SlideShare a Scribd company logo
1 of 113
Download to read offline
Khóa luận tốt nghiệp




         TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI




                  TÌM HIỂU VỀ “KHẮP”

CỦA NGƯỜI THÁI Ở HUYỆN MƯỜNG LA


                   KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
                    Chuyên ngành: Văn hoá các dân tộc thiểu số
                     Người thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga
                       Người hướng dẫn: Tiến sĩ Vi Văn An
                        Chỉnh lý: Tiến sĩ Phạm Việt Long




                               Hà Nội, năm 2011

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga                        1
Khóa luận tốt nghiệp




                                            LỜI CẢM ƠN

      Để hoàn thành khóa luận này, tôi xin gửi lời cảm ơn và lòng biết ơn sâu
sắc đến T.S Vi Văn An, người đã tận tình hướng dẫn trong suốt quá trình viết
khóa luận tốt nghiệp.

      Tôi xin chân thành cảm ơn quý Thầy, Cô trong khoa Văn hóa dân tộc thiểu
số, đã truyền đạt kiến thức và tạo điều kiện tốt nhất để tôi được học tập và
nghiên cứu tại Trường Đại học Văn hóa Hà Nội

     Tôi xin chân thành cảm ơn phòng Văn hóa huyện Mường La, các chuyên
gia, các nghệ nhân, đã giúp đỡ tôi thu thập những thông tin cần thiết để hoàn
thành khóa luận này.

       Tôi xin bày tỏ sự biết ơn chân thành tới gia đình, bạn bè và những người
thương yêu tôi, luôn bên tôi, giúp đỡ tôi về vật chất cũng như tinh thần trong
suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài.

        Vì điều kiện thời gian nghiên cứu có hạn, đề tài khó tránh khỏi sự thiếu
sót, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô và mọi người để đề
tài của tôi được hoàn thiện hơn và có ý nghĩa cả trong lý luận và thực tiễn

            Trân trọng cảm ơn!

                                              Hà Nội ngày 18 tháng 5 năm 2011

                                                         Sinh viên

                                                    Nguyễn Thị Thanh Nga




Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga                                       2
Khóa luận tốt nghiệp




                                            MỞ ĐẦU
        1. Lí do chọn đề tài
        Là một thành tố của văn hóa phi vật thể, dân ca đóng vai trò hết sức
  quan trọng trong đời sống tinh thần của người Thái Tây Bắc nói chung, của
  người Thái ở Mường La nói riêng.
        Nhờ sự phong phú, đa dạng về thể loại, nên dân ca đã góp phần tạo nên
  bản sắc văn hóa riêng của người Thái, góp phần không nhỏ vào kho tàng
  văn hóa văn hóa nghệ thuật của cả nước.
        Thật vậy, người ta đã tìm thấy trong dòng chảy văn hóa Thái nhiều bộ
  trường ca có giá trị như Táy Pú Xớc (kể về bước đường chinh chiến của ông
  cha), Quam tô mương (Kể chuyện bản mường), Phanh mường; những tác
  phẩm thơ khuyết danh như: Xống chụ xôn xao (tiễn dặn người yêu), Khun
  Lu nang Ủa (Chàng Lú-Nàng Ủa); nhiều điệu múa Thái nhịp nhàng uyển
  chuyển qua hình ảnh những cô gái trẻ trong bộ y phục tuyệt đẹp và các điệu
  “múa xòe” nổi tiếng. Các điệu dân vũ đã đạt tới trình độ nghệ thuật điêu
  luyện như: múa khăn, “múa nón, múa chèo thuyền, v.v.. Đặc biệt, là những
  làn điệu dân ca như “Khắp báo xao”, “Khắp chiêu”…luôn có mặt trong các
  cuộc vui hội hè và giữ vai trò chủ đạo tạo nên bầu không khí thanh bình,
  náo nhiệt của sinh hoạt cộng đồng. Từ lâu, “khắp” Thái đã gắn chặt với
  cuộc sống của người lao động. Dòng đời con người từ khi sinh ra, lớn lên
  cho đến khi nằm xuống, luôn có một dòng chảy dân ca như suối nguồn tưới
  mát. Dường như mỗi chặng đời người đều được đánh dấu bằng những thể
  loại dân ca riêng, hát trao vòng cho trẻ sơ sinh, hát đồng dao cho các em nhi
  đồng, thiếu niên, hát giao duyên nam nữ, hát đám cưới cho các lứa đôi, hát
  lên nhà mới cho những gia đình hạnh phúc. Vào lứa tuổi trung niên con
  người phải biết hát dân ca để tham gia sinh hoạt trong các ngày hội, ngày lễ
  cầu cúng của cả bản làng. Những người già thường yêu thích những buổi


Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga                                    3
Khóa luận tốt nghiệp




  hát kể chuyện cổ tích hay các anh hùng ca dân tộc. Và khi con người xế
  chiều mãn bóng thì được cả cộng đồng ca hát tiễn tới nơi an nghỉ cuối cùng.
  Có thể thấy hát Thái không còn là khu rừng biệt lập xa cách nữa mà đã gần
  gũi, quen thuộc từ lâu.
        Tuy nhiên, sự hiểu biết của chúng ta về các làn điệu dân ca Thái vẫn
  còn khiêm tốn. Còn khá nhiều làn điệu hát Thái ta mới chỉ được nghe tên và
  có không ít những làn điệu “khắp” của người Thái chỉ còn tồn tại trong ký
  ức của những người già.
        Mặc dù đã có một số công trình, bài viết đề cập đến dân ca Thái, song
  hầu như chưa có một công trình sưu tầm, nghiên cứu một cách có hệ thống,
  chuyên sâu về dân ca “khắp” của người Thái nói chung, người Thái ở
  Mường La nói riêng. Vì vậy, việc nghiên cứu về khắp Thái ở Mường La
  nhằm phát huy giá trị của loại hình dân ca này là hết sức cần thiết.
        Với những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Tìm hiểu về “khắp” của người
  Thái ở huyện Mường La” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
        2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
        Vấn đề văn nghệ dân gian của người Thái đã được đề cập đến trong
  một số công trình, nhưng do yêu cầu của công việc, mỗi người đã đứng ở
  mỗi góc độ, nên thành quả thu lại cũng khác nhau, mỗi công trình nghiên
  cứu có thể đề cập toàn diện văn hóa của người Thái, có những công trình
  chỉ đề cập đến một lĩnh vực trong văn hóa.
        Riêng về hát dân ca Thái, cho đến nay dường như mới chỉ được đề cập
  đến trong một số công trình nghiên cứu, nhưng chưa từng được giới thiệu
  trọn vẹn. Những bài dưới tên chung là Tản chụ xiết xương mới chỉ được
  trích in không nhiều. Hợp tuyển thơ văn Việt Nam phần văn học dân tộc
  thiểu số giới thiệu các bài Lành đồn xa, Ướm hỏi, Chung lứa chung nôi,
  Đời thanh xuân, Dặn dò trong số hơn một trăm bài ghi trong lời dẫn của


Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga                                   4
Khóa luận tốt nghiệp




  nhà xuất bản. Hợp tuyển còn in một số bài hát thách và một số bài Nam nữ
  đối ca… Gộp lại phần lời hát được giới thiệu trong Hợp tuyển tất cả khoảng
  500 câu. Trước khi hợp tuyển ra đời, trên tạp chí văn nghệ có lần in vài ba
  bài Tản chụ xiết xương. Ngoài ra, không còn ấn bản nào khác công bố về
  thể tài này. Về mặt âm nhạc, ngược lại, giáo sư, tiến sĩ khoa học Tô Ngọc
  Thanh đã in hàng loạt bài nghiên cứu giới thiệu có giá trị. Tô Ngọc Thanh
  còn là người đầu tiên giới thiệu về đồng dao Thái. Tạp chí Văn nghệ Tây
  Bắc năm 1974 còn công bố một số bài viết ngắn về Văn Hoan, một nhân vật
  đượm vẻ truyền thuyết, gắn với những hành trình dân ca đầy màu sắc và
  đậm dấu ấn tập quán dân tộc. Tuy nhiên, chúng ta thiếu hẳn những sưu tập
  hoàn chỉnh cần thiết về lời ca và sinh hoạt dân ca.
         Hạn khuống là một hình thức tổng hợp của văn nghệ dân gian Thái.
  Các tác giả Cầm Biêu, Sa Phong, Lò Văn Sĩ đều góp phần giới thiệu hình
  thức văn nghệ này. Đó là tất cả những gì nói về sinh hoạt văn nghệ dân gian
  Thái trong trạng thái nguyên hợp của nó. Tình hình giới thiệu, xuất bản vừa
  được điểm qua trên đây cho thấy cho đến nay chưa có công trình nào
  nghiên cứu một cách thấu đáo và hệ thống về “khắp” Thái. Đó vừa là thuận
  lợi nhưng cũng là khó khăn, thách thức đối với tôi khi nghiên cứu đề tài
  này.
         3. Mục đích nghiên cứu
         Việc nghiên cứu về “khắp” của người Thái ở huyện Mường La trước
  hết nhằm hệ thống lại các làn điệu khắp của người Thái, từ đó có cái nhìn
  tương đối đầy đủ, toàn diện về những đặc điểm nổi bật, độc đáo của những
  điệu“khắp” Thái. Đồng thời luận văn đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm
  bảo tồn và phát huy các giá trị bản sắc văn hóa truyền thống của người Thái
  ở huyện Mường La cùng hòa chung vào nền văn hóa Việt Nam “Tiên tiến
  đậm đà bản sắc dân tộc”.


Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga                                   5
Khóa luận tốt nghiệp




        4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
        Nói đến “khắp” là nói đến lĩnh vực văn hóa tinh thần, do vậy phạm vi
  khá rộng, song do khả năng có hạn, đề tài chỉ đi sâu nghiên cứu một số làn
  điệu “khắp” phổ biến của người Thái đen ở huyện Mường La.
        5. Phương pháp nghiên cứu
        −       Tra cứu tài liệu
        −       Xã hội học văn hóa
        −       Khảo sát thực tế
        −       Phương pháp phân tích, tổng hợp
        −       Phương pháp thống kê, phân loại
        6. Đóng góp của đề tài
        Nghiên cứu “khắp” Thái trong đời sống văn hoá dân gian của người
  Thái đen ở Mường La, nhằm giới thiệu một nét văn hoá đặc trưng vốn có
  trong dân gian nhưng chưa có nhiều công trình nghiên cứu về nó. Luận văn
  là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống về “khắp”của người
  Thái ở Mường La
        Trong quá trình nghiên cứu, qua khảo sát điền dã, tác giả đề tài đã thu
  thập được một số lượng những điệu “khắp” còn đang lưu truyền trong đời
  sống dân gian ở Mường La.
        Kết quả khảo sát thực tế trên là cơ sở khoa học để tác giả luận văn bước
  đầu đề xuất hướng bảo tồn và phát huy giữ gìn nét đẹp, bản sắc văn hoá dân
  tộc các dân tộc thiểu số Việt Nam đang bị mai một dần, bởi đây là một công
  việc cụ thể, có ý nghĩa cho những người có ý thức về sự hiện diện và vai trò
  của “khắp”.
        7. Bố cục của luận văn
        Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
  luận văn gồm 3 chương.


Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga                                     6
Khóa luận tốt nghiệp




        Chương 1. Khái quát về người Thái ở Mường La
        Chương 2. “Khắp” và các điệu “Khắp” của người Thái ở huyện Mường
  La
        Chương 3. “Khắp” trong đời sống xã hội của người Thái ở huyện
  Mường La




Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga                              7
Khóa luận tốt nghiệp




                                            Chương 1
                     KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI THÁI Ở MƯỜNG LA


        1.1.    Điều kiện tự nhiên và văn hóa xã hội
        1.1.1. Điều kiện tự nhiên
        - Vị trí địa lý
        Mường La là huyện miền núi của Sơn La, cách Thành phố Sơn La 41
  km về phía Đông Bắc, có toạ độ địa lý: 21015' - 21042' vĩ Độ Bắc; 103045' -
  104020' kinh độ Đông. Phía Bắc và phía Đông giáp tỉnh Lào Cai và Yên
  Bái; phía Đông Nam giáp huyện Bắc Yên; Phía Tây giáp huyện Quỳnh
  Nhai và huyện Thuận Châu; Phía Nam giáp huyện Mai Sơn và Thành phố
  Sơn La.
        Do vị trí địa lý như vậy, Mường La có nhiều điều kiện thuận lợi trong
  giao lưu văn hoá, trao đổi hàng hoá với các địa phương khác. Đây là những
  thế mạnh mà Đảng bộ, chính quyền địa phương đã xác định tập trung khai
  thác lợi thế trong thời gian tới.
        - Địa hình
        Huyện Mường La nằm ở độ cao trung bình từ 500- 700m so với mặt
  nước biển, phía Đông và phía Đông Bắc của huyện là những dãy núi cao,
  địa hình thấp dần về phía Nam và dọc theo 2 bờ sông Đà. . Sông Đà là sông
  lớn nhất chảy qua huyện. Một số sông suối lớn khác là Nậm Mu, Nậm
  Chiến, Nậm Trai, Nậm Pàn, Nậm Pia. Khi đập thủy điện Sơn La được hoàn
  thành, hồ thủy điện Sơn La sẽ chiếm một phần không nhỏ diện tích toàn
  huyện.
        - Khí hậu
        Mường La có khí hậu nhiệt độ gió mùa, khí hậu trong năm chia làm 2
  mùa rõ rệt. Mùa mưa kéo dài từ tháng 4 đến tháng 9, vào mùa mưa thường


Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga                                   8
Khóa luận tốt nghiệp




  kèm theo lốc và lũ quét tại các sông suối đầu nguồn. Mùa khô chịu ảnh
  hưởng của gió Tây Nam, gió mùa Đông Bắc và khí hậu tiểu vùng sông Đà,
  mùa khô bắt đầu từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau. Nhiệt độ trung bình hàng
  năm từ 20-260C, lượng mưa bình quân là 1.347mm/năm, độ ẩm trung bình
  là 85%.
        - Đất đai
        Huyện Mường La có tổng diện tích đất tự nhiên là 142,205.00 ha (theo
  tống kiểm kê đất đai năm 2005), hầu hết là rừng núi (chiếm hơn 90% diện
  tích). Trong đó diện tích đất nông nghiệp là 89.792 ha, chiếm 63,14% tổng
  diện tích đất tự nhiên của huyện; diện tích đất phi nông nghiệp (đất ở và đất
  chuyên dùng) là 3.725 ha chiếm 2,6%; diện tích đất chưa sử dụng là 48.844
  ha chiếm 34,34%, diện tích này chủ yếu là đối núi chưa sử dụng với 38.154
  ha, trên diện tích này chủ yếu là thảm thực vật xen cây lùn, còn lại 10.69 ha
  là núi đá không rừng cây.
        - Hệ thống thủy văn
        Trên địa bàn có sông Đà chảy qua theo hướng Tây Bắc-Đông Nam, với
  tổng chiều dài 50km. Có 5 con suối lớn là suối Nậm Mu, Nậm Chiến, Nậm
  Trai, Nậm Pàn, Nậm Pia chảy qua với chiều dài 200km và nhiều con suổi
  nhỏ rải rác trong toàn huyện. Hệ thống sông suối ở đây nhiều thác ghềnh
  đều chảy trên các sườn dốc, dồn nước vào các thung lũng hẹp, đổ ra sông
  suối lớn, nên chế độ dòng chảy rất thất thường gây khó khăn cho thuyền bè
  đi lại trên sông, nhất là vào mùa nước lũ . Nhưng cũng vì thế mà chúng đã
  tạo ra một nguồn năng lượng sức nước vô tận phát triển thủy điện. Hiện
  nay, trên địa bàn huyện đã và đang xây dựng 13 công trình thuỷ điện lớn,
  vừa và nhỏ. Tổng công suất khoảng 3.200MW, trong đó thuỷ điện Sơn La
  là công trình thuỷ điện lớn nhất nước ta.
        - Giao thông


Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga                                    9
Khóa luận tốt nghiệp




        Đến nay huyện đã có 16/16 xã có đường ô tô đến trung tâm xã, nhưng
  do địa hình hơn 90% là đồi núi nên việc đi lại còn gặp rất nhiều khó khăn.
  Đường giao thông liên bản hầu như chưa có, việc đi lại giữa các bản chủ
  yếu là dùng ngựa hoặc đi bộ trên những con đường mòn nhỏ. Vào mùa mưa
  việc đi lại của bà con còn gặp nhiều khó khăn hơn, nhiều khi không đi được
  vì đường bị sạt lở, các rãnh nước từ khe núi chảy ra làm chia cắt, ngập
  đường. Riêng hệ thống giao thông khu trung tâm huyện khá phát triển, bao
  gồm đường thủy, đường hàng không, đặc biệt là mạng lưới giao thông
  đường bộ bao gồm các tuyến đường vào nhà máy, đường vào các khu mỏ
  khai thác, tuyến đường 106, các tuyến nội thị…đều được hoàn thiện theo
  tiêu chuẩn, chủ yếu là đường nhựa, đường bê tông và cấp phối phục vụ phát
  triển kinh tế - xã hội của địa phương. Với phương châm “Nhà nước và nhân
  dân cùng làm” các tuyến đường liên xã, liên bản, đến các điểm tái định cư
  thủy điện Sơn La được đầu tư xây dựng, góp phần thúc đẩy phát triển nông
  nghiệp, nông thôn.
        Có thế thấy, với địa hình núi cao, sông rộng, nhiều suối, có đường thuỷ,
  đường bộ và đường không nên Mường La có vị trí chiến lược về kinh tế,
  chính trị, quân sự quan trọng trong khu vực Tây Bắc nói chung. Được đánh
  giá là huyện giàu tiềm năng về đất đai, môi trường, tài nguyên, trong đó có
  thế mạnh là phát triển thuỷ lợi và thuỷ điện. Tuy có nhiều tiềm năng nhưng
  Mường La vẫn có tên trong danh sách 5 huyện nghèo của tỉnh Sơn La do
  phải đối mặt với những khó khăn như: địa bàn rộng, giao thông đi lại khó
  khăn, xuất phát điểm của nền kinh tế thấp; tập quán canh tác lạc hậu, các tệ
  nạn xã hội diễn biến phức tạp, nhất là khi tiếp nhận thêm gần 1 vạn công
  nhân đến làm việc trên công trường Nhà máy thuỷ điện Sơn La.
        1.1.2. Điều kiện văn hóa xã hội
        - Các đơn vị hành chính


Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga                                     10
Khóa luận tốt nghiệp




        Toàn huyện có 16 đơn vị hành chính, gồm 01 thị trấn là thị trấn Ít Ong
  và các xã: Chiềng Hoa, Tạ Bú, Mường Chùm, Chiềng San, Nậm Păm, Pi
  Toong, Mường Bú, Hua Trai, Chiềng Lao, Nậm Giôn, Mường Trai, Chiềng
  Muôn, Chiềng Ân, Chiềng Công, Ngọc Chiến. Trong đó có 7 xã thuộc diện
  xã đặc biệt khó khăn, nằm trong Chương trình 135 giai đoạn II là các xã:
  Chiềng Lao, Nậm Giôn, Mường Trai, Chiềng Muôn, Chiềng Ân, Chiềng
  Công, Ngọc Chiến.

        - Dân số, dân tộc
        Theo số liệu thống kê, tính đến cuối năm 2009, dân số toàn huyện là
  16.449 hộ với 85.974 nhân khẩu. Trong đó số dân của huyện là 79.779
  người, còn lại là công nhân phục vụ thủy điện Sơn La. Mật độ dân số bình
  quân 60 người/km2 với tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 1,86%.
        Về dân tộc, toàn huyện có 6 dân tộc anh em cùng chung sống, bao gồm:
  dân tộc Thái chiếm 63,21%; Mông 16,98%; Kinh 12,65%; La Ha 5,91%;
  Kháng 0,93%; Khơ Mú 0,32%.
        Cũng như nhiều vùng khác của Tây Bắc, các dân tộc ở Mường La chủ
  yếu phân bố như sau:
        Người Thái tập trung tại vùng thấp, dọc sông suối, có cánh đồng rộng.
  Sinh sông chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước, cây hoa màu trên nương và
  đánh bắt thuỷ sản. Người La Ha, Kháng, Khơ Mú sinh sống ở rẻo giữa bằng
  nghề làm nương, thu hái lâm sản. Người Mông sống ở vùng cao bằng nghề
  trồng cây trên nương là chủ yếu
        Người La Ha không dệt vải mà chỉ trồng bông đem đổi với người Thái
  để lấy quần áo mặc nên trang phục của người La Ha tương tự như trang
  phục của người Thái đen.
        - Giáo dục, y tế




Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga                                   11
Khóa luận tốt nghiệp




        Về giáo dục, huyện luôn giữ vững kết quả phổ cập giáo dục tiểu học
  đúng độ tuổi và phổ cập giáo dục trung học cơ sở và xây dựng 13 trường
  học đạt chuẩn quốc gia.
        Trong công tác y tế tương tự như nhiều vùng núi, dân tộc trong cả
  nước, hệ thống y tế của huyện Mường La bao gồm: bệnh viện huyện, bác
  sĩ..Đối với từng xã trong huyện đã có đủ trạm y tế xã, nhân viên y tế thôn
  và y tế tư nhân (rất ít). Trong đó bệnh viện huyện à đơn vị có vai trò chính
  trong việc quản lý và chăm sóc sức khoẻ cho người dân trong huyện
        - Các đặc điểm văn hóa
        Là huyện miền núi có nhiều dân tộc anh em sinh sống (trong đó người
  Thái chiếm đa số nhưng chủ yếu là Thái đen). Mỗi dân tộc đều có những
  bản sắc văn hóa riêng nhưng các nền văn hoá đó không độc lập tồn tại
  (trong cái chung có cái riêng) mà hoà quyện, bổ trợ lẫn nhau tạo nên một
  văn hóa mang đậm đà bản sắc dân tộc.
        Nhìn chung đồng bào các dân tộc trong huyện đều có chung truyền
  thống: dũng cảm, cần cù, sáng tạo trong lao động, có tinh thần yêu nước,
  ngoan cường đấu tranh chống áp bức, bóc lột, tính tình thật thà, chất phác,
  ưa phóng khoáng, rộng lượng và rất mến khách. Không những vậy, nhân
  dân trong huyện còn có tinh thần đoàn kết và tính cộng đồng cao : “Tuy
  khác bản nhưng chung mường; ở khác phương nhưng chung vùng; ở mỗi
  người một khe suối nhưng chung một vận mệnh” (ca dao Thái).
        1.2. Khát quát về người Thái ở huyện Mường La
        1.2.1. Tên gọi, dân số và sự phân bố
        Người Thái Mường La tự gọi mình là Phủ Tay hay Côn Tay đều có
  nghĩa là người. Người Thái ở Mường La thuộc ngành Thái Đen.




Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga                                   12
Khóa luận tốt nghiệp




        Huyện Mường La trước đây rộng: 1.421,0 km2, dân số: 67,294 người,
  trong đó: Thái: 48,969 người (1999). Hiện nay, người Thái ở huyện Mường
  La có 54.344 người, chiếm 63,21% dân số toàn huyện.
        Tên Mường La xuất hiện từ thế kỷ XII. Đó là tên đông nghĩa với tên
  Mường Lò. Theo Quam tô mương (Kể chuyện bản mường) của người
  Mường La nói: khi Lạng Chượng đưa người Thái tới Mường La, đã dựng
  nhà để cúng tổ tiên tại nơi trung tâm “ mường”.Ngày cúng tổ tiên họ Lò
  ( họ quý tộc) là ngày “hài” ( tức ngày bính) nên đặt địa điểm dựng nhà cúng
  đó là bản hài. Nay xác định đó là bản Hài thuộc xã Chiềng An huyện
  Mường La. Xưa kia vì bản Hài là trung tâm châu Mường nên gọi là “Viềng
  hài”.
        Trung tâm châu mường gọi là Chiềng An nên tên châu mường cũng gọi
  là Chiềng An. Những “ mường nhỏ” thuộc phạm vi châu mường có: Mường
  Trai hay Chiêng Nghiêm, Mường Bú hay Chiềng Biên, Mường Chùm,
  Mường Chiến. Theo Quam tô mương, khoảng thế kỷ XV sau đời Ta Ngần ở
  Mường La có Duông Căm làm thủ lĩnh, Mường La bắt đầu dần dần phát
  triển thế lực. đên khoảng thế kỷ XVII đời thủ lĩnh Bun Pành, Mường La
  tách hẳn khỏi Mường Muội thành châu mường lớn mạnh. Bước sang thế kỷ
  XVIII đời thủ lĩnh Bun Phanh, Mường La đã trở thành châu mường có ảnh
  hưởng khắp vùng “ Mười sáu châu Thái”.
        Khoảng thời Lê mạt, Mường La được Trinh Sâm đặt là châu Sơn La.
  Như vậy thế kỷ XVIII triều đinh cũng xác nhận Mường La là một châu
  mường tách khỏi ảnh hưởng của Mường Muổi (Thuận Châu).
        Hiện nay, Mường la vẫn là huyện thuộc tỉnh Sơn La. Tại huyện có thị
  xã Sơn La.
        1.2.2. Nguồn gốc của người Thái




Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga                                  13
Khóa luận tốt nghiệp




           Theo Quam tô mương Mường La: người Thái đã có mặt ở Mường La từ
      ngàn năm nay. Họ là người Thái đen, có nguồn gốc xa xưa từ Mường Ôm,
      Mường Ai (thuộc tỉnh Vân Nam Trung Quốc), từ thời ông Lạng Chượng
      dẫn đoàn người Thái đen từ Mường Lò đi mở mang bờ cõi. Khi ông vượt
      qua đèo Khâu Pha, (có nghĩa là sừng trời, thuộc huyện Mù Cang Chải, Yên
      Bái), ngược theo con suối, thấy một vùng đất rộng và tốt, sơn thuỷ hữu tình.
      Ông cho xây bản lập mường ở đây. Nhưng không thấy một người bản địa
      nào sống ở đây cả, nên ông mới gọi mường này là Mường Lạ (mường trống
      không), những người đời sau gọi chệch thành Mường La. Sau này ông mới
      biết những người dân bản địa đã chốn vào một khu rừng rậm rạp gọi là
      Đông Mệt (gần nghĩa với rừng bí mật, nay vẫn còn địa danh này). Ông cho
      đặt chiềng(1) tại khu đất có núi đá bao quanh, có ao nước trước mặt gọi là
      Chiềng An. Ông Lạng Chượng cho khai phá đất làm ruộng, lập nên Viềng(2)
      Hài và Viềng Giảng. Sau đó ông tiếp tục dẫn đoàn quân lên Mường Muổi,
      giao cho Khun Dãng làm chủ Mường La. Từ Mường La, một số thủ lĩnh đã
      mở thêm một số mường mới là Mường Bú, Mường Chùm, Mường Trai…
      Mỗi mường có một thủ lĩnh làm chủ đất gọi là phìa, các mường này gọi là
      mường phìa. Đến thế kỷ thứ XV (thời Lê), một số mường lân cận sáp nhập
      thành một mường lớn, gọi là mường chu hay châu mường. Đứng đầu châu
      mường là An nha. Châu Mường La gồm có: Mường La là mường trung
      tâm, có bộ máy thống trị của Châu Mường; các mường khác gọi là mường
      ngoài gồm: Mường Bú, Mường Chùm, Mường Trai, Mường Chiến và lộng
      Mường Pia (lộng là mường nhỏ). Sau khi hoà bình lập lại, Châu Mường La
      trở thành huyện Mường La. Năm 1961, vùng mường phìa Mường La cũ
      chuyển thành Thị xã, các mường còn lại vẫn thuộc huyện Mường La.


1()
     Chiềng là trung tâm của một mường
2(   )
       Viềng là nơi thành luỹ quân sự để bảo vệ Chiềng


Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga                                       14
Khóa luận tốt nghiệp




         Người Thái đen ở huyện Mường La ngày nay, cơ bản thống nhất với
  người Thái đen ở Thành phố Sơn La về các đặc điểm văn hoá (ăn mặc, nói
  năng, chữ viết, tập quán…) vì Thành phố Sơn La ngày nay chính là trung
  tâm của cả vùng Châu Mường La ngày trước. Vì vậy, các điệu hát ở Thành
  phố Sơn La cũng chính là điệu hát của Mường La. Tuy vậy mỗi vùng trong
  huyện lại có những làn điệu riêng nữa, như Mường Trai có điệu “hua co
  lôm” mà buồn và cô đơn, người ta thường hát hát một mình với gió, Pi
  Tong có điệu hát riêng phù hợp với đời sống văn hóa của họ.
        1.2.3. Hoạt động kinh tế
        - Canh tác ruộng nước và nương rẫy
        Người Thái ở Mường La là cư dân nông nghiệp trồng trọt, trong đó
  canh tác ruộng nước là chính, nương rẫy chỉ phổ biến ở một số bộ phận cư
  dân. Với bộ nông cụ làm ruộng như cày, mai, xẻng; các biện pháp kỹ thuật
  liên hoàn (làm đất, làm mạ và gieo cấy, chăm sóc và thu hoạch); đặc biệt là
  hệ thống thủy lợi “dẫn thủy nhập điền” mương, phai, lái, lin và cọn nước,
  cùng với các nghi lễ tín ngưỡng liên quan, qua nhiều thế hệ, họ đã đúc kết
  và tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong sản xuất. Hiện nay, người Thái đã
  chuyển sang làm 2 vụ lúa. Vụ mùa cấy tháng 2, thu hoạch tháng 5; vụ
  chiêm cấy tháng 7 thu hoạch thnág 10. Việc thu hoạch được làm gọn và
  nhanh hơn gồm: gặt - đập - quạt - nhập kho.
        Tại các xã vùng cao, vùng sâu, người Thái chủ yếu sinh sống bằng canh
  tác nương rẫy. Đó là lối canh tác “phát đốt, gieo trồng”, theo chu kỳ vòng
  quay khép kín từ 4-6 năm. Rẫy được phân loại theo địa thế đất (rẫy dốc, rẫy
  bằng), theo kỹ thuật sử dụng (dùng cuốc, dùng cày) và thời gian canh tác
  (rẫy vụ một, rẫy vụ 2). Bộ công cụ làm rẫy gồm nhiều loại với chức năng sử
  dụng khác nhau. Công cụ phát có dao, rìu, móc, khều; công cụ gieo hạt gồm
  gậy chọc lỗ bịt sắt hoặc không bịt sắt; công cụ làm cỏ có nạo, cuốc; và nhíp


Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga                                   15
Khóa luận tốt nghiệp




  dùng để gặt. Hiện nay, nhiều mô hình trình diễn khuyến nông làm vườn
  rừng xuất hiện ở nhiều nơi.
        - Chăn nuôi
        Trước đây người Thái có tập quán nuôi trâu thả rông trong những Púng
  rào giậu kín, tự chúng sống, sinh đẻ, đến mùa mới bắt trâu về kéo cày. Nay
  thì họ đã nuôi trâu theo gia đình, có chuồng trại riêng. Còn chăn nuôi lợn,
  gà, vịt, ngan, ngỗng thì rất phát triển. Vật nuôi vừa trở thành sản phẩm hàng
  hóa, vừa sử dụng trong lễ tết. Trong những năm gần đây, ở huyện Mường
  La nghề chăn nuôi đã có bước phát triển mạnh theo hướng hàng hóa, nhất là
  chăn nuôi đàn gia súc ăn cỏ. Nhiều vùng các hộ chăn nuôi đã đầu tư xây
  dựng chuồng trại, chuyển hướng nuôi nhốt và chú trọng tiêm phòng bệnh
  cho gia súc, vì thế đàn gia súc phát triển cả về số lượng và chất lượng.
        - Săn bắt, hái lượm
        Nhờ ruộng đất, đời sống của người Thái có phần sung túc hơn các cư
  dân quanh vùng. Nhưng họ vẫn chưa thoát được cảnh tháng ba, ngày tám,
  những năm đói kém do lũ lụt, hạn hán gây ra. Họ không bị chết đói là nhờ
  có rừng bao quanh có khả năng cung cấp cho họ các thứ củ quả hay thân
  cây có chất bột. Lại thêm, từng mùa rừng cung cấp các loại rau quả, hạt dại,
  nấm, mộc nhĩ, măng, rêu đá, các loại côn trùng. Dưới khe suối có cá, tôm,
  cua, ốc, cá nhỏ…Những thứ đó thường xuyên tham gia vào hai bữa ăn
  chính hàng ngày của đồng bào. Nên hái lượm vẫn đóng một vị trí nhất định
  trong đời sống kinh tế của người Thái ở Mường La.
         Rừng còn cung cấp cho đồng bào nguyên vật liệu để làm nhà, đan lát
  những gia cụ, cung cấp củi đun, dầu thắp sáng, những cây thuốc và những
  lâm thổ sản quý. Trong rừng các loại chim, thú là đối tượng để đồng bào
  săn bắt.




Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga                                    16
Khóa luận tốt nghiệp




         Trái với săn bắt, nghề đánh cá phát triển hơn. Người Thái có câu “Páy
  hin pá, má kin lẩu” (đi ăn cá về uống rượu) nói lên việc ăn cá là một thú vui
  ở người Thái.
         - Ngành nghề thủ công
          Nghề thủ công của người Thái ở Mường La rất phong phú, phát triển
  đạt trình độ cao. Có thể nói phụ nữ Thái là những thợ dệt chăm chỉ, lành
  nghề, sản xuất không những đủ chăn, màn , quần áo cho gia đình mà còn
  đem trao đổi. Sản phẩm nổi tiếng của người Thái Mường La là vải thổ cẩm,
  với những hoa văn đặc sắc, màu sắc tươi hài hoà, bền đẹp. Nghề đan lát là
  công việc của đàn ông. Họ thường đan những vật dụng hàng ngày (nong,
  nia, dần, sang..). Ngoài ra còn có những nghề thủ công mang tính chuyên
  nghiệp như nghề rèn nông cụ xẻng, cuốc, lưỡi cày, dao, kéo…Họ còn biết
  dùng bàn xoay, độ nung cao trong nghề làm gốm tạo thành những chum,
  vò, nồi, chõ đất, bát đĩa đạt trình độ kĩ thuật và mĩ thuật.
         -Trao đổi, mua bán
        Trong một xã hội hầu như không có chợ búa, việc trao đổi hàng hóa
  thường chỉ hạn chế vào một số nhu yếu phẩm và chủ yếu vẫn là hình thức
  hàng đổi hàng với những cư dân khác tộc ở rẻo giữa và rẻo cao. Thỉnh
  thoảng, có những chuyến hàng ngược sông hay những đoàn ngựa, bò của
  các thương nhân người Lào, người Miến đem các nhu yếu phẩm đến bán
  hoặc trao đổi lấy những sản phẩm của địa phương.
        1.3. Các đặc trưng văn hóa
        1.3.1. Về văn hóa vật chất
        Văn hoá vật chất là một trong những trụ cột nâng đỡ thiết chế bản
  mường. Ăn, ở, mặc là những giá trị văn hoá vật chất tiêu biểu cơ bản của
  nền kinh tế nông nghiệp lúa nước thung lũng nói chung trong đó có đồng
  bào Thái.


Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga                                    17
Khóa luận tốt nghiệp




        - Nhà ở
        Từ lâu người Thái ở Mường La đã quần cư thành bản. Mỗi bản bao
  gồm đất ở, đất canh tác (ruộng, nương), bãi cỏ chăn nuôi, khu rừng, khu
  nghĩa địa và nguồn nước sông suối riêng. Bản lớn có tới hàng trăm nóc nhà,
  nơi ít ruộng bản chỉ có mười nóc nhà. Các bản người Thái ở chân sườn núi
  trông xuống cánh đồng. Mỗi bản có tên gọi riêng theo truyền thuyết địa
  phương, theo chức vụ của người trưởng bản.
        Người Thái đều ở nhà sàn làm bằng gỗ, rất đẹp, chắc, dựng theo những
  quy định được đặt ra từ đời này qua đời khác. Nhà của người Thái ở Mường
  La thường tạo dáng mái nhà hình mai rùa, trang trí trên hai đầu nóc nhà
  bằng những khau cút theo phong tục từ xưa truyền lại.
        Nói đến nhà sàn của người Thái là người ta thường nghĩ ngay đến nhà
  sàn truyền thống của người Thái với kiểu liên kết khớp bằng mộng và buộc
  các hệ thống kết cấu chịu lực: hệ thống dầm, sàn, bao che…mà không cần
  dùng đến kim loại (đinh, ốc, vít…. ). Mái nhà thường được lợp bằng cỏ
  gianh đan thành phên.
          Trong nhà, rất ít vách ngăn, cột lại lẩn nên rất thoáng đãng, rộng rãi.
  Đồ đạc trong nhà xưa rất đơn giản, thường chỉ thấy ghế mây để ngồi, phên
  giải sàn, màn, đệm, chăn, hòm đựng quần áo..Ngày nay nhà sàn của người
  Thái ở Mường La cũng đã có nhiều nét được cải tiến. Do đời sống của đồng
  bào ngày càng được nâng cao, ở một số nơi đã đưa khoa học tân tiến như:
  mái lợp, sàn, nền của tầng trệt có sử dụng gạch, xi măng..hệ thống khung
  cột, dầm sàn có được cải tiến về kết cấu và phương pháp lắp dựng theo kiểu
  của người Kinh với mục đích cải thiện về công năng và thẩm mỹ của ngôi
  nhà, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống. Tuy vậy, ngôi nhà sàn của người
  Thái vẫn giữ nguyên được dáng vẻ cũng như giá trị văn hóa truyền thống
  vốn có của nó.


Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga                                      18
Khóa luận tốt nghiệp




        - Trang phục
        Tất cả các ngành, các nhóm địa phương Thái đều có trang phục cơ bản
  giống nhau về đường nét tạo dáng đến cách ăn mặc; khác nhau ở chỗ mỗi
  ngành, mỗi nơi có một kiểu cách trang trí các chi tiết hoặc chọn màu sắc
  khác nhau.
        Trong trang phục Thái ở Mường La, đặc sắc hơn cả là trang phục nữ,
  vừa đẹp, gọn nhưng không cầu kỳ, vừa làm nổi bật những đường nét của
  thân hình phụ nữ. Màu sắc được sử dụng rất khéo. Trên nền đen hay trắng,
  áo điểm hàng khuy bạc đơn giản nhưng trạm chổ tinh vi. Nó đã trở thành
  niềm tự hào không chỉ của riêng người Thái mà còn là một nét văn hoá rất
  đặc sắc trong kho tàng văn hoá vật thể của dân tộc Việt. Về cơ bản trang
  phục nữ của dân tộc Thái gồm:
        Váy: (xỉu hoặc nôổng): Váy Thái được tạo từ 4 tấm vải khổ 0,4 m, dài
  từ ngang thắt lưng tới chấm gót. Phía trên có cạp váy hay đầu váy (hua nịu)
  cao khoảng 10 cm bằng vải xanh hoặc đỏ. Gấu váy cũng khâu nẹp, thường
  là màu đỏ cao khoảng 3 cm. Váy có lót bên trong, thường là màu trắng,
  may ngắn hơn váy ngoài độ 15 cm. Váy phổ biến là màu đen, đôi khi màu
  chàm. Khi mặc váy có thể gấp trước bụng hay bên sườn. Ở nhà họ thường
  mặc váy để dài, lao động trên ruộng nương thì xắn váy lên theo cách túm
  một góc gấu váy nâng ngược lên cài vài cạp váy một cách khéo léo, váy ôm
  khép kín từ hai đầu gối trở lên. Ngày nay nhiều phụ nữ Thái có thói quen
  mặc váy ngắn ngang bọng chân để tiện dụng khi lao động, sinh hoạt, nghỉ
  ngơi. Váy mặc lao động thường ngày bằng vải thường. Váy mặc ngày lễ tết,
  váy cưới may bằng lụa, lanh, sa tanh, nhung.
        Thắt lưng: (xai ẻo) thường bằng lụa tơ tằm nhuộm màu xanh lá cây, hai
  đầu can thêm hai mảnh vải đỏ thêu thùa có rua ba phía. Khi xai ẻo quấn vào




Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga                                  19
Khóa luận tốt nghiệp




  giữ chặt cạp váy, hai miếng vải để hai đầu được giắt vào trước bụng hoặc
  lệch sang bên hông. Thắt lưng không có trang trí trừ hai đầu có tua.
        Áo: (xửa) gồm có:
        Xửa hổm nôm là cái áo lót bên trong, may bằng một tấm vải khoét lỗ
  chui đầu, phủ trùm hai vai xuống ngang ngực, đính khuy hai bên sườn.
  Ngày nay họ đã bỏ kiểu áo này, dùng áo lót như phụ nữ Kinh.
        Xứa cỏm là cái áo ngắn. Áo may dài tay hẹp, thân cũng hẹp, bó sát
  người. Áo chỉ ngắn đến thắt lưng. Khi mặc gấu áo giấu trong thắt lưng. Áo
  phụ nữ Thái nổi bật là hàng khuy dọc trước bụng. Khuy có thể tết bằng vải
  hoặc bằng bạc, hình con bướm, ve sầu... gọi là măk pém. Ngày nay hiếm
  bạc thì làm bằng nhôm. Giải thích về Măk pém có nhiều cách: măk là quả,
  nghĩa bóng là nhành cây, bông hoa mà phụ nữ là đại diện cho sự sinh nở
  nên Măk là khai hoa kết quả. Còn pém là bám vào, mà theo quan niệm của
  người Thái chiếc áo là nơi trú ngụ của hồn người, cho nên sự sinh sôi bám
  vào áo người phụ nữ. Măk pém còn được giải thích như sau: bên khuyết là
  giống cái (nữ), bên khuy là giống đực (nam), con gái chưa chồng hàng cúc
  mang số lẻ như còn chờ đợi cặp đôi ; có chồng, hàng cúc mang số chẵn như
  mong ước cuộc sống hạnh phúc vẹn . Áo ngắn dùng khi lao động may bằng
  vải thường; áo lễ hội, cưới xin may bằng lụa, sa tanh. Áo thường màu trắng,
  màu đen,màu xanh lam hoặc màu lá câu. Bộ váy áo thắt lưng của phụ nữ
  Thái vừa kín đáo vừa phô bày những đường cong tuyệt mỹ làm nên nét
  quyến rũ.
        Đối với đàn ông thì mặc quần dài màu đen hoặc trắng bằng vải dệt của
  Thái, được may theo kiểu quần ống “chân què” của người Kinh. Áo chon
  am giới ngắn, xẻ ngực cài bằng nút vải (thắt nút), có hai túi dưới và túi
  ngực, đầu chít khăn mỏ rìu.




Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga                                  20
Khóa luận tốt nghiệp




        Mấy chục năm gần đây, nam giới người Thái Mường La mặc Âu phục
  khá phổ biến, nhưng phụ nữ vấn gắn bó với bộ áo, váy, khăn cùng lối trang
  sức theo truyền thống dân tộc.
        Khăn piêu: phụ nữ chưa chồng thì búi tóc thả xuống sau gáy, khi có
  chồng búi tóc chổng ngược đỉnh đầu sau đó đầu đội chiếc khăn piêu. Piêu là
  một tấm vải bông nhuộm tràm hai đầu có nhiều hoa văn, chỉ màu phối hợp
  sặc sỡ. Dân ca Thái có câu:
                                    Em se sợi thành vóc hoa dâu
                                  Em dệt cửi thành gấm vân chéo
                                   Em dệt tơ thành đóa hoa vàng
                              Người các bản các mường muốn khóc
                                  Đều ước ao được em thêu khăn
        Khăn piêu có tác dụng che đầu khi nắng gió, làm ấm đầu khi mùa đông
  giá lạnh. Khăn piêu không những là vật trang sức quan trọng trong lúc đi
  chơi hay trong lễ hội mà còn là tín vật của tình yêu: khi người con gái tặng
  piêu cho người yêu là đã trao cả tấm tình.
        Xà cạp (pe păn kha) là miếng vải như cờ đuôi nheo nhuộm chàm. Phụ
  nữ Thái quấn xà cạp quanh bắp chân khi đi làm đồng, vừa để chống giá
  lạnh vừa để bảo vệ da ở bắp chân.
        Trang sức của phụ nữ Thái có: trâm cài tóc (may khắt cẩu), đôi hoa tai
  (cóng ku), vòng cổ (pok cô), đôi vòng đeo hai cổ tay (pok khẻn), bộ xà tích
  (pua sỏoi) đều được làm bằng bạc, chạm trổ đẹp, công phu. Đó là những đồ
  trang sức quý giá nhất.
        - Ẩm thực
        Lương thực chính của người Thái ở Mường La là gạo nếp. Người Thái
  có cách nấu xôi (đồ xôi) rất là ngon. Trước khi nấu, gạo nếp được đem
  ngâm qua một thời gian nhất định (thường là qua một đêm). Sau đó gạo


Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga                                   21
Khóa luận tốt nghiệp




  được đem ra đãi sạch và cho vào “chõ” để đồ xôi.Tới khi mùi cơm nếp tỏa
  ra khắp nhà thì lúc đó là xôi đã chín. “Chõ”đồ xôi của người Thái ở Mường
  La được làm bằng gỗ đặc biệt (mạy sọ) rất tốt cho việc đồ xôi.. Cơm nếp
  thơm ngon ăn cùng với các món ăn được chế biến từ thịt thú rừng., hay các
  món cá và các loại rau rừng là các bữa ngon và thú vị của người Thái ở đây.
        Các món ăn Thái được chế biến rất ngon. Họ thường thích ăn luộc, đồ,
  nướng, ăn sống hoặc tái chín cùng các loại gia vị nhiều chất chua, cay,
  chát... Từ thịt của một số động vật nuôi như lợn, gà, bò hay các loại thịt thú
  rừng họ săn bắt được có thể chế biến ra nhiều món đặc sản. Đặc biệt từ các
  loại cá tươi, người Thái có những món cá đặc sản như món cá gỏi, món cá
  hấp, cá pỉnh tộp. Món nặm pịa là nước sữa đắng ở ruột non trâu, bò, hươu,
  nai…là món không thể thiếu được trong các bữa tiệc long trọng của người
  Thái đen ở Mường La. Trong ăn uống người Thái thích uống rượu. Rượu là
  đồ uống phổ biến của người Thái bao gồm những loại như: rượu nếp, rượu
  cần và đặc biệt là có lẩu vạng (rượu không cất) của Mường Chiến.
        Đồng bào ưa hút thuốc lào và phụ nữ thường thích ăn trầu.
        - Phương tiện vận chuyển
        Người Thái ở Mường La vận chuyển bằng gánh đôi dậu đựng các thứ,
  đi rừng đi núi thì đeo gùi, dùng ngựa cưỡi, thồ hàng. Dọc các dòng sông nổi
  tiếng xuôi ngược bằng thuyền đuôi én.
        1.3.2. Về văn hóa xã hội
        - Quan hệ xã hội
        Dân tộc Thái ở Mường La mới chỉ phát triển đến chế độ xã hội bản
  mường (tương đương với giai đoạn phát triển tiền dân tộc quốc gia so với
  các dân tộc khác trên thế giới). Với nguyện vẹn bộ máy Phìa-Tạo quản lý
  và điều hòa xã hội Bản Mường có từ hàng ngàn năm cho đến trước tháng 8
  năm 1945.


Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga                                     22
Khóa luận tốt nghiệp




        Về phương thức sản xuất, kinh tế-văn hóa xã hội người Thái ở Mường
  La đã phát triển đến trình độ phát triển chung của cộng đồng cùng ngữ hệ.
  Họ đã khai phá và canh tác trên vùng đất mà hiện nay họ đang cư trú, lập
  nên Bản nên Mường của mình trên cơ sở nên kinh tế nông nghiệp lúa nước
  kết hợp với nương rẫy. Ruộng của họ đều là ruộng công của Mường. Tùy
  theo chức vị của các thành viên trong Mường mà họ nhận được một số
  ruộng để canh tác và có nghĩa vụ đóng góp nông sản cho Chảu Mường
  (Chủ Mường).
           Theo nhiều tài liệu còn lưu lại ở Mường La cũng giống như các
  Mường khác mỗi Mường có "Án Nha" (Chúa Mường) đứng đầu và cai
  quản chung, dưới Chảu Mường là các Phìa, Tạo đứng đầu và cai quản các
  các mường phìa và Bản.. Xã hội Thái chia làm hai tầng lớp chính: tầng lớp
  trên là quan lại và quý tộc, tầng lớp dưới là dân.
        - Quan hệ dòng họ gia đình
         Trong một mường, một bản của người Thái có nhiều dòng họ cùng cư
  trú. Có dòng họ quý tộc như Cầm, Bạc, Sa, Đèo… có dòng họ dân gốc Thái
  như Lò, Lộc, Lự, Cà… Quan hệ dòng họ của người Thái được biểu hiện ở
  hai khía cạnh:
        Khía cạnh tô tem giáo: Tức những dòng họ gốc Thái thường có một
  hèm liên quan đến một sinh vật, một vật vô tri hay một hành động trùng tên
  với dòng họ. Ví dụ: họ Lò không ăn thịt chim táng Lò, không ăn măng lò;
  Họ Quàng kiêng giết, ăn thịt hổ; họ Cà kiêng giết, ăn chim cốt ca (bìm bịp)
  ……
        Khía cạnh quan hệ dòng họ liên minh biểu hiện ra:
        Quan hệ Ải nọng là anh em cùng dòng họ, có "ải nọng huôm po" (anh
  em cùng cha), "ải nọng huôm pú" (anh em cùng ông), "ải nọng huôm pẩu"
  (anh em cùng cụ)...


Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga                                  23
Khóa luận tốt nghiệp




        Quan hệ Lúng ta là các thành viên nam bên vợ (gọi là "lung ta phạ
  bóm"), các thành viên nam bên mẹ (gọi "lung ta me"), các thành viên nam
  bên bà nội (gọi là "lung ta da")...
        Quan hệ Nhính xao là các thành viên nam bên anh/em rể ("nhinh xao"
   hay "nhinh xao chảu"), các thành viên nam bên con rể ("nhinh xao mang
   lụk")... Quan giữa "lung ta" và "nhinh xao" là quan hệ thông gia, nhưng
   được phân cấp rõ ràng.
        Ba quan hệ này xuất phát từ hình thái hôn nhân thuận chiều, tàn tích
  của liên minh thị tộc. Trong ba quan hệ đó, quan hệ giữa những người Ải
  noọng là cơ bản, quan hệ của những người có trách nhiệm duy trì sự trường
  tồn của dòng họ, chăm lo đến sự phát triển của dòng họ ngày thêm hưng
  thịnh. Quan hệ lúng ta rất quan trọng biểu thị chủ yếu là vị trí của ông cậu
  đối với cháu ngoại
        Trong xã hội Thái, gia đình là một tế bào xã hội quan trọng với tính
  chất phụ quyền rõ rệt. Biểu hiện ở việc mỗi nóc nhà được tượng trưng bằng
  một chiếc cột chính (sâu hẹ hay sâu cốc), ở đầu cột treo các vật thiêng như
  hình thần Rùa bằng lông gà, xương thú, xương cá to. Ông chủ nằm bên cột
  chính, cạnh bàn thờ ma nhà như để khẳng định tính chất phụ quyền của gia
  đình. Con gái như người ngoài. Con dâu phải đổi theo họ chồng. Họ không
  bao giờ được tự quyết định một việc gì ngoài việc sinh con và công việc nội
  trợ. Tuy vậy, người Thái rất tôn trọng phụ nữ và quý con gái, trước đây ở
  Mường La đàn ông khi lấy vợ phải ở rể vài năm khi đôi vợ chồng đã có con
  mới về ở bên nhà chồng.
        - Hôn nhân và cưới xin
        Ngày xưa, do xã hội Thái là một xã hội khá phát triển vì vậy việc hôn
  nhân của con cái là do bố mẹ định đoạt và có mang tính chất mua bán.




Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga                                   24
Khóa luận tốt nghiệp




  Ngày nay trai gái yêu nhau và đi đến hôn nhân là do tự nguyện sau khi đã
  xin phép sự đồng ý của gia đình.
   Trong cưới xin của người Thái, có nhiều điều thú vị và trải qua các trình tự:
   Ôm chóm (đánh tiếng), mai (đặt dấu), vay (ăn hỏi), duông vịa (thử thách
   rể), cáo, xống khươi          (cưới, tiễn rể), xú phả (nhập phòng), paư máư dam
   hươn (dâu mới đến thăm nhà chồng), cưới đong(cưới xin dâu về nhà
   chồng), tỏn pạư (đón dâu về nhà chồng).
        - Sinh đẻ và nuôi dạy con cái
        Sinh đẻ và nuôi dạy con cái là bổn phận tự nhiên của con người. Bất cứ
  ai, dân tộc nào cũng đều chú trọng đến tập quán này. Nhưng mỗi dân tộc sẽ
  có cách thức sinh đẻ và nuôi dạy con cái khác nhau. Với người Thái ở
  Mường La khi biết con dâu có thai, cả gia đình có trách nhiệm và tìm mọi
  cách để cho người có thai mạnh khỏe và thoải mái nhất. Việc tiếp theo là
  người có thai phải ăn kiêng một số thức ăn nhất là thịt, cá và một số việc
  làm có thể gây hại cho mẹ và cái thai trong bụng.
        Người Thái có tập quán đẻ ngồi ngay cạnh bếp lửa, lúc này người
  chồng không được rời vợ một bước. Người chồng phải ngồi sau lưng bà vợ
  để vừa làm chỗ tựa vừa cùng chia sẻ sự đau đớn của người vợ lúc vượt cạn.
  Đây là một tập quán đầy tính nhân văn của người Thái.
        Người Thái rất chú ý đến việc dạy dỗ con cái và việc dạy dỗ cũng được
  thực hiện theo một quan niệm rất nhân văn và rất cụ thể. Đồng bào có câu:
        “Tặp lục tặp kẻn ta
        Tặp ma tặp mậy cậy”
        Dịch:
        “Đánh con đánh bằng mắt
        Đánh chó đánh bằng gậy”




Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga                                       25
Khóa luận tốt nghiệp




        Con gái theo mẹ làm nghề của phụ nữ từ lúc lên 8-10 tuổi. Cũng ở tuổi
  này bắt đầu tập lao động, làm nương, dệt vải…Con trai làm các công việc
  đồng áng để khi lớn lên các em vững chãi trong cuộc sống. Đặc biệt, sau
  khi lấy vợ, trong thời gian ở rể, bố vợ có trách nhiệm dạy dỗ con rể lao
  động, làm những việc từ mài dao, đan gùi…đến các tập quán, lễ nghi trong
  ứng xử hàng ngày.
        - Tang ma
        Tang ma của người Thái ở Mường La được thực hiện theo quy trình
  tuân thủ nghiêm túc những tục lệ đã hình thành từ lâu đời. Họ quan niệm
  chết đi là sống ở thế giới bên kia nên người chết khi đem chôn được chia
  của như người sống. Người ta làm nhà mồ ngay trên mộ người chết và
  trong nhà (nhà sàn) có cả các dụng cụ sinh hoạt như chăn, đệm, cuốc, dao…
  thậm chí còn thả gà, lợn cho người chết một cách tượng trưng sau đó lại bắt
  về. Ở Mường La người Thái thường thực hiện thực hiện hỏa táng.
        1.3.3. Về văn hóa tinh thần
        - Ngôn ngữ và chữ viết
        Tiếng Thái thuộc hệ ngôn ngữ Tày-Thái, cùng hệ ngôn ngữ với tiếng
  Tày, Nùng. Gần với tiếng Lào và Thái Lan và là thứ tiếng phổ biến ở vùng
  thấp Tây Bắc nói chung và Mường La nói riêng. Tiếng Thái là thứ tiếng đã
  phát triển đến trình độ có chữ viết. Chữ Thái có nguồn gốc từ chữ Phạn-văn
  hóa Ấn Độ cổ đại. Từ nhiều thế kỷ trước, chữ Thái cổ đã được dùng để
  sáng tác văn học, ghi chép văn học dân gian.
        - Tôn giáo, tín ngưỡng
        Người Thái ở Mường La có tín ngưỡng theo cách riêng của mình và
  trải qua hàng ngàn năm lịch sử của dân tộc vẫn nguyên vẹn như thưở ban
  đầu. Tín ngưỡng của người Thái chưa phát triển thành tôn giáo riêng và họ




Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga                                  26
Khóa luận tốt nghiệp




  cũng không chịu ảnh hưởng hay du nhập vào mình các tôn giáo khác như
  Đạo Phật, Đạo Khổng, Đạo Hinđu, Đạo Thiên Chúa..v..v
        Từ lâu họ đã tìm cách giải thích những hiện tượng khách quan của trời,
  đất và con người. Ở thời đó, họ thường biểu hiện hai loại nhân sinh quan.
  Bao trùm lên cuộc sống của họ là nhân sinh quan mang tính hiện thực, đó là
  cơ sở nhận thức và hành động với đúng với thực tế khách quan, trong cuộc
  đấu tranh để cải tạo thiên nhiên và xã hoi. Bên cạnh đó là nhân sinh quan
  tồn tại trong ý niệm tín ngưỡng, biểu hiện trên các mặt phong tục tập quán
  của họ.
        Họ cho rằng trên trái đất này vốn tồn tại hai thế giới-thế giới của sự
  sống và thế giới của hư vô. Thế giới của sự sống là sự tồn tại của con người
  và những vật chất khác-từ thể trạng sống mà người ta có thể trực giác được.
  Thế giới của cõi hư vô là của thần linh, ma quỷ, là một cõi sống ngự trị
  trong ý niệm của họ và được gọi chung là Phi và phân ra là: Then, đẳm, phi,
  khon…nhưng thế giới Phi lại quyết định sự sống thực trạng trên thế gian
  này. Chẳng hạn người ta sống được là nhờ có “hồn”; núi sừng sững cùng
  với tất cả hình thù kỳ lạ của nó-cây cối mọc chen chúc, cành lá sum suê,
  con sông chảy xiết, âm thanh vang động đều có hồn của nó. Và tất cả các
  hồn đều có hình thù kỳ lạ, biến hóa tài tình. Mọi vật lúc ở thể trạng sống thì
  hồn lúc ẩn, lúc hiện quanh vật đó. Khi vật đó chết thì hồn bay lơ lửng hoặc
  ẩn nấp trong những xó tối, hốc cây.
        Từ quan niệm như vậy nên người Thái có những nghi thức và tập tục
  cúng riêng theo cách của mình. Thông qua các lễ hội trong năm, họ tổ chức
  lễ cúng Bản (xên bản), cúng Mường (xên mường), cúng nhà (xên
  hươn)..Hoặc cúng tế về một cái gì đó rất cụ thể như một hòn núi thiêng,
  một tảng đá lớn, một khúc sông…mà họ cảm thấy ở đó xuất hiện sự linh




Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga                                     27
Khóa luận tốt nghiệp




  thiêng, thần bí để cầu mong được sự bao dung che chở của các đấng siêu
  nhiên.
        Cũng từ quan niệm về cái thực và cái hư như vậy, nên khi có người
  chết, ông Mo sẽ dẫn hồn về nhập “Đẳm” tức là tổ tiên ở thế giới bên kia, và
  được mang theo một số của cải. Bởi vậy chết đi đối với họ là tiếp tục
  “sống” ở cõi hư vô, về với sự vĩnh hằng nơi “Mường trời”.
        - Lễ hội truyền thống
        Cũng giống như người Thái vùng Tây Bắc, người Thái ở Mường La
  trong một năm có nhiều ngày lễ, tết khác nhau như: Xên bản, xên mường
  (cúng thần bản, thần mường), lễ tỏn cộ (lễ đón cỗ), Xến Xó Phốn (lễ cầu
  mưa), “Kin khảu maứ” (lễ cơm mới)…..
        Trong các dịp lễ tết, người Thái ở Mường La thường tổ chức múa hát:
  Xòe, múa khăn, múa nón, hay trai gái “Khắp báo xao” (hát trai gái giao
  duyên). Các trò chơi đầy thú vị như Tót cón (ném còn), Tót én cáy (chơi cầu
  lông gà bằng tay), Tó mak Lẹ (chơi trò chơi bằng quả Lẹ) v.v… Đó là các
  sinh hoạt văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, vừa vui chơi, vừa mang ý nghĩa
  giáo dục truyền thống.
        - Văn nghệ dân gian
        Sinh sống hàng ngàn năm trên dải đất Việt Nam, thừa hưởng một nền
  văn minh cổ truyền lớn lao của cha ông, người Thái ở Tây Bắc nói chung
  và Mường La nói riêng đã góp phần cống hiến không nhỏ vào kho tàng văn
  hóa chung của cả dân tộc Việt Nam. Nhờ có văn tự, cư dân Thái đã lưu lại
  cho đến nay nhiều sách, truyện ghi lại trên giấy bản, trên lá cây. Đó là
  những cuốn sách sử chép tay dài hàng trăm trang, những bộ luật hay những
  tập quán pháp tương đối hoàn chỉnh, phản ánh tình hình xã hội đương thời,
  những bản trường ca đọc cả hai, ba đêm dòng thúc động lòng người, những
  truyện thơ tuy khuyết danh nhưng đầy chất trữ tình nói lên cảm xúc mãnh


Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga                                  28
Khóa luận tốt nghiệp




  liệt của cả dân tộc với thiên nhiên tươi đẹp, với con người, với tình yêu lứa
  đôi, nói lên khát vọng của cả dân tộc hướng tới cái thiện, cái đẹp; những tập
  tục ngữ dân ca Thái phản ánh quá trình chinh phục thiên nhiên, tích lũy
  kinh nghiệm của cuộc sống nhưng qua đó ta cũng thấy tính cách, tâm hồn
  và nghệ thuật phong phú, đặc sắc.
        Trong kho tàng văn học dân gian, thần thoại Thái đóng một vị trò quan
  trọng vì tính phong phú và độc đáo của nó. Theo các truyện kể được hệ
  thống lại, người Thái xưa quan niệm vũ trụ có năm tầng. Tầng trên cùng là
  nơi hỗn mang, là thế giới của những người “ăn sương, ăn gió” sống nay đây
  mai đó, đeo dao ở cổ. Tầng tiếp theo là thế giới của các vị thần và tổ tiên
  các dòng họ Thái xây dựng trên vòm trời mà mắt người không trông thấy,
  do Then Luông cai quản. Tầng thứ ba là thế giới của tầng mây, ở vòm trời,
  ở đó có các vị trăng sao. Đó là thế giới của những người khổng lồ, được
  Then cử ra để xây dựng trần gian vào buổi sơ khai. Tầng thứ tư ở mặt đất là
  thế giới của loài người, muôn vật (thế giới thực) và thế giới của ma quỷ (thế
  giới ảo tức mường ma). Tầng cuối cùng là thế giới dưới mặt đất, ở đó có
  loài người tí hon chuyên chỉ ăn đất. Trong những thế giới tưởng tượng đó,
  các ma, quỷ, thần thánh cũng sinh sống, làm ăn, cũng biết yêu biết ghét,
  cũng sinh con, đẻ cái, cũng tranh chấp. Quan niệm về sự cấu tạo những thế
  giới đó nhằm củng cố nhân sinh quan phong kiến, nhưng đồng thời cũng
  phản ánh một cách trừu tượng cuộc sống lao động dưới trần.
        Phổ biến những câu chuyện về sự hình thành trời đất, loài người và
  muôn vật, truyện nạn hồng thủy, truyện quả bầu, truyện người đàn bà góa
  cắt dây nối trời với đất… Những câu chuyện nhằm giải thích những hiện
  tượng vũ trụ, trong thiên nhiên cũng lý thú không kém những huyền thoại
  tôn giáo nhằm giải thích nguồn gốc tiếng nói, câu ca, lúa, nước, màu sắc
  của chim muôn, thú vật.


Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga                                    29
Khóa luận tốt nghiệp




        Loại truyền thuyết, dã sử liên quan đến những nhân vật lịch sử được thể
  hiện dưới dạng nửa có thực, nửa huyền thoại cũng không hiếm. Ngoài
  những truyện liên quan đến Lò Lẹt, Lạng Chương, Tà Ngần... là những
  nhân vật lịch sử có thật, phổ biến là truyện kể lại sự di chuyển của người
  Thái đen từ Mường Lò đi mở mang bờ cõi.
        Tất nhiên, loại truyện cổ tích vẫn là nhiều hơn cả, bao gồm nhiều thể
  loại từ ngụ ngôn, truyện cười đến truyện kể…Truyện thường mang ý nghĩa
  xã hội, bênh vực người nghèo, lẽ phải và đượm màu sắc dân tộc.
        Thơ ca dân gian chiếm một vị trí rất lớn bao gồm những câu ca dao,
  những tập thơ tình yêu, thơ ca hát trong hội hè, đám cưới, mừng lên nhà
  mới, trong những dịp lao động sản xuất, cho đến những bản trường ca,
  những truyện thơ lịch sử.
        Đặc biệt những tác phẩm thơ ca khuyết danh khó đặt vào phạm trù dân
  gian. Ở đây, có thể cùng quy luật với văn học một số dân tộc ở Đông
  Dương, nhiều tác phẩm đã diễn đạt khá điêu luyện, có giá trị nghệ thuật cao
  mà tác giả hoặc vì không muốn lưu tên tuổi cho đời sau và dành vinh dự đó
  cho cả dân tộc hoặc cả tập thể, đã xây dựng những tác phẩm hay kết tinh từ
  những tinh hoa của kho tàng thơ ca dân gian. Truyện thơ Xống chụ xon xao
  (tiễn dặn người yêu) và Khun Lú Nàng Ủa (Chàng Lú-nàng Ủa) phổ biến ở
  vùng Mường La trước đây đã được giới thiệu và hoan nghênh trong cả nước
  là một ví dụ.
        Lại thêm, đặt chân vào đất Thái ở Mường La có cảm giác như đặt chân
  vào thế giới ca múa nhạc độc đáo, phong phú và đa dạng, mang nhiều sắc
  thái tâm lý, tình cảm của dân tộc. Nói đến nghệ thuật Thái không thể không
  nói tới múa, mà xòe là một trong những điệu múa nồi tiếng của người Thái,
  cũng là điệu múa phổ thông của mọi người dân không phân biệt…Vào các
  dịp Tết, lễ hội, sau một vài tuần uống rượu vui, mọi người tay cầm tay cùng


Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga                                    30
Khóa luận tốt nghiệp




  múa vui say sưa trong không khi nhộn nhịp của tiếng trống, tiếng cồng
  chiêng. Cuộc xòe vui không biết bắt đầu từ bao giờ và khi nào kết thúc, chỉ
  biết là hơi men của rượu, hơi ấm của bàn ta cùng âm vang thôi thúc giòn giã
  của tiếng cồng chiêng làm ấm lòng người, mọi người gần gũi nhau hơn và
  như muốn cùng nhau hòa trong khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ. Người
  Thái có mấy chục điệu xòe. Ban đầu xòe có hình thức đơn giản và có tính
  phổ thông. Có điệu xòe vòng dùng cho cả cộng đồng, sôi nổi, múa theo
  nhịp đàn hay theo điệu hát khi vui chơi dưới ánh trăng hay lúc nghỉ giữa hai
  thời gian sản xuất. Sau cách mạng, nghệ nhân dân gian mới phát triển thành
  những điệu xòe tinh tế và đa dạng mang biểu diễn lên sân khấu như điệu
  xòe khăn, xòe quạt, xòe nón, xòe bướm. Người Việt Nam dù thuộc thành
  phần nào cũng tự hào với những điệu xòe của người Thái nói chung và
  người Thái đen ở Mường La nói riêng đã chinh phục trái tim mình và được
  hoan nghênh trong các hội diễn văn nghệ trên thế giới.
        Về âm nhạc, người Thái nổi tiếng với những làn điệu khắp hồn nhiên,
  thiết tha. “Khắp” Thái có nhiều thể loại theo nội dung và trường hợp hát mà
  có tên khác nhau. Điệu hát trai gái gọi là “khắp báo xao”, điệu hát ngoài
  đồng ruộng là “khắp loong tông”, khi ru em là “khắp ú u nọi”… Điệu hát
  đồng dao gọi là “khắp xư đếch nọi”. Đặc biệt có loại “khắp Chương” do
  người già kể chuyện Chương Han. “Khắp Chương” với lời lẽ mạnh mẽ đầy
  khí thế chiến đấu, với nhạc điệu dồn dập là vũ khí văn học sắc bén thúc đẩy
  người nghe trút căm giận vào bọn thống trị và kích thích lòng yêu dân tộc,
  yêu nhân dân. Vì vậy, trước đây, bọn chúa đất Thái đã ra lệnh cấm loại
  “khắp” này.
         Nhạc cụ quen thuộc đệm cho “khắp” là tính tẩu (đàn tính), khèn Thái,
  đàn nhị… trong đó khèn với năm cung và một quãng tám như thường dùng
  đệm cho các làn điệu dân ca và thể hiện các bài hát hiện đại, điều này chắp


Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga                                   31
Khóa luận tốt nghiệp




  cánh cho các điệu “khắp” thêm bay bổng, diễn tả sâu sắc nội tâm nhân vật,
  làm tăng giá trị biểu cảm…Cùng lời ca, tiếng hát họ hát về tình yêu, cuộc
  sống, đạo làm người, ca ngợi thiên nhiên, ca ngợi Bản Mường. Chính dựa
  trên truyền thống của ca, vũ, nhạc dân gian, ngành ca vũ nhạc Thái đang
  được phát triển, từ đó xuất hiện những tác phẩm thơ ca Thái mà chất thơ
  còn lưu giữ được nhiều hương sắc dân tộc.
        - Tri thức dân gian
        Nói đến kho tàng tri thức dân gian đầu tiên phải kể đến lịch pháp vì đó
  là tri thức quan trọng nhất của một dân tộc về sự vận hành của vũ trụ, nó
  không chỉ là cơ sở tính thời gian mà còn là cơ sở để nhận biết các chu kỳ
  sinh hoạt văn hóa, hoạt động kinh tế… của cộng đồng.
          Hiện nay, dân tộc Thái ở Mường La đang dùng rất phổ biến lịch Thái
  trong đời sống hàng ngày. Hầu hết những người từ trung niên đến cao tuổi
  đều nắm chắc lịch Thái. Người Thái ở đây vẫn thờ cũng theo ngày Can của
  lịch Thái, nên cứ 10 ngày cúng một lần (gọi là pạt tông, ngày pạt tông gọi là
  mự vên tông). Ở mỗi bản đều có các ông mo hoặc po mự để xem ngày tốt
  xấu cho những ai có nhu cầu, như ngày cưới vợ gả chồng, khởi công hoặc
  lên nhà mới… Các ông này thường có cuốn Sổ cổ làm căn cứ cho việc tính
  toán và chọn ngày, chọn giờ, đồng thời họ tự soạn ra những nội dung lịch
  hàng năm để cung cấp cho nhân dân trong vùng.




Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga                                    32
Khóa luận tốt nghiệp




                                            Chương 2
                           “KHẮP” VÀ CÁC LÀN ĐIỆU “KHẮP”
                               CỦA NGƯỜI THÁI MƯỜNG LA


        2.1. Giới thiệu chung về “khắp” của người Thái
        2.1.1. “Khắp” là gì?
        Dân tộc Thái có những hình thức sinh hoạt văn hoá rất phong phú như:
  “Xến Xó Phốn” (lễ cầu mưa), “Kin khảu maứ” (lễ cơm mới), “Xên lẩu nó”
  (lễ tạ ơn thầy cúng (một lao) của các con bệnh (lụ liệng), “Kin lảu nó”
  (mừng mùa măng mọc), lễ “Tỏn cộ” (lễ đón cỗ)… Trong đó "khắp" là một
  hình thức sinh hoạt tinh thần không thể thiếu được. Trong đám cưới, người
  ta có thể khắp với nhau kéo dài hết ngày này qua ngày khác, có khi kéo dài
  ba bốn ngày. Ở các ngày lễ, Tết, lớp trai gái trẻ “khắp” với nhau thâu đêm
  suốt sáng... Cả người hát và người nghe đều say xưa thán thưởng. Qua làn
  điệu khắp, mọi người không chỉ thưởng thức thi vị của ý thơ mà còn gửi
  gắm tâm tư, tình cảm vào những âm thanh trầm bổng của giọng hát hay.
        “Khắp” nghĩa thực là hát, nhưng có thể đồng nghĩa với hát, hò, ngâm.
  “Khắp” cũng có nghĩa là thơ ca, làn điệu dân ca, cách trình diễn thơ ca...
  Những lời khắp có vần vè như thơ nhưng hơn nữa nó còn có nhạc điệu và
  tiết tấu rất cao.
        Có lẽ ngay từ thời kỳ hái lượm, săn bắt, người Thái đã có những từ
  "thút phắc" (ngọn rau), "đuông nó" (cái măng), "cản bon" (bẹ khoai nước)...
  Khi chuyển sang thời kỳ nông nghiệp lúa nước định hình thì đã có các từ
  "pết" (vịt), "cáy" (gà), "sáy" (trứng), "xuân" (vườn)... Đó là những từ sinh
  hoạt đơn giản rời rạc. Đến khi hình thành xã hội bản mường, người ta có
  thể ghép những từ đơn lẻ đó thành các cụm từ như: "thút phắc, đuông nó";
  "cản bon, hon nó"; "pết sáy, cáy khăn"; "pết sáy, cáy xuân"... Những cụm từ


Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga                                   33
Khóa luận tốt nghiệp




  như vậy càng ngày càng xuất hiện nhiều và dần dà phát triển thành các câu
  thành ngữ, tục ngữ (quãm khống khái).
        Khi xã hội bản mường phát triển thì xuất hiện những cụm từ gồm nhiều
  chữ hơn và có vế, có vần như:
          Khan pên pết nọi hã chí xo ép sáy
          Khan pên cáy nọi hã chí xo ép khăn
          Khan pên xao pun lan chí xo ép vãy tặc tuộng
        (Là vịt con ta xin học đẻ trứng
        Là gà con ta xin học gáy te te
        Là gái lứa cháu xin học nói học chào)
          Phẵng quãm pết mẵn chí xia sáy
          Phẵng quãm cáy mẵn chí xia xuôn
          Nhẵng quãm nhuỗn năm chí xia pi nọng
          (Nghe lời vịt sẽ mất trứng
          Nghe lời gà sẽ mất vườn
          Nghe lời xúc xiểm sẽ mất tình anh em)
          Tộc té nọi kin khảu bái nó
          Khó té nọi kin khảu bái bon
          (Cực từ nhỏ ăn cơm trộn măng
          Nghèo từ nhỏ ăn cơm trộn lá khoai nước)
        Cùng với những câu có vế có vần đó người ta đã tạo cho nó những nhịp
  điệu, tiết tấu cho phù hợp. Thế là “khắp” xuất hiện. Xã hội bản mường với
  bao buồn, vui, thăng trầm trong tiến trình phát triển là điều kiện chín muồi
  để phát triển và định hình các thể loại “khắp”, đồng thời phát triển mạnh thể
  loại kể truyện dân gian bằng “khắp”
        2.1.2. Môi trường và phương thức diễn xướng của “khắp”




Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga                                    34
Khóa luận tốt nghiệp




        Diễn xướng là hình thức biểu hiện, trình bày các sáng tác dân gian bằng
  lời lẽ, âm thanh, điệu bộ, cử chỉ, là tổng thể các phương thức nghệ thuật,
  cùng thể hiện đồng nhất giữa ca hát và hành động của con người theo chiều
  thẩm mỹ.
        Diễn xướng gồm hai thành tố cơ bản đặc hữu cùng tham gia là: Diễn
  (hành động xảy ra) và Xướng (hát lên, ca lên). Thuật ngữ diễn xướng dân
  gian có thể hiểu với hai nghĩa rộng và hẹp khác nhau. Với nghĩa rộng, diễn
  xướng dân gian là tất cả mọi hình thức biểu diễn (hay diễn xướng) và ít
  hoặc nhiều đều mang tính chất tổng hợp tự nhiên (hay tính chất nguyên
  hợp) mà lâu nay ta quen gọi là văn học dân gian; còn nghĩa hẹp chỉ bao
  gồm các thể loại diễn (như trò diễn, trò tế lễ dân gian...).
         “Khắp” là hình thức diễn xướng của các bài thơ, các tác phẩm văn học,
  trong đó có cả tác phẩm tự sự, như tác phẩm thuộc thể loại sử thi, truyện cổ
  tích... và các tác phẩm trữ tình. Bằng phương thức diễn xướng, đời sống
  nghệ thuật dân gian truyền thống được tiếp nối không ngừng. Khởi sinh
  cách đây hàng ngàn năm, “ khắp” mãi mãi trường tồn, bởi tất cả thế hệ
  người người Thái đều ý thức trao lại cho muôn đời sau cách diễn xướng
  những làn điệu dân ca đậm đà bản sắc văn hóa, tượng trưng cho giá trị tinh
  thần, tính cách của dân tộc. Sinh hoạt “khắp” đã gắn bó chặt chẽ với đời
  sống nhân dân, là cơ sở quan trọng hình thành nên diễn xướng các tác phẩm
  dân gian, diễn xướng một bộ phận thơ ca dân gian đậm chất trữ tình trong
  kho tàng thơ ca dân tộc.
        Phương thức diễn xướng của “khắp” Thái chủ yếu là hát thơ, có nhạc
  đệm hoặc không có nhạc đệm, trong môi trường sinh hoạt vui chơi, hoặc
  đám cưới, hoặc tín ngưỡng. Song, mỗi làn điệu “khắp” có cách diễn xướng
  khác nhau. Và ngay cả mỗi làn điệu cũng có những mức độ biểu hiện khác
  nhau. Bởi vậy, cần phải hiểu hình thức diễn xướng “khắp” một cách linh


Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga                                    35
Khóa luận tốt nghiệp




  hoạt, gắn với mỗi môi trường sinh hoạt văn hóa, ứng với mỗi nội dung sinh
  hoạt, gắn với mỗi giai đoạn lịch sử - xã hội...
        Diễn xướng “khắp” là yếu tố ngoài văn bản nghệ thuật ngôn từ. Nhưng
  nó là yếu tố không thể bỏ qua nếu muốn hiểu đúng, hiểu sâu sắc về nghệ
  thuật này. Tuy vậy, ở những công trình sưu tầm văn học dân gian Thái,
  trong đó có “khắp”, yếu tố này chưa thực sự được lưu tâm ghi chép miêu tả
  cụ thể. Điều đó gây khó khăn cho người nghiên cứu khi tìm hiểu về những
  tác phẩm dân gian trong quá khứ. Qua quá trình tiếp cận thực tế, nghe phân
  tích diễn giải của các nghệ nhân, xin được nêu một số nhận xét về phương
  thức diễn xướng của “khắp” Thái như sau.
        - Các làn điệu khắp xư (hát thơ)
        Bình thường, “khắp xư” chỉ "xướng" chứ không "diễn", mục đích của
  khắp xư là để biết và hiểu nội dung tác phẩm, nên phải thể hiện cảm xúc
  bằng giọng đọc. Nhưng khi “khắp Chương”, “khắp Páo khuôn ” trong nghi
  lễ thì khác, sẽ có một người “khắp” chính và đoàn người phụ hoạ, với trang
  phục nghi lễ trang nghiêm. Người “khắp” chính phải đứng ở tư thế ngẩng
  mặt lên cao, hướng về phía mâm thờ và cất giọng “khắp” nghiêm trang,
  hùng tráng. Đoàn phụ hoạ sẽ đứng thành hàng sử dụng các nhạc cụ truyền
  thống như: Cồng, chiêng, chũm choẹ và các ống tre... đệm phụ hoạ đúng bài
  bản, nhịp nhàng. “Khắp” lễ nghi chỉ được “khắp” khi xên tra (tế lễ các anh
  hùng) và Xên mường (cúng mường).
        - Khắp báo xao (hát trai gái, hát giao duyên)
        “Khắp báo xao” là điệu hát thiết tha, đằm thắm, bồn chồn, hồi hộp... là
  điệu hát của tình yêu nam nữ trong sáng lành mạnh. Bối cảnh của “khắp
  báo xao” là trên sàn khuống, trong các hội xuân, trong các dịp hội họp đông
  vui, trên một mảnh nương, bên một đoạn suối, trong lúc đi hái bông lau,
  hoặc trong khi đi tìm bông vải... Những buổi hát có tổ chức ở quy mô nhất


Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga                                    36
Khóa luận tốt nghiệp




    định thường diễn ra qua các bước: hát chào mời, hát thăm hỏi, hát thử tài và
    cuối cùng là hát dặn dò hẹn ước.(3) Vì vậy, hát trai gái thường từ hai người
    trở lên và trong không khí vui tươi lành mạnh.
        - Khắp pan lảu pan khảu (hát trên mâm cơm)
        Trên mâm cơm có thể “khắp chiêu” và “khắp báo xao”. Diễn xướng ở
    đây là cách diễn xướng tự do, tức là hát không cần động tác hoặc động tác
    đơn giản, không kèm tập tục hay một quy định nào cả. Người hát ngồi bình
    thường trong mâm, mắt nhìn đối phương, hát hết một đoạn au hang thì mọi
    người vừa vỗ tay vừa "xương" tán thưởng. Hát hết bài cần có lời “khắp”
    chuyển cho người khác (có thể là đối phương hoặc một người nào đó là do
    người vừa hát có quyền chỉ định).
        Ha chí kẻ xửa pạt xum pháy
        Tháy xửa pạt nga bông
        Xo pông quăm hảư ... pay cón
        Lả côn chạ chí coi dón năm lăng.
        Lời dịch:
        Ta xin cởi áo vắt khóm tre
        Thay áo vắt cành luồng
        Xin buông lời nhường ... đi tiếp
        Ta khờ dại xin nhẹ bước theo sau.
        Người sau hát xong bài lại có quyền chuyền cho người nào đó tuỳ mình
    lựa chọn. Cứ như thế, mọi người sẽ thay nhau hát, ai cũng phải hát một số
    lần. Nhưng về sau sẽ dừng lại ở hai đối thủ hát hay nhất (thường là một cô
    gái và một chàng trai bản khác), và cuộc “khắp” đối đáp sẽ diễn ra. Hai bên
    sẽ trổ tài vận dụng kiến thức “khắp” của mình để "thi" với đối phương. Một
    người nêu ra câu hỏi, người kia đáp lời và hỏi lại, cứ như vậy với điều kiện

3
. Lò Văn Sỹ, Giới thiệu Tản chụ xiết xương, “Văn nghệ Son La”, số 2-1975


Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga                                     37
Khóa luận tốt nghiệp




  không được lặp lại các lời “khắp”. Trong mâm cơm người Thái còn “khắp
  mơi lảu mơi khảu” rất vui vẻ, lời có thể có trước hoặc ứng tác nhưng khi
  hai chị em gái ở xa đến thăm nhau, họ khắp rất buồn.
        - Khắp trên hạn khuống (hát trên sàn sân)
        Hạn khuống là sân chơi cho lớp trẻ giao lưu, nơi người già dạy con
  cháu điều hay lẽ phải, dạy đan lát thêu thùa... Mỗi bản có thể có một hoặc
  vài hạn khuống. Đó là một cái sàn dựng ngoài sân cao khoảng 1,2m, muốn
  lên phải trèo bằng thang. Buổi tối các cô gái sẽ mang củi xuống đốt lửa
  sáng rực và ngồi quay sa, kéo sợi. Cái thang đã bị các cô cất đi. Các chàng
  trai bản lân cận sẽ đến chơi, mỗi đoàn cử một hai người hát hay đàn giỏi để
  đại diện xin được lên hạn khuống. Cuộc khắp đối đáp bắt đầu:
        - Trai hát xin thang
        - Gái đáp, chưa có thang vì không có ai làm.
        Hai bên cò cưa mãi, các cô mới lấy thang cho lên.
        - Trai lại xin ghế ngồi.
        - Gái thoái thác mãi mới cho ghế ngồi.
        - Trai lại xin ống điếu hút thuốc.
        - Gái từ chối không có người làm ống điếu.
        Hai bên đối đáp rất lâu thì mới được các cô cho ống điếu và “khắp”
  mời hút thuốc rất lịch sự... Đó là thử thách bước đầu. Sau khi vượt qua thử
  thách này, các chàng trai và cô gái sẽ được giao lưu một cách "tự do". Có
  thể từng nhóm trai gái hay từng đôi trai gái sẽ ngồi tâm sự bằng nhiều hình
  thức, phần lớn là đối đáp bằng nghệ thuật ”khắp”.
        Cách diễn xướng “khắp hạn khuống” có thể chia làm ba loại:
        - Giai đoạn đầu (xin thang, xin ghế, xin điếu...): Phía nam, mỗi đoàn sẽ
  có một hai người thay nhau hát, một vài người đệm nhạc cụ (tính tẩu, nhị,
  pí...). Những người còn lại (đôi khi có cả các cô gái) sẽ "xương" theo. Bên


Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga                                     38
Khóa luận tốt nghiệp




  nữ, các cô cũng thay nhau hát đáp ("nhạc công" bên trai có thể đệm cùng).
  Các cô khác (đôi khi cả các chàng trai) sẽ "xương" theo.
        - Khắp nhóm: Ở những nhóm tâm sự, bên nam bên nữ sẽ “khắp” đối
  đáp theo điệu báo xao có phụ hoạ "xương". Diễn xướng tự do, đơn giản, hai
  bên ngồi đối diện hoặc ngồi xen kẽ (các cô gái vừa ngồi tham gia vừa quay
  sa, kéo sợi).
        - Tâm sự riêng: Nếu có chàng trai và cô gái nào có tình ý riêng, họ có
  thể dẫn nhau ra góc sàn tâm sự riêng. Cách tâm sự ở đây gọi là "vay", là
  cách đọc những lời “khắp” đối đáp nhau thay cho việc cất lên giọng “khắp”
  (tương tự như đọc thơ). Vì trong sàn ồn ào do nhiều nhóm “khắp” với nhau,
  nên đôi tâm sự sẽ ngồi sát bên nhau để nghe được lời nói của nhau.
        - Khắp xe (hát trong vòng xoè)
        Trong ngày vui (cưới, lên nhà mới, tết, xên hươn...), trong khi đang
  diễn ra cuộc khắp đối đáp trong nhà thì các cô gái sẽ mời các chàng trai
  sang múa xoè. Trên vòng xoè thường là các cô sẽ chủ động sắp xếp sao cho
  gái trai xen kẽ. Mọi người bước đi nhịp nhàng treo điệu múa truyền thống.
  Một cô gái sẽ mở đầu bằng những lời “khắp” mời mọi người cùng chơi vui,
  cùng múa hát cho nhau nghe.
        Khắp ý ủa khính ý
        Tói tính hảư po me hau phăng
        Xan tưa ủa mưa lang xan lang
        Xan tưa phay mảy pá chắng hên nả nhên
        Po me xên phon chắng hên nả chụ
        Lời dịch:
        Hát đi cùng vui đi
        Cất tiếng nhạc cho cha mẹ cùng vui
        Chẳng mấy khi


Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga                                   39
Khóa luận tốt nghiệp




        Lửa cháy rừng mới nhìn thấy mặt cáo
        Cha mẹ có cuộc vui ta mới được thấy nhau
        Cô gái hát xong sẽ chuyển lời mời các chàng trai hát tiếp. Và thế là
  cuộc hát đối đáp sẽ diễn ra mới đầu là với chủ đề phân tán như: hỏi thăm
  tên tuổi, quê quán, hỏi về gia đình, người thương ở nhà... Sau đó là những
  lời hát "kháy" nhau (tản chụ xiết xương), rồi đến tỏ tình với nhau (tản ổ tản
  mặc).
        Cách diễn xướng ở đây là vừa bước đi theo vòng xoè vừa hát. Người
  hát sẽ hát theo cấu trúc: Au hua - nội dung - au hang và mọi người sẽ cùng
  "xương".
        - Khắp khảm pá qua đông (khắp trong rừng núi )
        Khi đi chặt cây, lấy củi, hái măng trên rừng, các chàng trai và cô gái
  cũng hay “khắp” với nhau từ xa (gọi là khắp lót xáư căn). Người này hát
  xong, người kia sẽ đáp lại. Chủ đề chủ yếu là những lời tán tỉnh rất bạo dạn
  (vì không nhìn thấy nhau nên mạnh dạn hơn đồng thời cũng không có thời
  gian nhiều).
        Lót ma hi lót may lịnh ha ơi
        Kỉnh ma hi lót may căn ha ơi.
        Dịch:
        Vọng về đây cuộn chỉ hồng ta ơi
        Lăn đến đây cuộn chỉ vàng ta ơi.
        - Khắp loong tông (hát đi trên cánh đồng)
        Trên đường đi làm về, hay đang đi trên đường khi đi chơi vào ban đêm,
  các chàng trai thường hay hát điệu “khắp loong tông”. Với không gian yên
  tĩnh, điệu hát này cất lên mang tính buồn man mác. Nhiều khi được đệm
  bằng "pí tam lay". Nội dung bài hát cũng phải chọn những bài phù hợp và
  hơi buồn. Nếu ban ngày có thể là:


Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga                                    40
Khóa luận tốt nghiệp




        (Pặt ma khay nay chơi...ới)
        Đét họn cong hảư lôm báu lôm
        Cong hả chụ kinh côm lả long báu long
        (cơn lể hau co ha ới)
        (Au hua...)
        Nắng oi mong gió thổi chẳng thổi
        Mong người tình duyên dáng đi qua không qua
        (Au hang...)
        Ban đêm thường hát dạng bài:
        (Pặt ma khay nay chơi...ới)
        Phạ xiểng coi phăng ma háu quai lé nơ
        Bương hai coi phăng ma háu ngáu co cuổi
        Mi tưa chụ khen xuổi bản lắc ma giam báu hụ lo
        (Hau co ha ới...ới)
        (Au hua...)
        Trời trong hãy nghe chó sủa trâu
        Trăng sáng hãy nghe chó sủa bóng cây chuối
        Biết đâu có người tình bản xa đến thăm
        (Au hang...)
        Như vậy, sinh hoạt “khắp” gắn bó chặt chẽ với đời sống dân gian, là cơ
  sở quan trọng hình thành nên diễn xướng “khắp” - diễn xướng một bộ phận
  thơ ca dân gian đậm chất trữ tình trong kho tàng thơ ca dân tộc Thái Tây
  Bắc. Môi trường diễn xướng ”khắp” nằm ở ngay trong môi trường sống
  hàng ngày của người Thái, với không gian vừa hẹp vừa rộng: từ bên mâm
  cơm đến sàn sân và ra rừng núi, với hoạt động phong phú: từ ăn uống, vui
  chơi, tâm sự, tới lao động sản xuất. Chính vì gắn bó chặt chẽ với đời sống
  như vậy, ”Khắp” có sức sống mãnh liệt, trường tồn.


Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga                                   41
Khóa luận tốt nghiệp




        2.2. Một số điệu “Khắp”
        Sinh hoạt ca hát dân gian của dân tộc Thái là một lĩnh vực phong phú
  và đa dạng, biểu hiện rất rõ trong làn điệu. Riêng ở khắp, một hình thức hát
  phổ biến nhất đã bao gồm nhiều làn điệu, hoặc là vang vọng, cao vút ở
  “khắp piêng xiêng” hay đậm đà như ở “khắp chương”; hoặc là khắp mo rì
  rầm tụng niệm, hay “khắp xe” nhịp nhàng trong các điệu múa dân gian…
  Hiện nay có khá nhiều làn điệu khắp khác nhau tuỳ theo nội dung bài hát,
  tuỳ thuộc ngữ cảnh người hát, tuỳ từng địa phương...

        Theo nội dung: nếu là Quam tô mương (kể chuyện bản Mường) thì
  không khắp mà chỉ "lôn" tức đọc có làn điệu. Nếu là Táy pú xấc (sử thi Táy
  pú xấc), Chương Han (sử thi Chương Han) thì chỉ "khắp xư" nghĩa là hát
  ngâm, tương tự ngâm thơ trong tiếng Việt, nhưng cách ngâm hai tác phẩm
  lại khác nhau. Còn các tác phẩm như “Xống chụ xon xao” (Tiễn dặn người
  yêu) , “Tản chụ Xiết xương” (những lời cạnh khóe) , Xcók xken (hát thách
  đố) thì khắp theo điệu "báo xao" hoặc "pãn lảu pãn khảu"...

        Theo ngữ cảnh: khi đang trên rừng kiếm củi hái măng thì “khắp” theo
  điệu "khảm pá qua đông" (hát qua rừng qua núi), khi đi trên đường thì
  “khắp” theo điệu "loong tông" (hát đi trên cánh đồng), khi trên mâm rượu
  thì khắp điệu "pãn lảu pãn khảu", khi múa vòng hay trên hạn khuống thì
  “khắp” điệu "báo xao", “xống chụ xon xao” khi nằm khểnh để ngâm nga thì
  phải theo làn điệu “khắp xư” nhưng khi hát trong các bữa tiệc cưới thì lại
  phải theo làn điệu “khắp báo xao”

        Theo địa phương: mỗi địa phương sẽ có làn điệu khắp khác nhau như
  "khắp Tãy Muổi", "khắp Tãy La", "khắp Tãy Lay"... Trong đó có thể gộp
  lại thành bốn nhóm chính như sau: Nhóm Muổi - La - Mụak - Thanh: nhóm
  này mỗi mường có làn điệu rất khác nhau, nhưng vì người các mường này



Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga                                   42
Khóa luận tốt nghiệp




  có điệu nói tương tự nhau nên họ có thể hát chuẩn tất cả các làn điệu của
  mường khác trong nhóm, người Mường La, Mường Mụak có thể hát chuẩn
  làn điệu "Tãy Muổi", "Tãy Thanh" và ngược lại. Nhóm này thường đệm
  bằng các loại nhạc cụ: "pí pặp", "xlo", "pí tam lãy".

        Nhóm Lay - Xo - Chiên: Nhóm này tuy có khác nhau đôi chút về làn
  điệu nhưng họ có thể hát chuẩn giữa các làn điệu trong nhóm. Nhóm này
  thường đệm nhạc bằng "tính tẩu".

        Nhóm Sang - Tấc: Nhóm này có hai làn điệu chính là "Tãy Sang" và
  "Tãy Tấc". Người trong nhóm này có thể nghe và hát được làn điệu của
  nhau. Nhóm này thường đệm nhạc bằng "pí thiu" (hoặc "pí khúi").

        Nhóm Tãy Vạt: Người Mường Vạt thì có một làn điệu hát riêng theo
  giọng điệu nói của họ, phù hợp với "kẽn la" (khèn bè) làm nhạc cụ đệm.

        Ngoài ra thuộc về làn điệu hát truyền thống còn có các làn điệu "khắp
  đếch nọi” (hát đồng dao), "khắp ú u nọi” (hát ru), "khắp một lão”, "khắp
  một ắn ni” (hát cúng), "khắp páo khuôn” (hát chiêu hồn)…

        Nội dung khắp cũng rất phong phú, nhưng có thể chia làm hai loại
  chính là “khắp bắc” (hát sáng tác mới), “khắp quãm pang chạu” (hát lời
  truyền thống).
        “Khắp bắc” (hát sáng tác mới) là hát trong các cuộc hát vui, cuộc biểu
  diễn, đó là những bài thơ do các nhà thơ sáng tác mới để ca ngợi Đảng, ca
  ngợi đất nước, con người… cũng có khi người khắp tự sáng tác cho phù
  hợp với ngữ cảnh.
        “ Khắp quãm pang chạu” là lối hát đang rất phổ biến hiện nay. Trong
  các cuộc hát đối đáp, hát giao duyên, người hát sẽ chọn những câu, đoạn
  trong “vốn kiến thức” của mình để hát cho phù hợp.




Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga                                   43
Khóa luận tốt nghiệp




        “Vốn kiến thức” là những lời hát trong các tác phẩm nổi tiếng như:
  “Xống chụ xon xao” (Tiễn dặn người yêu) , “Khun Lũ Nãng Ủa” (Chàng
  Lú nàng Ủa)… hoặc các bài “khắp” truyền thống được lưu truyền trong dân
  gian.
        Các bài “khắp” truyền thống hiện nay có đến hàng mấy trăm bài, chia
  làm các loại sau:

          Tản chụ xống xương(Tâm tình tiễn thương): là một khúc ca dài tự sự
  kể về nỗi lòng của kẻ đã uổng công vun đắp cho một mối tình đằm thắm để
  đạt được một gia đình hạnh phúc. Nhưng mối tình đã bị phụ bạc, tan vỡ.
  Người bị phụ tình đã thốt lên những lời oán trách đầy yêu thương.

        Tản chụ xiết xương(Tâm tình trêu ghẹo yêu thương): là một loạt các bài
  hát để nói “kháy yêu” nhau theo kiểu tâng người hạ ta. Người khắp thường
  khen đối phương về nhiều mặt như: xinh đẹp, khéo nói, khéo tay, giàu
  sang… đồng thời cho mình là xấu xí, dốt nát, nghèo khó… đến mức quá
  đáng. Thực chất là mượn chủ đề tình yêu để thi thố tài năng đối đáp văn học
  nghệ thuật giữa các cặp hát đối.

        Quãm Xcók – xken(hát đối đáp giao duyên): Gồm các bài “khắp” về
  thách đố đùa vui thử trí thông minh đối phương. Thường cô gái sẽ đưa ra
  những lời thách đố chàng trai phải làm được một điều nào đó thì mới lấy
  được cô làm vợ. Có điều những lời thách đố đó là những điều bí hiểm,
  không có trong thực tế. Chẳng hạn, cô muốn ăn măng tre mọc trên không
  trung, muốn ăn măng nứa mọc trên trời cao, hay cô nàng đi đến một nơi nào
  đó trên cõi thần thiên đố chàng tìm được…

        Ngoài ra khắp truyền thống còn có các thể loại “Tản ỉn tản mặc” (Lời
  tỏ tình), “Mơi lảu”, “thiêng lảu” (Mời rượu, từ chối rượu), “Xống khươi,




Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga                                     44
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La

More Related Content

What's hot

THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ
THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ
THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ nataliej4
 
Bước đầu tìm hiểu ảnh hưởng của văn học pháp đối với văn học lãng mạn việt na...
Bước đầu tìm hiểu ảnh hưởng của văn học pháp đối với văn học lãng mạn việt na...Bước đầu tìm hiểu ảnh hưởng của văn học pháp đối với văn học lãng mạn việt na...
Bước đầu tìm hiểu ảnh hưởng của văn học pháp đối với văn học lãng mạn việt na...jackjohn45
 
Chương trình chuyên sâu thpt chuyên môn ngữ văntruonghocso.com
Chương trình chuyên sâu thpt chuyên môn  ngữ văntruonghocso.comChương trình chuyên sâu thpt chuyên môn  ngữ văntruonghocso.com
Chương trình chuyên sâu thpt chuyên môn ngữ văntruonghocso.comThế Giới Tinh Hoa
 
THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ
THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ
THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ nataliej4
 
VĂN HỌC NHẬT BẢN TỪ KHỞI THỦY ĐẾN 1868
VĂN HỌC NHẬT BẢN TỪ KHỞI THỦY ĐẾN 1868 VĂN HỌC NHẬT BẢN TỪ KHỞI THỦY ĐẾN 1868
VĂN HỌC NHẬT BẢN TỪ KHỞI THỦY ĐẾN 1868 nataliej4
 
Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...
Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...
Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...nataliej4
 
đặC điểm tiểu thuyết hồ biểu chánh
đặC điểm tiểu thuyết hồ biểu chánhđặC điểm tiểu thuyết hồ biểu chánh
đặC điểm tiểu thuyết hồ biểu chánhKelsi Luist
 
DÂN TỘC HỌC ĐẠI CƯƠNG
DÂN TỘC HỌC ĐẠI CƯƠNG DÂN TỘC HỌC ĐẠI CƯƠNG
DÂN TỘC HỌC ĐẠI CƯƠNG nataliej4
 
Kĩ năng làm bài nghị luận so sánh văn học
Kĩ năng làm bài nghị luận so sánh văn họcKĩ năng làm bài nghị luận so sánh văn học
Kĩ năng làm bài nghị luận so sánh văn họcLinh Nguyễn
 
Giáo sư Hoàng Chương
Giáo sư Hoàng ChươngGiáo sư Hoàng Chương
Giáo sư Hoàng ChươngPham Long
 
Ngôn ngữ, chữ viết và văn học ở việt namtruonghocso.com
Ngôn ngữ, chữ viết và văn học ở việt namtruonghocso.comNgôn ngữ, chữ viết và văn học ở việt namtruonghocso.com
Ngôn ngữ, chữ viết và văn học ở việt namtruonghocso.comThế Giới Tinh Hoa
 

What's hot (20)

Luận án: Âm nhạc nghi lễ dân gian trong văn hóa của người Khmer
Luận án: Âm nhạc nghi lễ dân gian trong văn hóa của người KhmerLuận án: Âm nhạc nghi lễ dân gian trong văn hóa của người Khmer
Luận án: Âm nhạc nghi lễ dân gian trong văn hóa của người Khmer
 
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAYLuận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
 
THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ
THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ
THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ
 
Bước đầu tìm hiểu ảnh hưởng của văn học pháp đối với văn học lãng mạn việt na...
Bước đầu tìm hiểu ảnh hưởng của văn học pháp đối với văn học lãng mạn việt na...Bước đầu tìm hiểu ảnh hưởng của văn học pháp đối với văn học lãng mạn việt na...
Bước đầu tìm hiểu ảnh hưởng của văn học pháp đối với văn học lãng mạn việt na...
 
Luận văn: Đặc điểm tục ngữ tiếng Mường, HAY, 9đ
Luận văn: Đặc điểm tục ngữ tiếng Mường, HAY, 9đLuận văn: Đặc điểm tục ngữ tiếng Mường, HAY, 9đ
Luận văn: Đặc điểm tục ngữ tiếng Mường, HAY, 9đ
 
Chương trình chuyên sâu thpt chuyên môn ngữ văntruonghocso.com
Chương trình chuyên sâu thpt chuyên môn  ngữ văntruonghocso.comChương trình chuyên sâu thpt chuyên môn  ngữ văntruonghocso.com
Chương trình chuyên sâu thpt chuyên môn ngữ văntruonghocso.com
 
THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ
THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ
THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ
 
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng VũTiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
 
VĂN HỌC NHẬT BẢN TỪ KHỞI THỦY ĐẾN 1868
VĂN HỌC NHẬT BẢN TỪ KHỞI THỦY ĐẾN 1868 VĂN HỌC NHẬT BẢN TỪ KHỞI THỦY ĐẾN 1868
VĂN HỌC NHẬT BẢN TỪ KHỞI THỦY ĐẾN 1868
 
Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...
Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...
Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...
 
luan an van hoc dan gian cao lan tu van hoa toc nguoi
luan an van hoc dan gian cao lan tu van hoa toc nguoiluan an van hoc dan gian cao lan tu van hoa toc nguoi
luan an van hoc dan gian cao lan tu van hoa toc nguoi
 
Luận văn: Phương tiện và biện pháp tu từ trong ca dao Nam Bộ
Luận văn: Phương tiện và biện pháp tu từ trong ca dao Nam BộLuận văn: Phương tiện và biện pháp tu từ trong ca dao Nam Bộ
Luận văn: Phương tiện và biện pháp tu từ trong ca dao Nam Bộ
 
đặC điểm tiểu thuyết hồ biểu chánh
đặC điểm tiểu thuyết hồ biểu chánhđặC điểm tiểu thuyết hồ biểu chánh
đặC điểm tiểu thuyết hồ biểu chánh
 
Đề tài: Ứng xử vợ chồng của người Việt qua ca dao Nam bộ, HAY
Đề tài: Ứng xử vợ chồng của người Việt qua ca dao Nam bộ, HAYĐề tài: Ứng xử vợ chồng của người Việt qua ca dao Nam bộ, HAY
Đề tài: Ứng xử vợ chồng của người Việt qua ca dao Nam bộ, HAY
 
Luận án: Phát triển văn xuôi các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc
Luận án: Phát triển văn xuôi các dân tộc thiểu số miền núi phía BắcLuận án: Phát triển văn xuôi các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc
Luận án: Phát triển văn xuôi các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc
 
DÂN TỘC HỌC ĐẠI CƯƠNG
DÂN TỘC HỌC ĐẠI CƯƠNG DÂN TỘC HỌC ĐẠI CƯƠNG
DÂN TỘC HỌC ĐẠI CƯƠNG
 
Kĩ năng làm bài nghị luận so sánh văn học
Kĩ năng làm bài nghị luận so sánh văn họcKĩ năng làm bài nghị luận so sánh văn học
Kĩ năng làm bài nghị luận so sánh văn học
 
Th s33.027 văn học bắc kạn từ năm 1945 đến nay
Th s33.027 văn học bắc kạn từ năm 1945 đến nayTh s33.027 văn học bắc kạn từ năm 1945 đến nay
Th s33.027 văn học bắc kạn từ năm 1945 đến nay
 
Giáo sư Hoàng Chương
Giáo sư Hoàng ChươngGiáo sư Hoàng Chương
Giáo sư Hoàng Chương
 
Ngôn ngữ, chữ viết và văn học ở việt namtruonghocso.com
Ngôn ngữ, chữ viết và văn học ở việt namtruonghocso.comNgôn ngữ, chữ viết và văn học ở việt namtruonghocso.com
Ngôn ngữ, chữ viết và văn học ở việt namtruonghocso.com
 

Viewers also liked

luan van tot nghiep ke toan (41).pdf
luan van tot nghiep ke toan (41).pdfluan van tot nghiep ke toan (41).pdf
luan van tot nghiep ke toan (41).pdfNguyễn Công Huy
 
luan van tot nghiep ke toan (53).pdf
luan van tot nghiep ke toan (53).pdfluan van tot nghiep ke toan (53).pdf
luan van tot nghiep ke toan (53).pdfNguyễn Công Huy
 
luan van tot nghiep ke toan (63).pdf
luan van tot nghiep ke toan (63).pdfluan van tot nghiep ke toan (63).pdf
luan van tot nghiep ke toan (63).pdfNguyễn Công Huy
 
Luan van tot nghiep ke toan (11)
Luan van tot nghiep ke toan (11)Luan van tot nghiep ke toan (11)
Luan van tot nghiep ke toan (11)Nguyễn Công Huy
 
Luận văn TDTT
Luận văn  TDTTLuận văn  TDTT
Luận văn TDTTniemtin12
 
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐÁNH GIÁ HỆ THỐNG THÔNG TIN KẾ TOÁN TRONG MÔI TRƯỜNG ỨNG ...
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐÁNH GIÁ HỆ THỐNG THÔNG TIN KẾ TOÁN TRONG MÔI TRƯỜNG ỨNG ...LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐÁNH GIÁ HỆ THỐNG THÔNG TIN KẾ TOÁN TRONG MÔI TRƯỜNG ỨNG ...
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐÁNH GIÁ HỆ THỐNG THÔNG TIN KẾ TOÁN TRONG MÔI TRƯỜNG ỨNG ...Nguyễn Công Huy
 
Luan van tot nghiep ke toan (Good)
Luan van tot nghiep ke toan (Good)Luan van tot nghiep ke toan (Good)
Luan van tot nghiep ke toan (Good)Nguyễn Công Huy
 
PHÂN TÍCH KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN SÀI G...
PHÂN TÍCH KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN SÀI G...PHÂN TÍCH KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN SÀI G...
PHÂN TÍCH KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN SÀI G...Nguyễn Công Huy
 
kien_thuc_chung_2014(1)
kien_thuc_chung_2014(1)kien_thuc_chung_2014(1)
kien_thuc_chung_2014(1)tuyencongchuc
 
Bài tập thuế xuất nhập khẩu có lời giải
Bài tập thuế xuất nhập khẩu có lời giảiBài tập thuế xuất nhập khẩu có lời giải
Bài tập thuế xuất nhập khẩu có lời giảiKetoantaichinh.net
 
PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN TƯ VẤN ĐẦU TƯ...
PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG  KINH DOANH TẠI CÔNG TY CỔ  PHẦN  TƯ VẤN  ĐẦU TƯ...PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG  KINH DOANH TẠI CÔNG TY CỔ  PHẦN  TƯ VẤN  ĐẦU TƯ...
PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN TƯ VẤN ĐẦU TƯ...Nguyễn Công Huy
 
Cau hoi-bai-tap-thi-cong-chuc-thue-2014
Cau hoi-bai-tap-thi-cong-chuc-thue-2014Cau hoi-bai-tap-thi-cong-chuc-thue-2014
Cau hoi-bai-tap-thi-cong-chuc-thue-2014tuyencongchuc
 
Các dạng bài tập và lời giải kế toán thuế
Các dạng bài tập và lời giải kế toán thuếCác dạng bài tập và lời giải kế toán thuế
Các dạng bài tập và lời giải kế toán thuếHọc kế toán thực tế
 

Viewers also liked (20)

Lv (30)
Lv (30)Lv (30)
Lv (30)
 
luan van tot nghiep ke toan (41).pdf
luan van tot nghiep ke toan (41).pdfluan van tot nghiep ke toan (41).pdf
luan van tot nghiep ke toan (41).pdf
 
Lv (23)
Lv (23)Lv (23)
Lv (23)
 
Lv (12)
Lv (12)Lv (12)
Lv (12)
 
Lv (7)
Lv (7)Lv (7)
Lv (7)
 
luan van tot nghiep ke toan (53).pdf
luan van tot nghiep ke toan (53).pdfluan van tot nghiep ke toan (53).pdf
luan van tot nghiep ke toan (53).pdf
 
luan van tot nghiep ke toan (63).pdf
luan van tot nghiep ke toan (63).pdfluan van tot nghiep ke toan (63).pdf
luan van tot nghiep ke toan (63).pdf
 
Lv (11)
Lv (11)Lv (11)
Lv (11)
 
Luan van tot nghiep ke toan (11)
Luan van tot nghiep ke toan (11)Luan van tot nghiep ke toan (11)
Luan van tot nghiep ke toan (11)
 
Luận văn TDTT
Luận văn  TDTTLuận văn  TDTT
Luận văn TDTT
 
Lv (13)
Lv (13)Lv (13)
Lv (13)
 
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐÁNH GIÁ HỆ THỐNG THÔNG TIN KẾ TOÁN TRONG MÔI TRƯỜNG ỨNG ...
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐÁNH GIÁ HỆ THỐNG THÔNG TIN KẾ TOÁN TRONG MÔI TRƯỜNG ỨNG ...LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐÁNH GIÁ HỆ THỐNG THÔNG TIN KẾ TOÁN TRONG MÔI TRƯỜNG ỨNG ...
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐÁNH GIÁ HỆ THỐNG THÔNG TIN KẾ TOÁN TRONG MÔI TRƯỜNG ỨNG ...
 
Luan van tot nghiep ke toan (Good)
Luan van tot nghiep ke toan (Good)Luan van tot nghiep ke toan (Good)
Luan van tot nghiep ke toan (Good)
 
Tin hoc 121 130
Tin hoc 121 130Tin hoc 121 130
Tin hoc 121 130
 
PHÂN TÍCH KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN SÀI G...
PHÂN TÍCH KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN SÀI G...PHÂN TÍCH KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN SÀI G...
PHÂN TÍCH KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN SÀI G...
 
kien_thuc_chung_2014(1)
kien_thuc_chung_2014(1)kien_thuc_chung_2014(1)
kien_thuc_chung_2014(1)
 
Bài tập thuế xuất nhập khẩu có lời giải
Bài tập thuế xuất nhập khẩu có lời giảiBài tập thuế xuất nhập khẩu có lời giải
Bài tập thuế xuất nhập khẩu có lời giải
 
PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN TƯ VẤN ĐẦU TƯ...
PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG  KINH DOANH TẠI CÔNG TY CỔ  PHẦN  TƯ VẤN  ĐẦU TƯ...PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG  KINH DOANH TẠI CÔNG TY CỔ  PHẦN  TƯ VẤN  ĐẦU TƯ...
PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN TƯ VẤN ĐẦU TƯ...
 
Cau hoi-bai-tap-thi-cong-chuc-thue-2014
Cau hoi-bai-tap-thi-cong-chuc-thue-2014Cau hoi-bai-tap-thi-cong-chuc-thue-2014
Cau hoi-bai-tap-thi-cong-chuc-thue-2014
 
Các dạng bài tập và lời giải kế toán thuế
Các dạng bài tập và lời giải kế toán thuếCác dạng bài tập và lời giải kế toán thuế
Các dạng bài tập và lời giải kế toán thuế
 

Similar to Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La

Tín ngưỡng Phồn thực của người Chăm
Tín ngưỡng Phồn thực của người ChămTín ngưỡng Phồn thực của người Chăm
Tín ngưỡng Phồn thực của người ChămThanh Hải
 
Giáo trình văn học dân gian-đã nén.pdf
Giáo trình văn học dân gian-đã nén.pdfGiáo trình văn học dân gian-đã nén.pdf
Giáo trình văn học dân gian-đã nén.pdfNguynNgcMai33
 
DÂN TỘC HỌC ĐẠI CƯƠNG
DÂN TỘC HỌC ĐẠI CƯƠNG DÂN TỘC HỌC ĐẠI CƯƠNG
DÂN TỘC HỌC ĐẠI CƯƠNG nataliej4
 
Tiểu luận Văn hóa Nhật Bản Sân khấu truyền thống Nhật Bản.pdf
Tiểu luận Văn hóa Nhật Bản Sân khấu truyền thống Nhật Bản.pdfTiểu luận Văn hóa Nhật Bản Sân khấu truyền thống Nhật Bản.pdf
Tiểu luận Văn hóa Nhật Bản Sân khấu truyền thống Nhật Bản.pdfhttps://www.facebook.com/garmentspace
 
Tiểu luận ngành Ngôn ngữ nhật, Đề tài sân khấu truyền thống Nhật Bản
Tiểu luận ngành Ngôn ngữ nhật, Đề tài sân khấu truyền thống Nhật BảnTiểu luận ngành Ngôn ngữ nhật, Đề tài sân khấu truyền thống Nhật Bản
Tiểu luận ngành Ngôn ngữ nhật, Đề tài sân khấu truyền thống Nhật BảnOnTimeVitThu
 
Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đình (Phạm Việt Long - vanhien.vn)
Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đình (Phạm Việt Long - vanhien.vn)Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đình (Phạm Việt Long - vanhien.vn)
Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đình (Phạm Việt Long - vanhien.vn)longvanhien
 
Th s33.015 hát quan lang của người tày ở thạch an cao bằng tiếp cận dưới góc ...
Th s33.015 hát quan lang của người tày ở thạch an cao bằng tiếp cận dưới góc ...Th s33.015 hát quan lang của người tày ở thạch an cao bằng tiếp cận dưới góc ...
Th s33.015 hát quan lang của người tày ở thạch an cao bằng tiếp cận dưới góc ...https://www.facebook.com/garmentspace
 
Skkn dạy tác phẩm văn học dân gian trong mối quan hệ với văn hóa dân gian
Skkn dạy tác phẩm văn học dân gian trong mối quan hệ với văn hóa dân gianSkkn dạy tác phẩm văn học dân gian trong mối quan hệ với văn hóa dân gian
Skkn dạy tác phẩm văn học dân gian trong mối quan hệ với văn hóa dân giannataliej4
 
Luận Văn Tìm Hiểu Nghệ Thuật Ca Trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng Và Địn...
Luận Văn Tìm Hiểu Nghệ Thuật Ca Trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng Và Địn...Luận Văn Tìm Hiểu Nghệ Thuật Ca Trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng Và Địn...
Luận Văn Tìm Hiểu Nghệ Thuật Ca Trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng Và Địn...tcoco3199
 

Similar to Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La (20)

Chăm phồn thực
Chăm phồn thựcChăm phồn thực
Chăm phồn thực
 
Tín ngưỡng Phồn thực của người Chăm
Tín ngưỡng Phồn thực của người ChămTín ngưỡng Phồn thực của người Chăm
Tín ngưỡng Phồn thực của người Chăm
 
Giáo trình văn học dân gian-đã nén.pdf
Giáo trình văn học dân gian-đã nén.pdfGiáo trình văn học dân gian-đã nén.pdf
Giáo trình văn học dân gian-đã nén.pdf
 
DÂN TỘC HỌC ĐẠI CƯƠNG
DÂN TỘC HỌC ĐẠI CƯƠNG DÂN TỘC HỌC ĐẠI CƯƠNG
DÂN TỘC HỌC ĐẠI CƯƠNG
 
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và TháiLuận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
 
Đề tài: Dạy dân ca Jrai trong hoạt động ngoại khóa cho học sinh
Đề tài: Dạy dân ca Jrai trong hoạt động ngoại khóa cho học sinhĐề tài: Dạy dân ca Jrai trong hoạt động ngoại khóa cho học sinh
Đề tài: Dạy dân ca Jrai trong hoạt động ngoại khóa cho học sinh
 
Tiểu luận Văn hóa Nhật Bản Sân khấu truyền thống Nhật Bản.pdf
Tiểu luận Văn hóa Nhật Bản Sân khấu truyền thống Nhật Bản.pdfTiểu luận Văn hóa Nhật Bản Sân khấu truyền thống Nhật Bản.pdf
Tiểu luận Văn hóa Nhật Bản Sân khấu truyền thống Nhật Bản.pdf
 
Tiểu luận ngành Ngôn ngữ nhật, Đề tài sân khấu truyền thống Nhật Bản
Tiểu luận ngành Ngôn ngữ nhật, Đề tài sân khấu truyền thống Nhật BảnTiểu luận ngành Ngôn ngữ nhật, Đề tài sân khấu truyền thống Nhật Bản
Tiểu luận ngành Ngôn ngữ nhật, Đề tài sân khấu truyền thống Nhật Bản
 
Luận văn: Bản sắc văn hóa Tây Nguyên trong văn xuôi H’Linh Niê
Luận văn: Bản sắc văn hóa Tây Nguyên trong văn xuôi H’Linh NiêLuận văn: Bản sắc văn hóa Tây Nguyên trong văn xuôi H’Linh Niê
Luận văn: Bản sắc văn hóa Tây Nguyên trong văn xuôi H’Linh Niê
 
Luận văn: Bản sắc văn hóa Tây Nguyên trong văn xuôi H’Linh Niê và Niê Thanh Mai
Luận văn: Bản sắc văn hóa Tây Nguyên trong văn xuôi H’Linh Niê và Niê Thanh MaiLuận văn: Bản sắc văn hóa Tây Nguyên trong văn xuôi H’Linh Niê và Niê Thanh Mai
Luận văn: Bản sắc văn hóa Tây Nguyên trong văn xuôi H’Linh Niê và Niê Thanh Mai
 
Luận văn: Nghiên cứu tác phẩm chữ Nôm Dao Hạ bản triều khoa
Luận văn: Nghiên cứu tác phẩm chữ Nôm Dao Hạ bản triều khoaLuận văn: Nghiên cứu tác phẩm chữ Nôm Dao Hạ bản triều khoa
Luận văn: Nghiên cứu tác phẩm chữ Nôm Dao Hạ bản triều khoa
 
Tư Tưởng Nho – Lão Trong Hát Nói Việt Nam.doc
Tư Tưởng Nho – Lão Trong Hát Nói Việt Nam.docTư Tưởng Nho – Lão Trong Hát Nói Việt Nam.doc
Tư Tưởng Nho – Lão Trong Hát Nói Việt Nam.doc
 
Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đình (Phạm Việt Long - vanhien.vn)
Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đình (Phạm Việt Long - vanhien.vn)Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đình (Phạm Việt Long - vanhien.vn)
Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đình (Phạm Việt Long - vanhien.vn)
 
Th s33.015 hát quan lang của người tày ở thạch an cao bằng tiếp cận dưới góc ...
Th s33.015 hát quan lang của người tày ở thạch an cao bằng tiếp cận dưới góc ...Th s33.015 hát quan lang của người tày ở thạch an cao bằng tiếp cận dưới góc ...
Th s33.015 hát quan lang của người tày ở thạch an cao bằng tiếp cận dưới góc ...
 
Luận văn: Truyền dạy hát Then cho học sinh năng khiếu, HAY, 9đ
Luận văn: Truyền dạy hát Then cho học sinh năng khiếu, HAY, 9đLuận văn: Truyền dạy hát Then cho học sinh năng khiếu, HAY, 9đ
Luận văn: Truyền dạy hát Then cho học sinh năng khiếu, HAY, 9đ
 
Ảnh hưởng của văn học dân gian trong văn xuôi và thơ ca Tày
Ảnh hưởng của văn học dân gian trong văn xuôi và thơ ca TàyẢnh hưởng của văn học dân gian trong văn xuôi và thơ ca Tày
Ảnh hưởng của văn học dân gian trong văn xuôi và thơ ca Tày
 
Skkn dạy tác phẩm văn học dân gian trong mối quan hệ với văn hóa dân gian
Skkn dạy tác phẩm văn học dân gian trong mối quan hệ với văn hóa dân gianSkkn dạy tác phẩm văn học dân gian trong mối quan hệ với văn hóa dân gian
Skkn dạy tác phẩm văn học dân gian trong mối quan hệ với văn hóa dân gian
 
Luận văn: Sử dụng các bài hát đồng dao trong giảng dạy, HAY
Luận văn: Sử dụng các bài hát đồng dao trong giảng dạy, HAYLuận văn: Sử dụng các bài hát đồng dao trong giảng dạy, HAY
Luận văn: Sử dụng các bài hát đồng dao trong giảng dạy, HAY
 
Luận Văn Triết Lý Nhân Sinh Trong Ca Dao, Tục Ngữ Nghệ Tĩnh.doc
Luận Văn Triết Lý Nhân Sinh Trong Ca Dao, Tục Ngữ Nghệ Tĩnh.docLuận Văn Triết Lý Nhân Sinh Trong Ca Dao, Tục Ngữ Nghệ Tĩnh.doc
Luận Văn Triết Lý Nhân Sinh Trong Ca Dao, Tục Ngữ Nghệ Tĩnh.doc
 
Luận Văn Tìm Hiểu Nghệ Thuật Ca Trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng Và Địn...
Luận Văn Tìm Hiểu Nghệ Thuật Ca Trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng Và Địn...Luận Văn Tìm Hiểu Nghệ Thuật Ca Trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng Và Địn...
Luận Văn Tìm Hiểu Nghệ Thuật Ca Trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng Và Địn...
 

More from longvanhien

Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1070 - vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1070 - vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1070 - vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1070 - vanhien.vnlongvanhien
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1069 - vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1069 - vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1069 - vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1069 - vanhien.vnlongvanhien
 
Diễn đàn văn nghệ Việt Nam-Số 3/2014-vanhien.vn
Diễn đàn văn nghệ Việt Nam-Số 3/2014-vanhien.vnDiễn đàn văn nghệ Việt Nam-Số 3/2014-vanhien.vn
Diễn đàn văn nghệ Việt Nam-Số 3/2014-vanhien.vnlongvanhien
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1067 - vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1067 - vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1067 - vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1067 - vanhien.vnlongvanhien
 
Diễn đàn văn nghệ Việt Nam - Số 2.
Diễn đàn văn nghệ Việt Nam - Số 2.Diễn đàn văn nghệ Việt Nam - Số 2.
Diễn đàn văn nghệ Việt Nam - Số 2.longvanhien
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1066
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1066Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1066
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1066longvanhien
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1065 - vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1065 - vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1065 - vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1065 - vanhien.vnlongvanhien
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1064 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1064 –vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1064 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1064 –vanhien.vnlongvanhien
 
Thực phẩm và sức khỏe
Thực phẩm và sức khỏeThực phẩm và sức khỏe
Thực phẩm và sức khỏelongvanhien
 
Cẩm nang người đi Miếu Bà
Cẩm nang người đi Miếu BàCẩm nang người đi Miếu Bà
Cẩm nang người đi Miếu Bàlongvanhien
 
Cẩm nang đi Núi Cấm
Cẩm nang đi Núi CấmCẩm nang đi Núi Cấm
Cẩm nang đi Núi Cấmlongvanhien
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1063 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1063 –vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1063 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1063 –vanhien.vnlongvanhien
 
Những đồng tiền Cụ Hồ
Những đồng tiền Cụ HồNhững đồng tiền Cụ Hồ
Những đồng tiền Cụ Hồlongvanhien
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1062 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1062 –vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1062 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1062 –vanhien.vnlongvanhien
 
Văn hiến Việt Nam - Số Xuân 2014
Văn hiến Việt Nam - Số Xuân 2014Văn hiến Việt Nam - Số Xuân 2014
Văn hiến Việt Nam - Số Xuân 2014longvanhien
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1059 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1059 –vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1059 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1059 –vanhien.vnlongvanhien
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1058 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1058 –vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1058 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1058 –vanhien.vnlongvanhien
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1057 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1057 –vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1057 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1057 –vanhien.vnlongvanhien
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1056 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1056 –vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1056 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1056 –vanhien.vnlongvanhien
 

More from longvanhien (20)

Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1070 - vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1070 - vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1070 - vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1070 - vanhien.vn
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1069 - vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1069 - vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1069 - vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1069 - vanhien.vn
 
Diễn đàn văn nghệ Việt Nam-Số 3/2014-vanhien.vn
Diễn đàn văn nghệ Việt Nam-Số 3/2014-vanhien.vnDiễn đàn văn nghệ Việt Nam-Số 3/2014-vanhien.vn
Diễn đàn văn nghệ Việt Nam-Số 3/2014-vanhien.vn
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1067 - vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1067 - vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1067 - vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1067 - vanhien.vn
 
Diễn đàn văn nghệ Việt Nam - Số 2.
Diễn đàn văn nghệ Việt Nam - Số 2.Diễn đàn văn nghệ Việt Nam - Số 2.
Diễn đàn văn nghệ Việt Nam - Số 2.
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1066
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1066Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1066
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1066
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1065 - vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1065 - vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1065 - vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1065 - vanhien.vn
 
So 12
So 12So 12
So 12
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1064 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1064 –vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1064 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1064 –vanhien.vn
 
Thực phẩm và sức khỏe
Thực phẩm và sức khỏeThực phẩm và sức khỏe
Thực phẩm và sức khỏe
 
Cẩm nang người đi Miếu Bà
Cẩm nang người đi Miếu BàCẩm nang người đi Miếu Bà
Cẩm nang người đi Miếu Bà
 
Cẩm nang đi Núi Cấm
Cẩm nang đi Núi CấmCẩm nang đi Núi Cấm
Cẩm nang đi Núi Cấm
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1063 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1063 –vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1063 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1063 –vanhien.vn
 
Những đồng tiền Cụ Hồ
Những đồng tiền Cụ HồNhững đồng tiền Cụ Hồ
Những đồng tiền Cụ Hồ
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1062 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1062 –vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1062 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1062 –vanhien.vn
 
Văn hiến Việt Nam - Số Xuân 2014
Văn hiến Việt Nam - Số Xuân 2014Văn hiến Việt Nam - Số Xuân 2014
Văn hiến Việt Nam - Số Xuân 2014
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1059 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1059 –vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1059 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1059 –vanhien.vn
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1058 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1058 –vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1058 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1058 –vanhien.vn
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1057 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1057 –vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1057 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1057 –vanhien.vn
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1056 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1056 –vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1056 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1056 –vanhien.vn
 

Recently uploaded

GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANGPHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANGhoinnhgtctat
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfVyTng986513
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxAnAn97022
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 

Recently uploaded (20)

GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANGPHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 

Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La

  • 1. Khóa luận tốt nghiệp TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI TÌM HIỂU VỀ “KHẮP” CỦA NGƯỜI THÁI Ở HUYỆN MƯỜNG LA KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn hoá các dân tộc thiểu số Người thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga Người hướng dẫn: Tiến sĩ Vi Văn An Chỉnh lý: Tiến sĩ Phạm Việt Long Hà Nội, năm 2011 Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 1
  • 2. Khóa luận tốt nghiệp LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành khóa luận này, tôi xin gửi lời cảm ơn và lòng biết ơn sâu sắc đến T.S Vi Văn An, người đã tận tình hướng dẫn trong suốt quá trình viết khóa luận tốt nghiệp. Tôi xin chân thành cảm ơn quý Thầy, Cô trong khoa Văn hóa dân tộc thiểu số, đã truyền đạt kiến thức và tạo điều kiện tốt nhất để tôi được học tập và nghiên cứu tại Trường Đại học Văn hóa Hà Nội Tôi xin chân thành cảm ơn phòng Văn hóa huyện Mường La, các chuyên gia, các nghệ nhân, đã giúp đỡ tôi thu thập những thông tin cần thiết để hoàn thành khóa luận này. Tôi xin bày tỏ sự biết ơn chân thành tới gia đình, bạn bè và những người thương yêu tôi, luôn bên tôi, giúp đỡ tôi về vật chất cũng như tinh thần trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài. Vì điều kiện thời gian nghiên cứu có hạn, đề tài khó tránh khỏi sự thiếu sót, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô và mọi người để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn và có ý nghĩa cả trong lý luận và thực tiễn Trân trọng cảm ơn! Hà Nội ngày 18 tháng 5 năm 2011 Sinh viên Nguyễn Thị Thanh Nga Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 2
  • 3. Khóa luận tốt nghiệp MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Là một thành tố của văn hóa phi vật thể, dân ca đóng vai trò hết sức quan trọng trong đời sống tinh thần của người Thái Tây Bắc nói chung, của người Thái ở Mường La nói riêng. Nhờ sự phong phú, đa dạng về thể loại, nên dân ca đã góp phần tạo nên bản sắc văn hóa riêng của người Thái, góp phần không nhỏ vào kho tàng văn hóa văn hóa nghệ thuật của cả nước. Thật vậy, người ta đã tìm thấy trong dòng chảy văn hóa Thái nhiều bộ trường ca có giá trị như Táy Pú Xớc (kể về bước đường chinh chiến của ông cha), Quam tô mương (Kể chuyện bản mường), Phanh mường; những tác phẩm thơ khuyết danh như: Xống chụ xôn xao (tiễn dặn người yêu), Khun Lu nang Ủa (Chàng Lú-Nàng Ủa); nhiều điệu múa Thái nhịp nhàng uyển chuyển qua hình ảnh những cô gái trẻ trong bộ y phục tuyệt đẹp và các điệu “múa xòe” nổi tiếng. Các điệu dân vũ đã đạt tới trình độ nghệ thuật điêu luyện như: múa khăn, “múa nón, múa chèo thuyền, v.v.. Đặc biệt, là những làn điệu dân ca như “Khắp báo xao”, “Khắp chiêu”…luôn có mặt trong các cuộc vui hội hè và giữ vai trò chủ đạo tạo nên bầu không khí thanh bình, náo nhiệt của sinh hoạt cộng đồng. Từ lâu, “khắp” Thái đã gắn chặt với cuộc sống của người lao động. Dòng đời con người từ khi sinh ra, lớn lên cho đến khi nằm xuống, luôn có một dòng chảy dân ca như suối nguồn tưới mát. Dường như mỗi chặng đời người đều được đánh dấu bằng những thể loại dân ca riêng, hát trao vòng cho trẻ sơ sinh, hát đồng dao cho các em nhi đồng, thiếu niên, hát giao duyên nam nữ, hát đám cưới cho các lứa đôi, hát lên nhà mới cho những gia đình hạnh phúc. Vào lứa tuổi trung niên con người phải biết hát dân ca để tham gia sinh hoạt trong các ngày hội, ngày lễ cầu cúng của cả bản làng. Những người già thường yêu thích những buổi Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 3
  • 4. Khóa luận tốt nghiệp hát kể chuyện cổ tích hay các anh hùng ca dân tộc. Và khi con người xế chiều mãn bóng thì được cả cộng đồng ca hát tiễn tới nơi an nghỉ cuối cùng. Có thể thấy hát Thái không còn là khu rừng biệt lập xa cách nữa mà đã gần gũi, quen thuộc từ lâu. Tuy nhiên, sự hiểu biết của chúng ta về các làn điệu dân ca Thái vẫn còn khiêm tốn. Còn khá nhiều làn điệu hát Thái ta mới chỉ được nghe tên và có không ít những làn điệu “khắp” của người Thái chỉ còn tồn tại trong ký ức của những người già. Mặc dù đã có một số công trình, bài viết đề cập đến dân ca Thái, song hầu như chưa có một công trình sưu tầm, nghiên cứu một cách có hệ thống, chuyên sâu về dân ca “khắp” của người Thái nói chung, người Thái ở Mường La nói riêng. Vì vậy, việc nghiên cứu về khắp Thái ở Mường La nhằm phát huy giá trị của loại hình dân ca này là hết sức cần thiết. Với những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Tìm hiểu về “khắp” của người Thái ở huyện Mường La” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Vấn đề văn nghệ dân gian của người Thái đã được đề cập đến trong một số công trình, nhưng do yêu cầu của công việc, mỗi người đã đứng ở mỗi góc độ, nên thành quả thu lại cũng khác nhau, mỗi công trình nghiên cứu có thể đề cập toàn diện văn hóa của người Thái, có những công trình chỉ đề cập đến một lĩnh vực trong văn hóa. Riêng về hát dân ca Thái, cho đến nay dường như mới chỉ được đề cập đến trong một số công trình nghiên cứu, nhưng chưa từng được giới thiệu trọn vẹn. Những bài dưới tên chung là Tản chụ xiết xương mới chỉ được trích in không nhiều. Hợp tuyển thơ văn Việt Nam phần văn học dân tộc thiểu số giới thiệu các bài Lành đồn xa, Ướm hỏi, Chung lứa chung nôi, Đời thanh xuân, Dặn dò trong số hơn một trăm bài ghi trong lời dẫn của Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 4
  • 5. Khóa luận tốt nghiệp nhà xuất bản. Hợp tuyển còn in một số bài hát thách và một số bài Nam nữ đối ca… Gộp lại phần lời hát được giới thiệu trong Hợp tuyển tất cả khoảng 500 câu. Trước khi hợp tuyển ra đời, trên tạp chí văn nghệ có lần in vài ba bài Tản chụ xiết xương. Ngoài ra, không còn ấn bản nào khác công bố về thể tài này. Về mặt âm nhạc, ngược lại, giáo sư, tiến sĩ khoa học Tô Ngọc Thanh đã in hàng loạt bài nghiên cứu giới thiệu có giá trị. Tô Ngọc Thanh còn là người đầu tiên giới thiệu về đồng dao Thái. Tạp chí Văn nghệ Tây Bắc năm 1974 còn công bố một số bài viết ngắn về Văn Hoan, một nhân vật đượm vẻ truyền thuyết, gắn với những hành trình dân ca đầy màu sắc và đậm dấu ấn tập quán dân tộc. Tuy nhiên, chúng ta thiếu hẳn những sưu tập hoàn chỉnh cần thiết về lời ca và sinh hoạt dân ca. Hạn khuống là một hình thức tổng hợp của văn nghệ dân gian Thái. Các tác giả Cầm Biêu, Sa Phong, Lò Văn Sĩ đều góp phần giới thiệu hình thức văn nghệ này. Đó là tất cả những gì nói về sinh hoạt văn nghệ dân gian Thái trong trạng thái nguyên hợp của nó. Tình hình giới thiệu, xuất bản vừa được điểm qua trên đây cho thấy cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách thấu đáo và hệ thống về “khắp” Thái. Đó vừa là thuận lợi nhưng cũng là khó khăn, thách thức đối với tôi khi nghiên cứu đề tài này. 3. Mục đích nghiên cứu Việc nghiên cứu về “khắp” của người Thái ở huyện Mường La trước hết nhằm hệ thống lại các làn điệu khắp của người Thái, từ đó có cái nhìn tương đối đầy đủ, toàn diện về những đặc điểm nổi bật, độc đáo của những điệu“khắp” Thái. Đồng thời luận văn đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị bản sắc văn hóa truyền thống của người Thái ở huyện Mường La cùng hòa chung vào nền văn hóa Việt Nam “Tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”. Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 5
  • 6. Khóa luận tốt nghiệp 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Nói đến “khắp” là nói đến lĩnh vực văn hóa tinh thần, do vậy phạm vi khá rộng, song do khả năng có hạn, đề tài chỉ đi sâu nghiên cứu một số làn điệu “khắp” phổ biến của người Thái đen ở huyện Mường La. 5. Phương pháp nghiên cứu − Tra cứu tài liệu − Xã hội học văn hóa − Khảo sát thực tế − Phương pháp phân tích, tổng hợp − Phương pháp thống kê, phân loại 6. Đóng góp của đề tài Nghiên cứu “khắp” Thái trong đời sống văn hoá dân gian của người Thái đen ở Mường La, nhằm giới thiệu một nét văn hoá đặc trưng vốn có trong dân gian nhưng chưa có nhiều công trình nghiên cứu về nó. Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống về “khắp”của người Thái ở Mường La Trong quá trình nghiên cứu, qua khảo sát điền dã, tác giả đề tài đã thu thập được một số lượng những điệu “khắp” còn đang lưu truyền trong đời sống dân gian ở Mường La. Kết quả khảo sát thực tế trên là cơ sở khoa học để tác giả luận văn bước đầu đề xuất hướng bảo tồn và phát huy giữ gìn nét đẹp, bản sắc văn hoá dân tộc các dân tộc thiểu số Việt Nam đang bị mai một dần, bởi đây là một công việc cụ thể, có ý nghĩa cho những người có ý thức về sự hiện diện và vai trò của “khắp”. 7. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương. Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 6
  • 7. Khóa luận tốt nghiệp Chương 1. Khái quát về người Thái ở Mường La Chương 2. “Khắp” và các điệu “Khắp” của người Thái ở huyện Mường La Chương 3. “Khắp” trong đời sống xã hội của người Thái ở huyện Mường La Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 7
  • 8. Khóa luận tốt nghiệp Chương 1 KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI THÁI Ở MƯỜNG LA 1.1. Điều kiện tự nhiên và văn hóa xã hội 1.1.1. Điều kiện tự nhiên - Vị trí địa lý Mường La là huyện miền núi của Sơn La, cách Thành phố Sơn La 41 km về phía Đông Bắc, có toạ độ địa lý: 21015' - 21042' vĩ Độ Bắc; 103045' - 104020' kinh độ Đông. Phía Bắc và phía Đông giáp tỉnh Lào Cai và Yên Bái; phía Đông Nam giáp huyện Bắc Yên; Phía Tây giáp huyện Quỳnh Nhai và huyện Thuận Châu; Phía Nam giáp huyện Mai Sơn và Thành phố Sơn La. Do vị trí địa lý như vậy, Mường La có nhiều điều kiện thuận lợi trong giao lưu văn hoá, trao đổi hàng hoá với các địa phương khác. Đây là những thế mạnh mà Đảng bộ, chính quyền địa phương đã xác định tập trung khai thác lợi thế trong thời gian tới. - Địa hình Huyện Mường La nằm ở độ cao trung bình từ 500- 700m so với mặt nước biển, phía Đông và phía Đông Bắc của huyện là những dãy núi cao, địa hình thấp dần về phía Nam và dọc theo 2 bờ sông Đà. . Sông Đà là sông lớn nhất chảy qua huyện. Một số sông suối lớn khác là Nậm Mu, Nậm Chiến, Nậm Trai, Nậm Pàn, Nậm Pia. Khi đập thủy điện Sơn La được hoàn thành, hồ thủy điện Sơn La sẽ chiếm một phần không nhỏ diện tích toàn huyện. - Khí hậu Mường La có khí hậu nhiệt độ gió mùa, khí hậu trong năm chia làm 2 mùa rõ rệt. Mùa mưa kéo dài từ tháng 4 đến tháng 9, vào mùa mưa thường Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 8
  • 9. Khóa luận tốt nghiệp kèm theo lốc và lũ quét tại các sông suối đầu nguồn. Mùa khô chịu ảnh hưởng của gió Tây Nam, gió mùa Đông Bắc và khí hậu tiểu vùng sông Đà, mùa khô bắt đầu từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau. Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 20-260C, lượng mưa bình quân là 1.347mm/năm, độ ẩm trung bình là 85%. - Đất đai Huyện Mường La có tổng diện tích đất tự nhiên là 142,205.00 ha (theo tống kiểm kê đất đai năm 2005), hầu hết là rừng núi (chiếm hơn 90% diện tích). Trong đó diện tích đất nông nghiệp là 89.792 ha, chiếm 63,14% tổng diện tích đất tự nhiên của huyện; diện tích đất phi nông nghiệp (đất ở và đất chuyên dùng) là 3.725 ha chiếm 2,6%; diện tích đất chưa sử dụng là 48.844 ha chiếm 34,34%, diện tích này chủ yếu là đối núi chưa sử dụng với 38.154 ha, trên diện tích này chủ yếu là thảm thực vật xen cây lùn, còn lại 10.69 ha là núi đá không rừng cây. - Hệ thống thủy văn Trên địa bàn có sông Đà chảy qua theo hướng Tây Bắc-Đông Nam, với tổng chiều dài 50km. Có 5 con suối lớn là suối Nậm Mu, Nậm Chiến, Nậm Trai, Nậm Pàn, Nậm Pia chảy qua với chiều dài 200km và nhiều con suổi nhỏ rải rác trong toàn huyện. Hệ thống sông suối ở đây nhiều thác ghềnh đều chảy trên các sườn dốc, dồn nước vào các thung lũng hẹp, đổ ra sông suối lớn, nên chế độ dòng chảy rất thất thường gây khó khăn cho thuyền bè đi lại trên sông, nhất là vào mùa nước lũ . Nhưng cũng vì thế mà chúng đã tạo ra một nguồn năng lượng sức nước vô tận phát triển thủy điện. Hiện nay, trên địa bàn huyện đã và đang xây dựng 13 công trình thuỷ điện lớn, vừa và nhỏ. Tổng công suất khoảng 3.200MW, trong đó thuỷ điện Sơn La là công trình thuỷ điện lớn nhất nước ta. - Giao thông Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 9
  • 10. Khóa luận tốt nghiệp Đến nay huyện đã có 16/16 xã có đường ô tô đến trung tâm xã, nhưng do địa hình hơn 90% là đồi núi nên việc đi lại còn gặp rất nhiều khó khăn. Đường giao thông liên bản hầu như chưa có, việc đi lại giữa các bản chủ yếu là dùng ngựa hoặc đi bộ trên những con đường mòn nhỏ. Vào mùa mưa việc đi lại của bà con còn gặp nhiều khó khăn hơn, nhiều khi không đi được vì đường bị sạt lở, các rãnh nước từ khe núi chảy ra làm chia cắt, ngập đường. Riêng hệ thống giao thông khu trung tâm huyện khá phát triển, bao gồm đường thủy, đường hàng không, đặc biệt là mạng lưới giao thông đường bộ bao gồm các tuyến đường vào nhà máy, đường vào các khu mỏ khai thác, tuyến đường 106, các tuyến nội thị…đều được hoàn thiện theo tiêu chuẩn, chủ yếu là đường nhựa, đường bê tông và cấp phối phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” các tuyến đường liên xã, liên bản, đến các điểm tái định cư thủy điện Sơn La được đầu tư xây dựng, góp phần thúc đẩy phát triển nông nghiệp, nông thôn. Có thế thấy, với địa hình núi cao, sông rộng, nhiều suối, có đường thuỷ, đường bộ và đường không nên Mường La có vị trí chiến lược về kinh tế, chính trị, quân sự quan trọng trong khu vực Tây Bắc nói chung. Được đánh giá là huyện giàu tiềm năng về đất đai, môi trường, tài nguyên, trong đó có thế mạnh là phát triển thuỷ lợi và thuỷ điện. Tuy có nhiều tiềm năng nhưng Mường La vẫn có tên trong danh sách 5 huyện nghèo của tỉnh Sơn La do phải đối mặt với những khó khăn như: địa bàn rộng, giao thông đi lại khó khăn, xuất phát điểm của nền kinh tế thấp; tập quán canh tác lạc hậu, các tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp, nhất là khi tiếp nhận thêm gần 1 vạn công nhân đến làm việc trên công trường Nhà máy thuỷ điện Sơn La. 1.1.2. Điều kiện văn hóa xã hội - Các đơn vị hành chính Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 10
  • 11. Khóa luận tốt nghiệp Toàn huyện có 16 đơn vị hành chính, gồm 01 thị trấn là thị trấn Ít Ong và các xã: Chiềng Hoa, Tạ Bú, Mường Chùm, Chiềng San, Nậm Păm, Pi Toong, Mường Bú, Hua Trai, Chiềng Lao, Nậm Giôn, Mường Trai, Chiềng Muôn, Chiềng Ân, Chiềng Công, Ngọc Chiến. Trong đó có 7 xã thuộc diện xã đặc biệt khó khăn, nằm trong Chương trình 135 giai đoạn II là các xã: Chiềng Lao, Nậm Giôn, Mường Trai, Chiềng Muôn, Chiềng Ân, Chiềng Công, Ngọc Chiến. - Dân số, dân tộc Theo số liệu thống kê, tính đến cuối năm 2009, dân số toàn huyện là 16.449 hộ với 85.974 nhân khẩu. Trong đó số dân của huyện là 79.779 người, còn lại là công nhân phục vụ thủy điện Sơn La. Mật độ dân số bình quân 60 người/km2 với tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 1,86%. Về dân tộc, toàn huyện có 6 dân tộc anh em cùng chung sống, bao gồm: dân tộc Thái chiếm 63,21%; Mông 16,98%; Kinh 12,65%; La Ha 5,91%; Kháng 0,93%; Khơ Mú 0,32%. Cũng như nhiều vùng khác của Tây Bắc, các dân tộc ở Mường La chủ yếu phân bố như sau: Người Thái tập trung tại vùng thấp, dọc sông suối, có cánh đồng rộng. Sinh sông chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước, cây hoa màu trên nương và đánh bắt thuỷ sản. Người La Ha, Kháng, Khơ Mú sinh sống ở rẻo giữa bằng nghề làm nương, thu hái lâm sản. Người Mông sống ở vùng cao bằng nghề trồng cây trên nương là chủ yếu Người La Ha không dệt vải mà chỉ trồng bông đem đổi với người Thái để lấy quần áo mặc nên trang phục của người La Ha tương tự như trang phục của người Thái đen. - Giáo dục, y tế Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 11
  • 12. Khóa luận tốt nghiệp Về giáo dục, huyện luôn giữ vững kết quả phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập giáo dục trung học cơ sở và xây dựng 13 trường học đạt chuẩn quốc gia. Trong công tác y tế tương tự như nhiều vùng núi, dân tộc trong cả nước, hệ thống y tế của huyện Mường La bao gồm: bệnh viện huyện, bác sĩ..Đối với từng xã trong huyện đã có đủ trạm y tế xã, nhân viên y tế thôn và y tế tư nhân (rất ít). Trong đó bệnh viện huyện à đơn vị có vai trò chính trong việc quản lý và chăm sóc sức khoẻ cho người dân trong huyện - Các đặc điểm văn hóa Là huyện miền núi có nhiều dân tộc anh em sinh sống (trong đó người Thái chiếm đa số nhưng chủ yếu là Thái đen). Mỗi dân tộc đều có những bản sắc văn hóa riêng nhưng các nền văn hoá đó không độc lập tồn tại (trong cái chung có cái riêng) mà hoà quyện, bổ trợ lẫn nhau tạo nên một văn hóa mang đậm đà bản sắc dân tộc. Nhìn chung đồng bào các dân tộc trong huyện đều có chung truyền thống: dũng cảm, cần cù, sáng tạo trong lao động, có tinh thần yêu nước, ngoan cường đấu tranh chống áp bức, bóc lột, tính tình thật thà, chất phác, ưa phóng khoáng, rộng lượng và rất mến khách. Không những vậy, nhân dân trong huyện còn có tinh thần đoàn kết và tính cộng đồng cao : “Tuy khác bản nhưng chung mường; ở khác phương nhưng chung vùng; ở mỗi người một khe suối nhưng chung một vận mệnh” (ca dao Thái). 1.2. Khát quát về người Thái ở huyện Mường La 1.2.1. Tên gọi, dân số và sự phân bố Người Thái Mường La tự gọi mình là Phủ Tay hay Côn Tay đều có nghĩa là người. Người Thái ở Mường La thuộc ngành Thái Đen. Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 12
  • 13. Khóa luận tốt nghiệp Huyện Mường La trước đây rộng: 1.421,0 km2, dân số: 67,294 người, trong đó: Thái: 48,969 người (1999). Hiện nay, người Thái ở huyện Mường La có 54.344 người, chiếm 63,21% dân số toàn huyện. Tên Mường La xuất hiện từ thế kỷ XII. Đó là tên đông nghĩa với tên Mường Lò. Theo Quam tô mương (Kể chuyện bản mường) của người Mường La nói: khi Lạng Chượng đưa người Thái tới Mường La, đã dựng nhà để cúng tổ tiên tại nơi trung tâm “ mường”.Ngày cúng tổ tiên họ Lò ( họ quý tộc) là ngày “hài” ( tức ngày bính) nên đặt địa điểm dựng nhà cúng đó là bản hài. Nay xác định đó là bản Hài thuộc xã Chiềng An huyện Mường La. Xưa kia vì bản Hài là trung tâm châu Mường nên gọi là “Viềng hài”. Trung tâm châu mường gọi là Chiềng An nên tên châu mường cũng gọi là Chiềng An. Những “ mường nhỏ” thuộc phạm vi châu mường có: Mường Trai hay Chiêng Nghiêm, Mường Bú hay Chiềng Biên, Mường Chùm, Mường Chiến. Theo Quam tô mương, khoảng thế kỷ XV sau đời Ta Ngần ở Mường La có Duông Căm làm thủ lĩnh, Mường La bắt đầu dần dần phát triển thế lực. đên khoảng thế kỷ XVII đời thủ lĩnh Bun Pành, Mường La tách hẳn khỏi Mường Muội thành châu mường lớn mạnh. Bước sang thế kỷ XVIII đời thủ lĩnh Bun Phanh, Mường La đã trở thành châu mường có ảnh hưởng khắp vùng “ Mười sáu châu Thái”. Khoảng thời Lê mạt, Mường La được Trinh Sâm đặt là châu Sơn La. Như vậy thế kỷ XVIII triều đinh cũng xác nhận Mường La là một châu mường tách khỏi ảnh hưởng của Mường Muổi (Thuận Châu). Hiện nay, Mường la vẫn là huyện thuộc tỉnh Sơn La. Tại huyện có thị xã Sơn La. 1.2.2. Nguồn gốc của người Thái Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 13
  • 14. Khóa luận tốt nghiệp Theo Quam tô mương Mường La: người Thái đã có mặt ở Mường La từ ngàn năm nay. Họ là người Thái đen, có nguồn gốc xa xưa từ Mường Ôm, Mường Ai (thuộc tỉnh Vân Nam Trung Quốc), từ thời ông Lạng Chượng dẫn đoàn người Thái đen từ Mường Lò đi mở mang bờ cõi. Khi ông vượt qua đèo Khâu Pha, (có nghĩa là sừng trời, thuộc huyện Mù Cang Chải, Yên Bái), ngược theo con suối, thấy một vùng đất rộng và tốt, sơn thuỷ hữu tình. Ông cho xây bản lập mường ở đây. Nhưng không thấy một người bản địa nào sống ở đây cả, nên ông mới gọi mường này là Mường Lạ (mường trống không), những người đời sau gọi chệch thành Mường La. Sau này ông mới biết những người dân bản địa đã chốn vào một khu rừng rậm rạp gọi là Đông Mệt (gần nghĩa với rừng bí mật, nay vẫn còn địa danh này). Ông cho đặt chiềng(1) tại khu đất có núi đá bao quanh, có ao nước trước mặt gọi là Chiềng An. Ông Lạng Chượng cho khai phá đất làm ruộng, lập nên Viềng(2) Hài và Viềng Giảng. Sau đó ông tiếp tục dẫn đoàn quân lên Mường Muổi, giao cho Khun Dãng làm chủ Mường La. Từ Mường La, một số thủ lĩnh đã mở thêm một số mường mới là Mường Bú, Mường Chùm, Mường Trai… Mỗi mường có một thủ lĩnh làm chủ đất gọi là phìa, các mường này gọi là mường phìa. Đến thế kỷ thứ XV (thời Lê), một số mường lân cận sáp nhập thành một mường lớn, gọi là mường chu hay châu mường. Đứng đầu châu mường là An nha. Châu Mường La gồm có: Mường La là mường trung tâm, có bộ máy thống trị của Châu Mường; các mường khác gọi là mường ngoài gồm: Mường Bú, Mường Chùm, Mường Trai, Mường Chiến và lộng Mường Pia (lộng là mường nhỏ). Sau khi hoà bình lập lại, Châu Mường La trở thành huyện Mường La. Năm 1961, vùng mường phìa Mường La cũ chuyển thành Thị xã, các mường còn lại vẫn thuộc huyện Mường La. 1() Chiềng là trung tâm của một mường 2( ) Viềng là nơi thành luỹ quân sự để bảo vệ Chiềng Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 14
  • 15. Khóa luận tốt nghiệp Người Thái đen ở huyện Mường La ngày nay, cơ bản thống nhất với người Thái đen ở Thành phố Sơn La về các đặc điểm văn hoá (ăn mặc, nói năng, chữ viết, tập quán…) vì Thành phố Sơn La ngày nay chính là trung tâm của cả vùng Châu Mường La ngày trước. Vì vậy, các điệu hát ở Thành phố Sơn La cũng chính là điệu hát của Mường La. Tuy vậy mỗi vùng trong huyện lại có những làn điệu riêng nữa, như Mường Trai có điệu “hua co lôm” mà buồn và cô đơn, người ta thường hát hát một mình với gió, Pi Tong có điệu hát riêng phù hợp với đời sống văn hóa của họ. 1.2.3. Hoạt động kinh tế - Canh tác ruộng nước và nương rẫy Người Thái ở Mường La là cư dân nông nghiệp trồng trọt, trong đó canh tác ruộng nước là chính, nương rẫy chỉ phổ biến ở một số bộ phận cư dân. Với bộ nông cụ làm ruộng như cày, mai, xẻng; các biện pháp kỹ thuật liên hoàn (làm đất, làm mạ và gieo cấy, chăm sóc và thu hoạch); đặc biệt là hệ thống thủy lợi “dẫn thủy nhập điền” mương, phai, lái, lin và cọn nước, cùng với các nghi lễ tín ngưỡng liên quan, qua nhiều thế hệ, họ đã đúc kết và tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong sản xuất. Hiện nay, người Thái đã chuyển sang làm 2 vụ lúa. Vụ mùa cấy tháng 2, thu hoạch tháng 5; vụ chiêm cấy tháng 7 thu hoạch thnág 10. Việc thu hoạch được làm gọn và nhanh hơn gồm: gặt - đập - quạt - nhập kho. Tại các xã vùng cao, vùng sâu, người Thái chủ yếu sinh sống bằng canh tác nương rẫy. Đó là lối canh tác “phát đốt, gieo trồng”, theo chu kỳ vòng quay khép kín từ 4-6 năm. Rẫy được phân loại theo địa thế đất (rẫy dốc, rẫy bằng), theo kỹ thuật sử dụng (dùng cuốc, dùng cày) và thời gian canh tác (rẫy vụ một, rẫy vụ 2). Bộ công cụ làm rẫy gồm nhiều loại với chức năng sử dụng khác nhau. Công cụ phát có dao, rìu, móc, khều; công cụ gieo hạt gồm gậy chọc lỗ bịt sắt hoặc không bịt sắt; công cụ làm cỏ có nạo, cuốc; và nhíp Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 15
  • 16. Khóa luận tốt nghiệp dùng để gặt. Hiện nay, nhiều mô hình trình diễn khuyến nông làm vườn rừng xuất hiện ở nhiều nơi. - Chăn nuôi Trước đây người Thái có tập quán nuôi trâu thả rông trong những Púng rào giậu kín, tự chúng sống, sinh đẻ, đến mùa mới bắt trâu về kéo cày. Nay thì họ đã nuôi trâu theo gia đình, có chuồng trại riêng. Còn chăn nuôi lợn, gà, vịt, ngan, ngỗng thì rất phát triển. Vật nuôi vừa trở thành sản phẩm hàng hóa, vừa sử dụng trong lễ tết. Trong những năm gần đây, ở huyện Mường La nghề chăn nuôi đã có bước phát triển mạnh theo hướng hàng hóa, nhất là chăn nuôi đàn gia súc ăn cỏ. Nhiều vùng các hộ chăn nuôi đã đầu tư xây dựng chuồng trại, chuyển hướng nuôi nhốt và chú trọng tiêm phòng bệnh cho gia súc, vì thế đàn gia súc phát triển cả về số lượng và chất lượng. - Săn bắt, hái lượm Nhờ ruộng đất, đời sống của người Thái có phần sung túc hơn các cư dân quanh vùng. Nhưng họ vẫn chưa thoát được cảnh tháng ba, ngày tám, những năm đói kém do lũ lụt, hạn hán gây ra. Họ không bị chết đói là nhờ có rừng bao quanh có khả năng cung cấp cho họ các thứ củ quả hay thân cây có chất bột. Lại thêm, từng mùa rừng cung cấp các loại rau quả, hạt dại, nấm, mộc nhĩ, măng, rêu đá, các loại côn trùng. Dưới khe suối có cá, tôm, cua, ốc, cá nhỏ…Những thứ đó thường xuyên tham gia vào hai bữa ăn chính hàng ngày của đồng bào. Nên hái lượm vẫn đóng một vị trí nhất định trong đời sống kinh tế của người Thái ở Mường La. Rừng còn cung cấp cho đồng bào nguyên vật liệu để làm nhà, đan lát những gia cụ, cung cấp củi đun, dầu thắp sáng, những cây thuốc và những lâm thổ sản quý. Trong rừng các loại chim, thú là đối tượng để đồng bào săn bắt. Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 16
  • 17. Khóa luận tốt nghiệp Trái với săn bắt, nghề đánh cá phát triển hơn. Người Thái có câu “Páy hin pá, má kin lẩu” (đi ăn cá về uống rượu) nói lên việc ăn cá là một thú vui ở người Thái. - Ngành nghề thủ công Nghề thủ công của người Thái ở Mường La rất phong phú, phát triển đạt trình độ cao. Có thể nói phụ nữ Thái là những thợ dệt chăm chỉ, lành nghề, sản xuất không những đủ chăn, màn , quần áo cho gia đình mà còn đem trao đổi. Sản phẩm nổi tiếng của người Thái Mường La là vải thổ cẩm, với những hoa văn đặc sắc, màu sắc tươi hài hoà, bền đẹp. Nghề đan lát là công việc của đàn ông. Họ thường đan những vật dụng hàng ngày (nong, nia, dần, sang..). Ngoài ra còn có những nghề thủ công mang tính chuyên nghiệp như nghề rèn nông cụ xẻng, cuốc, lưỡi cày, dao, kéo…Họ còn biết dùng bàn xoay, độ nung cao trong nghề làm gốm tạo thành những chum, vò, nồi, chõ đất, bát đĩa đạt trình độ kĩ thuật và mĩ thuật. -Trao đổi, mua bán Trong một xã hội hầu như không có chợ búa, việc trao đổi hàng hóa thường chỉ hạn chế vào một số nhu yếu phẩm và chủ yếu vẫn là hình thức hàng đổi hàng với những cư dân khác tộc ở rẻo giữa và rẻo cao. Thỉnh thoảng, có những chuyến hàng ngược sông hay những đoàn ngựa, bò của các thương nhân người Lào, người Miến đem các nhu yếu phẩm đến bán hoặc trao đổi lấy những sản phẩm của địa phương. 1.3. Các đặc trưng văn hóa 1.3.1. Về văn hóa vật chất Văn hoá vật chất là một trong những trụ cột nâng đỡ thiết chế bản mường. Ăn, ở, mặc là những giá trị văn hoá vật chất tiêu biểu cơ bản của nền kinh tế nông nghiệp lúa nước thung lũng nói chung trong đó có đồng bào Thái. Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 17
  • 18. Khóa luận tốt nghiệp - Nhà ở Từ lâu người Thái ở Mường La đã quần cư thành bản. Mỗi bản bao gồm đất ở, đất canh tác (ruộng, nương), bãi cỏ chăn nuôi, khu rừng, khu nghĩa địa và nguồn nước sông suối riêng. Bản lớn có tới hàng trăm nóc nhà, nơi ít ruộng bản chỉ có mười nóc nhà. Các bản người Thái ở chân sườn núi trông xuống cánh đồng. Mỗi bản có tên gọi riêng theo truyền thuyết địa phương, theo chức vụ của người trưởng bản. Người Thái đều ở nhà sàn làm bằng gỗ, rất đẹp, chắc, dựng theo những quy định được đặt ra từ đời này qua đời khác. Nhà của người Thái ở Mường La thường tạo dáng mái nhà hình mai rùa, trang trí trên hai đầu nóc nhà bằng những khau cút theo phong tục từ xưa truyền lại. Nói đến nhà sàn của người Thái là người ta thường nghĩ ngay đến nhà sàn truyền thống của người Thái với kiểu liên kết khớp bằng mộng và buộc các hệ thống kết cấu chịu lực: hệ thống dầm, sàn, bao che…mà không cần dùng đến kim loại (đinh, ốc, vít…. ). Mái nhà thường được lợp bằng cỏ gianh đan thành phên. Trong nhà, rất ít vách ngăn, cột lại lẩn nên rất thoáng đãng, rộng rãi. Đồ đạc trong nhà xưa rất đơn giản, thường chỉ thấy ghế mây để ngồi, phên giải sàn, màn, đệm, chăn, hòm đựng quần áo..Ngày nay nhà sàn của người Thái ở Mường La cũng đã có nhiều nét được cải tiến. Do đời sống của đồng bào ngày càng được nâng cao, ở một số nơi đã đưa khoa học tân tiến như: mái lợp, sàn, nền của tầng trệt có sử dụng gạch, xi măng..hệ thống khung cột, dầm sàn có được cải tiến về kết cấu và phương pháp lắp dựng theo kiểu của người Kinh với mục đích cải thiện về công năng và thẩm mỹ của ngôi nhà, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống. Tuy vậy, ngôi nhà sàn của người Thái vẫn giữ nguyên được dáng vẻ cũng như giá trị văn hóa truyền thống vốn có của nó. Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 18
  • 19. Khóa luận tốt nghiệp - Trang phục Tất cả các ngành, các nhóm địa phương Thái đều có trang phục cơ bản giống nhau về đường nét tạo dáng đến cách ăn mặc; khác nhau ở chỗ mỗi ngành, mỗi nơi có một kiểu cách trang trí các chi tiết hoặc chọn màu sắc khác nhau. Trong trang phục Thái ở Mường La, đặc sắc hơn cả là trang phục nữ, vừa đẹp, gọn nhưng không cầu kỳ, vừa làm nổi bật những đường nét của thân hình phụ nữ. Màu sắc được sử dụng rất khéo. Trên nền đen hay trắng, áo điểm hàng khuy bạc đơn giản nhưng trạm chổ tinh vi. Nó đã trở thành niềm tự hào không chỉ của riêng người Thái mà còn là một nét văn hoá rất đặc sắc trong kho tàng văn hoá vật thể của dân tộc Việt. Về cơ bản trang phục nữ của dân tộc Thái gồm: Váy: (xỉu hoặc nôổng): Váy Thái được tạo từ 4 tấm vải khổ 0,4 m, dài từ ngang thắt lưng tới chấm gót. Phía trên có cạp váy hay đầu váy (hua nịu) cao khoảng 10 cm bằng vải xanh hoặc đỏ. Gấu váy cũng khâu nẹp, thường là màu đỏ cao khoảng 3 cm. Váy có lót bên trong, thường là màu trắng, may ngắn hơn váy ngoài độ 15 cm. Váy phổ biến là màu đen, đôi khi màu chàm. Khi mặc váy có thể gấp trước bụng hay bên sườn. Ở nhà họ thường mặc váy để dài, lao động trên ruộng nương thì xắn váy lên theo cách túm một góc gấu váy nâng ngược lên cài vài cạp váy một cách khéo léo, váy ôm khép kín từ hai đầu gối trở lên. Ngày nay nhiều phụ nữ Thái có thói quen mặc váy ngắn ngang bọng chân để tiện dụng khi lao động, sinh hoạt, nghỉ ngơi. Váy mặc lao động thường ngày bằng vải thường. Váy mặc ngày lễ tết, váy cưới may bằng lụa, lanh, sa tanh, nhung. Thắt lưng: (xai ẻo) thường bằng lụa tơ tằm nhuộm màu xanh lá cây, hai đầu can thêm hai mảnh vải đỏ thêu thùa có rua ba phía. Khi xai ẻo quấn vào Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 19
  • 20. Khóa luận tốt nghiệp giữ chặt cạp váy, hai miếng vải để hai đầu được giắt vào trước bụng hoặc lệch sang bên hông. Thắt lưng không có trang trí trừ hai đầu có tua. Áo: (xửa) gồm có: Xửa hổm nôm là cái áo lót bên trong, may bằng một tấm vải khoét lỗ chui đầu, phủ trùm hai vai xuống ngang ngực, đính khuy hai bên sườn. Ngày nay họ đã bỏ kiểu áo này, dùng áo lót như phụ nữ Kinh. Xứa cỏm là cái áo ngắn. Áo may dài tay hẹp, thân cũng hẹp, bó sát người. Áo chỉ ngắn đến thắt lưng. Khi mặc gấu áo giấu trong thắt lưng. Áo phụ nữ Thái nổi bật là hàng khuy dọc trước bụng. Khuy có thể tết bằng vải hoặc bằng bạc, hình con bướm, ve sầu... gọi là măk pém. Ngày nay hiếm bạc thì làm bằng nhôm. Giải thích về Măk pém có nhiều cách: măk là quả, nghĩa bóng là nhành cây, bông hoa mà phụ nữ là đại diện cho sự sinh nở nên Măk là khai hoa kết quả. Còn pém là bám vào, mà theo quan niệm của người Thái chiếc áo là nơi trú ngụ của hồn người, cho nên sự sinh sôi bám vào áo người phụ nữ. Măk pém còn được giải thích như sau: bên khuyết là giống cái (nữ), bên khuy là giống đực (nam), con gái chưa chồng hàng cúc mang số lẻ như còn chờ đợi cặp đôi ; có chồng, hàng cúc mang số chẵn như mong ước cuộc sống hạnh phúc vẹn . Áo ngắn dùng khi lao động may bằng vải thường; áo lễ hội, cưới xin may bằng lụa, sa tanh. Áo thường màu trắng, màu đen,màu xanh lam hoặc màu lá câu. Bộ váy áo thắt lưng của phụ nữ Thái vừa kín đáo vừa phô bày những đường cong tuyệt mỹ làm nên nét quyến rũ. Đối với đàn ông thì mặc quần dài màu đen hoặc trắng bằng vải dệt của Thái, được may theo kiểu quần ống “chân què” của người Kinh. Áo chon am giới ngắn, xẻ ngực cài bằng nút vải (thắt nút), có hai túi dưới và túi ngực, đầu chít khăn mỏ rìu. Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 20
  • 21. Khóa luận tốt nghiệp Mấy chục năm gần đây, nam giới người Thái Mường La mặc Âu phục khá phổ biến, nhưng phụ nữ vấn gắn bó với bộ áo, váy, khăn cùng lối trang sức theo truyền thống dân tộc. Khăn piêu: phụ nữ chưa chồng thì búi tóc thả xuống sau gáy, khi có chồng búi tóc chổng ngược đỉnh đầu sau đó đầu đội chiếc khăn piêu. Piêu là một tấm vải bông nhuộm tràm hai đầu có nhiều hoa văn, chỉ màu phối hợp sặc sỡ. Dân ca Thái có câu: Em se sợi thành vóc hoa dâu Em dệt cửi thành gấm vân chéo Em dệt tơ thành đóa hoa vàng Người các bản các mường muốn khóc Đều ước ao được em thêu khăn Khăn piêu có tác dụng che đầu khi nắng gió, làm ấm đầu khi mùa đông giá lạnh. Khăn piêu không những là vật trang sức quan trọng trong lúc đi chơi hay trong lễ hội mà còn là tín vật của tình yêu: khi người con gái tặng piêu cho người yêu là đã trao cả tấm tình. Xà cạp (pe păn kha) là miếng vải như cờ đuôi nheo nhuộm chàm. Phụ nữ Thái quấn xà cạp quanh bắp chân khi đi làm đồng, vừa để chống giá lạnh vừa để bảo vệ da ở bắp chân. Trang sức của phụ nữ Thái có: trâm cài tóc (may khắt cẩu), đôi hoa tai (cóng ku), vòng cổ (pok cô), đôi vòng đeo hai cổ tay (pok khẻn), bộ xà tích (pua sỏoi) đều được làm bằng bạc, chạm trổ đẹp, công phu. Đó là những đồ trang sức quý giá nhất. - Ẩm thực Lương thực chính của người Thái ở Mường La là gạo nếp. Người Thái có cách nấu xôi (đồ xôi) rất là ngon. Trước khi nấu, gạo nếp được đem ngâm qua một thời gian nhất định (thường là qua một đêm). Sau đó gạo Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 21
  • 22. Khóa luận tốt nghiệp được đem ra đãi sạch và cho vào “chõ” để đồ xôi.Tới khi mùi cơm nếp tỏa ra khắp nhà thì lúc đó là xôi đã chín. “Chõ”đồ xôi của người Thái ở Mường La được làm bằng gỗ đặc biệt (mạy sọ) rất tốt cho việc đồ xôi.. Cơm nếp thơm ngon ăn cùng với các món ăn được chế biến từ thịt thú rừng., hay các món cá và các loại rau rừng là các bữa ngon và thú vị của người Thái ở đây. Các món ăn Thái được chế biến rất ngon. Họ thường thích ăn luộc, đồ, nướng, ăn sống hoặc tái chín cùng các loại gia vị nhiều chất chua, cay, chát... Từ thịt của một số động vật nuôi như lợn, gà, bò hay các loại thịt thú rừng họ săn bắt được có thể chế biến ra nhiều món đặc sản. Đặc biệt từ các loại cá tươi, người Thái có những món cá đặc sản như món cá gỏi, món cá hấp, cá pỉnh tộp. Món nặm pịa là nước sữa đắng ở ruột non trâu, bò, hươu, nai…là món không thể thiếu được trong các bữa tiệc long trọng của người Thái đen ở Mường La. Trong ăn uống người Thái thích uống rượu. Rượu là đồ uống phổ biến của người Thái bao gồm những loại như: rượu nếp, rượu cần và đặc biệt là có lẩu vạng (rượu không cất) của Mường Chiến. Đồng bào ưa hút thuốc lào và phụ nữ thường thích ăn trầu. - Phương tiện vận chuyển Người Thái ở Mường La vận chuyển bằng gánh đôi dậu đựng các thứ, đi rừng đi núi thì đeo gùi, dùng ngựa cưỡi, thồ hàng. Dọc các dòng sông nổi tiếng xuôi ngược bằng thuyền đuôi én. 1.3.2. Về văn hóa xã hội - Quan hệ xã hội Dân tộc Thái ở Mường La mới chỉ phát triển đến chế độ xã hội bản mường (tương đương với giai đoạn phát triển tiền dân tộc quốc gia so với các dân tộc khác trên thế giới). Với nguyện vẹn bộ máy Phìa-Tạo quản lý và điều hòa xã hội Bản Mường có từ hàng ngàn năm cho đến trước tháng 8 năm 1945. Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 22
  • 23. Khóa luận tốt nghiệp Về phương thức sản xuất, kinh tế-văn hóa xã hội người Thái ở Mường La đã phát triển đến trình độ phát triển chung của cộng đồng cùng ngữ hệ. Họ đã khai phá và canh tác trên vùng đất mà hiện nay họ đang cư trú, lập nên Bản nên Mường của mình trên cơ sở nên kinh tế nông nghiệp lúa nước kết hợp với nương rẫy. Ruộng của họ đều là ruộng công của Mường. Tùy theo chức vị của các thành viên trong Mường mà họ nhận được một số ruộng để canh tác và có nghĩa vụ đóng góp nông sản cho Chảu Mường (Chủ Mường). Theo nhiều tài liệu còn lưu lại ở Mường La cũng giống như các Mường khác mỗi Mường có "Án Nha" (Chúa Mường) đứng đầu và cai quản chung, dưới Chảu Mường là các Phìa, Tạo đứng đầu và cai quản các các mường phìa và Bản.. Xã hội Thái chia làm hai tầng lớp chính: tầng lớp trên là quan lại và quý tộc, tầng lớp dưới là dân. - Quan hệ dòng họ gia đình Trong một mường, một bản của người Thái có nhiều dòng họ cùng cư trú. Có dòng họ quý tộc như Cầm, Bạc, Sa, Đèo… có dòng họ dân gốc Thái như Lò, Lộc, Lự, Cà… Quan hệ dòng họ của người Thái được biểu hiện ở hai khía cạnh: Khía cạnh tô tem giáo: Tức những dòng họ gốc Thái thường có một hèm liên quan đến một sinh vật, một vật vô tri hay một hành động trùng tên với dòng họ. Ví dụ: họ Lò không ăn thịt chim táng Lò, không ăn măng lò; Họ Quàng kiêng giết, ăn thịt hổ; họ Cà kiêng giết, ăn chim cốt ca (bìm bịp) …… Khía cạnh quan hệ dòng họ liên minh biểu hiện ra: Quan hệ Ải nọng là anh em cùng dòng họ, có "ải nọng huôm po" (anh em cùng cha), "ải nọng huôm pú" (anh em cùng ông), "ải nọng huôm pẩu" (anh em cùng cụ)... Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 23
  • 24. Khóa luận tốt nghiệp Quan hệ Lúng ta là các thành viên nam bên vợ (gọi là "lung ta phạ bóm"), các thành viên nam bên mẹ (gọi "lung ta me"), các thành viên nam bên bà nội (gọi là "lung ta da")... Quan hệ Nhính xao là các thành viên nam bên anh/em rể ("nhinh xao" hay "nhinh xao chảu"), các thành viên nam bên con rể ("nhinh xao mang lụk")... Quan giữa "lung ta" và "nhinh xao" là quan hệ thông gia, nhưng được phân cấp rõ ràng. Ba quan hệ này xuất phát từ hình thái hôn nhân thuận chiều, tàn tích của liên minh thị tộc. Trong ba quan hệ đó, quan hệ giữa những người Ải noọng là cơ bản, quan hệ của những người có trách nhiệm duy trì sự trường tồn của dòng họ, chăm lo đến sự phát triển của dòng họ ngày thêm hưng thịnh. Quan hệ lúng ta rất quan trọng biểu thị chủ yếu là vị trí của ông cậu đối với cháu ngoại Trong xã hội Thái, gia đình là một tế bào xã hội quan trọng với tính chất phụ quyền rõ rệt. Biểu hiện ở việc mỗi nóc nhà được tượng trưng bằng một chiếc cột chính (sâu hẹ hay sâu cốc), ở đầu cột treo các vật thiêng như hình thần Rùa bằng lông gà, xương thú, xương cá to. Ông chủ nằm bên cột chính, cạnh bàn thờ ma nhà như để khẳng định tính chất phụ quyền của gia đình. Con gái như người ngoài. Con dâu phải đổi theo họ chồng. Họ không bao giờ được tự quyết định một việc gì ngoài việc sinh con và công việc nội trợ. Tuy vậy, người Thái rất tôn trọng phụ nữ và quý con gái, trước đây ở Mường La đàn ông khi lấy vợ phải ở rể vài năm khi đôi vợ chồng đã có con mới về ở bên nhà chồng. - Hôn nhân và cưới xin Ngày xưa, do xã hội Thái là một xã hội khá phát triển vì vậy việc hôn nhân của con cái là do bố mẹ định đoạt và có mang tính chất mua bán. Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 24
  • 25. Khóa luận tốt nghiệp Ngày nay trai gái yêu nhau và đi đến hôn nhân là do tự nguyện sau khi đã xin phép sự đồng ý của gia đình. Trong cưới xin của người Thái, có nhiều điều thú vị và trải qua các trình tự: Ôm chóm (đánh tiếng), mai (đặt dấu), vay (ăn hỏi), duông vịa (thử thách rể), cáo, xống khươi (cưới, tiễn rể), xú phả (nhập phòng), paư máư dam hươn (dâu mới đến thăm nhà chồng), cưới đong(cưới xin dâu về nhà chồng), tỏn pạư (đón dâu về nhà chồng). - Sinh đẻ và nuôi dạy con cái Sinh đẻ và nuôi dạy con cái là bổn phận tự nhiên của con người. Bất cứ ai, dân tộc nào cũng đều chú trọng đến tập quán này. Nhưng mỗi dân tộc sẽ có cách thức sinh đẻ và nuôi dạy con cái khác nhau. Với người Thái ở Mường La khi biết con dâu có thai, cả gia đình có trách nhiệm và tìm mọi cách để cho người có thai mạnh khỏe và thoải mái nhất. Việc tiếp theo là người có thai phải ăn kiêng một số thức ăn nhất là thịt, cá và một số việc làm có thể gây hại cho mẹ và cái thai trong bụng. Người Thái có tập quán đẻ ngồi ngay cạnh bếp lửa, lúc này người chồng không được rời vợ một bước. Người chồng phải ngồi sau lưng bà vợ để vừa làm chỗ tựa vừa cùng chia sẻ sự đau đớn của người vợ lúc vượt cạn. Đây là một tập quán đầy tính nhân văn của người Thái. Người Thái rất chú ý đến việc dạy dỗ con cái và việc dạy dỗ cũng được thực hiện theo một quan niệm rất nhân văn và rất cụ thể. Đồng bào có câu: “Tặp lục tặp kẻn ta Tặp ma tặp mậy cậy” Dịch: “Đánh con đánh bằng mắt Đánh chó đánh bằng gậy” Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 25
  • 26. Khóa luận tốt nghiệp Con gái theo mẹ làm nghề của phụ nữ từ lúc lên 8-10 tuổi. Cũng ở tuổi này bắt đầu tập lao động, làm nương, dệt vải…Con trai làm các công việc đồng áng để khi lớn lên các em vững chãi trong cuộc sống. Đặc biệt, sau khi lấy vợ, trong thời gian ở rể, bố vợ có trách nhiệm dạy dỗ con rể lao động, làm những việc từ mài dao, đan gùi…đến các tập quán, lễ nghi trong ứng xử hàng ngày. - Tang ma Tang ma của người Thái ở Mường La được thực hiện theo quy trình tuân thủ nghiêm túc những tục lệ đã hình thành từ lâu đời. Họ quan niệm chết đi là sống ở thế giới bên kia nên người chết khi đem chôn được chia của như người sống. Người ta làm nhà mồ ngay trên mộ người chết và trong nhà (nhà sàn) có cả các dụng cụ sinh hoạt như chăn, đệm, cuốc, dao… thậm chí còn thả gà, lợn cho người chết một cách tượng trưng sau đó lại bắt về. Ở Mường La người Thái thường thực hiện thực hiện hỏa táng. 1.3.3. Về văn hóa tinh thần - Ngôn ngữ và chữ viết Tiếng Thái thuộc hệ ngôn ngữ Tày-Thái, cùng hệ ngôn ngữ với tiếng Tày, Nùng. Gần với tiếng Lào và Thái Lan và là thứ tiếng phổ biến ở vùng thấp Tây Bắc nói chung và Mường La nói riêng. Tiếng Thái là thứ tiếng đã phát triển đến trình độ có chữ viết. Chữ Thái có nguồn gốc từ chữ Phạn-văn hóa Ấn Độ cổ đại. Từ nhiều thế kỷ trước, chữ Thái cổ đã được dùng để sáng tác văn học, ghi chép văn học dân gian. - Tôn giáo, tín ngưỡng Người Thái ở Mường La có tín ngưỡng theo cách riêng của mình và trải qua hàng ngàn năm lịch sử của dân tộc vẫn nguyên vẹn như thưở ban đầu. Tín ngưỡng của người Thái chưa phát triển thành tôn giáo riêng và họ Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 26
  • 27. Khóa luận tốt nghiệp cũng không chịu ảnh hưởng hay du nhập vào mình các tôn giáo khác như Đạo Phật, Đạo Khổng, Đạo Hinđu, Đạo Thiên Chúa..v..v Từ lâu họ đã tìm cách giải thích những hiện tượng khách quan của trời, đất và con người. Ở thời đó, họ thường biểu hiện hai loại nhân sinh quan. Bao trùm lên cuộc sống của họ là nhân sinh quan mang tính hiện thực, đó là cơ sở nhận thức và hành động với đúng với thực tế khách quan, trong cuộc đấu tranh để cải tạo thiên nhiên và xã hoi. Bên cạnh đó là nhân sinh quan tồn tại trong ý niệm tín ngưỡng, biểu hiện trên các mặt phong tục tập quán của họ. Họ cho rằng trên trái đất này vốn tồn tại hai thế giới-thế giới của sự sống và thế giới của hư vô. Thế giới của sự sống là sự tồn tại của con người và những vật chất khác-từ thể trạng sống mà người ta có thể trực giác được. Thế giới của cõi hư vô là của thần linh, ma quỷ, là một cõi sống ngự trị trong ý niệm của họ và được gọi chung là Phi và phân ra là: Then, đẳm, phi, khon…nhưng thế giới Phi lại quyết định sự sống thực trạng trên thế gian này. Chẳng hạn người ta sống được là nhờ có “hồn”; núi sừng sững cùng với tất cả hình thù kỳ lạ của nó-cây cối mọc chen chúc, cành lá sum suê, con sông chảy xiết, âm thanh vang động đều có hồn của nó. Và tất cả các hồn đều có hình thù kỳ lạ, biến hóa tài tình. Mọi vật lúc ở thể trạng sống thì hồn lúc ẩn, lúc hiện quanh vật đó. Khi vật đó chết thì hồn bay lơ lửng hoặc ẩn nấp trong những xó tối, hốc cây. Từ quan niệm như vậy nên người Thái có những nghi thức và tập tục cúng riêng theo cách của mình. Thông qua các lễ hội trong năm, họ tổ chức lễ cúng Bản (xên bản), cúng Mường (xên mường), cúng nhà (xên hươn)..Hoặc cúng tế về một cái gì đó rất cụ thể như một hòn núi thiêng, một tảng đá lớn, một khúc sông…mà họ cảm thấy ở đó xuất hiện sự linh Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 27
  • 28. Khóa luận tốt nghiệp thiêng, thần bí để cầu mong được sự bao dung che chở của các đấng siêu nhiên. Cũng từ quan niệm về cái thực và cái hư như vậy, nên khi có người chết, ông Mo sẽ dẫn hồn về nhập “Đẳm” tức là tổ tiên ở thế giới bên kia, và được mang theo một số của cải. Bởi vậy chết đi đối với họ là tiếp tục “sống” ở cõi hư vô, về với sự vĩnh hằng nơi “Mường trời”. - Lễ hội truyền thống Cũng giống như người Thái vùng Tây Bắc, người Thái ở Mường La trong một năm có nhiều ngày lễ, tết khác nhau như: Xên bản, xên mường (cúng thần bản, thần mường), lễ tỏn cộ (lễ đón cỗ), Xến Xó Phốn (lễ cầu mưa), “Kin khảu maứ” (lễ cơm mới)….. Trong các dịp lễ tết, người Thái ở Mường La thường tổ chức múa hát: Xòe, múa khăn, múa nón, hay trai gái “Khắp báo xao” (hát trai gái giao duyên). Các trò chơi đầy thú vị như Tót cón (ném còn), Tót én cáy (chơi cầu lông gà bằng tay), Tó mak Lẹ (chơi trò chơi bằng quả Lẹ) v.v… Đó là các sinh hoạt văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, vừa vui chơi, vừa mang ý nghĩa giáo dục truyền thống. - Văn nghệ dân gian Sinh sống hàng ngàn năm trên dải đất Việt Nam, thừa hưởng một nền văn minh cổ truyền lớn lao của cha ông, người Thái ở Tây Bắc nói chung và Mường La nói riêng đã góp phần cống hiến không nhỏ vào kho tàng văn hóa chung của cả dân tộc Việt Nam. Nhờ có văn tự, cư dân Thái đã lưu lại cho đến nay nhiều sách, truyện ghi lại trên giấy bản, trên lá cây. Đó là những cuốn sách sử chép tay dài hàng trăm trang, những bộ luật hay những tập quán pháp tương đối hoàn chỉnh, phản ánh tình hình xã hội đương thời, những bản trường ca đọc cả hai, ba đêm dòng thúc động lòng người, những truyện thơ tuy khuyết danh nhưng đầy chất trữ tình nói lên cảm xúc mãnh Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 28
  • 29. Khóa luận tốt nghiệp liệt của cả dân tộc với thiên nhiên tươi đẹp, với con người, với tình yêu lứa đôi, nói lên khát vọng của cả dân tộc hướng tới cái thiện, cái đẹp; những tập tục ngữ dân ca Thái phản ánh quá trình chinh phục thiên nhiên, tích lũy kinh nghiệm của cuộc sống nhưng qua đó ta cũng thấy tính cách, tâm hồn và nghệ thuật phong phú, đặc sắc. Trong kho tàng văn học dân gian, thần thoại Thái đóng một vị trò quan trọng vì tính phong phú và độc đáo của nó. Theo các truyện kể được hệ thống lại, người Thái xưa quan niệm vũ trụ có năm tầng. Tầng trên cùng là nơi hỗn mang, là thế giới của những người “ăn sương, ăn gió” sống nay đây mai đó, đeo dao ở cổ. Tầng tiếp theo là thế giới của các vị thần và tổ tiên các dòng họ Thái xây dựng trên vòm trời mà mắt người không trông thấy, do Then Luông cai quản. Tầng thứ ba là thế giới của tầng mây, ở vòm trời, ở đó có các vị trăng sao. Đó là thế giới của những người khổng lồ, được Then cử ra để xây dựng trần gian vào buổi sơ khai. Tầng thứ tư ở mặt đất là thế giới của loài người, muôn vật (thế giới thực) và thế giới của ma quỷ (thế giới ảo tức mường ma). Tầng cuối cùng là thế giới dưới mặt đất, ở đó có loài người tí hon chuyên chỉ ăn đất. Trong những thế giới tưởng tượng đó, các ma, quỷ, thần thánh cũng sinh sống, làm ăn, cũng biết yêu biết ghét, cũng sinh con, đẻ cái, cũng tranh chấp. Quan niệm về sự cấu tạo những thế giới đó nhằm củng cố nhân sinh quan phong kiến, nhưng đồng thời cũng phản ánh một cách trừu tượng cuộc sống lao động dưới trần. Phổ biến những câu chuyện về sự hình thành trời đất, loài người và muôn vật, truyện nạn hồng thủy, truyện quả bầu, truyện người đàn bà góa cắt dây nối trời với đất… Những câu chuyện nhằm giải thích những hiện tượng vũ trụ, trong thiên nhiên cũng lý thú không kém những huyền thoại tôn giáo nhằm giải thích nguồn gốc tiếng nói, câu ca, lúa, nước, màu sắc của chim muôn, thú vật. Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 29
  • 30. Khóa luận tốt nghiệp Loại truyền thuyết, dã sử liên quan đến những nhân vật lịch sử được thể hiện dưới dạng nửa có thực, nửa huyền thoại cũng không hiếm. Ngoài những truyện liên quan đến Lò Lẹt, Lạng Chương, Tà Ngần... là những nhân vật lịch sử có thật, phổ biến là truyện kể lại sự di chuyển của người Thái đen từ Mường Lò đi mở mang bờ cõi. Tất nhiên, loại truyện cổ tích vẫn là nhiều hơn cả, bao gồm nhiều thể loại từ ngụ ngôn, truyện cười đến truyện kể…Truyện thường mang ý nghĩa xã hội, bênh vực người nghèo, lẽ phải và đượm màu sắc dân tộc. Thơ ca dân gian chiếm một vị trí rất lớn bao gồm những câu ca dao, những tập thơ tình yêu, thơ ca hát trong hội hè, đám cưới, mừng lên nhà mới, trong những dịp lao động sản xuất, cho đến những bản trường ca, những truyện thơ lịch sử. Đặc biệt những tác phẩm thơ ca khuyết danh khó đặt vào phạm trù dân gian. Ở đây, có thể cùng quy luật với văn học một số dân tộc ở Đông Dương, nhiều tác phẩm đã diễn đạt khá điêu luyện, có giá trị nghệ thuật cao mà tác giả hoặc vì không muốn lưu tên tuổi cho đời sau và dành vinh dự đó cho cả dân tộc hoặc cả tập thể, đã xây dựng những tác phẩm hay kết tinh từ những tinh hoa của kho tàng thơ ca dân gian. Truyện thơ Xống chụ xon xao (tiễn dặn người yêu) và Khun Lú Nàng Ủa (Chàng Lú-nàng Ủa) phổ biến ở vùng Mường La trước đây đã được giới thiệu và hoan nghênh trong cả nước là một ví dụ. Lại thêm, đặt chân vào đất Thái ở Mường La có cảm giác như đặt chân vào thế giới ca múa nhạc độc đáo, phong phú và đa dạng, mang nhiều sắc thái tâm lý, tình cảm của dân tộc. Nói đến nghệ thuật Thái không thể không nói tới múa, mà xòe là một trong những điệu múa nồi tiếng của người Thái, cũng là điệu múa phổ thông của mọi người dân không phân biệt…Vào các dịp Tết, lễ hội, sau một vài tuần uống rượu vui, mọi người tay cầm tay cùng Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 30
  • 31. Khóa luận tốt nghiệp múa vui say sưa trong không khi nhộn nhịp của tiếng trống, tiếng cồng chiêng. Cuộc xòe vui không biết bắt đầu từ bao giờ và khi nào kết thúc, chỉ biết là hơi men của rượu, hơi ấm của bàn ta cùng âm vang thôi thúc giòn giã của tiếng cồng chiêng làm ấm lòng người, mọi người gần gũi nhau hơn và như muốn cùng nhau hòa trong khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ. Người Thái có mấy chục điệu xòe. Ban đầu xòe có hình thức đơn giản và có tính phổ thông. Có điệu xòe vòng dùng cho cả cộng đồng, sôi nổi, múa theo nhịp đàn hay theo điệu hát khi vui chơi dưới ánh trăng hay lúc nghỉ giữa hai thời gian sản xuất. Sau cách mạng, nghệ nhân dân gian mới phát triển thành những điệu xòe tinh tế và đa dạng mang biểu diễn lên sân khấu như điệu xòe khăn, xòe quạt, xòe nón, xòe bướm. Người Việt Nam dù thuộc thành phần nào cũng tự hào với những điệu xòe của người Thái nói chung và người Thái đen ở Mường La nói riêng đã chinh phục trái tim mình và được hoan nghênh trong các hội diễn văn nghệ trên thế giới. Về âm nhạc, người Thái nổi tiếng với những làn điệu khắp hồn nhiên, thiết tha. “Khắp” Thái có nhiều thể loại theo nội dung và trường hợp hát mà có tên khác nhau. Điệu hát trai gái gọi là “khắp báo xao”, điệu hát ngoài đồng ruộng là “khắp loong tông”, khi ru em là “khắp ú u nọi”… Điệu hát đồng dao gọi là “khắp xư đếch nọi”. Đặc biệt có loại “khắp Chương” do người già kể chuyện Chương Han. “Khắp Chương” với lời lẽ mạnh mẽ đầy khí thế chiến đấu, với nhạc điệu dồn dập là vũ khí văn học sắc bén thúc đẩy người nghe trút căm giận vào bọn thống trị và kích thích lòng yêu dân tộc, yêu nhân dân. Vì vậy, trước đây, bọn chúa đất Thái đã ra lệnh cấm loại “khắp” này. Nhạc cụ quen thuộc đệm cho “khắp” là tính tẩu (đàn tính), khèn Thái, đàn nhị… trong đó khèn với năm cung và một quãng tám như thường dùng đệm cho các làn điệu dân ca và thể hiện các bài hát hiện đại, điều này chắp Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 31
  • 32. Khóa luận tốt nghiệp cánh cho các điệu “khắp” thêm bay bổng, diễn tả sâu sắc nội tâm nhân vật, làm tăng giá trị biểu cảm…Cùng lời ca, tiếng hát họ hát về tình yêu, cuộc sống, đạo làm người, ca ngợi thiên nhiên, ca ngợi Bản Mường. Chính dựa trên truyền thống của ca, vũ, nhạc dân gian, ngành ca vũ nhạc Thái đang được phát triển, từ đó xuất hiện những tác phẩm thơ ca Thái mà chất thơ còn lưu giữ được nhiều hương sắc dân tộc. - Tri thức dân gian Nói đến kho tàng tri thức dân gian đầu tiên phải kể đến lịch pháp vì đó là tri thức quan trọng nhất của một dân tộc về sự vận hành của vũ trụ, nó không chỉ là cơ sở tính thời gian mà còn là cơ sở để nhận biết các chu kỳ sinh hoạt văn hóa, hoạt động kinh tế… của cộng đồng. Hiện nay, dân tộc Thái ở Mường La đang dùng rất phổ biến lịch Thái trong đời sống hàng ngày. Hầu hết những người từ trung niên đến cao tuổi đều nắm chắc lịch Thái. Người Thái ở đây vẫn thờ cũng theo ngày Can của lịch Thái, nên cứ 10 ngày cúng một lần (gọi là pạt tông, ngày pạt tông gọi là mự vên tông). Ở mỗi bản đều có các ông mo hoặc po mự để xem ngày tốt xấu cho những ai có nhu cầu, như ngày cưới vợ gả chồng, khởi công hoặc lên nhà mới… Các ông này thường có cuốn Sổ cổ làm căn cứ cho việc tính toán và chọn ngày, chọn giờ, đồng thời họ tự soạn ra những nội dung lịch hàng năm để cung cấp cho nhân dân trong vùng. Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 32
  • 33. Khóa luận tốt nghiệp Chương 2 “KHẮP” VÀ CÁC LÀN ĐIỆU “KHẮP” CỦA NGƯỜI THÁI MƯỜNG LA 2.1. Giới thiệu chung về “khắp” của người Thái 2.1.1. “Khắp” là gì? Dân tộc Thái có những hình thức sinh hoạt văn hoá rất phong phú như: “Xến Xó Phốn” (lễ cầu mưa), “Kin khảu maứ” (lễ cơm mới), “Xên lẩu nó” (lễ tạ ơn thầy cúng (một lao) của các con bệnh (lụ liệng), “Kin lảu nó” (mừng mùa măng mọc), lễ “Tỏn cộ” (lễ đón cỗ)… Trong đó "khắp" là một hình thức sinh hoạt tinh thần không thể thiếu được. Trong đám cưới, người ta có thể khắp với nhau kéo dài hết ngày này qua ngày khác, có khi kéo dài ba bốn ngày. Ở các ngày lễ, Tết, lớp trai gái trẻ “khắp” với nhau thâu đêm suốt sáng... Cả người hát và người nghe đều say xưa thán thưởng. Qua làn điệu khắp, mọi người không chỉ thưởng thức thi vị của ý thơ mà còn gửi gắm tâm tư, tình cảm vào những âm thanh trầm bổng của giọng hát hay. “Khắp” nghĩa thực là hát, nhưng có thể đồng nghĩa với hát, hò, ngâm. “Khắp” cũng có nghĩa là thơ ca, làn điệu dân ca, cách trình diễn thơ ca... Những lời khắp có vần vè như thơ nhưng hơn nữa nó còn có nhạc điệu và tiết tấu rất cao. Có lẽ ngay từ thời kỳ hái lượm, săn bắt, người Thái đã có những từ "thút phắc" (ngọn rau), "đuông nó" (cái măng), "cản bon" (bẹ khoai nước)... Khi chuyển sang thời kỳ nông nghiệp lúa nước định hình thì đã có các từ "pết" (vịt), "cáy" (gà), "sáy" (trứng), "xuân" (vườn)... Đó là những từ sinh hoạt đơn giản rời rạc. Đến khi hình thành xã hội bản mường, người ta có thể ghép những từ đơn lẻ đó thành các cụm từ như: "thút phắc, đuông nó"; "cản bon, hon nó"; "pết sáy, cáy khăn"; "pết sáy, cáy xuân"... Những cụm từ Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 33
  • 34. Khóa luận tốt nghiệp như vậy càng ngày càng xuất hiện nhiều và dần dà phát triển thành các câu thành ngữ, tục ngữ (quãm khống khái). Khi xã hội bản mường phát triển thì xuất hiện những cụm từ gồm nhiều chữ hơn và có vế, có vần như: Khan pên pết nọi hã chí xo ép sáy Khan pên cáy nọi hã chí xo ép khăn Khan pên xao pun lan chí xo ép vãy tặc tuộng (Là vịt con ta xin học đẻ trứng Là gà con ta xin học gáy te te Là gái lứa cháu xin học nói học chào) Phẵng quãm pết mẵn chí xia sáy Phẵng quãm cáy mẵn chí xia xuôn Nhẵng quãm nhuỗn năm chí xia pi nọng (Nghe lời vịt sẽ mất trứng Nghe lời gà sẽ mất vườn Nghe lời xúc xiểm sẽ mất tình anh em) Tộc té nọi kin khảu bái nó Khó té nọi kin khảu bái bon (Cực từ nhỏ ăn cơm trộn măng Nghèo từ nhỏ ăn cơm trộn lá khoai nước) Cùng với những câu có vế có vần đó người ta đã tạo cho nó những nhịp điệu, tiết tấu cho phù hợp. Thế là “khắp” xuất hiện. Xã hội bản mường với bao buồn, vui, thăng trầm trong tiến trình phát triển là điều kiện chín muồi để phát triển và định hình các thể loại “khắp”, đồng thời phát triển mạnh thể loại kể truyện dân gian bằng “khắp” 2.1.2. Môi trường và phương thức diễn xướng của “khắp” Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 34
  • 35. Khóa luận tốt nghiệp Diễn xướng là hình thức biểu hiện, trình bày các sáng tác dân gian bằng lời lẽ, âm thanh, điệu bộ, cử chỉ, là tổng thể các phương thức nghệ thuật, cùng thể hiện đồng nhất giữa ca hát và hành động của con người theo chiều thẩm mỹ. Diễn xướng gồm hai thành tố cơ bản đặc hữu cùng tham gia là: Diễn (hành động xảy ra) và Xướng (hát lên, ca lên). Thuật ngữ diễn xướng dân gian có thể hiểu với hai nghĩa rộng và hẹp khác nhau. Với nghĩa rộng, diễn xướng dân gian là tất cả mọi hình thức biểu diễn (hay diễn xướng) và ít hoặc nhiều đều mang tính chất tổng hợp tự nhiên (hay tính chất nguyên hợp) mà lâu nay ta quen gọi là văn học dân gian; còn nghĩa hẹp chỉ bao gồm các thể loại diễn (như trò diễn, trò tế lễ dân gian...). “Khắp” là hình thức diễn xướng của các bài thơ, các tác phẩm văn học, trong đó có cả tác phẩm tự sự, như tác phẩm thuộc thể loại sử thi, truyện cổ tích... và các tác phẩm trữ tình. Bằng phương thức diễn xướng, đời sống nghệ thuật dân gian truyền thống được tiếp nối không ngừng. Khởi sinh cách đây hàng ngàn năm, “ khắp” mãi mãi trường tồn, bởi tất cả thế hệ người người Thái đều ý thức trao lại cho muôn đời sau cách diễn xướng những làn điệu dân ca đậm đà bản sắc văn hóa, tượng trưng cho giá trị tinh thần, tính cách của dân tộc. Sinh hoạt “khắp” đã gắn bó chặt chẽ với đời sống nhân dân, là cơ sở quan trọng hình thành nên diễn xướng các tác phẩm dân gian, diễn xướng một bộ phận thơ ca dân gian đậm chất trữ tình trong kho tàng thơ ca dân tộc. Phương thức diễn xướng của “khắp” Thái chủ yếu là hát thơ, có nhạc đệm hoặc không có nhạc đệm, trong môi trường sinh hoạt vui chơi, hoặc đám cưới, hoặc tín ngưỡng. Song, mỗi làn điệu “khắp” có cách diễn xướng khác nhau. Và ngay cả mỗi làn điệu cũng có những mức độ biểu hiện khác nhau. Bởi vậy, cần phải hiểu hình thức diễn xướng “khắp” một cách linh Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 35
  • 36. Khóa luận tốt nghiệp hoạt, gắn với mỗi môi trường sinh hoạt văn hóa, ứng với mỗi nội dung sinh hoạt, gắn với mỗi giai đoạn lịch sử - xã hội... Diễn xướng “khắp” là yếu tố ngoài văn bản nghệ thuật ngôn từ. Nhưng nó là yếu tố không thể bỏ qua nếu muốn hiểu đúng, hiểu sâu sắc về nghệ thuật này. Tuy vậy, ở những công trình sưu tầm văn học dân gian Thái, trong đó có “khắp”, yếu tố này chưa thực sự được lưu tâm ghi chép miêu tả cụ thể. Điều đó gây khó khăn cho người nghiên cứu khi tìm hiểu về những tác phẩm dân gian trong quá khứ. Qua quá trình tiếp cận thực tế, nghe phân tích diễn giải của các nghệ nhân, xin được nêu một số nhận xét về phương thức diễn xướng của “khắp” Thái như sau. - Các làn điệu khắp xư (hát thơ) Bình thường, “khắp xư” chỉ "xướng" chứ không "diễn", mục đích của khắp xư là để biết và hiểu nội dung tác phẩm, nên phải thể hiện cảm xúc bằng giọng đọc. Nhưng khi “khắp Chương”, “khắp Páo khuôn ” trong nghi lễ thì khác, sẽ có một người “khắp” chính và đoàn người phụ hoạ, với trang phục nghi lễ trang nghiêm. Người “khắp” chính phải đứng ở tư thế ngẩng mặt lên cao, hướng về phía mâm thờ và cất giọng “khắp” nghiêm trang, hùng tráng. Đoàn phụ hoạ sẽ đứng thành hàng sử dụng các nhạc cụ truyền thống như: Cồng, chiêng, chũm choẹ và các ống tre... đệm phụ hoạ đúng bài bản, nhịp nhàng. “Khắp” lễ nghi chỉ được “khắp” khi xên tra (tế lễ các anh hùng) và Xên mường (cúng mường). - Khắp báo xao (hát trai gái, hát giao duyên) “Khắp báo xao” là điệu hát thiết tha, đằm thắm, bồn chồn, hồi hộp... là điệu hát của tình yêu nam nữ trong sáng lành mạnh. Bối cảnh của “khắp báo xao” là trên sàn khuống, trong các hội xuân, trong các dịp hội họp đông vui, trên một mảnh nương, bên một đoạn suối, trong lúc đi hái bông lau, hoặc trong khi đi tìm bông vải... Những buổi hát có tổ chức ở quy mô nhất Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 36
  • 37. Khóa luận tốt nghiệp định thường diễn ra qua các bước: hát chào mời, hát thăm hỏi, hát thử tài và cuối cùng là hát dặn dò hẹn ước.(3) Vì vậy, hát trai gái thường từ hai người trở lên và trong không khí vui tươi lành mạnh. - Khắp pan lảu pan khảu (hát trên mâm cơm) Trên mâm cơm có thể “khắp chiêu” và “khắp báo xao”. Diễn xướng ở đây là cách diễn xướng tự do, tức là hát không cần động tác hoặc động tác đơn giản, không kèm tập tục hay một quy định nào cả. Người hát ngồi bình thường trong mâm, mắt nhìn đối phương, hát hết một đoạn au hang thì mọi người vừa vỗ tay vừa "xương" tán thưởng. Hát hết bài cần có lời “khắp” chuyển cho người khác (có thể là đối phương hoặc một người nào đó là do người vừa hát có quyền chỉ định). Ha chí kẻ xửa pạt xum pháy Tháy xửa pạt nga bông Xo pông quăm hảư ... pay cón Lả côn chạ chí coi dón năm lăng. Lời dịch: Ta xin cởi áo vắt khóm tre Thay áo vắt cành luồng Xin buông lời nhường ... đi tiếp Ta khờ dại xin nhẹ bước theo sau. Người sau hát xong bài lại có quyền chuyền cho người nào đó tuỳ mình lựa chọn. Cứ như thế, mọi người sẽ thay nhau hát, ai cũng phải hát một số lần. Nhưng về sau sẽ dừng lại ở hai đối thủ hát hay nhất (thường là một cô gái và một chàng trai bản khác), và cuộc “khắp” đối đáp sẽ diễn ra. Hai bên sẽ trổ tài vận dụng kiến thức “khắp” của mình để "thi" với đối phương. Một người nêu ra câu hỏi, người kia đáp lời và hỏi lại, cứ như vậy với điều kiện 3 . Lò Văn Sỹ, Giới thiệu Tản chụ xiết xương, “Văn nghệ Son La”, số 2-1975 Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 37
  • 38. Khóa luận tốt nghiệp không được lặp lại các lời “khắp”. Trong mâm cơm người Thái còn “khắp mơi lảu mơi khảu” rất vui vẻ, lời có thể có trước hoặc ứng tác nhưng khi hai chị em gái ở xa đến thăm nhau, họ khắp rất buồn. - Khắp trên hạn khuống (hát trên sàn sân) Hạn khuống là sân chơi cho lớp trẻ giao lưu, nơi người già dạy con cháu điều hay lẽ phải, dạy đan lát thêu thùa... Mỗi bản có thể có một hoặc vài hạn khuống. Đó là một cái sàn dựng ngoài sân cao khoảng 1,2m, muốn lên phải trèo bằng thang. Buổi tối các cô gái sẽ mang củi xuống đốt lửa sáng rực và ngồi quay sa, kéo sợi. Cái thang đã bị các cô cất đi. Các chàng trai bản lân cận sẽ đến chơi, mỗi đoàn cử một hai người hát hay đàn giỏi để đại diện xin được lên hạn khuống. Cuộc khắp đối đáp bắt đầu: - Trai hát xin thang - Gái đáp, chưa có thang vì không có ai làm. Hai bên cò cưa mãi, các cô mới lấy thang cho lên. - Trai lại xin ghế ngồi. - Gái thoái thác mãi mới cho ghế ngồi. - Trai lại xin ống điếu hút thuốc. - Gái từ chối không có người làm ống điếu. Hai bên đối đáp rất lâu thì mới được các cô cho ống điếu và “khắp” mời hút thuốc rất lịch sự... Đó là thử thách bước đầu. Sau khi vượt qua thử thách này, các chàng trai và cô gái sẽ được giao lưu một cách "tự do". Có thể từng nhóm trai gái hay từng đôi trai gái sẽ ngồi tâm sự bằng nhiều hình thức, phần lớn là đối đáp bằng nghệ thuật ”khắp”. Cách diễn xướng “khắp hạn khuống” có thể chia làm ba loại: - Giai đoạn đầu (xin thang, xin ghế, xin điếu...): Phía nam, mỗi đoàn sẽ có một hai người thay nhau hát, một vài người đệm nhạc cụ (tính tẩu, nhị, pí...). Những người còn lại (đôi khi có cả các cô gái) sẽ "xương" theo. Bên Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 38
  • 39. Khóa luận tốt nghiệp nữ, các cô cũng thay nhau hát đáp ("nhạc công" bên trai có thể đệm cùng). Các cô khác (đôi khi cả các chàng trai) sẽ "xương" theo. - Khắp nhóm: Ở những nhóm tâm sự, bên nam bên nữ sẽ “khắp” đối đáp theo điệu báo xao có phụ hoạ "xương". Diễn xướng tự do, đơn giản, hai bên ngồi đối diện hoặc ngồi xen kẽ (các cô gái vừa ngồi tham gia vừa quay sa, kéo sợi). - Tâm sự riêng: Nếu có chàng trai và cô gái nào có tình ý riêng, họ có thể dẫn nhau ra góc sàn tâm sự riêng. Cách tâm sự ở đây gọi là "vay", là cách đọc những lời “khắp” đối đáp nhau thay cho việc cất lên giọng “khắp” (tương tự như đọc thơ). Vì trong sàn ồn ào do nhiều nhóm “khắp” với nhau, nên đôi tâm sự sẽ ngồi sát bên nhau để nghe được lời nói của nhau. - Khắp xe (hát trong vòng xoè) Trong ngày vui (cưới, lên nhà mới, tết, xên hươn...), trong khi đang diễn ra cuộc khắp đối đáp trong nhà thì các cô gái sẽ mời các chàng trai sang múa xoè. Trên vòng xoè thường là các cô sẽ chủ động sắp xếp sao cho gái trai xen kẽ. Mọi người bước đi nhịp nhàng treo điệu múa truyền thống. Một cô gái sẽ mở đầu bằng những lời “khắp” mời mọi người cùng chơi vui, cùng múa hát cho nhau nghe. Khắp ý ủa khính ý Tói tính hảư po me hau phăng Xan tưa ủa mưa lang xan lang Xan tưa phay mảy pá chắng hên nả nhên Po me xên phon chắng hên nả chụ Lời dịch: Hát đi cùng vui đi Cất tiếng nhạc cho cha mẹ cùng vui Chẳng mấy khi Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 39
  • 40. Khóa luận tốt nghiệp Lửa cháy rừng mới nhìn thấy mặt cáo Cha mẹ có cuộc vui ta mới được thấy nhau Cô gái hát xong sẽ chuyển lời mời các chàng trai hát tiếp. Và thế là cuộc hát đối đáp sẽ diễn ra mới đầu là với chủ đề phân tán như: hỏi thăm tên tuổi, quê quán, hỏi về gia đình, người thương ở nhà... Sau đó là những lời hát "kháy" nhau (tản chụ xiết xương), rồi đến tỏ tình với nhau (tản ổ tản mặc). Cách diễn xướng ở đây là vừa bước đi theo vòng xoè vừa hát. Người hát sẽ hát theo cấu trúc: Au hua - nội dung - au hang và mọi người sẽ cùng "xương". - Khắp khảm pá qua đông (khắp trong rừng núi ) Khi đi chặt cây, lấy củi, hái măng trên rừng, các chàng trai và cô gái cũng hay “khắp” với nhau từ xa (gọi là khắp lót xáư căn). Người này hát xong, người kia sẽ đáp lại. Chủ đề chủ yếu là những lời tán tỉnh rất bạo dạn (vì không nhìn thấy nhau nên mạnh dạn hơn đồng thời cũng không có thời gian nhiều). Lót ma hi lót may lịnh ha ơi Kỉnh ma hi lót may căn ha ơi. Dịch: Vọng về đây cuộn chỉ hồng ta ơi Lăn đến đây cuộn chỉ vàng ta ơi. - Khắp loong tông (hát đi trên cánh đồng) Trên đường đi làm về, hay đang đi trên đường khi đi chơi vào ban đêm, các chàng trai thường hay hát điệu “khắp loong tông”. Với không gian yên tĩnh, điệu hát này cất lên mang tính buồn man mác. Nhiều khi được đệm bằng "pí tam lay". Nội dung bài hát cũng phải chọn những bài phù hợp và hơi buồn. Nếu ban ngày có thể là: Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 40
  • 41. Khóa luận tốt nghiệp (Pặt ma khay nay chơi...ới) Đét họn cong hảư lôm báu lôm Cong hả chụ kinh côm lả long báu long (cơn lể hau co ha ới) (Au hua...) Nắng oi mong gió thổi chẳng thổi Mong người tình duyên dáng đi qua không qua (Au hang...) Ban đêm thường hát dạng bài: (Pặt ma khay nay chơi...ới) Phạ xiểng coi phăng ma háu quai lé nơ Bương hai coi phăng ma háu ngáu co cuổi Mi tưa chụ khen xuổi bản lắc ma giam báu hụ lo (Hau co ha ới...ới) (Au hua...) Trời trong hãy nghe chó sủa trâu Trăng sáng hãy nghe chó sủa bóng cây chuối Biết đâu có người tình bản xa đến thăm (Au hang...) Như vậy, sinh hoạt “khắp” gắn bó chặt chẽ với đời sống dân gian, là cơ sở quan trọng hình thành nên diễn xướng “khắp” - diễn xướng một bộ phận thơ ca dân gian đậm chất trữ tình trong kho tàng thơ ca dân tộc Thái Tây Bắc. Môi trường diễn xướng ”khắp” nằm ở ngay trong môi trường sống hàng ngày của người Thái, với không gian vừa hẹp vừa rộng: từ bên mâm cơm đến sàn sân và ra rừng núi, với hoạt động phong phú: từ ăn uống, vui chơi, tâm sự, tới lao động sản xuất. Chính vì gắn bó chặt chẽ với đời sống như vậy, ”Khắp” có sức sống mãnh liệt, trường tồn. Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 41
  • 42. Khóa luận tốt nghiệp 2.2. Một số điệu “Khắp” Sinh hoạt ca hát dân gian của dân tộc Thái là một lĩnh vực phong phú và đa dạng, biểu hiện rất rõ trong làn điệu. Riêng ở khắp, một hình thức hát phổ biến nhất đã bao gồm nhiều làn điệu, hoặc là vang vọng, cao vút ở “khắp piêng xiêng” hay đậm đà như ở “khắp chương”; hoặc là khắp mo rì rầm tụng niệm, hay “khắp xe” nhịp nhàng trong các điệu múa dân gian… Hiện nay có khá nhiều làn điệu khắp khác nhau tuỳ theo nội dung bài hát, tuỳ thuộc ngữ cảnh người hát, tuỳ từng địa phương... Theo nội dung: nếu là Quam tô mương (kể chuyện bản Mường) thì không khắp mà chỉ "lôn" tức đọc có làn điệu. Nếu là Táy pú xấc (sử thi Táy pú xấc), Chương Han (sử thi Chương Han) thì chỉ "khắp xư" nghĩa là hát ngâm, tương tự ngâm thơ trong tiếng Việt, nhưng cách ngâm hai tác phẩm lại khác nhau. Còn các tác phẩm như “Xống chụ xon xao” (Tiễn dặn người yêu) , “Tản chụ Xiết xương” (những lời cạnh khóe) , Xcók xken (hát thách đố) thì khắp theo điệu "báo xao" hoặc "pãn lảu pãn khảu"... Theo ngữ cảnh: khi đang trên rừng kiếm củi hái măng thì “khắp” theo điệu "khảm pá qua đông" (hát qua rừng qua núi), khi đi trên đường thì “khắp” theo điệu "loong tông" (hát đi trên cánh đồng), khi trên mâm rượu thì khắp điệu "pãn lảu pãn khảu", khi múa vòng hay trên hạn khuống thì “khắp” điệu "báo xao", “xống chụ xon xao” khi nằm khểnh để ngâm nga thì phải theo làn điệu “khắp xư” nhưng khi hát trong các bữa tiệc cưới thì lại phải theo làn điệu “khắp báo xao” Theo địa phương: mỗi địa phương sẽ có làn điệu khắp khác nhau như "khắp Tãy Muổi", "khắp Tãy La", "khắp Tãy Lay"... Trong đó có thể gộp lại thành bốn nhóm chính như sau: Nhóm Muổi - La - Mụak - Thanh: nhóm này mỗi mường có làn điệu rất khác nhau, nhưng vì người các mường này Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 42
  • 43. Khóa luận tốt nghiệp có điệu nói tương tự nhau nên họ có thể hát chuẩn tất cả các làn điệu của mường khác trong nhóm, người Mường La, Mường Mụak có thể hát chuẩn làn điệu "Tãy Muổi", "Tãy Thanh" và ngược lại. Nhóm này thường đệm bằng các loại nhạc cụ: "pí pặp", "xlo", "pí tam lãy". Nhóm Lay - Xo - Chiên: Nhóm này tuy có khác nhau đôi chút về làn điệu nhưng họ có thể hát chuẩn giữa các làn điệu trong nhóm. Nhóm này thường đệm nhạc bằng "tính tẩu". Nhóm Sang - Tấc: Nhóm này có hai làn điệu chính là "Tãy Sang" và "Tãy Tấc". Người trong nhóm này có thể nghe và hát được làn điệu của nhau. Nhóm này thường đệm nhạc bằng "pí thiu" (hoặc "pí khúi"). Nhóm Tãy Vạt: Người Mường Vạt thì có một làn điệu hát riêng theo giọng điệu nói của họ, phù hợp với "kẽn la" (khèn bè) làm nhạc cụ đệm. Ngoài ra thuộc về làn điệu hát truyền thống còn có các làn điệu "khắp đếch nọi” (hát đồng dao), "khắp ú u nọi” (hát ru), "khắp một lão”, "khắp một ắn ni” (hát cúng), "khắp páo khuôn” (hát chiêu hồn)… Nội dung khắp cũng rất phong phú, nhưng có thể chia làm hai loại chính là “khắp bắc” (hát sáng tác mới), “khắp quãm pang chạu” (hát lời truyền thống). “Khắp bắc” (hát sáng tác mới) là hát trong các cuộc hát vui, cuộc biểu diễn, đó là những bài thơ do các nhà thơ sáng tác mới để ca ngợi Đảng, ca ngợi đất nước, con người… cũng có khi người khắp tự sáng tác cho phù hợp với ngữ cảnh. “ Khắp quãm pang chạu” là lối hát đang rất phổ biến hiện nay. Trong các cuộc hát đối đáp, hát giao duyên, người hát sẽ chọn những câu, đoạn trong “vốn kiến thức” của mình để hát cho phù hợp. Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 43
  • 44. Khóa luận tốt nghiệp “Vốn kiến thức” là những lời hát trong các tác phẩm nổi tiếng như: “Xống chụ xon xao” (Tiễn dặn người yêu) , “Khun Lũ Nãng Ủa” (Chàng Lú nàng Ủa)… hoặc các bài “khắp” truyền thống được lưu truyền trong dân gian. Các bài “khắp” truyền thống hiện nay có đến hàng mấy trăm bài, chia làm các loại sau: Tản chụ xống xương(Tâm tình tiễn thương): là một khúc ca dài tự sự kể về nỗi lòng của kẻ đã uổng công vun đắp cho một mối tình đằm thắm để đạt được một gia đình hạnh phúc. Nhưng mối tình đã bị phụ bạc, tan vỡ. Người bị phụ tình đã thốt lên những lời oán trách đầy yêu thương. Tản chụ xiết xương(Tâm tình trêu ghẹo yêu thương): là một loạt các bài hát để nói “kháy yêu” nhau theo kiểu tâng người hạ ta. Người khắp thường khen đối phương về nhiều mặt như: xinh đẹp, khéo nói, khéo tay, giàu sang… đồng thời cho mình là xấu xí, dốt nát, nghèo khó… đến mức quá đáng. Thực chất là mượn chủ đề tình yêu để thi thố tài năng đối đáp văn học nghệ thuật giữa các cặp hát đối. Quãm Xcók – xken(hát đối đáp giao duyên): Gồm các bài “khắp” về thách đố đùa vui thử trí thông minh đối phương. Thường cô gái sẽ đưa ra những lời thách đố chàng trai phải làm được một điều nào đó thì mới lấy được cô làm vợ. Có điều những lời thách đố đó là những điều bí hiểm, không có trong thực tế. Chẳng hạn, cô muốn ăn măng tre mọc trên không trung, muốn ăn măng nứa mọc trên trời cao, hay cô nàng đi đến một nơi nào đó trên cõi thần thiên đố chàng tìm được… Ngoài ra khắp truyền thống còn có các thể loại “Tản ỉn tản mặc” (Lời tỏ tình), “Mơi lảu”, “thiêng lảu” (Mời rượu, từ chối rượu), “Xống khươi, Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 44