SlideShare a Scribd company logo
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦ N DIỆU HƢƠNG
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẦU CỬ
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2013
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN DIỆU HƢƠNG
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẦU CỬ
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số : 60 38 01
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS.TS NGUYỄN ĐĂNG DUNG
HÀ NỘI – 2013
MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
Danh mục các biểu đồ, hình vẽ
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1: VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA BẦU CỬ TRONG CHẾ ĐỘ
NHÀ NƢỚC VIỆT NAM
5
1.1. Bầu cử là phương thức thành lập ra cơ quan nhà nước 5
1.2. Bầu cử là hình thức quan trọng thực hiện nguyên tắc quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân
7
Chƣơng 2: THƢ̣C TRẠNG HỆTHỐ NG PHÁP LU ẬT VỀ B ẦU
CỬ VÀ VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẦU CỬ HIỆN NAY
13
2.1. Thực trạng hệ thống pháp luật về bầu cử ĐBQH và ĐB HĐND 13
2.1.1. Thực trạng pháp luật về bầu cử đại biểu Quốc hội qua cuộc bầu
cử các khóa XI, XII
13
2.1.2. Thực trạng pháp luật về bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân qua
cuộc bầu cử đại biểu HĐND nhiệm kỳ 2004-2009
19
2.1.3. Những vấn đề mặt pháp lý đặt ra đối với cuộc bầu cử chung đại
biểu Quốc hội khóa XIII và đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ
2011-2016
23
2.1.4. Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và luật bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân sửa đổi, bổ sung năm 2010 qua thực tiễn áp dụng
28
2.2 Thực tra ̣ng áp dụng pháp luâ ̣t về bầu cử trong thời gian qua 31
2.2.1. Về tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân 32
2.2.2. Về quyền bầu cử, quyền ứng cử 35
2.2.3. Về công tác hiệp thương trong bầu cử đại biểu Quốc hội và đại
biểu Hội đồng nhân dân
41
2.2.4. Về phân chia đơn vị bầu cử, phân bổ người ứng cử ở các đơn vị
bầu cử, số dư người ứng cử
46
2.2.5. Về ngày bầu cử và trình tự bầu cử 48
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
BẦU CỬ Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
49
3.1. Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật về bầu cử 49
3.1.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bầu cử 49
3.1.2. Đổi mới nhận thức, nâng cao ý thức người dân về bầu cử 51
Biểu đồ 3.1: Tư cách tham gia tại cuộc bầu cử Quốc hội gần nhất 54
3.1.3. Tăng cường công tác tuyên truyền, vận động và hướng dẫn bầu cử 56
3.1.4. Tăng cường công tác giám sát đối với bầu cử 62
3.2. Một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về bầu cử
trong thời gian tới
64
3.2.1. Bổ sung nguyên tắc bầu cử tự do 64
3.2.2. Hoàn thiện các quy định về tiêu chuẩn, số lượng đại biểu 65
3.2.3. Sửa đổi, bổ sung các quy định về quyền bầu cử, quyền ứng cử 68
Biểu đồ 3.2: Số lượng người tự ứng cử ở mỗi đơn vị bầu cử 69
3.2.4. Cơ cấu lại nhiệm vụ, quyền hạn của các tổ chức phụ trách bầu cử 71
3.2.5. Đổi mới cách thức lập danh sách cử tri và số lượng cử tri ở mỗi 73
khu vực bỏ phiếu
3.2.6. Đổi mới quy trình hiệp thương 75
Biểu đồ 3.3: Thành viên tham dự Hội nghị hiệp thương lựa chọn
ứng cử viên đại biểu Quốc hội
77
3.2.7. Sửa đổi, bổ sung các quy định về phân chia đơn vị bầu cử, phân
bổ người ứng cử ở các đơn vị bầu cử, số dư người ứng cử
80
3.2.8. Về ngày bầu cử và trình tự bầu cử 84
3.2.9. Bổ sung các quy định về phiếu bầu và cách thức bầu cử 85
3.2.10. Đổi mới phương thức bỏ phiếu 87
3.2.11. Về cách xác định kết quả bầu cử 88
KẾ T LUẬN 89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 91
PHỤ LỤC 94
DANH MỤC CÁ C TƢ̀ VIẾ T TẮ T
1. ĐB : Đa ̣i biểu
2. ĐBQH : Đa ̣i biểu Quốc hội
3. HĐND : Hội đồng nhân dân
4. MTTQ : Mă ̣t trâ ̣n Tổ quốc
5. QH : Quốc hội
6. UBTVQH : Ủy ban Thường vụ Quốc hội
DANH MỤC CÁ C BIỂ U ĐỒ , HÌNH VẼ
STT Tên biểu đồ Trang
3.1 Tư cách tham gia tại cuộc bầu cử đa ̣i biểu Quốc hội gần nhất 54
3.2 Số lượng người tự ứng cử ở mỗi đơn vị bầu cử 69
3.3 Thành viên tham dự Hội nghị hiệp thương lựa chọn ứng cử viên
đại biểu Quốc hội
77
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận văn:
Trong đời sống xã hội của nước ta, bầu cử có một vị trí và ý nghĩa chính trị
đặc biệt quan trọng. Kể từ khi cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên, ngày 6 tháng 01 năm
1946 để bầu ra Nghị viện nhân dân khai sinh Quốc hội của nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà, nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nước ta đã trải qua 13
cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội. Thực tiễn lịch sử đã cho thấy tất cả các cuộc bầu cử
đại biểu Quốc hội đều là những sự kiện chính trị có ý nghĩa trọng đại đối với đất
nước. Bầu cử là một trong những chế đi ̣nh pháp luâ ̣t quan trọng của ngành luâ ̣t Hiến
pháp, là cơ sở pháp lý cho việc hình thành các cơ quan đại diện – cơ quan quyền lực
Nhà nước. Bỏ phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội và HĐND các c ấp là phương thứ c
thực hiê ̣n thể chế dân chủ, thực hiện quyền công dân và quyền tham gia quả n lý đất
nước của người dân thông qua người đa ̣i diê ̣n . Thông qua bầu cử , nhân dân tìm
kiếm, chọn lựa những người sẽ thay mặt cho họ quyết định những vấn đề quan
trọng của đất nước . Có thể nói , bầu cử là hình thứ c cho thấ y quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân và là yếu tố không thể thiếu được trong chế độxã hội dân chủ
đương đa ̣i.
Chế độ bầu cử đã được hình thành t ừ những quy định trong các văn bản
pháp luật đầu tiên của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Từ đó đến nay, cơ sở
lý luận về chế độ bầu cử ở nước ta đã dần được bổ sung , thay đổi để phù hợp hơn
với thực tiễn. Tuy nhiên, chế độbầu cử ở nước ta hiê ̣n vẫn còn nhiều vấn đề đă ̣t ra
cần phải giải quyết , khắc phục. Tỷ lê ̣cử tri tham gia bỏ phiếu qua mỗi lần bầu cử
khá cao, nhưng thực tế bầu cử vẫn còn mang nă ̣ng tính hình thứ c (ví dụ như: viê ̣c
ứng cử và hình thức tham gia tranh cử của các ứng cử viên ; cách thức tổ chức bầ u
cử …). Những quy đi ̣nh của pháp luâ ̣t về bầu cử ở nước ta vẫn còn nhiều bất câ ̣p ,
chưa phát huy được cao nhất tính dân chủ và chưa thâ ̣t sự phù hợp với bối cảnh hiê ̣n
nay, khi đất nước ta đang hội nhâ ̣p sâu vào nền kinh tế thế giới. Làm thế nào để
nhân dân thực sự trở thành chủ nhân c ủa quyền lực nhà nư ớc và thông qua ch ế độ
2
bầu cử, ủy thác quyền lực ấy cho cơ quan quyền lực nhà nư ớc cao nhất? Xây dựng
nhà nước xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân, vì dân đã và đang là xu hư ớng chủ đạo
và là mục tiêu hàng đầu của Đảng , nhà nước và nhân dân Việt Nam . Vì vậy, viê ̣c
nghiên cứ u cơ sở lý luâ ̣n và thực tiễn trong và ngoài nước để hoàn thiê ̣n chế độbầu
cử ở nước ta là vấn đề quan trọng và cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
Từ những lý do nêu trên và với sự tâm huyết của mình, tôi chọn đề tài:
“Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - những vấn đề lý luận và thực tiễn” để làm luận
văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn:
Mục đích của luận văn là góp phần hoàn thiện các qui định của pháp luật
hiện hành về bầu cử; việc vận dụng qui định của pháp luật về quy trình bầu cử trong
các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội trong những năm vừa qua, phân tích nguyên
nhân của những hạn chế trong qui định của pháp luật về bầu cử từ đó nêu lên một số
kiến nghị nhằm hoàn thiện qui định của pháp luật về bầu cử.
Để đạt được mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau đây:
Nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về chế độ bầu cử; cơ chế đại
diện, phương thức thực hiện quyền bầu cử, ứng cử; phương thức tiến hành bầu cử…
để góp phần hoàn thiện các văn bản pháp luật về bầu cử ĐBQH và bầu cử ĐB
HĐND.
Nghiên cứu, tổng kết thực tiễn việc tổ chức bầu cử các khóa QH làm cơ sở
cho việc hoàn thiện chế độ bầu cử ĐBQH và bầu cử ĐB HĐND.
Nghiên cứu các phương thức bầu cử và làm rõ những nét đặc thù trong chế
độ bầu cử ĐB của các nước để tham khảo và chọn lọc những kinh nghiệm lập pháp
cho Việt Nam;
Đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật về chế độ bầu cử của Việt
Nam - Những bất cập, tồn tại và nguyên nhân.
3
Đưa ra những giải pháp khắc phục tồn tại và kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp
luật về bầu cử của Việt Nam trong thời gian tới.
3. Tình hình nghiên cứu:
Thời gian qua, đã có nhiều tác giả nghiên cứu về pháp luật bầu cử. Tuy
nhiên, các tác giả mới dừng lại ở mức độ nghiên cứu một khía cạnh nào đó trong
bầu cử, ví dụ “Đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Quốc hội”, “Qui trình bầu cử
đại biểu Quốc hội, thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả”, “Vai trò của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta hiện nay”…
Còn một công trình nghiên cứu mang tính toàn diện về bầu cử (bao gồm cả bầu cử
đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân) trong giai đoạn hiện nay khi mà
Đảng và Nhà nước muốn tiến hành hai cuộc bầu cử này vào chung một thời điểm
thì chưa có, nó mới chỉ dừng lại ở các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn mang
tính kỹ thuật về bầu cử mà thôi.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận của chế độ bầu cử , đi sâu vào vi ̣trí , vai
trò của bầu cử trong chế độ nhà nước ta hiện nay và nghiên cứu thực tiễn của hoạt
động bầu cử ở nước ta trong thời gian qua và tham khảo kinh nghiê ̣m một số nước
trên thế giới . Từ đó , đưa ra nhâ ̣n xét , khuyến nghi ̣về viê ̣c sử a đổi , bổ sung, hoàn
chỉnh cơ sở lý luận và quy trình bầu cử , nhằm hoàn thiê ̣n chế độbầu cử đa ̣i biểu ở
nước ta trong thời gian tới.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn:
Phương pháp luâ ̣n của lu ận văn căn cứ vào quan điểm của Đảng về lý luận
xây dựng chế độbầu cử đa ̣i biểu th ể hiện trong các Nghị quyết của Đảng, trong
Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể bao gồm: thống kê, diễn giải, phân tích,
tổng hợp, so sánh, nghiên cứu thực nghiệm, điều tra xã hội học,...
4
6. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương I: Vị trí, vai trò của bầu cƣ̉ trong chế độnhà nƣớ c Viê ̣t Nam
Chương II: Thƣ̣c tra ̣ng hê ̣thống p háp luật về bầu cử và việc thực hiện
pháp luật bầu cử hiện nay
Chương III: Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật về bầu cử ở Việt Nam
trong thời gian tới.
5
Chƣơng 1
VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA BẦU CỬ TRONG CHẾ ĐỘ
NHÀ NƢỚC VIỆT NAM
Bầu cử ở Việt Nam là quá trình các cử tri đưa ra quyết định của họ theo các
cách thức mà pháp luật quy định để chọn ra các đại biểu đại diện cho mình nắm giữ
các chức vụ trong cơ quan dân cử của chính quyền ở trung ương và địa phương
trong phạm vi lãnh thổ của Việt Nam. Việc bầu cử ở Việt Nam gồm bầu cử Quốc
hội (ở Trung ương) và bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp (ở địa phương).
1.1. Bầu cử là phƣơng thức thành lập ra cơ quan nhà nƣớc
Bầu cử là một phương pháp thành lập ra bộ máy nhà nước. Thông qua bầu cử
nhân dân trực tiếp lựa chọn những cá nhân có đủ phẩm chất đạo đức và năng lực đại
diện cho ý chí, nguyện vọng của mình vào cơ quan đại diện của nhân dân.
Theo Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam của Khoa Luật thuộc Đại học
Quốc gia Hà Nội thì:
Chế độ bầu cử được xác định bởi tổng thể các mối quan hệ xã hội
được hình thành trong quá trình tiến hành các cuộc bầu cử, từ lúc lập danh
sách cử tri, cho đến khi kết thúc việc xác định được danh sách những người
trúng cử. Qua những mối quan hệ xã hội đó cho phép khái quát được chế độ
bầu cử được hình thành qua các cuộc bầu cử của một đất nước là chế độ bầu
cử dân chủ không áp đặt, nhân dân tự nguyện thể hiện ý chí của mình tìm ra
được những người xứng đáng làm đại diện cho nhân dân, thay mặt nhân dân
quản lý và điều hành đất nước [17, tr. 300].
Trong lịch sử bầu cử của nước ta, kể từ khi cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên đến
nay đã khẳng định rõ: mỗi cuộc bầu cử đều mang một dấu ấn riêng, nhưng thực tiễn
đã chứng minh rằng các cuộc bầu cử đều có vai trò, ý nghĩa đặc biệt quan trọng
trong đời sống chính trị - xã hội của đất nước.
6
Một là, bầu cử luôn luôn là một sự kiện chính trị trọng đại của đất nước, là
ngày hội lớn của toàn dân.
Thông qua các cuộc bầu cử, chính là dịp để cử tri cả nước phát huy quyền
làm chủ của mình, trực tiếp lựa chọn những đại biểu có đủ năng lực và phẩm chất
đạo đức, xứng đáng đại diện cho ý chí, nguyện vọng của mình tại cơ quan quyền lực
Nhà nước cao nhất.
Khi đánh giá về tầm quan trọng của cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã khẳng định:
Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người
có tài, có đức, để gánh vác công việc nước nhà. Trong cuộc Tổng tuyển cử, hễ là
những người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử; hễ là công dân thì đều
có quyền đi bầu cử. Không chia gái trai, giàu nghèo, tôn giáo, nòi giống, giai cấp,
đảng phái, hễ là công dân Việt Nam thì đều có hai quyền đó... Do Tổng tuyển cử mà
toàn dân bầu ra Quốc hội. Quốc hội sẽ cử ra Chính phủ. Chính phủ đó thật là Chính
phủ của toàn dân.
Hai là, bầu cử có ý nghĩa quyết định đến việc xây dựng Bộ máy Nhà nước, là
khâu đầu tiên để hình thành nên các cơ quan Nhà nước từ Trung ương đến địa
phương.
Ở nước ta, tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; nhưng nhân dân
thực hiện quyền lực này bằng cách bầu ra Quốc hội. Với tư cách là cơ quan duy
nhất do cử tri cả nước bầu ra, nên Quốc hội thay mặt cho nhân dân, được giao trách
nhiệm giải quyết mọi công việc quan trọng của đất nước như: xây dựng Hiến pháp
và pháp luật; đặc biệt là thành lập ra Chính phủ và các cơ quan Nhà nước khác.
Đồng thời, các cơ quan Nhà nước này đều chịu sự giám sát của Quốc hội. Chính vì
thế, các cơ quan Nhà nước của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đều trực
tiếp hay gián tiếp do nhân dân bầu ra thông qua phương thức bầu cử. Nói cách khác,
bầu cử chính là hình thức dân chủ duy nhất để hình thành nên bộ máy Nhà nước ở
nước ta. Đó cũng là minh chứng cho việc ngay từ phiên họp đầu tiên của Hội đồng
Chính phủ lâm thời, ngày 3 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị
7
Chính phủ sớm tổ chức cuộc Tổng tuyển đầu tiên ở nước ta; bởi lẽ chỉ có thể thông
qua bầu cử thì chính quyền mới được thành lập mới là chính quyền hợp pháp và
được nhân dân thừa nhận.
1.2. Bầu cử là hình thức quan trọng thực hiện nguyên tắc quyền lực
Nhà nƣớc thuộc về nhân dân
Trong nhà nước pháp quyền, ý chí của nhân dân là cội nguồn của quyền lực
nhà nước. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn coi nhân dân là cội rễ của
quyền lực nhà nước: “Gốc có vững, cây mới bền/Xây lầu thắng lợi trên nền nhân
dân”. Người cho rằng, Nhà nước ta là Nhà nước của dân, Nhà nước phải hoạt động
vì dân, lấy việc phục vụ nhân dân làm mục tiêu cao nhất của mình. “Nước ta là một
nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến kiến
quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử
ra. Đoàn thể từ trung ương đến xã đều do dân tổ chức lên. Nói tóm lại, quyền hành
và lực lượng đều ở nơi dân”. Hiến pháp năm 1946 coi việc “Thực hiện một chính
quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân” là một trong ba nguyên tắc của chính
thể mới và nền dân chủ nhân dân. Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001) hiện nay
cũng khẳng định “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân…”. Trong nhà nước
pháp quyền, quyền lực nhà nước xuất phát từ nhân dân, nên nhà nước pháp quyền
Việt Nam phải là nhà nước do nhân dân Việt Nam thành lập. Tính pháp quyền cao
nhất của quyền lực nhà nước là ở chỗ: nhân dân tự do lựa chọn bầu ra những đại
biểu xứng đáng thay mặt nhân dân gánh vác việc nước. Bầu cử là một phương thức
hợp pháp hóa quyền lực nhà nước mang tính phổ biến và là xu thế tất yếu của thế
giới hiện đại. Trong các bài viết về Thường thức chính trị trên báo Cứu quốc năm
1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng viết: “Trong các cuộc bầu cử, công dân Việt
Nam từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt gái, trai, tôn giáo, mức tài sản, trình độ văn
hóa, không phân biệt nòi giống đều có quyền tham gia. Đó là một cách hợp lý để
nhân dân lao động thực hành quyền thống trị của mình” [10, tr. 219-220].
8
Pháp quyền xét dưới góc độ tổ chức bộ máy nhà nước có nghĩa nhân dân
chính là chủ thể của quá trình tổ chức. Nhà nước pháp quyền không những là người
đại diện chân chính cho nhân dân của quốc gia đó, mà nó phải được cộng đồng quốc
tế thừa nhận. Nhà nước là người đại diện của nhân dân, cho nên, nhân dân phải có
tiếng nói quyết định vào việc thành lập ra các cơ quan nhà nước. Bầu cử là hoạt
động phổ thông nhất và mang tính đơn giản nhất, thông qua đó, nhân dân trực tiếp
thành lập các cơ quan quyền lực nhà nước: “Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước
thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và
nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân
dân”. Từ các thiết chế đại diện do nhân dân bầu ra này, các cơ quan nhà nước khác
lần lượt được thành lập. Về bản chất, bầu cử không những là con đường kiến thiết
chế độ đại diện mà nó cũng chính là phương thức để nhân dân loại bỏ những người
đại diện. Do vậy, để nhân dân giám sát quyền lực nhà nước, chế ngự sự tha hóa, lạm
quyền của quyền lực nhà nước một cách có hiệu quả, đồng thời với việc đổi mới chế
độ bầu cử, cần xây dựng cơ chế cụ thể và hữu hiệu quyền bãi nhiệm đại biểu dân cử
của nhân dân. Nói cách khác, nhân dân có thể thay thế, thậm chí phế truất những
người đại diện do mình bầu ra bất cứ lúc nào, nếu họ không còn sự tín nhiệm của
nhân dân, mà không phải đợi đến hết nhiệm kỳ: “Đại biểu Quốc hội bị cử tri hoặc
Quốc hội bãi nhiệm và đại biểu Hội đồng nhân dân bị cử tri hoặc Hội đồng nhân
dân bãi nhiệm khi đại biểu đó không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân”
(Điều 7 Hiến pháp 1992). Chính vì tầm quan trọng của việc khẳng định chủ quyền
nhân dân, trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới bộ máy nhà nước ở
nước ta không thể không nói tới đổi mới chế độ bầu cử. Làm sao để “quyền hành và
lực lượng đều ở nơi dân”, để nhân dân thực sự tìm được những người xứng đáng và
đích thực thay mặt mình gánh vác việc nước - đó là những vấn đề cơ bản của việc
đổi mới chế độ bầu cử ở nước ta hiện nay [38, tr. 237].
Chế độ bầu cử là nền tảng của dân chủ, có vai trò đặc biệt quan trọng đối với
việc kiến tạo chế độ dân chủ. Chế độ bầu cử là một trong những trụ cột trong cấu
trúc dân chủ ở bất cứ nhà nước nào. Dân chủ và bầu cử gắn bó mật thiết như hình
9
với bóng. Ở đâu có bầu cử tự do và trung thực, thì ở đó một chế độ dân chủ được
nảy nở và phát triển [3, tr. 27]. Dân chủ có nghĩa là nhân dân là nguồn gốc, là chủ
thể của quyền lực nhà nước; các cơ quan quyền lực phải được nhân dân bầu hoặc
bãi miễn thông qua bầu cử tự do, bình đẳng và bỏ phiếu kín.
Không những thế, rất nhiều các hiệp ước, hiến chương quốc tế, khu vực đều
khẳng định vai trò của bầu cử đối với thực thi dân chủ, bảo đảm quyền con người,
như Hiến chương Paris cho một châu Âu mới tuyên bố: “Ý chí của nhân dân thông
qua bầu cử tự do, công bằng và định kỳ là nền tảng cho một nhà nước dân chủ”. Tại
các nước lớn ngày nay, dân chủ dựa trên ý tưởng rằng chủ quyền của nhân dân hợp
pháp hóa cả chính quyền lẫn quyền cộng đồng quyết định, trên những nguyên tắc
phục tùng đa số, bảo vệ thiểu số và trên hệ thống nghị trường đại diện. Hội nghị An
ninh và hợp tác châu Âu (CSCE) khẳng định rằng, dân chủ “có nền tảng là việc tôn
trọng con người và chế độ pháp quyền”, công nhận chế độ pháp quyền là một yếu tố
thiết yếu để đảm bảo việc tôn trọng nhân quyền và hoan nghênh “quyết tâm chung
của tất cả các quốc gia thành viên nhằm xây dựng các xã hội dân chủ trên nền tảng
tuyển cử tự do và chế độ pháp quyền”. Chế độ pháp quyền dường như không chỉ đòi
hỏi pháp luật phải có giá trị phổ quát, mà còn đòi hỏi việc thực thi pháp luật cũng
phải phổ quát như vậy, nghĩa là pháp luật phải có khả năng thực thi một cách bình
đẳng đối với tất cả các thành viên của cộng đồng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói “Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể
quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức, để gánh vác công việc nước
nhà. Trong cuộc Tổng tuyển cử, hễ là những người muốn lo việc nước thì đều có
quyền ra ứng cử; hễ là công dân thì đều có quyền đi bầu cử. Không chia gái trai,
giàu nghèo, tôn giáo, nòi giống, giai cấp, đảng phái, hễ là công dân Việt Nam thì
đều có hai quyền đó. Vì lẽ đó, cho nên Tổng tuyển cử tức là tự do, bình đẳng, tức là
dân chủ đoàn kết” [10]. Đối với nước ta, dân chủ đại diện lại càng có vai trò đặc
biệt quan trọng, vì Hiến pháp mới chỉ khẳng định về dân chủ đại diện, mà chưa đề
cập rõ ràng về dân chủ trực tiếp. Vai trò của bầu cử đối với bộ máy nhà nước có thể
được ví như vai trò của nền móng trong việc xây dựng một ngôi nhà. Muốn có ngôi
10
nhà kiên cố và hiện đại, thì trước hết phải có nền móng vững chắc. Để có một Nhà
nước “của dân”, trước hết phải thiết kế và thực thi một chế độ bầu cử sao cho bộ
máy nhà nước đó “đúng” là kết quả của sự lựa chọn dựa trên ý chí của nhân dân.
Mối quan hệ giữa chế độ bầu cử với bản chất, mục đích của nhà nước là mối quan
hệ biện chứng: một mặt, một chế độ bầu cử đảm bảo đúng ý chí của nhân dân trong
việc lựa chọn và ủy quyền, thì bản thân việc lựa chọn và ủy quyền đó không những
đảm bảo nhà nước đó là nhà nước “của dân” mà đã bao hàm ý nghĩa nhà nước đó là
nhà nước “do dân và vì dân”; mặt khác, một nhà nước đích thực “của dân” sẽ là cơ
sở rất quan trọng để nó là một nhà nước “do dân và vì dân”. Ngược lại, nếu không
đảm bảo nhà nước đó là nhà nước đích thực của dân, nhân dân còn “đứng ngoài”,
hoặc chưa đóng vai trò quyết định, thì dù nó tổ chức, hoạt động theo nguyên tắc
nào, mục đích “do dân và vì dân” của nhà nước đó cũng khó có thể đạt được. Điều
đó không những không đảm bảo cơ sở pháp quyền của nhà nước, mà mục đích nhà
nước sẽ không đảm bảo dân chủ, hoặc mục đích dân chủ có thể được đặt ra, nhưng
sẽ bị chệch hướng.
Như vậy, bầu cử là định chế quan trọng, mang tính nền tảng trong việc kiến
tạo cơ chế chính trị của mỗi quốc gia. Nhưng tại sao lại như vậy? Câu trả lời là: vì
kết quả bầu cử thể hiện ý chí của nhân dân, cơ chế chính trị được xây dựng trên nền
tảng của chế độ bầu cử, tức là được xây dựng trên nền tảng ý chí của nhân dân. Đây
là cơ sở, là điều kiện tiên quyết cho một chính quyền, hệ thống chính trị của dân, do
dân, vì dân và đó là mục tiêu cao cả của dân chủ.
Ở Việt Nam và các nước xã hội chủ nghĩa, vai trò của chế độ bầu cử còn
mang tính đặc thù. Thứ nhất, đối với các nước tư sản, bộ máy nhà nước được tổ
chức và hoạt động theo nguyên tắc phân chia quyền lực, do đó nhân dân không
những bầu ra Quốc hội, mà ở nhiều nước, nhân dân còn bầu ra Tổng thống. Do vậy,
bản thân chế độ bầu cử là công cụ nhằm kiểm soát, đối trọng giữa các nhánh quyền
lực và nó có khả năng tạo ra cơ hội “sửa sai” cho nhân dân. Chẳng hạn, sau khi bầu
cử Tổng thống, nếu đường lối, chính sách do Tổng thống thực thi không hợp lòng
dân, đến kỳ bầu cử Quốc hội, cử tri sẽ dồn phiếu cho các đảng đối lập để “khắc
11
chế”, “đối trọng” đường lối của Tổng thống và ngược lại. Khác với các nước tư sản,
ở nước ta, khi nhân dân bầu ra Quốc hội, Hội đồng nhân dân thì cũng có nghĩa gần
như trao toàn bộ “ấn kiếm” cho các cơ quan này mà không có nhiều cơ hội “sửa sai”
như ở các nước tư sản. Về nguyên tắc, cử tri có quyền bãi nhiệm các đại biểu dân cử
khi họ không còn được sự tín nhiệm của nhân dân. Tuy nhiên, việc bãi nhiệm
thường tiến hành với từng đại biểu riêng biệt, hơn nữa, việc bãi nhiệm tuy đã có
trong các điều khoản của Hiến pháp, các đạo luật về tổ chức các cơ quan nhà nước,
nhưng chưa có cơ chế cụ thể để thực hiện, để áp dụng vào thực tiễn. Vả lại, kể cả
khi chúng ta xây dựng được cơ chế bãi nhiệm đại biểu dân cử, do thủ tục phức tạp
cần phải có của cơ chế và tính phức tạp của trách nhiệm chính trị, cơ chế này vẫn
mang tính phòng ngừa nhiều hơn. Thứ hai, vị trí, thẩm quyền của cơ quan dân cử
trong bộ máy nhà nước các nước xã hội chủ nghĩa có tính đặc biệt: Quốc hội là cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất, Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà
nước ở địa phương. Đối với Việt Nam, thẩm quyền xây dựng Hiến pháp được trao
cho Quốc hội, cho nên, có thể hình dung rằng thông qua bầu cử, nhân dân trao
những thẩm quyền quan trọng, như quyết định các vấn đề quan trọng nhất của cả
nước/địa phương cho cơ quan quyền lực nhà nước, trao cả quyền lập hiến cho Quốc
hội.
Bầu cử có vị trí vai trò rất quan trọng trong việc phê bình và lựa chọn chính
quyền nhà nước [8]. Bầu cử sẽ là một việc vô nghĩa nếu như không có sự lựa chọn.
Ðể có được những lựa chọn đúng đòi hỏi những người dân phản đối chính quyền
phải được phép tự do công khai bày tỏ quan điểm của mình, tự do chỉ trích chính
sách và lôi kéo, tổ chức những người ủng hộ họ. Những cuộc bầu cử tự do và công
bằng không thể duy trì được ở những nơi mà các quan chức có quyền bưng bít các
lời chỉ trích.
Tóm lại, chế độ bầu cử là một định chế quan trọng của dân chủ, nền tảng của
mọi nhà nước pháp quyền. Việc thiết kế, thực thi chế độ bầu cử tiến bộ, phù hợp là
công việc quan trọng hàng đầu đối với bất cứ nhà nước pháp quyền nào, trong đó có
Việt Nam.
12
Thành công của các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Hội
đồng nhân dân đã thể hiện rõ ý thức chính trị, trách nhiệm của cử tri và nhân dân
đối với sự nghiệp cách mạng của đất nước; phản ánh tính dân chủ trong đời sống xã
hội của đất nước ta.
Các cuộc bầu cử đều diễn ra thuận lợi và đạt được những thắng lợi to lớn.
Hầu hết các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội của nước ta đều thu hút được đông đảo
cử tri tham gia bỏ phiếu, với tỉ lệ trên dưới 90%. Đây là một thực tế mà không phải
quốc gia nào cũng đạt được, kể cả ở những nước phát triển. Điều đó phản ánh được
ý thức chính trị rất cao của cử tri và nhân dân ta đối với sự nghiệp cách mạng của
đất nước. Mặt khác, cũng chính từ thành công của các cuộc bầu cử đại biểu Quốc
hội đã phán ánh được sự dân chủ trong đời sống kinh tế - xã hội ở nước ta.
Như vậy, bầu cử như là một trong những biện pháp cơ bản thể hiện sự chịu
trách nhiệm của nhà nước, cũng như một cách thức nhân dân đánh giá và mong
muốn về trách nhiệm của nhà nước trong tương lai. Thông qua việc bầu cử, nhân
dân có quyền hất bỏ những quyền lực nhà nước không đáp ứng, và muốn có một sự
thay đổi với mục tiêu đáp ứng được mong mỏi của người dân. Cơ sở của chế độ bầu
cử là quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Quyền lực nhà nước của các cơ quan
nhà nước, cũng như của các cá nhân được đảm nhiệm các công việc nhà nước là do
nhân dân trao cho thông qua hoạt động bầu cử của họ. Đây cũng là cơ sở cho việc
các cơ quan nhà nước cũng như các quan chức do nhân dân bầu ra không chỉ đơn
thuần có được quyền lực nhà nước, mà còn phải chịu trách nhiệm về việc thực thi
quyền lực được giao trước nhân dân [8].
13
Chƣơng 2
THƢ̣C TRẠNG HỆ THỐ NG PHÁP LUẬT VỀ BẦU CỬ VÀ VIỆC
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẦU CỬ HIỆN NAY
2.1. Thực trạng hệ thống pháp luật về bầu cử ĐBQH và ĐB HĐND
2.1.1. Thực trạng pháp luật về bầu cử đại biểu Quốc hội qua cuộc bầu cử
các khóa XI, XII
Qua thực tiễn triển khai áp dụng luật bầu cử đại biểu Quốc hội các khóa
gần đây cho thấy, các quy định của luật thực định nhìn chung được áp dụng khá
đầy đủ trong thực tiễn, việc triển khai các công việc phục vụ cho công tác bầu cử
được thực hiện đúng tiến độ, bảo đảm tính dân chủ, tiết kiệm. Các cuộc bầu cử
đã đạt được những kết quả tích cực và thành công trên nhiều phương diện, từ các
công tác chuẩn bị, tổ chức triển khai thực hiện cho đến khi kết thúc cuộc bầu cử.
Qua việc thi hành pháp luật về bầu cử đại biểu Quốc hội tại các cuộc bầu cử gần
đây cho thấy, nhìn chung luật đã đi vào cuộc sống, công tác bầu cử đại biểu
Quốc hội đã bảo đảm được các tiêu chí và nguyên tắc theo quy định của luật,
nhất là đã đảm bảo được tính đại diện cho các thành phần, giai tầng trong xã hội;
số người ứng cử, tự ứng cử ở mỗi đơn vị bầu cử đã tăng lên, trình độ của những
người ứng cử khá đồng đều, chất lượng đại biểu trúng cử nhiệm kỳ sau được
nâng lên so với nhiệm kỳ trước. Sự thành công của các cuộc bầu cử gần đây cho
thấy hệ thống pháp luật về bầu cử về cơ bản đã dần đồng bộ, toàn diện và đang
từng bước được hoàn thiện. Tuy nhiên, với đặc thù của công tác bầu cử là hoạt
động không thường xuyên, năm năm mới thực hiện một lần nên việc áp dụng các
quy định của pháp luật về bầu cử qua các kỳ bầu cử đại biểu Quốc hội còn cho
thấy có những vấn đề được quy định trong luật chưa thực sự phù hợp với sự vận
động của thực tiễn.
Trước những yêu cầu, nhiệm vụ phát triển đất nước trong tình hình mới,
quán triệt chủ trương của Đảng thể hiện trong Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ IX đã nêu: “Nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội, đại biểu
14
Hội đồng nhân dân, hoàn thiện những quy định về bầu cử, ứng cử, về tiêu chuẩn
và cơ cấu các đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân trên cơ sở thật sự phát
huy dân chủ. Tăng thêm tỷ lệ đại biểu Quốc hội chuyên trách”, ngày 25 tháng 12
năm 2001 Quốc hội khóa X đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1997. Luật bầu cử đại biểu Quốc hội năm
2001 được sửa đổi cũng nhằm mục đích để phù hợp với nội dung sửa đổi, bổ
sung một số điều của Hiến pháp năm 1992 và việc sửa đổi Luật tổ chức Quốc hội
và cụ thể hóa các quan điểm, chỉ thị của Đảng về đổi mới tổ chức và hoạt động
của Quốc hội; phát huy bản chất dân chủ, bảo đảm tính nhân dân, tính đại diện
và chất lượng đại biểu Quốc hội; làm cơ sở cho việc tăng tỷ lệ đại biểu Quốc hội
chuyên trách.
Luật bầu cử đại biểu Quốc hội năm 2001 được Quốc hội thông qua là cơ
sở pháp lý quan trọng đối với cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI và khóa
XII. Các quy định của Luật đã được các cơ quan có thẩm quyền liên quan đến
công tác bầu cử đại biểu Quốc hội từ trung ương đến địa phương vận dụng tổ
chức thành công các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội, góp phần vào quá trình kiện
toàn tổ chức và tăng cường hiệu quả hoạt động của Quốc hội qua các nhiệm kỳ
Quốc hội khóa XI và khóa XII.
Tuy nhiên, qua quá trình áp dụng Luật bầu cử đại biểu Quốc hội để triển
khai công tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI và khóa XII cho thấy Luật còn
có một số quy định vướng mắc, khó thực hiện trong triển khai công tác bầu cử.
Cụ thể như sau:
Về số người ứng cử tại mỗi khu vực bỏ phiếu
Điều 46 Luật bầu cử đại biểu Quốc hội quy định:
Căn cứ vào danh sách chính thức những người ứng cử được Đoàn
Chủ tịch Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giới thiệu, Hội
đồng bầu cử gửi tới các Uỷ ban bầu cử hữu quan danh sách những người
được giới thiệu về ứng cử tại địa phương. Hội đồng bầu cử lập và công bố
15
danh sách những người ứng cử theo từng đơn vị bầu cử trong cả nước
theo danh sách chính thức do Ban thường trực Uỷ ban trung ương Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và Uỷ ban bầu cử gửi đến chậm nhất là hai mươi
lăm ngày trước ngày bầu cử. Trong danh sách những người ứng cử phải
ghi rõ họ, tên, ngày, tháng, năm sinh, quê quán, nơi thường trú, dân tộc,
tôn giáo, trình độ văn hoá, chuyên môn, nghề nghiệp, chức vụ, nơi làm
việc của người ứng cử. Danh sách những người ứng cử được xếp theo vần
chữ cái A, B, C... Số người trong danh sách ứng cử ở mỗi đơn vị bầu cử
phải nhiều hơn số đại biểu được bầu ở đơn vị đó. Người ứng cử chỉ được
ghi tên vào danh sách ứng cử ở một đơn vị bầu cử.
Quy định này dẫn đến tình trạng có đơn vị bầu cử số người ứng cử chỉ
nhiều hơn số đại biểu được bầu là một người. Nếu số người ứng cử chỉ nhiều hơn
số đại biểu được bầu là một người thì trong trường hợp bất khả kháng người ứng
cử bị truy cứu trách nhiệm hình sự, bị chết hoặc vì lý do bất khả kháng, phải xóa
tên trong danh sách bầu cử thì đơn vị bầu cử đó sẽ không có số dư hoặc đơn vị
bầu cử đó phải giảm số đại biểu được bầu để bảo đảm số dư theo đúng quy định
của luật. Trong thực tế bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI ở tỉnh Nam Định và
tỉnh Bình Định có trường hợp ứng cử viên bị kỷ luật, khởi tố hình sự sát ngày
bầu cử, không thể bổ sung kịp danh sách người ứng cử nên Hội đồng bầu cử đã
phải quyết định rút ở đơn vị đó một đại biểu để tránh tình trạng “bầu tròn”. Từ
thực tiễn bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI, Hội đồng bầu cử đã có văn bản
hướng dẫn số dư tại mỗi đơn vị bầu cử phải ít nhất là hai người. Tuy nhiên, với
hướng dẫn như vậy lại là quá cứng nhắc, khó cho cử tri lựa chọn đại biểu và các
đại biểu do trung ương giới thiệu cũng sẽ khó trúng cử đối với những đơn vị bầu
cử có bốn người ứng cử và chỉ được bầu hai đại biểu (cuộc bầu cử đại biểu Quốc
hội khóa XII có 47/182 đơn vị bầu cử được bầu 2 đại biểu). Trong luật bầu cử
đại biểu Quốc hội năm 1997 cũng không quy định rõ đối với những trường hợp
bất khả kháng về nhân sự trong bầu cử thì sẽ do cơ quan nào có thẩm quyền xem
xét, quyết định. Vì vậy, việc quy định rõ Hội đồng bầu cử sẽ xem xét, quyết định
16
đối với những trường hợp khuyết người ứng cử vì lý do bất khả kháng sẽ tạo
thuận lợi trong quá trình thực hiện khi xảy ra sự việc này.
Việc quy định số lượng cử tri tại mỗi khu vực bỏ phiếu không phù hợp với
số dân cư: Điều 12 Luật bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1997 quy định:
Mỗi đơn vị bầu cử chia thành nhiều khu vực bỏ phiếu. Việc chia
khu vực bỏ phiếu do Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn quyết định và
do Uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp phê chuẩn. Mỗi khu vực bỏ phiếu
có từ ba trăm đến hai nghìn cử tri. Ở miền núi, hải đảo và những nơi dân
cư không tập trung thì dù chưa có tới ba trăm cử tri cũng được thành lập
một khu vực bỏ phiếu…
Thực tế cùng với việc tăng dân số cả nước và ở từng địa phương, mật độ
dân số cũng tăng lên nhiều. Vì vậy, mức trần tối đa cử tri ở một khu vực bỏ
phiếu quy định như Luật bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1997 là không hợp lý.
Qua thực tế bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XII cho thấy, tại những địa phương
có mật độ dân số cao, nhiều khu dân cư có trên hai nghìn cử tri thì việc giới hạn
khu vực bỏ phiếu từ ba trăm đến hai nghìn cử tri đã gây nhiều khó khăn cho địa
phương trong việc thành lập khu vực bỏ phiếu (Hội đồng bầu cử đại biểu Quốc
hội khóa XII đã phải có công văn cho phép Bình Dương thành lập khu vực bỏ
phiếu có trên 2000 cử tri.)
Về chức năng nhiệm vụ và thành viên Tổ bầu cử: Tổ bầu cử là tổ chức
trực tiếp phụ trách công tác bầu cử ở cơ sở, thông thường, đơn vị hành chính cấp
xã có từ 12-15 tổ bầu cử. Điều 17, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội quy định:
Chậm nhất là ba mươi ngày trước ngày bầu cử, Chủ tịch Hội đồng
nhân dân xã, phường, thị trấn sau khi thống nhất với Uỷ ban nhân dân và
Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp quyết định thành lập
ở mỗi khu vực bỏ phiếu một Tổ bầu cử từ năm đến mười một người, gồm
Tổ trưởng, Tổ phó, Thư ký và các uỷ viên là đại diện Hội đồng nhân dân,
Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp và đại diện cử tri ở
17
địa phương. Đơn vị vũ trang nhân dân thành lập ở mỗi khu vực bỏ phiếu
của mình một Tổ bầu cử từ năm đến chín người, gồm Tổ trường, Tổ phó,
Thư ký và các uỷ viên là đại diện Chỉ huy đơn vị và đại diện quân nhân.
Trong trường hợp đơn vị vũ trang nhân dân và địa phương có chung một
khu vực bỏ phiếu thì Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn sau
khi thống nhất với Uỷ ban nhân dân, Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ
quốc cùng cấp và Chỉ huy đơn vị vũ trang nhân dân quyết định thành lập
Tổ bầu cử từ năm đến mười một người, gồm đại diện Hội đồng nhân dân,
Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp, đại diện Chỉ huy
đơn vị, đại diện quân nhân và đại diện cử tri ở địa phương….
Trên thực tế, nhiều Tổ bầu cử không có đủ số người đại diện của Hội đồng
nhân dân và Ủy ban nhân dân. Đây là thực tế vướng mắc trong đợt bầu cử đại
biểu Quốc hội khóa XI và khóa XII (ví dụ như ở tỉnh Bắc Ninh trong cuộc bầu
cử đại biểu Quốc hội khóa XII, khi thiếu thành phần đại diện Ủy ban nhân dân
trong Tổ bầu cử và Hội đồng bầu cử phải có hướng dẫn cụ thể đối với các trường
hợp này theo hướng đối với xã, phường, thị trấn có địa bàn lớn, có số dân đông
phải thành lập nhiều Tổ bầu cử thì không nhất thiết trong thành phần các Tổ bầu
cử phải có đại diện Ủy ban nhân dân). Ngoài ra, Tổ bầu cử là tổ chức ở cơ sở và
là Tổ chức phụ trách trực tiếp công tác bầu cử trong khu vực bỏ phiếu, là tổ chức
liên hệ trực tiếp với cử tri địa phương, nhận tài liệu và phiếu bầu từ Ban bầu cử
để phát cho cử tri nhưng những nội dung này lại không được quy định cụ thể
trong Luật. Trách nhiệm của Tổ bầu cử đối với những khiếu nại, tố cáo về công
tác bầu cử do Tổ bầu cử phụ trách cũng không được đề cập, như vậy, thực tế sẽ
dẫn đến tình trạng Tổ bầu cử không có trách nhiệm gì trong giải quyết khiếu nại
tố cáo đối với lĩnh vực mình phụ trách, và mọi khiếu nại, tố cáo về công tác bầu
cử của Tổ bầu cử lại dồn lên Ban bầu cử xem xét và giải quyết, trong khi đó, Ban
bầu cử cũng đã quá tải với công việc tổng hợp trực tiếp kết quả bầu cử từ hàng
trăm đến hàng nghìn các Tổ bầu cử khác nhau.
Về thời gian, thời điểm kết thúc cuộc bỏ phiếu
18
Điều 57 Luật bầu cử đại biểu Quốc hội 1997 quy định:
Việc bỏ phiếu bắt đầu từ bảy giờ sáng đến bảy giờ tối. Tuỳ tình
hình địa phương, Tổ bầu cử có thể quyết định cho bắt đầu sớm hơn nhưng
không được trước năm giờ sáng hoặc kết thúc muộn hơn nhưng không
được quá mười giờ đêm. Trước khi bỏ phiếu, Tổ bầu cử phải kiểm tra hòm
phiếu trước sự chứng kiến của cử tri.
Trên thực tế, sau thời điểm kết thúc bỏ phiếu các tổ chức phụ trách bầu cử
phải có thời gian cần thiết bảo đảm thực hiện việc kiểm phiếu theo quy định.
Quy định như Điều 57 là có thể kết thúc muộn nhưng không được quá mười giờ
đêm sẽ gây khó khăn cho công tác kiểm phiếu của tổ chức phụ trách bầu cử. Mặt
khác, trong Luật bầu cử đại biểu Quốc hội cũng chưa quy định điều kiện để
tuyên bố kết thúc bỏ phiếu sớm tại các khu vực bỏ phiếu gây vướng mắc cho các
tổ bầu cử. Thực tế, trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XII, một số địa
phương như Đà Nẵng, Hà Tây cũ… đã phải đề nghị Hội đồng bầu cử hướng dẫn
về trường hợp kết thúc sớm cuộc bỏ phiếu tại các tổ bầu cử. Hội đồng bầu cử
hướng dẫn theo hướng trong trường hợp ở khu vực bỏ phiếu đã có 100% cử tri đi
bỏ phiếu thì Tổ bầu cử có thể tuyên bố toàn bộ cử tri trong danh sách đã bỏ phiếu
xong và kết thúc cuộc bỏ phiếu tại khu vực bỏ phiếu đó.
Về xác nhận việc bỏ phiếu trên thẻ cử tri
Trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI, ở tỉnh Bắc Ninh đã phải
tiến hành bầu cử lại ở khu vực bỏ phiếu số 3 (thôn Dương Lôi, xã Tân Hồng,
huyện Từ Sơn) do Tổ bầu cử đã không đóng dấu vào “đã bỏ phiếu” trên thẻ cử
tri. Quy định của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội không đề cập đến nội dung này.
Như vậy sẽ dẫn đến tình trạng khó xác định được việc cử tri đó đã đi bầu hay
chưa và cũng khó cho Tổ bầu cử theo dõi danh sách cử tri.
Về thời điểm kết thúc nhiệm vụ của các tổ chức phụ trách bầu cử
19
Theo quy định của Luật bầu cử thì Ủy ban bầu cử hết nhiệm vụ sau khi
Hội đồng bầu cử công bố kết quả bầu cử trong cả nước. Thực tế cho thấy các tổ
chức phụ trách bầu cử ở địa phương vẫn phải tiếp tục hoạt động khi Hội đồng
bầu cử đã công bố kết quả bầu cử trong cả nước để thực hiện một số công việc
như thông báo kết quả bầu cử, quyết toán kinh phí, giải quyết các vướng mắc
phát sinh về kinh phí bầu cử, xem xét các đề nghị khen thưởng và một số công
việc khác để tổ chức hội nghị tổng kết cuộc bầu cử ở địa phương. Vì vậy, quy
định về thời điểm kết thúc nhiệm vụ của tổ chức phụ trách bầu cử địa phương
như luật là không phù hợp với thực tiễn tổ chức các cuộc bầu cử.
2.1.2. Thực trạng pháp luật về bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân qua
cuộc bầu cử đại biểu HĐND nhiệm kỳ 2004-2009
Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (sửa đổi) được Quốc hội khóa IX
thông qua năm 1994 theo tinh thần của Hiến pháp 1992. Qua thực tiễn áp dụng,
Luật đã góp phần quan trọng vào việc tổ chức tốt cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân nhiệm kỳ 1994-1999 và nhiệm kỳ 1999-2004, tạo sơ sở pháp lý quan
trọng cho việc kiện toàn, củng cố tổ chức và hoạt động của chính quyền các cấp.
Tuy nhiên, qua thực tiễn tổ chức cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân qua hai
nhiệm kỳ cho thấy Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân còn bộc lộ một số
hạn chế nhất định như tiêu chuẩn, số lượng đại biểu; quyền bầu cử, ứng cử, giới
thiệu người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân; về nhiệm vụ, quyền hạn của các
tổ chức phụ trách bầu cử; quy trình hiệp thương lựa chọn, giới thiệu người ra
ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân chưa được cụ thể hóa và không phù hợp với
tình hình thực tiễn đặt ra. Do đó, để quán triệt Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của
Đảng và các Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương về xây dựng và hoàn
thiện chính quyền địa phương các cấp, phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
nâng cao chất lượng và hiệu quả của dân chủ đại diện, từng bước mở rộng và
phát huy dân chủ trực tiếp của nhân dân ở các địa phương. Vì vậy, tại kỳ họp thứ
4, Quốc hội khóa XI tháng 11 năm 2003, Quốc hội thông qua Luật bầu cử đại
20
biểu Hội đồng nhân dân (sửa đổi). Luật cụ thể hóa những nội dung mới của Hiến
pháp 1992 và được triển khai có hiệu quả trong cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân nhiệm kỳ 2004-2009. Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân được
Quốc hội ban hành năm 2003 đã cơ bản khắc phục những vấn đề vướng mắc
trong thực tế bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp theo quy định của luật
bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân sửa đổi, bổ sung năm 1994, tiếp thu có chọn
lọc những kinh nghiệm từ cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội, điều chỉnh tương đối
phù hợp các quy định về số lượng cử tri tại mỗi khu vực bỏ phiếu; về thành viên
tổ bầu cử; về thời hạn kết thúc cuộc bỏ phiếu; về giải quyết khiếu nại, tố cáo
trong công tác bầu cử ở Tổ bầu cử… Những điều chỉnh căn bản đó đã góp phần
thành công trong cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2004-2009.
Tuy nhiên, qua việc triển khai thực hiện các quy định của Luật Bầu cử đại biểu
Hội đồng nhân dân còn cho thấy bộc lộ những quy định thiếu hợp lý, đó là:
Về thành lập khu vực bỏ phiếu của các đơn vị lực lượng vũ trang
Theo quy định tại Điều 57 của Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân
2003 thì: “các đơn vị lực lượng vũ trang thành lập khu vực bỏ phiếu riêng”.
Như vậy, với những đơn vị vũ trang với quy mô nhỏ, số lượng cử tri ít mà thành
lập một khu vực bỏ phiếu riêng thì sẽ không đảm bảo số lượng cử tri và trên thực
tế, cũng không phải đơn vị lực lượng vũ trang nào cũng có thể liên kết với đơn vị
cấp trên trong cùng một đơn vị hành chính để thành lập riêng một khu vực bỏ
phiếu được vì như vậy sẽ gây khó khăn cho người đi bầu. Thực tế, có những đơn
vị lực lượng vũ trang như đơn vị bộ đội biên phòng quân số ít thì sẽ gặp lúng
túng trong quá trình triển khai thực hiện.
Về việc gửi biên bản và phiếu bầu
Điều 59 Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân quy định: “…Biên bản
kiểm phiếu được lập thành ba bản, có chữ ký của Tổ trưởng, Tổ phó, Thư ký Tổ
bầu cử và hai cử tri được mời chứng kiến việc kiểm phiếu để gửi đến Ban bầu
cử, Uỷ ban nhân dân, Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã,
21
phường, thị trấn”. Biên bản kiểm phiếu, phiếu bầu và các tài liệu khác về bầu cử
là những tài liệu quan trọng và là căn cứ thiết yếu để đánh giá kết quả bầu cử,
trúng cử của đại biểu trong khu vực bỏ phiếu. Trong những tài liệu đó thì phiếu
bầu chỉ có duy nhất một bản. Vì vậy, quy định như trong Luật bầu cử đại biểu
Hội đồng nhân dân thì Tổ bầu cử sẽ phải chuyển giao biên bản kiểm phiếu, phiếu
bầu và các tài liệu khác tới ba cơ quan, tổ chức là: Ban bầu cử, Ủy ban nhân dân
và Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã, phường, thị trấn là
không hợp lý và không khả thi trong thực tế. Vì vậy, trong tổ chức thực hiện, Tổ
bầu cử lúng túng không biết chuyển phiếu bầu cho cơ quan nào. Theo Nghị định
quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật bầu cử Hội đồng nhân dân do
Chính phủ ban hành thì chỉ quy định Ủy ban nhân dân xã lưu trữ, quản lý số
phiếu bầu không sử dụng đến đã được Tổ bầu cử niêm phong và không đề cập
đến số phiếu đã được sử dụng.
Về việc hoãn hoặc bỏ phiếu sớm hơn ngày quy định
Trên thực tế cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2004-2009
có một số khu vực bỏ phiếu, đơn vị bầu cử của nhiều tỉnh, thành phố đề nghị
được tổ chức bỏ phiếu sớm hơn thời gian quy định. Cũng có một số đơn vị bầu
cử, khu vực bỏ phiếu thuộc 4 huyện của tỉnh Bắc Ninh đã đề nghị được hoãn
ngày bỏ phiếu do chưa chuẩn bị kịp về nhân sự.
Tuy nhiên, Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân đã không có quy định
xác định cụ thể tổ chức phụ trách bầu cử nào có thẩm quyền xem xét, quyết định
việc hoãn hoặc bỏ phiếu sớm hơn ngày quy định. Trong khi đó, đối với bầu cử
đại biểu Hội đồng nhân dân thì có tới 3 Ban bầu cử khác nhau và có 3 Hội đồng
bầu cử khác nhau và cả 6 tổ chức này cũng không có thẩm quyền trong việc
quyết định hoãn ngày bỏ phiếu hoặc bỏ phiếu sớm hơn. Điều 54 Luật bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân quy định:
Trong ngày bầu cử, cuộc bỏ phiếu phải được tiến hành liên tục.
Trong trường hợp có sự kiện bất ngờ làm gián đoạn việc bỏ phiếu thì Tổ
22
bầu cử phải lập tức niêm phong giấy tờ và hòm phiếu, kịp thời báo cáo
cho Ban bầu cử biết, đồng thời phải có những biện pháp cần thiết để cuộc
bỏ phiếu được tiếp tục. Trong trường hợp đặc biệt cần hoãn ngày bỏ
phiếu hoặc bỏ phiếu sớm hơn ngày quy định thì Tổ bầu cử phải kịp thời
báo cáo Ban bầu cử biết để đề nghị Hội đồng bầu cử trình cơ quan có
thẩm quyền xem xét, quyết định.
Đối chiếu với Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật
bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân do Chính phủ ban hành thì sự việc được giải
quyết theo hướng Hội đồng bầu cử cấp tỉnh báo cáo Chính phủ để trình Ủy ban
thường vụ Quốc hội xem xét. Tuy nhiên, qua thực tế hoãn ngày bỏ phiếu bầu cử
Hội đồng nhân dân tại 4 khu vực bỏ phiếu thuộc 4 huyện của tỉnh Bắc Ninh
trong cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2004-2009 cho thấy thì Chính
phủ còn phải có sự thống nhất với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các cơ quan trung
ương thì mới trình Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét.
Về thời điểm kết thúc nhiệm vụ của các tổ chức phụ trách bầu cử đại biểu
Hội đồng nhân dân
Điều 22, Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân quy định: “Hội đồng
bầu cử hết nhiệm vụ sau khi đã trình biên bản tổng kết cuộc bầu cử và hồ sơ, tài
liệu về bầu cử tại kỳ họp thứ nhất của Hội đồng nhân dân khoá mới. Các Ban
bầu cử, Tổ bầu cử hết nhiệm vụ sau khi Hội đồng bầu cử công bố kết quả bầu
cử”. Qua thực tế công tác bầu cử cho thấy các Ban bầu cử, Tổ bầu cử đối với bầu
cử đại biểu Hội đồng nhân dân vẫn phải tiếp tục hoạt động sau khi Hội đồng bầu
cử công bố kết quả bầu cử để thực hiện một số công việc về quyết toán kinh phí,
giải quyết các vướng mắc phát sinh về kinh phí bầu cử…Vì vậy, việc thực hiện
những quy định của luật hiện hành cũng gặp những vướng mắc tương tự như đối
với thời điểm kết thúc nhiệm vụ của các tổ chức phụ trách bầu cử đại biểu Quốc
hội.
23
2.1.3. Những vấn đề mặt pháp lý đặt ra đối với cuộc bầu cử chung đại biểu
Quốc hội khóa XIII và đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2011-2016
Với mục đích bảo đảm sự đồng bộ, hợp lý của hệ thống chính trị; tạo điều
kiện thuận lợi cho việc bố trí, sắp xếp đội ngũ cán bộ lãnh đạo của Đảng trong
các cơ quan nhà nước ở các cấp; tiết kiệm thời gian, tiền của, công sức; phù hợp
với nguyện vọng của nhân dân, cử tri cả nước, Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư,
Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã đề ra chủ trương tổ chức Đại hội
Đảng toàn quốc, bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các
cấp trong cùng một năm (là năm đầu của mỗi kế hoạch 5 năm). Theo tinh thần
đó, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết về việc rút ngắn nhiệm kỳ Quốc hội khóa
XII và kéo dài nhiệm kỳ Hội đồng nhân dân. Năm 2011, chúng ta đã tiến hành
bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII và đại biểu Hội đồng nhân dân các c ấp
nhiệm kỳ 2011- 2016. Ngoài những thuận lợi của việc tổ chức bầu cử chung như
đã nêu ở trên thì đặt ra tương đối nhiều vấn đề về mặt pháp lý cần phải giải quyết
liên quan đến quy định của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân. Với hai Luật bầu cử khác nhau, trong đó có nhiều quy
định khác nhau, điều này đã gây khó khăn lớn đối với sự chỉ đạo triển khai công
tác bầu cử, phát sinh những vướng mắc trong quá trình chuẩn bị và tiến hành bầu
cử. Thực tiễn đó đặt ra một số vấn đề về sự cần thiết phải sửa đổi hai Luật về bầu
cử.
Trong quá trình nghiên cứu xây dựng dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân
dân đã có những tranh luận về các giải pháp sửa đổi. Tuy nhiên, trước tình hình
thực tiễn Quốc hội đã quyết định phương châm sửa đổi hai luật này trước hết là
nhằm mục đích để giải quyết những mâu thuẫn, khác biệt trong quy định về các
khâu của công tác bầu cử, tiến tới đảm bảo sự thống nhất giữa hai luật bầu cử để
tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chuẩn bị và tiến hành bầu cử chung và làm
cơ sở để tiến hành sửa đổi Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật Bầu cử Hội
24
đồng nhân dân sau này. Những vấn đề pháp lý đặt ra được nghiên cứu sửa đổi,
bổ sung bao gồm:
Vấn đề quy định về các tổ chức phụ trách bầu cử:
Theo quy định của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội năm 2001, các tổ chức
phụ trách bầu cử đại biểu Quốc hội gồm có Hội đồng bầu cử trung ương; Ủy ban
bầu cử ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Ban bầu cử ở đơn vị bầu cử; Tổ
bầu cử ở khu vực bỏ phiếu. Đối với bầu cử Hội đồng nhân dân, Luật bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân năm 2003 quy định các tổ chức phụ trách bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân gồm Hội đồng bầu cử; Ban bầu cử; Tổ bầu cử. Vì là
cuộc bầu cử chung, do đó theo quy định của từng luật về bầu cử thì phải thành
lập nhiều tổ phụ trách bầu cử để thực hiện công tác bầu cử đại biểu Quốc hội và
bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân từng cấp sẽ gây khó khăn không nhỏ cho
chính quyền địa phương trong công tác bố trí nhân sự tham gia các tổ chức phụ
trách bầu cử. Vì vậy, để tổ chức thực hiện bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử
đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp trong cùng một ngày có tính khả thi, bảo
đảm thuận lợi, tiết kiệm cho quá trình chuẩn bị và tiến hành bầu cử hai Luật bầu
cử đã được sửa đổi theo hướng quy định kết hợp một số tổ chức phụ trách bầu cử
có thể thực hiện đồng thời công tác bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu
Hội đồng nhân dân, quy định thống nhất về chức năng, nhiệm vụ, thành phần và
số lượng thành viên các tổ chức phụ trách bầu cử.
Vấn đề cơ quan chủ trì thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử
Luật bầu cử đại biểu Quốc hội quy định cơ quan chủ trì thành lập các tổ
chức phụ trách bầu cử ở địa phương là Thường trực Hội đồng nhân dân. Trong
khi đó, Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân lại quy định Ủy ban nhân dân
chủ trì thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân. Khi
thực hiện bầu cử chung không thể một tổ chức bầu cử lại có hai cơ quan chủ trì
thành lập được.
25
Vấn đề số lượng cử tri tại mỗi khu vực bỏ phiếu và việc thành lập khu vực
bỏ phiếu đối với đơn vị lực lượng vũ trang
Luật bầu cử đại biểu Quốc hội quy định số lượng cử tri ở mỗi khu vực bỏ
phiếu từ ba trăm đến hai nghìn cử tri; Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân
quy định số lượng cử tri ở mỗi khu vực bỏ phiếu từ ba trăm đến bốn nghìn cử tri.
Do bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp trong
cùng một ngày nên cần phải sửa đổi thống nhất về số lượng cử tri tại mỗi khu
vực bỏ phiếu, bởi nếu bầu cử chung thì khu vực bỏ phiếu bầu cử đại biểu Quốc
hội phải đồng thời là khu vực bỏ phiếu bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các
cấp. Ngoài ra, trong cả hai luật về bầu cử đều có quy định đơn vị lực lượng vũ
trang thành lập khu vực bỏ phiếu riêng. Tuy nhiên, trong Luật bầu cử đại biểu
Quốc hội lại bổ sung thêm trường hợp là đơn vị lực lượng vũ trang và địa
phương có thể thành lập chung khu vực bỏ phiếu. Như vậy, phải nghiên cứu sửa
đổi để thống nhất khi áp dụng chung cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu
Hội đồng nhân dân. Hơn nữa, về vấn đề này, thực tế khi thực hiện theo từng luật
trong các kỳ bầu cử trước đây cũng đã có những vướng mắc vì quy định không
cụ thể các tiêu chí để thành lập khu vực bỏ phiếu riêng của đơn vị lực lượng vũ
trang dẫn đến nhiều cách làm khác nhau của các địa phương khi triển khai thực
hiện.
Về các vấn đề liên quan đến hoạt động bỏ phiếu
Với đối tượng cử tri chung cho bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân, thì các quy định về cách thức bầu cử phải có sự thống
nhất và có quy định cụ thể mỗi cử tri có quyền bỏ một phiếu bầu đại biểu Quốc
hội; bỏ một phiếu bầu cho mỗi cấp Hội đồng nhân dân và khi bỏ phiếu phải xuất
trình thẻ cử tri. Tổ bầu cử phải có nhiệm vụ phân định rõ ràng việc cử tri đã đi
bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân. Để thực hiện
được điều này, cần có hướng dẫn thống nhất trên mỗi thẻ cử tri phải có các mục
về bầu cử đại biểu Quốc hội và mục về bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân để Tổ
26
bầu cử đóng dấu xác định. Thời điểm kết thúc cuộc bỏ phiếu sớm cũng cần có sự
thống nhất giữa hai luật về bầu cử. Luật bầu cử đại biểu Quốc hội hiện hành
không quy định thời điểm kết thúc cuộc bỏ phiếu sớm trong khi đó Luật bầu cử
đại biểu Hội đồng nhân dân hiện hành quy định cụ thể khu vực bỏ phiếu nào đã
có một trăm phần trăm số cử tri đi bầu thì Tổ bầu cử đó có thể kết thúc cuộc bỏ
phiếu sớm hơn. Vì vậy, phải có sự thống nhất theo quy định của Luật bầu cử Hội
đồng nhân dân đảm bảo sự chủ động cho các Tổ bầu cử trong việc quyết định kết
thúc cuộc bỏ phiếu sớm. Thời gian bắt đầu và kết thúc cuộc bỏ phiếu trong Luật
bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thể hiện
không thống nhất về thuật ngữ. Đối với các trường hợp ngoại lệ theo tình hình
địa phương, thì thời gian Tổ bầu cử cho quyết định kết thúc muộn hơn được quy
định tại hai luật về bầu cử lại khác nhau nên trong cuộc bầu cử chung cần phải
có sự thống nhất về thời điểm bắt đầu và kết thúc cuộc bỏ phiếu.
Vấn đề thời hạn niêm yết danh sách cử tri và việc khiếu nại, giải quyết
khiếu nại về danh sách cử tri
Tại khu vực bỏ phiếu đối với cả bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân thì chỉ có một danh sách cử tri. Tuy nhiên, việc quy định
thời hạn niêm yết danh sách cử tri và việc khiếu nại, giải quyết khiếu nại về danh
sách cử tri lại khác nhau. Luật bầu cử Quốc hội quy định thời hạn niêm yết danh
sách cử tri là 30 ngày trước ngày bầu cử, trong khi đó, Luật bầu cử đại biểu Hội
đồng nhân dân lại quy định thời hạn này là 35 ngày. Thời hạn phát hiện sai sót
và khiếu nại với cơ quan lập danh sách đối với Luật bầu cử đại biểu Quốc hội là
trong vòng 20 ngày kể từ ngày niêm yết danh sách cử tri và các tố cáo, kiến nghị
đó được giải quyết trong vòng 3 ngày kể từ ngày nhận khiếu nại, tố cáo. Đối với
Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thì thời hạn này lần lượt là 25 và 5
ngày. Mỗi khu vực bỏ phiếu chỉ có một danh sách cử tri nên quy định về thời hạn
liên quan đến danh sách cử tri đòi hỏi phải có sự thống nhất giữa hai luật.
Về quy trình hoãn ngày bỏ phiếu hoặc bỏ phiếu sớm hơn ngày quy định
27
Trong thực tế các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Hội
đồng nhân dân có trường hợp đặc biệt cần phải hoãn ngày bỏ phiếu hoặc bỏ
phiếu sớm hơn ngày quy định. Với luật bầu cử đại biểu Quốc hội quy định “Ban
bầu cử sau khi lấy ý kiến của Tổ bầu cử phải kịp thời báo cáo các tổ chức phụ
trách bầu cử cấp trên biết để đề nghị Hội đồng bầu cử xem xét, quyết định”.
Trong khi đó, Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân lại quy định “Tổ bầu cử
phải kịp thời báo cáo Ban bầu cử biết để đề nghị Hội đồng bầu cử trình cơ quan
có thẩm quyền xem xét, quyết định”. Như vậy, đối với bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân vẫn chưa xác định cụ thể cơ quan có thẩm quyền xem xét quyết định.
Nếu áp dụng quy trình này theo Luật bầu cử đại biểu Quốc hội thì cũng không
hợp lý vì Hội đồng bầu cử đối với bầu cử đại biểu Quốc hội chỉ có một, nhưng
đối với bầu cử Hội đồng nhân dân thì lại có tới 3 tổ chức Hội đồng bầu cử ở các
cấp. Vì vậy, với cùng một việc, cùng một đối tượng điều chỉnh cần phải có sự
thống nhất về quy trình để tạo sự thuận lợi, thông suốt trong quá trình triển khai.
Để thực hiện được điều này cần phải có sự thống nhất, phân công, phân nhiệm rõ
ràng giữa các tổ chức phụ trách bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Hội
đồng nhân dân.
Việc lập biên bản kết quả kiểm phiếu của Tổ bầu cử
Lập biên bản kết quả kiểm phiếu là nhiệm vụ của các Tổ bầu cử phải thực
hiện sau khi kiểm phiếu xong. Tuy nhiên về các thông tin trong biên bản kiểm
phiếu của Tổ bầu cử lại khác nhau giữa Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật
bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân. Thực tế cho thấy việc lập biên bản kết quả
kiểm phiếu là công việc đòi hỏi sự chính xác cao, lại phải hoàn thành trong ba
ngày sau ngày bầu cử đối với các Tổ bầu cử nên các thông tin cần thiết trong
biên bản phải đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện đối với các thành viên Tổ bầu cử.
Vì vậy, với riêng thông tin “tỷ lệ cử tri đã tham gia bỏ phiếu so với tổng số cử
tri” như yêu cầu của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội lại là một vấn đề phức tạp
đối với các thành viên Tổ bầu cử khi phải tính đúng tỷ lệ này. Luật bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân lại quy định đơn giản hơn khi chỉ yêu cầu thông tin về
28
“số phiếu phát ra; số phiếu thu về” bên cạnh các thông tin chung khác. Ngoài ra,
quy định các cơ quan nhận biên bản kiểm phiếu từ Tổ bầu cử gửi đến cũng
không thống nhất giữa hai luật về bầu cử. Luật bầu cử đại biểu Quốc hội quy
định Tổ bầu cử phải gửi biên bản kiểm phiếu tới 4 đơn vị, trong khi đó Luật bầu
cử đại biểu Hội đồng nhân dân quy định chỉ gửi biên bản kiểm phiếu tới 3 đơn vị
là Ban bầu cử, Ủy ban nhân dân, Ban Thường trực Ủy ban mặt trận tổ quốc Việt
Nam xã, phường, thị trấn mà không gửi đến Chủ tịch Hội đồng nhân dân. Điều
này cũng phù hợp với thực tế vì Hội đồng nhân dân làm việc theo chế độ tập thể
quyết định theo đa số tại các kỳ họp. Vì vậy, nếu biên bản kiểm phiếu gửi đến
Chủ tịch Hội đồng nhân dân thì cũng không thể hiện rõ mục đích của hành động
này. Trong điều kiện bầu cử đồng thời đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Hội
đồng nhân dân thì quy định về nội dung biên bản kiểm phiếu phải được thể hiện
thống nhất.
2.1.4. Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và luật bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân sửa đổi, bổ sung năm 2010 qua thực tiễn áp dụng
Từ những vấn đề pháp lý đặt ra khi tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội và
đại biểu Hội đồng nhân dân cùng thời điểm như đã nêu ở trên, năm 2010 Quốc
hội tiến hành sửa đổi, bổ sung Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân. Theo đó, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật bầu cử
đại biểu Hội đồng nhân dân sửa đổi, bổ sung tập trung sửa đổi một số vấn đề liên
quan đến công tác tổ chức bầu cử. Cụ thể những điểm sửa đổi cơ bản là:
Điều 12 của Luật bầu cử ĐBQH, Điều 13 của Luật bầu cử đại biểu HĐND
sửa đổi quy định về khu vực bỏ phiếu và số lượng cử tri trong mỗi khu vực bỏ
phiếu. Luật sửa đổi, bổ sung quy định về số lượng cử tri tại mỗi khu vực bỏ
phiếu và quy định khu vực bỏ phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội đồng thời là khu
vực bỏ phiếu bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Số lượng cử tri tại mỗi
khu vực bỏ phiếu được sửa đổi thống nhất từ ba trăm đến bốn nghìn cử tri. Với
số lượng cử tri tại mỗi khu vực bỏ phiếu được quy định với biên độ dao động từ
29
ba trăm đến bốn nghìn cử tri sẽ vẫn bảo đảm thuận lợi cho việc bỏ phiếu của cử
tri cũng như việc thành lập các khu vực bỏ phiếu; đồng thời cũng không gây quá
tải về công việc đối với các Tổ bầu cử trong điều kiện đã tăng số lượng thành
viên tại mỗi Tổ bầu cử. Đối với những địa bàn và đơn vị có đặc thù riêng sẽ tùy
thuộc vào số lượng cử tri và điều kiện cụ thể mà các cơ quan có thẩm quyền sẽ
thành lập khu vực bỏ phiếu riêng hoặc phối hợp với các nơi khác thành lập khu
vực bỏ phiếu chung nhằm bảo đảm thuận lợi nhất cho cử tri đi bầu cử. Đối với
những nơi không có đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn thì việc chia khu vực
bỏ phiếu do Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quyết
định.
Về các tổ chức phụ trách bầu cử (Điều 14 của Luật bầu cử đại biểu Quốc
hội và Điều 15a của Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân), theo đó Hội đồng
bầu cử được gọi chung là Hội đồng bầu cử Trung ương, vì chỉ có duy nhất một
Hội đồng bầu cử nên không phải đổi tên.
Về các tổ chức phụ trách bầu cử ở địa phương, trong điều kiện bầu cử
chung và thống nhất về tổ chức của một số tổ chức phụ trách bầu cử, Luật sửa
đổi, bổ sung đã giao cho Ủy ban nhân dân là cơ quan chủ trì thành lập các tổ
chức phụ trách bầu cử ở địa phương để đảm bảo tính thống nhất trong toàn quốc
về cơ quan chủ trì thành lập tổ chức phụ trách bầu cử (vì Ủy ban nhân dân có đầy
đủ ở cả ba cấp; trong khi đó, ở các địa phương đang thực hiện thí điểm không tổ
chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường sẽ không có Thường trực Hội
đồng nhân dân).
Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh,
Điều 15 Luật bầu cử đại biểu Quốc hội, Điều 16 Luật bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân đã được sửa đổi, bổ sung. Theo đó, luật sửa đổi, bổ sung đã thành lập
Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh để thay
thế và thực hiện chung nhiệm vụ, quyền hạn của cả Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc
hội và Hội đồng bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh. Các Hội đồng bầu
30
cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện, cấp xã cũng được đổi tên tương ứng
thành Ủy ban bầu cử (Điều 15 Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân sửa đổi,
bổ sung). Điều 16 và 82 của Luật bầu cử ĐBQH, khoản 1 Điều 17 và Điều 70
của Luật bầu cử đại biểu HĐND sửa đổi quy định về Ban bầu cử, theo đó luật đã
sửa đổi về cơ quan chủ trì thành lập, thành phần Ban bầu cử đại biểu Quốc hội
nhằm bảo đảm tính thống nhất với việc thành lập tổ chức phụ trách bầu cử ở cấp
tỉnh và cấp xã. Điều 17 và Điều 83 của Luật bầu cử ĐBQH, Điều 18 và Điều 71
của Luật bầu cử đại biểu HĐND cũng sửa đổi quy định về Tổ bầu cử. Theo đó,
đã quy định Tổ bầu cử đồng thời thực hiện công tác bầu cử đại biểu Quốc hội và
đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã tại cùng một khu vực
bỏ phiếu. Tổ bầu cử sẽ được tăng thêm số lượng thành viên. Sửa đổi thống nhất
quy định về cơ quan chủ trì thành lập, thành phần và số lượng thành viên của Tổ
bầu cử (từ 11 đến 21 người).
Điều 46 của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội cũng đã sửa đổi, bổ sung quy
định về số người ứng cử ở mỗi đơn vị bầu cử đại biểu Quốc hội theo hướng “Số
người trong danh sách ứng cử đại biểu Quốc hội ở mỗi đơn vị bầu cử phải nhiều
hơn số đại biểu được bầu ở đơn vị đó; nếu đơn vị bầu cử đó được bầu ba đại
biểu thì số người trong danh sách ứng cử phải nhiều hơn số đại biểu được bầu ít
nhất là hai người. Trong trường hợp khuyết người ứng cử vì lý do bất khả kháng
thì do Hội đồng bầu cử quyết định”. Quy định về số dư trong Luật sửa đổi, bổ
sung là quy định chung cho tất cả những người ứng cử ở đơn vị bầu cử đó mà
không phân biệt ứng cử viên do trung ương hay địa phương giới thiệu. Trường
hợp khuyết người ứng cử trong những trường hợp nêu trên thì Hội đồng bầu cử
có thể quyết định chọn người có tín nhiệm cao nhất trong số những người còn lại
ở danh sách đã hiệp thương lần thứ ba để đưa vào danh sách chính thức những
người ứng cử đại biểu Quốc hội hoặc quyết định điều chuyển người ứng cử ở
đơn vị bầu cử khác trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc
quyết định giảm số đại biểu được bầu ở đơn vị bầu cử đó.
31
Điều 57 của Luật bầu cử ĐBQH, Điều 48 của Luật bầu cử đại biểu HĐND
đã sửa đổi quy định về thời gian bầu cử. Trong điều kiện bầu cử chung cả đại
biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân thì quy định tại hai Luật bầu cử về
kết thúc sớm cuộc bầu cử không còn phù hợp. Vì vậy, Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều bỏ quy định về kết thúc cuộc bỏ phiếu sớm hơn ở những khu vực bỏ
phiếu đã có 100% cử tri đi bầu tại Điều 48 của Luật bầu cử đại biểu HĐND và
giữ nguyên quy định tại Điều 57 của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội.
Điều 55 của Luật bầu cử đại biểu, Điều 54 của Luật bầu cử đại biểu Hội
đồng nhân dân sửa đổi quy định về trường hợp hoãn hoặc bỏ phiếu sớm hơn
ngày quy định, theo đó trường hợp đặc biệt cần hoãn ngày bỏ phiếu hoặc bỏ
phiếu sớm hơn ngày quy định thì Tổ bầu cử phải kịp thời báo cáo Ban bầu cử để
đề nghị Ủy ban bầu cử trình Hội đồng bầu cử xem xét, quyết định.
2.2 Thực trạng áp dụng pháp luật về bầu cử trong thời gian qua
Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân
qua các lần sửa đổi, bổ sung là cơ sở pháp lý quan trọng để tiến hành các cuộc
bầu cử trong thời gian qua. Qua các lần sửa đổi, bổ sung, hai luật này ngày dần
được hoàn thiện, những bất cập, hạn chế trong luật dần được khắc phục nhằm
phù hợp hơn với tình hình thực tiễn, góp phần làm nên thành công của các cuộc
bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thời gian qua.
Tuy nhiên, do tính chất phức tạp của công tác bầu cử và các nội dung các quy
định của luật bầu cử có liên quan đến tương đối nhiều các văn bản pháp luật khác
nên mặc dù đã được nghiên cứu, sửa đổi bổ sung nhiều lần nhưng trên thực tế
mới chỉ dừng lại ở việc sửa đổi những vấn đề nhỏ, chủ yếu mang tính kỹ thuật,
những vấn đề cơ bản, cốt lõi của các quy định vẫn chưa được sửa đổi, bổ sung
một cách đầy đủ, toàn diện nên qua thực tiễn áp dụng còn bộc lộ khá nhiều bất
cập, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng hoạt động của Quốc hội và Hội đồng
nhân dân. Những tồn tại đó thể hiện ở một số vấn đề cụ thể sau đây:
32
2.2.1. Về tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân
Đối với đại biểu Quốc hội
Theo quy định tại Điều 2, và Điều 3 luật bầu cử đại biểu Quốc hội năm
1997 (sửa đổi, bổ sung năm 2000 và năm 2010) thì đại biểu Quốc hội phải có các
điều kiện và tiêu chuẩn sau:
Về điều kiện, người muốn ứng cử đại biểu Quốc hội phải là công dân
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, không phân biệt dân tộc, nam nữ,
thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn
cư trú, đủ mười tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên đều có
quyền ứng cử đại biểu Quốc hội theo quy định của pháp luật.
Điều 3 của Luật này quy định đại biểu Quốc hội có 5 tiêu chuẩn sau đây:
Trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, phấn đấu thực hiện công cuộc đổi mới, vì sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh; Có phẩm chất đạo đức tốt, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, gương
mẫu chấp hành pháp luật; kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện quan liêu,
hách dịch, cửa quyền, tham nhũng và các hành vi vi phạm pháp luật; Có trình độ
và năng lực thực hiện nhiệm vụ đại biểu Quốc hội, tham gia quyết định các vấn
đề quan trọng của đất nước; Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến của
nhân dân, được nhân dân tín nhiệm; Có điều kiện tham gia các hoạt động của
Quốc hội.
Đối với đại biểu Hội đồng nhân dân
Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2003 (sửa đổi, bổ sung năm
2010) quy định các điều kiện và tiêu chuẩn sau đây:
Về điều kiện, Đại biểu Hội đồng nhân dân phải là “công dân nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã
hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ
33
mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền
ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật”.
Về tiêu chuẩn, Điều 3 của Luật này quy định đại biểu Hội đồng nhân dân
phải có 5 tiêu chuẩn sau đây: Trung thành với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, phấn đấu thực hiện công cuộc đổi mới đất nước và xây dựng, phát triển
địa phương; Có phẩm chất đạo đức tốt, gương mẫu chấp hành pháp luật, tích cực
đấu tranh chống mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng, lãng
phí và các hành vi vi phạm pháp luật khác, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân; Có trình độ và năng lực thực hiện nhiệm vụ
đại biểu Hội đồng nhân dân, có khả năng tuyên truyền, vận động gia đình và
nhân dân thực hiện chính sách, pháp luật; am hiểu tình hình kinh tế - xã hội để
tham gia quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương; Liên hệ chặt chẽ với
nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, được nhân dân tín nhiệm; Có điều kiện
tham gia các hoạt động của Hội đồng nhân dân.
Qua quy định về điều kiện và 5 tiêu chuẩn về đại biểu Quốc hội và 5 tiêu
chuẩn về đại biểu Hội đồng nhân dân cho thấy, các quy định này rất chung
chung, không cụ thể, thiếu định lượng. Những điều kiện, tiêu chuẩn như: Trung
thành với Tổ quốc và Hiến pháp… Có phẩm chất đạo đức tốt… Có trình độ và
năng lực… liên hệ chặt chẽ với nhân dân… Có điều kiện tham gia các hoạt động
của Quốc hội, Hội đồng nhân dân là những quy định vừa dễ và vừa rất khó để
căn cứ lựa chọn được những ứng cử viên làm đại biểu Quốc hội hoặc đại biểu
Hội đồng nhân dân bảo đảm chất lượng, trong khi đó đối tượng được quyền ứng
cử và đề cử làm đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân thì lại rất rộng,
chỉ cần từ 21 tuổi trở lên là có thể được xem xét đưa vào danh sách ứng cử viên
để cử tri bầu.
Trên thực tế triển khai lựa chọn ứng cử viên đại biểu Quốc hội và đại biểu
Hội đồng nhân dân thì những câu hỏi như: thế nào là trung thành với tổ quốc, thế
nào là có phẩm chất đạo đức tốt, thế nào là có điều kiện tham gia hoạt động của
34
Quốc hội, hoạt động của Hội đồng nhân dân hay thế nào là có trình độ và năng
lực thực hiện nhiệm vụ đại biểu Quốc hội… là những câu hỏi có rất nhiều đáp án
trả lời, tùy thuộc rất lớn vào người làm công tác phụ trách bầu cử, thực tế này
vừa gây nên tình trạng thiếu chặt chẽ trong thẩm định về tiêu chuẩn ứng cử viên,
vừa gây nên sự tùy tiện trong việc lựa chọn ứng cử viên, làm ảnh hưởng không
nhỏ đến chất lượng đầu vào của đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân
dân. Đơn cử một ví dụ về trình độ và năng lực của ứng cử viên đại biểu Quốc hội
và đại biểu Hội đồng nhân dân: Một người mới tốt nghiệp đại học cũng là người
có trình độ, nhưng cũng không ai phủ nhận là người đó không có năng lực mặc
dù họ chỉ mới ra trường; ngược lại một người không có trình độ đại học nhưng
đã có thời gian làm việc thực tiễn lâu năm và năng lực làm việc rất tốt nhưng liệu
họ có thể được ưu tiên lựa chọn hay không nếu xét cùng với người có trình độ
đại học hoặc trên đại học, điều này luật không quy định nên rất khó để lựa chọn
cho đúng, chưa nói đến trong những điều kiện cụ thể phải đảm bảo cơ cấu, thì rất
có thể người trình độ, năng lực hạn chế hơn lại trúng cử. Trước đây, khi Quốc
hội còn hoạt động chưa thực sự đi vào thực chất và chất lượng của nền giáo dục
còn hạn chế thì trong một chừng mực nhất định còn có tâm lý chấp nhận thực tế
này, tuy nhiên hiện nay, trước yêu cầu đổi mới tăng cường hiệu quả hoạt động
của Quốc hội, Hội đồng nhân dân hướng tới ngày càng đi vào thực chất hơn và
thành quả của nền giáo dục, đào tạo hiện nay đã có những bước tiến tương đối
dài thì các quy định về điều kiện, tiêu chuẩn của đại biểu Quốc hội và đại biểu
Hội đồng nhân dân cần được quy định đầy đủ, cụ thể và chặt chẽ hơn. Nhất thiết
đòi hỏi phải có những quy định người ứng cử phải đạt đến một trình độ văn hóa
như thế nào, nghiệp vụ chuyên môn phải đạt ở tầm nào thì mới được ứng cử
(trong các khóa Quốc hội gần đây, xu hướng nâng cao trình độ học vấn là khá rõ
(khóa IX mới có 67% đại biểu có trình độ đại học trở lên, thì khóa XI là 93,31%
và khóa XII đã lên tới gần 96%, ba khóa liền - từ khóa X đến khóa XII và khóa
XIII không có đại biểu nào chỉ đạt trình độ văn hóa phổ thông cơ sở trở xuống).
Có như vậy mới nâng cao được chất lượng hoạt động của đại biểu Quốc hội và
35
đại biểu Hội đồng nhân dân, hiệu quả hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân
dân mới thực sự đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn.
Về đổi mới quy trình hiệp thương, cần tiến hành sửa đổi, bổ sung các quy
định của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội theo hướng chia nhỏ các bước của quy
trình này. Trên cơ sở số lượng, cơ cấu, thành phần đại biểu Quốc hội do Uỷ ban
thường vụ Quốc hội phân bổ cho các cơ quan, đơn vị ở trung ương và các địa
phương, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc các cấp tiến hành các vòng hiệp thương lựa
chọn người ứng cử theo từng cơ cấu. Theo cách này, việc lựa chọn người ứng cử
cho một cơ cấu nào cũng phải trải qua sự tuyển chọn rộng rãi của cơ cấu đó. Ví
dụ: Để lựa chọn một cơ cấu là người dân tộc thiểu số, nữ, có trình độ đại
học…(cơ cấu kết hợp), thì trước hết, cần tiến hành các vòng chọn lựa rộng rãi
của dân tộc thiểu số đó trong phạm vi cả nước theo cấp độ từ rộng đến hẹp, để
cuối cùng chọn cho được một số người đảm bảo cho cả tiêu chuẩn và cơ cấu.
Mặt khác, khi giới thiệu người ứng cử cho một cơ cấu nào đó, cần có số lượng
phù hợp để khi đưa ra bầu, cử tri có điều kiện lựa chọn ai thật sự xứng đáng hơn.
Bên cạnh việc đổi mới quy trình hiệp thương, lựa chọn người ứng cử đại
biểu Quốc hội, cần có hình thức vận động bầu cử phù hợp với nền dân chủ và
truyền thống văn hoá dân tộc để những người ứng cử đại biểu Quốc hội đưa ra
chương trình hành động của mình và để cử tri có điều kiện so sánh, đánh giá
năng lực đại biểu và đối chiếu giữa chương trình người ứng cử đã hứa với việc
làm của họ khi trúng cử đại biểu Quốc hội.
2.2.2. Về quyền bầu cử, quyền ứng cử
Quyền bầu cử, ứng cử là các quyền chính trị - pháp lý cơ bản của công
dân. Phạm vi và điều kiện thực hiện quyền bầu cử, ứng cử là tiêu chí đánh giá
bản chất dân chủ ở mỗi quốc gia. Pháp luật bầu cử của các nước trên thế giới đều
có các quy định về các quyền này trên cơ sở xác định hai vấn đề chủ yếu là độ
tuổi và năng lực hành vi của công dân. Theo thống kê của Liên minh Quốc hội
thế giới năm 1993, có 109 trong số 150 quốc gia được khảo sát đều quy định
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn

More Related Content

What's hot

Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAYLuận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị tại Hà Nội
Luận văn: Quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị tại Hà NộiLuận văn: Quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị tại Hà Nội
Luận văn: Quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị tại Hà Nội
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOTLuận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Vấn đề bảo lưu điều ước quốc tế trong luật quốc tế
Luận văn: Vấn đề bảo lưu điều ước quốc tế trong luật quốc tế Luận văn: Vấn đề bảo lưu điều ước quốc tế trong luật quốc tế
Luận văn: Vấn đề bảo lưu điều ước quốc tế trong luật quốc tế
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấnĐề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Luật Tại Tòa Án, 9 Điểm
200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Luật Tại Tòa Án, 9 Điểm200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Luật Tại Tòa Án, 9 Điểm
200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Luật Tại Tòa Án, 9 Điểm
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, HOT
Trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, HOTTrách nhiệm hình sự về tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, HOT
Trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAY
Luận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAYLuận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAY
Luận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội theo luật, HOT
Luận văn: Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội theo luật, HOTLuận văn: Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội theo luật, HOT
Luận văn: Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội theo luật, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
 BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777... BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
OnTimeVitThu
 
Luận văn: Thụ lý vụ án dân sự theo trình tự sơ thẩm, HAY
Luận văn: Thụ lý vụ án dân sự theo trình tự sơ thẩm, HAYLuận văn: Thụ lý vụ án dân sự theo trình tự sơ thẩm, HAY
Luận văn: Thụ lý vụ án dân sự theo trình tự sơ thẩm, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOT
Luận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOTLuận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOT
Luận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Hoàn thiện quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩm
Luận văn: Hoàn thiện quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩmLuận văn: Hoàn thiện quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩm
Luận văn: Hoàn thiện quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩm
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sựLuận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sự
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sựLuận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về chứng thực tại Hà Nội, HAY
Luận văn: Quản lý nhà nước về chứng thực tại Hà Nội, HAYLuận văn: Quản lý nhà nước về chứng thực tại Hà Nội, HAY
Luận văn: Quản lý nhà nước về chứng thực tại Hà Nội, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Thi hành án dân sự
Thi hành án dân sựThi hành án dân sự
Thi hành án dân sự
Té Lầu
 
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAYLuận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

What's hot (20)

Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAYLuận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị tại Hà Nội
Luận văn: Quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị tại Hà NộiLuận văn: Quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị tại Hà Nội
Luận văn: Quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị tại Hà Nội
 
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOTLuận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Vấn đề bảo lưu điều ước quốc tế trong luật quốc tế
Luận văn: Vấn đề bảo lưu điều ước quốc tế trong luật quốc tế Luận văn: Vấn đề bảo lưu điều ước quốc tế trong luật quốc tế
Luận văn: Vấn đề bảo lưu điều ước quốc tế trong luật quốc tế
 
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấnĐề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
 
200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Luật Tại Tòa Án, 9 Điểm
200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Luật Tại Tòa Án, 9 Điểm200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Luật Tại Tòa Án, 9 Điểm
200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Luật Tại Tòa Án, 9 Điểm
 
Trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, HOT
Trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, HOTTrách nhiệm hình sự về tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, HOT
Trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, HOT
 
Luận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAY
Luận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAYLuận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAY
Luận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAY
 
Luận văn: Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội theo luật, HOT
Luận văn: Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội theo luật, HOTLuận văn: Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội theo luật, HOT
Luận văn: Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội theo luật, HOT
 
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
 BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777... BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
 
Luận văn: Thụ lý vụ án dân sự theo trình tự sơ thẩm, HAY
Luận văn: Thụ lý vụ án dân sự theo trình tự sơ thẩm, HAYLuận văn: Thụ lý vụ án dân sự theo trình tự sơ thẩm, HAY
Luận văn: Thụ lý vụ án dân sự theo trình tự sơ thẩm, HAY
 
Luận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOT
Luận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOTLuận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOT
Luận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOT
 
Luận văn: Hoàn thiện quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩm
Luận văn: Hoàn thiện quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩmLuận văn: Hoàn thiện quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩm
Luận văn: Hoàn thiện quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩm
 
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sựLuận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sựLuận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về chứng thực tại Hà Nội, HAY
Luận văn: Quản lý nhà nước về chứng thực tại Hà Nội, HAYLuận văn: Quản lý nhà nước về chứng thực tại Hà Nội, HAY
Luận văn: Quản lý nhà nước về chứng thực tại Hà Nội, HAY
 
Thi hành án dân sự
Thi hành án dân sựThi hành án dân sự
Thi hành án dân sự
 
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAYLuận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
 

Similar to Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn

Luận văn: Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta
Luận văn: Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta Luận văn: Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta
Luận văn: Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta, HAY.docx
Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta, HAY.docxĐổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta, HAY.docx
Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta, HAY.docx
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta, HAY.docx
Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta, HAY.docxĐổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta, HAY.docx
Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta, HAY.docx
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOTLuận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của hội đồng nhân dân cấp tỉnhLuận văn: Tổ chức và hoạt động của hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Đổi mới tổ chức của cơ quan quản lý bầu cử, HAY
Luận văn: Đổi mới tổ chức của cơ quan quản lý bầu cử, HAYLuận văn: Đổi mới tổ chức của cơ quan quản lý bầu cử, HAY
Luận văn: Đổi mới tổ chức của cơ quan quản lý bầu cử, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Chế Độ Dân Chủ Đại Diện Trong Điều Kiện Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Ở Việt N...
Chế Độ Dân Chủ Đại Diện Trong Điều Kiện Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Ở Việt N...Chế Độ Dân Chủ Đại Diện Trong Điều Kiện Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Ở Việt N...
Chế Độ Dân Chủ Đại Diện Trong Điều Kiện Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Ở Việt N...
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...
Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...
Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAYChế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Pháp luật về dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính, HOT
Pháp luật về dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính, HOTPháp luật về dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính, HOT
Pháp luật về dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính, HOT
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Pháp luật về dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính
Pháp luật về dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chínhPháp luật về dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính
Pháp luật về dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Bãi miễn đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp theo luật
Luận văn: Bãi miễn đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp theo luậtLuận văn: Bãi miễn đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp theo luật
Luận văn: Bãi miễn đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp theo luật
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Địa vị pháp lý của Đoàn đại biểu Quốc hội, HAY
Luận văn: Địa vị pháp lý của Đoàn đại biểu Quốc hội, HAYLuận văn: Địa vị pháp lý của Đoàn đại biểu Quốc hội, HAY
Luận văn: Địa vị pháp lý của Đoàn đại biểu Quốc hội, HAY
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCNTính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay, HAY
Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay, HAYCơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay, HAY
Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận án: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam
Luận án: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt NamLuận án: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam
Luận án: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận án: Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở, HAY
Luận án: Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở, HAYLuận án: Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở, HAY
Luận án: Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở, HAY
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Đề tài: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam, HAY
Đề tài: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam, HAYĐề tài: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam, HAY
Đề tài: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam, HAY
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAYBÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
Viết Thuê Khóa Luận _ ZALO 0917.193.864 default
 
Luận văn thạc sĩ: Giám sát của Hội đồng nhân dân cấp huyện, HAY
Luận văn thạc sĩ: Giám sát của Hội đồng nhân dân cấp huyện, HAYLuận văn thạc sĩ: Giám sát của Hội đồng nhân dân cấp huyện, HAY
Luận văn thạc sĩ: Giám sát của Hội đồng nhân dân cấp huyện, HAY
Viết Thuê Khóa Luận _ ZALO 0917.193.864 default
 

Similar to Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn (20)

Luận văn: Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta
Luận văn: Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta Luận văn: Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta
Luận văn: Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta
 
Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta, HAY.docx
Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta, HAY.docxĐổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta, HAY.docx
Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta, HAY.docx
 
Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta, HAY.docx
Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta, HAY.docxĐổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta, HAY.docx
Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta, HAY.docx
 
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOTLuận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
 
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của hội đồng nhân dân cấp tỉnhLuận văn: Tổ chức và hoạt động của hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của hội đồng nhân dân cấp tỉnh
 
Luận văn: Đổi mới tổ chức của cơ quan quản lý bầu cử, HAY
Luận văn: Đổi mới tổ chức của cơ quan quản lý bầu cử, HAYLuận văn: Đổi mới tổ chức của cơ quan quản lý bầu cử, HAY
Luận văn: Đổi mới tổ chức của cơ quan quản lý bầu cử, HAY
 
Chế Độ Dân Chủ Đại Diện Trong Điều Kiện Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Ở Việt N...
Chế Độ Dân Chủ Đại Diện Trong Điều Kiện Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Ở Việt N...Chế Độ Dân Chủ Đại Diện Trong Điều Kiện Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Ở Việt N...
Chế Độ Dân Chủ Đại Diện Trong Điều Kiện Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Ở Việt N...
 
Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...
Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...
Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...
 
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAYChế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
 
Pháp luật về dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính, HOT
Pháp luật về dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính, HOTPháp luật về dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính, HOT
Pháp luật về dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính, HOT
 
Pháp luật về dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính
Pháp luật về dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chínhPháp luật về dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính
Pháp luật về dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính
 
Luận văn: Bãi miễn đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp theo luật
Luận văn: Bãi miễn đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp theo luậtLuận văn: Bãi miễn đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp theo luật
Luận văn: Bãi miễn đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp theo luật
 
Luận văn: Địa vị pháp lý của Đoàn đại biểu Quốc hội, HAY
Luận văn: Địa vị pháp lý của Đoàn đại biểu Quốc hội, HAYLuận văn: Địa vị pháp lý của Đoàn đại biểu Quốc hội, HAY
Luận văn: Địa vị pháp lý của Đoàn đại biểu Quốc hội, HAY
 
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCNTính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
 
Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay, HAY
Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay, HAYCơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay, HAY
Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay, HAY
 
Luận án: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam
Luận án: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt NamLuận án: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam
Luận án: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam
 
Luận án: Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở, HAY
Luận án: Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở, HAYLuận án: Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở, HAY
Luận án: Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở, HAY
 
Đề tài: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam, HAY
Đề tài: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam, HAYĐề tài: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam, HAY
Đề tài: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam, HAY
 
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAYBÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
 
Luận văn thạc sĩ: Giám sát của Hội đồng nhân dân cấp huyện, HAY
Luận văn thạc sĩ: Giám sát của Hội đồng nhân dân cấp huyện, HAYLuận văn thạc sĩ: Giám sát của Hội đồng nhân dân cấp huyện, HAY
Luận văn thạc sĩ: Giám sát của Hội đồng nhân dân cấp huyện, HAY
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

40 câu hỏi - đáp Bộ luật dân sự năm 2015 (1).doc
40 câu hỏi - đáp Bộ  luật dân sự năm  2015 (1).doc40 câu hỏi - đáp Bộ  luật dân sự năm  2015 (1).doc
40 câu hỏi - đáp Bộ luật dân sự năm 2015 (1).doc
NguynDimQunh33
 
BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...
BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...
BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...
Nguyen Thanh Tu Collection
 
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...
Nguyen Thanh Tu Collection
 
PLĐC-chương 1 (1).ppt của trường ĐH Ngoại thương
PLĐC-chương 1 (1).ppt của trường  ĐH Ngoại thươngPLĐC-chương 1 (1).ppt của trường  ĐH Ngoại thương
PLĐC-chương 1 (1).ppt của trường ĐH Ngoại thương
hieutrinhvan27052005
 
BÁO CÁO CUỐI KỲ PHÂN TÍCH THIẾT KẾ HƯỚNG ĐỐI TƯỢNG - NHÓM 7.docx
BÁO CÁO CUỐI KỲ PHÂN TÍCH THIẾT KẾ HƯỚNG ĐỐI TƯỢNG - NHÓM 7.docxBÁO CÁO CUỐI KỲ PHÂN TÍCH THIẾT KẾ HƯỚNG ĐỐI TƯỢNG - NHÓM 7.docx
BÁO CÁO CUỐI KỲ PHÂN TÍCH THIẾT KẾ HƯỚNG ĐỐI TƯỢNG - NHÓM 7.docx
HngL891608
 
FSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptx
FSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptxFSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptx
FSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptx
deviv80273
 
trắc nhiệm ký sinh.docxddddddddddddddddd
trắc nhiệm ký sinh.docxdddddddddddddddddtrắc nhiệm ký sinh.docxddddddddddddddddd
trắc nhiệm ký sinh.docxddddddddddddddddd
my21xn0084
 
SLIDE BÀI GIẢNG MÔN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ.pdf
SLIDE BÀI GIẢNG MÔN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ.pdfSLIDE BÀI GIẢNG MÔN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ.pdf
SLIDE BÀI GIẢNG MÔN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ.pdf
UyenDang34
 
Giải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀN
Giải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀNGiải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀN
Giải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀN
linh miu
 
Smartbiz_He thong MES nganh may mac_2024june
Smartbiz_He thong MES nganh may mac_2024juneSmartbiz_He thong MES nganh may mac_2024june
Smartbiz_He thong MES nganh may mac_2024june
SmartBiz
 
Biểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều
Biểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang ThiềuBiểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều
Biểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều
lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Halloween vocabulary for kids in primary school
Halloween vocabulary for kids in primary schoolHalloween vocabulary for kids in primary school
Halloween vocabulary for kids in primary school
AnhPhm265031
 
insulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyet
insulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyetinsulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyet
insulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyet
lmhong80
 
THONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdf
THONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdfTHONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdf
THONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdf
QucHHunhnh
 
Cau-Trắc-Nghiệm-TTHCM-Tham-Khảo-THI-CUỐI-KI.pdf
Cau-Trắc-Nghiệm-TTHCM-Tham-Khảo-THI-CUỐI-KI.pdfCau-Trắc-Nghiệm-TTHCM-Tham-Khảo-THI-CUỐI-KI.pdf
Cau-Trắc-Nghiệm-TTHCM-Tham-Khảo-THI-CUỐI-KI.pdf
HngMLTh
 
Văn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docx
Văn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docxVăn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docx
Văn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docx
metamngoc123
 
100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx
100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx
100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx
khanhthy3000
 
LỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptx
LỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptxLỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptx
LỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptx
12D241NguynPhmMaiTra
 

Recently uploaded (18)

40 câu hỏi - đáp Bộ luật dân sự năm 2015 (1).doc
40 câu hỏi - đáp Bộ  luật dân sự năm  2015 (1).doc40 câu hỏi - đáp Bộ  luật dân sự năm  2015 (1).doc
40 câu hỏi - đáp Bộ luật dân sự năm 2015 (1).doc
 
BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...
BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...
BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...
 
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...
 
PLĐC-chương 1 (1).ppt của trường ĐH Ngoại thương
PLĐC-chương 1 (1).ppt của trường  ĐH Ngoại thươngPLĐC-chương 1 (1).ppt của trường  ĐH Ngoại thương
PLĐC-chương 1 (1).ppt của trường ĐH Ngoại thương
 
BÁO CÁO CUỐI KỲ PHÂN TÍCH THIẾT KẾ HƯỚNG ĐỐI TƯỢNG - NHÓM 7.docx
BÁO CÁO CUỐI KỲ PHÂN TÍCH THIẾT KẾ HƯỚNG ĐỐI TƯỢNG - NHÓM 7.docxBÁO CÁO CUỐI KỲ PHÂN TÍCH THIẾT KẾ HƯỚNG ĐỐI TƯỢNG - NHÓM 7.docx
BÁO CÁO CUỐI KỲ PHÂN TÍCH THIẾT KẾ HƯỚNG ĐỐI TƯỢNG - NHÓM 7.docx
 
FSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptx
FSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptxFSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptx
FSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptx
 
trắc nhiệm ký sinh.docxddddddddddddddddd
trắc nhiệm ký sinh.docxdddddddddddddddddtrắc nhiệm ký sinh.docxddddddddddddddddd
trắc nhiệm ký sinh.docxddddddddddddddddd
 
SLIDE BÀI GIẢNG MÔN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ.pdf
SLIDE BÀI GIẢNG MÔN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ.pdfSLIDE BÀI GIẢNG MÔN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ.pdf
SLIDE BÀI GIẢNG MÔN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ.pdf
 
Giải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀN
Giải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀNGiải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀN
Giải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀN
 
Smartbiz_He thong MES nganh may mac_2024june
Smartbiz_He thong MES nganh may mac_2024juneSmartbiz_He thong MES nganh may mac_2024june
Smartbiz_He thong MES nganh may mac_2024june
 
Biểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều
Biểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang ThiềuBiểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều
Biểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều
 
Halloween vocabulary for kids in primary school
Halloween vocabulary for kids in primary schoolHalloween vocabulary for kids in primary school
Halloween vocabulary for kids in primary school
 
insulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyet
insulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyetinsulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyet
insulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyet
 
THONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdf
THONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdfTHONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdf
THONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdf
 
Cau-Trắc-Nghiệm-TTHCM-Tham-Khảo-THI-CUỐI-KI.pdf
Cau-Trắc-Nghiệm-TTHCM-Tham-Khảo-THI-CUỐI-KI.pdfCau-Trắc-Nghiệm-TTHCM-Tham-Khảo-THI-CUỐI-KI.pdf
Cau-Trắc-Nghiệm-TTHCM-Tham-Khảo-THI-CUỐI-KI.pdf
 
Văn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docx
Văn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docxVăn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docx
Văn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docx
 
100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx
100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx
100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx
 
LỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptx
LỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptxLỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptx
LỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptx
 

Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - vấn đề lý luận, thực tiễn

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦ N DIỆU HƢƠNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẦU CỬ NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2013
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN DIỆU HƢƠNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẦU CỬ NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật Mã số : 60 38 01 LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS.TS NGUYỄN ĐĂNG DUNG HÀ NỘI – 2013
  • 3. MỤC LỤC Trang Lời cam đoan Mục lục Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt Danh mục các biểu đồ, hình vẽ MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1: VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA BẦU CỬ TRONG CHẾ ĐỘ NHÀ NƢỚC VIỆT NAM 5 1.1. Bầu cử là phương thức thành lập ra cơ quan nhà nước 5 1.2. Bầu cử là hình thức quan trọng thực hiện nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân 7 Chƣơng 2: THƢ̣C TRẠNG HỆTHỐ NG PHÁP LU ẬT VỀ B ẦU CỬ VÀ VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẦU CỬ HIỆN NAY 13 2.1. Thực trạng hệ thống pháp luật về bầu cử ĐBQH và ĐB HĐND 13 2.1.1. Thực trạng pháp luật về bầu cử đại biểu Quốc hội qua cuộc bầu cử các khóa XI, XII 13 2.1.2. Thực trạng pháp luật về bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân qua cuộc bầu cử đại biểu HĐND nhiệm kỳ 2004-2009 19 2.1.3. Những vấn đề mặt pháp lý đặt ra đối với cuộc bầu cử chung đại biểu Quốc hội khóa XIII và đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2011-2016 23 2.1.4. Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân sửa đổi, bổ sung năm 2010 qua thực tiễn áp dụng 28
  • 4. 2.2 Thực tra ̣ng áp dụng pháp luâ ̣t về bầu cử trong thời gian qua 31 2.2.1. Về tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân 32 2.2.2. Về quyền bầu cử, quyền ứng cử 35 2.2.3. Về công tác hiệp thương trong bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân 41 2.2.4. Về phân chia đơn vị bầu cử, phân bổ người ứng cử ở các đơn vị bầu cử, số dư người ứng cử 46 2.2.5. Về ngày bầu cử và trình tự bầu cử 48 Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẦU CỬ Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI 49 3.1. Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật về bầu cử 49 3.1.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bầu cử 49 3.1.2. Đổi mới nhận thức, nâng cao ý thức người dân về bầu cử 51 Biểu đồ 3.1: Tư cách tham gia tại cuộc bầu cử Quốc hội gần nhất 54 3.1.3. Tăng cường công tác tuyên truyền, vận động và hướng dẫn bầu cử 56 3.1.4. Tăng cường công tác giám sát đối với bầu cử 62 3.2. Một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về bầu cử trong thời gian tới 64 3.2.1. Bổ sung nguyên tắc bầu cử tự do 64 3.2.2. Hoàn thiện các quy định về tiêu chuẩn, số lượng đại biểu 65 3.2.3. Sửa đổi, bổ sung các quy định về quyền bầu cử, quyền ứng cử 68 Biểu đồ 3.2: Số lượng người tự ứng cử ở mỗi đơn vị bầu cử 69 3.2.4. Cơ cấu lại nhiệm vụ, quyền hạn của các tổ chức phụ trách bầu cử 71 3.2.5. Đổi mới cách thức lập danh sách cử tri và số lượng cử tri ở mỗi 73
  • 5. khu vực bỏ phiếu 3.2.6. Đổi mới quy trình hiệp thương 75 Biểu đồ 3.3: Thành viên tham dự Hội nghị hiệp thương lựa chọn ứng cử viên đại biểu Quốc hội 77 3.2.7. Sửa đổi, bổ sung các quy định về phân chia đơn vị bầu cử, phân bổ người ứng cử ở các đơn vị bầu cử, số dư người ứng cử 80 3.2.8. Về ngày bầu cử và trình tự bầu cử 84 3.2.9. Bổ sung các quy định về phiếu bầu và cách thức bầu cử 85 3.2.10. Đổi mới phương thức bỏ phiếu 87 3.2.11. Về cách xác định kết quả bầu cử 88 KẾ T LUẬN 89 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 91 PHỤ LỤC 94
  • 6. DANH MỤC CÁ C TƢ̀ VIẾ T TẮ T 1. ĐB : Đa ̣i biểu 2. ĐBQH : Đa ̣i biểu Quốc hội 3. HĐND : Hội đồng nhân dân 4. MTTQ : Mă ̣t trâ ̣n Tổ quốc 5. QH : Quốc hội 6. UBTVQH : Ủy ban Thường vụ Quốc hội
  • 7. DANH MỤC CÁ C BIỂ U ĐỒ , HÌNH VẼ STT Tên biểu đồ Trang 3.1 Tư cách tham gia tại cuộc bầu cử đa ̣i biểu Quốc hội gần nhất 54 3.2 Số lượng người tự ứng cử ở mỗi đơn vị bầu cử 69 3.3 Thành viên tham dự Hội nghị hiệp thương lựa chọn ứng cử viên đại biểu Quốc hội 77
  • 8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của luận văn: Trong đời sống xã hội của nước ta, bầu cử có một vị trí và ý nghĩa chính trị đặc biệt quan trọng. Kể từ khi cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên, ngày 6 tháng 01 năm 1946 để bầu ra Nghị viện nhân dân khai sinh Quốc hội của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nước ta đã trải qua 13 cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội. Thực tiễn lịch sử đã cho thấy tất cả các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội đều là những sự kiện chính trị có ý nghĩa trọng đại đối với đất nước. Bầu cử là một trong những chế đi ̣nh pháp luâ ̣t quan trọng của ngành luâ ̣t Hiến pháp, là cơ sở pháp lý cho việc hình thành các cơ quan đại diện – cơ quan quyền lực Nhà nước. Bỏ phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội và HĐND các c ấp là phương thứ c thực hiê ̣n thể chế dân chủ, thực hiện quyền công dân và quyền tham gia quả n lý đất nước của người dân thông qua người đa ̣i diê ̣n . Thông qua bầu cử , nhân dân tìm kiếm, chọn lựa những người sẽ thay mặt cho họ quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước . Có thể nói , bầu cử là hình thứ c cho thấ y quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và là yếu tố không thể thiếu được trong chế độxã hội dân chủ đương đa ̣i. Chế độ bầu cử đã được hình thành t ừ những quy định trong các văn bản pháp luật đầu tiên của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Từ đó đến nay, cơ sở lý luận về chế độ bầu cử ở nước ta đã dần được bổ sung , thay đổi để phù hợp hơn với thực tiễn. Tuy nhiên, chế độbầu cử ở nước ta hiê ̣n vẫn còn nhiều vấn đề đă ̣t ra cần phải giải quyết , khắc phục. Tỷ lê ̣cử tri tham gia bỏ phiếu qua mỗi lần bầu cử khá cao, nhưng thực tế bầu cử vẫn còn mang nă ̣ng tính hình thứ c (ví dụ như: viê ̣c ứng cử và hình thức tham gia tranh cử của các ứng cử viên ; cách thức tổ chức bầ u cử …). Những quy đi ̣nh của pháp luâ ̣t về bầu cử ở nước ta vẫn còn nhiều bất câ ̣p , chưa phát huy được cao nhất tính dân chủ và chưa thâ ̣t sự phù hợp với bối cảnh hiê ̣n nay, khi đất nước ta đang hội nhâ ̣p sâu vào nền kinh tế thế giới. Làm thế nào để nhân dân thực sự trở thành chủ nhân c ủa quyền lực nhà nư ớc và thông qua ch ế độ
  • 9. 2 bầu cử, ủy thác quyền lực ấy cho cơ quan quyền lực nhà nư ớc cao nhất? Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân, vì dân đã và đang là xu hư ớng chủ đạo và là mục tiêu hàng đầu của Đảng , nhà nước và nhân dân Việt Nam . Vì vậy, viê ̣c nghiên cứ u cơ sở lý luâ ̣n và thực tiễn trong và ngoài nước để hoàn thiê ̣n chế độbầu cử ở nước ta là vấn đề quan trọng và cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Từ những lý do nêu trên và với sự tâm huyết của mình, tôi chọn đề tài: “Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - những vấn đề lý luận và thực tiễn” để làm luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn: Mục đích của luận văn là góp phần hoàn thiện các qui định của pháp luật hiện hành về bầu cử; việc vận dụng qui định của pháp luật về quy trình bầu cử trong các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội trong những năm vừa qua, phân tích nguyên nhân của những hạn chế trong qui định của pháp luật về bầu cử từ đó nêu lên một số kiến nghị nhằm hoàn thiện qui định của pháp luật về bầu cử. Để đạt được mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau đây: Nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về chế độ bầu cử; cơ chế đại diện, phương thức thực hiện quyền bầu cử, ứng cử; phương thức tiến hành bầu cử… để góp phần hoàn thiện các văn bản pháp luật về bầu cử ĐBQH và bầu cử ĐB HĐND. Nghiên cứu, tổng kết thực tiễn việc tổ chức bầu cử các khóa QH làm cơ sở cho việc hoàn thiện chế độ bầu cử ĐBQH và bầu cử ĐB HĐND. Nghiên cứu các phương thức bầu cử và làm rõ những nét đặc thù trong chế độ bầu cử ĐB của các nước để tham khảo và chọn lọc những kinh nghiệm lập pháp cho Việt Nam; Đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật về chế độ bầu cử của Việt Nam - Những bất cập, tồn tại và nguyên nhân.
  • 10. 3 Đưa ra những giải pháp khắc phục tồn tại và kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về bầu cử của Việt Nam trong thời gian tới. 3. Tình hình nghiên cứu: Thời gian qua, đã có nhiều tác giả nghiên cứu về pháp luật bầu cử. Tuy nhiên, các tác giả mới dừng lại ở mức độ nghiên cứu một khía cạnh nào đó trong bầu cử, ví dụ “Đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Quốc hội”, “Qui trình bầu cử đại biểu Quốc hội, thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả”, “Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta hiện nay”… Còn một công trình nghiên cứu mang tính toàn diện về bầu cử (bao gồm cả bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân) trong giai đoạn hiện nay khi mà Đảng và Nhà nước muốn tiến hành hai cuộc bầu cử này vào chung một thời điểm thì chưa có, nó mới chỉ dừng lại ở các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn mang tính kỹ thuật về bầu cử mà thôi. 4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận của chế độ bầu cử , đi sâu vào vi ̣trí , vai trò của bầu cử trong chế độ nhà nước ta hiện nay và nghiên cứu thực tiễn của hoạt động bầu cử ở nước ta trong thời gian qua và tham khảo kinh nghiê ̣m một số nước trên thế giới . Từ đó , đưa ra nhâ ̣n xét , khuyến nghi ̣về viê ̣c sử a đổi , bổ sung, hoàn chỉnh cơ sở lý luận và quy trình bầu cử , nhằm hoàn thiê ̣n chế độbầu cử đa ̣i biểu ở nước ta trong thời gian tới. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn: Phương pháp luâ ̣n của lu ận văn căn cứ vào quan điểm của Đảng về lý luận xây dựng chế độbầu cử đa ̣i biểu th ể hiện trong các Nghị quyết của Đảng, trong Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể bao gồm: thống kê, diễn giải, phân tích, tổng hợp, so sánh, nghiên cứu thực nghiệm, điều tra xã hội học,...
  • 11. 4 6. Kết cấu của luận văn: Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn được kết cấu thành 3 chương: Chương I: Vị trí, vai trò của bầu cƣ̉ trong chế độnhà nƣớ c Viê ̣t Nam Chương II: Thƣ̣c tra ̣ng hê ̣thống p háp luật về bầu cử và việc thực hiện pháp luật bầu cử hiện nay Chương III: Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật về bầu cử ở Việt Nam trong thời gian tới.
  • 12. 5 Chƣơng 1 VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA BẦU CỬ TRONG CHẾ ĐỘ NHÀ NƢỚC VIỆT NAM Bầu cử ở Việt Nam là quá trình các cử tri đưa ra quyết định của họ theo các cách thức mà pháp luật quy định để chọn ra các đại biểu đại diện cho mình nắm giữ các chức vụ trong cơ quan dân cử của chính quyền ở trung ương và địa phương trong phạm vi lãnh thổ của Việt Nam. Việc bầu cử ở Việt Nam gồm bầu cử Quốc hội (ở Trung ương) và bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp (ở địa phương). 1.1. Bầu cử là phƣơng thức thành lập ra cơ quan nhà nƣớc Bầu cử là một phương pháp thành lập ra bộ máy nhà nước. Thông qua bầu cử nhân dân trực tiếp lựa chọn những cá nhân có đủ phẩm chất đạo đức và năng lực đại diện cho ý chí, nguyện vọng của mình vào cơ quan đại diện của nhân dân. Theo Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam của Khoa Luật thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội thì: Chế độ bầu cử được xác định bởi tổng thể các mối quan hệ xã hội được hình thành trong quá trình tiến hành các cuộc bầu cử, từ lúc lập danh sách cử tri, cho đến khi kết thúc việc xác định được danh sách những người trúng cử. Qua những mối quan hệ xã hội đó cho phép khái quát được chế độ bầu cử được hình thành qua các cuộc bầu cử của một đất nước là chế độ bầu cử dân chủ không áp đặt, nhân dân tự nguyện thể hiện ý chí của mình tìm ra được những người xứng đáng làm đại diện cho nhân dân, thay mặt nhân dân quản lý và điều hành đất nước [17, tr. 300]. Trong lịch sử bầu cử của nước ta, kể từ khi cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên đến nay đã khẳng định rõ: mỗi cuộc bầu cử đều mang một dấu ấn riêng, nhưng thực tiễn đã chứng minh rằng các cuộc bầu cử đều có vai trò, ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong đời sống chính trị - xã hội của đất nước.
  • 13. 6 Một là, bầu cử luôn luôn là một sự kiện chính trị trọng đại của đất nước, là ngày hội lớn của toàn dân. Thông qua các cuộc bầu cử, chính là dịp để cử tri cả nước phát huy quyền làm chủ của mình, trực tiếp lựa chọn những đại biểu có đủ năng lực và phẩm chất đạo đức, xứng đáng đại diện cho ý chí, nguyện vọng của mình tại cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất. Khi đánh giá về tầm quan trọng của cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức, để gánh vác công việc nước nhà. Trong cuộc Tổng tuyển cử, hễ là những người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử; hễ là công dân thì đều có quyền đi bầu cử. Không chia gái trai, giàu nghèo, tôn giáo, nòi giống, giai cấp, đảng phái, hễ là công dân Việt Nam thì đều có hai quyền đó... Do Tổng tuyển cử mà toàn dân bầu ra Quốc hội. Quốc hội sẽ cử ra Chính phủ. Chính phủ đó thật là Chính phủ của toàn dân. Hai là, bầu cử có ý nghĩa quyết định đến việc xây dựng Bộ máy Nhà nước, là khâu đầu tiên để hình thành nên các cơ quan Nhà nước từ Trung ương đến địa phương. Ở nước ta, tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; nhưng nhân dân thực hiện quyền lực này bằng cách bầu ra Quốc hội. Với tư cách là cơ quan duy nhất do cử tri cả nước bầu ra, nên Quốc hội thay mặt cho nhân dân, được giao trách nhiệm giải quyết mọi công việc quan trọng của đất nước như: xây dựng Hiến pháp và pháp luật; đặc biệt là thành lập ra Chính phủ và các cơ quan Nhà nước khác. Đồng thời, các cơ quan Nhà nước này đều chịu sự giám sát của Quốc hội. Chính vì thế, các cơ quan Nhà nước của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đều trực tiếp hay gián tiếp do nhân dân bầu ra thông qua phương thức bầu cử. Nói cách khác, bầu cử chính là hình thức dân chủ duy nhất để hình thành nên bộ máy Nhà nước ở nước ta. Đó cũng là minh chứng cho việc ngay từ phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ lâm thời, ngày 3 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị
  • 14. 7 Chính phủ sớm tổ chức cuộc Tổng tuyển đầu tiên ở nước ta; bởi lẽ chỉ có thể thông qua bầu cử thì chính quyền mới được thành lập mới là chính quyền hợp pháp và được nhân dân thừa nhận. 1.2. Bầu cử là hình thức quan trọng thực hiện nguyên tắc quyền lực Nhà nƣớc thuộc về nhân dân Trong nhà nước pháp quyền, ý chí của nhân dân là cội nguồn của quyền lực nhà nước. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn coi nhân dân là cội rễ của quyền lực nhà nước: “Gốc có vững, cây mới bền/Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”. Người cho rằng, Nhà nước ta là Nhà nước của dân, Nhà nước phải hoạt động vì dân, lấy việc phục vụ nhân dân làm mục tiêu cao nhất của mình. “Nước ta là một nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ trung ương đến xã đều do dân tổ chức lên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Hiến pháp năm 1946 coi việc “Thực hiện một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân” là một trong ba nguyên tắc của chính thể mới và nền dân chủ nhân dân. Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001) hiện nay cũng khẳng định “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân…”. Trong nhà nước pháp quyền, quyền lực nhà nước xuất phát từ nhân dân, nên nhà nước pháp quyền Việt Nam phải là nhà nước do nhân dân Việt Nam thành lập. Tính pháp quyền cao nhất của quyền lực nhà nước là ở chỗ: nhân dân tự do lựa chọn bầu ra những đại biểu xứng đáng thay mặt nhân dân gánh vác việc nước. Bầu cử là một phương thức hợp pháp hóa quyền lực nhà nước mang tính phổ biến và là xu thế tất yếu của thế giới hiện đại. Trong các bài viết về Thường thức chính trị trên báo Cứu quốc năm 1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng viết: “Trong các cuộc bầu cử, công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt gái, trai, tôn giáo, mức tài sản, trình độ văn hóa, không phân biệt nòi giống đều có quyền tham gia. Đó là một cách hợp lý để nhân dân lao động thực hành quyền thống trị của mình” [10, tr. 219-220].
  • 15. 8 Pháp quyền xét dưới góc độ tổ chức bộ máy nhà nước có nghĩa nhân dân chính là chủ thể của quá trình tổ chức. Nhà nước pháp quyền không những là người đại diện chân chính cho nhân dân của quốc gia đó, mà nó phải được cộng đồng quốc tế thừa nhận. Nhà nước là người đại diện của nhân dân, cho nên, nhân dân phải có tiếng nói quyết định vào việc thành lập ra các cơ quan nhà nước. Bầu cử là hoạt động phổ thông nhất và mang tính đơn giản nhất, thông qua đó, nhân dân trực tiếp thành lập các cơ quan quyền lực nhà nước: “Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân”. Từ các thiết chế đại diện do nhân dân bầu ra này, các cơ quan nhà nước khác lần lượt được thành lập. Về bản chất, bầu cử không những là con đường kiến thiết chế độ đại diện mà nó cũng chính là phương thức để nhân dân loại bỏ những người đại diện. Do vậy, để nhân dân giám sát quyền lực nhà nước, chế ngự sự tha hóa, lạm quyền của quyền lực nhà nước một cách có hiệu quả, đồng thời với việc đổi mới chế độ bầu cử, cần xây dựng cơ chế cụ thể và hữu hiệu quyền bãi nhiệm đại biểu dân cử của nhân dân. Nói cách khác, nhân dân có thể thay thế, thậm chí phế truất những người đại diện do mình bầu ra bất cứ lúc nào, nếu họ không còn sự tín nhiệm của nhân dân, mà không phải đợi đến hết nhiệm kỳ: “Đại biểu Quốc hội bị cử tri hoặc Quốc hội bãi nhiệm và đại biểu Hội đồng nhân dân bị cử tri hoặc Hội đồng nhân dân bãi nhiệm khi đại biểu đó không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân” (Điều 7 Hiến pháp 1992). Chính vì tầm quan trọng của việc khẳng định chủ quyền nhân dân, trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới bộ máy nhà nước ở nước ta không thể không nói tới đổi mới chế độ bầu cử. Làm sao để “quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”, để nhân dân thực sự tìm được những người xứng đáng và đích thực thay mặt mình gánh vác việc nước - đó là những vấn đề cơ bản của việc đổi mới chế độ bầu cử ở nước ta hiện nay [38, tr. 237]. Chế độ bầu cử là nền tảng của dân chủ, có vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc kiến tạo chế độ dân chủ. Chế độ bầu cử là một trong những trụ cột trong cấu trúc dân chủ ở bất cứ nhà nước nào. Dân chủ và bầu cử gắn bó mật thiết như hình
  • 16. 9 với bóng. Ở đâu có bầu cử tự do và trung thực, thì ở đó một chế độ dân chủ được nảy nở và phát triển [3, tr. 27]. Dân chủ có nghĩa là nhân dân là nguồn gốc, là chủ thể của quyền lực nhà nước; các cơ quan quyền lực phải được nhân dân bầu hoặc bãi miễn thông qua bầu cử tự do, bình đẳng và bỏ phiếu kín. Không những thế, rất nhiều các hiệp ước, hiến chương quốc tế, khu vực đều khẳng định vai trò của bầu cử đối với thực thi dân chủ, bảo đảm quyền con người, như Hiến chương Paris cho một châu Âu mới tuyên bố: “Ý chí của nhân dân thông qua bầu cử tự do, công bằng và định kỳ là nền tảng cho một nhà nước dân chủ”. Tại các nước lớn ngày nay, dân chủ dựa trên ý tưởng rằng chủ quyền của nhân dân hợp pháp hóa cả chính quyền lẫn quyền cộng đồng quyết định, trên những nguyên tắc phục tùng đa số, bảo vệ thiểu số và trên hệ thống nghị trường đại diện. Hội nghị An ninh và hợp tác châu Âu (CSCE) khẳng định rằng, dân chủ “có nền tảng là việc tôn trọng con người và chế độ pháp quyền”, công nhận chế độ pháp quyền là một yếu tố thiết yếu để đảm bảo việc tôn trọng nhân quyền và hoan nghênh “quyết tâm chung của tất cả các quốc gia thành viên nhằm xây dựng các xã hội dân chủ trên nền tảng tuyển cử tự do và chế độ pháp quyền”. Chế độ pháp quyền dường như không chỉ đòi hỏi pháp luật phải có giá trị phổ quát, mà còn đòi hỏi việc thực thi pháp luật cũng phải phổ quát như vậy, nghĩa là pháp luật phải có khả năng thực thi một cách bình đẳng đối với tất cả các thành viên của cộng đồng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói “Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức, để gánh vác công việc nước nhà. Trong cuộc Tổng tuyển cử, hễ là những người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử; hễ là công dân thì đều có quyền đi bầu cử. Không chia gái trai, giàu nghèo, tôn giáo, nòi giống, giai cấp, đảng phái, hễ là công dân Việt Nam thì đều có hai quyền đó. Vì lẽ đó, cho nên Tổng tuyển cử tức là tự do, bình đẳng, tức là dân chủ đoàn kết” [10]. Đối với nước ta, dân chủ đại diện lại càng có vai trò đặc biệt quan trọng, vì Hiến pháp mới chỉ khẳng định về dân chủ đại diện, mà chưa đề cập rõ ràng về dân chủ trực tiếp. Vai trò của bầu cử đối với bộ máy nhà nước có thể được ví như vai trò của nền móng trong việc xây dựng một ngôi nhà. Muốn có ngôi
  • 17. 10 nhà kiên cố và hiện đại, thì trước hết phải có nền móng vững chắc. Để có một Nhà nước “của dân”, trước hết phải thiết kế và thực thi một chế độ bầu cử sao cho bộ máy nhà nước đó “đúng” là kết quả của sự lựa chọn dựa trên ý chí của nhân dân. Mối quan hệ giữa chế độ bầu cử với bản chất, mục đích của nhà nước là mối quan hệ biện chứng: một mặt, một chế độ bầu cử đảm bảo đúng ý chí của nhân dân trong việc lựa chọn và ủy quyền, thì bản thân việc lựa chọn và ủy quyền đó không những đảm bảo nhà nước đó là nhà nước “của dân” mà đã bao hàm ý nghĩa nhà nước đó là nhà nước “do dân và vì dân”; mặt khác, một nhà nước đích thực “của dân” sẽ là cơ sở rất quan trọng để nó là một nhà nước “do dân và vì dân”. Ngược lại, nếu không đảm bảo nhà nước đó là nhà nước đích thực của dân, nhân dân còn “đứng ngoài”, hoặc chưa đóng vai trò quyết định, thì dù nó tổ chức, hoạt động theo nguyên tắc nào, mục đích “do dân và vì dân” của nhà nước đó cũng khó có thể đạt được. Điều đó không những không đảm bảo cơ sở pháp quyền của nhà nước, mà mục đích nhà nước sẽ không đảm bảo dân chủ, hoặc mục đích dân chủ có thể được đặt ra, nhưng sẽ bị chệch hướng. Như vậy, bầu cử là định chế quan trọng, mang tính nền tảng trong việc kiến tạo cơ chế chính trị của mỗi quốc gia. Nhưng tại sao lại như vậy? Câu trả lời là: vì kết quả bầu cử thể hiện ý chí của nhân dân, cơ chế chính trị được xây dựng trên nền tảng của chế độ bầu cử, tức là được xây dựng trên nền tảng ý chí của nhân dân. Đây là cơ sở, là điều kiện tiên quyết cho một chính quyền, hệ thống chính trị của dân, do dân, vì dân và đó là mục tiêu cao cả của dân chủ. Ở Việt Nam và các nước xã hội chủ nghĩa, vai trò của chế độ bầu cử còn mang tính đặc thù. Thứ nhất, đối với các nước tư sản, bộ máy nhà nước được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc phân chia quyền lực, do đó nhân dân không những bầu ra Quốc hội, mà ở nhiều nước, nhân dân còn bầu ra Tổng thống. Do vậy, bản thân chế độ bầu cử là công cụ nhằm kiểm soát, đối trọng giữa các nhánh quyền lực và nó có khả năng tạo ra cơ hội “sửa sai” cho nhân dân. Chẳng hạn, sau khi bầu cử Tổng thống, nếu đường lối, chính sách do Tổng thống thực thi không hợp lòng dân, đến kỳ bầu cử Quốc hội, cử tri sẽ dồn phiếu cho các đảng đối lập để “khắc
  • 18. 11 chế”, “đối trọng” đường lối của Tổng thống và ngược lại. Khác với các nước tư sản, ở nước ta, khi nhân dân bầu ra Quốc hội, Hội đồng nhân dân thì cũng có nghĩa gần như trao toàn bộ “ấn kiếm” cho các cơ quan này mà không có nhiều cơ hội “sửa sai” như ở các nước tư sản. Về nguyên tắc, cử tri có quyền bãi nhiệm các đại biểu dân cử khi họ không còn được sự tín nhiệm của nhân dân. Tuy nhiên, việc bãi nhiệm thường tiến hành với từng đại biểu riêng biệt, hơn nữa, việc bãi nhiệm tuy đã có trong các điều khoản của Hiến pháp, các đạo luật về tổ chức các cơ quan nhà nước, nhưng chưa có cơ chế cụ thể để thực hiện, để áp dụng vào thực tiễn. Vả lại, kể cả khi chúng ta xây dựng được cơ chế bãi nhiệm đại biểu dân cử, do thủ tục phức tạp cần phải có của cơ chế và tính phức tạp của trách nhiệm chính trị, cơ chế này vẫn mang tính phòng ngừa nhiều hơn. Thứ hai, vị trí, thẩm quyền của cơ quan dân cử trong bộ máy nhà nước các nước xã hội chủ nghĩa có tính đặc biệt: Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Đối với Việt Nam, thẩm quyền xây dựng Hiến pháp được trao cho Quốc hội, cho nên, có thể hình dung rằng thông qua bầu cử, nhân dân trao những thẩm quyền quan trọng, như quyết định các vấn đề quan trọng nhất của cả nước/địa phương cho cơ quan quyền lực nhà nước, trao cả quyền lập hiến cho Quốc hội. Bầu cử có vị trí vai trò rất quan trọng trong việc phê bình và lựa chọn chính quyền nhà nước [8]. Bầu cử sẽ là một việc vô nghĩa nếu như không có sự lựa chọn. Ðể có được những lựa chọn đúng đòi hỏi những người dân phản đối chính quyền phải được phép tự do công khai bày tỏ quan điểm của mình, tự do chỉ trích chính sách và lôi kéo, tổ chức những người ủng hộ họ. Những cuộc bầu cử tự do và công bằng không thể duy trì được ở những nơi mà các quan chức có quyền bưng bít các lời chỉ trích. Tóm lại, chế độ bầu cử là một định chế quan trọng của dân chủ, nền tảng của mọi nhà nước pháp quyền. Việc thiết kế, thực thi chế độ bầu cử tiến bộ, phù hợp là công việc quan trọng hàng đầu đối với bất cứ nhà nước pháp quyền nào, trong đó có Việt Nam.
  • 19. 12 Thành công của các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân đã thể hiện rõ ý thức chính trị, trách nhiệm của cử tri và nhân dân đối với sự nghiệp cách mạng của đất nước; phản ánh tính dân chủ trong đời sống xã hội của đất nước ta. Các cuộc bầu cử đều diễn ra thuận lợi và đạt được những thắng lợi to lớn. Hầu hết các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội của nước ta đều thu hút được đông đảo cử tri tham gia bỏ phiếu, với tỉ lệ trên dưới 90%. Đây là một thực tế mà không phải quốc gia nào cũng đạt được, kể cả ở những nước phát triển. Điều đó phản ánh được ý thức chính trị rất cao của cử tri và nhân dân ta đối với sự nghiệp cách mạng của đất nước. Mặt khác, cũng chính từ thành công của các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội đã phán ánh được sự dân chủ trong đời sống kinh tế - xã hội ở nước ta. Như vậy, bầu cử như là một trong những biện pháp cơ bản thể hiện sự chịu trách nhiệm của nhà nước, cũng như một cách thức nhân dân đánh giá và mong muốn về trách nhiệm của nhà nước trong tương lai. Thông qua việc bầu cử, nhân dân có quyền hất bỏ những quyền lực nhà nước không đáp ứng, và muốn có một sự thay đổi với mục tiêu đáp ứng được mong mỏi của người dân. Cơ sở của chế độ bầu cử là quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Quyền lực nhà nước của các cơ quan nhà nước, cũng như của các cá nhân được đảm nhiệm các công việc nhà nước là do nhân dân trao cho thông qua hoạt động bầu cử của họ. Đây cũng là cơ sở cho việc các cơ quan nhà nước cũng như các quan chức do nhân dân bầu ra không chỉ đơn thuần có được quyền lực nhà nước, mà còn phải chịu trách nhiệm về việc thực thi quyền lực được giao trước nhân dân [8].
  • 20. 13 Chƣơng 2 THƢ̣C TRẠNG HỆ THỐ NG PHÁP LUẬT VỀ BẦU CỬ VÀ VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẦU CỬ HIỆN NAY 2.1. Thực trạng hệ thống pháp luật về bầu cử ĐBQH và ĐB HĐND 2.1.1. Thực trạng pháp luật về bầu cử đại biểu Quốc hội qua cuộc bầu cử các khóa XI, XII Qua thực tiễn triển khai áp dụng luật bầu cử đại biểu Quốc hội các khóa gần đây cho thấy, các quy định của luật thực định nhìn chung được áp dụng khá đầy đủ trong thực tiễn, việc triển khai các công việc phục vụ cho công tác bầu cử được thực hiện đúng tiến độ, bảo đảm tính dân chủ, tiết kiệm. Các cuộc bầu cử đã đạt được những kết quả tích cực và thành công trên nhiều phương diện, từ các công tác chuẩn bị, tổ chức triển khai thực hiện cho đến khi kết thúc cuộc bầu cử. Qua việc thi hành pháp luật về bầu cử đại biểu Quốc hội tại các cuộc bầu cử gần đây cho thấy, nhìn chung luật đã đi vào cuộc sống, công tác bầu cử đại biểu Quốc hội đã bảo đảm được các tiêu chí và nguyên tắc theo quy định của luật, nhất là đã đảm bảo được tính đại diện cho các thành phần, giai tầng trong xã hội; số người ứng cử, tự ứng cử ở mỗi đơn vị bầu cử đã tăng lên, trình độ của những người ứng cử khá đồng đều, chất lượng đại biểu trúng cử nhiệm kỳ sau được nâng lên so với nhiệm kỳ trước. Sự thành công của các cuộc bầu cử gần đây cho thấy hệ thống pháp luật về bầu cử về cơ bản đã dần đồng bộ, toàn diện và đang từng bước được hoàn thiện. Tuy nhiên, với đặc thù của công tác bầu cử là hoạt động không thường xuyên, năm năm mới thực hiện một lần nên việc áp dụng các quy định của pháp luật về bầu cử qua các kỳ bầu cử đại biểu Quốc hội còn cho thấy có những vấn đề được quy định trong luật chưa thực sự phù hợp với sự vận động của thực tiễn. Trước những yêu cầu, nhiệm vụ phát triển đất nước trong tình hình mới, quán triệt chủ trương của Đảng thể hiện trong Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã nêu: “Nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội, đại biểu
  • 21. 14 Hội đồng nhân dân, hoàn thiện những quy định về bầu cử, ứng cử, về tiêu chuẩn và cơ cấu các đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân trên cơ sở thật sự phát huy dân chủ. Tăng thêm tỷ lệ đại biểu Quốc hội chuyên trách”, ngày 25 tháng 12 năm 2001 Quốc hội khóa X đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1997. Luật bầu cử đại biểu Quốc hội năm 2001 được sửa đổi cũng nhằm mục đích để phù hợp với nội dung sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992 và việc sửa đổi Luật tổ chức Quốc hội và cụ thể hóa các quan điểm, chỉ thị của Đảng về đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội; phát huy bản chất dân chủ, bảo đảm tính nhân dân, tính đại diện và chất lượng đại biểu Quốc hội; làm cơ sở cho việc tăng tỷ lệ đại biểu Quốc hội chuyên trách. Luật bầu cử đại biểu Quốc hội năm 2001 được Quốc hội thông qua là cơ sở pháp lý quan trọng đối với cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI và khóa XII. Các quy định của Luật đã được các cơ quan có thẩm quyền liên quan đến công tác bầu cử đại biểu Quốc hội từ trung ương đến địa phương vận dụng tổ chức thành công các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội, góp phần vào quá trình kiện toàn tổ chức và tăng cường hiệu quả hoạt động của Quốc hội qua các nhiệm kỳ Quốc hội khóa XI và khóa XII. Tuy nhiên, qua quá trình áp dụng Luật bầu cử đại biểu Quốc hội để triển khai công tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI và khóa XII cho thấy Luật còn có một số quy định vướng mắc, khó thực hiện trong triển khai công tác bầu cử. Cụ thể như sau: Về số người ứng cử tại mỗi khu vực bỏ phiếu Điều 46 Luật bầu cử đại biểu Quốc hội quy định: Căn cứ vào danh sách chính thức những người ứng cử được Đoàn Chủ tịch Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giới thiệu, Hội đồng bầu cử gửi tới các Uỷ ban bầu cử hữu quan danh sách những người được giới thiệu về ứng cử tại địa phương. Hội đồng bầu cử lập và công bố
  • 22. 15 danh sách những người ứng cử theo từng đơn vị bầu cử trong cả nước theo danh sách chính thức do Ban thường trực Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Uỷ ban bầu cử gửi đến chậm nhất là hai mươi lăm ngày trước ngày bầu cử. Trong danh sách những người ứng cử phải ghi rõ họ, tên, ngày, tháng, năm sinh, quê quán, nơi thường trú, dân tộc, tôn giáo, trình độ văn hoá, chuyên môn, nghề nghiệp, chức vụ, nơi làm việc của người ứng cử. Danh sách những người ứng cử được xếp theo vần chữ cái A, B, C... Số người trong danh sách ứng cử ở mỗi đơn vị bầu cử phải nhiều hơn số đại biểu được bầu ở đơn vị đó. Người ứng cử chỉ được ghi tên vào danh sách ứng cử ở một đơn vị bầu cử. Quy định này dẫn đến tình trạng có đơn vị bầu cử số người ứng cử chỉ nhiều hơn số đại biểu được bầu là một người. Nếu số người ứng cử chỉ nhiều hơn số đại biểu được bầu là một người thì trong trường hợp bất khả kháng người ứng cử bị truy cứu trách nhiệm hình sự, bị chết hoặc vì lý do bất khả kháng, phải xóa tên trong danh sách bầu cử thì đơn vị bầu cử đó sẽ không có số dư hoặc đơn vị bầu cử đó phải giảm số đại biểu được bầu để bảo đảm số dư theo đúng quy định của luật. Trong thực tế bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI ở tỉnh Nam Định và tỉnh Bình Định có trường hợp ứng cử viên bị kỷ luật, khởi tố hình sự sát ngày bầu cử, không thể bổ sung kịp danh sách người ứng cử nên Hội đồng bầu cử đã phải quyết định rút ở đơn vị đó một đại biểu để tránh tình trạng “bầu tròn”. Từ thực tiễn bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI, Hội đồng bầu cử đã có văn bản hướng dẫn số dư tại mỗi đơn vị bầu cử phải ít nhất là hai người. Tuy nhiên, với hướng dẫn như vậy lại là quá cứng nhắc, khó cho cử tri lựa chọn đại biểu và các đại biểu do trung ương giới thiệu cũng sẽ khó trúng cử đối với những đơn vị bầu cử có bốn người ứng cử và chỉ được bầu hai đại biểu (cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XII có 47/182 đơn vị bầu cử được bầu 2 đại biểu). Trong luật bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1997 cũng không quy định rõ đối với những trường hợp bất khả kháng về nhân sự trong bầu cử thì sẽ do cơ quan nào có thẩm quyền xem xét, quyết định. Vì vậy, việc quy định rõ Hội đồng bầu cử sẽ xem xét, quyết định
  • 23. 16 đối với những trường hợp khuyết người ứng cử vì lý do bất khả kháng sẽ tạo thuận lợi trong quá trình thực hiện khi xảy ra sự việc này. Việc quy định số lượng cử tri tại mỗi khu vực bỏ phiếu không phù hợp với số dân cư: Điều 12 Luật bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1997 quy định: Mỗi đơn vị bầu cử chia thành nhiều khu vực bỏ phiếu. Việc chia khu vực bỏ phiếu do Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn quyết định và do Uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp phê chuẩn. Mỗi khu vực bỏ phiếu có từ ba trăm đến hai nghìn cử tri. Ở miền núi, hải đảo và những nơi dân cư không tập trung thì dù chưa có tới ba trăm cử tri cũng được thành lập một khu vực bỏ phiếu… Thực tế cùng với việc tăng dân số cả nước và ở từng địa phương, mật độ dân số cũng tăng lên nhiều. Vì vậy, mức trần tối đa cử tri ở một khu vực bỏ phiếu quy định như Luật bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1997 là không hợp lý. Qua thực tế bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XII cho thấy, tại những địa phương có mật độ dân số cao, nhiều khu dân cư có trên hai nghìn cử tri thì việc giới hạn khu vực bỏ phiếu từ ba trăm đến hai nghìn cử tri đã gây nhiều khó khăn cho địa phương trong việc thành lập khu vực bỏ phiếu (Hội đồng bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XII đã phải có công văn cho phép Bình Dương thành lập khu vực bỏ phiếu có trên 2000 cử tri.) Về chức năng nhiệm vụ và thành viên Tổ bầu cử: Tổ bầu cử là tổ chức trực tiếp phụ trách công tác bầu cử ở cơ sở, thông thường, đơn vị hành chính cấp xã có từ 12-15 tổ bầu cử. Điều 17, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội quy định: Chậm nhất là ba mươi ngày trước ngày bầu cử, Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn sau khi thống nhất với Uỷ ban nhân dân và Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp quyết định thành lập ở mỗi khu vực bỏ phiếu một Tổ bầu cử từ năm đến mười một người, gồm Tổ trưởng, Tổ phó, Thư ký và các uỷ viên là đại diện Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp và đại diện cử tri ở
  • 24. 17 địa phương. Đơn vị vũ trang nhân dân thành lập ở mỗi khu vực bỏ phiếu của mình một Tổ bầu cử từ năm đến chín người, gồm Tổ trường, Tổ phó, Thư ký và các uỷ viên là đại diện Chỉ huy đơn vị và đại diện quân nhân. Trong trường hợp đơn vị vũ trang nhân dân và địa phương có chung một khu vực bỏ phiếu thì Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn sau khi thống nhất với Uỷ ban nhân dân, Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp và Chỉ huy đơn vị vũ trang nhân dân quyết định thành lập Tổ bầu cử từ năm đến mười một người, gồm đại diện Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp, đại diện Chỉ huy đơn vị, đại diện quân nhân và đại diện cử tri ở địa phương…. Trên thực tế, nhiều Tổ bầu cử không có đủ số người đại diện của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân. Đây là thực tế vướng mắc trong đợt bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI và khóa XII (ví dụ như ở tỉnh Bắc Ninh trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XII, khi thiếu thành phần đại diện Ủy ban nhân dân trong Tổ bầu cử và Hội đồng bầu cử phải có hướng dẫn cụ thể đối với các trường hợp này theo hướng đối với xã, phường, thị trấn có địa bàn lớn, có số dân đông phải thành lập nhiều Tổ bầu cử thì không nhất thiết trong thành phần các Tổ bầu cử phải có đại diện Ủy ban nhân dân). Ngoài ra, Tổ bầu cử là tổ chức ở cơ sở và là Tổ chức phụ trách trực tiếp công tác bầu cử trong khu vực bỏ phiếu, là tổ chức liên hệ trực tiếp với cử tri địa phương, nhận tài liệu và phiếu bầu từ Ban bầu cử để phát cho cử tri nhưng những nội dung này lại không được quy định cụ thể trong Luật. Trách nhiệm của Tổ bầu cử đối với những khiếu nại, tố cáo về công tác bầu cử do Tổ bầu cử phụ trách cũng không được đề cập, như vậy, thực tế sẽ dẫn đến tình trạng Tổ bầu cử không có trách nhiệm gì trong giải quyết khiếu nại tố cáo đối với lĩnh vực mình phụ trách, và mọi khiếu nại, tố cáo về công tác bầu cử của Tổ bầu cử lại dồn lên Ban bầu cử xem xét và giải quyết, trong khi đó, Ban bầu cử cũng đã quá tải với công việc tổng hợp trực tiếp kết quả bầu cử từ hàng trăm đến hàng nghìn các Tổ bầu cử khác nhau. Về thời gian, thời điểm kết thúc cuộc bỏ phiếu
  • 25. 18 Điều 57 Luật bầu cử đại biểu Quốc hội 1997 quy định: Việc bỏ phiếu bắt đầu từ bảy giờ sáng đến bảy giờ tối. Tuỳ tình hình địa phương, Tổ bầu cử có thể quyết định cho bắt đầu sớm hơn nhưng không được trước năm giờ sáng hoặc kết thúc muộn hơn nhưng không được quá mười giờ đêm. Trước khi bỏ phiếu, Tổ bầu cử phải kiểm tra hòm phiếu trước sự chứng kiến của cử tri. Trên thực tế, sau thời điểm kết thúc bỏ phiếu các tổ chức phụ trách bầu cử phải có thời gian cần thiết bảo đảm thực hiện việc kiểm phiếu theo quy định. Quy định như Điều 57 là có thể kết thúc muộn nhưng không được quá mười giờ đêm sẽ gây khó khăn cho công tác kiểm phiếu của tổ chức phụ trách bầu cử. Mặt khác, trong Luật bầu cử đại biểu Quốc hội cũng chưa quy định điều kiện để tuyên bố kết thúc bỏ phiếu sớm tại các khu vực bỏ phiếu gây vướng mắc cho các tổ bầu cử. Thực tế, trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XII, một số địa phương như Đà Nẵng, Hà Tây cũ… đã phải đề nghị Hội đồng bầu cử hướng dẫn về trường hợp kết thúc sớm cuộc bỏ phiếu tại các tổ bầu cử. Hội đồng bầu cử hướng dẫn theo hướng trong trường hợp ở khu vực bỏ phiếu đã có 100% cử tri đi bỏ phiếu thì Tổ bầu cử có thể tuyên bố toàn bộ cử tri trong danh sách đã bỏ phiếu xong và kết thúc cuộc bỏ phiếu tại khu vực bỏ phiếu đó. Về xác nhận việc bỏ phiếu trên thẻ cử tri Trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI, ở tỉnh Bắc Ninh đã phải tiến hành bầu cử lại ở khu vực bỏ phiếu số 3 (thôn Dương Lôi, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn) do Tổ bầu cử đã không đóng dấu vào “đã bỏ phiếu” trên thẻ cử tri. Quy định của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội không đề cập đến nội dung này. Như vậy sẽ dẫn đến tình trạng khó xác định được việc cử tri đó đã đi bầu hay chưa và cũng khó cho Tổ bầu cử theo dõi danh sách cử tri. Về thời điểm kết thúc nhiệm vụ của các tổ chức phụ trách bầu cử
  • 26. 19 Theo quy định của Luật bầu cử thì Ủy ban bầu cử hết nhiệm vụ sau khi Hội đồng bầu cử công bố kết quả bầu cử trong cả nước. Thực tế cho thấy các tổ chức phụ trách bầu cử ở địa phương vẫn phải tiếp tục hoạt động khi Hội đồng bầu cử đã công bố kết quả bầu cử trong cả nước để thực hiện một số công việc như thông báo kết quả bầu cử, quyết toán kinh phí, giải quyết các vướng mắc phát sinh về kinh phí bầu cử, xem xét các đề nghị khen thưởng và một số công việc khác để tổ chức hội nghị tổng kết cuộc bầu cử ở địa phương. Vì vậy, quy định về thời điểm kết thúc nhiệm vụ của tổ chức phụ trách bầu cử địa phương như luật là không phù hợp với thực tiễn tổ chức các cuộc bầu cử. 2.1.2. Thực trạng pháp luật về bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân qua cuộc bầu cử đại biểu HĐND nhiệm kỳ 2004-2009 Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (sửa đổi) được Quốc hội khóa IX thông qua năm 1994 theo tinh thần của Hiến pháp 1992. Qua thực tiễn áp dụng, Luật đã góp phần quan trọng vào việc tổ chức tốt cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 1994-1999 và nhiệm kỳ 1999-2004, tạo sơ sở pháp lý quan trọng cho việc kiện toàn, củng cố tổ chức và hoạt động của chính quyền các cấp. Tuy nhiên, qua thực tiễn tổ chức cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân qua hai nhiệm kỳ cho thấy Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân còn bộc lộ một số hạn chế nhất định như tiêu chuẩn, số lượng đại biểu; quyền bầu cử, ứng cử, giới thiệu người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân; về nhiệm vụ, quyền hạn của các tổ chức phụ trách bầu cử; quy trình hiệp thương lựa chọn, giới thiệu người ra ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân chưa được cụ thể hóa và không phù hợp với tình hình thực tiễn đặt ra. Do đó, để quán triệt Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng và các Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương về xây dựng và hoàn thiện chính quyền địa phương các cấp, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nâng cao chất lượng và hiệu quả của dân chủ đại diện, từng bước mở rộng và phát huy dân chủ trực tiếp của nhân dân ở các địa phương. Vì vậy, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XI tháng 11 năm 2003, Quốc hội thông qua Luật bầu cử đại
  • 27. 20 biểu Hội đồng nhân dân (sửa đổi). Luật cụ thể hóa những nội dung mới của Hiến pháp 1992 và được triển khai có hiệu quả trong cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2004-2009. Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân được Quốc hội ban hành năm 2003 đã cơ bản khắc phục những vấn đề vướng mắc trong thực tế bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp theo quy định của luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân sửa đổi, bổ sung năm 1994, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm từ cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội, điều chỉnh tương đối phù hợp các quy định về số lượng cử tri tại mỗi khu vực bỏ phiếu; về thành viên tổ bầu cử; về thời hạn kết thúc cuộc bỏ phiếu; về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong công tác bầu cử ở Tổ bầu cử… Những điều chỉnh căn bản đó đã góp phần thành công trong cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2004-2009. Tuy nhiên, qua việc triển khai thực hiện các quy định của Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân còn cho thấy bộc lộ những quy định thiếu hợp lý, đó là: Về thành lập khu vực bỏ phiếu của các đơn vị lực lượng vũ trang Theo quy định tại Điều 57 của Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân 2003 thì: “các đơn vị lực lượng vũ trang thành lập khu vực bỏ phiếu riêng”. Như vậy, với những đơn vị vũ trang với quy mô nhỏ, số lượng cử tri ít mà thành lập một khu vực bỏ phiếu riêng thì sẽ không đảm bảo số lượng cử tri và trên thực tế, cũng không phải đơn vị lực lượng vũ trang nào cũng có thể liên kết với đơn vị cấp trên trong cùng một đơn vị hành chính để thành lập riêng một khu vực bỏ phiếu được vì như vậy sẽ gây khó khăn cho người đi bầu. Thực tế, có những đơn vị lực lượng vũ trang như đơn vị bộ đội biên phòng quân số ít thì sẽ gặp lúng túng trong quá trình triển khai thực hiện. Về việc gửi biên bản và phiếu bầu Điều 59 Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân quy định: “…Biên bản kiểm phiếu được lập thành ba bản, có chữ ký của Tổ trưởng, Tổ phó, Thư ký Tổ bầu cử và hai cử tri được mời chứng kiến việc kiểm phiếu để gửi đến Ban bầu cử, Uỷ ban nhân dân, Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã,
  • 28. 21 phường, thị trấn”. Biên bản kiểm phiếu, phiếu bầu và các tài liệu khác về bầu cử là những tài liệu quan trọng và là căn cứ thiết yếu để đánh giá kết quả bầu cử, trúng cử của đại biểu trong khu vực bỏ phiếu. Trong những tài liệu đó thì phiếu bầu chỉ có duy nhất một bản. Vì vậy, quy định như trong Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thì Tổ bầu cử sẽ phải chuyển giao biên bản kiểm phiếu, phiếu bầu và các tài liệu khác tới ba cơ quan, tổ chức là: Ban bầu cử, Ủy ban nhân dân và Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã, phường, thị trấn là không hợp lý và không khả thi trong thực tế. Vì vậy, trong tổ chức thực hiện, Tổ bầu cử lúng túng không biết chuyển phiếu bầu cho cơ quan nào. Theo Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật bầu cử Hội đồng nhân dân do Chính phủ ban hành thì chỉ quy định Ủy ban nhân dân xã lưu trữ, quản lý số phiếu bầu không sử dụng đến đã được Tổ bầu cử niêm phong và không đề cập đến số phiếu đã được sử dụng. Về việc hoãn hoặc bỏ phiếu sớm hơn ngày quy định Trên thực tế cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2004-2009 có một số khu vực bỏ phiếu, đơn vị bầu cử của nhiều tỉnh, thành phố đề nghị được tổ chức bỏ phiếu sớm hơn thời gian quy định. Cũng có một số đơn vị bầu cử, khu vực bỏ phiếu thuộc 4 huyện của tỉnh Bắc Ninh đã đề nghị được hoãn ngày bỏ phiếu do chưa chuẩn bị kịp về nhân sự. Tuy nhiên, Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân đã không có quy định xác định cụ thể tổ chức phụ trách bầu cử nào có thẩm quyền xem xét, quyết định việc hoãn hoặc bỏ phiếu sớm hơn ngày quy định. Trong khi đó, đối với bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thì có tới 3 Ban bầu cử khác nhau và có 3 Hội đồng bầu cử khác nhau và cả 6 tổ chức này cũng không có thẩm quyền trong việc quyết định hoãn ngày bỏ phiếu hoặc bỏ phiếu sớm hơn. Điều 54 Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân quy định: Trong ngày bầu cử, cuộc bỏ phiếu phải được tiến hành liên tục. Trong trường hợp có sự kiện bất ngờ làm gián đoạn việc bỏ phiếu thì Tổ
  • 29. 22 bầu cử phải lập tức niêm phong giấy tờ và hòm phiếu, kịp thời báo cáo cho Ban bầu cử biết, đồng thời phải có những biện pháp cần thiết để cuộc bỏ phiếu được tiếp tục. Trong trường hợp đặc biệt cần hoãn ngày bỏ phiếu hoặc bỏ phiếu sớm hơn ngày quy định thì Tổ bầu cử phải kịp thời báo cáo Ban bầu cử biết để đề nghị Hội đồng bầu cử trình cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định. Đối chiếu với Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân do Chính phủ ban hành thì sự việc được giải quyết theo hướng Hội đồng bầu cử cấp tỉnh báo cáo Chính phủ để trình Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét. Tuy nhiên, qua thực tế hoãn ngày bỏ phiếu bầu cử Hội đồng nhân dân tại 4 khu vực bỏ phiếu thuộc 4 huyện của tỉnh Bắc Ninh trong cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2004-2009 cho thấy thì Chính phủ còn phải có sự thống nhất với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các cơ quan trung ương thì mới trình Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét. Về thời điểm kết thúc nhiệm vụ của các tổ chức phụ trách bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân Điều 22, Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân quy định: “Hội đồng bầu cử hết nhiệm vụ sau khi đã trình biên bản tổng kết cuộc bầu cử và hồ sơ, tài liệu về bầu cử tại kỳ họp thứ nhất của Hội đồng nhân dân khoá mới. Các Ban bầu cử, Tổ bầu cử hết nhiệm vụ sau khi Hội đồng bầu cử công bố kết quả bầu cử”. Qua thực tế công tác bầu cử cho thấy các Ban bầu cử, Tổ bầu cử đối với bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân vẫn phải tiếp tục hoạt động sau khi Hội đồng bầu cử công bố kết quả bầu cử để thực hiện một số công việc về quyết toán kinh phí, giải quyết các vướng mắc phát sinh về kinh phí bầu cử…Vì vậy, việc thực hiện những quy định của luật hiện hành cũng gặp những vướng mắc tương tự như đối với thời điểm kết thúc nhiệm vụ của các tổ chức phụ trách bầu cử đại biểu Quốc hội.
  • 30. 23 2.1.3. Những vấn đề mặt pháp lý đặt ra đối với cuộc bầu cử chung đại biểu Quốc hội khóa XIII và đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2011-2016 Với mục đích bảo đảm sự đồng bộ, hợp lý của hệ thống chính trị; tạo điều kiện thuận lợi cho việc bố trí, sắp xếp đội ngũ cán bộ lãnh đạo của Đảng trong các cơ quan nhà nước ở các cấp; tiết kiệm thời gian, tiền của, công sức; phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, cử tri cả nước, Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã đề ra chủ trương tổ chức Đại hội Đảng toàn quốc, bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp trong cùng một năm (là năm đầu của mỗi kế hoạch 5 năm). Theo tinh thần đó, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết về việc rút ngắn nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII và kéo dài nhiệm kỳ Hội đồng nhân dân. Năm 2011, chúng ta đã tiến hành bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII và đại biểu Hội đồng nhân dân các c ấp nhiệm kỳ 2011- 2016. Ngoài những thuận lợi của việc tổ chức bầu cử chung như đã nêu ở trên thì đặt ra tương đối nhiều vấn đề về mặt pháp lý cần phải giải quyết liên quan đến quy định của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân. Với hai Luật bầu cử khác nhau, trong đó có nhiều quy định khác nhau, điều này đã gây khó khăn lớn đối với sự chỉ đạo triển khai công tác bầu cử, phát sinh những vướng mắc trong quá trình chuẩn bị và tiến hành bầu cử. Thực tiễn đó đặt ra một số vấn đề về sự cần thiết phải sửa đổi hai Luật về bầu cử. Trong quá trình nghiên cứu xây dựng dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân đã có những tranh luận về các giải pháp sửa đổi. Tuy nhiên, trước tình hình thực tiễn Quốc hội đã quyết định phương châm sửa đổi hai luật này trước hết là nhằm mục đích để giải quyết những mâu thuẫn, khác biệt trong quy định về các khâu của công tác bầu cử, tiến tới đảm bảo sự thống nhất giữa hai luật bầu cử để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chuẩn bị và tiến hành bầu cử chung và làm cơ sở để tiến hành sửa đổi Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật Bầu cử Hội
  • 31. 24 đồng nhân dân sau này. Những vấn đề pháp lý đặt ra được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung bao gồm: Vấn đề quy định về các tổ chức phụ trách bầu cử: Theo quy định của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội năm 2001, các tổ chức phụ trách bầu cử đại biểu Quốc hội gồm có Hội đồng bầu cử trung ương; Ủy ban bầu cử ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Ban bầu cử ở đơn vị bầu cử; Tổ bầu cử ở khu vực bỏ phiếu. Đối với bầu cử Hội đồng nhân dân, Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2003 quy định các tổ chức phụ trách bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân gồm Hội đồng bầu cử; Ban bầu cử; Tổ bầu cử. Vì là cuộc bầu cử chung, do đó theo quy định của từng luật về bầu cử thì phải thành lập nhiều tổ phụ trách bầu cử để thực hiện công tác bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân từng cấp sẽ gây khó khăn không nhỏ cho chính quyền địa phương trong công tác bố trí nhân sự tham gia các tổ chức phụ trách bầu cử. Vì vậy, để tổ chức thực hiện bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp trong cùng một ngày có tính khả thi, bảo đảm thuận lợi, tiết kiệm cho quá trình chuẩn bị và tiến hành bầu cử hai Luật bầu cử đã được sửa đổi theo hướng quy định kết hợp một số tổ chức phụ trách bầu cử có thể thực hiện đồng thời công tác bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, quy định thống nhất về chức năng, nhiệm vụ, thành phần và số lượng thành viên các tổ chức phụ trách bầu cử. Vấn đề cơ quan chủ trì thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử Luật bầu cử đại biểu Quốc hội quy định cơ quan chủ trì thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử ở địa phương là Thường trực Hội đồng nhân dân. Trong khi đó, Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân lại quy định Ủy ban nhân dân chủ trì thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân. Khi thực hiện bầu cử chung không thể một tổ chức bầu cử lại có hai cơ quan chủ trì thành lập được.
  • 32. 25 Vấn đề số lượng cử tri tại mỗi khu vực bỏ phiếu và việc thành lập khu vực bỏ phiếu đối với đơn vị lực lượng vũ trang Luật bầu cử đại biểu Quốc hội quy định số lượng cử tri ở mỗi khu vực bỏ phiếu từ ba trăm đến hai nghìn cử tri; Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân quy định số lượng cử tri ở mỗi khu vực bỏ phiếu từ ba trăm đến bốn nghìn cử tri. Do bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp trong cùng một ngày nên cần phải sửa đổi thống nhất về số lượng cử tri tại mỗi khu vực bỏ phiếu, bởi nếu bầu cử chung thì khu vực bỏ phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội phải đồng thời là khu vực bỏ phiếu bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Ngoài ra, trong cả hai luật về bầu cử đều có quy định đơn vị lực lượng vũ trang thành lập khu vực bỏ phiếu riêng. Tuy nhiên, trong Luật bầu cử đại biểu Quốc hội lại bổ sung thêm trường hợp là đơn vị lực lượng vũ trang và địa phương có thể thành lập chung khu vực bỏ phiếu. Như vậy, phải nghiên cứu sửa đổi để thống nhất khi áp dụng chung cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân. Hơn nữa, về vấn đề này, thực tế khi thực hiện theo từng luật trong các kỳ bầu cử trước đây cũng đã có những vướng mắc vì quy định không cụ thể các tiêu chí để thành lập khu vực bỏ phiếu riêng của đơn vị lực lượng vũ trang dẫn đến nhiều cách làm khác nhau của các địa phương khi triển khai thực hiện. Về các vấn đề liên quan đến hoạt động bỏ phiếu Với đối tượng cử tri chung cho bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, thì các quy định về cách thức bầu cử phải có sự thống nhất và có quy định cụ thể mỗi cử tri có quyền bỏ một phiếu bầu đại biểu Quốc hội; bỏ một phiếu bầu cho mỗi cấp Hội đồng nhân dân và khi bỏ phiếu phải xuất trình thẻ cử tri. Tổ bầu cử phải có nhiệm vụ phân định rõ ràng việc cử tri đã đi bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân. Để thực hiện được điều này, cần có hướng dẫn thống nhất trên mỗi thẻ cử tri phải có các mục về bầu cử đại biểu Quốc hội và mục về bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân để Tổ
  • 33. 26 bầu cử đóng dấu xác định. Thời điểm kết thúc cuộc bỏ phiếu sớm cũng cần có sự thống nhất giữa hai luật về bầu cử. Luật bầu cử đại biểu Quốc hội hiện hành không quy định thời điểm kết thúc cuộc bỏ phiếu sớm trong khi đó Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân hiện hành quy định cụ thể khu vực bỏ phiếu nào đã có một trăm phần trăm số cử tri đi bầu thì Tổ bầu cử đó có thể kết thúc cuộc bỏ phiếu sớm hơn. Vì vậy, phải có sự thống nhất theo quy định của Luật bầu cử Hội đồng nhân dân đảm bảo sự chủ động cho các Tổ bầu cử trong việc quyết định kết thúc cuộc bỏ phiếu sớm. Thời gian bắt đầu và kết thúc cuộc bỏ phiếu trong Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thể hiện không thống nhất về thuật ngữ. Đối với các trường hợp ngoại lệ theo tình hình địa phương, thì thời gian Tổ bầu cử cho quyết định kết thúc muộn hơn được quy định tại hai luật về bầu cử lại khác nhau nên trong cuộc bầu cử chung cần phải có sự thống nhất về thời điểm bắt đầu và kết thúc cuộc bỏ phiếu. Vấn đề thời hạn niêm yết danh sách cử tri và việc khiếu nại, giải quyết khiếu nại về danh sách cử tri Tại khu vực bỏ phiếu đối với cả bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thì chỉ có một danh sách cử tri. Tuy nhiên, việc quy định thời hạn niêm yết danh sách cử tri và việc khiếu nại, giải quyết khiếu nại về danh sách cử tri lại khác nhau. Luật bầu cử Quốc hội quy định thời hạn niêm yết danh sách cử tri là 30 ngày trước ngày bầu cử, trong khi đó, Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân lại quy định thời hạn này là 35 ngày. Thời hạn phát hiện sai sót và khiếu nại với cơ quan lập danh sách đối với Luật bầu cử đại biểu Quốc hội là trong vòng 20 ngày kể từ ngày niêm yết danh sách cử tri và các tố cáo, kiến nghị đó được giải quyết trong vòng 3 ngày kể từ ngày nhận khiếu nại, tố cáo. Đối với Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thì thời hạn này lần lượt là 25 và 5 ngày. Mỗi khu vực bỏ phiếu chỉ có một danh sách cử tri nên quy định về thời hạn liên quan đến danh sách cử tri đòi hỏi phải có sự thống nhất giữa hai luật. Về quy trình hoãn ngày bỏ phiếu hoặc bỏ phiếu sớm hơn ngày quy định
  • 34. 27 Trong thực tế các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân có trường hợp đặc biệt cần phải hoãn ngày bỏ phiếu hoặc bỏ phiếu sớm hơn ngày quy định. Với luật bầu cử đại biểu Quốc hội quy định “Ban bầu cử sau khi lấy ý kiến của Tổ bầu cử phải kịp thời báo cáo các tổ chức phụ trách bầu cử cấp trên biết để đề nghị Hội đồng bầu cử xem xét, quyết định”. Trong khi đó, Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân lại quy định “Tổ bầu cử phải kịp thời báo cáo Ban bầu cử biết để đề nghị Hội đồng bầu cử trình cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định”. Như vậy, đối với bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân vẫn chưa xác định cụ thể cơ quan có thẩm quyền xem xét quyết định. Nếu áp dụng quy trình này theo Luật bầu cử đại biểu Quốc hội thì cũng không hợp lý vì Hội đồng bầu cử đối với bầu cử đại biểu Quốc hội chỉ có một, nhưng đối với bầu cử Hội đồng nhân dân thì lại có tới 3 tổ chức Hội đồng bầu cử ở các cấp. Vì vậy, với cùng một việc, cùng một đối tượng điều chỉnh cần phải có sự thống nhất về quy trình để tạo sự thuận lợi, thông suốt trong quá trình triển khai. Để thực hiện được điều này cần phải có sự thống nhất, phân công, phân nhiệm rõ ràng giữa các tổ chức phụ trách bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân. Việc lập biên bản kết quả kiểm phiếu của Tổ bầu cử Lập biên bản kết quả kiểm phiếu là nhiệm vụ của các Tổ bầu cử phải thực hiện sau khi kiểm phiếu xong. Tuy nhiên về các thông tin trong biên bản kiểm phiếu của Tổ bầu cử lại khác nhau giữa Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân. Thực tế cho thấy việc lập biên bản kết quả kiểm phiếu là công việc đòi hỏi sự chính xác cao, lại phải hoàn thành trong ba ngày sau ngày bầu cử đối với các Tổ bầu cử nên các thông tin cần thiết trong biên bản phải đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện đối với các thành viên Tổ bầu cử. Vì vậy, với riêng thông tin “tỷ lệ cử tri đã tham gia bỏ phiếu so với tổng số cử tri” như yêu cầu của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội lại là một vấn đề phức tạp đối với các thành viên Tổ bầu cử khi phải tính đúng tỷ lệ này. Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân lại quy định đơn giản hơn khi chỉ yêu cầu thông tin về
  • 35. 28 “số phiếu phát ra; số phiếu thu về” bên cạnh các thông tin chung khác. Ngoài ra, quy định các cơ quan nhận biên bản kiểm phiếu từ Tổ bầu cử gửi đến cũng không thống nhất giữa hai luật về bầu cử. Luật bầu cử đại biểu Quốc hội quy định Tổ bầu cử phải gửi biên bản kiểm phiếu tới 4 đơn vị, trong khi đó Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân quy định chỉ gửi biên bản kiểm phiếu tới 3 đơn vị là Ban bầu cử, Ủy ban nhân dân, Ban Thường trực Ủy ban mặt trận tổ quốc Việt Nam xã, phường, thị trấn mà không gửi đến Chủ tịch Hội đồng nhân dân. Điều này cũng phù hợp với thực tế vì Hội đồng nhân dân làm việc theo chế độ tập thể quyết định theo đa số tại các kỳ họp. Vì vậy, nếu biên bản kiểm phiếu gửi đến Chủ tịch Hội đồng nhân dân thì cũng không thể hiện rõ mục đích của hành động này. Trong điều kiện bầu cử đồng thời đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thì quy định về nội dung biên bản kiểm phiếu phải được thể hiện thống nhất. 2.1.4. Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân sửa đổi, bổ sung năm 2010 qua thực tiễn áp dụng Từ những vấn đề pháp lý đặt ra khi tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cùng thời điểm như đã nêu ở trên, năm 2010 Quốc hội tiến hành sửa đổi, bổ sung Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân. Theo đó, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân sửa đổi, bổ sung tập trung sửa đổi một số vấn đề liên quan đến công tác tổ chức bầu cử. Cụ thể những điểm sửa đổi cơ bản là: Điều 12 của Luật bầu cử ĐBQH, Điều 13 của Luật bầu cử đại biểu HĐND sửa đổi quy định về khu vực bỏ phiếu và số lượng cử tri trong mỗi khu vực bỏ phiếu. Luật sửa đổi, bổ sung quy định về số lượng cử tri tại mỗi khu vực bỏ phiếu và quy định khu vực bỏ phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội đồng thời là khu vực bỏ phiếu bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Số lượng cử tri tại mỗi khu vực bỏ phiếu được sửa đổi thống nhất từ ba trăm đến bốn nghìn cử tri. Với số lượng cử tri tại mỗi khu vực bỏ phiếu được quy định với biên độ dao động từ
  • 36. 29 ba trăm đến bốn nghìn cử tri sẽ vẫn bảo đảm thuận lợi cho việc bỏ phiếu của cử tri cũng như việc thành lập các khu vực bỏ phiếu; đồng thời cũng không gây quá tải về công việc đối với các Tổ bầu cử trong điều kiện đã tăng số lượng thành viên tại mỗi Tổ bầu cử. Đối với những địa bàn và đơn vị có đặc thù riêng sẽ tùy thuộc vào số lượng cử tri và điều kiện cụ thể mà các cơ quan có thẩm quyền sẽ thành lập khu vực bỏ phiếu riêng hoặc phối hợp với các nơi khác thành lập khu vực bỏ phiếu chung nhằm bảo đảm thuận lợi nhất cho cử tri đi bầu cử. Đối với những nơi không có đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn thì việc chia khu vực bỏ phiếu do Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quyết định. Về các tổ chức phụ trách bầu cử (Điều 14 của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và Điều 15a của Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân), theo đó Hội đồng bầu cử được gọi chung là Hội đồng bầu cử Trung ương, vì chỉ có duy nhất một Hội đồng bầu cử nên không phải đổi tên. Về các tổ chức phụ trách bầu cử ở địa phương, trong điều kiện bầu cử chung và thống nhất về tổ chức của một số tổ chức phụ trách bầu cử, Luật sửa đổi, bổ sung đã giao cho Ủy ban nhân dân là cơ quan chủ trì thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử ở địa phương để đảm bảo tính thống nhất trong toàn quốc về cơ quan chủ trì thành lập tổ chức phụ trách bầu cử (vì Ủy ban nhân dân có đầy đủ ở cả ba cấp; trong khi đó, ở các địa phương đang thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường sẽ không có Thường trực Hội đồng nhân dân). Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, Điều 15 Luật bầu cử đại biểu Quốc hội, Điều 16 Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân đã được sửa đổi, bổ sung. Theo đó, luật sửa đổi, bổ sung đã thành lập Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh để thay thế và thực hiện chung nhiệm vụ, quyền hạn của cả Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh. Các Hội đồng bầu
  • 37. 30 cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện, cấp xã cũng được đổi tên tương ứng thành Ủy ban bầu cử (Điều 15 Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân sửa đổi, bổ sung). Điều 16 và 82 của Luật bầu cử ĐBQH, khoản 1 Điều 17 và Điều 70 của Luật bầu cử đại biểu HĐND sửa đổi quy định về Ban bầu cử, theo đó luật đã sửa đổi về cơ quan chủ trì thành lập, thành phần Ban bầu cử đại biểu Quốc hội nhằm bảo đảm tính thống nhất với việc thành lập tổ chức phụ trách bầu cử ở cấp tỉnh và cấp xã. Điều 17 và Điều 83 của Luật bầu cử ĐBQH, Điều 18 và Điều 71 của Luật bầu cử đại biểu HĐND cũng sửa đổi quy định về Tổ bầu cử. Theo đó, đã quy định Tổ bầu cử đồng thời thực hiện công tác bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã tại cùng một khu vực bỏ phiếu. Tổ bầu cử sẽ được tăng thêm số lượng thành viên. Sửa đổi thống nhất quy định về cơ quan chủ trì thành lập, thành phần và số lượng thành viên của Tổ bầu cử (từ 11 đến 21 người). Điều 46 của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội cũng đã sửa đổi, bổ sung quy định về số người ứng cử ở mỗi đơn vị bầu cử đại biểu Quốc hội theo hướng “Số người trong danh sách ứng cử đại biểu Quốc hội ở mỗi đơn vị bầu cử phải nhiều hơn số đại biểu được bầu ở đơn vị đó; nếu đơn vị bầu cử đó được bầu ba đại biểu thì số người trong danh sách ứng cử phải nhiều hơn số đại biểu được bầu ít nhất là hai người. Trong trường hợp khuyết người ứng cử vì lý do bất khả kháng thì do Hội đồng bầu cử quyết định”. Quy định về số dư trong Luật sửa đổi, bổ sung là quy định chung cho tất cả những người ứng cử ở đơn vị bầu cử đó mà không phân biệt ứng cử viên do trung ương hay địa phương giới thiệu. Trường hợp khuyết người ứng cử trong những trường hợp nêu trên thì Hội đồng bầu cử có thể quyết định chọn người có tín nhiệm cao nhất trong số những người còn lại ở danh sách đã hiệp thương lần thứ ba để đưa vào danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội hoặc quyết định điều chuyển người ứng cử ở đơn vị bầu cử khác trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc quyết định giảm số đại biểu được bầu ở đơn vị bầu cử đó.
  • 38. 31 Điều 57 của Luật bầu cử ĐBQH, Điều 48 của Luật bầu cử đại biểu HĐND đã sửa đổi quy định về thời gian bầu cử. Trong điều kiện bầu cử chung cả đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân thì quy định tại hai Luật bầu cử về kết thúc sớm cuộc bầu cử không còn phù hợp. Vì vậy, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều bỏ quy định về kết thúc cuộc bỏ phiếu sớm hơn ở những khu vực bỏ phiếu đã có 100% cử tri đi bầu tại Điều 48 của Luật bầu cử đại biểu HĐND và giữ nguyên quy định tại Điều 57 của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội. Điều 55 của Luật bầu cử đại biểu, Điều 54 của Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân sửa đổi quy định về trường hợp hoãn hoặc bỏ phiếu sớm hơn ngày quy định, theo đó trường hợp đặc biệt cần hoãn ngày bỏ phiếu hoặc bỏ phiếu sớm hơn ngày quy định thì Tổ bầu cử phải kịp thời báo cáo Ban bầu cử để đề nghị Ủy ban bầu cử trình Hội đồng bầu cử xem xét, quyết định. 2.2 Thực trạng áp dụng pháp luật về bầu cử trong thời gian qua Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân qua các lần sửa đổi, bổ sung là cơ sở pháp lý quan trọng để tiến hành các cuộc bầu cử trong thời gian qua. Qua các lần sửa đổi, bổ sung, hai luật này ngày dần được hoàn thiện, những bất cập, hạn chế trong luật dần được khắc phục nhằm phù hợp hơn với tình hình thực tiễn, góp phần làm nên thành công của các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thời gian qua. Tuy nhiên, do tính chất phức tạp của công tác bầu cử và các nội dung các quy định của luật bầu cử có liên quan đến tương đối nhiều các văn bản pháp luật khác nên mặc dù đã được nghiên cứu, sửa đổi bổ sung nhiều lần nhưng trên thực tế mới chỉ dừng lại ở việc sửa đổi những vấn đề nhỏ, chủ yếu mang tính kỹ thuật, những vấn đề cơ bản, cốt lõi của các quy định vẫn chưa được sửa đổi, bổ sung một cách đầy đủ, toàn diện nên qua thực tiễn áp dụng còn bộc lộ khá nhiều bất cập, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân. Những tồn tại đó thể hiện ở một số vấn đề cụ thể sau đây:
  • 39. 32 2.2.1. Về tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân Đối với đại biểu Quốc hội Theo quy định tại Điều 2, và Điều 3 luật bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1997 (sửa đổi, bổ sung năm 2000 và năm 2010) thì đại biểu Quốc hội phải có các điều kiện và tiêu chuẩn sau: Về điều kiện, người muốn ứng cử đại biểu Quốc hội phải là công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên đều có quyền ứng cử đại biểu Quốc hội theo quy định của pháp luật. Điều 3 của Luật này quy định đại biểu Quốc hội có 5 tiêu chuẩn sau đây: Trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phấn đấu thực hiện công cuộc đổi mới, vì sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; Có phẩm chất đạo đức tốt, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, gương mẫu chấp hành pháp luật; kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng và các hành vi vi phạm pháp luật; Có trình độ và năng lực thực hiện nhiệm vụ đại biểu Quốc hội, tham gia quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước; Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, được nhân dân tín nhiệm; Có điều kiện tham gia các hoạt động của Quốc hội. Đối với đại biểu Hội đồng nhân dân Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2003 (sửa đổi, bổ sung năm 2010) quy định các điều kiện và tiêu chuẩn sau đây: Về điều kiện, Đại biểu Hội đồng nhân dân phải là “công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ
  • 40. 33 mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật”. Về tiêu chuẩn, Điều 3 của Luật này quy định đại biểu Hội đồng nhân dân phải có 5 tiêu chuẩn sau đây: Trung thành với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, phấn đấu thực hiện công cuộc đổi mới đất nước và xây dựng, phát triển địa phương; Có phẩm chất đạo đức tốt, gương mẫu chấp hành pháp luật, tích cực đấu tranh chống mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng, lãng phí và các hành vi vi phạm pháp luật khác, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; Có trình độ và năng lực thực hiện nhiệm vụ đại biểu Hội đồng nhân dân, có khả năng tuyên truyền, vận động gia đình và nhân dân thực hiện chính sách, pháp luật; am hiểu tình hình kinh tế - xã hội để tham gia quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương; Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, được nhân dân tín nhiệm; Có điều kiện tham gia các hoạt động của Hội đồng nhân dân. Qua quy định về điều kiện và 5 tiêu chuẩn về đại biểu Quốc hội và 5 tiêu chuẩn về đại biểu Hội đồng nhân dân cho thấy, các quy định này rất chung chung, không cụ thể, thiếu định lượng. Những điều kiện, tiêu chuẩn như: Trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp… Có phẩm chất đạo đức tốt… Có trình độ và năng lực… liên hệ chặt chẽ với nhân dân… Có điều kiện tham gia các hoạt động của Quốc hội, Hội đồng nhân dân là những quy định vừa dễ và vừa rất khó để căn cứ lựa chọn được những ứng cử viên làm đại biểu Quốc hội hoặc đại biểu Hội đồng nhân dân bảo đảm chất lượng, trong khi đó đối tượng được quyền ứng cử và đề cử làm đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân thì lại rất rộng, chỉ cần từ 21 tuổi trở lên là có thể được xem xét đưa vào danh sách ứng cử viên để cử tri bầu. Trên thực tế triển khai lựa chọn ứng cử viên đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân thì những câu hỏi như: thế nào là trung thành với tổ quốc, thế nào là có phẩm chất đạo đức tốt, thế nào là có điều kiện tham gia hoạt động của
  • 41. 34 Quốc hội, hoạt động của Hội đồng nhân dân hay thế nào là có trình độ và năng lực thực hiện nhiệm vụ đại biểu Quốc hội… là những câu hỏi có rất nhiều đáp án trả lời, tùy thuộc rất lớn vào người làm công tác phụ trách bầu cử, thực tế này vừa gây nên tình trạng thiếu chặt chẽ trong thẩm định về tiêu chuẩn ứng cử viên, vừa gây nên sự tùy tiện trong việc lựa chọn ứng cử viên, làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng đầu vào của đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân. Đơn cử một ví dụ về trình độ và năng lực của ứng cử viên đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân: Một người mới tốt nghiệp đại học cũng là người có trình độ, nhưng cũng không ai phủ nhận là người đó không có năng lực mặc dù họ chỉ mới ra trường; ngược lại một người không có trình độ đại học nhưng đã có thời gian làm việc thực tiễn lâu năm và năng lực làm việc rất tốt nhưng liệu họ có thể được ưu tiên lựa chọn hay không nếu xét cùng với người có trình độ đại học hoặc trên đại học, điều này luật không quy định nên rất khó để lựa chọn cho đúng, chưa nói đến trong những điều kiện cụ thể phải đảm bảo cơ cấu, thì rất có thể người trình độ, năng lực hạn chế hơn lại trúng cử. Trước đây, khi Quốc hội còn hoạt động chưa thực sự đi vào thực chất và chất lượng của nền giáo dục còn hạn chế thì trong một chừng mực nhất định còn có tâm lý chấp nhận thực tế này, tuy nhiên hiện nay, trước yêu cầu đổi mới tăng cường hiệu quả hoạt động của Quốc hội, Hội đồng nhân dân hướng tới ngày càng đi vào thực chất hơn và thành quả của nền giáo dục, đào tạo hiện nay đã có những bước tiến tương đối dài thì các quy định về điều kiện, tiêu chuẩn của đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cần được quy định đầy đủ, cụ thể và chặt chẽ hơn. Nhất thiết đòi hỏi phải có những quy định người ứng cử phải đạt đến một trình độ văn hóa như thế nào, nghiệp vụ chuyên môn phải đạt ở tầm nào thì mới được ứng cử (trong các khóa Quốc hội gần đây, xu hướng nâng cao trình độ học vấn là khá rõ (khóa IX mới có 67% đại biểu có trình độ đại học trở lên, thì khóa XI là 93,31% và khóa XII đã lên tới gần 96%, ba khóa liền - từ khóa X đến khóa XII và khóa XIII không có đại biểu nào chỉ đạt trình độ văn hóa phổ thông cơ sở trở xuống). Có như vậy mới nâng cao được chất lượng hoạt động của đại biểu Quốc hội và
  • 42. 35 đại biểu Hội đồng nhân dân, hiệu quả hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân mới thực sự đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Về đổi mới quy trình hiệp thương, cần tiến hành sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội theo hướng chia nhỏ các bước của quy trình này. Trên cơ sở số lượng, cơ cấu, thành phần đại biểu Quốc hội do Uỷ ban thường vụ Quốc hội phân bổ cho các cơ quan, đơn vị ở trung ương và các địa phương, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc các cấp tiến hành các vòng hiệp thương lựa chọn người ứng cử theo từng cơ cấu. Theo cách này, việc lựa chọn người ứng cử cho một cơ cấu nào cũng phải trải qua sự tuyển chọn rộng rãi của cơ cấu đó. Ví dụ: Để lựa chọn một cơ cấu là người dân tộc thiểu số, nữ, có trình độ đại học…(cơ cấu kết hợp), thì trước hết, cần tiến hành các vòng chọn lựa rộng rãi của dân tộc thiểu số đó trong phạm vi cả nước theo cấp độ từ rộng đến hẹp, để cuối cùng chọn cho được một số người đảm bảo cho cả tiêu chuẩn và cơ cấu. Mặt khác, khi giới thiệu người ứng cử cho một cơ cấu nào đó, cần có số lượng phù hợp để khi đưa ra bầu, cử tri có điều kiện lựa chọn ai thật sự xứng đáng hơn. Bên cạnh việc đổi mới quy trình hiệp thương, lựa chọn người ứng cử đại biểu Quốc hội, cần có hình thức vận động bầu cử phù hợp với nền dân chủ và truyền thống văn hoá dân tộc để những người ứng cử đại biểu Quốc hội đưa ra chương trình hành động của mình và để cử tri có điều kiện so sánh, đánh giá năng lực đại biểu và đối chiếu giữa chương trình người ứng cử đã hứa với việc làm của họ khi trúng cử đại biểu Quốc hội. 2.2.2. Về quyền bầu cử, quyền ứng cử Quyền bầu cử, ứng cử là các quyền chính trị - pháp lý cơ bản của công dân. Phạm vi và điều kiện thực hiện quyền bầu cử, ứng cử là tiêu chí đánh giá bản chất dân chủ ở mỗi quốc gia. Pháp luật bầu cử của các nước trên thế giới đều có các quy định về các quyền này trên cơ sở xác định hai vấn đề chủ yếu là độ tuổi và năng lực hành vi của công dân. Theo thống kê của Liên minh Quốc hội thế giới năm 1993, có 109 trong số 150 quốc gia được khảo sát đều quy định