SlideShare a Scribd company logo
1 of 170
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
______________
HÀ XUÂN HƢƠNG
SO SÁNH DÂN CA TRỮ TÌNH SINH HOẠT
CỦA NGƢỜI TÀY VÀ NGƢỜI THÁI
Ở VIỆT NAM
Ngành: VĂN HỌC DÂN GIAN
Mã số: 9 22 01 25
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. NGUYỄN XUÂN KÍNH
Hà Nội - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày
và người Thái ở Việt Nam là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các
số liệu, kết luận khoa học trong đề tài là trung thực và chƣa từng đƣợc công bố
trong các công trình khác. Nội dung đề tài có tham khảo và sử dụng các thông
tin đƣợc đăng tải trên các sách, tạp chí theo danh mục tài liệu tham khảo của đề
tài. Nếu sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng năm 201
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
HÀ XUÂN HƢƠNG
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn tới GS. TS Nguyễn Xuân Kính –
ngƣời thầy đã tận tình hƣớng dẫn và động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện
luận án.
Tôi xin chân thành cảm ơn Học viên Khoa học Xã hội đã tạo điều kiện để
tôi hoàn thành khóa học và luận án này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến các đồng nghiệp của tôi đã chia sẻ nhiều tƣ
liệu và kinh nghiệm quý liên quan đến vấn đề nghiên cứu của luận án.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình, ngƣời thân, bạn bè đã động
viên và giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thành luận án.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng năm 201
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.........................................................................................................................1
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ
LUẬN CỦA LUẬN ÁN...............................................................................................11
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu.............................................................................11
1.2. Luận án, sự kế thừa và phát triển............................................................................25
1.3. Cơ sở lí luận............................................................................................................29
CHƢƠNG 2: KHÁI QUÁT VỀ NGƢỜI TÀY, THÁI Ở VIỆT NAM VÀ DÂN
CA TRỮ TÌNH SINH HOẠT CỦA HỌ....................................................................45
2.1. Khái quát về ngƣời Tày và ngƣời Thái ở Việt Nam...............................................45
2.2. Dân ca trữ tình sinh hoạt của ngƣời Tày và ngƣời Thái – nhận diện và phân loại...........65
CHƢƠNG 3: NHỮNG ĐIỂM TƢƠNG ĐỒNG CỦA DÂN CA TRỮ TÌNH
SINH HOẠT CỦA NGƢỜI TÀY VÀ NGƢỜI THÁI..............................................73
3.1. Sự tƣơng đồng trong việc phản ánh đời sống hiện thực ở nông thôn miền núi
và tình cảm con ngƣời ...................................................................................................73
3.2. Sự tƣơng đồng về cách thức thể hiện tình cảm của nhân vật trữ tình ....................85
3.3. Sự tƣơng đồng trong việc sử dụng biểu tƣợng hoa ................................................93
3.4. Sự tƣơng đồng về trình tự diễn xƣớng hát đối đáp và sự tham gia của âm nhạc
vào diễn xƣớng ..............................................................................................................97
3.5. Iếu và cắm nôm – sự giao thoa của dân ca trữ tình sinh hoạt Tày, Thái ..............103
CHƢƠNG 4: NHỮNG ĐIỂM KHÁC BIỆT CỦA DÂN CA TRỮ TÌNH SINH
HOẠT CỦA NGƢỜI TÀY VÀ NGƢỜI THÁI ......................................................109
4.1. Sự khác biệt về nhân vật trữ tình..........................................................................109
4.2. Sự khác biệt về thi pháp lời thơ nghệ thuật..........................................................117
4.3. Sự khác biệt về đặc điểm diễn xƣớng...................................................................138
KẾT LUẬN ................................................................................................................146
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ........................151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................152
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
STT Chữ viết tắt Nghĩa của chữ viết tắt
1 DCTTSH Dân ca trữ tình sinh hoạt
2 DTTS Dân tộc thiểu số
3 Nxb Nhà xuất bản
4 PL Phụ lục
5 tr Trang
6 VHDG Văn học dân gian
7 VHSS Văn học so sánh
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1: Tài liệu khảo sát.................................................................................................5
Bảng 2: Thông tin điền dã ...............................................................................................7
Bảng 2.1: Phân loại dân ca của ngƣời Tày và ngƣời Thái ............................................70
Bảng 3.1. Sự xuất hiện của các từ mang sắc thái cầu khiến..........................................90
Bảng 4.1: Sự xuất hiện của hình ảnh, biểu tƣợng là con ngƣời và các hình ảnh,
biểu tƣợng nguồn gốc thiên nhiên trong DCTTSH Tày, Thái......................... 121
Bảng 4.2: Sự xuất hiện của hình ảnh, biểu tƣợng nƣớc và các hình ảnh, biểu tƣợng
có nguồn gốc nhân tạo trong DCTTSH Tày, Thái .......................................... 125
Bảng 4.3: Khảo sát việc sử dụng điển tích trong DCTTSH Tày, Thái ...................... 131
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Văn hóa là một trong những yếu tố quan trọng góp phần tạo lập nên dân tộc.
Nó có quan hệ mật thiết với tinh thần, tâm hồn của cả chủng tộc, giúp tạo nên dấu ấn
riêng, phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Văn học, với tƣ cách là một thành tố của
văn hóa, cũng giữ vai trò ấy. Trong văn học, văn học dân gian (VHDG) giữ vị trí đáng
kể và có nhiều ƣu thế trong việc phản ánh tƣ duy, tình cảm của dân tộc. Nghiên cứu
VHDG là cần thiết và quan trọng đối với việc góp phần nghiên cứu, bảo tồn và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc, nhất là đối với việc xây dựng khối thịnh vƣợng chung của cộng
đồng quốc gia dân tộc trong bối cảnh giao lƣu thời toàn cầu hóa hiện nay.
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc. Bức tranh văn hóa Việt Nam đa diện, đa sắc
màu, đƣợc tạo nên bởi quá trình tích hợp các giá trị văn hóa tộc ngƣời vào văn hóa Việt
Nam – một phức thể văn hóa đa dạng mà thống nhất. Qua VHDG, chúng ta có thể nhận
diện đƣợc sự hòa hợp trong đa dạng của mối quan hệ văn hóa giữa các tộc ngƣời. Vì thế,
con đƣờng nghiên cứu so sánh VHDG của các tộc ngƣời sẽ đem tới nhiều khả năng cho
việc phát hiện ra những yếu tố văn hóa truyền thống mang tính đặc trƣng tộc ngƣời cũng
nhƣ những nét chung, mang tính phổ biến.
1.2. Tày và Thái là hai dân tộc có số dân đông thứ hai và thứ ba trong 54 dân tộc
Việt Nam, sinh sống rải rác trong cả nƣớc song tập trung nhiều nhất ở khu vực miền núi
phía Bắc. Ngƣời Tày giữ vai trò chủ thể văn hóa vùng Đông Bắc, ngƣời Thái giữ vai trò
chủ thể văn hóa vùng Tây Bắc. Với những giá trị đặc sắc về văn hóa, hai dân tộc giữ vị
trí quan trọng trong tổng thể văn hóa dân gian Việt Nam. Trong đó, phải kể đến vai trò
của kho tàng VHDG thấm đẫm hồn cốt dân tộc.
1.3. Trong kho tàng VHDG của ngƣời Tày và ngƣời Thái, truyện cổ và dân ca là
hai bộ phận phong phú và tiêu biểu nhất. Dân ca Tày, Thái – với tƣ cách là những bộ
phận của văn hóa và VHDG, đã thể hiện khá sinh động và rõ nét đời sống văn hóa và
tâm hồn dân tộc bởi nó ra đời từ đời sống của nhân dân, rồi lại quay trở lại phục vụ
chính đời sống ấy trong mối quan hệ gắn bó mật thiết với phong tục, tập quán, tín
ngƣỡng, hội hè… của tộc ngƣời. Do đó, có thể nói, dân ca Tày, Thái thể hiện một cách
tập trung nhất và rõ ràng nhất bản sắc văn hóa của hai dân tộc.
2
1.4. Dân ca có ở hầu hết các dân tộc và là nghệ thuật mang tính chất tổng hợp,
gồm ngôn từ, diễn xƣớng, âm nhạc, vũ đạo, đạo cụ. Ở ngƣời Kinh, do điều kiện riêng
nên bộ phận ngôn từ trong dân ca dần tách thành một thể loại độc lập là ca dao. Trái lại,
ở các dân tộc thiểu số (DTTS), bộ phận ngôn từ chƣa phân thành một thể loại độc lập.
Vì thế, các nhà nghiên cứu thƣờng nhắc đến dân ca các DTTS mà không nhắc đến ca
dao của họ nhƣ với ngƣời Kinh. Đây cũng là lí do để dân ca đƣợc coi là đối tƣợng
nghiên cứu của VHDG, dù nó là nghệ thuật biểu diễn.
1.5. Xét riêng về DCTTSH, nếu nhƣ ngƣời Tày có lượn cọi (hát gọi bạn yêu),
lượn slương (hát thƣơng yêu), lượn nàng ới (hát gọi ngƣời con gái), lượn then (hát
then), phong slư (thƣ tình con trai gửi cho con gái và ngƣợc lại)… thì ngƣời Thái có
khắp báo xao (hát trai gái), khắp xai peng (hát dây tình), khắp hạn khuống (hát nơi sàn
chơi), khắp loong tôông (hát nơi cánh đồng), khắp xư (hát thơ)… Sự phong phú, đa
dạng, sự đặc sắc cả về nội dung, thi pháp lời thơ nghệ thuật, đặc điểm diễn xƣớng của
DCTTSH và mức độ gắn bó của chúng với mọi mặt đời sống nhân dân khiến chúng tôi
đặc biệt quan tâm đến loại dân ca này. DCTTSH của mỗi dân tộc vừa mang những điểm
tƣơng đồng, vừa mang những điểm dị biệt.
Một sự so sánh DCTTSH của hai dân tộc Tày, Thái sẽ góp phần khám phá tính
chung, tính phổ biến trong văn hóa của hai dân tộc này, đồng thời làm phát lộ tính riêng
đặc thù của mỗi dân tộc trong bức tranh văn hóa Việt Nam, góp phần khẳng định bản
sắc văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, vấn đề này lại chƣa nhận đƣợc sự quan tâm thỏa đáng từ
các nhà nghiên cứu VHDG.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi chọn vấn đề So sánh dân ca trữ tình sinh
hoạt của người Tày và người Thái ở Việt Nam làm đề tài nghiên cứu với mong muốn chỉ
ra và lí giải đƣợc những điểm giống và khác nhau của hai bộ phận dân ca, trên cơ sở đó
thấy đƣợc cái chung của văn hóa các dân tộc trên đất nƣớc Việt Nam, đồng thời thấy
đƣợc nét đặc thù dân tộc của văn hóa ngƣời Tày và ngƣời Thái.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện luận án này, chúng tôi xác định mục đích nghiên cứu là qua so sánh
DCTTSH của hai dân tộc Tày, Thái, thấy rõ tính thống nhất và đa dạng của dân ca các
dân tộc Việt Nam nói chung, DCTTSH Tày, Thái nói riêng, lí giải nguyên nhân của sự
thống nhất, đa dạng đó.
3
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tập hợp, hệ thống theo lựa chọn có chủ ý các tƣ liệu DCTTSH Tày, Thái dựa
trên các nguồn tƣ liệu sƣu tầm, công bố tƣ liệu dân ca dƣới hình thức song ngữ.
- Điền dã, khảo sát diễn xƣớng DCTTSH Tày, Thái (còn quan sát đƣợc), phỏng
vấn hồi cố các nghệ nhân ngƣời Tày, Thái ở khu vực miền núi phía Bắc; khảo sát các tƣ
liệu phục dựng diễn xƣớng DCTTSH Tày, Thái; quan sát mối quan hệ giữa văn bản và
diễn xƣớng trong thực tế đời sống của hai dân tộc Tày, Thái.
- Tìm hiểu các vấn đề về lí luận văn học so sánh (VHSS) nói chung và VHSS
trong nghiên cứu văn hóa, VHDG nói riêng; hệ thống hóa lí luận về bản sắc văn hóa dân
tộc, dân ca và diễn xƣớng.
- Khái quát về tộc ngƣời và diện mạo DCTTSH của ngƣời Tày và ngƣời Thái.
- Khảo sát các khía cạnh của DCTTSH của hai dân tộc Tày, Thái (qua văn bản là
chính, kết hợp với sự quan sát diễn xƣớng dân ca), lấy đó làm cơ sở cho sự so sánh.
- Phân tích các điểm tƣơng đồng và khác biệt của DCTTSH Tày, Thái.
- Lí giải nguyên nhân của sự tƣơng đồng và khác biệt đó, chỉ ra nội hàm văn hóa
ẩn chứa trong đó để dẫn tới nhận thức rằng sự tƣơng đồng chính là tính thống nhất, sự
khác biệt chính là bản sắc văn hóa của ngƣời Tày, Thái, tạo nên tính đa dạng của văn
hóa các dân tộc.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận án là DCTTSH của ngƣời Tày và ngƣời Thái ở
Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Thực hiện đề tài so sánh DCTTSH của ngƣời Tày và ngƣời Thái ở Việt Nam,
chúng tôi chỉ nghiên cứu loại dân ca này của ngƣời Tày ở vùng Đông Bắc và ngƣời Thái
ở vùng Tây Bắc. Vùng Đông Bắc bao gồm các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà
Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lào Cai và một phần của tỉnh Yên Bái. Vùng Tây
Bắc bao gồm các tỉnh Điện Biên, Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình và một phần tỉnh Yên Bái.
Về nguồn tƣ liệu, các kết quả so sánh của chúng tôi trong luận án là dựa trên cơ
sở khảo sát kĩ càng các nguồn tƣ liệu DCTTSH của ngƣời Tày và ngƣời Thái. Song,
chúng tôi nhận thấy kho tàng DCTTSH của hai dân tộc Tày, Thái có số lƣợng tƣơng đối
lớn và phong phú về thể loại. Hơn nữa, việc đƣa toàn bộ các tài liệu vào trong công trình
4
là không thật cần thiết. Chúng ta hoàn toàn có thể sử dụng vai trò đại diện của tài liệu
VHDG trong công việc nghiên cứu. Lí do của sự không cần thiết nói trên nằm ở tính lặp
lại của VHDG nói chung, dân ca nói riêng. Nếu nhƣ ở văn học viết, nhà nghiên cứu cần
đọc hết các tác phẩm của một tác giả nào đó thì mới có thể đƣa ra những nhận định,
đánh giá khoa học về tác giả đó. Nhƣng, ở VHDG, nhà nghiên cứu chỉ cần biết một số
lƣợng tác phẩm vừa đủ, có tính chất đại diện. VHDG là mảnh đất của những yếu tố lặp
đi lặp lại, của những điểm chung mang tính cộng đồng, thời đại. Riêng ở dân ca, tính lặp
lại của các yếu tố trong dân ca là rất cao và phổ biến. Chỉ bằng quan sát, bạn đọc cũng dễ
dàng nhận ra những sự giống nhau giữa các văn bản dân ca. Do vậy, quan điểm của chúng
tôi là chỉ cần khảo sát giới hạn ở một số lƣợng tác phẩm mà ngoài số lƣợng đó chúng ta
không phát hiện thêm điều gì mới. Sự hạn chế nguồn tƣ liệu của chúng tôi là giống nhƣ
việc làm của tác giả V.IA. Propp trong công trình Hình thái học truyện cổ tích [165].
Khi thống kê, chúng tôi sử dụng các tƣ liệu dân ca dẫn từ các tài liệu đã đƣợc
xuất bản và dƣới hình thức song ngữ Tày – Kinh đối với DCTTSH Tày và Thái – Kinh
đối với DCTTSH Thái. Các tài liệu đƣợc lựa chọn phải có sự ăn khớp nhau về số dòng
thơ trong bản phiên âm và bản dịch sang tiếng Việt, đồng thời bản dịch phải sát nghĩa.
Trong đó, chúng tôi ƣu tiên những công trình mà tác giả là những ngƣời con của dân tộc
Tày, Thái hoặc từng có thời gian sinh sống cùng ngƣời bản tộc, có lợi thế trong việc am
hiểu văn hóa và ngôn ngữ dân tộc. Họ dành rất nhiều công sức, tâm huyết, trung thực và
trách nhiệm trong việc sƣu tầm, biên soạn. Vì thế, việc biên dịch của các tác giả đó khá
sát với cách cảm, cách nghĩ và đặc trƣng thi pháp thể loại của DCTTSH Tày, Thái.
Những tiêu chí nhƣ vậy sẽ đem đến tính tin cậy cho tài liệu đƣợc lựa chọn để khảo sát,
nghiên cứu của luận án.
Vì những lí do này, đối với DCTTSH Tày, trong rất nhiều mảng, chúng tôi lựa
chọn iếu, lượn slương, lượn cọi, phong slư, rọi. Ở từng mảng, chúng tôi chỉ lựa chọn
những bản tiêu biểu, có chất lƣợng để khảo sát. Cụ thể, chúng tôi lựa chọn dẫn 500 bài
dân ca với 4216 câu. Đối với DCTTSH Thái, chúng tôi dẫn 286 bài DCTTSH Thái với
6068 câu. Sự lựa chọn dẫn này là có chủ ý khi chúng tôi nhận thấy các hiện tƣợng đã
đƣợc hàm chứa khá đầy đủ trong 500 bài DCTTSH Tày và 286 bài DCTTSH Thái đƣợc
dẫn. Số lƣợng bài cụ thể trong các tài liệu dân ca đƣợc lựa chọn nhƣ sau:
5
Bảng 1: Tài liệu khảo sát
STT Tài liệu
Mã tài
liệu
Số bài đƣợc
lựa chọn
Tày
1 Phƣơng Bằng (sƣu tầm, phiên âm chữ Nôm và dịch)
(2012), Phong Slư, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội
[6] 5
2 Hoàng Văn Chữ, Nông Phúc Tƣớc, Hoàng Nừng (sƣu
tầm, biên dịch) (2012), Iếu – Dân ca dân tộc Tày, Nxb
Văn hóa dân tộc, Hà Nội
[22] 50
3 Nhiều tác giả (1970), Rọi (Vốn cổ văn học dân tộc Tày –
Nùng), Nxb Dân tộc Việt Bắc
[99] 50
4 Nhiều tác giả (2012), Lượn Tày: Lượn Tày Lạng Sơn,
lượn slương, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội
[108] 200
5 Lục Văn Pảo (sƣu tầm, phiên âm, dịch) (1994), Lượn
cọi, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội
[117] 150
6 Dƣơng Văn Sách, Dƣơng Thị Đào (sƣu tầm) (2016),
Lượn rọi – Hát đối đáp của của người Tày, Nxb Hội
nhà văn, Hà Nội
[128] 45
Tổng 500
Thái
7 Nguyễn Văn Hòa (sƣu tầm, biên dịch) (2001), Truyện cổ
và dân ca Thái vùng Tây Bắc Việt Nam, Nxb Văn hóa
dân tộc, Hà Nội
[50] 49
8 Hà Mạnh Phong, Đỗ Thị Tấc (sƣu tầm, biên dịch) (2012),
Dân ca Thái Lai Châu, Quyển 2 – Thơ và dân ca tình
yêu của người Thái Mường So, Nxb Văn hóa dân tộc,
Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Lai Châu, Hà Nội
[121] 190
9 Đỗ Thị Tấc (sƣu tầm và dịch) (2012), Dân ca Thái Lai
Châu, Quyển 1 – Chiêng xoong mố bók (Mùa xuân
mùa hoa), Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội
[134] 47
Tổng 286
6
Số lời còn lại của các công trình kể trên và các tài liệu DCTTSH khác của ngƣời
Tày, Thái, chúng tôi sử dụng làm cơ sở tham khảo, đối chiếu, kiểm tra. Chẳng hạn, ở
DCTTSH Tày có các công trình nhƣ Lượn cằm Tày Hoàng Liên Sơn [138], Sli lượn
hát đôi của người Tày Nùng ở Cao Bằng [92], Chồm bjoóc mạ [14], Lượn then ở
miền đông Cao Bằng [78], Tàng pây kết chụ (Đường đi kết bạn tình) [70], Thành ngữ
- tục ngữ - ca dao dân tộc Tày [127], Thơ ca dân gian Tày Nùng xứ Lạng [5], Tục
ngữ, ca dao Tày vùng hồ Ba Bể [192], tƣ liệu điền dã của tác giả luận án; ở ngƣời Thái
có công trình: Khắp sứ lam của người Thái đen xã Noong Luống, huyện Điện Biên,
tỉnh Điện Biên [49].
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Phương pháp luận
Theo Hà Văn Tấn, “phƣơng pháp luận khoa học là hệ thống lí thuyết lí giải đối
tƣợng nghiên cứu cũng nhƣ lí giải các phƣơng pháp tiếp cận đối tƣợng đó” [55; tr. 10].
Tác giả Nguyễn Thiện Giáp trong cuốn Phương pháp luận và phương pháp nghiên
cứu ngôn ngữ [40] cũng nói tƣơng tự nhƣ vậy. Vậy, phƣơng pháp luận định hƣớng cho
chúng tôi trong quá trình thực hiện luận án này là: Trong khi sử dụng các quy phạm của
nghiên cứu văn học, không quên tính đặc thù của VHDG; khi so sánh DCTTSH của hai
dân tộc Tày, Thái, chúng tôi chú ý đến mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Cái
chung ở đây là tính toàn nhân loại của VHDG, tính tƣơng đồng cao của dân ca các dân
tộc ở Việt Nam. Cái riêng ở đây là tính đặc thù của DCTTSH mỗi dân tộc. Theo ý nghĩa
triết học, cái chung đƣợc lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tƣợng hay quá trình riêng lẻ
khác; cái riêng là một sự vật, một hiện tƣợng, một quá trình riêng lẻ nhất định.
Phƣơng pháp luận cũng chỉ ra rằng, để thực hiện bản luận án này, chúng tôi cần
áp dụng các phƣơng pháp nghiên cứu sau: phƣơng pháp điền dã, phƣơng pháp thống kê,
phƣơng pháp so sánh, phƣơng pháp liên ngành.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
4.2.1. Phương pháp điền dã
Luận án thực hiện trên cơ sở tƣ liệu là DCTTSH của ngƣời Tày và ngƣời Thái.
Đây là đề tài nghiên cứu dân ca nên cần đặt nó trong môi trƣờng diễn xƣớng cụ thể để
thấy đƣợc hết tính sinh động của diễn xƣớng và thấy đƣợc mối liên hệ giữa dân ca với
phong tục, tập quán, tín ngƣỡng... của dân tộc. Vì thế, chúng tôi lựa chọn phƣơng pháp
điền dã. Trong quá trình thực hiện luận án, chúng tôi tiến hành điền dã tại một số vùng
cƣ trú của đồng bào Tày, Thái ở vùng Đông Bắc và Tây Bắc. Tại đó, chúng tôi quan sát
7
đời sống sinh hoạt của đồng bào Tày, Thái, phỏng vấn ngƣời dân, tiếp cận với các diễn
xƣớng DCTTSH Tày, Thái. Chúng tôi đƣợc chứng kiến các diễn xƣớng có tính ngẫu
hứng khi làm ngô, làm lúa, các điệu hát rong chơi… của ngƣời Thái ở Yên Bái, diễn
xƣớng lượn slương của ngƣời Tày ở Bắc Kạn và đƣợc chứng kiến các nghệ nhân phục
hồi các diễn xƣớng lượn của ngƣời Tày ở Bắc Kạn, Hà Giang, Lạng Sơn và khắp của
ngƣời Thái ở Yên Bái. Chúng tôi lựa chọn các địa bàn điền dã nhƣ thế bởi đó là nơi tập
trung đông đồng bào Tày/ Thái sinh sống, còn lƣu giữ đƣợc nhiều đặc điểm văn hóa
truyền thống của dân tộc. Các thông tin đƣợc cụ thể hóa trong bảng dƣới đây:
Bảng 2: Thông tin điền dã
STT Địa điểm Thời gian Thông tin viên
Tày
1 Xã Quỳnh Sơn, huyện Bắc Sơn,
tỉnh Lạng Sơn
15/2 – 5/3/ 2017 Dƣơng Công Thông
Dƣơng Công Nam
2 Thị trấn Yên Minh, huyện Yên
Minh, tỉnh Hà Giang
24/4 - 28/4/2018 Nguyễn Thị Hà
Hoàng Thị Đại
3 Xã Thƣợng Bằng La, huyện Văn
Chấn, tỉnh Yên Bái
7/2 - 12/2/2014 Hà Đình Tỵ
4 Xã Lam Sơn, huyện Na Rì, tỉnh
Bắc Kạn
12/2 – 19/2/2016 Nông Minh Cƣơng
Thái
4 Xã Sơn A, huyện Văn Chấn, tỉnh
Yên Bái
7/2 – 21/2/2016 Lò Thị Sa
Sầm Văn Tuấn
5 Xã Hạnh Sơn, huyện Văn Chấn,
tỉnh Yên Bái
11/7 - 18/7/2018 Lƣờng Thủy Chung
Vì Thị Pọm
Lò Thị Sáng
Lò Thị Tía
Qua điền dã, chúng tôi thu thập các thông tin hữu ích cho quá trình so sánh và lí giải.
Việc thu thập các dữ liệu văn hóa, lịch sử, xã hội tộc ngƣời sẽ cho kết quả là những
8
thông tin định tính góp phần chứng minh và lí giải cho những đặc điểm tƣơng đồng và
khác biệt của DCTTSH của hai dân tộc.
4.2.2. Phương pháp thống kê
Về phƣơng pháp thống kê, trong công trình Văn hóa dân gian – Những phương
pháp nghiên cứu [101; tr. 127 – 141], Nguyễn Xuân Kính đã khẳng định đây là một
trong số các phƣơng pháp nghiên cứu chính xác bởi mục đích của việc nghiên cứu là tìm
ra giá trị và giải thích, làm sáng tỏ các quy luật, tức những sự lặp lại của các hiện tƣợng
cùng loại ở một mức độ nhất định nào đó. Sử dụng phƣơng pháp này, chúng tôi thống kê
thông tin về các tài liệu công bố dân ca theo năm và theo dân tộc phục vụ cho việc lƣợc
thuật tình hình sƣu tầm, nghiên cứu, thống kê các bài DCTTSH Tày, Thái đƣợc lựa chọn
làm đối tƣợng khảo sát. Đặc biệt, chúng tôi thống kê các số liệu cụ thể liên quan đến nội
dung, thi pháp của DCTTSH Tày, Thái nhƣ tần suất xuất hiện của các điển tích, biểu
tƣợng, thể thơ. Các kết quả thống kê mang tính định lƣợng nhƣ thế sẽ là căn cứ để
chúng tôi đƣa ra các suy luận, nhận định khoa học. Đồng thời, việc sử dụng các phƣơng
pháp này cũng giúp tăng thêm sức thuyết phục, độ chính xác, tin cậy cho những nhận
định khoa học của chúng tôi.
4.2.3. Phương pháp so sánh
Ở góc độ là một phƣơng pháp nghiên cứu khoa học, so sánh là phƣơng pháp
quen thuộc, đƣợc sử dụng trong nhiều ngành khoa học khác nhau để định tính, định
lƣợng hoặc xác định ngôi thứ của các sự vật, hiện tƣợng. Trong nghiên cứu văn hóa dân
gian, VHDG, phƣơng pháp so sánh đƣợc dùng để xác định, đánh giá các hiện tƣợng
trong mối quan hệ giữa chúng với nhau. Chúng tôi lựa chọn phƣơng pháp so sánh vì
mục đích chính của đề tài là làm folklore so sánh. Chỉ có qua so sánh mới chỉ ra đƣợc
những tƣơng đồng, khác biệt của hai bộ phận dân ca này ở hai tộc ngƣời Tày, Thái.
Dạng thức chính của phƣơng pháp so sánh mà chúng tôi sử dụng là so sánh loại hình
lịch sử. Sử dụng phƣơng pháp này, chúng tôi nhằm nhận thức DCTTSH Tày, Thái thông
qua việc tìm ra sự tƣơng đồng và khác biệt giữa các yếu tố nhƣ nội dung, thi pháp lời thơ
nghệ thuật, đặc điểm diễn xƣớng trong DCTTSH của ngƣời Tày và ngƣời Thái. Chúng tôi
tìm ra kết cấu bên trong, sự liên hệ giữa DCTTSH Tày, Thái với các yếu tố lịch sử, xã hội
để giải thích nguyên nhân, ý nghĩa của những điểm tƣơng đồng, dị biệt đó.
4.2.4. Phương pháp liên ngành
Phƣơng pháp liên ngành là phƣơng pháp nghiên cứu có sự kết hợp giữa nhiều
ngành khoa học, trong đó có một ngành đóng vai trò trung tâm, nhƣ tác giả Đinh Gia
9
Khánh đã phân tích trong cuốn sách Văn hóa dân gian – Những phương pháp nghiên
cứu [101; tr. 113]. Ở đây, khoa nghiên cứu văn học chú ý đến tính đặc thù của sáng tác
dân gian đóng vai trò trung tâm, các ngành khoa học khác nhƣ dân tộc học, lịch sử, văn
hóa học… đóng vai trò bổ trợ.
Chúng tôi sử dụng các kiến thức về dân tộc học, lịch sử, địa lí… trong một đề tài
folklore so sánh để trả lời cho câu hỏi nghiên cứu về nguyên nhân và ý nghĩa những đặc
điểm tƣơng đồng, khác biệt trong DCTTSH của ngƣời Tày và ngƣời Thái. Cụ thể, thông
qua nghiên cứu tài liệu và nghiên cứu các dữ liệu thu thập đƣợc từ việc quan sát văn
hóa, lịch sử, xã hội… của tộc ngƣời Tày, Thái, chúng tôi nhằm phát hiện ra sự chuyển
hóa các dữ liệu văn hóa, lịch sử, xã hội… thành các dữ liệu văn học, lấy đó làm cơ sở
cho những lí giải về sự giống và khác nhau của DCTTSH Tày, Thái; nhận định về mối
liên hệ cũng nhƣ vai trò của của DCTTSH đối với văn hóa tộc ngƣời nói riêng và văn
hóa Việt Nam nói chung.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án là công trình nghiên cứu đầu tiên đặt DCTTSH – một bộ phận quan trọng
của VHDG nói riêng, văn hóa nói chung của ngƣời Tày và ngƣời Thái - dƣới góc nhìn
so sánh. Trên cơ sở những thành tựu nghiên cứu của các tác giả đi trƣớc, luận án đã kế
thừa, bổ sung và phát triển sâu hơn các luận điểm đó, đặt chúng trong một hệ quy chiếu
mới là sự so sánh, đối chiếu. Công trình đã chỉ ra và lí giải nguyên nhân, ý nghĩa của
những điểm tƣơng đồng và khác biệt trên nhiều phƣơng diện nhƣ: nội dung, thi pháp,
đặc điểm diễn xƣớng của DCTTSH Tày, Thái.
Luận án hƣớng tới việc từ các đặc điểm của dân ca để góp thêm tiếng nói khẳng
định tính chung của văn hóa các dân tộc Việt Nam, là cơ sở để xây dựng nền văn hóa
Việt Nam thống nhất; đồng thời, khẳng định tính đặc thù dân tộc về văn hóa của hai dân
tộc Tày, Thái, giúp khu biệt hai dân tộc vốn gần gũi với nhau về nhiều mặt.
Luận án đƣợc thực hiện trong sự quan sát, liên tƣởng với văn học, văn hóa của
ngƣời Kinh nhằm cung cấp một góc độ nhìn nhận toàn diện hơn, rõ ràng và khách quan
hơn về tính chung và tính riêng của DCTTSH Tày, Thái.
Kết quả nghiên cứu của luận án khẳng định hƣớng nghiên cứu so sánh DCTTSH
nói riêng, VHDG nói chung là hƣớng nghiên cứu có tính khả thi, mang lại kết quả là sự
nhận thức sâu sắc hơn về mối liên hệ giữa văn học với môi trƣờng tự nhiên, văn hóa,
lịch sử… của dân tộc, và quan trọng nhất, là làm rõ bản sắc văn hóa dân tộc trong sự hài
hòa với văn hóa cộng đồng mang tính khu vực, cao hơn là quốc gia, nhân loại.
10
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Về lí luận
Vận dụng kết hợp các dạng thức khác nhau của phƣơng pháp so sánh: so sánh
loại hình lịch sử, so sánh từ cách tiếp cận dân tộc học, luận án bƣớc đầu làm rõ và đánh
giá các điểm tƣơng đồng, khác biệt về mặt nội dung, thi pháp và đặc điểm diễn xƣớng
của DCTTSH Tày, Thái trong mối liên hệ với các đặc điểm tự nhiên, văn hóa, xã hội,
lịch sử tộc ngƣời.
Việc so sánh dân ca để làm rõ bản sắc văn hóa của ngƣời Tày, Thái giúp hai dân
tộc tự khẳng định chính mình. Đồng thời, các kết quả nghiên cứu của luận án có thể
đóng góp thêm tƣ liệu và cách nhìn nhận trong việc tìm hiểu cái chung – cái riêng, hay
chính là cái phổ biến và cái đặc thù của dân ca các dân tộc, quan hệ giữa văn hóa dân
tộc, vùng miền với văn hóa quốc gia thống nhất.
6.2. Về thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án có ý nghĩa thực tiễn. Với mục đích hƣớng tới việc
tìm hiểu sâu sắc về những đặc điểm giống và khác nhau của DCTTSH Tày, Thái, vai trò
của những đặc điểm đó trong việc thể hiện bản sắc văn hóa tộc ngƣời, hi vọng các kết
quả của luận án có thể là cơ sở cho việc thực thi bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa
đặc sắc của hai DTTS hiện đang giữ vai trò chủ thể văn hóa vùng ở khu vực miền núi
phía Bắc và xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc theo đƣờng lối, chính sách chung của
Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam.
Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu của luận án còn có giá trị đối với việc nghiên
cứu, giảng dạy DCTTSH của ngƣời Tày và ngƣời Thái nói riêng, VHDG nói chung.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, phần Nội dung
của luận án đƣợc triển khai với bốn chƣơng. Cụ thể nhƣ sau:
Chƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí luận của luận án
Chƣơng 2: Khái quát về người Tày, Thái ở Việt Nam và dân ca trữ tình sinh hoạt của họ
Chƣơng 3: Những điểm tương đồng của dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và
người Thái
Chƣơng 4: Những điểm khác biệt của dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và người Thái
11
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA LUẬN ÁN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tình hình sưu tầm, nghiên cứu dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày
1.1.1.1. Tình hình sưu tầm dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày
Trong kho tàng dân ca các DTTS, dân ca dân tộc Tày đƣợc sƣu tầm nhiều và
sớm hơn cả. Trong đó, dân ca nghi lễ nhận đƣợc sự quan tâm của các nhà sƣu tầm sớm
hơn so với DCTTSH. Nếu nhƣ dân ca nghi lễ, mà cụ thể là dân ca đám cƣới Tày đƣợc
Nguyễn Văn Huyên sƣu tầm, công bố cả bản chữ Nôm Tày, bản phiên âm và bản dịch
bằng tiếng Pháp, đƣợc nhà in Viễn Đông Bác Cổ xuất bản từ năm 1941 với công trình
Những khúc ca đám cưới Tày ở Lạng Sơn và Cao Bằng (bản dịch tiếng Việt trong
cuốn Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam [55; tr. 497 – 482]), thì phải đến năm
1970, DCTTSH của ngƣời Tày mới đƣợc công bố lần đầu tiên qua cuốn Rọi – Vốn cổ
văn học dân tộc Tày Nùng [99] do nhóm các tác giả Trƣơng Lạc Dƣơng, Nông Đình
Tuấn, Trần Vĩnh, Võ Quang Nhơn sƣu tầm và dịch. Rọi (phuối rọi, phuối pác, lượn
tói) là một hình thức hát đối đáp theo kiểu ứng khẩu tự nhiên, không cầu kì. Trong
công trình, nhóm tác giả đã giới thiệu 231 bài, chủ yếu là về dân ca tình yêu. Điều
đáng quý là ngay từ công trình đầu tiên công bố tƣ liệu DCTTSH Tày, các tác giả đã
có ý thức công bố dƣới hình thức song ngữ Tày – Việt.
Năm 1987, các tác giả Cung Văn Lƣợc, Lê Bích Ngân công bố tƣ liệu dân ca về
lượn cọi thông qua cuốn Lượn cọi Tày Nùng [76]. Hai tác giả đã căn cứ vào 10 bản
chữ Nôm Tày ghi chép về lượn cọi sƣu tầm đƣợc ở các tỉnh Thái Nguyên, Tuyên
Quang, Bắc Kạn, Cao Bằng để lọc lựa ra một số bài hay và giới thiệu tới độc giả. Đáng
tiếc, các tác giả chỉ giới thiệu bản dịch thơ ra tiếng Việt.
Những năm 90 của thế kỉ XX, giới trí thức dân tộc Tày đã rất nỗ lực trong việc
giới thiệu di sản DCTTSH của dân tộc. Sự ra đời của các cuốn sách Phong slư năm
1991 [115], Lượn slương năm 1992 [7], Lượn cọi năm 1994 [117] của tác giả Lục
Văn Pảo (còn gọi là Phƣơng Bằng) là kết quả của sự nỗ lực ấy. Trong đó, đáng chú ý
là lượn slương và lượn cọi có số lƣợng đƣợc công bố hết sức dồi dào (lượn slương
đƣợc công bố 2924 câu, lượn cọi đƣợc công bố 7465 câu). Trừ cuốn Phong slư cung
cấp tƣ liệu về các bức thƣ tình của nam nữ thanh niên Tày thời xƣa dƣới hình thức là
những tác phẩm độc lập riêng rẽ, không liên quan gì đến nhau, các cuốn sách Lượn
12
slương, Lượn cọi sắp xếp các bài dân ca theo trình tự của diễn xƣớng trong thực tế,
khiến qua đó ngƣời đọc hình dung đƣợc đáng kể về cuộc hát. Cả ba nhóm bài hát của
DCTTSH Tày đều đƣợc giới thiệu dƣới hình thức song ngữ, tức bao gồm phần phiên
âm tiếng Tày và phần dịch nghĩa sang tiếng Việt.
Một tác giả đƣợc gọi là “ông tiên núi” vì những đóng góp trong việc sƣu tầm,
nghiên cứu dân ca H’Mông là Doãn Thanh cũng để tâm sƣu tầm DCTTSH của ngƣời
Tày. Trong công trình Lượn cằm Tày Hoàng Liên Sơn [138], Doãn Thanh đã công bố
các bài DCTTSH mà ông sƣu tầm đƣợc và có phân ra các bài lượn có lề lối và lượn tự
do, theo hình thức song ngữ.
Sang đầu thế kỉ XXI, tình hình công bố tƣ liệu DCTTSH ngày càng sôi động.
Có thể kể đến các công trình: Sli lượn hát đôi của người Tày Nùng ở Cao Bằng của
Hoàng Thị Quỳnh Nha năm 2003 [92], Chồm bjoóc mạ của Hoàng Thị Cấp năm 2005
[14], Lượn then ở miền đông Cao Bằng của Triệu Thị Mai năm 2010 [78], Thơ ca
dân gian Tày Nùng xứ Lạng của Nguyễn Duy Bắc năm 2012 [5], Iếu – dân ca dân
tộc Tày của nhóm tác giả Hoàng Văn Chữ, Nông Phúc Tƣớc, Hoàng Nừng năm 2012
[22], Lượn Tày: Lượn Tày Lạng Sơn, lượn slương do Hoàng Văn Páo chủ biên năm
2012 [108], Thành ngữ - Tục ngữ - Ca dao dân tộc Tày của các tác giả Hoàng Triều
Ân, Hoàng Quyết năm 2014 [127], Tục ngữ ca dao Tày vùng hồ Ba Bể do Nguyễn
Thị Yên chủ biên năm 2014 [192], Lượn rọi – hát đối đáp của của người Tày của các
tác giả Dƣơng Văn Sách, Dƣơng Thị Đào năm 2016 [128], Tàng pây kết chụ (Đường
đi kết bạn tình) của Hoàng Tƣơng Lai năm 2016 [70]. Ở những công trình này, bên
cạnh việc giới thiệu một vài làn điệu mới của DCTTSH Tày nhƣ lượn then, iếu, các
nhà sƣu tầm tiếp tục công bố tƣ liệu DCTTSH thuộc các làn điệu nhƣ lượn cọi, lượn
rọi, lượn slương… đã từng đƣợc giới thiệu từ cuối thế kỉ XX, cho thấy trữ lƣợng
phong phú của các nhóm bài hát này.
Trong một chuyến điền dã tại thôn Thiên Tuế, xã Thƣợng Bằng La, huyện Văn
Chấn, tỉnh Yên Bái năm 2014, chúng tôi đã đƣợc nghệ nhân Hà Đình Tỵ cung cấp tƣ
liệu DCTTSH Tày bao gồm 64 bài cắm nôm dƣới hình thức song ngữ Tày – Việt.
Qua điểm lại tình hình sƣu tầm nhƣ trên, có thể thấy kho tàng DCTTSH phong
phú, dồi dào và đã đƣợc sƣu tầm, công bố với số lƣợng khá lớn.
13
1.1.1.2. Tình hình nghiên cứu dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày
Trong tƣơng quan so sánh với lịch sử nghiên cứu dân ca của các DTTS khác,
DCTTSH Tày đƣợc nghiên cứu từ khá sớm. Qua tìm hiểu, chúng tôi thấy có thể phân
loại tài liệu nghiên cứu về DCTTSH Tày thành hai dạng. Dạng thứ nhất là các công
trình công bố tƣ liệu DCTTSH Tày, trong đó nội dung nghiên cứu thƣờng nằm ở các
bài giới thiệu ở đầu sách. Dạng công trình thứ hai là các công trình nghiên cứu về một
thể loại của DCTTSH Tày ở một địa phƣơng cụ thể, hoặc về một khía cạnh của dân ca
Tày. Ở các công trình thuộc hai dạng tài liệu này, các vấn đề của DCTTSH Tày ít
nhiều đƣợc nghiên cứu ở các phƣơng diện khác nhau. Chúng tôi lƣợc thuật kết quả
nghiên cứu ở hai dạng công trình đó nhƣ sau:
Thứ nhất, nhóm các chỉ dẫn sơ bộ, khái quát trong các bài giới thiệu ở các sách
công bố tư liệu DCTTSH Tày: Trong các bộ sƣu tập tài liệu dân ca, trƣớc khi công bố
với độc giả kết quả sƣu tầm, biên dịch của mình về DCTTSH, các soạn giả thƣờng có
một bài giới thiệu mang tính chỉ dẫn về đặc điểm của các bài hát đƣợc công bố. Nội
dung chính của hệ thống bài giới thiệu này là cái nhìn tổng thể về các bài hát đó nhƣ
tên gọi, sự phân loại và sơ bộ đặc điểm nội dung, nghệ thuật lời ca, phƣơng thức diễn
xƣớng của từng nhóm bài hát.
Về tên gọi, các nhà nghiên cứu trong các bài giới thiệu đầu bộ sách sƣu tập dân
ca có xu hƣớng coi lượn là dân ca giao duyên – một hình thức của DCTTSH Tày. Đây
là cách hiểu lượn theo nghĩa hẹp. Đại diện cho quan điểm này là Cung văn Lƣợc, Lê
Bích Ngân với công trình Lượn cọi Tày – Nùng xuất bản năm 1987 [76], Phƣơng
Bằng (hay chính là Lục Văn Pảo) và Lã Văn Lô với công trình Lượn slương xuất bản
năm 1992 [7], Lục Văn Pảo với công trình Lượn cọi xuất bản năm 1994 [117], Triệu
Thị Mai với công trình Lượn then ở miền đông Cao Bằng xuất bản năm 2010 [78],
Hoàng Văn Páo và nhóm tác giả với công trình Lượn Tày: Lượn Tày Lạng Sơn, lượn
slương xuất bản năm 2012 [108], Nguyễn Duy Bắc với công trình Thơ ca dân gian
Tày – Nùng xứ Lạng xuất bản năm 2012 [5], Hoàng Quyết, Hoàng Triều Ân với công
trình Thành ngữ - Tục ngữ - Ca dao dân tộc Tày xuất bản năm 2014 [127], Dƣơng
Văn Sách, Dƣơng Thị Đào với công trình Lượn rọi – Hát đối đáp của của người Tày
xuất bản năm 2016 [128].
Ở sách Lượn cọi Tày – Nùng [76], các tác giả Cung Văn Lƣợc, Lê Bích Ngân
nhấn mạnh ngƣời Tày - Nùng gọi các lời ca tiếng hát trữ tình là sli – lượn, nhƣng chỉ
14
những bài dùng để hát đối đáp nam nữ và theo làn điệu nhất định mới đƣợc gọi là
lượn, tức không bao gồm hát đám cƣới và hát then nghi lễ. Các tác giả tập trung giới
thiệu về lượn cọi. Lượn cọi có nhiều cung, mỗi cung lại gồm nhiều bài. Tuy nhiên,
những nhận định, phân tích về mảng dân ca này chƣa đƣợc các tác giả đi sâu.
Về phân loại, các tác giả Hoàng Ngọc La, Hoàng Hoa Toàn, Vũ Anh Tuấn
trong công trình Văn hóa dân gian Tày đã có sự phân chia các thể tài thơ ca sinh hoạt
của ngƣời Tày khá rõ ràng và hợp lí thành ba nhóm: Những bài hát giao duyên nhƣ
lượn, phong slư; những bài hát vui chơi của trẻ em nhƣ đồng dao và hát ru em; các thể
loại trung gian bao gồm “một bộ phận cấu tố phức tạp (chữ dùng của Lục Văn Pảo)
đƣợc diễn xƣớng theo lối hát” [69; tr. 213]. Ở nhóm này, các tác giả đã đƣa ra những
nét phác thảo chung nhất về nội dung và đặc điểm diễn xƣớng. Tuy thế, có một điều
bất hợp lí nhỏ là các tác giả đã xếp cả tục ngữ, câu đố vào nhóm loại hình trung gian.
Tục ngữ Tày có phƣơng thức diễn xƣớng là nói, không hề có sự gắn kết với yếu tố âm
nhạc. Trong khi đó, một bộ phận câu đố Tày lại có cấu tạo dài thành bài, đƣợc hát
thành các bài hát đối đáp trong một cuộc hát hai vế nhƣ trong diễn xƣớng iếu. Vì thế,
sẽ là ổn thỏa hơn và phù hợp với thực tế kho tàng DCTTSH Tày hơn nếu nhƣ các tác
giả chỉ xếp phuối pác, phuối rọi và các câu đố dài vào nhóm các thể tài trung gian.
Năm 2012, trong công trình Thơ ca dân gian Tày - Nùng xứ Lạng [5], PGS.
TS Nguyễn Duy Bắc đã giới thiệu về thơ ca dân gian của ngƣời Tày, Nùng ở Lạng
Sơn theo hƣớng phân định rõ ràng Tày – Nùng, trong đó có phân loại DCTTSH của
ngƣời Tày. Theo đó, ngƣời Tày có lượn và phong slư. Lượn có lượn slương và lượn
cọi. Ở mỗi loại lượn này lại có những thành phần nhỏ hơn. Khi trình bày về lượn và
phong slư, tác giả đã chỉ rõ đặc điểm nội dung phản ánh hình thức. Bên cạnh đó, tác
giả còn giới thiệu dân ca nghi lễ Tày là quan lang, pả mẻ và then.
Về đặc điểm của từng nhóm bài hát: Các tác giả đã nêu ra những nét chung nhất
về nội dung phản ánh, nghệ thuật lời ca… trong các bài giới thiệu về nhóm bài hát
đƣợc công bố ở phần sau đó. Sớm nhất, có thể kể đến cuốn Rọi – Vốn cổ văn học dân
tộc Tày - Nùng của nhóm tác giả Trƣơng Lạc Dƣơng, Nông Đình Tuấn, Võ Quang
Nhơn. Ở đây, các tác giả giới thiệu địa bàn lƣu truyền, nội dung, nghệ thuật và sự diễn
xƣớng của các bài rọi đƣợc công bố trong sách này. Theo đó, rọi rất phổ biến ở khu ta
và ngoài khu (khu với ý nghĩa chỉ khu tự trị Việt Bắc cũ). Nội dung của rọi chủ yếu là
phản ánh tình yêu nam nữ. Về diễn xƣớng, rọi thuộc kiểu hát đối đáp ứng khẩu song
15
có điểm nổi bật là “nói nhƣ hát, hát nhƣ nói một cách tự nhiên, không cầu kì, gò bó
thanh điệu, cấu trúc” [99; tr. 7]. Về nghệ thuật, rọi có những điểm nổi bật nhƣ lối tƣ
duy hình tƣợng, dùng cảnh để tả tình, dùng phụ nổi chính, dùng cách so sánh, tƣơng
phản, cƣờng điệu, dùng cách dẫn dắt cung bậc, cấu trúc đoạn ngắn dài tùy nội dung…
Tuy thế, các đặc điểm của rọi chỉ đƣợc các tác giả phác họa sơ bộ, chƣa đi sâu phân
tích. Đồng thời, do chỉ giới hạn địa bàn sƣu tầm ở khu tự trị Việt Bắc, trong khi rọi
còn lƣu truyền ở nhiều địa bàn khác nữa nên các tác giả chƣa bao quát hết đƣợc các
đặc điểm của rọi nói chung của ngƣời Tày.
Rọi còn đƣợc giới thiệu trở lại trong cuốn Lượn rọi – Hát đối đáp của người
Tày của các tác giả Dƣơng Văn Sách, Dƣơng Thị Đào năm 2016. Với công trình này,
các tác giả đề cập đến đặc điểm của lượn rọi ở Cao Bằng. Lượn rọi, cùng với phuối
rọi, phuối pác (với nghĩa nói rọi) đều thuộc rọi nói chung. Trong đó, “lượn rọi là câu
rọi khi trao đổi có giai điệu” [128; tr. 13]. Về cơ bản, các đặc điểm của lượn rọi đƣợc
chỉ ra ở đây là giống với các đặc điểm mà tác giả công trình Rọi – Vốn cổ văn học dân
tộc Tày Nùng đã chỉ ra, bổ sung thêm đặc điểm về giai điệu và lề lối diễn xƣớng. Đây
là điều đáng quý, giúp ngƣời đọc hình dung dễ hơn về hình thức hát đối đáp của mảng
dân ca này trong khi ngày nay khó đƣợc chứng kiến trong thực tế.
Lượn cọi đƣợc tác giả Lục Văn Pảo giới thiệu trong công trình Lượn cọi năm
1994. Tác giả Lục Văn Pảo đã căn cứ vào các bản cọi Nôm truyền thống của các vùng
Tày Việt Bắc để giới thiệu. Tác giả khẳng định: “…lượn cọi làm nổi lên thế giới quan
và nhân sinh quan của cả một tộc ngƣời… Về nghệ thuật, thì lượn là một thể loại văn
hóa tổng hợp liên quan đến nhiều lĩnh vực mà trƣớc hết là ngôn ngữ, thứ đến là văn tự
và thứ nữa là hình thức ngâm vịnh gồm nhiều làn điệu bằng lời” [117; tr. 13]. Từ đó,
tác giả đánh giá cao lượn cọi trong đời sống văn hóa của ngƣời Tày.
Năm 2010, với công trình Lượn then ở miền đông Cao Bằng, tác giả Triệu Thị
Mai đã giới thiệu đến đông đảo công chúng lượn then – một hình thức hát giao duyên
của ngƣời Tày ở các huyện Trà Lĩnh, Quảng Hòa, Trùng Khánh, Hạ Lang thuộc miền
đông Cao Bằng. Theo tác giả, “lượn then nghĩa là hát những bài hát theo ý của trời,
cao siêu và đẹp đẽ, linh thiêng” [78; tr. 15]. Cách thức hát và nội dung các cuộc hát có
đƣợc tác giả nhắc đến một cách ngắn gọn nhằm minh họa cho phần tƣ liệu dân ca đƣợc
tác giả sƣu tầm, biên soạn ở phía sau. Điểm đặc biệt ở đây là tác giả đã nhìn ra sự ảnh
hƣởng của văn hóa Kinh đối với sinh hoạt văn hóa dân tộc Tày khi nhận thấy lượn
16
then có sự pha lẫn nhiều từ tiếng Việt và có những lời ca đƣợc sáng tác bằng tiếng Việt
hoặc tiếng Tày theo thể thơ lục bát của ngƣời Kinh. Đây là gợi ý quan trọng đối với
chúng tôi trong việc lí giải các đặc điểm của DCTTSH Tày.
Năm 2012 đánh dấu sự xuất hiện của các công trình công bố tƣ liệu dân ca
thuộc các mảng lượn slương, lượn cọi, lượn nàng ới, iếu. Trong đó, các tác giả luôn
dành vài trang để giới thiệu đôi nét về những nhóm bài hát đƣợc công bố.
Công trình Lượn Tày: Lượn Tày Lạng Sơn, lượn slương [108] đƣợc tạo thành
bởi sự hợp sức của nhiều tác giả. Về lượn ở Lạng Sơn, các tác giả đã có giới thiệu khá
chi tiết về quy trình và nội dung lượn, các giá trị văn hóa và vấn đề bảo tồn, phát huy
hát lƣợn Tày ở Lạng Sơn. Về lượn slương, tác giả Phƣơng Bằng đã khái quát vài nét
về lượn slương ở các khía cạnh: hình thức, sự phân bố, đặc trƣng hát xƣớng, đối tƣợng
tham gia, trình tự cuộc hát, nội dung. Với tính chất một công trình công bố các văn bản
dân ca Tày là chủ yếu, phần giới thuyết về lượn Tày Lạng Sơn, lượn slương của các
tác giả mang tính chất tả hơn là khảo song lại cung cấp những chỉ dẫn quý báu với
chúng tôi khi tìm hiểu về DCTTSH Tày.
Nhà nghiên cứu Phƣơng Bằng trong cuốn Phong Slư đã giới thiệu 40 bài phong
slư – những bức thƣ tình yêu của trai gái Tày. Tác giả nhận thấy điểm đặc biệt của thƣ
tình yêu Tày là “đƣợc nâng lên thành một thể loại, có kết cấu và có quy cách biểu đạt
riêng,… có cách ngâm vịnh riêng biệt” [6; tr. 11] và có đặc điểm nội dung nổi bật là
yếu tố bi và yếu tố hƣ mang theo tính tao nhã, thanh cao.
Mở đầu cuốn Iếu – dân ca dân tộc Tày [22], các tác giả đã giới thiệu về một
hình thức hát đối đáp giao duyên của ngƣời Tày là iếu. Làn điệu này chƣa đƣợc quan
tâm sƣu tầm và đang có nguy cơ mất mát vĩnh viễn. Iếu lƣu truyền chủ yếu ở phía tây
tỉnh Hà Giang và phía đông tỉnh Yên Bái. Đặc biệt, các tác giả nhận thấy iếu có một số
điểm gần gũi với khắp của ngƣời Thái ở Tây Bắc và có những đặc điểm riêng so với
các nhóm bài hát khác của ngƣời Tày nhƣ về nội dung, trình tự cuộc hát, cách thức tổ
chức, luật tục liên quan đến iếu. Những phát hiện này là rất quan trọng với chúng tôi
trong việc tìm hiểu những điểm tƣơng đồng trong DCTTSH Tày, Thái.
Về đặc điểm chung cho toàn bộ DCTTSH Tày hoặc vốn DCTTTSH Tày ở một
địa phương: Công trình Văn hóa dân gian Cao Bằng xuất bản năm 1993 [102] có
nhiều bài viết về DCTTSH của ngƣời Tày ở Cao Bằng. Tác giả Vƣơng Hùng có bài
viết Sli lượn Tày Nùng ở Cao Bằng đã chỉ ra đặc điểm phân bố, giai điệu, cấu trúc,
17
môi trƣờng diễn xƣớng và tình hình diễn xƣớng sli lượn Tày Nùng trong cuộc sống
hiện tại ở Cao Bằng. Trong bài viết Vài nét về ca nhạc dân gian Tày Cao Bằng, nhạc
sĩ Vĩnh Long quan tâm nhiều đến những nét chung về sinh hoạt âm nhạc qua khảo sát
các mảng dân ca Tày nhƣ lượn, phong slư, thơ lẩu, ứ noọng, hát then, phường ca… Từ
đó, nhạc sĩ đi đến khẳng định về sự phong phú và độc đáo, mang màu sắc địa phƣơng
của dân ca Tày xét về mặt âm nhạc.
Với công trình Sli lượn hát đôi của người Tày Nùng ở Cao Bằng [92], tác giả
Hoàng Thị Quỳnh Nha có nhắc tới bốn điệu dân ca của ngƣời Tày, Nùng: lượn Ngạn,
lượn phủ, sli giang, hêu phượn. Trong đó, chúng tôi chú ý tới lượn Ngạn là dân ca của
một nhóm Tày địa phƣơng. Lượn Ngạn đƣợc tác giả giới thiệu vắn tắt ở các khía cạnh:
thể thơ, nội dung phản ánh và đặc điểm âm nhạc.
Trong cuốn Văn hóa dân gian Tày - Nùng ở Việt Nam, tác giả Hà Đình Thành
có dành ra một phần nhỏ để giới thiệu khái quát về nội dung và nghệ thuật của ca dao
Tày Nùng. Ca dao bao gồm các nội dung về thiên nhiên hùng vĩ, về tình yêu nam nữ,
với các cách biểu hiện thú vị nhƣ cấu tứ theo lối phú, tỉ, hứng, nghệ thuật sử dụng các
biện pháp tu từ. Bên cạnh đó, tác giả điểm qua những hạn chế của ca dao Tày Nùng
nhƣ “mang tƣ tƣởng của giai cấp thống trị, hoặc mang tƣ tƣởng mê tín dị đoan về số
phận” [140; tr. 154]. Với tính chất là một phần giới thiệu để minh họa cho văn hóa dân
gian Tày Nùng ở Việt Nam, những luận điểm tác giả đƣa ra còn khá mờ nhạt, chƣa
khảo tả hết đƣợc sự phong phú, giàu có của ca dao Tày Nùng.
Trong cuốn Thành ngữ - tục ngữ - ca dao dân tộc Tày [127], tác giả Hoàng
Triều Ân đã giới thuyết về phuối rọi và lượn. Nhắc đến lượn có thể kể lượn nàng ới ở
Cao Bằng, lượn cọi ở Bắc Kạn, Tuyên Quang, lượn slương ở Cao Bằng, Bắc Kạn,
Lạng Sơn với các cách gieo vần khác nhau. Hoàng Triều Ân đặc biệt đi sâu vào tìm
hiểu nội dung phản ánh của ca dao Tày nhƣ: tâm tƣ, nguyện vọng, tình cảm một thời
của dân tộc; hiện thực xã hội bất công và ý thức dân chủ của ngƣời Tày; phản ánh nỗi
niềm trăn trở với đời; tình yêu con ngƣời.
Nhƣ thế, sự nghiên cứu ở các công trình trên mới chỉ dừng lại ở việc giới thiệu
khái quát về DCTTSH Tày theo mục đích sƣu tầm, biên soạn và phổ biến văn hóa, văn
nghệ dân gian. DCTTSH Tày đƣợc giới thiệu ở các phƣơng diện: tên gọi, sự phong
phú của các nhóm bài hát và đi vào giới thiệu khái quát về các đặc điểm của một nhóm
bài hát nào đấy, hoặc ở một địa phƣơng cụ thể, hoặc chung cho cả kho tàng DCTTSH
18
Tày. Bởi thế, những sự nghiên cứu ở các công trình này chỉ gói gọn trong vài trang mở
đầu, dẫn luận, còn phần sau là kết quả sƣu tầm, biên dịch dân ca nhằm chứng minh
cho những nhận định chung nhất của phần dẫn luận. Sự nghiên cứu chuyên sâu dù là
về một bộ phận của DCTTSH Tày là chƣa có ở những công trình này.
Thứ hai là nhóm các nghiên cứu sâu hơn về một vấn đề hoặc một bộ phận cụ
thể của DCTTSH Tày trong các chuyên khảo, luận văn. Trong đó, công trình đầu tiên
phải kể đến là Sli, lượn dân ca trữ tình Tày Nùng của Vi Hồng xuất bản năm 1979
[52]. Ở đây, tác giả coi lượn là toàn bộ các hình thức dân ca của ngƣời Tày, phân biệt
lượn với sli của ngƣời Nùng. Đây là cách hiểu theo nghĩa rộng, với cách dịch lượn
nghĩa là hát. Theo đó, dân ca Tày sẽ có lượn cọi, lượn slương, lượn then, lượn nàng ới,
lượn phong slư, lượn quan lang… Tuy nhiên, ông chỉ tập trung nghiên cứu lượn giao
duyên với nhiều khía cạnh nhƣ: đề tài, nội dung phản ánh, ý nghĩa của lượn, mối quan
hệ giữa lượn với thơ Tày hiện đại. Hoàn cảnh diễn xƣớng của lượn ngày hội, lượn
trong nhà có đƣợc tác giả nhắc đến song chƣa đƣợc phân tích kĩ càng. Vi Hồng cũng
giới thiệu qua về lượn quan lang nhƣng để ở mục phụ lục tƣ liệu. Sự khảo sát nhƣ vậy
chƣa củng cố đƣợc sự vững chắc cho quan điểm coi lượn là toàn bộ dân ca Tày của Vi
Hồng. Tuy thế, đây vẫn là công trình nghiên cứu công phu, dày dặn nhất về DCTTSH
của ngƣời Tày. Những nhận định của nhà nghiên cứu Vi Hồng đem tới cho chúng tôi
những gợi ý hữu ích cho việc thâm nhập vào thế giới nghệ thuật của DCTTSH Tày.
Cũng là chuyên khảo nghiên cứu về dân ca, nhƣng tác giả Nông Thị Nhình của
chuyên luận Âm nhạc dân gian các dân tộc Tày – Nùng – Dao Lạng Sơn [97] lại
hƣớng sự quan tâm tới khía cạnh âm nhạc. Bên cạnh âm nhạc của các dân tộc Nùng,
Dao, tác giả Nông Thị Nhình đã nghiên cứu về dân ca Tày ở Lạng Sơn trên những
phƣơng diện nhƣ: các hình thức sinh hoạt âm nhạc dân gian, các làn điệu, giai điệu,
quan hệ giữa giai điệu và thơ ca, các nhạc cụ dân gian và dàn nhạc.
Bên cạnh các công trình chuyên khảo nhƣ trên là sự xuất hiện của hàng loạt các
luận văn. Chẳng hạn, trong luận văn Yếu tố tự sự trong dân ca Tày [164], tác giả Vũ
Ánh Tuyết đã chỉ ra các dạng thức biểu hiện của yếu tố tự sự là những bài ca có cốt
truyện và những bài ca không có cốt truyện. Từ đó, tác giả nêu lên vai trò phản ánh
hiện thực và kể sự tả tình của yếu tố tự sự trong DCTTSH Tày. Với luận văn Khảo sát
ý nghĩa hình ảnh trong ca dao – dân ca Tày Nùng [84], Đỗ Vân Nga đã phân tích
các hình ảnh nổi bật của ca dao – dân ca Tày Nùng nhƣ các hình ảnh thiên nhiên, vũ
19
trụ, các hình ảnh về vật dụng sinh hoạt, các hình ảnh liên quan đến con ngƣời. Tác giả
cũng phần nào làm rõ đƣợc mối liên quan giữa các hình ảnh đó của ca dao – dân ca với
đời sống sinh hoạt, phong tục, tín ngƣỡng của cƣ dân Tày – Nùng. Năm 2016, với
việc công bố kết quả nghiên cứu của luận văn Nhân vật trữ tình trong cắm nôm – dân
ca dân gian Tày huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái [85], Nguyễn Thị Bích Ngọc đã phân
tích các hệ thống nhân vật nữ, nhân vật nam, nhân vật biểu tƣợng, đồng thời làm rõ
nghệ thuật xây dựng nhân vật trữ tình trong cắm nôm.
Tìm hiểu về một thể loại DCTTSH Tày ở một địa phƣơng cụ thể, năm 2009,
Hoàng Minh Nguyệt giới thiệu và nghiên cứu về một làn điệu độc đáo của DCTTSH
Tày là iếu – một hình thức mang tính địa phƣơng của lượn cọi – thông qua luận văn
Hát iếu của người Tày ở Bắc Quang, Hà Giang – Những đặc điểm nội dung và
nghệ thuật [91]; năm 2011, Lê Thị Phƣơng Thảo thực hiện luận văn với đề tài Hát
lượn slương của người Tày (Qua khảo sát ở xã Yên Cư, huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc
Kạn) [141]. Đóng góp của hai công trình là ở chỗ chỉ ra đƣợc những đặc điểm nội
dung, thi pháp của hai mảng dân ca này, nhƣng lại hạn chế ở chỗ chƣa chỉ ra đƣợc cái
hay và tính đặc thù dân tộc của âm nhạc và diễn xƣớng.
Nhƣ vậy, dù đã nghiên cứu sâu hơn nhƣng do tính chất cụ thể, nhỏ lẻ của đối
tƣợng nghiên cứu, các luận văn kể trên vẫn chƣa thể nhận thức đƣợc DCTTSH Tày
trong tính chỉnh thể, tính hệ thống của nó, do đó, chƣa làm rõ đƣợc đầy đủ các đặc
điểm của mảng dân ca này. Tuy thế, đây lại là những chỉ dẫn quý báu đối với chúng tôi
trong quá trình thực hiện luận án này.
Qua điểm lại tình hình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy chƣa có một công trình
nào đi sâu tìm hiểu DCTTSH Tày một cách có hệ thống. Do tính chất là những công
trình công bố tƣ liệu dân ca nên hầu hết sự nghiên cứu ở các bài giới thiệu mới dừng
lại ở mức độ chỉ dẫn sơ bộ, chung chung trong một vài trang. Các luận văn tuy nghiên
cứu công phu hơn song cũng mới dừng sự quan tâm ở một vài mảng DCTTSH Tày
nhƣ lượn slương, iếu, cắm nôm với địa bàn nghiên cứu cụ thể là một địa phƣơng nào
đấy, hoặc nghiên cứu về một khía cạnh cụ thể của DCTTSH Tày nhƣ hình ảnh, yếu tố
tự sự… Công trình khảo tả dân ca để nghiên cứu âm nhạc tuy nghiên cứu về âm nhạc
dân gian Tày khá chuyên sâu song vẫn chỉ là một công trình phục vụ cho một chuyên
ngành khác, nên các yếu tố nhƣ nội dung, thi pháp, đặc điểm diễn xƣớng bị bỏ qua.
20
Công trình nghiên cứu chuyên sâu nhất là của tác giả Vi Hồng lại chủ yếu tập trung
vào lượn giao duyên và chƣa làm rõ đƣợc sự đặc sắc về phƣơng diện diễn xƣớng.
1.1.2. Tình hình sưu tầm, nghiên cứu dân ca trữ tình sinh hoạt của người Thái
1.1.2.1. Tình hình sưu tầm dân ca trữ tình sinh hoạt của người Thái
Trong lịch sử sƣu tầm, công bố tƣ liệu dân ca các DTTS, dân ca của ngƣời Thái
đƣợc sƣu tầm sớm thứ tƣ, sau dân ca của các dân tộc Tày, H’Mông và Mƣờng. Ngƣời
Thái cƣ trú chủ yếu ở vùng Tây Bắc và vùng núi Thanh Hóa, Nghệ An. Trong phạm vi
nghiên cứu của luận án, chúng tôi chỉ quan tâm đến lịch sử sƣu tầm DCTTSH của
ngƣời Thái ở Tây Bắc và phân các công trình này sƣu tầm này ra làm hai nhóm.
Thứ nhất là nhóm các công trình công bố tư liệu DCTTSH Thái dưới hình thức
tiếng Việt. Công trình đầu tiên phải kể đến là cuốn Ẳm ệt luông, trường ca dân ca tục
ngữ dân tộc Thái huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình của Khà Văn Tiến năm 1972
[135]. Trong cuốn sách này, tác giả đã giới thiệu đến bạn đọc nhiều bài hát giao duyên,
hát chơi và hát phong tục ở hình thức đã dịch ra tiếng Việt. Năm 1979, cuốn Dân ca
Thái (Hai trăm lẻ sáu bài dân ca Thái về tình yêu) [119] của Mạc Phi đƣợc xuất bản.
Tác giả giới thiệu các bài dân ca theo trình tự của một cuộc hát đối đáp. Theo đó, cuốn
sách có các phần là: gặp gỡ, ƣớm hỏi, yêu, thƣơng dặn. 206 bài dân ca đƣợc giới thiệu
dƣới hình thức tiếng Việt, không có phần phiên âm tiếng Thái. Năm 1991, cuốn Dân
ca Thái Mai Châu [150] do Nguyễn Hữu Thức chủ biên đƣợc xuất bản đã giới thiệu
các bộ phận của dân ca Thái ở Mai châu, bao gồm mo (các bài hát dùng trong cúng
bái), khắp (các bài hát giao duyên), pháng (các bài hát ngẫu hứng), sằng (các bài hát
dặn), xềnh (các bài hát ngợi ca), sườn (các bài hát kể). Tƣơng tự nhƣ ở các công trình
sƣu tầm dân ca Thái xuất bản trƣớc, các bài dân ca Thái đƣợc giới thiệu ở đây chỉ có
bản đƣợc dịch ra tiếng Việt, không có bản phiên âm tiếng Thái.
Thứ hai là nhóm các công trình công bố tư liệu DCTTSH Thái dưới hình thức
song ngữ Thái – Việt. Công trình đầu tiên công bố tƣ liệu DCTTSH Thái dƣới dạng
song ngữ Thái – Việt là Dân ca Thái vùng Tây Bắc – Việt Nam [50] của Nguyễn Văn
Hòa, xuất bản năm 2001, muộn hơn khá nhiều so với công trình công bố tƣ liệu
DCTTSH Tày dƣới dạng song ngữ Tày – Việt (năm 1970). Trong công trình này, tác
giả Nguyễn Văn Hòa đã giới thiệu 52 bài hát trong các trƣờng hợp diễn xƣớng khác
nhau nhƣ: Khắp mú lẳu pan khẳu (Hát ở mâm cơm, mâm rƣợu), khắp báo xao (hát
thƣơng yêu), khắp xư (hát thơ), khắp khơ nay chơi (hát rong chơi), khắp tặc tuộng (hát
21
chào hỏi), khắp xe (hát múa xòe), khắp xáng buôn (hát giải sầu), khắp cóm lụk (hát ru
con), khắp khí chọn cha (hát đánh đu), khắp hạn khuống (hát ở sàn chơi).
Năm 2012, cuốn sách Khắp sứ lam của người Thái đen xã Noong Luống,
huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên [49] của Tòng Văn Hân đƣợc xuất bản. Tuy đây là
cuốn sách có tính chất giới thiệu các bài khắp sứ lam – mảng dân ca đƣợc dùng để hát
trong đám cƣới của ngƣời Thái ở Điện Biên, song tác giả cũng giới thiệu bốn bài hát
đối đáp giao duyên giữa nam và nữ dƣới hình thức song ngữ.
Hai tác giả Đỗ Thị Tấc, Hà Mạnh Phong là những ngƣời dày công sƣu tầm và
đã giới thiệu tới bạn đọc một số lƣợng lớn các tác phẩm DCTTSH Thái. Năm 2012,
Đỗ Thị Tấc công bố tƣ liệu DCTTSH Thái bao gồm 47 bài trong cuốn Dân ca Thái
Lai Châu, Quyển 1 – Chiêng xoong mố bók (Mùa xuân mùa hoa) [134]. Hai năm
tiếp theo, DCTTSH Thái Đỗ Thị Tấc lại cùng Hà Mạnh Phong tiếp tục công bố 190
bài DCTTSH Thái trong công trình Dân ca Thái Lai Châu, Quyển 2 - Thơ và dân ca
tình yêu của người Thái Mường So [121]. Các bài dân ca đƣợc giới thiệu dƣới cả ba
hình thức: chữ Thái cổ, bản phiên âm tiếng Thái và bản dịch nghĩa ra tiếng Việt. Đây
là điều hết sức đáng quý. Tuy nhiên, các tác giả lại không ghi rõ nguồn gốc của tƣ liệu
đƣợc công bố, bao gồm tên sách hoặc tên nghệ nhân, địa chỉ.
Tƣ liệu DCTTSH Thái đã đƣợc quan tâm sƣu tầm, giới thiệu dƣới dạng song
ngữ. Tuy thế, thực tế số lƣợng văn bản đƣợc công bố dƣới dạng song ngữ chƣa thực sự
tƣơng xứng với sự phong phú của kho tàng dân ca này. Bên cạnh đó, trừ các bài khắp
hạn khuống trong công trình của tác giả Nguyễn Văn Hòa, sự sắp xếp các bài dân ca
còn chƣa theo một trật tự nào, gây khó khăn cho ngƣời đọc khi hình dung về một trình
tự diễn xƣớng hoặc về các nhóm bài hát của DCTTSH của ngƣời Thái ở Tây Bắc.
1.1.2.2. Tình hình nghiên cứu dân ca trữ tình sinh hoạt của người Thái
Năm 1992, trong bài viết Quan điểm về phương pháp khái quát diện mạo và
tiến trình văn học Thái, Phan Đăng Nhật đã nhận xét: “Từ trƣớc đến nay, chƣa có một
công trình khái quát về diện mạo và tiến trình văn học Thái, bao gồm cả VHDG và văn
học thành văn” [94; tr 28]. Sau bài viết của Phan Đăng Nhật đến nay vẫn chƣa có một
công trình chuyên biệt nào về văn học Thái nói chung, DCTTSH Thái nói riêng. Qua
xem xét các công trình nghiên cứu về DCTTSH Thái, chúng tôi thấy có thể phân kết
quả nghiên cứu làm hai dạng, tƣơng tự nhƣ thành tựu nghiên cứu về DCTTSH Tày.
22
Thứ nhất là nhóm các chỉ dẫn sơ bộ, khái quát trong các bài giới thiệu ở đầu
sác sách công bố tư liệu DCTTSH Thái và các bài viết trên tạp chí.
Về đặc điểm của lời ca trong DCTTSH Thái, cuốn Dân ca Thái (Hai trăm lẻ
sáu bài dân ca Thái về tình yêu) của Mạc Phi xuất bản năm 1979 [119] có lẽ là công
trình thuộc loại sớm nhất đề cập đến. Trong đó, tác giả Mạc Phi đã dành vài trang đầu
sách để giới thiệu về bộ phận dân ca này. Về nội dung, Mạc Phi nhận thấy dân ca Thái
về tình yêu có nhiều đắm say, lại cũng nhiều cƣời cợt, khinh ghét những bất công, và
sâu sắc nhất là những lời khuyên nhủ hữu ích. Đáng tiếc, những nội dung đặc sắc đó
của Tản chụ xiết xương, Tản chụ xống xương, Tản chụ xắng xương (trò chuyện với
ngƣời bạn tình theo cách bóng gió/ thƣơng yêu/ thƣơng xót) mới chỉ đƣợc tác giả giới
thiệu sơ qua, chƣa nói gì đến những giá trị nghệ thuật của loại dân ca đặc sắc này.
Về đặc điểm của diễn xƣớng DCTTSH Thái, bài viết Hạn Khuống, một hình
thức hội diễn ca nhạc cổ truyền của đông bào Thái Tây Bắc của Trần Lê Văn [172]
đã giới thiệu về lễ hội Hạn khuống của ngƣời Thái, qua đó cung cấp cho ngƣời đọc cái
nhìn rõ nét hơn về môi trƣờng diễn xƣớng của một điệu hát cụ thể của DCTTSH Thái
là khắp hạn khuống.
Nghiên cứu về dân ca Thái ở một địa phƣơng cụ thể, các tác giả Hà Mạnh
Phong, Đỗ Thị Tấc giới hạn địa bàn nghiên cứu ở Lai Châu. Công trình Dân ca Thái
Lai Châu gồm có hai quyển: Quyển 1 - Chiêng xoong mố bók (Mùa xuân mùa hoa)
[134], Quyển 2 - Thơ và dân ca tình yêu của người Thái Mường So [121]. Ở quyển
2, các tác giả có bài giới thiệu về khắp hặc xơng – một làn điệu dân ca tình yêu của
ngƣời Thái ở Lai Châu trên các khía cạnh: làn điệu, nội dung, nhạc cụ, môi trƣờng
diễn xƣớng. Đáng tiếc, những gợi ý ấy quá ngắn gọn, rất khó để ngƣời đọc có thể hình
dung đƣợc hết những cái độc đáo của bộ phận dân ca này.
Các công trình trên đã bƣớc đầu đề cập đến những đặc điểm nội dung, thi pháp,
sự diễn xƣớng của DCTTSH Thái. Tuy thế, do chỉ giới hạn trong khuôn khổ ngắn gọn
của một bài báo, hoặc một bài giới thiệu, bài dẫn luận ở đầu cuốn sách sƣu tầm, biên
dịch, công bố tƣ liệu dân ca nên những nghiên cứu đó chỉ dừng lại ở sự trình bày, mô
tả mang tính ấn tƣợng ban đầu về mảng DCTTSH đang đƣợc giới thiệu. Sự thiếu sâu
sắc, toàn diện vì thế là không tránh khỏi.
Thứ hai, nhóm các nghiên cứu sâu hơn về một vấn đề của DCTTSH Thái trong
chuyên khảo, luận văn, luận án gồm có:
23
Công trình Ngôn ngữ với việc hình thành âm điệu đặc trưng trong dân ca
Thái của tác giả Dƣơng Đình Minh Sơn [130] đã nghiên cứu về dân ca Thái Tây Bắc ở
các nội dung: hát thơ và các dạng hát thơ, âm điệu c a x làm nét dạo đầy láy đuôi trong
các làn điệu dân ca, những làn điệu “lòng bản” trong dân ca, nhận xét tính chất của các
làn điệu, sự ra đời của tên gọi làn điệu khắp xai peng, điệu nhạc múa cúng mƣờng.
Đây là một trong những cơ sở quan trọng để tác giả đi đến kết luận về mối liên hệ giữa
ngôn ngữ với việc hình thành những âm điệu đặc trƣng trong âm nhạc dân gian Thái ở
Tây Bắc Việt Nam. Nhìn chung, trong chuyên khảo công phu này, nhạc sĩ Dƣơng
Đình Minh Sơn chủ yếu quan tâm đến khía cạnh âm nhạc chứ chƣa chú ý đến các yếu
tố văn bản và phƣơng thức diễn xƣớng của dân ca Thái.
Luận văn Giải mã một số biểu tượng trong ca dao – dân ca dân tộc Thái [122]
của tác giả Cầm Bá Phƣợng đã phân loại biểu tƣợng, đồng thời giải mã ý nghĩa các
biểu tƣợng của dân ca Thái nhƣ: hạn khuống, sợi chỉ, chim cu gáy, còn, Khun Lú –
Nàng Ủa, rƣợu cần, khăn piêu. Cũng về vấn đề biểu tƣợng, năm 2012, tác giả Đặng
Thị Oanh công bố kết quả luận án Biểu tượng nước từ văn hóa đến văn học dân gian
của người Thái ở Tây Bắc Việt Nam [113]. Ở luận án này, tác giả đã tìm hiểu về
VHDG Thái, trong đó có DCTTSH từ việc tiếp cận biểu tƣợng nƣớc. Với việc khẳng
định nguồn gốc và quá trình chuyển nghĩa của biểu tƣợng nƣớc từ trong văn hóa vào
VHDG, tác giả cho thấy nƣớc trong DCTTSH mang sức mạnh của sự hủy diệt, sự thử
thách, là chất kết nối tình cảm, thiết lập và cố kết cộng đồng Thái. Nhƣ thế, cả hai
công trình này đều chỉ nghiên cứu về một vấn đề thuộc thi pháp của dân ca Thái.
Từ việc tìm hiểu các công trình nhƣ trên, chúng tôi nhận thấy DCTTSH Thái đã
đƣợc quan tâm nghiên cứu chuyên sâu ở một vài vấn đề cụ thể nhƣ biểu tƣợng, âm
nhạc. Sự nghiên cứu để chỉ ra đƣợc diện mạo, đặc điểm của bộ phận dân ca này là có
song mới dừng ở mức độ khái quát, mang tính giới thiệu. Nhìn chung, các công trình
nghiên cứu về DCTTSH Thái còn khá thƣa thớt, thiếu vắng những công trình chuyên
sâu, nghiên cứu một cách có hệ thống.
1.1.2.3. Tổng quan tình hình nghiên cứu về dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và
người Thái theo hướng so sánh
Chúng tôi chƣa thấy một công trình nào so sánh công phu về sự giống và khác
nhau giữa DCTTSH của dân tộc Tày và dân tộc Thái. Sự so sánh mới chỉ đƣợc điểm
đến trong những nhận định khá chung chung mà chƣa đi sâu vào phân tích thỏa đáng.
24
Đầu tiên, phải kể đến nhận định của Lê Chí Quế trong bài viết Việc phân loại
dân ca các dân tộc ở miền Bắc nước ta in trong tạp chí Văn học, số 6, năm 1975, in
lại trong Tổng tập Văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt nam, tập 23. Trên cơ
sở đƣa ra bảng hệ thống dân ca các DTTS, nhìn vào sự phân bố không đồng đều giữa
các ô của từng bộ phận, ông cho rằng dân ca lao động và dân ca nghi lễ của ngƣời Việt
và các DTTS có nhiều điểm khác hơn là giống. Ngƣợc lại, ở DCTTSH, đặc biệt là dân
ca đối đáp giao duyên nam nữ của các dân tộc này sự tƣơng đồng nhiều hơn dị biệt bởi
nó “là tiếng lòng của con ngƣời trƣớc những mối quan hệ tác động trực tiếp đến đời
sống tình cảm của chính họ… Những con ngƣời tuy ở các dân tộc khác nhau mà lại
trong cùng một quốc gia thì chắc chắn là dễ tìm gặp nhau hơn” [178; tr. 850]. Nhận
định này của ông bao hàm sự tƣơng đồng của DCTTSH Tày, Thái.
Trong chuyên khảo Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt Nam, với
gần 150 trang nghiên cứu về dân ca các DTTS, Võ Quang Nhơn đã dành một phần nhỏ
cho sự quan tâm đến sắc thái dân ca của các dân tộc. Tác giả viết: “Trong sự thống
nhất của các truyền thống nghệ thuật, dân ca mang tính cộng đồng khá sâu bền, nảy nở
nhiều phong cách sáng tạo thông minh, mang nhiều âm điệu phong phú ở các dân tộc,
ở các miền của đất nƣớc: sắc thái hồn nhiên, vui tƣơi của các dân tộc Tây Nguyên, âm
điệu trữ tình sâu lắng của các dân tộc ở Tây Bắc, cấu tứ ít nhiều thiên về chất trí tuệ
của các dân tộc ở Việt Bắc, phong cách trữ tình thâm trầm ít nhiều pha màu sắc đạo
đức, tôn giáo của các dân tộc Chăm và Khơ Me ở miền Nam” [109; tr. 343]. Với nhận
xét này, tác giả đề cập đến sự khác nhau về phong cách dân ca Việt Bắc và Tây Bắc,
trong đó có dân tộc Tày và Thái. Tuy nhiên, nhận định so sánh này mới ở mức độ
điểm qua và mang màu sắc vùng miền nói chung mà thôi.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Huế trong công trình Những xu hướng biến đổi
văn hóa các dân tộc miền núi phía bắc Việt Nam, khi phân tích một số hình thức sinh
hoạt dân ca đã đi đến nhận định về sự khác nhau của dân ca Tày, Thái. Theo đó, dân
ca Thái đậm chất trữ tình, dân ca Tày có chút thiên về lý trí, thể hiện ở loạt các bài hát
có tính chất đua tài, thử trí khá phổ biến. Đồng thời, ở tầm chung cho dân ca các DTTS
miền núi phía bắc, tác giả cũng cho rằng dân ca giao duyên có tổ chức tƣơng đồng ở
sự chặt chẽ của lề lối, quy củ và khác nhau ở địa điểm diễn xƣớng, tổ chức lực lƣợng
(hát thành đoàn hoặc không), trình tự hát và cấu tạo thành phần bài ca trong trình tự ấy
[53; tr. 265 – 290]. Sự phân tích của tác giả chủ yếu ở sự diễn xƣớng chứ chƣa đi sâu
25
vào nội dung phản ánh và thi pháp lời ca. Song, chỉ xét riêng ở góc độ so sánh diễn
xƣớng thôi thì đây đã là những gợi ý quan trọng định hƣớng cho chúng tôi trong khi so
sánh DCTTSH Tày, Thái.
Trong công trình về âm nhạc dân gian của các DTTS Đặc điểm dân ca Mông
Tày Nùng Thái [37], Tuấn Giang đã nghiên cứu dân ca Mông Tày, Nùng, Thái trên
các phƣơng diện: khái niệm phong cách dân ca các dân tộc, không gian xã hội các loại
dân ca, sự ra đời dân ca các dân tộc, hệ thống làn điệu dân ca, quy luật phát triển giai
điệu loại thể dân ca, quan hệ nhạc và lời dân ca, cấu trúc giai điệu các tiểu loại dân ca,
nhận diện hình tƣợng, giai điệu âm nhạc, đặc điểm của dân ca các dân tộc. Với công
trình này, tác giả đã có đóng góp nhằm phân loại dân ca, cấu trúc thang âm giai điệu
hệ hình dân ca, nhận diện phong cách, đặc điểm dân ca từng dân tộc. Ở góc độ tìm
hiểu về DCTTSH Tày, Thái, chúng tôi chú ý đến chƣơng 3 của công trình với nội
dung về sự ra đời dân ca các dân tộc. Ở đây, tác giả có giới thiệu về nội dung, giá trị
nghệ thuật và đặc điểm lời ca của hát ru, đồng dao, tiếng hát giao duyên, tiếng hát lao
động. Tác giả chỉ ra sự tƣơng đồng về mặt nội dung của dân ca các dân tộc là phản ánh
hiện thực đời sống xã hội. Tuy nhiên, ông không chỉ rõ sự khác nhau về nội dung,
nghệ thuật lời ca, sự diễn xƣớng của dân ca các dân tộc. Nhìn chung, vì đây là một
chuyên luận về so sánh âm nhạc dân gian nên các đặc điểm của dân ca Tày, Thái
không đƣợc ông đi sâu tìm hiểu và chƣa có sự so sánh rõ ràng.
Trên cơ sở điểm lại tình hình nghiên cứu nhƣ trên, chúng tôi nhận thấy, cho đến
thời điểm này, chƣa có một công trình nghiên cứu chuyên sâu, một chuyên luận nào
xem xét, nghiên cứu về DCTTSH của các dân tộc Tày, Thái dƣới góc độ so sánh một
cách toàn diện. Đây vẫn còn là một khoảng trống để ngỏ. Trong khi, trên thực tế, vấn
đề này lại rất có ý nghĩa đối với việc làm rõ những đặc sắc văn hóa của dân tộc.
1.2. Luận án, sự kế thừa và phát triển
Ngƣời Tày và ngƣời Thái có vị trí quan trọng trong tiến trình lịch sử và văn hóa
Việt Nam. Hai tộc ngƣời đều nắm giữ vai trò chủ thể văn hóa vùng và có đời sống văn
hóa vô cùng đặc sắc, đóng góp những mảng màu không thể thiếu trong bức tranh văn
hóa Việt Nam. Bởi thế, đã có nhiều nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu về DCTTSH
của hai dân tộc này trên nhiều phƣơng diện, với nhiều hƣớng tiếp cận khác nhau: thi
pháp học, văn hóa học, âm nhạc… Tuy thế, đến nay vẫn chƣa có một tiếng nói cuối
cùng nào về tính riêng, đặc thù của hai dân tộc đƣợc thể hiện qua DCTTSH.
26
Nhận thức đƣợc tầm quan trọng và cần thiết của việc so sánh DCTTSH Tày,
Thái, chúng tôi chọn vấn đề So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và người
Thái ở Việt Nam làm đề tài cho luận án của mình. Luận án của chúng tôi đặt vấn đề so
sánh những điểm giống và khác nhau giữa DCTTSH của dân tộc Tày và Thái ở Việt
Nam, với sự kết hợp các phƣơng pháp điền dã, phƣơng pháp thống kê, phƣơng pháp so
sánh, phƣơng pháp liên ngành. Đây là nghiên cứu chuyên sâu đầu tiên theo hƣớng so
sánh DCTTSH của hai DTTS ở Việt Nam là dân tộc Tày và dân tộc Thái.
Nghiên cứu về DCTTSH, rộng hơn là văn hóa của DTTS, là công việc vô cùng
khó khăn, vừa đòi hỏi phƣơng pháp và tri thức nền tảng, vừa đòi hỏi sự am hiểu văn
hóa dân tộc, lại phải căn cứ trên nguồn tƣ liệu dân ca mang tính tin cậy. Từ việc điểm
lại tình hình nghiên cứu nhƣ trên, chúng ta thấy tham gia vào công việc đó có các đại
diện của giới trí thức Tày, Thái và các đại diện của ngƣời Kinh ở miền xuôi. Nếu nhƣ
các đại diện Tày, Thái có điều kiện trƣởng thành trong suối nguồn văn hóa dân tộc,
cắm rễ sâu ở địa bàn thì các đại diện ngƣời Kinh lại có điều kiện về nghiệp vụ và
phƣơng pháp. Các kết quả nghiên cứu về dân ca Tày, Thái là sự tổng hợp công sức của
nhiều ngƣời, nhiều thế hệ, nhiều thành phần dân tộc trong khoảng thời gian nửa thế kỉ.
Những thành tựu đó là những chỉ dẫn hết sức quý báu đối với chúng tôi trong quá trình
thực hiện luận án. Song, để nghiên cứu đề tài này, chúng tôi rất cần đến sự thống nhất
của nguồn tƣ liệu làm đối tƣợng cho sự khảo sát.
Từ việc điểm lại tình hình sƣu tầm DCTTSH của ngƣời Tày và ngƣời Thái nhƣ
ở phần trƣớc, chúng tôi nhận thấy có những điểm đáng lƣu ý nhƣ sau:
Thứ nhất, xét về mặt thời gian: Theo lí thuyết, dân ca của hai tộc ngƣời vừa nêu
ra đời rất sớm. Song, việc ghi chép lại dân ca Tày mới chỉ diễn ra sớm nhất vào những
năm ba mƣơi của thế kỉ XX với Nguyễn Văn Huyên. Trong công trình nổi tiếng của
mình, Nguyễn Văn Huyên lại dịch thơ ca dân gian Tày ra tiếng Pháp chứ không dịch
ra tiếng Việt. Những bản dịch dân ca Tày ra tiếng Việt sớm nhất ở miền Bắc là vào
những năm sáu mƣơi. Công trình công bố tƣ liệu DCTTSH Tày theo hình thức song
ngữ Tày – Việt sớm nhất là Rọi – Vốn cổ văn học dân tộc Tày - Nùng của nhóm tác
giả sƣu tầm, biên dịch Trƣơng Lạc Dƣơng, Nông Đình Tuấn, Trần Vĩnh, Võ Quang
Nhơn vào năm 1970. Công trình công bố tƣ liệu DCTTSH Thái sớm nhất theo hình
thức song ngữ Thái – Việt là Truyện cổ, dân ca Thái vùng Tây Bắc Việt Nam của
Nguyễn Văn Hòa vào năm 2001. Ngôn ngữ và văn hóa luôn biến đổi. Những văn bản
27
dân ca hiện chúng ta đang quan sát có lịch sử vài trăm năm trƣớc Cách mạng tháng
Tám năm 1945. Cho nên, chúng tôi không đặt nhiệm vụ so sánh về nguồn gốc và quá
trình phát triển của DCTTSH của hai dân tộc Tày, Thái, ảnh hƣởng của DCTTSH Tày
lên DCTTSH Thái hay ngƣợc lại. Chúng tôi chỉ xin khảo sát, tìm hiểu về nội dung, thi
pháp, đặc điểm diễn xƣớng, lấy đó làm cơ sở cho sự phân tích các điểm tƣơng đồng và
khác biệt giữa hai bộ phận dân ca của hai dân tộc, chỉ ra nội hàm văn hóa, lịch sử, địa
lí… đƣợc bao chứa trong các đặc điểm đó. Từ đó, chúng tôi cung cấp cho mọi ngƣời
cái nhìn rõ hơn về cái phổ biến và cái đặc thù trong văn hóa các dân tộc.
Thứ hai, xét về mặt phân loại: Trong các cuốn sách công bố tƣ liệu DCTTSH
Tày, Thái, các tác giả phân loại dân ca theo những cách khác nhau. Chẳng hạn, ở
DCTTSH của ngƣời Tày, nhiều công trình đã giới thiệu về từng mảng dân ca đƣợc sƣu
tầm và ghi rõ tên gọi nhƣ lượn cọi, lượn slương, lượn nàng ới, lượn rọi, iếu…, hoặc
phân loại dựa vào nội dung của bài hát xét trong toàn bộ quá trình diễn xƣớng nhƣ
cách làm của PGS. TS Trần Thị An trong cuốn Tổng tập văn học dân gian các dân
tộc thiểu số Việt Nam, tập 17 [177], tập 18 [175], tập 19 [176]. Song, bên cạnh đó, có
những công trình lại không hề ghi rõ những bài hát đƣợc giới thiệu đó thuộc mảng
nào, theo quan điểm phân loại nào. Có thể kể đến nhƣ: Thơ ca dân gian Tày – Nùng
xứ Lạng [5], Chồm bjoóc mạ [14], phần lƣợn Tày Lạng Sơn trong công trình Lượn
Tày: Lượn Tày Lạng Sơn, lượn slương [108], Thành ngữ, tục ngữ, ca dao dân tộc
Tày [127], Tàng pây kết chụ - Đường đi kết bạn tình [128], Tục ngữ, ca dao Tày
vùng hồ Ba Bể [192]. Tình trạng ấy tƣơng tự ở các cuốn sách công bố tƣ liệu
DCTTSH của ngƣời Thái. Chỉ duy nhất trong công trình Truyện cổ và dân ca Thái
vùng Tây Bắc Việt Nam [50], tác giả Nguyễn Văn Hòa có ghi rõ các bài hát thuộc các
mảng có tên gọi khắp hạn khuống, khắp khí chọn cha, khắp khơ nay chơi...
Thứ ba, về nguồn gốc dân tộc của tác phẩm: Khi tập hợp các bài hát dân gian
vào các tập sách giới thiệu tƣ liệu DCTTSH của ngƣời Tày, có trƣờng hợp những bài
hát không phải chỉ của riêng ngƣời Tày mà còn đƣợc sử dụng trong cộng đồng ngƣời
Nùng. Vì thế mới có tên gọi của các cuốn sách: Rọi – Vốn cổ văn học dân tộc Tày –
Nùng, Lượn cọi Tày – Nùng, Thơ ca dân gian Tày – Nùng xứ Lạng, Sli lượn hát
đôi của người Tày Nùng ở Cao Bằng. Thực tế sự hỗn hợp về mặt nhân chủng giữa
ngƣời Tày và ngƣời Nùng, dẫn đến hiện tƣợng Nùng hóa Tày và điều kiện xen cƣ trên
cùng một vùng lãnh thổ của hai tộc ngƣời này khiến cho họ có sự giao lƣu văn hóa khá
28
mạnh mẽ mà hệ quả của nó là làm cho kho tàng VHDG của ngƣời Tày phong phú hơn,
song cũng vì thế mà khó khăn hơn trong việc phân định nguồn gốc, lai lịch, tính chất
dân tộc của tác phẩm.
Thứ tƣ, về vấn đề hình thức song ngữ: Trong khi sƣu tầm VHDG các DTTS, có
một nguyên tắc là cần ghi chép nguyên bản bằng tiếng DTTS, sau đó dịch ra tiếng
Việt. Cả hai tài liệu (bằng tiếng dân tộc và tiếng Việt) mới đƣợc coi là văn bản hoàn
chỉnh của tác phẩm. Việc sƣu tầm DCTTSH Tày, Thái không nằm ngoài quy luật ấy.
Nhƣng, trên thực tế, không phải công trình nào cũng làm đƣợc điều đó. Vẫn có nhiều
công trình công bố tƣ liệu DCTTSH Tày, Thái chỉ có bản dịch tiếng Việt. Hơn thế, ở
DCTTSH Tày, có trƣờng hợp các tác giả còn dịch sang tiếng Việt dƣới hình thức thơ
lục bát chứ không phải dịch nguyên nghĩa và giữ nguyên đặc điểm thể loại thất ngôn
của ngƣời Tày. Do vậy, chúng chƣa thật đảm bảo tính chính xác, khoa học của tác
phẩm sƣu tầm và mất đi cái mĩ cảm của dân tộc. Ngay ở những công trình giới thiệu
DCTTSH dƣới hình thức song ngữ, các bản phiên âm và bản dịch cũng chƣa hẳn là
khớp nhau về số câu và về nghĩa.
Thứ năm, về mặt số lƣợng: Trong tƣơng quan so sánh với DCTTSH của các
DTTS khác, DCTTSH của ngƣời Tày đƣợc quan tâm sƣu tầm và công bố từ khá sớm
và đạt đƣợc nhiều thành tựu. Cho đến nay, hầu hết các mảng của DCTTSH Tày đều đã
đƣợc công bố, bao gồm: lượn cọi, lượn slương, lượn then, iếu, rọi, phong slư… Không
nói đến những tài liệu sƣu tầm dân ca dƣới hình thức tiếng Việt, chỉ tính thành tựu sƣu
tầm, giới thiệu DCTTSH Tày dƣới dạng song ngữ, chúng tôi đã thống kê đƣợc số
lƣợng bài ca lên tới con số 1572 lời. So với kết quả công bố tƣ liệu DCTTSH Tày,
nguồn tƣ liệu về DCTTSH Thái không phong phú bằng. Theo thống kê của chúng tôi,
đến nay, mới có 4 công trình giới thiệu DCTTSH Thái dƣới dạng song ngữ với số
lƣợng bài ca là 292. Con số này khá khiêm tốn so với DCTTSH Tày. Nó có thể đƣợc lí
giải bằng sự quan tâm sƣu tầm của những ngƣời làm công tác công bố và phổ biến văn
hóa, văn nghệ dân gian. Thứ nữa, điều này xuất phát từ thực tế dung lƣợng lời ca của
DCTTSH Thái. Mỗi lời DCTTSH Thái đều khá dài. Trong khi đó, đa phần lời
DCTTSH Tày khá ngắn, thƣờng dƣới mƣời dòng thơ. Do vậy, dễ hiểu là DCTTSH
Tày chiếm số lƣợng lời nhiều hơn so với DCTTSH Thái.
Trên cơ cở thực trạng kho tàng DCTTSH của hai dân tộc Tày, Thái với những
đặc điểm kể trên, ở luận án này, chúng tôi lựa chọn nguồn tƣ liệu với tiêu chí là chỉ
29
chọn những lời dân ca dƣới hình thức song ngữ, có nguồn gốc dân tộc rõ ràng và bản
dịch sát nghĩa. Chúng tôi lựa chọn 500 bài DCTTSH Tày và 286 bài DCTTSH Thái
làm đối tƣợng khảo sát, nghiên cứu. Sự hạn chế nguồn tƣ liệu nhƣ vậy là có chủ ý và
đã đƣợc chúng tôi trình bày trong phần phạm vi nghiên cứu.
Kế thừa thành quả của các công trình sƣu tầm và nghiên cứu của các tác giả đi
trƣớc, chúng tôi tiến hành so sánh DCTTSH của hai dân tộc Tày, Thái. Các công trình
công bố tƣ liệu dân ca đã cung cấp tƣ liệu đáng tin cậy để chúng tôi lựa chọn cho sự
nghiên cứu, khảo sát. Các công trình nghiên cứu về DCTTSH Tày, Thái đã cung cấp
cho chúng tôi những gợi ý, những ý tƣởng khoa học quý báu, dù nhiều khi mới ở dạng
phác thảo. Đóng góp của chúng tôi chủ yếu là ở chỗ chúng tôi đã cố gắng làm sáng rõ
những gợi ý đó và hệ thống hóa chúng, soi chiếu chúng dƣới một góc nhìn mới là so
sánh để làm bật lên đƣợc cái phổ biến và cái đặc thù của DCTTSH Tày, Thái. Chúng
tôi hi vọng qua luận án này sẽ thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu đối với việc
so sánh dân ca Tày, Thái nói riêng, VHDG Tày, Thái nói chung nhằm tƣơng xứng với
thực tế kho tàng phong phú và giá trị của VHDG hai dân tộc.
1.3. Cơ sở lí luận
Chúng tôi xác định các câu hỏi nghiên cứu chính của đề tài là:
- DCTTSH Tày, Thái có những điểm tƣơng đồng và khác biệt nào?
- Nguyên nhân gì dẫn đến những điểm tƣơng đồng và khác biệt đó?
- Ý nghĩa của những điểm tƣơng đồng và khác biệt đó trong DCTTSH của hai
dân tộc Tày, Thái?
Từ các câu hỏi nghiên cứu nhƣ trên, chúng tôi xác định cơ sở lí luận liên quan
đến đề tài gồm các nội dung chính là: lí luận về VHSS, về bản sắc văn hóa dân tộc, về
dân ca và diễn xƣớng.
1.3.1. Lí luận về văn học so sánh
Chúng tôi thực hiện đề tài này trên cơ sở lí luận về VHSS. VHSS không phải là
một phƣơng pháp mà là một bộ môn khoa học ra đời vào cuối thế kỉ XIX. Cho đến
1974, ở nƣớc ta, giới nghiên cứu vẫn cho rằng VHSS mang tính chất suy đồi, là một
trƣờng hợp của tƣ sản. Dần dần, các nhà nghiên cứu đã cho rằng đây là một bộ phận
của khoa nghiên cứu văn học. Nói tới VHSS là nói tới việc đối chiếu nhiều nền văn
học với nhau, tức đối chiều nền văn học này với nền văn học kia hoặc nền văn học này
với nhiều nền văn học khác. Trong công trình Lí luận về văn học so sánh, tác giả
30
Nguyễn Văn Dân định nghĩa về VHSS nhƣ sau: “VHSS là một bộ môn khoa học có
chức năng so sánh một nền văn học này với một hay nhiều nền văn học khác, hoặc so
sánh các hiện tƣợng của các nền văn học khác nhau” [24; tr. 18]. VHSS có hai mục
đích cơ bản: Một là, xác định tính khái quát của văn học nhân loại; Hai là, chứng minh
tính đặc thù của các nền văn học dân tộc [24; tr. 55]. Nó có ba đối tƣợng nghiên cứu
chính: Một là, những mối quan hệ trực tiếp giữa các nền văn học dân tộc (những sự
ảnh hƣởng và vay mƣợn lẫn nhau giữa các nền văn học). Hai là, những điểm tƣơng
đồng (những điểm giống nhau giữa các nền văn học sinh ra không phải do ảnh hƣởng
giữa chúng mà là do điều kiện lịch sử, xã hội giống nhau). Ba là, những điểm khác biệt
độc lập, biểu hiện bản sắc của các hiện tƣợng văn học dân tộc hay của các nền văn học
dân tộc, đƣợc chứng minh bằng phƣơng pháp so sánh.
Trong nghiên cứu VHSS, điều tối kị là so sánh nhằm mục đích chỉ ra sự hơn
kém. Ở Việt Nam, đã có sai lầm nhƣ thế trong lĩnh vực văn học viết. Đó là trƣờng hợp
nhà nghiên cứu Lê Đình Kỵ và học giả Phan Ngọc khi so sánh Kim Vân Kiều truyện
của Thanh Tâm Tài Nhân bên Trung Quốc với Truyện Kiều của Nguyễn Du [24; tr.
151 - 155]. Năm 1968, Đinh Gia Khánh đã cho rằng, việc so sánh hơn thua giữa hai
tác phẩm của hai dân tộc “là cái việc rất không khoa học” [24; tr. 152]. Việc suy diễn
võ đoán là nguy cơ dẫn đến chủ nghĩa sô vanh, kì thị dân tộc. Đúng nhƣ Trần Nho
Thìn đã chỉ ra khi so sánh văn học Việt Nam với văn học Trung Quốc, sau khi phân
tích những chỗ giống và khác nhau, chúng ta cần trả lời câu hỏi tại sao cùng ở khu vực
đồng văn với văn hóa Trung Quốc, ngƣời Việt Nam lại tiếp nhận văn học Trung Quốc
khác với ngƣời Nhật Bản, Triều Tiên tiếp thu văn học Trung Quốc [133; tr. 44 – 54].
Đáng lƣu ý là trong nghiên cứu VHSS, có thể có hai loại là nghiên cứu ảnh
hƣởng và nghiên cứu song song nhƣ tác giả Hồ Á Mẫn – một học giả ngƣời Trung
Quốc đã chỉ ra trong công trình Giáo trình văn học so sánh. Trong đó, nghiên cứu ảnh
hƣởng là nghiên cứu hai nền văn học mà giữa chúng không cùng nguồn gốc nhƣng có
quan hệ ảnh hƣởng. Nghiên cứu ảnh hƣởng cần chú trọng đến điều kiện sản sinh ra
ảnh hƣởng, loại hình ảnh hƣởng, phạm vi nghiên cứu ảnh hƣởng. Nghiên cứu song
song là nghiên cứu hai nền văn học mà giữa chúng không có quan hệ trực tiếp. Nó có
cơ sở từ tính phổ quát và tính khác biệt của văn hóa, văn học, với hai loại phƣơng pháp
là loại tỷ và đối tỷ. Việc xác định tính chất của công trình là nghiên cứu ảnh hƣởng
hay nghiên cứu song song có ý nghĩa phƣơng pháp luận [79; tr. 70 – 93].
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái

More Related Content

What's hot

Luận án: Tuyên truyền giá trị văn hóa của tín ngưỡng thờ mẫu, HAY - Gửi miễn ...
Luận án: Tuyên truyền giá trị văn hóa của tín ngưỡng thờ mẫu, HAY - Gửi miễn ...Luận án: Tuyên truyền giá trị văn hóa của tín ngưỡng thờ mẫu, HAY - Gửi miễn ...
Luận án: Tuyên truyền giá trị văn hóa của tín ngưỡng thờ mẫu, HAY - Gửi miễn ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
THƠ VÀ MẤY VẤN ĐỀ TRONG THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
THƠ VÀ MẤY VẤN ĐỀ TRONG THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI THƠ VÀ MẤY VẤN ĐỀ TRONG THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
THƠ VÀ MẤY VẤN ĐỀ TRONG THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI nataliej4
 
Xuân diệu về tác gia và tác phẩm
Xuân diệu về tác gia và tác phẩmXuân diệu về tác gia và tác phẩm
Xuân diệu về tác gia và tác phẩmjackjohn45
 
Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đình (Phạm Việt Long - vanhien.vn)
Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đình (Phạm Việt Long - vanhien.vn)Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đình (Phạm Việt Long - vanhien.vn)
Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đình (Phạm Việt Long - vanhien.vn)longvanhien
 
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdf
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdfGiao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdf
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdfMan_Ebook
 
VĂN HÓA TÂM LINH TRONG “TRUYỆN KIỀU” VÀ “VĂN CHIÊU HỒN” CỦA NGUYỄN DU - TẢI F...
VĂN HÓA TÂM LINH TRONG “TRUYỆN KIỀU” VÀ “VĂN CHIÊU HỒN” CỦA NGUYỄN DU - TẢI F...VĂN HÓA TÂM LINH TRONG “TRUYỆN KIỀU” VÀ “VĂN CHIÊU HỒN” CỦA NGUYỄN DU - TẢI F...
VĂN HÓA TÂM LINH TRONG “TRUYỆN KIỀU” VÀ “VĂN CHIÊU HỒN” CỦA NGUYỄN DU - TẢI F...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

What's hot (20)

Luận án: Tuyên truyền giá trị văn hóa của tín ngưỡng thờ mẫu, HAY - Gửi miễn ...
Luận án: Tuyên truyền giá trị văn hóa của tín ngưỡng thờ mẫu, HAY - Gửi miễn ...Luận án: Tuyên truyền giá trị văn hóa của tín ngưỡng thờ mẫu, HAY - Gửi miễn ...
Luận án: Tuyên truyền giá trị văn hóa của tín ngưỡng thờ mẫu, HAY - Gửi miễn ...
 
Đề tài: Hát then tại nhà hát ca múa nhạc dân gian Việt Bắc, HOT
Đề tài: Hát then tại nhà hát ca múa nhạc dân gian Việt Bắc, HOTĐề tài: Hát then tại nhà hát ca múa nhạc dân gian Việt Bắc, HOT
Đề tài: Hát then tại nhà hát ca múa nhạc dân gian Việt Bắc, HOT
 
Đề tài: Bảo tồn và phát huy văn hóa hát Xẩm tại Ninh Bình, HOT
Đề tài: Bảo tồn và phát huy văn hóa hát Xẩm tại Ninh Bình, HOTĐề tài: Bảo tồn và phát huy văn hóa hát Xẩm tại Ninh Bình, HOT
Đề tài: Bảo tồn và phát huy văn hóa hát Xẩm tại Ninh Bình, HOT
 
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt Nam
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt NamLuận văn: Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt Nam
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt Nam
 
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đLuận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
 
Luận văn: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lan Khai, HOT
Luận văn: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lan Khai, HOTLuận văn: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lan Khai, HOT
Luận văn: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lan Khai, HOT
 
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh ChâuLuận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
 
Luận án: Lễ hội Phủ Dầy trong đời sống văn hóa cộng đồng, HAY
Luận án: Lễ hội Phủ Dầy trong đời sống văn hóa cộng đồng, HAYLuận án: Lễ hội Phủ Dầy trong đời sống văn hóa cộng đồng, HAY
Luận án: Lễ hội Phủ Dầy trong đời sống văn hóa cộng đồng, HAY
 
THƠ VÀ MẤY VẤN ĐỀ TRONG THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
THƠ VÀ MẤY VẤN ĐỀ TRONG THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI THƠ VÀ MẤY VẤN ĐỀ TRONG THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
THƠ VÀ MẤY VẤN ĐỀ TRONG THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
 
Xuân diệu về tác gia và tác phẩm
Xuân diệu về tác gia và tác phẩmXuân diệu về tác gia và tác phẩm
Xuân diệu về tác gia và tác phẩm
 
Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đình (Phạm Việt Long - vanhien.vn)
Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đình (Phạm Việt Long - vanhien.vn)Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đình (Phạm Việt Long - vanhien.vn)
Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đình (Phạm Việt Long - vanhien.vn)
 
Luận văn: Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường
Luận văn: Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc MườngLuận văn: Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường
Luận văn: Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường
 
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdf
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdfGiao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdf
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdf
 
Đề tài: Đời sống văn hóa của các hộ gia đình nông dân Khmer, HAY
Đề tài: Đời sống văn hóa của các hộ gia đình nông dân Khmer, HAYĐề tài: Đời sống văn hóa của các hộ gia đình nông dân Khmer, HAY
Đề tài: Đời sống văn hóa của các hộ gia đình nông dân Khmer, HAY
 
VĂN HÓA TÂM LINH TRONG “TRUYỆN KIỀU” VÀ “VĂN CHIÊU HỒN” CỦA NGUYỄN DU - TẢI F...
VĂN HÓA TÂM LINH TRONG “TRUYỆN KIỀU” VÀ “VĂN CHIÊU HỒN” CỦA NGUYỄN DU - TẢI F...VĂN HÓA TÂM LINH TRONG “TRUYỆN KIỀU” VÀ “VĂN CHIÊU HỒN” CỦA NGUYỄN DU - TẢI F...
VĂN HÓA TÂM LINH TRONG “TRUYỆN KIỀU” VÀ “VĂN CHIÊU HỒN” CỦA NGUYỄN DU - TẢI F...
 
Khảo sát các tương tác biểu tượng trong ca từ Trịnh Công Sơn
Khảo sát các tương tác biểu tượng trong ca từ Trịnh Công SơnKhảo sát các tương tác biểu tượng trong ca từ Trịnh Công Sơn
Khảo sát các tương tác biểu tượng trong ca từ Trịnh Công Sơn
 
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đLuận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
 
Luận văn: Truyền dạy hát Then cho học sinh năng khiếu, HAY, 9đ
Luận văn: Truyền dạy hát Then cho học sinh năng khiếu, HAY, 9đLuận văn: Truyền dạy hát Then cho học sinh năng khiếu, HAY, 9đ
Luận văn: Truyền dạy hát Then cho học sinh năng khiếu, HAY, 9đ
 
Luận án: Sự biến đổi văn hóa làng nghề truyền thống ở Hà Nội
Luận án: Sự biến đổi văn hóa làng nghề truyền thống ở Hà NộiLuận án: Sự biến đổi văn hóa làng nghề truyền thống ở Hà Nội
Luận án: Sự biến đổi văn hóa làng nghề truyền thống ở Hà Nội
 
Đề tài: Quản lý lễ hội truyền thống Phủ Quảng Cung ở Nam Định
Đề tài: Quản lý lễ hội truyền thống Phủ Quảng Cung ở Nam ĐịnhĐề tài: Quản lý lễ hội truyền thống Phủ Quảng Cung ở Nam Định
Đề tài: Quản lý lễ hội truyền thống Phủ Quảng Cung ở Nam Định
 

Similar to Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái

Văn hóa người Hà Nhì Đen (Nghiên cứu so sánh nhóm cư trú ở Y Tý, Bát Xát, Lào...
Văn hóa người Hà Nhì Đen (Nghiên cứu so sánh nhóm cư trú ở Y Tý, Bát Xát, Lào...Văn hóa người Hà Nhì Đen (Nghiên cứu so sánh nhóm cư trú ở Y Tý, Bát Xát, Lào...
Văn hóa người Hà Nhì Đen (Nghiên cứu so sánh nhóm cư trú ở Y Tý, Bát Xát, Lào...jackjohn45
 
Luận văn: Ngữ âm tiếng Ta Ôi ở huyện A Lưới, Huế, HAY - Gửi miễn phí qua zalo...
Luận văn: Ngữ âm tiếng Ta Ôi ở huyện A Lưới, Huế, HAY - Gửi miễn phí qua zalo...Luận văn: Ngữ âm tiếng Ta Ôi ở huyện A Lưới, Huế, HAY - Gửi miễn phí qua zalo...
Luận văn: Ngữ âm tiếng Ta Ôi ở huyện A Lưới, Huế, HAY - Gửi miễn phí qua zalo...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Vấn đề bảo tồn và phát huy cái đẹp của nghệ thuật đờn ca tài tử tại tỉnh Trà ...
Vấn đề bảo tồn và phát huy cái đẹp của nghệ thuật đờn ca tài tử tại tỉnh Trà ...Vấn đề bảo tồn và phát huy cái đẹp của nghệ thuật đờn ca tài tử tại tỉnh Trà ...
Vấn đề bảo tồn và phát huy cái đẹp của nghệ thuật đờn ca tài tử tại tỉnh Trà ...Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong LaTim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong Lalongvanhien
 
Tín ngưỡng Phồn thực của người Chăm
Tín ngưỡng Phồn thực của người ChămTín ngưỡng Phồn thực của người Chăm
Tín ngưỡng Phồn thực của người ChămThanh Hải
 
Khảo sát tục ngữ cổ truyền về thái bình từ góc nhìn văn hóa 6791533
Khảo sát tục ngữ cổ truyền về thái bình từ góc nhìn văn hóa 6791533Khảo sát tục ngữ cổ truyền về thái bình từ góc nhìn văn hóa 6791533
Khảo sát tục ngữ cổ truyền về thái bình từ góc nhìn văn hóa 6791533jackjohn45
 
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 

Similar to Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái (20)

Ảnh hưởng của văn học dân gian trong văn xuôi và thơ ca Tày
Ảnh hưởng của văn học dân gian trong văn xuôi và thơ ca TàyẢnh hưởng của văn học dân gian trong văn xuôi và thơ ca Tày
Ảnh hưởng của văn học dân gian trong văn xuôi và thơ ca Tày
 
luan an van hoc dan gian cao lan tu van hoa toc nguoi
luan an van hoc dan gian cao lan tu van hoa toc nguoiluan an van hoc dan gian cao lan tu van hoa toc nguoi
luan an van hoc dan gian cao lan tu van hoa toc nguoi
 
Múa dân gian đương đại trong xã hội Việt Nam thời kỳ hội nhập, HAY
Múa dân gian đương đại trong xã hội Việt Nam thời kỳ hội nhập, HAYMúa dân gian đương đại trong xã hội Việt Nam thời kỳ hội nhập, HAY
Múa dân gian đương đại trong xã hội Việt Nam thời kỳ hội nhập, HAY
 
Văn hóa người Hà Nhì Đen (Nghiên cứu so sánh nhóm cư trú ở Y Tý, Bát Xát, Lào...
Văn hóa người Hà Nhì Đen (Nghiên cứu so sánh nhóm cư trú ở Y Tý, Bát Xát, Lào...Văn hóa người Hà Nhì Đen (Nghiên cứu so sánh nhóm cư trú ở Y Tý, Bát Xát, Lào...
Văn hóa người Hà Nhì Đen (Nghiên cứu so sánh nhóm cư trú ở Y Tý, Bát Xát, Lào...
 
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đLuận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
 
Luận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, HAY
Luận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, HAYLuận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, HAY
Luận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, HAY
 
Luận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, 9đ
Luận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, 9đLuận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, 9đ
Luận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, 9đ
 
Luận văn: Ngữ âm tiếng Ta Ôi ở huyện A Lưới, Huế, HAY - Gửi miễn phí qua zalo...
Luận văn: Ngữ âm tiếng Ta Ôi ở huyện A Lưới, Huế, HAY - Gửi miễn phí qua zalo...Luận văn: Ngữ âm tiếng Ta Ôi ở huyện A Lưới, Huế, HAY - Gửi miễn phí qua zalo...
Luận văn: Ngữ âm tiếng Ta Ôi ở huyện A Lưới, Huế, HAY - Gửi miễn phí qua zalo...
 
Luận văn: Bản sắc văn hóa Tây Nguyên trong văn xuôi H’Linh Niê
Luận văn: Bản sắc văn hóa Tây Nguyên trong văn xuôi H’Linh NiêLuận văn: Bản sắc văn hóa Tây Nguyên trong văn xuôi H’Linh Niê
Luận văn: Bản sắc văn hóa Tây Nguyên trong văn xuôi H’Linh Niê
 
Luận văn: Bản sắc văn hóa Tây Nguyên trong văn xuôi H’Linh Niê và Niê Thanh Mai
Luận văn: Bản sắc văn hóa Tây Nguyên trong văn xuôi H’Linh Niê và Niê Thanh MaiLuận văn: Bản sắc văn hóa Tây Nguyên trong văn xuôi H’Linh Niê và Niê Thanh Mai
Luận văn: Bản sắc văn hóa Tây Nguyên trong văn xuôi H’Linh Niê và Niê Thanh Mai
 
Luận văn: Quan hệ gia đình trong cái nhìn so sánh giữa ca dao Nam Bộ và ca da...
Luận văn: Quan hệ gia đình trong cái nhìn so sánh giữa ca dao Nam Bộ và ca da...Luận văn: Quan hệ gia đình trong cái nhìn so sánh giữa ca dao Nam Bộ và ca da...
Luận văn: Quan hệ gia đình trong cái nhìn so sánh giữa ca dao Nam Bộ và ca da...
 
Vấn đề bảo tồn và phát huy cái đẹp của nghệ thuật đờn ca tài tử tại tỉnh Trà ...
Vấn đề bảo tồn và phát huy cái đẹp của nghệ thuật đờn ca tài tử tại tỉnh Trà ...Vấn đề bảo tồn và phát huy cái đẹp của nghệ thuật đờn ca tài tử tại tỉnh Trà ...
Vấn đề bảo tồn và phát huy cái đẹp của nghệ thuật đờn ca tài tử tại tỉnh Trà ...
 
Luận văn: Bảo tồn và phát huy cái đẹp của nghệ thuật đờn ca tài tử
Luận văn: Bảo tồn và phát huy cái đẹp của nghệ thuật đờn ca tài tửLuận văn: Bảo tồn và phát huy cái đẹp của nghệ thuật đờn ca tài tử
Luận văn: Bảo tồn và phát huy cái đẹp của nghệ thuật đờn ca tài tử
 
Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc
Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên LộcLuận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc
Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc
 
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong LaTim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
Tim hieu ve "Khap" Thai ơ huyen Muong La
 
Chăm phồn thực
Chăm phồn thựcChăm phồn thực
Chăm phồn thực
 
Tín ngưỡng Phồn thực của người Chăm
Tín ngưỡng Phồn thực của người ChămTín ngưỡng Phồn thực của người Chăm
Tín ngưỡng Phồn thực của người Chăm
 
Khảo sát tục ngữ cổ truyền về thái bình từ góc nhìn văn hóa 6791533
Khảo sát tục ngữ cổ truyền về thái bình từ góc nhìn văn hóa 6791533Khảo sát tục ngữ cổ truyền về thái bình từ góc nhìn văn hóa 6791533
Khảo sát tục ngữ cổ truyền về thái bình từ góc nhìn văn hóa 6791533
 
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...
 
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX, HAY
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX, HAYLuận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX, HAY
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX, HAY
 

More from Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562

Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 

More from Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562 (20)

Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
 
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
 
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.docNghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
 
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.docXây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
 
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.docPhát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
 
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
 
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
 
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
 
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
 
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
 
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.docÁnh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
 
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
 
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
 
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
 
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
 
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
 
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.docDiễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
 

Recently uploaded

3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh choCD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh chonamc250
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfNguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢImyvh40253
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngYhoccongdong.com
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảohoanhv296
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh choCD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 

Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái

  • 1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ______________ HÀ XUÂN HƢƠNG SO SÁNH DÂN CA TRỮ TÌNH SINH HOẠT CỦA NGƢỜI TÀY VÀ NGƢỜI THÁI Ở VIỆT NAM Ngành: VĂN HỌC DÂN GIAN Mã số: 9 22 01 25 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. NGUYỄN XUÂN KÍNH Hà Nội - 2019
  • 2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đề tài So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và người Thái ở Việt Nam là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, kết luận khoa học trong đề tài là trung thực và chƣa từng đƣợc công bố trong các công trình khác. Nội dung đề tài có tham khảo và sử dụng các thông tin đƣợc đăng tải trên các sách, tạp chí theo danh mục tài liệu tham khảo của đề tài. Nếu sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hà Nội, tháng năm 201 TÁC GIẢ LUẬN ÁN HÀ XUÂN HƢƠNG
  • 3. LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn tới GS. TS Nguyễn Xuân Kính – ngƣời thầy đã tận tình hƣớng dẫn và động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện luận án. Tôi xin chân thành cảm ơn Học viên Khoa học Xã hội đã tạo điều kiện để tôi hoàn thành khóa học và luận án này. Tôi xin gửi lời cảm ơn đến các đồng nghiệp của tôi đã chia sẻ nhiều tƣ liệu và kinh nghiệm quý liên quan đến vấn đề nghiên cứu của luận án. Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình, ngƣời thân, bạn bè đã động viên và giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thành luận án. Xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, tháng năm 201 TÁC GIẢ LUẬN ÁN
  • 4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU.........................................................................................................................1 CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA LUẬN ÁN...............................................................................................11 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu.............................................................................11 1.2. Luận án, sự kế thừa và phát triển............................................................................25 1.3. Cơ sở lí luận............................................................................................................29 CHƢƠNG 2: KHÁI QUÁT VỀ NGƢỜI TÀY, THÁI Ở VIỆT NAM VÀ DÂN CA TRỮ TÌNH SINH HOẠT CỦA HỌ....................................................................45 2.1. Khái quát về ngƣời Tày và ngƣời Thái ở Việt Nam...............................................45 2.2. Dân ca trữ tình sinh hoạt của ngƣời Tày và ngƣời Thái – nhận diện và phân loại...........65 CHƢƠNG 3: NHỮNG ĐIỂM TƢƠNG ĐỒNG CỦA DÂN CA TRỮ TÌNH SINH HOẠT CỦA NGƢỜI TÀY VÀ NGƢỜI THÁI..............................................73 3.1. Sự tƣơng đồng trong việc phản ánh đời sống hiện thực ở nông thôn miền núi và tình cảm con ngƣời ...................................................................................................73 3.2. Sự tƣơng đồng về cách thức thể hiện tình cảm của nhân vật trữ tình ....................85 3.3. Sự tƣơng đồng trong việc sử dụng biểu tƣợng hoa ................................................93 3.4. Sự tƣơng đồng về trình tự diễn xƣớng hát đối đáp và sự tham gia của âm nhạc vào diễn xƣớng ..............................................................................................................97 3.5. Iếu và cắm nôm – sự giao thoa của dân ca trữ tình sinh hoạt Tày, Thái ..............103 CHƢƠNG 4: NHỮNG ĐIỂM KHÁC BIỆT CỦA DÂN CA TRỮ TÌNH SINH HOẠT CỦA NGƢỜI TÀY VÀ NGƢỜI THÁI ......................................................109 4.1. Sự khác biệt về nhân vật trữ tình..........................................................................109 4.2. Sự khác biệt về thi pháp lời thơ nghệ thuật..........................................................117 4.3. Sự khác biệt về đặc điểm diễn xƣớng...................................................................138 KẾT LUẬN ................................................................................................................146 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ........................151 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................152
  • 5. BẢNG CHỮ VIẾT TẮT STT Chữ viết tắt Nghĩa của chữ viết tắt 1 DCTTSH Dân ca trữ tình sinh hoạt 2 DTTS Dân tộc thiểu số 3 Nxb Nhà xuất bản 4 PL Phụ lục 5 tr Trang 6 VHDG Văn học dân gian 7 VHSS Văn học so sánh
  • 6. DANH MỤC BẢNG Bảng 1: Tài liệu khảo sát.................................................................................................5 Bảng 2: Thông tin điền dã ...............................................................................................7 Bảng 2.1: Phân loại dân ca của ngƣời Tày và ngƣời Thái ............................................70 Bảng 3.1. Sự xuất hiện của các từ mang sắc thái cầu khiến..........................................90 Bảng 4.1: Sự xuất hiện của hình ảnh, biểu tƣợng là con ngƣời và các hình ảnh, biểu tƣợng nguồn gốc thiên nhiên trong DCTTSH Tày, Thái......................... 121 Bảng 4.2: Sự xuất hiện của hình ảnh, biểu tƣợng nƣớc và các hình ảnh, biểu tƣợng có nguồn gốc nhân tạo trong DCTTSH Tày, Thái .......................................... 125 Bảng 4.3: Khảo sát việc sử dụng điển tích trong DCTTSH Tày, Thái ...................... 131
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài 1.1. Văn hóa là một trong những yếu tố quan trọng góp phần tạo lập nên dân tộc. Nó có quan hệ mật thiết với tinh thần, tâm hồn của cả chủng tộc, giúp tạo nên dấu ấn riêng, phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Văn học, với tƣ cách là một thành tố của văn hóa, cũng giữ vai trò ấy. Trong văn học, văn học dân gian (VHDG) giữ vị trí đáng kể và có nhiều ƣu thế trong việc phản ánh tƣ duy, tình cảm của dân tộc. Nghiên cứu VHDG là cần thiết và quan trọng đối với việc góp phần nghiên cứu, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, nhất là đối với việc xây dựng khối thịnh vƣợng chung của cộng đồng quốc gia dân tộc trong bối cảnh giao lƣu thời toàn cầu hóa hiện nay. Việt Nam là quốc gia đa dân tộc. Bức tranh văn hóa Việt Nam đa diện, đa sắc màu, đƣợc tạo nên bởi quá trình tích hợp các giá trị văn hóa tộc ngƣời vào văn hóa Việt Nam – một phức thể văn hóa đa dạng mà thống nhất. Qua VHDG, chúng ta có thể nhận diện đƣợc sự hòa hợp trong đa dạng của mối quan hệ văn hóa giữa các tộc ngƣời. Vì thế, con đƣờng nghiên cứu so sánh VHDG của các tộc ngƣời sẽ đem tới nhiều khả năng cho việc phát hiện ra những yếu tố văn hóa truyền thống mang tính đặc trƣng tộc ngƣời cũng nhƣ những nét chung, mang tính phổ biến. 1.2. Tày và Thái là hai dân tộc có số dân đông thứ hai và thứ ba trong 54 dân tộc Việt Nam, sinh sống rải rác trong cả nƣớc song tập trung nhiều nhất ở khu vực miền núi phía Bắc. Ngƣời Tày giữ vai trò chủ thể văn hóa vùng Đông Bắc, ngƣời Thái giữ vai trò chủ thể văn hóa vùng Tây Bắc. Với những giá trị đặc sắc về văn hóa, hai dân tộc giữ vị trí quan trọng trong tổng thể văn hóa dân gian Việt Nam. Trong đó, phải kể đến vai trò của kho tàng VHDG thấm đẫm hồn cốt dân tộc. 1.3. Trong kho tàng VHDG của ngƣời Tày và ngƣời Thái, truyện cổ và dân ca là hai bộ phận phong phú và tiêu biểu nhất. Dân ca Tày, Thái – với tƣ cách là những bộ phận của văn hóa và VHDG, đã thể hiện khá sinh động và rõ nét đời sống văn hóa và tâm hồn dân tộc bởi nó ra đời từ đời sống của nhân dân, rồi lại quay trở lại phục vụ chính đời sống ấy trong mối quan hệ gắn bó mật thiết với phong tục, tập quán, tín ngƣỡng, hội hè… của tộc ngƣời. Do đó, có thể nói, dân ca Tày, Thái thể hiện một cách tập trung nhất và rõ ràng nhất bản sắc văn hóa của hai dân tộc.
  • 8. 2 1.4. Dân ca có ở hầu hết các dân tộc và là nghệ thuật mang tính chất tổng hợp, gồm ngôn từ, diễn xƣớng, âm nhạc, vũ đạo, đạo cụ. Ở ngƣời Kinh, do điều kiện riêng nên bộ phận ngôn từ trong dân ca dần tách thành một thể loại độc lập là ca dao. Trái lại, ở các dân tộc thiểu số (DTTS), bộ phận ngôn từ chƣa phân thành một thể loại độc lập. Vì thế, các nhà nghiên cứu thƣờng nhắc đến dân ca các DTTS mà không nhắc đến ca dao của họ nhƣ với ngƣời Kinh. Đây cũng là lí do để dân ca đƣợc coi là đối tƣợng nghiên cứu của VHDG, dù nó là nghệ thuật biểu diễn. 1.5. Xét riêng về DCTTSH, nếu nhƣ ngƣời Tày có lượn cọi (hát gọi bạn yêu), lượn slương (hát thƣơng yêu), lượn nàng ới (hát gọi ngƣời con gái), lượn then (hát then), phong slư (thƣ tình con trai gửi cho con gái và ngƣợc lại)… thì ngƣời Thái có khắp báo xao (hát trai gái), khắp xai peng (hát dây tình), khắp hạn khuống (hát nơi sàn chơi), khắp loong tôông (hát nơi cánh đồng), khắp xư (hát thơ)… Sự phong phú, đa dạng, sự đặc sắc cả về nội dung, thi pháp lời thơ nghệ thuật, đặc điểm diễn xƣớng của DCTTSH và mức độ gắn bó của chúng với mọi mặt đời sống nhân dân khiến chúng tôi đặc biệt quan tâm đến loại dân ca này. DCTTSH của mỗi dân tộc vừa mang những điểm tƣơng đồng, vừa mang những điểm dị biệt. Một sự so sánh DCTTSH của hai dân tộc Tày, Thái sẽ góp phần khám phá tính chung, tính phổ biến trong văn hóa của hai dân tộc này, đồng thời làm phát lộ tính riêng đặc thù của mỗi dân tộc trong bức tranh văn hóa Việt Nam, góp phần khẳng định bản sắc văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, vấn đề này lại chƣa nhận đƣợc sự quan tâm thỏa đáng từ các nhà nghiên cứu VHDG. Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi chọn vấn đề So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và người Thái ở Việt Nam làm đề tài nghiên cứu với mong muốn chỉ ra và lí giải đƣợc những điểm giống và khác nhau của hai bộ phận dân ca, trên cơ sở đó thấy đƣợc cái chung của văn hóa các dân tộc trên đất nƣớc Việt Nam, đồng thời thấy đƣợc nét đặc thù dân tộc của văn hóa ngƣời Tày và ngƣời Thái. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu Thực hiện luận án này, chúng tôi xác định mục đích nghiên cứu là qua so sánh DCTTSH của hai dân tộc Tày, Thái, thấy rõ tính thống nhất và đa dạng của dân ca các dân tộc Việt Nam nói chung, DCTTSH Tày, Thái nói riêng, lí giải nguyên nhân của sự thống nhất, đa dạng đó.
  • 9. 3 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tập hợp, hệ thống theo lựa chọn có chủ ý các tƣ liệu DCTTSH Tày, Thái dựa trên các nguồn tƣ liệu sƣu tầm, công bố tƣ liệu dân ca dƣới hình thức song ngữ. - Điền dã, khảo sát diễn xƣớng DCTTSH Tày, Thái (còn quan sát đƣợc), phỏng vấn hồi cố các nghệ nhân ngƣời Tày, Thái ở khu vực miền núi phía Bắc; khảo sát các tƣ liệu phục dựng diễn xƣớng DCTTSH Tày, Thái; quan sát mối quan hệ giữa văn bản và diễn xƣớng trong thực tế đời sống của hai dân tộc Tày, Thái. - Tìm hiểu các vấn đề về lí luận văn học so sánh (VHSS) nói chung và VHSS trong nghiên cứu văn hóa, VHDG nói riêng; hệ thống hóa lí luận về bản sắc văn hóa dân tộc, dân ca và diễn xƣớng. - Khái quát về tộc ngƣời và diện mạo DCTTSH của ngƣời Tày và ngƣời Thái. - Khảo sát các khía cạnh của DCTTSH của hai dân tộc Tày, Thái (qua văn bản là chính, kết hợp với sự quan sát diễn xƣớng dân ca), lấy đó làm cơ sở cho sự so sánh. - Phân tích các điểm tƣơng đồng và khác biệt của DCTTSH Tày, Thái. - Lí giải nguyên nhân của sự tƣơng đồng và khác biệt đó, chỉ ra nội hàm văn hóa ẩn chứa trong đó để dẫn tới nhận thức rằng sự tƣơng đồng chính là tính thống nhất, sự khác biệt chính là bản sắc văn hóa của ngƣời Tày, Thái, tạo nên tính đa dạng của văn hóa các dân tộc. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu của luận án là DCTTSH của ngƣời Tày và ngƣời Thái ở Việt Nam. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Thực hiện đề tài so sánh DCTTSH của ngƣời Tày và ngƣời Thái ở Việt Nam, chúng tôi chỉ nghiên cứu loại dân ca này của ngƣời Tày ở vùng Đông Bắc và ngƣời Thái ở vùng Tây Bắc. Vùng Đông Bắc bao gồm các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lào Cai và một phần của tỉnh Yên Bái. Vùng Tây Bắc bao gồm các tỉnh Điện Biên, Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình và một phần tỉnh Yên Bái. Về nguồn tƣ liệu, các kết quả so sánh của chúng tôi trong luận án là dựa trên cơ sở khảo sát kĩ càng các nguồn tƣ liệu DCTTSH của ngƣời Tày và ngƣời Thái. Song, chúng tôi nhận thấy kho tàng DCTTSH của hai dân tộc Tày, Thái có số lƣợng tƣơng đối lớn và phong phú về thể loại. Hơn nữa, việc đƣa toàn bộ các tài liệu vào trong công trình
  • 10. 4 là không thật cần thiết. Chúng ta hoàn toàn có thể sử dụng vai trò đại diện của tài liệu VHDG trong công việc nghiên cứu. Lí do của sự không cần thiết nói trên nằm ở tính lặp lại của VHDG nói chung, dân ca nói riêng. Nếu nhƣ ở văn học viết, nhà nghiên cứu cần đọc hết các tác phẩm của một tác giả nào đó thì mới có thể đƣa ra những nhận định, đánh giá khoa học về tác giả đó. Nhƣng, ở VHDG, nhà nghiên cứu chỉ cần biết một số lƣợng tác phẩm vừa đủ, có tính chất đại diện. VHDG là mảnh đất của những yếu tố lặp đi lặp lại, của những điểm chung mang tính cộng đồng, thời đại. Riêng ở dân ca, tính lặp lại của các yếu tố trong dân ca là rất cao và phổ biến. Chỉ bằng quan sát, bạn đọc cũng dễ dàng nhận ra những sự giống nhau giữa các văn bản dân ca. Do vậy, quan điểm của chúng tôi là chỉ cần khảo sát giới hạn ở một số lƣợng tác phẩm mà ngoài số lƣợng đó chúng ta không phát hiện thêm điều gì mới. Sự hạn chế nguồn tƣ liệu của chúng tôi là giống nhƣ việc làm của tác giả V.IA. Propp trong công trình Hình thái học truyện cổ tích [165]. Khi thống kê, chúng tôi sử dụng các tƣ liệu dân ca dẫn từ các tài liệu đã đƣợc xuất bản và dƣới hình thức song ngữ Tày – Kinh đối với DCTTSH Tày và Thái – Kinh đối với DCTTSH Thái. Các tài liệu đƣợc lựa chọn phải có sự ăn khớp nhau về số dòng thơ trong bản phiên âm và bản dịch sang tiếng Việt, đồng thời bản dịch phải sát nghĩa. Trong đó, chúng tôi ƣu tiên những công trình mà tác giả là những ngƣời con của dân tộc Tày, Thái hoặc từng có thời gian sinh sống cùng ngƣời bản tộc, có lợi thế trong việc am hiểu văn hóa và ngôn ngữ dân tộc. Họ dành rất nhiều công sức, tâm huyết, trung thực và trách nhiệm trong việc sƣu tầm, biên soạn. Vì thế, việc biên dịch của các tác giả đó khá sát với cách cảm, cách nghĩ và đặc trƣng thi pháp thể loại của DCTTSH Tày, Thái. Những tiêu chí nhƣ vậy sẽ đem đến tính tin cậy cho tài liệu đƣợc lựa chọn để khảo sát, nghiên cứu của luận án. Vì những lí do này, đối với DCTTSH Tày, trong rất nhiều mảng, chúng tôi lựa chọn iếu, lượn slương, lượn cọi, phong slư, rọi. Ở từng mảng, chúng tôi chỉ lựa chọn những bản tiêu biểu, có chất lƣợng để khảo sát. Cụ thể, chúng tôi lựa chọn dẫn 500 bài dân ca với 4216 câu. Đối với DCTTSH Thái, chúng tôi dẫn 286 bài DCTTSH Thái với 6068 câu. Sự lựa chọn dẫn này là có chủ ý khi chúng tôi nhận thấy các hiện tƣợng đã đƣợc hàm chứa khá đầy đủ trong 500 bài DCTTSH Tày và 286 bài DCTTSH Thái đƣợc dẫn. Số lƣợng bài cụ thể trong các tài liệu dân ca đƣợc lựa chọn nhƣ sau:
  • 11. 5 Bảng 1: Tài liệu khảo sát STT Tài liệu Mã tài liệu Số bài đƣợc lựa chọn Tày 1 Phƣơng Bằng (sƣu tầm, phiên âm chữ Nôm và dịch) (2012), Phong Slư, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội [6] 5 2 Hoàng Văn Chữ, Nông Phúc Tƣớc, Hoàng Nừng (sƣu tầm, biên dịch) (2012), Iếu – Dân ca dân tộc Tày, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội [22] 50 3 Nhiều tác giả (1970), Rọi (Vốn cổ văn học dân tộc Tày – Nùng), Nxb Dân tộc Việt Bắc [99] 50 4 Nhiều tác giả (2012), Lượn Tày: Lượn Tày Lạng Sơn, lượn slương, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội [108] 200 5 Lục Văn Pảo (sƣu tầm, phiên âm, dịch) (1994), Lượn cọi, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội [117] 150 6 Dƣơng Văn Sách, Dƣơng Thị Đào (sƣu tầm) (2016), Lượn rọi – Hát đối đáp của của người Tày, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội [128] 45 Tổng 500 Thái 7 Nguyễn Văn Hòa (sƣu tầm, biên dịch) (2001), Truyện cổ và dân ca Thái vùng Tây Bắc Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội [50] 49 8 Hà Mạnh Phong, Đỗ Thị Tấc (sƣu tầm, biên dịch) (2012), Dân ca Thái Lai Châu, Quyển 2 – Thơ và dân ca tình yêu của người Thái Mường So, Nxb Văn hóa dân tộc, Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Lai Châu, Hà Nội [121] 190 9 Đỗ Thị Tấc (sƣu tầm và dịch) (2012), Dân ca Thái Lai Châu, Quyển 1 – Chiêng xoong mố bók (Mùa xuân mùa hoa), Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội [134] 47 Tổng 286
  • 12. 6 Số lời còn lại của các công trình kể trên và các tài liệu DCTTSH khác của ngƣời Tày, Thái, chúng tôi sử dụng làm cơ sở tham khảo, đối chiếu, kiểm tra. Chẳng hạn, ở DCTTSH Tày có các công trình nhƣ Lượn cằm Tày Hoàng Liên Sơn [138], Sli lượn hát đôi của người Tày Nùng ở Cao Bằng [92], Chồm bjoóc mạ [14], Lượn then ở miền đông Cao Bằng [78], Tàng pây kết chụ (Đường đi kết bạn tình) [70], Thành ngữ - tục ngữ - ca dao dân tộc Tày [127], Thơ ca dân gian Tày Nùng xứ Lạng [5], Tục ngữ, ca dao Tày vùng hồ Ba Bể [192], tƣ liệu điền dã của tác giả luận án; ở ngƣời Thái có công trình: Khắp sứ lam của người Thái đen xã Noong Luống, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên [49]. 4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Phương pháp luận Theo Hà Văn Tấn, “phƣơng pháp luận khoa học là hệ thống lí thuyết lí giải đối tƣợng nghiên cứu cũng nhƣ lí giải các phƣơng pháp tiếp cận đối tƣợng đó” [55; tr. 10]. Tác giả Nguyễn Thiện Giáp trong cuốn Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ [40] cũng nói tƣơng tự nhƣ vậy. Vậy, phƣơng pháp luận định hƣớng cho chúng tôi trong quá trình thực hiện luận án này là: Trong khi sử dụng các quy phạm của nghiên cứu văn học, không quên tính đặc thù của VHDG; khi so sánh DCTTSH của hai dân tộc Tày, Thái, chúng tôi chú ý đến mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Cái chung ở đây là tính toàn nhân loại của VHDG, tính tƣơng đồng cao của dân ca các dân tộc ở Việt Nam. Cái riêng ở đây là tính đặc thù của DCTTSH mỗi dân tộc. Theo ý nghĩa triết học, cái chung đƣợc lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tƣợng hay quá trình riêng lẻ khác; cái riêng là một sự vật, một hiện tƣợng, một quá trình riêng lẻ nhất định. Phƣơng pháp luận cũng chỉ ra rằng, để thực hiện bản luận án này, chúng tôi cần áp dụng các phƣơng pháp nghiên cứu sau: phƣơng pháp điền dã, phƣơng pháp thống kê, phƣơng pháp so sánh, phƣơng pháp liên ngành. 4.2. Phương pháp nghiên cứu 4.2.1. Phương pháp điền dã Luận án thực hiện trên cơ sở tƣ liệu là DCTTSH của ngƣời Tày và ngƣời Thái. Đây là đề tài nghiên cứu dân ca nên cần đặt nó trong môi trƣờng diễn xƣớng cụ thể để thấy đƣợc hết tính sinh động của diễn xƣớng và thấy đƣợc mối liên hệ giữa dân ca với phong tục, tập quán, tín ngƣỡng... của dân tộc. Vì thế, chúng tôi lựa chọn phƣơng pháp điền dã. Trong quá trình thực hiện luận án, chúng tôi tiến hành điền dã tại một số vùng cƣ trú của đồng bào Tày, Thái ở vùng Đông Bắc và Tây Bắc. Tại đó, chúng tôi quan sát
  • 13. 7 đời sống sinh hoạt của đồng bào Tày, Thái, phỏng vấn ngƣời dân, tiếp cận với các diễn xƣớng DCTTSH Tày, Thái. Chúng tôi đƣợc chứng kiến các diễn xƣớng có tính ngẫu hứng khi làm ngô, làm lúa, các điệu hát rong chơi… của ngƣời Thái ở Yên Bái, diễn xƣớng lượn slương của ngƣời Tày ở Bắc Kạn và đƣợc chứng kiến các nghệ nhân phục hồi các diễn xƣớng lượn của ngƣời Tày ở Bắc Kạn, Hà Giang, Lạng Sơn và khắp của ngƣời Thái ở Yên Bái. Chúng tôi lựa chọn các địa bàn điền dã nhƣ thế bởi đó là nơi tập trung đông đồng bào Tày/ Thái sinh sống, còn lƣu giữ đƣợc nhiều đặc điểm văn hóa truyền thống của dân tộc. Các thông tin đƣợc cụ thể hóa trong bảng dƣới đây: Bảng 2: Thông tin điền dã STT Địa điểm Thời gian Thông tin viên Tày 1 Xã Quỳnh Sơn, huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn 15/2 – 5/3/ 2017 Dƣơng Công Thông Dƣơng Công Nam 2 Thị trấn Yên Minh, huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang 24/4 - 28/4/2018 Nguyễn Thị Hà Hoàng Thị Đại 3 Xã Thƣợng Bằng La, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái 7/2 - 12/2/2014 Hà Đình Tỵ 4 Xã Lam Sơn, huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn 12/2 – 19/2/2016 Nông Minh Cƣơng Thái 4 Xã Sơn A, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái 7/2 – 21/2/2016 Lò Thị Sa Sầm Văn Tuấn 5 Xã Hạnh Sơn, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái 11/7 - 18/7/2018 Lƣờng Thủy Chung Vì Thị Pọm Lò Thị Sáng Lò Thị Tía Qua điền dã, chúng tôi thu thập các thông tin hữu ích cho quá trình so sánh và lí giải. Việc thu thập các dữ liệu văn hóa, lịch sử, xã hội tộc ngƣời sẽ cho kết quả là những
  • 14. 8 thông tin định tính góp phần chứng minh và lí giải cho những đặc điểm tƣơng đồng và khác biệt của DCTTSH của hai dân tộc. 4.2.2. Phương pháp thống kê Về phƣơng pháp thống kê, trong công trình Văn hóa dân gian – Những phương pháp nghiên cứu [101; tr. 127 – 141], Nguyễn Xuân Kính đã khẳng định đây là một trong số các phƣơng pháp nghiên cứu chính xác bởi mục đích của việc nghiên cứu là tìm ra giá trị và giải thích, làm sáng tỏ các quy luật, tức những sự lặp lại của các hiện tƣợng cùng loại ở một mức độ nhất định nào đó. Sử dụng phƣơng pháp này, chúng tôi thống kê thông tin về các tài liệu công bố dân ca theo năm và theo dân tộc phục vụ cho việc lƣợc thuật tình hình sƣu tầm, nghiên cứu, thống kê các bài DCTTSH Tày, Thái đƣợc lựa chọn làm đối tƣợng khảo sát. Đặc biệt, chúng tôi thống kê các số liệu cụ thể liên quan đến nội dung, thi pháp của DCTTSH Tày, Thái nhƣ tần suất xuất hiện của các điển tích, biểu tƣợng, thể thơ. Các kết quả thống kê mang tính định lƣợng nhƣ thế sẽ là căn cứ để chúng tôi đƣa ra các suy luận, nhận định khoa học. Đồng thời, việc sử dụng các phƣơng pháp này cũng giúp tăng thêm sức thuyết phục, độ chính xác, tin cậy cho những nhận định khoa học của chúng tôi. 4.2.3. Phương pháp so sánh Ở góc độ là một phƣơng pháp nghiên cứu khoa học, so sánh là phƣơng pháp quen thuộc, đƣợc sử dụng trong nhiều ngành khoa học khác nhau để định tính, định lƣợng hoặc xác định ngôi thứ của các sự vật, hiện tƣợng. Trong nghiên cứu văn hóa dân gian, VHDG, phƣơng pháp so sánh đƣợc dùng để xác định, đánh giá các hiện tƣợng trong mối quan hệ giữa chúng với nhau. Chúng tôi lựa chọn phƣơng pháp so sánh vì mục đích chính của đề tài là làm folklore so sánh. Chỉ có qua so sánh mới chỉ ra đƣợc những tƣơng đồng, khác biệt của hai bộ phận dân ca này ở hai tộc ngƣời Tày, Thái. Dạng thức chính của phƣơng pháp so sánh mà chúng tôi sử dụng là so sánh loại hình lịch sử. Sử dụng phƣơng pháp này, chúng tôi nhằm nhận thức DCTTSH Tày, Thái thông qua việc tìm ra sự tƣơng đồng và khác biệt giữa các yếu tố nhƣ nội dung, thi pháp lời thơ nghệ thuật, đặc điểm diễn xƣớng trong DCTTSH của ngƣời Tày và ngƣời Thái. Chúng tôi tìm ra kết cấu bên trong, sự liên hệ giữa DCTTSH Tày, Thái với các yếu tố lịch sử, xã hội để giải thích nguyên nhân, ý nghĩa của những điểm tƣơng đồng, dị biệt đó. 4.2.4. Phương pháp liên ngành Phƣơng pháp liên ngành là phƣơng pháp nghiên cứu có sự kết hợp giữa nhiều ngành khoa học, trong đó có một ngành đóng vai trò trung tâm, nhƣ tác giả Đinh Gia
  • 15. 9 Khánh đã phân tích trong cuốn sách Văn hóa dân gian – Những phương pháp nghiên cứu [101; tr. 113]. Ở đây, khoa nghiên cứu văn học chú ý đến tính đặc thù của sáng tác dân gian đóng vai trò trung tâm, các ngành khoa học khác nhƣ dân tộc học, lịch sử, văn hóa học… đóng vai trò bổ trợ. Chúng tôi sử dụng các kiến thức về dân tộc học, lịch sử, địa lí… trong một đề tài folklore so sánh để trả lời cho câu hỏi nghiên cứu về nguyên nhân và ý nghĩa những đặc điểm tƣơng đồng, khác biệt trong DCTTSH của ngƣời Tày và ngƣời Thái. Cụ thể, thông qua nghiên cứu tài liệu và nghiên cứu các dữ liệu thu thập đƣợc từ việc quan sát văn hóa, lịch sử, xã hội… của tộc ngƣời Tày, Thái, chúng tôi nhằm phát hiện ra sự chuyển hóa các dữ liệu văn hóa, lịch sử, xã hội… thành các dữ liệu văn học, lấy đó làm cơ sở cho những lí giải về sự giống và khác nhau của DCTTSH Tày, Thái; nhận định về mối liên hệ cũng nhƣ vai trò của của DCTTSH đối với văn hóa tộc ngƣời nói riêng và văn hóa Việt Nam nói chung. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án Luận án là công trình nghiên cứu đầu tiên đặt DCTTSH – một bộ phận quan trọng của VHDG nói riêng, văn hóa nói chung của ngƣời Tày và ngƣời Thái - dƣới góc nhìn so sánh. Trên cơ sở những thành tựu nghiên cứu của các tác giả đi trƣớc, luận án đã kế thừa, bổ sung và phát triển sâu hơn các luận điểm đó, đặt chúng trong một hệ quy chiếu mới là sự so sánh, đối chiếu. Công trình đã chỉ ra và lí giải nguyên nhân, ý nghĩa của những điểm tƣơng đồng và khác biệt trên nhiều phƣơng diện nhƣ: nội dung, thi pháp, đặc điểm diễn xƣớng của DCTTSH Tày, Thái. Luận án hƣớng tới việc từ các đặc điểm của dân ca để góp thêm tiếng nói khẳng định tính chung của văn hóa các dân tộc Việt Nam, là cơ sở để xây dựng nền văn hóa Việt Nam thống nhất; đồng thời, khẳng định tính đặc thù dân tộc về văn hóa của hai dân tộc Tày, Thái, giúp khu biệt hai dân tộc vốn gần gũi với nhau về nhiều mặt. Luận án đƣợc thực hiện trong sự quan sát, liên tƣởng với văn học, văn hóa của ngƣời Kinh nhằm cung cấp một góc độ nhìn nhận toàn diện hơn, rõ ràng và khách quan hơn về tính chung và tính riêng của DCTTSH Tày, Thái. Kết quả nghiên cứu của luận án khẳng định hƣớng nghiên cứu so sánh DCTTSH nói riêng, VHDG nói chung là hƣớng nghiên cứu có tính khả thi, mang lại kết quả là sự nhận thức sâu sắc hơn về mối liên hệ giữa văn học với môi trƣờng tự nhiên, văn hóa, lịch sử… của dân tộc, và quan trọng nhất, là làm rõ bản sắc văn hóa dân tộc trong sự hài hòa với văn hóa cộng đồng mang tính khu vực, cao hơn là quốc gia, nhân loại.
  • 16. 10 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 6.1. Về lí luận Vận dụng kết hợp các dạng thức khác nhau của phƣơng pháp so sánh: so sánh loại hình lịch sử, so sánh từ cách tiếp cận dân tộc học, luận án bƣớc đầu làm rõ và đánh giá các điểm tƣơng đồng, khác biệt về mặt nội dung, thi pháp và đặc điểm diễn xƣớng của DCTTSH Tày, Thái trong mối liên hệ với các đặc điểm tự nhiên, văn hóa, xã hội, lịch sử tộc ngƣời. Việc so sánh dân ca để làm rõ bản sắc văn hóa của ngƣời Tày, Thái giúp hai dân tộc tự khẳng định chính mình. Đồng thời, các kết quả nghiên cứu của luận án có thể đóng góp thêm tƣ liệu và cách nhìn nhận trong việc tìm hiểu cái chung – cái riêng, hay chính là cái phổ biến và cái đặc thù của dân ca các dân tộc, quan hệ giữa văn hóa dân tộc, vùng miền với văn hóa quốc gia thống nhất. 6.2. Về thực tiễn Kết quả nghiên cứu của luận án có ý nghĩa thực tiễn. Với mục đích hƣớng tới việc tìm hiểu sâu sắc về những đặc điểm giống và khác nhau của DCTTSH Tày, Thái, vai trò của những đặc điểm đó trong việc thể hiện bản sắc văn hóa tộc ngƣời, hi vọng các kết quả của luận án có thể là cơ sở cho việc thực thi bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa đặc sắc của hai DTTS hiện đang giữ vai trò chủ thể văn hóa vùng ở khu vực miền núi phía Bắc và xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc theo đƣờng lối, chính sách chung của Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam. Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu của luận án còn có giá trị đối với việc nghiên cứu, giảng dạy DCTTSH của ngƣời Tày và ngƣời Thái nói riêng, VHDG nói chung. 7. Cấu trúc của luận án Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, phần Nội dung của luận án đƣợc triển khai với bốn chƣơng. Cụ thể nhƣ sau: Chƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí luận của luận án Chƣơng 2: Khái quát về người Tày, Thái ở Việt Nam và dân ca trữ tình sinh hoạt của họ Chƣơng 3: Những điểm tương đồng của dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và người Thái Chƣơng 4: Những điểm khác biệt của dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và người Thái
  • 17. 11 CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA LUẬN ÁN 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.1.1. Tình hình sưu tầm, nghiên cứu dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày 1.1.1.1. Tình hình sưu tầm dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày Trong kho tàng dân ca các DTTS, dân ca dân tộc Tày đƣợc sƣu tầm nhiều và sớm hơn cả. Trong đó, dân ca nghi lễ nhận đƣợc sự quan tâm của các nhà sƣu tầm sớm hơn so với DCTTSH. Nếu nhƣ dân ca nghi lễ, mà cụ thể là dân ca đám cƣới Tày đƣợc Nguyễn Văn Huyên sƣu tầm, công bố cả bản chữ Nôm Tày, bản phiên âm và bản dịch bằng tiếng Pháp, đƣợc nhà in Viễn Đông Bác Cổ xuất bản từ năm 1941 với công trình Những khúc ca đám cưới Tày ở Lạng Sơn và Cao Bằng (bản dịch tiếng Việt trong cuốn Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam [55; tr. 497 – 482]), thì phải đến năm 1970, DCTTSH của ngƣời Tày mới đƣợc công bố lần đầu tiên qua cuốn Rọi – Vốn cổ văn học dân tộc Tày Nùng [99] do nhóm các tác giả Trƣơng Lạc Dƣơng, Nông Đình Tuấn, Trần Vĩnh, Võ Quang Nhơn sƣu tầm và dịch. Rọi (phuối rọi, phuối pác, lượn tói) là một hình thức hát đối đáp theo kiểu ứng khẩu tự nhiên, không cầu kì. Trong công trình, nhóm tác giả đã giới thiệu 231 bài, chủ yếu là về dân ca tình yêu. Điều đáng quý là ngay từ công trình đầu tiên công bố tƣ liệu DCTTSH Tày, các tác giả đã có ý thức công bố dƣới hình thức song ngữ Tày – Việt. Năm 1987, các tác giả Cung Văn Lƣợc, Lê Bích Ngân công bố tƣ liệu dân ca về lượn cọi thông qua cuốn Lượn cọi Tày Nùng [76]. Hai tác giả đã căn cứ vào 10 bản chữ Nôm Tày ghi chép về lượn cọi sƣu tầm đƣợc ở các tỉnh Thái Nguyên, Tuyên Quang, Bắc Kạn, Cao Bằng để lọc lựa ra một số bài hay và giới thiệu tới độc giả. Đáng tiếc, các tác giả chỉ giới thiệu bản dịch thơ ra tiếng Việt. Những năm 90 của thế kỉ XX, giới trí thức dân tộc Tày đã rất nỗ lực trong việc giới thiệu di sản DCTTSH của dân tộc. Sự ra đời của các cuốn sách Phong slư năm 1991 [115], Lượn slương năm 1992 [7], Lượn cọi năm 1994 [117] của tác giả Lục Văn Pảo (còn gọi là Phƣơng Bằng) là kết quả của sự nỗ lực ấy. Trong đó, đáng chú ý là lượn slương và lượn cọi có số lƣợng đƣợc công bố hết sức dồi dào (lượn slương đƣợc công bố 2924 câu, lượn cọi đƣợc công bố 7465 câu). Trừ cuốn Phong slư cung cấp tƣ liệu về các bức thƣ tình của nam nữ thanh niên Tày thời xƣa dƣới hình thức là những tác phẩm độc lập riêng rẽ, không liên quan gì đến nhau, các cuốn sách Lượn
  • 18. 12 slương, Lượn cọi sắp xếp các bài dân ca theo trình tự của diễn xƣớng trong thực tế, khiến qua đó ngƣời đọc hình dung đƣợc đáng kể về cuộc hát. Cả ba nhóm bài hát của DCTTSH Tày đều đƣợc giới thiệu dƣới hình thức song ngữ, tức bao gồm phần phiên âm tiếng Tày và phần dịch nghĩa sang tiếng Việt. Một tác giả đƣợc gọi là “ông tiên núi” vì những đóng góp trong việc sƣu tầm, nghiên cứu dân ca H’Mông là Doãn Thanh cũng để tâm sƣu tầm DCTTSH của ngƣời Tày. Trong công trình Lượn cằm Tày Hoàng Liên Sơn [138], Doãn Thanh đã công bố các bài DCTTSH mà ông sƣu tầm đƣợc và có phân ra các bài lượn có lề lối và lượn tự do, theo hình thức song ngữ. Sang đầu thế kỉ XXI, tình hình công bố tƣ liệu DCTTSH ngày càng sôi động. Có thể kể đến các công trình: Sli lượn hát đôi của người Tày Nùng ở Cao Bằng của Hoàng Thị Quỳnh Nha năm 2003 [92], Chồm bjoóc mạ của Hoàng Thị Cấp năm 2005 [14], Lượn then ở miền đông Cao Bằng của Triệu Thị Mai năm 2010 [78], Thơ ca dân gian Tày Nùng xứ Lạng của Nguyễn Duy Bắc năm 2012 [5], Iếu – dân ca dân tộc Tày của nhóm tác giả Hoàng Văn Chữ, Nông Phúc Tƣớc, Hoàng Nừng năm 2012 [22], Lượn Tày: Lượn Tày Lạng Sơn, lượn slương do Hoàng Văn Páo chủ biên năm 2012 [108], Thành ngữ - Tục ngữ - Ca dao dân tộc Tày của các tác giả Hoàng Triều Ân, Hoàng Quyết năm 2014 [127], Tục ngữ ca dao Tày vùng hồ Ba Bể do Nguyễn Thị Yên chủ biên năm 2014 [192], Lượn rọi – hát đối đáp của của người Tày của các tác giả Dƣơng Văn Sách, Dƣơng Thị Đào năm 2016 [128], Tàng pây kết chụ (Đường đi kết bạn tình) của Hoàng Tƣơng Lai năm 2016 [70]. Ở những công trình này, bên cạnh việc giới thiệu một vài làn điệu mới của DCTTSH Tày nhƣ lượn then, iếu, các nhà sƣu tầm tiếp tục công bố tƣ liệu DCTTSH thuộc các làn điệu nhƣ lượn cọi, lượn rọi, lượn slương… đã từng đƣợc giới thiệu từ cuối thế kỉ XX, cho thấy trữ lƣợng phong phú của các nhóm bài hát này. Trong một chuyến điền dã tại thôn Thiên Tuế, xã Thƣợng Bằng La, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái năm 2014, chúng tôi đã đƣợc nghệ nhân Hà Đình Tỵ cung cấp tƣ liệu DCTTSH Tày bao gồm 64 bài cắm nôm dƣới hình thức song ngữ Tày – Việt. Qua điểm lại tình hình sƣu tầm nhƣ trên, có thể thấy kho tàng DCTTSH phong phú, dồi dào và đã đƣợc sƣu tầm, công bố với số lƣợng khá lớn.
  • 19. 13 1.1.1.2. Tình hình nghiên cứu dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày Trong tƣơng quan so sánh với lịch sử nghiên cứu dân ca của các DTTS khác, DCTTSH Tày đƣợc nghiên cứu từ khá sớm. Qua tìm hiểu, chúng tôi thấy có thể phân loại tài liệu nghiên cứu về DCTTSH Tày thành hai dạng. Dạng thứ nhất là các công trình công bố tƣ liệu DCTTSH Tày, trong đó nội dung nghiên cứu thƣờng nằm ở các bài giới thiệu ở đầu sách. Dạng công trình thứ hai là các công trình nghiên cứu về một thể loại của DCTTSH Tày ở một địa phƣơng cụ thể, hoặc về một khía cạnh của dân ca Tày. Ở các công trình thuộc hai dạng tài liệu này, các vấn đề của DCTTSH Tày ít nhiều đƣợc nghiên cứu ở các phƣơng diện khác nhau. Chúng tôi lƣợc thuật kết quả nghiên cứu ở hai dạng công trình đó nhƣ sau: Thứ nhất, nhóm các chỉ dẫn sơ bộ, khái quát trong các bài giới thiệu ở các sách công bố tư liệu DCTTSH Tày: Trong các bộ sƣu tập tài liệu dân ca, trƣớc khi công bố với độc giả kết quả sƣu tầm, biên dịch của mình về DCTTSH, các soạn giả thƣờng có một bài giới thiệu mang tính chỉ dẫn về đặc điểm của các bài hát đƣợc công bố. Nội dung chính của hệ thống bài giới thiệu này là cái nhìn tổng thể về các bài hát đó nhƣ tên gọi, sự phân loại và sơ bộ đặc điểm nội dung, nghệ thuật lời ca, phƣơng thức diễn xƣớng của từng nhóm bài hát. Về tên gọi, các nhà nghiên cứu trong các bài giới thiệu đầu bộ sách sƣu tập dân ca có xu hƣớng coi lượn là dân ca giao duyên – một hình thức của DCTTSH Tày. Đây là cách hiểu lượn theo nghĩa hẹp. Đại diện cho quan điểm này là Cung văn Lƣợc, Lê Bích Ngân với công trình Lượn cọi Tày – Nùng xuất bản năm 1987 [76], Phƣơng Bằng (hay chính là Lục Văn Pảo) và Lã Văn Lô với công trình Lượn slương xuất bản năm 1992 [7], Lục Văn Pảo với công trình Lượn cọi xuất bản năm 1994 [117], Triệu Thị Mai với công trình Lượn then ở miền đông Cao Bằng xuất bản năm 2010 [78], Hoàng Văn Páo và nhóm tác giả với công trình Lượn Tày: Lượn Tày Lạng Sơn, lượn slương xuất bản năm 2012 [108], Nguyễn Duy Bắc với công trình Thơ ca dân gian Tày – Nùng xứ Lạng xuất bản năm 2012 [5], Hoàng Quyết, Hoàng Triều Ân với công trình Thành ngữ - Tục ngữ - Ca dao dân tộc Tày xuất bản năm 2014 [127], Dƣơng Văn Sách, Dƣơng Thị Đào với công trình Lượn rọi – Hát đối đáp của của người Tày xuất bản năm 2016 [128]. Ở sách Lượn cọi Tày – Nùng [76], các tác giả Cung Văn Lƣợc, Lê Bích Ngân nhấn mạnh ngƣời Tày - Nùng gọi các lời ca tiếng hát trữ tình là sli – lượn, nhƣng chỉ
  • 20. 14 những bài dùng để hát đối đáp nam nữ và theo làn điệu nhất định mới đƣợc gọi là lượn, tức không bao gồm hát đám cƣới và hát then nghi lễ. Các tác giả tập trung giới thiệu về lượn cọi. Lượn cọi có nhiều cung, mỗi cung lại gồm nhiều bài. Tuy nhiên, những nhận định, phân tích về mảng dân ca này chƣa đƣợc các tác giả đi sâu. Về phân loại, các tác giả Hoàng Ngọc La, Hoàng Hoa Toàn, Vũ Anh Tuấn trong công trình Văn hóa dân gian Tày đã có sự phân chia các thể tài thơ ca sinh hoạt của ngƣời Tày khá rõ ràng và hợp lí thành ba nhóm: Những bài hát giao duyên nhƣ lượn, phong slư; những bài hát vui chơi của trẻ em nhƣ đồng dao và hát ru em; các thể loại trung gian bao gồm “một bộ phận cấu tố phức tạp (chữ dùng của Lục Văn Pảo) đƣợc diễn xƣớng theo lối hát” [69; tr. 213]. Ở nhóm này, các tác giả đã đƣa ra những nét phác thảo chung nhất về nội dung và đặc điểm diễn xƣớng. Tuy thế, có một điều bất hợp lí nhỏ là các tác giả đã xếp cả tục ngữ, câu đố vào nhóm loại hình trung gian. Tục ngữ Tày có phƣơng thức diễn xƣớng là nói, không hề có sự gắn kết với yếu tố âm nhạc. Trong khi đó, một bộ phận câu đố Tày lại có cấu tạo dài thành bài, đƣợc hát thành các bài hát đối đáp trong một cuộc hát hai vế nhƣ trong diễn xƣớng iếu. Vì thế, sẽ là ổn thỏa hơn và phù hợp với thực tế kho tàng DCTTSH Tày hơn nếu nhƣ các tác giả chỉ xếp phuối pác, phuối rọi và các câu đố dài vào nhóm các thể tài trung gian. Năm 2012, trong công trình Thơ ca dân gian Tày - Nùng xứ Lạng [5], PGS. TS Nguyễn Duy Bắc đã giới thiệu về thơ ca dân gian của ngƣời Tày, Nùng ở Lạng Sơn theo hƣớng phân định rõ ràng Tày – Nùng, trong đó có phân loại DCTTSH của ngƣời Tày. Theo đó, ngƣời Tày có lượn và phong slư. Lượn có lượn slương và lượn cọi. Ở mỗi loại lượn này lại có những thành phần nhỏ hơn. Khi trình bày về lượn và phong slư, tác giả đã chỉ rõ đặc điểm nội dung phản ánh hình thức. Bên cạnh đó, tác giả còn giới thiệu dân ca nghi lễ Tày là quan lang, pả mẻ và then. Về đặc điểm của từng nhóm bài hát: Các tác giả đã nêu ra những nét chung nhất về nội dung phản ánh, nghệ thuật lời ca… trong các bài giới thiệu về nhóm bài hát đƣợc công bố ở phần sau đó. Sớm nhất, có thể kể đến cuốn Rọi – Vốn cổ văn học dân tộc Tày - Nùng của nhóm tác giả Trƣơng Lạc Dƣơng, Nông Đình Tuấn, Võ Quang Nhơn. Ở đây, các tác giả giới thiệu địa bàn lƣu truyền, nội dung, nghệ thuật và sự diễn xƣớng của các bài rọi đƣợc công bố trong sách này. Theo đó, rọi rất phổ biến ở khu ta và ngoài khu (khu với ý nghĩa chỉ khu tự trị Việt Bắc cũ). Nội dung của rọi chủ yếu là phản ánh tình yêu nam nữ. Về diễn xƣớng, rọi thuộc kiểu hát đối đáp ứng khẩu song
  • 21. 15 có điểm nổi bật là “nói nhƣ hát, hát nhƣ nói một cách tự nhiên, không cầu kì, gò bó thanh điệu, cấu trúc” [99; tr. 7]. Về nghệ thuật, rọi có những điểm nổi bật nhƣ lối tƣ duy hình tƣợng, dùng cảnh để tả tình, dùng phụ nổi chính, dùng cách so sánh, tƣơng phản, cƣờng điệu, dùng cách dẫn dắt cung bậc, cấu trúc đoạn ngắn dài tùy nội dung… Tuy thế, các đặc điểm của rọi chỉ đƣợc các tác giả phác họa sơ bộ, chƣa đi sâu phân tích. Đồng thời, do chỉ giới hạn địa bàn sƣu tầm ở khu tự trị Việt Bắc, trong khi rọi còn lƣu truyền ở nhiều địa bàn khác nữa nên các tác giả chƣa bao quát hết đƣợc các đặc điểm của rọi nói chung của ngƣời Tày. Rọi còn đƣợc giới thiệu trở lại trong cuốn Lượn rọi – Hát đối đáp của người Tày của các tác giả Dƣơng Văn Sách, Dƣơng Thị Đào năm 2016. Với công trình này, các tác giả đề cập đến đặc điểm của lượn rọi ở Cao Bằng. Lượn rọi, cùng với phuối rọi, phuối pác (với nghĩa nói rọi) đều thuộc rọi nói chung. Trong đó, “lượn rọi là câu rọi khi trao đổi có giai điệu” [128; tr. 13]. Về cơ bản, các đặc điểm của lượn rọi đƣợc chỉ ra ở đây là giống với các đặc điểm mà tác giả công trình Rọi – Vốn cổ văn học dân tộc Tày Nùng đã chỉ ra, bổ sung thêm đặc điểm về giai điệu và lề lối diễn xƣớng. Đây là điều đáng quý, giúp ngƣời đọc hình dung dễ hơn về hình thức hát đối đáp của mảng dân ca này trong khi ngày nay khó đƣợc chứng kiến trong thực tế. Lượn cọi đƣợc tác giả Lục Văn Pảo giới thiệu trong công trình Lượn cọi năm 1994. Tác giả Lục Văn Pảo đã căn cứ vào các bản cọi Nôm truyền thống của các vùng Tày Việt Bắc để giới thiệu. Tác giả khẳng định: “…lượn cọi làm nổi lên thế giới quan và nhân sinh quan của cả một tộc ngƣời… Về nghệ thuật, thì lượn là một thể loại văn hóa tổng hợp liên quan đến nhiều lĩnh vực mà trƣớc hết là ngôn ngữ, thứ đến là văn tự và thứ nữa là hình thức ngâm vịnh gồm nhiều làn điệu bằng lời” [117; tr. 13]. Từ đó, tác giả đánh giá cao lượn cọi trong đời sống văn hóa của ngƣời Tày. Năm 2010, với công trình Lượn then ở miền đông Cao Bằng, tác giả Triệu Thị Mai đã giới thiệu đến đông đảo công chúng lượn then – một hình thức hát giao duyên của ngƣời Tày ở các huyện Trà Lĩnh, Quảng Hòa, Trùng Khánh, Hạ Lang thuộc miền đông Cao Bằng. Theo tác giả, “lượn then nghĩa là hát những bài hát theo ý của trời, cao siêu và đẹp đẽ, linh thiêng” [78; tr. 15]. Cách thức hát và nội dung các cuộc hát có đƣợc tác giả nhắc đến một cách ngắn gọn nhằm minh họa cho phần tƣ liệu dân ca đƣợc tác giả sƣu tầm, biên soạn ở phía sau. Điểm đặc biệt ở đây là tác giả đã nhìn ra sự ảnh hƣởng của văn hóa Kinh đối với sinh hoạt văn hóa dân tộc Tày khi nhận thấy lượn
  • 22. 16 then có sự pha lẫn nhiều từ tiếng Việt và có những lời ca đƣợc sáng tác bằng tiếng Việt hoặc tiếng Tày theo thể thơ lục bát của ngƣời Kinh. Đây là gợi ý quan trọng đối với chúng tôi trong việc lí giải các đặc điểm của DCTTSH Tày. Năm 2012 đánh dấu sự xuất hiện của các công trình công bố tƣ liệu dân ca thuộc các mảng lượn slương, lượn cọi, lượn nàng ới, iếu. Trong đó, các tác giả luôn dành vài trang để giới thiệu đôi nét về những nhóm bài hát đƣợc công bố. Công trình Lượn Tày: Lượn Tày Lạng Sơn, lượn slương [108] đƣợc tạo thành bởi sự hợp sức của nhiều tác giả. Về lượn ở Lạng Sơn, các tác giả đã có giới thiệu khá chi tiết về quy trình và nội dung lượn, các giá trị văn hóa và vấn đề bảo tồn, phát huy hát lƣợn Tày ở Lạng Sơn. Về lượn slương, tác giả Phƣơng Bằng đã khái quát vài nét về lượn slương ở các khía cạnh: hình thức, sự phân bố, đặc trƣng hát xƣớng, đối tƣợng tham gia, trình tự cuộc hát, nội dung. Với tính chất một công trình công bố các văn bản dân ca Tày là chủ yếu, phần giới thuyết về lượn Tày Lạng Sơn, lượn slương của các tác giả mang tính chất tả hơn là khảo song lại cung cấp những chỉ dẫn quý báu với chúng tôi khi tìm hiểu về DCTTSH Tày. Nhà nghiên cứu Phƣơng Bằng trong cuốn Phong Slư đã giới thiệu 40 bài phong slư – những bức thƣ tình yêu của trai gái Tày. Tác giả nhận thấy điểm đặc biệt của thƣ tình yêu Tày là “đƣợc nâng lên thành một thể loại, có kết cấu và có quy cách biểu đạt riêng,… có cách ngâm vịnh riêng biệt” [6; tr. 11] và có đặc điểm nội dung nổi bật là yếu tố bi và yếu tố hƣ mang theo tính tao nhã, thanh cao. Mở đầu cuốn Iếu – dân ca dân tộc Tày [22], các tác giả đã giới thiệu về một hình thức hát đối đáp giao duyên của ngƣời Tày là iếu. Làn điệu này chƣa đƣợc quan tâm sƣu tầm và đang có nguy cơ mất mát vĩnh viễn. Iếu lƣu truyền chủ yếu ở phía tây tỉnh Hà Giang và phía đông tỉnh Yên Bái. Đặc biệt, các tác giả nhận thấy iếu có một số điểm gần gũi với khắp của ngƣời Thái ở Tây Bắc và có những đặc điểm riêng so với các nhóm bài hát khác của ngƣời Tày nhƣ về nội dung, trình tự cuộc hát, cách thức tổ chức, luật tục liên quan đến iếu. Những phát hiện này là rất quan trọng với chúng tôi trong việc tìm hiểu những điểm tƣơng đồng trong DCTTSH Tày, Thái. Về đặc điểm chung cho toàn bộ DCTTSH Tày hoặc vốn DCTTTSH Tày ở một địa phương: Công trình Văn hóa dân gian Cao Bằng xuất bản năm 1993 [102] có nhiều bài viết về DCTTSH của ngƣời Tày ở Cao Bằng. Tác giả Vƣơng Hùng có bài viết Sli lượn Tày Nùng ở Cao Bằng đã chỉ ra đặc điểm phân bố, giai điệu, cấu trúc,
  • 23. 17 môi trƣờng diễn xƣớng và tình hình diễn xƣớng sli lượn Tày Nùng trong cuộc sống hiện tại ở Cao Bằng. Trong bài viết Vài nét về ca nhạc dân gian Tày Cao Bằng, nhạc sĩ Vĩnh Long quan tâm nhiều đến những nét chung về sinh hoạt âm nhạc qua khảo sát các mảng dân ca Tày nhƣ lượn, phong slư, thơ lẩu, ứ noọng, hát then, phường ca… Từ đó, nhạc sĩ đi đến khẳng định về sự phong phú và độc đáo, mang màu sắc địa phƣơng của dân ca Tày xét về mặt âm nhạc. Với công trình Sli lượn hát đôi của người Tày Nùng ở Cao Bằng [92], tác giả Hoàng Thị Quỳnh Nha có nhắc tới bốn điệu dân ca của ngƣời Tày, Nùng: lượn Ngạn, lượn phủ, sli giang, hêu phượn. Trong đó, chúng tôi chú ý tới lượn Ngạn là dân ca của một nhóm Tày địa phƣơng. Lượn Ngạn đƣợc tác giả giới thiệu vắn tắt ở các khía cạnh: thể thơ, nội dung phản ánh và đặc điểm âm nhạc. Trong cuốn Văn hóa dân gian Tày - Nùng ở Việt Nam, tác giả Hà Đình Thành có dành ra một phần nhỏ để giới thiệu khái quát về nội dung và nghệ thuật của ca dao Tày Nùng. Ca dao bao gồm các nội dung về thiên nhiên hùng vĩ, về tình yêu nam nữ, với các cách biểu hiện thú vị nhƣ cấu tứ theo lối phú, tỉ, hứng, nghệ thuật sử dụng các biện pháp tu từ. Bên cạnh đó, tác giả điểm qua những hạn chế của ca dao Tày Nùng nhƣ “mang tƣ tƣởng của giai cấp thống trị, hoặc mang tƣ tƣởng mê tín dị đoan về số phận” [140; tr. 154]. Với tính chất là một phần giới thiệu để minh họa cho văn hóa dân gian Tày Nùng ở Việt Nam, những luận điểm tác giả đƣa ra còn khá mờ nhạt, chƣa khảo tả hết đƣợc sự phong phú, giàu có của ca dao Tày Nùng. Trong cuốn Thành ngữ - tục ngữ - ca dao dân tộc Tày [127], tác giả Hoàng Triều Ân đã giới thuyết về phuối rọi và lượn. Nhắc đến lượn có thể kể lượn nàng ới ở Cao Bằng, lượn cọi ở Bắc Kạn, Tuyên Quang, lượn slương ở Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn với các cách gieo vần khác nhau. Hoàng Triều Ân đặc biệt đi sâu vào tìm hiểu nội dung phản ánh của ca dao Tày nhƣ: tâm tƣ, nguyện vọng, tình cảm một thời của dân tộc; hiện thực xã hội bất công và ý thức dân chủ của ngƣời Tày; phản ánh nỗi niềm trăn trở với đời; tình yêu con ngƣời. Nhƣ thế, sự nghiên cứu ở các công trình trên mới chỉ dừng lại ở việc giới thiệu khái quát về DCTTSH Tày theo mục đích sƣu tầm, biên soạn và phổ biến văn hóa, văn nghệ dân gian. DCTTSH Tày đƣợc giới thiệu ở các phƣơng diện: tên gọi, sự phong phú của các nhóm bài hát và đi vào giới thiệu khái quát về các đặc điểm của một nhóm bài hát nào đấy, hoặc ở một địa phƣơng cụ thể, hoặc chung cho cả kho tàng DCTTSH
  • 24. 18 Tày. Bởi thế, những sự nghiên cứu ở các công trình này chỉ gói gọn trong vài trang mở đầu, dẫn luận, còn phần sau là kết quả sƣu tầm, biên dịch dân ca nhằm chứng minh cho những nhận định chung nhất của phần dẫn luận. Sự nghiên cứu chuyên sâu dù là về một bộ phận của DCTTSH Tày là chƣa có ở những công trình này. Thứ hai là nhóm các nghiên cứu sâu hơn về một vấn đề hoặc một bộ phận cụ thể của DCTTSH Tày trong các chuyên khảo, luận văn. Trong đó, công trình đầu tiên phải kể đến là Sli, lượn dân ca trữ tình Tày Nùng của Vi Hồng xuất bản năm 1979 [52]. Ở đây, tác giả coi lượn là toàn bộ các hình thức dân ca của ngƣời Tày, phân biệt lượn với sli của ngƣời Nùng. Đây là cách hiểu theo nghĩa rộng, với cách dịch lượn nghĩa là hát. Theo đó, dân ca Tày sẽ có lượn cọi, lượn slương, lượn then, lượn nàng ới, lượn phong slư, lượn quan lang… Tuy nhiên, ông chỉ tập trung nghiên cứu lượn giao duyên với nhiều khía cạnh nhƣ: đề tài, nội dung phản ánh, ý nghĩa của lượn, mối quan hệ giữa lượn với thơ Tày hiện đại. Hoàn cảnh diễn xƣớng của lượn ngày hội, lượn trong nhà có đƣợc tác giả nhắc đến song chƣa đƣợc phân tích kĩ càng. Vi Hồng cũng giới thiệu qua về lượn quan lang nhƣng để ở mục phụ lục tƣ liệu. Sự khảo sát nhƣ vậy chƣa củng cố đƣợc sự vững chắc cho quan điểm coi lượn là toàn bộ dân ca Tày của Vi Hồng. Tuy thế, đây vẫn là công trình nghiên cứu công phu, dày dặn nhất về DCTTSH của ngƣời Tày. Những nhận định của nhà nghiên cứu Vi Hồng đem tới cho chúng tôi những gợi ý hữu ích cho việc thâm nhập vào thế giới nghệ thuật của DCTTSH Tày. Cũng là chuyên khảo nghiên cứu về dân ca, nhƣng tác giả Nông Thị Nhình của chuyên luận Âm nhạc dân gian các dân tộc Tày – Nùng – Dao Lạng Sơn [97] lại hƣớng sự quan tâm tới khía cạnh âm nhạc. Bên cạnh âm nhạc của các dân tộc Nùng, Dao, tác giả Nông Thị Nhình đã nghiên cứu về dân ca Tày ở Lạng Sơn trên những phƣơng diện nhƣ: các hình thức sinh hoạt âm nhạc dân gian, các làn điệu, giai điệu, quan hệ giữa giai điệu và thơ ca, các nhạc cụ dân gian và dàn nhạc. Bên cạnh các công trình chuyên khảo nhƣ trên là sự xuất hiện của hàng loạt các luận văn. Chẳng hạn, trong luận văn Yếu tố tự sự trong dân ca Tày [164], tác giả Vũ Ánh Tuyết đã chỉ ra các dạng thức biểu hiện của yếu tố tự sự là những bài ca có cốt truyện và những bài ca không có cốt truyện. Từ đó, tác giả nêu lên vai trò phản ánh hiện thực và kể sự tả tình của yếu tố tự sự trong DCTTSH Tày. Với luận văn Khảo sát ý nghĩa hình ảnh trong ca dao – dân ca Tày Nùng [84], Đỗ Vân Nga đã phân tích các hình ảnh nổi bật của ca dao – dân ca Tày Nùng nhƣ các hình ảnh thiên nhiên, vũ
  • 25. 19 trụ, các hình ảnh về vật dụng sinh hoạt, các hình ảnh liên quan đến con ngƣời. Tác giả cũng phần nào làm rõ đƣợc mối liên quan giữa các hình ảnh đó của ca dao – dân ca với đời sống sinh hoạt, phong tục, tín ngƣỡng của cƣ dân Tày – Nùng. Năm 2016, với việc công bố kết quả nghiên cứu của luận văn Nhân vật trữ tình trong cắm nôm – dân ca dân gian Tày huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái [85], Nguyễn Thị Bích Ngọc đã phân tích các hệ thống nhân vật nữ, nhân vật nam, nhân vật biểu tƣợng, đồng thời làm rõ nghệ thuật xây dựng nhân vật trữ tình trong cắm nôm. Tìm hiểu về một thể loại DCTTSH Tày ở một địa phƣơng cụ thể, năm 2009, Hoàng Minh Nguyệt giới thiệu và nghiên cứu về một làn điệu độc đáo của DCTTSH Tày là iếu – một hình thức mang tính địa phƣơng của lượn cọi – thông qua luận văn Hát iếu của người Tày ở Bắc Quang, Hà Giang – Những đặc điểm nội dung và nghệ thuật [91]; năm 2011, Lê Thị Phƣơng Thảo thực hiện luận văn với đề tài Hát lượn slương của người Tày (Qua khảo sát ở xã Yên Cư, huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn) [141]. Đóng góp của hai công trình là ở chỗ chỉ ra đƣợc những đặc điểm nội dung, thi pháp của hai mảng dân ca này, nhƣng lại hạn chế ở chỗ chƣa chỉ ra đƣợc cái hay và tính đặc thù dân tộc của âm nhạc và diễn xƣớng. Nhƣ vậy, dù đã nghiên cứu sâu hơn nhƣng do tính chất cụ thể, nhỏ lẻ của đối tƣợng nghiên cứu, các luận văn kể trên vẫn chƣa thể nhận thức đƣợc DCTTSH Tày trong tính chỉnh thể, tính hệ thống của nó, do đó, chƣa làm rõ đƣợc đầy đủ các đặc điểm của mảng dân ca này. Tuy thế, đây lại là những chỉ dẫn quý báu đối với chúng tôi trong quá trình thực hiện luận án này. Qua điểm lại tình hình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy chƣa có một công trình nào đi sâu tìm hiểu DCTTSH Tày một cách có hệ thống. Do tính chất là những công trình công bố tƣ liệu dân ca nên hầu hết sự nghiên cứu ở các bài giới thiệu mới dừng lại ở mức độ chỉ dẫn sơ bộ, chung chung trong một vài trang. Các luận văn tuy nghiên cứu công phu hơn song cũng mới dừng sự quan tâm ở một vài mảng DCTTSH Tày nhƣ lượn slương, iếu, cắm nôm với địa bàn nghiên cứu cụ thể là một địa phƣơng nào đấy, hoặc nghiên cứu về một khía cạnh cụ thể của DCTTSH Tày nhƣ hình ảnh, yếu tố tự sự… Công trình khảo tả dân ca để nghiên cứu âm nhạc tuy nghiên cứu về âm nhạc dân gian Tày khá chuyên sâu song vẫn chỉ là một công trình phục vụ cho một chuyên ngành khác, nên các yếu tố nhƣ nội dung, thi pháp, đặc điểm diễn xƣớng bị bỏ qua.
  • 26. 20 Công trình nghiên cứu chuyên sâu nhất là của tác giả Vi Hồng lại chủ yếu tập trung vào lượn giao duyên và chƣa làm rõ đƣợc sự đặc sắc về phƣơng diện diễn xƣớng. 1.1.2. Tình hình sưu tầm, nghiên cứu dân ca trữ tình sinh hoạt của người Thái 1.1.2.1. Tình hình sưu tầm dân ca trữ tình sinh hoạt của người Thái Trong lịch sử sƣu tầm, công bố tƣ liệu dân ca các DTTS, dân ca của ngƣời Thái đƣợc sƣu tầm sớm thứ tƣ, sau dân ca của các dân tộc Tày, H’Mông và Mƣờng. Ngƣời Thái cƣ trú chủ yếu ở vùng Tây Bắc và vùng núi Thanh Hóa, Nghệ An. Trong phạm vi nghiên cứu của luận án, chúng tôi chỉ quan tâm đến lịch sử sƣu tầm DCTTSH của ngƣời Thái ở Tây Bắc và phân các công trình này sƣu tầm này ra làm hai nhóm. Thứ nhất là nhóm các công trình công bố tư liệu DCTTSH Thái dưới hình thức tiếng Việt. Công trình đầu tiên phải kể đến là cuốn Ẳm ệt luông, trường ca dân ca tục ngữ dân tộc Thái huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình của Khà Văn Tiến năm 1972 [135]. Trong cuốn sách này, tác giả đã giới thiệu đến bạn đọc nhiều bài hát giao duyên, hát chơi và hát phong tục ở hình thức đã dịch ra tiếng Việt. Năm 1979, cuốn Dân ca Thái (Hai trăm lẻ sáu bài dân ca Thái về tình yêu) [119] của Mạc Phi đƣợc xuất bản. Tác giả giới thiệu các bài dân ca theo trình tự của một cuộc hát đối đáp. Theo đó, cuốn sách có các phần là: gặp gỡ, ƣớm hỏi, yêu, thƣơng dặn. 206 bài dân ca đƣợc giới thiệu dƣới hình thức tiếng Việt, không có phần phiên âm tiếng Thái. Năm 1991, cuốn Dân ca Thái Mai Châu [150] do Nguyễn Hữu Thức chủ biên đƣợc xuất bản đã giới thiệu các bộ phận của dân ca Thái ở Mai châu, bao gồm mo (các bài hát dùng trong cúng bái), khắp (các bài hát giao duyên), pháng (các bài hát ngẫu hứng), sằng (các bài hát dặn), xềnh (các bài hát ngợi ca), sườn (các bài hát kể). Tƣơng tự nhƣ ở các công trình sƣu tầm dân ca Thái xuất bản trƣớc, các bài dân ca Thái đƣợc giới thiệu ở đây chỉ có bản đƣợc dịch ra tiếng Việt, không có bản phiên âm tiếng Thái. Thứ hai là nhóm các công trình công bố tư liệu DCTTSH Thái dưới hình thức song ngữ Thái – Việt. Công trình đầu tiên công bố tƣ liệu DCTTSH Thái dƣới dạng song ngữ Thái – Việt là Dân ca Thái vùng Tây Bắc – Việt Nam [50] của Nguyễn Văn Hòa, xuất bản năm 2001, muộn hơn khá nhiều so với công trình công bố tƣ liệu DCTTSH Tày dƣới dạng song ngữ Tày – Việt (năm 1970). Trong công trình này, tác giả Nguyễn Văn Hòa đã giới thiệu 52 bài hát trong các trƣờng hợp diễn xƣớng khác nhau nhƣ: Khắp mú lẳu pan khẳu (Hát ở mâm cơm, mâm rƣợu), khắp báo xao (hát thƣơng yêu), khắp xư (hát thơ), khắp khơ nay chơi (hát rong chơi), khắp tặc tuộng (hát
  • 27. 21 chào hỏi), khắp xe (hát múa xòe), khắp xáng buôn (hát giải sầu), khắp cóm lụk (hát ru con), khắp khí chọn cha (hát đánh đu), khắp hạn khuống (hát ở sàn chơi). Năm 2012, cuốn sách Khắp sứ lam của người Thái đen xã Noong Luống, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên [49] của Tòng Văn Hân đƣợc xuất bản. Tuy đây là cuốn sách có tính chất giới thiệu các bài khắp sứ lam – mảng dân ca đƣợc dùng để hát trong đám cƣới của ngƣời Thái ở Điện Biên, song tác giả cũng giới thiệu bốn bài hát đối đáp giao duyên giữa nam và nữ dƣới hình thức song ngữ. Hai tác giả Đỗ Thị Tấc, Hà Mạnh Phong là những ngƣời dày công sƣu tầm và đã giới thiệu tới bạn đọc một số lƣợng lớn các tác phẩm DCTTSH Thái. Năm 2012, Đỗ Thị Tấc công bố tƣ liệu DCTTSH Thái bao gồm 47 bài trong cuốn Dân ca Thái Lai Châu, Quyển 1 – Chiêng xoong mố bók (Mùa xuân mùa hoa) [134]. Hai năm tiếp theo, DCTTSH Thái Đỗ Thị Tấc lại cùng Hà Mạnh Phong tiếp tục công bố 190 bài DCTTSH Thái trong công trình Dân ca Thái Lai Châu, Quyển 2 - Thơ và dân ca tình yêu của người Thái Mường So [121]. Các bài dân ca đƣợc giới thiệu dƣới cả ba hình thức: chữ Thái cổ, bản phiên âm tiếng Thái và bản dịch nghĩa ra tiếng Việt. Đây là điều hết sức đáng quý. Tuy nhiên, các tác giả lại không ghi rõ nguồn gốc của tƣ liệu đƣợc công bố, bao gồm tên sách hoặc tên nghệ nhân, địa chỉ. Tƣ liệu DCTTSH Thái đã đƣợc quan tâm sƣu tầm, giới thiệu dƣới dạng song ngữ. Tuy thế, thực tế số lƣợng văn bản đƣợc công bố dƣới dạng song ngữ chƣa thực sự tƣơng xứng với sự phong phú của kho tàng dân ca này. Bên cạnh đó, trừ các bài khắp hạn khuống trong công trình của tác giả Nguyễn Văn Hòa, sự sắp xếp các bài dân ca còn chƣa theo một trật tự nào, gây khó khăn cho ngƣời đọc khi hình dung về một trình tự diễn xƣớng hoặc về các nhóm bài hát của DCTTSH của ngƣời Thái ở Tây Bắc. 1.1.2.2. Tình hình nghiên cứu dân ca trữ tình sinh hoạt của người Thái Năm 1992, trong bài viết Quan điểm về phương pháp khái quát diện mạo và tiến trình văn học Thái, Phan Đăng Nhật đã nhận xét: “Từ trƣớc đến nay, chƣa có một công trình khái quát về diện mạo và tiến trình văn học Thái, bao gồm cả VHDG và văn học thành văn” [94; tr 28]. Sau bài viết của Phan Đăng Nhật đến nay vẫn chƣa có một công trình chuyên biệt nào về văn học Thái nói chung, DCTTSH Thái nói riêng. Qua xem xét các công trình nghiên cứu về DCTTSH Thái, chúng tôi thấy có thể phân kết quả nghiên cứu làm hai dạng, tƣơng tự nhƣ thành tựu nghiên cứu về DCTTSH Tày.
  • 28. 22 Thứ nhất là nhóm các chỉ dẫn sơ bộ, khái quát trong các bài giới thiệu ở đầu sác sách công bố tư liệu DCTTSH Thái và các bài viết trên tạp chí. Về đặc điểm của lời ca trong DCTTSH Thái, cuốn Dân ca Thái (Hai trăm lẻ sáu bài dân ca Thái về tình yêu) của Mạc Phi xuất bản năm 1979 [119] có lẽ là công trình thuộc loại sớm nhất đề cập đến. Trong đó, tác giả Mạc Phi đã dành vài trang đầu sách để giới thiệu về bộ phận dân ca này. Về nội dung, Mạc Phi nhận thấy dân ca Thái về tình yêu có nhiều đắm say, lại cũng nhiều cƣời cợt, khinh ghét những bất công, và sâu sắc nhất là những lời khuyên nhủ hữu ích. Đáng tiếc, những nội dung đặc sắc đó của Tản chụ xiết xương, Tản chụ xống xương, Tản chụ xắng xương (trò chuyện với ngƣời bạn tình theo cách bóng gió/ thƣơng yêu/ thƣơng xót) mới chỉ đƣợc tác giả giới thiệu sơ qua, chƣa nói gì đến những giá trị nghệ thuật của loại dân ca đặc sắc này. Về đặc điểm của diễn xƣớng DCTTSH Thái, bài viết Hạn Khuống, một hình thức hội diễn ca nhạc cổ truyền của đông bào Thái Tây Bắc của Trần Lê Văn [172] đã giới thiệu về lễ hội Hạn khuống của ngƣời Thái, qua đó cung cấp cho ngƣời đọc cái nhìn rõ nét hơn về môi trƣờng diễn xƣớng của một điệu hát cụ thể của DCTTSH Thái là khắp hạn khuống. Nghiên cứu về dân ca Thái ở một địa phƣơng cụ thể, các tác giả Hà Mạnh Phong, Đỗ Thị Tấc giới hạn địa bàn nghiên cứu ở Lai Châu. Công trình Dân ca Thái Lai Châu gồm có hai quyển: Quyển 1 - Chiêng xoong mố bók (Mùa xuân mùa hoa) [134], Quyển 2 - Thơ và dân ca tình yêu của người Thái Mường So [121]. Ở quyển 2, các tác giả có bài giới thiệu về khắp hặc xơng – một làn điệu dân ca tình yêu của ngƣời Thái ở Lai Châu trên các khía cạnh: làn điệu, nội dung, nhạc cụ, môi trƣờng diễn xƣớng. Đáng tiếc, những gợi ý ấy quá ngắn gọn, rất khó để ngƣời đọc có thể hình dung đƣợc hết những cái độc đáo của bộ phận dân ca này. Các công trình trên đã bƣớc đầu đề cập đến những đặc điểm nội dung, thi pháp, sự diễn xƣớng của DCTTSH Thái. Tuy thế, do chỉ giới hạn trong khuôn khổ ngắn gọn của một bài báo, hoặc một bài giới thiệu, bài dẫn luận ở đầu cuốn sách sƣu tầm, biên dịch, công bố tƣ liệu dân ca nên những nghiên cứu đó chỉ dừng lại ở sự trình bày, mô tả mang tính ấn tƣợng ban đầu về mảng DCTTSH đang đƣợc giới thiệu. Sự thiếu sâu sắc, toàn diện vì thế là không tránh khỏi. Thứ hai, nhóm các nghiên cứu sâu hơn về một vấn đề của DCTTSH Thái trong chuyên khảo, luận văn, luận án gồm có:
  • 29. 23 Công trình Ngôn ngữ với việc hình thành âm điệu đặc trưng trong dân ca Thái của tác giả Dƣơng Đình Minh Sơn [130] đã nghiên cứu về dân ca Thái Tây Bắc ở các nội dung: hát thơ và các dạng hát thơ, âm điệu c a x làm nét dạo đầy láy đuôi trong các làn điệu dân ca, những làn điệu “lòng bản” trong dân ca, nhận xét tính chất của các làn điệu, sự ra đời của tên gọi làn điệu khắp xai peng, điệu nhạc múa cúng mƣờng. Đây là một trong những cơ sở quan trọng để tác giả đi đến kết luận về mối liên hệ giữa ngôn ngữ với việc hình thành những âm điệu đặc trƣng trong âm nhạc dân gian Thái ở Tây Bắc Việt Nam. Nhìn chung, trong chuyên khảo công phu này, nhạc sĩ Dƣơng Đình Minh Sơn chủ yếu quan tâm đến khía cạnh âm nhạc chứ chƣa chú ý đến các yếu tố văn bản và phƣơng thức diễn xƣớng của dân ca Thái. Luận văn Giải mã một số biểu tượng trong ca dao – dân ca dân tộc Thái [122] của tác giả Cầm Bá Phƣợng đã phân loại biểu tƣợng, đồng thời giải mã ý nghĩa các biểu tƣợng của dân ca Thái nhƣ: hạn khuống, sợi chỉ, chim cu gáy, còn, Khun Lú – Nàng Ủa, rƣợu cần, khăn piêu. Cũng về vấn đề biểu tƣợng, năm 2012, tác giả Đặng Thị Oanh công bố kết quả luận án Biểu tượng nước từ văn hóa đến văn học dân gian của người Thái ở Tây Bắc Việt Nam [113]. Ở luận án này, tác giả đã tìm hiểu về VHDG Thái, trong đó có DCTTSH từ việc tiếp cận biểu tƣợng nƣớc. Với việc khẳng định nguồn gốc và quá trình chuyển nghĩa của biểu tƣợng nƣớc từ trong văn hóa vào VHDG, tác giả cho thấy nƣớc trong DCTTSH mang sức mạnh của sự hủy diệt, sự thử thách, là chất kết nối tình cảm, thiết lập và cố kết cộng đồng Thái. Nhƣ thế, cả hai công trình này đều chỉ nghiên cứu về một vấn đề thuộc thi pháp của dân ca Thái. Từ việc tìm hiểu các công trình nhƣ trên, chúng tôi nhận thấy DCTTSH Thái đã đƣợc quan tâm nghiên cứu chuyên sâu ở một vài vấn đề cụ thể nhƣ biểu tƣợng, âm nhạc. Sự nghiên cứu để chỉ ra đƣợc diện mạo, đặc điểm của bộ phận dân ca này là có song mới dừng ở mức độ khái quát, mang tính giới thiệu. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về DCTTSH Thái còn khá thƣa thớt, thiếu vắng những công trình chuyên sâu, nghiên cứu một cách có hệ thống. 1.1.2.3. Tổng quan tình hình nghiên cứu về dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và người Thái theo hướng so sánh Chúng tôi chƣa thấy một công trình nào so sánh công phu về sự giống và khác nhau giữa DCTTSH của dân tộc Tày và dân tộc Thái. Sự so sánh mới chỉ đƣợc điểm đến trong những nhận định khá chung chung mà chƣa đi sâu vào phân tích thỏa đáng.
  • 30. 24 Đầu tiên, phải kể đến nhận định của Lê Chí Quế trong bài viết Việc phân loại dân ca các dân tộc ở miền Bắc nước ta in trong tạp chí Văn học, số 6, năm 1975, in lại trong Tổng tập Văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt nam, tập 23. Trên cơ sở đƣa ra bảng hệ thống dân ca các DTTS, nhìn vào sự phân bố không đồng đều giữa các ô của từng bộ phận, ông cho rằng dân ca lao động và dân ca nghi lễ của ngƣời Việt và các DTTS có nhiều điểm khác hơn là giống. Ngƣợc lại, ở DCTTSH, đặc biệt là dân ca đối đáp giao duyên nam nữ của các dân tộc này sự tƣơng đồng nhiều hơn dị biệt bởi nó “là tiếng lòng của con ngƣời trƣớc những mối quan hệ tác động trực tiếp đến đời sống tình cảm của chính họ… Những con ngƣời tuy ở các dân tộc khác nhau mà lại trong cùng một quốc gia thì chắc chắn là dễ tìm gặp nhau hơn” [178; tr. 850]. Nhận định này của ông bao hàm sự tƣơng đồng của DCTTSH Tày, Thái. Trong chuyên khảo Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt Nam, với gần 150 trang nghiên cứu về dân ca các DTTS, Võ Quang Nhơn đã dành một phần nhỏ cho sự quan tâm đến sắc thái dân ca của các dân tộc. Tác giả viết: “Trong sự thống nhất của các truyền thống nghệ thuật, dân ca mang tính cộng đồng khá sâu bền, nảy nở nhiều phong cách sáng tạo thông minh, mang nhiều âm điệu phong phú ở các dân tộc, ở các miền của đất nƣớc: sắc thái hồn nhiên, vui tƣơi của các dân tộc Tây Nguyên, âm điệu trữ tình sâu lắng của các dân tộc ở Tây Bắc, cấu tứ ít nhiều thiên về chất trí tuệ của các dân tộc ở Việt Bắc, phong cách trữ tình thâm trầm ít nhiều pha màu sắc đạo đức, tôn giáo của các dân tộc Chăm và Khơ Me ở miền Nam” [109; tr. 343]. Với nhận xét này, tác giả đề cập đến sự khác nhau về phong cách dân ca Việt Bắc và Tây Bắc, trong đó có dân tộc Tày và Thái. Tuy nhiên, nhận định so sánh này mới ở mức độ điểm qua và mang màu sắc vùng miền nói chung mà thôi. Nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Huế trong công trình Những xu hướng biến đổi văn hóa các dân tộc miền núi phía bắc Việt Nam, khi phân tích một số hình thức sinh hoạt dân ca đã đi đến nhận định về sự khác nhau của dân ca Tày, Thái. Theo đó, dân ca Thái đậm chất trữ tình, dân ca Tày có chút thiên về lý trí, thể hiện ở loạt các bài hát có tính chất đua tài, thử trí khá phổ biến. Đồng thời, ở tầm chung cho dân ca các DTTS miền núi phía bắc, tác giả cũng cho rằng dân ca giao duyên có tổ chức tƣơng đồng ở sự chặt chẽ của lề lối, quy củ và khác nhau ở địa điểm diễn xƣớng, tổ chức lực lƣợng (hát thành đoàn hoặc không), trình tự hát và cấu tạo thành phần bài ca trong trình tự ấy [53; tr. 265 – 290]. Sự phân tích của tác giả chủ yếu ở sự diễn xƣớng chứ chƣa đi sâu
  • 31. 25 vào nội dung phản ánh và thi pháp lời ca. Song, chỉ xét riêng ở góc độ so sánh diễn xƣớng thôi thì đây đã là những gợi ý quan trọng định hƣớng cho chúng tôi trong khi so sánh DCTTSH Tày, Thái. Trong công trình về âm nhạc dân gian của các DTTS Đặc điểm dân ca Mông Tày Nùng Thái [37], Tuấn Giang đã nghiên cứu dân ca Mông Tày, Nùng, Thái trên các phƣơng diện: khái niệm phong cách dân ca các dân tộc, không gian xã hội các loại dân ca, sự ra đời dân ca các dân tộc, hệ thống làn điệu dân ca, quy luật phát triển giai điệu loại thể dân ca, quan hệ nhạc và lời dân ca, cấu trúc giai điệu các tiểu loại dân ca, nhận diện hình tƣợng, giai điệu âm nhạc, đặc điểm của dân ca các dân tộc. Với công trình này, tác giả đã có đóng góp nhằm phân loại dân ca, cấu trúc thang âm giai điệu hệ hình dân ca, nhận diện phong cách, đặc điểm dân ca từng dân tộc. Ở góc độ tìm hiểu về DCTTSH Tày, Thái, chúng tôi chú ý đến chƣơng 3 của công trình với nội dung về sự ra đời dân ca các dân tộc. Ở đây, tác giả có giới thiệu về nội dung, giá trị nghệ thuật và đặc điểm lời ca của hát ru, đồng dao, tiếng hát giao duyên, tiếng hát lao động. Tác giả chỉ ra sự tƣơng đồng về mặt nội dung của dân ca các dân tộc là phản ánh hiện thực đời sống xã hội. Tuy nhiên, ông không chỉ rõ sự khác nhau về nội dung, nghệ thuật lời ca, sự diễn xƣớng của dân ca các dân tộc. Nhìn chung, vì đây là một chuyên luận về so sánh âm nhạc dân gian nên các đặc điểm của dân ca Tày, Thái không đƣợc ông đi sâu tìm hiểu và chƣa có sự so sánh rõ ràng. Trên cơ sở điểm lại tình hình nghiên cứu nhƣ trên, chúng tôi nhận thấy, cho đến thời điểm này, chƣa có một công trình nghiên cứu chuyên sâu, một chuyên luận nào xem xét, nghiên cứu về DCTTSH của các dân tộc Tày, Thái dƣới góc độ so sánh một cách toàn diện. Đây vẫn còn là một khoảng trống để ngỏ. Trong khi, trên thực tế, vấn đề này lại rất có ý nghĩa đối với việc làm rõ những đặc sắc văn hóa của dân tộc. 1.2. Luận án, sự kế thừa và phát triển Ngƣời Tày và ngƣời Thái có vị trí quan trọng trong tiến trình lịch sử và văn hóa Việt Nam. Hai tộc ngƣời đều nắm giữ vai trò chủ thể văn hóa vùng và có đời sống văn hóa vô cùng đặc sắc, đóng góp những mảng màu không thể thiếu trong bức tranh văn hóa Việt Nam. Bởi thế, đã có nhiều nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu về DCTTSH của hai dân tộc này trên nhiều phƣơng diện, với nhiều hƣớng tiếp cận khác nhau: thi pháp học, văn hóa học, âm nhạc… Tuy thế, đến nay vẫn chƣa có một tiếng nói cuối cùng nào về tính riêng, đặc thù của hai dân tộc đƣợc thể hiện qua DCTTSH.
  • 32. 26 Nhận thức đƣợc tầm quan trọng và cần thiết của việc so sánh DCTTSH Tày, Thái, chúng tôi chọn vấn đề So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và người Thái ở Việt Nam làm đề tài cho luận án của mình. Luận án của chúng tôi đặt vấn đề so sánh những điểm giống và khác nhau giữa DCTTSH của dân tộc Tày và Thái ở Việt Nam, với sự kết hợp các phƣơng pháp điền dã, phƣơng pháp thống kê, phƣơng pháp so sánh, phƣơng pháp liên ngành. Đây là nghiên cứu chuyên sâu đầu tiên theo hƣớng so sánh DCTTSH của hai DTTS ở Việt Nam là dân tộc Tày và dân tộc Thái. Nghiên cứu về DCTTSH, rộng hơn là văn hóa của DTTS, là công việc vô cùng khó khăn, vừa đòi hỏi phƣơng pháp và tri thức nền tảng, vừa đòi hỏi sự am hiểu văn hóa dân tộc, lại phải căn cứ trên nguồn tƣ liệu dân ca mang tính tin cậy. Từ việc điểm lại tình hình nghiên cứu nhƣ trên, chúng ta thấy tham gia vào công việc đó có các đại diện của giới trí thức Tày, Thái và các đại diện của ngƣời Kinh ở miền xuôi. Nếu nhƣ các đại diện Tày, Thái có điều kiện trƣởng thành trong suối nguồn văn hóa dân tộc, cắm rễ sâu ở địa bàn thì các đại diện ngƣời Kinh lại có điều kiện về nghiệp vụ và phƣơng pháp. Các kết quả nghiên cứu về dân ca Tày, Thái là sự tổng hợp công sức của nhiều ngƣời, nhiều thế hệ, nhiều thành phần dân tộc trong khoảng thời gian nửa thế kỉ. Những thành tựu đó là những chỉ dẫn hết sức quý báu đối với chúng tôi trong quá trình thực hiện luận án. Song, để nghiên cứu đề tài này, chúng tôi rất cần đến sự thống nhất của nguồn tƣ liệu làm đối tƣợng cho sự khảo sát. Từ việc điểm lại tình hình sƣu tầm DCTTSH của ngƣời Tày và ngƣời Thái nhƣ ở phần trƣớc, chúng tôi nhận thấy có những điểm đáng lƣu ý nhƣ sau: Thứ nhất, xét về mặt thời gian: Theo lí thuyết, dân ca của hai tộc ngƣời vừa nêu ra đời rất sớm. Song, việc ghi chép lại dân ca Tày mới chỉ diễn ra sớm nhất vào những năm ba mƣơi của thế kỉ XX với Nguyễn Văn Huyên. Trong công trình nổi tiếng của mình, Nguyễn Văn Huyên lại dịch thơ ca dân gian Tày ra tiếng Pháp chứ không dịch ra tiếng Việt. Những bản dịch dân ca Tày ra tiếng Việt sớm nhất ở miền Bắc là vào những năm sáu mƣơi. Công trình công bố tƣ liệu DCTTSH Tày theo hình thức song ngữ Tày – Việt sớm nhất là Rọi – Vốn cổ văn học dân tộc Tày - Nùng của nhóm tác giả sƣu tầm, biên dịch Trƣơng Lạc Dƣơng, Nông Đình Tuấn, Trần Vĩnh, Võ Quang Nhơn vào năm 1970. Công trình công bố tƣ liệu DCTTSH Thái sớm nhất theo hình thức song ngữ Thái – Việt là Truyện cổ, dân ca Thái vùng Tây Bắc Việt Nam của Nguyễn Văn Hòa vào năm 2001. Ngôn ngữ và văn hóa luôn biến đổi. Những văn bản
  • 33. 27 dân ca hiện chúng ta đang quan sát có lịch sử vài trăm năm trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945. Cho nên, chúng tôi không đặt nhiệm vụ so sánh về nguồn gốc và quá trình phát triển của DCTTSH của hai dân tộc Tày, Thái, ảnh hƣởng của DCTTSH Tày lên DCTTSH Thái hay ngƣợc lại. Chúng tôi chỉ xin khảo sát, tìm hiểu về nội dung, thi pháp, đặc điểm diễn xƣớng, lấy đó làm cơ sở cho sự phân tích các điểm tƣơng đồng và khác biệt giữa hai bộ phận dân ca của hai dân tộc, chỉ ra nội hàm văn hóa, lịch sử, địa lí… đƣợc bao chứa trong các đặc điểm đó. Từ đó, chúng tôi cung cấp cho mọi ngƣời cái nhìn rõ hơn về cái phổ biến và cái đặc thù trong văn hóa các dân tộc. Thứ hai, xét về mặt phân loại: Trong các cuốn sách công bố tƣ liệu DCTTSH Tày, Thái, các tác giả phân loại dân ca theo những cách khác nhau. Chẳng hạn, ở DCTTSH của ngƣời Tày, nhiều công trình đã giới thiệu về từng mảng dân ca đƣợc sƣu tầm và ghi rõ tên gọi nhƣ lượn cọi, lượn slương, lượn nàng ới, lượn rọi, iếu…, hoặc phân loại dựa vào nội dung của bài hát xét trong toàn bộ quá trình diễn xƣớng nhƣ cách làm của PGS. TS Trần Thị An trong cuốn Tổng tập văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam, tập 17 [177], tập 18 [175], tập 19 [176]. Song, bên cạnh đó, có những công trình lại không hề ghi rõ những bài hát đƣợc giới thiệu đó thuộc mảng nào, theo quan điểm phân loại nào. Có thể kể đến nhƣ: Thơ ca dân gian Tày – Nùng xứ Lạng [5], Chồm bjoóc mạ [14], phần lƣợn Tày Lạng Sơn trong công trình Lượn Tày: Lượn Tày Lạng Sơn, lượn slương [108], Thành ngữ, tục ngữ, ca dao dân tộc Tày [127], Tàng pây kết chụ - Đường đi kết bạn tình [128], Tục ngữ, ca dao Tày vùng hồ Ba Bể [192]. Tình trạng ấy tƣơng tự ở các cuốn sách công bố tƣ liệu DCTTSH của ngƣời Thái. Chỉ duy nhất trong công trình Truyện cổ và dân ca Thái vùng Tây Bắc Việt Nam [50], tác giả Nguyễn Văn Hòa có ghi rõ các bài hát thuộc các mảng có tên gọi khắp hạn khuống, khắp khí chọn cha, khắp khơ nay chơi... Thứ ba, về nguồn gốc dân tộc của tác phẩm: Khi tập hợp các bài hát dân gian vào các tập sách giới thiệu tƣ liệu DCTTSH của ngƣời Tày, có trƣờng hợp những bài hát không phải chỉ của riêng ngƣời Tày mà còn đƣợc sử dụng trong cộng đồng ngƣời Nùng. Vì thế mới có tên gọi của các cuốn sách: Rọi – Vốn cổ văn học dân tộc Tày – Nùng, Lượn cọi Tày – Nùng, Thơ ca dân gian Tày – Nùng xứ Lạng, Sli lượn hát đôi của người Tày Nùng ở Cao Bằng. Thực tế sự hỗn hợp về mặt nhân chủng giữa ngƣời Tày và ngƣời Nùng, dẫn đến hiện tƣợng Nùng hóa Tày và điều kiện xen cƣ trên cùng một vùng lãnh thổ của hai tộc ngƣời này khiến cho họ có sự giao lƣu văn hóa khá
  • 34. 28 mạnh mẽ mà hệ quả của nó là làm cho kho tàng VHDG của ngƣời Tày phong phú hơn, song cũng vì thế mà khó khăn hơn trong việc phân định nguồn gốc, lai lịch, tính chất dân tộc của tác phẩm. Thứ tƣ, về vấn đề hình thức song ngữ: Trong khi sƣu tầm VHDG các DTTS, có một nguyên tắc là cần ghi chép nguyên bản bằng tiếng DTTS, sau đó dịch ra tiếng Việt. Cả hai tài liệu (bằng tiếng dân tộc và tiếng Việt) mới đƣợc coi là văn bản hoàn chỉnh của tác phẩm. Việc sƣu tầm DCTTSH Tày, Thái không nằm ngoài quy luật ấy. Nhƣng, trên thực tế, không phải công trình nào cũng làm đƣợc điều đó. Vẫn có nhiều công trình công bố tƣ liệu DCTTSH Tày, Thái chỉ có bản dịch tiếng Việt. Hơn thế, ở DCTTSH Tày, có trƣờng hợp các tác giả còn dịch sang tiếng Việt dƣới hình thức thơ lục bát chứ không phải dịch nguyên nghĩa và giữ nguyên đặc điểm thể loại thất ngôn của ngƣời Tày. Do vậy, chúng chƣa thật đảm bảo tính chính xác, khoa học của tác phẩm sƣu tầm và mất đi cái mĩ cảm của dân tộc. Ngay ở những công trình giới thiệu DCTTSH dƣới hình thức song ngữ, các bản phiên âm và bản dịch cũng chƣa hẳn là khớp nhau về số câu và về nghĩa. Thứ năm, về mặt số lƣợng: Trong tƣơng quan so sánh với DCTTSH của các DTTS khác, DCTTSH của ngƣời Tày đƣợc quan tâm sƣu tầm và công bố từ khá sớm và đạt đƣợc nhiều thành tựu. Cho đến nay, hầu hết các mảng của DCTTSH Tày đều đã đƣợc công bố, bao gồm: lượn cọi, lượn slương, lượn then, iếu, rọi, phong slư… Không nói đến những tài liệu sƣu tầm dân ca dƣới hình thức tiếng Việt, chỉ tính thành tựu sƣu tầm, giới thiệu DCTTSH Tày dƣới dạng song ngữ, chúng tôi đã thống kê đƣợc số lƣợng bài ca lên tới con số 1572 lời. So với kết quả công bố tƣ liệu DCTTSH Tày, nguồn tƣ liệu về DCTTSH Thái không phong phú bằng. Theo thống kê của chúng tôi, đến nay, mới có 4 công trình giới thiệu DCTTSH Thái dƣới dạng song ngữ với số lƣợng bài ca là 292. Con số này khá khiêm tốn so với DCTTSH Tày. Nó có thể đƣợc lí giải bằng sự quan tâm sƣu tầm của những ngƣời làm công tác công bố và phổ biến văn hóa, văn nghệ dân gian. Thứ nữa, điều này xuất phát từ thực tế dung lƣợng lời ca của DCTTSH Thái. Mỗi lời DCTTSH Thái đều khá dài. Trong khi đó, đa phần lời DCTTSH Tày khá ngắn, thƣờng dƣới mƣời dòng thơ. Do vậy, dễ hiểu là DCTTSH Tày chiếm số lƣợng lời nhiều hơn so với DCTTSH Thái. Trên cơ cở thực trạng kho tàng DCTTSH của hai dân tộc Tày, Thái với những đặc điểm kể trên, ở luận án này, chúng tôi lựa chọn nguồn tƣ liệu với tiêu chí là chỉ
  • 35. 29 chọn những lời dân ca dƣới hình thức song ngữ, có nguồn gốc dân tộc rõ ràng và bản dịch sát nghĩa. Chúng tôi lựa chọn 500 bài DCTTSH Tày và 286 bài DCTTSH Thái làm đối tƣợng khảo sát, nghiên cứu. Sự hạn chế nguồn tƣ liệu nhƣ vậy là có chủ ý và đã đƣợc chúng tôi trình bày trong phần phạm vi nghiên cứu. Kế thừa thành quả của các công trình sƣu tầm và nghiên cứu của các tác giả đi trƣớc, chúng tôi tiến hành so sánh DCTTSH của hai dân tộc Tày, Thái. Các công trình công bố tƣ liệu dân ca đã cung cấp tƣ liệu đáng tin cậy để chúng tôi lựa chọn cho sự nghiên cứu, khảo sát. Các công trình nghiên cứu về DCTTSH Tày, Thái đã cung cấp cho chúng tôi những gợi ý, những ý tƣởng khoa học quý báu, dù nhiều khi mới ở dạng phác thảo. Đóng góp của chúng tôi chủ yếu là ở chỗ chúng tôi đã cố gắng làm sáng rõ những gợi ý đó và hệ thống hóa chúng, soi chiếu chúng dƣới một góc nhìn mới là so sánh để làm bật lên đƣợc cái phổ biến và cái đặc thù của DCTTSH Tày, Thái. Chúng tôi hi vọng qua luận án này sẽ thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu đối với việc so sánh dân ca Tày, Thái nói riêng, VHDG Tày, Thái nói chung nhằm tƣơng xứng với thực tế kho tàng phong phú và giá trị của VHDG hai dân tộc. 1.3. Cơ sở lí luận Chúng tôi xác định các câu hỏi nghiên cứu chính của đề tài là: - DCTTSH Tày, Thái có những điểm tƣơng đồng và khác biệt nào? - Nguyên nhân gì dẫn đến những điểm tƣơng đồng và khác biệt đó? - Ý nghĩa của những điểm tƣơng đồng và khác biệt đó trong DCTTSH của hai dân tộc Tày, Thái? Từ các câu hỏi nghiên cứu nhƣ trên, chúng tôi xác định cơ sở lí luận liên quan đến đề tài gồm các nội dung chính là: lí luận về VHSS, về bản sắc văn hóa dân tộc, về dân ca và diễn xƣớng. 1.3.1. Lí luận về văn học so sánh Chúng tôi thực hiện đề tài này trên cơ sở lí luận về VHSS. VHSS không phải là một phƣơng pháp mà là một bộ môn khoa học ra đời vào cuối thế kỉ XIX. Cho đến 1974, ở nƣớc ta, giới nghiên cứu vẫn cho rằng VHSS mang tính chất suy đồi, là một trƣờng hợp của tƣ sản. Dần dần, các nhà nghiên cứu đã cho rằng đây là một bộ phận của khoa nghiên cứu văn học. Nói tới VHSS là nói tới việc đối chiếu nhiều nền văn học với nhau, tức đối chiều nền văn học này với nền văn học kia hoặc nền văn học này với nhiều nền văn học khác. Trong công trình Lí luận về văn học so sánh, tác giả
  • 36. 30 Nguyễn Văn Dân định nghĩa về VHSS nhƣ sau: “VHSS là một bộ môn khoa học có chức năng so sánh một nền văn học này với một hay nhiều nền văn học khác, hoặc so sánh các hiện tƣợng của các nền văn học khác nhau” [24; tr. 18]. VHSS có hai mục đích cơ bản: Một là, xác định tính khái quát của văn học nhân loại; Hai là, chứng minh tính đặc thù của các nền văn học dân tộc [24; tr. 55]. Nó có ba đối tƣợng nghiên cứu chính: Một là, những mối quan hệ trực tiếp giữa các nền văn học dân tộc (những sự ảnh hƣởng và vay mƣợn lẫn nhau giữa các nền văn học). Hai là, những điểm tƣơng đồng (những điểm giống nhau giữa các nền văn học sinh ra không phải do ảnh hƣởng giữa chúng mà là do điều kiện lịch sử, xã hội giống nhau). Ba là, những điểm khác biệt độc lập, biểu hiện bản sắc của các hiện tƣợng văn học dân tộc hay của các nền văn học dân tộc, đƣợc chứng minh bằng phƣơng pháp so sánh. Trong nghiên cứu VHSS, điều tối kị là so sánh nhằm mục đích chỉ ra sự hơn kém. Ở Việt Nam, đã có sai lầm nhƣ thế trong lĩnh vực văn học viết. Đó là trƣờng hợp nhà nghiên cứu Lê Đình Kỵ và học giả Phan Ngọc khi so sánh Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân bên Trung Quốc với Truyện Kiều của Nguyễn Du [24; tr. 151 - 155]. Năm 1968, Đinh Gia Khánh đã cho rằng, việc so sánh hơn thua giữa hai tác phẩm của hai dân tộc “là cái việc rất không khoa học” [24; tr. 152]. Việc suy diễn võ đoán là nguy cơ dẫn đến chủ nghĩa sô vanh, kì thị dân tộc. Đúng nhƣ Trần Nho Thìn đã chỉ ra khi so sánh văn học Việt Nam với văn học Trung Quốc, sau khi phân tích những chỗ giống và khác nhau, chúng ta cần trả lời câu hỏi tại sao cùng ở khu vực đồng văn với văn hóa Trung Quốc, ngƣời Việt Nam lại tiếp nhận văn học Trung Quốc khác với ngƣời Nhật Bản, Triều Tiên tiếp thu văn học Trung Quốc [133; tr. 44 – 54]. Đáng lƣu ý là trong nghiên cứu VHSS, có thể có hai loại là nghiên cứu ảnh hƣởng và nghiên cứu song song nhƣ tác giả Hồ Á Mẫn – một học giả ngƣời Trung Quốc đã chỉ ra trong công trình Giáo trình văn học so sánh. Trong đó, nghiên cứu ảnh hƣởng là nghiên cứu hai nền văn học mà giữa chúng không cùng nguồn gốc nhƣng có quan hệ ảnh hƣởng. Nghiên cứu ảnh hƣởng cần chú trọng đến điều kiện sản sinh ra ảnh hƣởng, loại hình ảnh hƣởng, phạm vi nghiên cứu ảnh hƣởng. Nghiên cứu song song là nghiên cứu hai nền văn học mà giữa chúng không có quan hệ trực tiếp. Nó có cơ sở từ tính phổ quát và tính khác biệt của văn hóa, văn học, với hai loại phƣơng pháp là loại tỷ và đối tỷ. Việc xác định tính chất của công trình là nghiên cứu ảnh hƣởng hay nghiên cứu song song có ý nghĩa phƣơng pháp luận [79; tr. 70 – 93].