhân, phải xác định trong điều kiện nào thì cuộc hôn nhân đã không còn tồn tại. Việc tòa án xét xử cho ly hôn chỉ là công việc công nhận một thực tế khách quan là cuộc hôn nhân đó không tồn tại nữa. Chính vì vậy mà căn cứ ly hôn là rất khó, nó đòi hỏi phải hết sức khoa học, phù hợp với bản chất, đạo đức Nhà nước xã hội chủ nghĩa, phù hợp với ý chí và nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân lao động.
  • 17. 15 Như vậy, căn cứ ly hôn là những tình tiết hay các điều kiện pháp lý do pháp luật quy định. Và chỉ khi có những tình tiết, hay điều kiện đó, thì Tòa án mới quyết định cho vợ chồng ly hôn. Đó là điều kiện cần và đủ được quy định một cách thống nhất trong pháp luật, dựa trên các điều kiện đó thì Tòa án cho phép vợ chồng ly hôn. 1.1.3. Cơ sở và ý nghĩa của việc quy định căn cứ ly hôn Hệ thống pháp luật Hôn nhân và gia đình của nhà nước ta từ năm 1945 đến nay đã quy định căn cứ ly hôn ngày càng hoàn thiện, phù hợp, là cơ sở pháp lí để tòa án giải quyết các án kiện ly hôn. Cơ sở để quy định căn cứ ly hôn theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin thể hiện quyền tự do kết hôn của nam nữ nhằm xác lập quan hệ vợ chồng và quyền tự do ly hôn của vợ chồng nhằm chấm dứt quan hệ vợ chồng và quyền tự do ly hôn theo đúng bản chất của một sự kiện – đó là hôn nhân "đã chết", sự tồn tại của nó chỉ là bề ngoài và lừa dối. Đương nhiên, không phải ý chí của nhà lập pháp, cũng phải sự tùy tiện của các cá nhân, mà chỉ bản chất của sự kiện mới quyết định được cuộc sống hôn nhân này "đã chết" hay chưa... Nhà lập pháp chỉ có thể xác định những điều kiện bản chất của mối quan hệ, theo đó những trường hợp nào về mặt pháp lý hôn nhân được coi là sự tan vỡ nghĩa là về thực chất, hôn nhân tự nó đã phá vỡ và việc tòa án cho phép phá bỏ hôn nhân chỉ là việc ghi biên bản công nhận sự tan vỡ bên trong của nó và chỉ khi nào hôn nhân xét về bản chất không còn là hôn nhân nữa, tòa án mới được xử cho ly hôn. Hệ tư tưởng tôn giáo luôn có ảnh hưởng không nhỏ tới các quy định của pháp luật, đặc biệt là vấn đề ly hôn là quan hệ tình cảm, bị chi phối bởi các tư tưởng tôn giáo, xã hội đương thời. Đối với những nước chịu ảnh hưởng
  • 18. 16 của tôn giáo theo kinh thánh, hôn nhân là do sự tác hợp của Chúa – không thể tự ý xóa bỏ nên nhiều nước chịu ảnh hưởng của tôn giáo không cho phép vợ chồng ly hôn. Chế độ Ngô Đình Diệm với Luật gia đình năm 1959 quy định vấn đề ly thân nhưng lại cấm ly hôn. Căn cứ ly hôn được quy định trên cơ sở các điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa trong từng thời kỳ lịch sử. Pháp luật phong kiến đề cao bảo vệ quyền gia trưởng của người đàn ông, trách nhiệm của người đàn ông. Do đó, pháp luật phong kiến luôn “trọng nam, khinh nữ” gây ra sự bất bình đẳng trong vấn đề ly hôn giữa vợ và chồng. Căn cứ ly hôn trên cơ sở đạo đức Nho giáo, đặt ra đối với người đàn ông với vai trò gia trưởng trong gia đình. Tới thời kỳ thực dân Pháp, chủ nghĩa nhân dân ảnh hưởng tới từng gia đình, từng quy định pháp lý. Luật cho phép thuận tình ly hôn trong trường hợp vợ chồng không hợp tính tình. Nhiều quy định của pháp luật hôn nhân thời kỳ Pháp thuộc có ảnh hưởng rất lớn tới đời sống nhân dân ta. Khi tới thời kỳ xã hội chủ nghĩa, kinh tế phát triển, vị thế của người phụ nữ ngày càng được nâng cao. Các quy định của pháp luật về ly hôn nói chung và căn cứ ly hôn nói riêng có sự quy định cụ thể, rõ ràng hơn, bình đẳng hơn giữa vợ và chồng, nhằm bảo vệ quyền lợi của các bên. Sắc lệnh số 159/SL quy định căn cứ ly hôn vẫn dựa trên cơ sở “lỗi” của vợ chồng. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 (Điều 26), Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 (Điều 40), Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 (Điều 89) và hiện nay là Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 (Điều 55 và Điều 56) đã quy định căn cứ ly hôn theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin. Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam trước đây không quy định những căn cứ ly hôn riêng biệt mà quy định căn cứ ly hôn chung nhất, dựa vào bản chất của quan hệ hôn nhân đã tan vỡ. Nhưng với Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đã có
  • 19. 17 sự lồng ghép quy định về căn cứ ly hôn vào quy định về thuận tình ly hôn cũng như ly hôn theo yêu cầu của một bên. Như vậy, căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 của Nhà nước ta được quy định dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, từ thực tiễn kinh tế, văn hóa, xã hội. Các căn cứ ly hôn có cơ sở khoa học và đã qua thực tiễn kiểm nghiệm trong mấy chục năm qua, từ khi Nhà nước ta ban hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959. Nhà nước quy định về căn cứ ly hôn, đây là căn cứ pháp lý, công vụ để Tòa án có thể giải quyết yêu cầu ly hôn một cách chính xác và thỏa đáng. Quy định căn cứ ly hôn trong pháp luật là cần thiết, có ý nghĩa quan trọng được thể hiện trong một số nội dung sau: Thứ nhất, quy định căn cứ ly hôn đảm bảo lợi ích của giai cấp thống trị, của nhà nước, của xã hội trong việc điều chỉnh quan hệ gia đình, trong đó có quan hệ vợ chồng. Xã hội muốn vững mạnh thì tế bào của xã hội – gia đình phải ổn định. Nhà nước chỉ chấp nhận cho phép chấm dứt quan hệ hôn nhân giữa vợ và chồng khi việc ly hôn không trái với lợi ích gia đình. Ví dụ: trong pháp luật phong kiến, lợi ích của gia đình được chú trọng đứng trên lợi ích của vợ và chồng, do đó, khi có căn cứ làm ảnh hưởng tới lợi ích của gia đình, thì vợ chồng được ly hôn. Thứ hai, căn cứ ly hôn đảm bảo sự công bằng về lợi ích giữa các bên đương sự. Khi giải quyết ly hôn, cần hiểu điều đó nói lên một thực trạng hôn nhân đã tan vỡ, quan hệ vợ chồng không thể tồn tại được nữa, vì “sự tồn tại của nó chỉ là bề ngoài và giả dối” và ly hôn là một giải pháp tích cực để giải phóng cho vợ chồng, đảm bảo lợi ích của vợ chồng, của gia đình và xã hội. Ly hôn bảo đảm quyền lợi ích các bên, giải thoát xung đột, bế tắc trong đời
  • 20. 18 sống hôn nhân, đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của các bên trong quan hệ hôn nhân. Thứ ba, quy định căn cứ ly hôn giúp cho vợ chồng nhận thức, điều chỉnh hành vi của mình để có thể tự dàn xếp, thỏa thuận để quan hệ vợ chồng tốt đẹp hơn; hoặc đưa ra quyết định ly hôn. Thông qua đó, là biện pháp hữu hiệu trong việc củng cố quan hệ gia đình, bảo vệ lợi ích chính đáng của các đương sự và trên hết là bảo vệ cuộc hôn nhân đã được xác lập, vì chỉ có người trong cuộc mới thực sự hiểu tình trạng thực tế của cuộc sống vợ chồng. Thứ tư, căn cứ ly hôn là cơ sơ pháp lý để cơ quan có thẩm quyền xem xét giải quyết việc ly hôn của vợ chồng khi có yêu cầu. Tòa án chỉ giải quyết ly hôn khi việc ly hôn là cần thiết, phù hợp với thực tế của quan hệ vợ chồng và đảm bảo sự thống nhất trong việc xét xử. Trường hợp Tòa án xét thấy quan hệ hôn nhân của vợ và chồng không có đủ căn cứ để đưa ra quyết định, bản án ly hôn thì Tòa sẽ không ra quyết định, bản án ly hôn. Đồng thời, Tòa tiến hành cho các bên hòa giải tại cơ sở, phân tích, giải thích để cho các bên hiểu và suy nghĩ lại. Thứ năm, căn cứ ly hôn nhằm bình ổn quan hệ hôn nhân, bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển của xã hội, góp phần củng cố chế độ một vợ một chồng, tự nguyện, tiến bộ, góp phần khẳng định nguyên tắc bình đẳng giữa vợ chồng. Căn cứ ly hôn là cơ sở đảm bảo sự nhất quán, thống nhất trong việc xây dựng những chế định, những quy phạm pháp luật hôn nhân và gia đình. Khi tế bào gia đình của một xã hội ổn định thì xã hội đó cũng được ổn định. Các quy định về căn cứ ly hôn được quy định chặt chẽ thì sẽ góp phần giảm tình trạng ly hôn, khi tình trạng hôn nhân chưa đáp ứng đủ các căn cứ ly hôn theo pháp luật quy định thì Tòa sẽ không giải quyết ly hôn. Căn cứ ly hôn thể hiện sự bình đẳng ở việc pháp luật không “thiên vị” chủ thể nào, pháp luật quy định quyền yêu cầu ly hôn, đưa ra và chứng minh các căn cứ ly hôn là quyền của
  • 21. 19 cả vợ và chồng. Điều này được quy định trong Luật HN&GĐ 2014 là hoàn toàn tiến bộ so với pháp luật ở những thời kỳ trước – thiên vị người chồng hơn. 1.2. Khái lược pháp luật Việt Nam về căn cứ ly hôn qua các giai đoạn lịch sử 1.2.1. Căn cứ ly hôn theo pháp luật thời kỳ phong kiến. Lịch sử Việt Nam gắn liền với chế độ phong kiền tập quyền kéo dài hàng nghìn năm. Thời kỳ phong kiến có bộ luật Quốc triều hình luật ban hành dưới triều vua Lê Thánh Tông (Luật Hồng Đức) và Hoàng Việt Luật lệ được ban hành dưới triều vua Gia Long (Luật Gia Long). Bộ quốc triều hình luật gồm sáu quyển, 13 chương, trong đó có 3 quyển gồm 58 điều quy định về hôn nhân. Trong pháp luật phong kiến Việt Nam, căn cứ ly hôn thường được biết dưới dạng “duyên cớ ly hôn”, các căn cứ này được chia thành 3 loại: thứ nhất: người chồng đơn phương bỏ vợ khi vợ phạm “thất xuất”; ly hôn bắt buộc và ly hôn thuận tình. Luật pháp về hôn nhân và gia đình ở thời kỳ phong kiến chịu ảnh hưởng của nhiều tư tưởng triết học Nho giáo, Phật giáo; có liên quan đến nhiều phong tục và đạo đức, rất nhiều điều luật bắt nguồn từ phong tục tập quán của Việt Nam và đi sâu vào tiềm thức và thành thói quen ứng xử trong nhân dân. Dưới thời Lê, pháp luật phong kiến đã quy định căn cứ ly hôn phản ánh sự bất bình đẳng, tùy tiện và có lợi cho đàn ông, lỗi luôn thuộc về người đàn bà. Quan hệ hôn nhân gia đình được thiêt lập trên những nguyên tắc mang tính chất “bảo thủ”: bảo đảm tôn ti trật tự, bình đẳng trong quan hệ giữa các thành viên, trọng nam khinh nữ, xác lập quyền tối cao của người gia trưởng…
  • 22. 20 Trong quan hệ ly hôn, người chồng có quyền tự ý bỏ vợ hoặc hai bên thỏa thuận hoặc bị bắt buộc. Theo điều 388 của bộ Luật Hồng Đức, người chồng có quyền bỏ vợ khi vợ phạm tội “thất xuất” - bảy lỗi của người vợ, người chồng buộc phải bỏ vợ, nếu không bỏ vợ thì pháp luật cũng buộc họ phải bỏ, đồng thời người chồng còn bị xử biếm. Điều 310 Bộ luật Hồng Đức quy định khi vợ hay nàng hầu phạm lỗi sau mà nếu người chồng không bỏ sẽ bị chém đầu bao gồm:“ không có con, dâm đãng, ghen tuông, trộm cắp, bất hòa, ác tật, không kính trọng bố mẹ chồng”… Như vậy sự bất bình đẳng được thể hiện giữa vợ và chồng bởi chỉ thừa nhận quyền bỏ vợ đơn phương từ phía người chồng. Trường hợp ly hôn bắt buộc, Bộ luật Hồng Đức cũng có những quy định để bảo vệ quyền lợi của người vợ: Điều 308 có quy định: “Phàm chồng đã bỏ lửng vợ năm tháng mà không đi lại (vợ được trình với quan sở tại và quan làm chứng), thì mất vợ. Nếu vợ đã có con thì cho thời hạn một năm, vì việc quan phải đi xa thì không theo luật này. Nếu đã bỏ vợ mà ngăn người khác lấy vợ mình thì phải tội biếm.” Như vậy, pháp luật thời kỳ này cũng có những quy định bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ. Tuy nhiên, trong cái xã hội phong kiến, người phụ nữ bị xem thường thì mặc dù pháp luật phong kiến có quy định cho họ một chút đi chăng nữa thì thực tế quyền lợi đó không có điều kiện để thực hiện. Người đàn bà trong xã hội phong kiến đời sống bị duy trì kìm hãm trong vòng tối tăm hà khắc của xã hội. Như vậy, những điều kiện quy định về ly hôn trong pháp luật của nhà nước phong kiến dưới thời Lê đã không phản ánh thực chất được tình trạng cuộc hôn nhân tan vỡ hay chưa mà nó chỉ là những cái cớ để người chồng bỏ vợ mà thôi.
  • 23. 21 Dưới triều Nguyễn, Luật Gia Long có một số căn cứ ly hôn điển hình như sau: quy định các trường hợp bắt buộc ly hôn đó là trường hợp vợ mưu sát chồng, chồng bán vợ làm lẽ, chồng cho thuê hay cầm cố … Điều 108 Bộ luật Gia Long quy định: “Khi người vợ không ở trong trường hợp “thất xuất” hay không làm một hành vi nào tuyệt nghĩa vợ chồng, nếu người chồng tự tiện bỏ vợ sẽ bị phạt 80 trượng”. Trong trường hợp người vợ phạm vào điều “thất xuất” nhưng chứng minh được rằng ở trong tình trạng “tam bất khứ” mà người chồng vẫn bỏ thì người chồng bị phạt trượng và buộc hai vợ chồng về đoàn tụ. Có ba trường hợp người chồng không được bỏ vợ (tam bất khứ): “Tiền bần tận, hậu phú quý (khi lấy nhau vợ chồng nghèo nhưng sau giàu có), giữ canh niên tam tang (khi vợ đã để tang nhà chồng 3 năm), sở thú vô sở quy (khi lấy nhau vợ còn bà con hàng xóm nhưng khi bỏ nhau, vợ không có nơi nương tựa). Trong trường hợp người vợ “tuyệt nghĩa” mà người chồng vẵn không bỏ thì bị phạt 80 trượng. Quy định này thể hiện tính nhân đạo, quan tâm tới người phụ nữ. Quy định này xuất phát từ phong tục, tình nghĩa vợ chồng nhằm bảo vệ quyền lợi cơ bản tối thiểu nhất của người vợ phù hợp với đạo lý của Việt Nam. Như vậy, Quốc Việt Luật lệ đã có đôi chút tiến bộ so với Luật Hồng Đức về vấn đề ly hôn của vợ chồng, đảm bảo quyền lợi cho phụ nữ hơn, và đã ưng thuận vấn đề ly hôn của cả hai bên mà không xét tội. Thông qua việc nghiên cứu hai bộ luật trên ta thấy căn cứ ly hôn chia làm 3 loại: Thứ nhất, trường hợp “thất xuất” không nằm trong hoàn cảnh “tam bất khứ”. Căn cứ này chỉ dành cho người chồng có quyền bỏ vợ. Thứ hai, trường hợp “tuyệt nghĩa” căn cứ cho người chồng có quyền bỏ vợ, người vợ có quyền bỏ chồng.
  • 24. 22 Thứ ba, thuận tình ly hôn: quy định này mang tính hình thức, trên thực tế ít khi được áp dụng do sự trói buộc chặt chẽ của lễ giáo phong kiến kết hợp với tư tưởng trọng nam khinh nữ hai vợ chồng ít khi có quyền tự do ly hôn. Điểm chung của hai bộ luật trên là đều coi sự đồng tình xin ly hôn theo cả bộ luật Hông Đức và bộ luật Gia Long đều là căn cứ ly hôn. Những quy định “thất xuất” trong bộ luật Gia Long cũng giống như trong bộ luật Hồng Đức. Quan hệ vợ chồng được củng cố bằng nhiều nghĩa vụ khác nhau và được duy trì bởi lễ giáo phong kiến. Các nhà làm luật đã đặt lợi ích, danh dự của gia đình lên trên lợi ích của cá nhân. Nhìn chung, lễ giáo phong kiến có ảnh hưởng mạnh mẽ tới các quy định về căn cứ ly hôn trong pháp luật phong kiến. Như vậy, căn cứ ly hôn được quy định trong pháp luật phong kiến tuân theo trật tự tự nhiên. Ngoài ra còn các trường hợp cưỡng bức ly hôn nếu hai vợ chồng tuyệt nghĩa với nhau. 1.2.2. Căn cứ ly hôn theo pháp luật thời kì Pháp thuộc. Trong thời kỳ Pháp thuộc, nước ta chia thành ba miền và áp dụng ba bộ luật để điều chỉnh các vấn đề hôn nhân và gia đình, trong đó có các căn cứ ly hôn. Có thể khẳng định rằng ở thời kỳ này pháp luật quy định về căn cứ ly hôn có nhiều tiến bộ hơn. Căn cứ ly hôn vẫn dựa trên yếu tố lỗi, tuy nhiên có sự tiến bộ hơn là không chỉ có sự dựa vào lỗi của vợ, chồng mà còn dựa vào lỗi của cả hai người vợ và chồng. Vấn đề ly hôn ở thời kỳ này chủ yếu được xây dựng dựa theo tư tưởng Nho giáo phong kiến, và theo Dân Luật của Pháp năm 1804 với quan điểm thuần túy coi hôn nhân là một hợp đồng do Dân luật điều chỉnh, chính vì vậy, yếu tố lỗi được đặt lên trước tiên.
  • 25. 23 Tại Điều 118 Bộ dân luật Bắc kỳ(1931), Điều 155 Bộ dân luật Trung kỳ (1936), quy định: Ly hôn phải do tòa án xét xử, phải có những lý do đã được quy định trong luật. Cả Bộ Dân luật Bắc kỳ và Bộ Dân luật Trung kỳ đã chia căn cứ ly hôn ra làm 3 loại: Thứ nhất, căn cứ để chồng xin ly hôn: vợ ngoại tình; người vợ thứ đánh chửi, hành hạ vợ chính; vợ tự ý bỏ về nhà mẹ đẻ mặc dù đã được chồng đến gọi về nhà chồng. Tuy nhiên hai bộ luật này cũng quy định cụ thể trường hợp việc bỏ nhà ra đi của vợ là do chồng có thái độ, cách xử xự khiến cuộc sống chung trở nên bức bối hoặc không thể chấp nhận được nữa thì không được coi là căn cứ ly hôn. Thứ hai, căn cứ để vợ xin ly hôn: người chồng không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con; chồng bỏ nhà hơn hai năm (Bộ dân luật bắc kỳ) và hơn một năm (Bộ dân luật Trung kỳ) mà không có lý do chính đáng; chồng đuổi vợ ra khỏi nhà mà không có lý do chính đáng; chồng làm rối loan trật tự thê thiếp. Thứ ba, căn cứ chung cho hai bên xin ly hôn: vợ hay chồng phạm tội đại hình (trừ tội chính trị); vợ hoặc chồng thiếu đaọ đức khiến cuộc sống chung không thể tiếp tục được; vợ hoặc chồng ngược đãi, hành hạ, sỉ nhục bản thân hoặc ông bà, cha mẹ người kia; một người bị bệnh điên hoặc bị bệnh kinh niên ở vĩnh viễn trong bệnh viện. 1.2.3. Căn cứ ly hôn từ năm 1945 tới nay. 1.2.3.1. Quy định cuả pháp luật về căn cứ ly hôn giai đoạn từ 1945- 1954 Sau tháng Tám 1945 Nhà nước tiến hành phong trào “vận động đời sống mới”, nhằm vận động quần chúng nhân dân tự nguyện xóa bỏ những hủ tục phong kiến lạc hậu trong đời sống hôn nhân và gia đình.
  • 26. 24 Năm 1950 nhà nước ta ban hành sắc lệnh 97- SL ngày 22/5/1950 về sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật, có 15 điều trong đó có 8 điều quy định về hôn nhân và gia đình. Sắc lệnh 159- SL ngày 17/11/1950 quy định về vấn đề ly hôn, gồm 9 điều chia thành 3 mục: duyên cớ ly hôn, thủ tục ly hôn và hiệu lực của việc ly hôn. Sắc lệnh 159- SL ngày 17/11/1950 thừa nhận khả năng ly hôn do lỗi, do một các bên mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo, thậm chí do không hợp tính tình ( Điều 2). Đây cũng là một trong những điểm hạn chế của sắc lệnh sắc lệnh 159- SL ngày 17/11/1950. Sắc lệnh quy định duyên cớ ly hôn cho cả hai vợ chồng: vợ, chồng, có quyền ly hôn nếu một bên ngoại tình, một bên can án phạt giam, một bên mắc bệnh điên hoặc bệnh khó chữa; một bên bỏ nhà đi không có duyên cớ chính đáng; vợ chồng tính tình không hợp hoặc đối xử với nhau đến nỗi không thể sống chung được (điều 2). Các văn bản pháp luật dân sự do thực dân Pháp ban hành trước năm 1945 thường quy định căn cứ ly hôn dựa vào “lỗi” của vợ. Nhưng có thể thấy trong giai đoạn (1945-1954) điểm tiến bộ lớn là quy định về quyền yêu cầu ly hôn đã đến với người vợ. Sắc lệnh thực hiện nguyên tắc bảo vệ phụ nữ có thai và thai nhi khi ly hôn. Trường hợp mà người vợ có thai thì vợ hay chồng có thể xin tòa án hoãn đến sau kỳ sinh nở mới xử việc ly hôn ( điều 5). Sắc lệnh 97- SL ngày 22/5/1950 và sắc lệnh 159-SL ngày 17/11/1950 quy định về ly hôn đã được ban hành lúc đó nhằm giải quyết những vấn đề cấp bách, góp phần vào việc xóa bỏ ảnh hưởng của chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến đế quốc, thực hiện bình đẳng giữa nam và nữ. Như vậy, hai sắc lệnh đã có những điểm tiến bộ hơn so với pháp luật hôn nhân thời phong kiến, thể hiện tính dân chủ và tiến bộ của một nền pháp chế mới.
  • 27. 25 1.2.3.2. Quy định cuả pháp luật về căn cứ ly hôn giai đoạn từ 1954-1975 Ở miền Bắc, Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 có hiệu lực kể từ ngày 13/1/1960, lần đầu tiên căn cứ ly hôn được xác định hoàn toàn khác, dựa trên thực trạng của quan hệ hôn nhân. Trong vấn đề căn cứ ly hôn luật Hôn nhân gia đình năm 1959 Điều 26 quy định: “Khi một bên vợ hoặc chồng xin ly hôn, cơ quan có thẩm quyền sẽ điều tra và hòa giải. Hòa giải không được, Tòa án nhân dân sẽ xét xử. Nếu tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, thì Tòa án nhân dân sẽ cho ly hôn.”. Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 đã có những điểm tiến bộ hơn so với pháp luật ở những thời kỳ trước, chỉ quy định căn cứ ly hôn dựa trên yếu tố “lỗi”. Ở Miền Nam, năm 1959 Luật hôn nhân gia đình của Ngô Đình Diệm ra đời cấm vợ chồng ruồng bỏ và ly hôn. Những trường hợp đặc biệt muốn được ly hôn phải do tổng thống xem xét (điều 55 luật này). Luật hôn nhân gia đình năm 1959 nhấn mạnh đến trường hợp lấy nhầm phải đầu sỏ cộng sản giết người thì phải ly hôn. Căn cứ này thể hiện ý chí của chính quyền Diệm một chính quyền chống “cộng sản” điên cuồng, đồng thời thấy được chế độ hôn nhân gia đình ở thời kỳ này không được quan tâm đúng mực. Điều 170 Bộ dân luật 1972 coi ngoại tình là căn cứ ly hôn. Mặc dù đã bãi bỏ chế độ đa thê, nhưng vẫn thể hiện sự bất bình đẳng, bảo vệ quyền gia trưởng, người vợ phụ thuộc chồng. Quy định về căn cứ ly hôn chỉ mang tính vỏ bọc, hình thức. Bộ hình luật định tội ngoại tình của vợ sẽ bị trừng phạt (điều 336, điều 338) còn chồng ngoại tình thì không bị trừng phạt. Trong khi theo Bộ dân luật 1972 muốn có chứng cứ về việc ngoại tình thì nguyên đơn phải có bản án do tòa án hình sự xét xử. Người vợ không thể có bản án đó vì người chồng không được coi là phạm tội, muốn chứng minh chồng có ngoại
  • 28. 26 tình vợ phải dùng các biện pháp khác được pháp luật chấp nhận nhưng khó khăn hơn nhiều. Như vậy, căn cứ ly hôn do chế độ cũ quy định nhìn chung đều mang tính hình thức và thể hiện sự không bình đẳng trong xã hội. Giai cấp thống trị chỉ đưa ra những quy định về căn cứ ly hôn theo hướng có lợi cho giai cấp thống trị. 1.2.4. Căn cứ ly hôn của luật hôn nhân gia đình từ năm 1975 đến nay. Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam 1986 ra đời, luật HN&GĐ mới được ban hành thay thế cho luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959 đã ghi nhận nhiều quy định tiến bộ, góp phần xóa bỏ những phong tục tập quán lạc hậu và tàn tích của chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến; Theo điều 40 Luật hôn nhân và gia đình 1986 quy định: “Khi vợ hoặc chồng, hoặc cả hai vợ chồng có đơn xin ly hôn thì Toà án nhân dân tiến hành điều tra và hoà giải. Trong trường hợp cả hai vợ chồng xin ly hôn, nếu hoà giải không thành và nếu xét đúng là hai bên thật sự tự nguyện ly hôn, thì Toà án nhân dân công nhận cho thuận tình ly hôn. Trong trường hợp một bên vợ hoặc chồng xin ly hôn, nếu hoà giải không thành thì Toà án nhân dân xét xử. Nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì Toà án nhân dân xử cho ly hôn”. Điều 40 đã nêu ra những căn cứ ly hôn có mối liên hệ mật thiết không tách rời nhau. Tình trạng trầm trọng đời sống chung không thể kéo dài bao hàm vấn đề về tình cảm và cả mâu thuẫn vợ chồng sâu sắc đến mức không thể giải quyết được, ảnh hưởng đến đời sống mọi người trong gia đình, ảnh hưởng đến việc giáo dục con cái.
  • 29. 27 Quan hệ đời sống hằng ngày phát sinh nhiều vấn đề cần giải quyết: tính cách khác nhau, quan điểm sống khác nhau, sinh hoạt khác nhau, sở thích cá nhân…nếu vợ chồng không cùng nhau giải quyết thì gây nên mâu thuẫn giữa quan hệ giữa vợ chồng, hoặc với các thành viên trong gia đình bên vợ hoặc bên chồng, là điều đương nhiên, từ đó phát sinh mâu thuẫn trong quan hệ vợ chồng. Ví dụ: việc cư xử không khéo giữa nàng dâu với mẹ chồng, anh em bên chồng…là một trong những nguyên nhân gây nên mâu thuẫn trong quan hệ vợ chồng dẫn đến ly hôn. Điểm chung của Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 và Luật hôn nhân và gia đình năm 1986, là trường hợp thuận tình ly hôn không áp dụng căn cứ ly hôn, nếu các bên tự nguyện ly hôn thì Tòa án ra quyết định thuận tình ly hôn. Căn cứ ly hôn chỉ áp dụng đối với trường hợp ly hôn do một bên yêu cầu, khi vợ chồng có đơn yêu cầu ly hôn, Tòa án có trách nhiệm điều tra, hòa giải, xem xét “tình trạng trầm trọng” có đúng hay không, “mục đích hôn nhân” có đạt được hay không để Tòa án có những quyết định đúng đắn, khách quan nhất. Việc áp dụng căn cứ ly hôn theo Điều 40 luật hôn nhân và gia đình năm 1986 đã phản ánh đúng bản chất quan hệ hôn nhân thực tế đã tan vỡ. Ly hôn chỉ là việc xác nhận một sự kiện rằng đó là cuộc hôn nhân đã chết, sự tồn tại của nó chỉ là bề ngoài, lừa dối. Thực tế hôn nhân đã tan vỡ, Tòa án cho phép phá bỏ hôn nhân, chỉ là ghi biên bản công nhận sự tan rã bên trong của nó. Căn cứ ly hôn theo Luật hôn nhân gia đình Việt Nam năm 2000. Điều 89 Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 có quy định về căn cứ ly hôn: “ 1. Tòa án xem xét yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì tòa án quyết định cho ly hôn.”
  • 30. 28 2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bi Tòa án tuyên bố mất tích xin ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.” Ngoài sự kế thừa của các căn cứ ly hôn ở thời kỳ trước, đặc biệt là Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 thì Luật hôn nhân gia đình 2000 đã quy định thêm căn cứ ly hôn nữa là “trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bi Tòa án tuyên bố mất tích xin ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn”. Trong quan hệ vợ chồng, việc chồng hoặc vợ bị mất tích, chết đã ảnh hưởng sâu sắc tới quan hệ vợ chồng và các thành viên trong gia đình. Đây là điềm tiến bộ về căn cứ ly hôn của Luật hôn nhân gia đình 2000 phù hợp với yêu cầu của thực tế. Quy định này đã cụ thể hóa hậu quả của việc tòa án tuyên bố mất tích trong Bộ luật dân sự của Nhà nước ta. Như vậy, so với Luật hôn nhân và gia đình năm 1986, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã kế thừa, phát triển, mở rộng và cụ thể, chi tiết hơn nhằm mục đích giải quyết tốt nhất vấn đề ly hôn trong xã hội Việt Nam thời kỳ đó. Căn cứ ly hôn theo Luật hôn nhân gia đình Việt Nam năm 2014. Kế thừa và phát triển Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 và Luật hôn nhân và gia đình năm 1986, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000; Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định về căn cứ ly hôn tại Điều 55 và Điều 56. Điều 55 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về thuận tình ly hôn. Điều này được giữ nguyên như điều 90 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Điều 56 được sửa đổi, bổ sung trên cơ sở điều 91 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Theo đó, bổ sung sau quy định “Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn” nội dung “nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi
  • 31. 29 phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”. Và bổ sung: Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn. Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật này thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định căn cứ ly hôn tại Điều 89 là áp dụng cho cả thuận tình ly hôn và ly hôn do một bên yêu cầu, bởi vậy thực tế, nguyên nhân phát sinh tranh chấp trong cuộc sống vợ chồng dẫn tới ly hôn hay thuận tình ly hôn đều do tình cảm các bên rạn nứt, các bên đã không làm tròn nghĩa vụ với nhau. Trong khi đó, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 lại quy định rõ ràng, cụ thể hơn về căn cứ ly hôn: Điều 55 về thuận tình ly hôn; Điều 56 về Ly hôn theo yêu cầu của một bên. Pháp luật đã quy định cụ thể chi tiết về quyền nghĩa vụ của các bên trước khi ly hôn, cũng như các căn cứ để Tòa án xác định tình trạng hôn nhân để đưa tới quyết định ly hôn. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 (Điều 55 và Điều 56) đã quy định căn cứ ly hôn theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin. Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam trước đây không quy định những căn cứ ly hôn riêng biệt mà quy định căn cứ ly hôn chung nhất, dựa vào bản chất của quan hệ hôn nhân đã tan vỡ. Nhưng với Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đã có sự lồng ghép quy định về căn cứ ly hôn vào quy định về thuận tình ly hôn cũng như ly hôn theo yêu cầu của một bên. Tóm lại, ta có thể thấy rằng pháp luật hôn nhân gia đình nói chung và pháp luật về các căn lý ly hôn nói riêng, từ năm 1945 đến nay, các căn cứ ly
  • 32. 30 hôn đã được sửa đổi, bổ sung để trở lên hoàn thiện hơn, phù hợp với từng thời kỳ lịch sử. Căn cứ ly hôn được quy định trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 là tiến bộ nhất, bởi các quy định về căn cứ ly hôn đã được quy định chi tiết, rõ ràng hơn đối với từng trường hợp: thuận tình ly hôn, ly hôn theo yêu cầu của một bên. 1.3. Căn cứ ly hôn theo pháp luật của một số quốc gia 1.3.1. Căn cứ ly hôn theo pháp luật nước Pháp Cộng hòa Pháp là quốc gia có nền độc lập phát triển và có ảnh hưởng lớn tới các nước trong khu vực và thế giới. Bộ luật Napoleon 1804 là sản phẩm pháp điển hóa, là khuôn mẫu để các nước khác xây dựng luật pháp. Hôn nhân là sự gắn kết đời sống của hai bên nam nữ dựa trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng, chân chính. Trường hợp các bên có lỗi nghĩa là đã tự mình phá vỡ quan hệ tình cảm, hôn nhân giữa các bên. Pháp luật Pháp căn cứ trên cơ sở lỗi và xem xét đến tình trạng hôn nhân thực tế của vợ chồng, với các quy định “lỗi” một cách bình đẳng cho cả vợ và chồng. Trường hợp vợ hoặc chồng có lỗi, một bên có quyền kiện đòi ly hôn. Điều 229 Bộ luật Napoleon quy định: “Có thể giải quyết cho ly hôn trong các trường hợp sau: ly hôn do lỗi”. Điều 243 Bộ luật Napoleon quy định: “vợ hoặc chồng có thể xin ly hôn khi nêu ra toàn bộ những sự việc bắt nguồn từ bên vợ hoặc chồng là do cuộc sống chung không thể tiếp tục”. Một bên vợ hoặc chồng làm đơn đến Tòa xin ly hôn trong đó nêu lỗi của bên kia, được bên kia thừa nhận lỗi trước Tòa án thì Tòa sẽ ra quyết định tuyên bố ly hôn. Trường hợp hai bên thuận tình ly hôn, không xem xét tới yếu tố lỗi: Điều 230 Bộ luật Napoleon quy định: “Nếu hai vợ chồng cùng xin ly hôn thì phải nói rõ lý do”, quy định này có phần tiến bộ vì đã đảm bảo quyền tự do ý chí cũng như quyền bình đẳng của các bên trong quan hệ hôn nhân. Trong
  • 33. 31 trường hợp này, các căn cứ ly hôn được xác định nếu việc ly hôn do bên kia làm cho đời sống hôn nhân không thể tiếp tục và bên kia chấp nhận ly hôn thì Thẩm phán tuyên bố cho ly hôn mà không cần xem xét tới yếu tố lỗi. Quy định này phù hợp với bản chất của hôn nhân theo quy định của pháp luật Pháp là một hợp đồng dân sự. Trường hợp cả hai vợ chồng đã sống riêng biệt từ hai năm trở lên, tính từ thời điểm có quyết định triệu tập ra tòa để giải quyết việc ly hôn (Điều 238 Bộ luật Napoleon). Từ thời điểm đó, quan hệ vợ chồng được coi là hoàn toàn chấm dứt. 1.3.2. Căn cứ ly hôn theo pháp luật Thái Lan Pháp luật Thái Lan coi hôn nhân là một hợp đồng dân sự, vợ và chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau về quan hệ nhân thân và tài sản. Pháp luật Thái Lan thừa nhận hai trường hợp ly hôn là thuận tình ly hôn và theo quy định của Tòa án khi một bên vợ chồng có đơn yêu cầu. Pháp luật Thái Lan rất tôn trọng nguyên tắc một vợ một chồng, đề cao sự chung thủy của vợ chồng. Điều 1516 Bộ luật Dân sự và thương mại Thái Lan quy định căn cứ để ly hôn, một trong hai bên có quyền kiện đòi ly hôn: Thứ nhất, người chồng đã nuôi dưỡng hoặc thờ phụng một người đàn bà khác như vợ mình hoặc người vợ có ngoại tình. Pháp luật Thái Lan quy định chi tiết về các hành vi, điều kiện của vợ chồng để làm căn cứ ly hôn. Thứ hai, Căn cứ khoản 2, 3 Điều 1516 Bộ Luật dân sự và thương mại Thái Lan, vợ hoặc chồng có phạm lỗi, có hành vi đạo đức xấu, bất kể hành vi đó có phải là một tội hình sự hay không, nếu nó gây hại cho người kia... vợ hoặc chồng bị hành hạ nghiêm trọng về thể xác và tinh thần, lăng mạ người kia hoặc con cái người đó.... Thứ ba, nếu người vợ hoặc chồng đã rời bỏ người kia hơn một năm; bị tuyên bố mất tích hoặc rời khỏi nơi cư trú của mình hơn ba năm mà không
  • 34. 32 biết chắc là người đó sống hay chết thì người còn lại có quyền kiện đòi ly hôn. Thứ tư, vợ hoặc chồng đã phá vỡ cam kết của mình để giữ đạo đức tốt. Khi quan hệ vợ chồng không thể tiếp tục bởi nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân là họ không chung sống, không chăm sóc nhau trong một thời gian dài: hơn một năm hoặc hơn ba năm... thì như vậy, quan hệ tình cảm giữa vợ và chồng cũng như các thành viên trong gia đình – mục đích của hôn nhân đã không đạt được. Hôn nhân đổ vỡ, một trong hai bên vợ hoặc chồng có quyền xin ly hôn, đó là nhu cầu chính đáng xuất phát từ bản thân nguyện vọng của mỗi cá nhân, từ thực tiễn của quan hệ hôn nhân. Ta có thể nhận thây điểm chung của pháp luật Thái Lan và Cộng hòa Pháp đó là chia ra hai trường hợp ly hôn theo thuận tình và ly hôn theo yêu cầu của một bên. Cũng như pháp luật Pháp, pháp luật Thái Lan cũng đề cao yếu tố lỗi trong quan hệ hôn nhân giữa vợ chồng. Pháp luật của cả hai nước luôn đề cao sự bình đẳng trong quan hệ hôn nhân giữa vợ và chồng, tôn trọng quyền ly hôn của các bên, hạn chế tình trạng bạo lực gia đình. Tóm lại, qua nghiên cứu về căn cứ ly hôn theo pháp luật của Pháp và Thái Lan, ta có thể thấy đây là hai quốc gia phát triển, có những quy định tiến bộ, mang tính nhân văn tiên tiến trong quan hệ hôn nhân, những quy định có tính dự trù sâu sa về quan hệ hôn nhân.
  • 35. 33 CHƢƠNG 2 CĂN CỨ LY HÔN THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH 2.1. Căn cứ ly hôn trong trường hợp thuận tình ly hôn Điều 55 Luật HN&GĐ 2014 quy định về thuận tình ly hôn: “Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn; nếu không thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án giải quyết việc ly hôn.” Việc giải quyết ly hôn cần dựa trên các điều kiện nhất định phải được tiến hành ở Tòa án nhân dân, pháp luật quy định việc thuận tình ly hôn là công nhận và đảm bảo quyền tự do ly hôn chính đáng của hai bên vợ chồng. Thuận tình ly hôn là trường hợp cả hai vợ chồng cùng yêu cầu chấm dứt hôn nhân được thể hiện bằng đơn thuận tình ly hôn của vợ chồng. Theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình 2014 thì trong trường hợp hai vợ chồng cùng có yêu cầu thuận tình ly hôn, sự tự nguyện của hai vợ chồng khi yêu cầu chấm dứt hôn nhân là một căn cứ quyết định việc chấm dứt hôn nhân. Tự nguyện ly hôn là cả hai vợ chồng đều tự do trình bày nguyện vọng, ý chí, không cưỡng ép, không bị lừa dối trong việc thuận tình ly hôn. Việc thể hiện ý chí thật sự tự nguyện ly hôn phải xuất phát từ trách nhiệm đối với gia đình, phù hợp với yêu cầu của pháp luật và chuẩn mực đạo đức xã hội và nhu cầu của bản thân chủ thể trong việc quyết định ly hôn; đồng thời cả hai bên đều nhận thức được hậu quả của việc ly hôn. Theo quy định của pháp luật, người vợ và người chồng cùng thuận tình ly hôn là thể hiện rõ ý chí, ý nguyện của các bên về việc giải quyết mối quan hệ hôn nhân giữa hai vợ chồng. Khi bản thân hai vợ chồng xét thấy cuộc sống
  • 36. 34 gia đình không hạnh phúc, cuộc sống chung có nhiều khúc mắc, không đạt được mục đích của cuộc hôn nhân và họ tự nhận thức được việc ly hôn là cần thiết thì hai vợ chồng đồng tình cùng nhau yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn. Căn cứ để Tòa án quyết định cho vợ chồng ly hôn là ý chí tự nguyện của các bên, thật sự nghiêm túc và chắc chắn, không bị cưỡng ép, không bị lừa dối của vợ và chồng trong việc thuận tình ly hôn bảo đảm thật sự tự nguyện ly hôn. Trong quá trình hòa giải, thẩm phán có thể tiến hành tất cả các biện pháp điều tra, xác minh cần thiết, thậm chí có thể tìm hiểu để làm rõ động cơ xin ly hôn của các đương sự. Cũng trong Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định trong việc thuận tình ly hôn, ngoài ý chí thật sự tự nguyện xin thuận tình ly hôn của vợ chồng, đòi hỏi hai vợ chồng còn phải có sự thoả thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở đảm bảo quyền lợi chính đáng của vợ và con. Quy định này có nghĩa rằng thỏa thuận của hai bên vợ chồng là việc thống nhất quan điểm về toàn bộ các vấn đề: “tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con”. Về vấn đề tài sản: các bên sẽ tiến hành tự thỏa thuận dựa trên những nguyên tắc chung mà pháp luật dân sự đã quy định tại BLDS 2005. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân. Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi. Tuy nhiên, việc chia tài sản dựa trên các nguyên tắc sau: một là, hoàn cảnh
  • 37. 35 của gia đình và của vợ, chồng; hai là, công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Việc nội trợ của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập; ba là, bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập; bốn là, lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng. Vấn đề con cái: về nguyên tắc, việc ai là người nuôi con khi ly hôn có thể được các đương sự (vợ, chồng) tự thỏa thuận với nhau và được tòa ghi nhận trong bản án. Sau khi ly hôn, vợ, chồng vẫn có nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chưa thành niên (dưới 18 tuổi) hoặc đã thành niên nhưng bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Bên còn lại – tức là bên không được trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng (mức cấp dưỡng tuỳ theo điều kiện kinh tế hoặc theo thoả thuận) để người kia chăm sóc, nuôi dưỡng con cho đến khi trưởng thành. Về vấn đề bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con: Quy định của luật HN&GĐ về việc thuận tình ly hôn cũng đã hướng tới việc bảo vệ quyền làm mẹ của người vợ bằng việc quy định “chỉ cho phép vợ chồng đồng thuận ly hôn khi đảm bảo được quyền lợi chính đáng của người vợ và con”. Khoản 4 Điều 2 Luật HN&GĐ năm 2014 có quy định về nguyên tắc vấn đề bảo vệ quyền lợi chính đáng của bà mẹ và trẻ em: “4. Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, hỗ trợ trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật thực hiện các quyền về hôn nhân và gia đình; giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ; thực hiện kế hoạch hóa gia đình”. Quy định về căn cứ ly hôn khi đảm bảo quyền lợi chính đáng của vợ và con đã thể hiện tính thống nhất, quy định chặt chẽ của pháp luật hôn nhân và gia đình.
  • 38. 36 Bảo vệ quyền phụ nữ và trẻ em bằng pháp luật là việc Nhà nước ghi nhận quyền phụ nữ và trẻ em đồng thời ban hành những quy phạm pháp luật nhằm bảo đảm việc thực hiện các quyền phụ nữ và trẻ em trên thực tế.Trẻ em có vai trò quan trọng đối với gia đình, với xã hội, với quốc gia và thế giới. Vì vậy, việc bảo vệ quyền lợi của trẻ em khi cha mẹ ly hôn phải được đặc biệt quan tâm. Trong trường hợp thuận tình ly hôn, cả vợ và chồng đều thống nhất và đồng thuận trong việc giải quyết các hậu quả của việc ly hôn: hai bên thật sự có ý nguyện ly hôn, không bị cưỡng ép hay chi phối bởi yếu tố nào khác; hai bên phân chia tài sản rõ ràng, không có khúc mắc gì; hai bên cùng nhau thỏa thuận đầy đủ về việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con. Với những điều kiện đặt ra như trên mà thật sự có sự đảm bảo quyền lợi chính đáng cho người vợ và con thì Tòa án nhất trí giải quyết cho vợ chồng ly hôn. Tuy nhiên, pháp luật lại quy định chặt chẽ hơn, nếu trong trường hợp những vấn đề đã nêu trên mà không đảm bảo quyền lợi chính đáng cho người vợ, người con thì Tòa án sẽ xem xét lại việc thuận tình ly hôn của hai bên. Pháp luật chưa có quy định cụ thể về khái niệm “không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con”. Tuy nhiên, ta có thể hiểu rằng, không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con là việc thỏa thuận về tài sản, nhân thân, con cái của hai bên làm ảnh hưởng hoặc chưa đáp ứng được nhu cầu của vợ và con. Thông qua quy định này, ta có thể thấy được pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam có xu hướng bảo vệ phụ nữ và trẻ em – “thế yếu” trong quan hệ hôn nhân và gia đình. Không chỉ dừng lại ở đó, việc ghi nhận của pháp luật đối với vấn đề bảo vệ quyền lợi chính đáng về tài sản của phụ nữ và trẻ em khi vợ chồng ly hôn còn là sự tiếp nối truyền thống đạo đức của dân tộc.
  • 39. 37 Trường hợp vợ chồng không thỏa thuận được với nhau về việc vợ/chồng hay chồng/vợ là người trực tiếp nuôi con; cũng như nếu vợ/ chồng có đủ cơ sở để chứng minh việc chồng/vợ không đảm bảo được các quyền lợi của con (như điều kiện về nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục; đặc biệt là các điều kiện cần thiết cho sự phát triển về thể chất, bảo đảm về việc học hành và các điều kiện cho sự phát triển tốt về tinh thần của con) trong khi đó, vợ/chồng lại đáp ứng được đầy đủ được những điều kiện này, thì Tòa án có thể xem xét, quyết định cho vợ/chồng được quyền nuôi con. Nhìn chung, khi quyết định trao quyền nuôi con cho người vợ hay người chồng, Tòa án đều phải xem xét quyền lợi về mọi mặt của cháu bé trên thực tế. Ví dụ: trường hợp anh A và chị B thỏa thuận về việc ly hôn, hai bên thỏa thuận về việc con chung là C đủ 6 tuổi – chưa thành niên, sẽ do chị B nuôi nấng, tuy nhiên, do tính chất công việc của chị B là thường xuyên đi công tác, không có thời gian chăm sóc con cái; kinh tế khó khăn hơn anh A vì phải nuôi mẹ già. Như vậy, thỏa thuận của A và B là không hợp lý, không đảm bảo được quyền lợi chính đáng của C. Trong trường hợp hòa giải tại Tòa mà không thỏa thuận được một trong các điều kiện trên thì Tòa án sẽ lập biên bản về việc hòa giải không thành. Trong đó nêu rõ những vấn đề hai bên không thoả thuận được hoặc có thoả thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con, đồng thời tiến hành mở phiên toà xét xử vụ án ly hôn theo thủ tục chung. Trường hợp sự thỏa thuận không thể hiện đầy đủ quyền và lợi ích chính đáng của vợ và con, thẩm phán có thể đi đến quyết định bác đơn xin thuận tình ly hôn của các bên; tuy nhiên, trên thực tế, thẩm phán chỉ bác đơn khi đã xem xét thỏa thuận ban đầu và đã yêu cầu các bên về việc sửa đổi những chi tiết cần thiết nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của vợ và con mà các bên không sửa đổi hoặc sửa đổi không thỏa đáng. Trong trường hợp các
  • 40. 38 đương sự chỉ báo cho thẩm phán nội dung thỏa thuận về vấn đề con cái mà không làm rõ các thỏa thuận về tài sản, thì thẩm phán phải yêu cầu các đương sự thông báo bổ sung về các thỏa thuận cần thiết đó. Trên thực tế, thẩm phán vẫn quyết định cho ly hôn trong trường hợp này và, về phần tài sản được ghi nhận một cách đơn giản trong bản án: các đương sự đã thỏa thuận xong hoặc các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết. Thực tế, nguyên nhân phát sinh tranh chấp trong cuộc sống vợ chồng dẫn đến ly hôn hay thuận tình ly hôn cũng là do tình cảm của vợ chồng bị rạn nứt, một trong hai bên đã không làm tròn nghĩa vụ của mình với gia đình hay vì tự ái cá nhân hoặc hiểu lầm trong quan hệ của vợ hoặc chồng mình nên đã quyết định yêu cầu Tòa án giải quyết cho họ được ly hôn. Nhưng khi có sự giải thích, phân tích đúng, sai trong quan hệ của họ của người làm công tác hòa giải để khuyên họ nên bỏ qua những lầm lỗi, tha thứ cho nhau để quay lại chung sống với nhau thì họ đã hiểu ra và quay lại đoàn tụ chung sống với nhau và Tòa án cũng không phải giải quyết về các vấn đề kéo theo như con và tài sản. Nếu hoà giải thành tức là vợ chồng rút đơn thuận tình ly hôn thì Toà án lập biên bản hoà giải thành, sau 15 ngày kể từ ngày Toà án lập biên bản hoà giải thành mà các bên đương sự không thay đổi ý kiến thì Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án (Điều 10, Điều 186, Điều 187 Bộ luật Tố tụng dân sự 2011). Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu xin ly hôn thì Toà án vẫn tiến hành hoà giải. Việc cho ly hôn trong trường hợp thuận tình này đối với Tòa án là không phải dễ, bởi vì khó có thể định lượng khi chỉ dựa trên yếu tố thỏa thuận tự nguyện thật sự của hai vợ chồng nếu không xem xét đến các yếu tố tình trạng mâu thuẫn vợ chồng đến đâu, mức độ ảnh hưởng đến cuộc sống hôn nhân đến cấp độ nào và gắn với việc thỏa thuận của họ đến đâu về việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn.
  • 41. 39 Trong thực tế có nhiều trường hợp các bên “giả tự nguyện ly hôn” và “giả thỏa thuận ly hôn” nhằm lừa dối cơ quan có thẩm quyền vì một mục đích nào đó. Việc ly hôn “để đạt được mục đích khác mà không nhằm mục đích chấm dứt hôn nhân” xem là hành vi ly hôn giả tạo và bị xử phạt hành chính. Khoản 15 Điều 3 Luật HN&GĐ 2014 có quy định về khái niệm ly hôn giả tạo: “Ly hôn giả tạo là việc lợi dụng ly hôn để trốn tránh nghĩa vụ tài sản, vi phạm chính sách, pháp luật về dân số hoặc để đạt được mục đích khác mà không nhằm mục đích chấm dứt hôn nhân”. Hiện tượng ly hôn giả tạo nhằm mưu cầu lợi ích riêng. Họ tự nghĩ ra nhưng mâu thuẫn và lý do chính đáng nhưng thực tế họ lại không mong muốn chấm dứt quan hệ vợ chồng và giữa họ không hề có mâu thuẫn. Nếu không điều tra kỹ thì Tòa án có thể kết luận là họ đã có đủ căn cứ để công nhận thuận tình ly hôn. Trong những trường hợp này Tòa án cần xử bác đơn xin thuận tình ly hôn của đương sự đồng thời phê phán, giáo dục đương sự về những hành vi sai trái đó. Như vậy, vấn đề xác định căn cứ ly hôn là sự tự nguyện và tự thỏa thuận của các bên rất khó để xác định sự tự nguyện thực sự. Bởi vậy, Tòa án cần đưa ra các quyết định chính xác để bảo vệ quyền lợi của các bên Tránh trương hợp các bên thuận tình ly hôn giả nhằm mục đích: chuyển hộ khẩu, phụ cấp người ăn theo; lấy vợ lẽ nhằm tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng đối với người khác... 2.2. Căn cứ ly hôn trong trường hợp ly hôn do một bên vợ hoặc chồng yêu cầu Ly hôn theo yêu cầu của một bên là trường hợp chỉ có một trong hai vợ chồng, hoặc cha, mẹ, người thân thích của một trong hai bên yêu cầu được chấm dứt quan hệ hôn nhân.
  • 42. 40 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về ly hôn theo yêu cầu của một bên như sau: “1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. 2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn. 3. Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật này thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia.” Quy định về căn cứ ly hôn do một bên yêu cầu của Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014 có tính chi tiết, cụ thể hơn Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000. Điều 91 Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 quy định về ly hôn theo yêu cầu của một bên: “Khi một bên vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án xem xét, giải quyết việc ly hôn”. Quy định của Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 vẫn còn mang tính chung chung và chưa mô tả đầy đủ các trường hợp, căn cứ ly hôn. Như vậy, từ sự kế thừa của Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000, Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014 đã có những điểm mới, tiến bộ hơn về các căn cứ ly hôn quy định tại Điều 56. Khi có yêu cầu ly hôn của vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng, Tòa án phải tiến hành xác định tình trạng quan hệ hôn nhân đó và áp dụng căn cứ ly hôn để giải quyết, việc giải
  • 43. 41 quyết ly hôn cần phải chính xác và đòi hỏi sự linh hoạt trong việc vận dụng căn cứ ly hôn đối với mỗi trường hợp cụ thể. 2.2.1. Trường hợp có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Thứ nhất, về hành vi bạo lực gia đình: Theo khoản 2 Điều 1 Luật phòng chống bạo lực gia đình số 02/2007/QH12 quy định về khái niệm bạo lực gia đình: “2. Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình”. Các hành vi được coi là hành vi bạo lực gia đình được liệt kê rất cụ thể tại Điều 2 Khoản 1 Luật phòng chống bạo lực gia đình năm 2007: “a) Hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khoẻ, tính mạng; b) Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm; c) Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu quả nghiêm trọng; d) Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau; đ) Cưỡng ép quan hệ tình dục; e) Cưỡng ép tảo hôn; cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ; g) Chiếm đoạt, huỷ hoại, đập phá hoặc có hành vi khác cố ý làm hư hỏng tài sản riêng của thành viên khác trong gia đình hoặc tài sản chung của các thành viên gia đình; h) Cưỡng ép thành viên gia đình lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả năng của họ; kiểm soát thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng phụ thuộc về tài chính; i) Có hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở”.
  • 44. 42 Một bên vợ hoặc chồng có một trong số các hành vi kể trên đều bị coi là có hành vi bạo lực gia đình. Hành vi vi phạm đó tác động tới một bên vợ hoặc chồng, làm ảnh hưởng không nhỏ tới thể lực, trí lực, tâm tư tình cảm của vợ hoặc chồng, làm rạn nứt quan hệ tình cảm trong thời kỳ hôn nhân. Tình trạng bạo lực trong gia đình ngày càng gia tăng và thể hiện tính chất nghiêm trọng xảy ra với nhiều lý do khác nhau. Việc Luật HN&GĐ năm 2014 quy định như vậy phù hợp với thực tiễn hiện nay. Bởi qua thực tiễn giải quyết các án ly hôn của Tòa án cho thấy số vụ ly hôn có hành vi ngược đãi, đánh đập chiếm tỉ lệ cao nhất và phụ nữ đa phần là nạn nhân của tình trạng này. Thứ hai, về hành vi vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ chồng: khi tham gia quan hệ hôn nhân, vợ, chồng bình đẳng với nhau, có quyền, nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình, trong việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ của công dân được quy định trong Hiến pháp, pháp luật có liên quan (Điều 17 Luật HN&GĐ 2014). Vợ chồng không chỉ có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình; mà còn có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác. Vợ, chồng có nghĩa vụ tôn trọng, giữ gìn và bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín cho nhau. Hôn nhân của vợ chồng là do cả vợ và chồng xây dựng, vun đắp lên. Nhưng khi các bên không thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ của mình đối với vợ, chồng, đối với cuộc hôn nhân thì quan hệ hôn nhân đó sẽ dần đổ vỡ và dẫn tới bế tắc. Hành vi vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ chồng là một trong những căn cứ để Tòa án quyết định giai quyết việc ly hôn cho vợ và chồng. Tuy nhiên, hiện nay pháp luật cũng chưa có quy định cụ thể về việc:
  • 45. 43 hành vi vi phạm như thế nào được coi là nghiêm trọng? Hiện nay, quy định này chỉ mang tính chất chung chung và chưa có hướng dẫn áp dụng cụ thể. Như vậy, Luật HN&GĐ năm 2014 đã bổ sung điểm mới so với Luật HN&GĐ năm 2000 khi quy định rõ “bạo lực gia đình và hành vi vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng” là căn cứ để giải quyết cho các bên ly hôn. Hậu quả của hai hành vi kể trên là vô cùng nặng nề; bên cạnh đó với những hành vi vi phạm khác, những mâu thuẫn, xung đột, bất đồng trong đời sống vợ chồng làm cho tình trạng hôn nhân trở lên trầm trọng, đời sống chung vợ chồng không thể kéo dài, ,mục đích của hôn nhân không đạt được. Đời sống hôn nhân có nhiều điểm mâu thuẫn, xung đột tồn tại không thể khắc phục được trong cuộc sống vợ chồng là một thực trạng khá phổ biến. Quy định này khá chung chung, chưa rõ ràng, khó xác định thế nào là tình trạng vợ chồng rơi vào trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, và mục đích hôn nhân không đạt được? Trước hết cần hiểu quan hệ vợ chồng rơi vào tình trạng trầm trọng: Mỗi chúng ta được nuôi dạy trong một gia đình khác nhau, lớn lên với những truyền thống và nề nếp khác nhau. Vì được trưởng dưỡng trong những gia đình khác nhau, với những kinh nghiệm sống khác nhau, mỗi chúng ta có những sở thích, suy nghĩ, ý kiến, quan điểm khác nhau, từ đó chúng ta có những trông mong, chọn lựa và quyết định khác nhau. Khi bước vào hôn nhân, hai con người khác nhau đó kết hợp làm một và chia xẻ cùng một đời sống, vì thế vợ chồng không thể nào tránh được những lúc bất đồng ý kiến hay xung đột với nhau. Tình trạng trầm trọng của vợ chồng có thể hiểu là: Vợ, chồng không thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau như người nào chỉ biết bổn phận người đó, bỏ mặc người vợ hoặc người chồng muốn sống ra sao thì
  • 46. 44 sống, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, hoà giải nhiều lần. Hiện nay pháp luật chưa có quy định cụ thể về khái niệm “vợ, chồng không thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau”. Quan hệ vợ chồng là quan hệ tình cảm nên không thể mang ra để cân đo. Quy định về bỏ mặc người vợ hoặc người chồng muốn sống ra sao thì sống cũng rất trừu tượng, mơ hồ. Việc đánh giá các yếu tố đó chỉ mang tính chất chủ quan của Thẩm phán. Luật chỉ quy định được về những hành vi hành động, còn những hành vi không hành động thì còn nặng nề hơn nhiều, tuy nhiên, pháp luật vẫn chưa có quy định cụ thể, chi tiết. Nhìn chung, có thể hiểu quy định này của pháp luật quy định về vấn đề vợ chồng xa lánh nhau, không giúp đỡ nhau trong cuộc sống hôn nhân; việc làm của họ làm mất đi tính chất của quan hệ vợ chồng là cùng nhau chung sống. Đồng thời, ngoài việc không thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau, người nào chỉ biết bổn phận người đó, bỏ mặc người vợ hoặc người chồng muốn sống ra sao thì sống thì vấn đề vợ chồng xa lánh nhau, bỏ mặc nhau đã được người thân hoặc cơ quan chức năng khuyên nhủ nhiều lần nhưng vẫn không thay đổi. Tuy nhiên, việc “đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, hoà giải nhiều lần” như thế nào được quy định là được nhắc nhở, hòa giải nhiều lần; bao nhiêu lần là nhiều. Về mặt khách quan, ta có thể hiểu hơn hai lần là nhiều lần, tuy nhiên, về mặt pháp lý thì pháp luật cần quy định chính xác, cụ thể hơn nữa để căn cứ ly hôn được áp dụng đúng đắn nhất, bảo vệ quyền lợi của đương sự. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng đã quy định hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng là căn cứ ly hôn.
  • 47. 45 Trường hợp vợ chồng có hành vi xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm và uy tín của nhau. Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân được pháp luật đề cập tới trong nhiều văn bản. Điều 20 Hiến pháp 2013 đã nêu rõ: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”. Ðiều 37 Bộ luật Dân sự cũng nêu: “Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ”. Thông qua các quy định của pháp luật, ta có thể thấy pháp luật bảo vệ và coi trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của con người. Trường hợp vợ chồng tự nguyện kết hôn với nhau, chung sống chung với nhau, nhưng họ lại không tôn trọng nhau, có những hành vi xúc phạm tới danh dự, nhân phẩm, uy tín của vợ hoặc chồng thì một bên vợ hoặc chồng hoàn toàn có quyền kiện đòi ly hôn ra trước Tòa án để bảo vệ quyền lợi của mình. Tuy nhiên, trường hợp vợ hoặc chồng xúc phạm danh dự, nhân phẩm của bên còn lại, tuy có thể làm ảnh hưởng tới họ, nhưng nếu ở mức độ hai bên vẫn có thể kiên nhẫn, hòa giải, có thể bỏ qua được cho nhau thì quan hệ của họ vẫn chưa ở mức trầm trọng - ly hôn. Hành vi hành động của các bên được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, đoàn thể nhắc nhở, hoà giải nhiều lần mà vẫn không thay đổi, vấn đề tiếp diễn này cho thấy tình trạng xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín diễn ra kéo dài, gây ảnh hưởng trực tiếp tới tâm lý, tình cảm của vợ hoặc chồng khi bị xúc phạm. Vấn đề này đòi hỏi sự can thiệp của cơ quan chức năng và Tòa án. Khi vợ chồng không chung thuỷ với nhau như có quan hệ ngoại tình, đã được người vợ hoặc người chồng hoặc bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, khuyên bảo nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình cũng dẫn đến đời sống hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng.Trong quan hệ