QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
Giáo sư Hoàng Chương
1. 100 GIÁO SƯ việt nam TRỌN ĐỜI CỐNG HIẾN
Vietnamese professors dedicated lifetime
125
Trong lĩnh vực Văn hóa nghệ thuật truyền thống của Việt Nam, ai cũng
biết đến GS Hoàng Chương. Là một chuyên gia đầu ngành về lĩnh vực này, sự
đam mê cả cuộc đời đã thôi thúc ông tìm nhiều cách để khôi phục lại những
loại hình nghệ thuật truyền thống, đặc biệt là Tuồng (hát Bội) và Bài chòi
nói riêng và sân khấu truyền thống nói chung ở nước ta, khi mà nền sân
khấu dân tộc đang bị lãng quên bởi sự lấn át của các dòng nghệ thuật hiện
đại thịnh hành. Ông không chỉ khơi dậy niềm đam mê trong giới trẻ mà còn
mong chắp cánh cho nghệ thuật dân tộc bay ra thế giới.
Giáo sư say sưa trong nghiên cứu khoa học và tham gia giảng bài ở
nhiều trường đại học trong và ngoài nước, đi đến đâu các học viên đều hứng
thú với bài giảng của ông, vì cách vừa giảng bài, vừa múa hát minh họa rất
hay, nên có sức lôi cuốn mọi người. Tại sân khấu ở Paris – Pháp, Tết năm
2015, ông đã diễn lớp Bài chòi cổ "Ông xã – Bà đội", một người đóng hai vai,
được người xem nhiệt liệt hoan nghênh. Đến nay đã ngoài tuổi 80, ông không
lúc nào ngơi nghỉ ý niệm khơi dậy niềm đam mê trong giới trẻ và chắp cánh
cho nghệ thuật dân tộc bay ra thế giới.
Sau nhiều lần liên hệ, tôi mới gặp được GS Hoàng Chương – Tổng giám
đốc Trung tâm Nghiên cứu Bảo tồn và Phát huy văn hóa dân tộc Việt Nam,
kiêm Chủ nhiệm Tạp chí Văn hiến Việt Nam để nghe những tâm sự về chuyện
đời, chuyện nghề và niềm đam mê nghiên cứu, gìn giữ, phát huy văn hóa dân
tộc.
GS Hoàng Chương
NGƯỜI LUÔN GÌN GIỮ VÀ PHÁT HUY
VĂN HÓA NGHỆ THUẬT
TRUYỀN THỐNG CỦA DÂN TỘC
2. 100 GIÁO SƯ việt nam TRỌN ĐỜI CỐNG HIẾN
Vietnamese professors dedicated lifetime
126
Tự hào về quê hương yêu dấu
Ông tâm sự: Tôi đam mê trọn đời với nghệ thuật truyền thống như là:
Tuồng (Hát bội), Bài chòi, không ngừng gìn giữ và phát huy nó ở trong và
ngoài nước để mọi người hiểu và càng trân trọng hơn nét đẹp truyền thống
văn hóa dân tộc. Niềm đam mê ấy của tôi được xuất hiện ngay từ nhỏ, trên
quê hương yêu dấu là cái nôi của nghệ thuật tuồng và Bài chòi nổi tiếng ở
nước ta thời xa xưa. Là người con ở quê hương Bình Định, miền đất nổi tiếng
về văn võ song toàn, có anh hùng áo vải Quang Trung lãnh đạo quân Tây Sơn
đánh thắng 29 vạn quân Thanh, lập nên chiến thắng kỳ tích ở gò Đống Đa –
Hà Nội. Không chỉ vậy, quê hương Bình Định còn có nhiều danh nhân tuồng
nổi tiếng: Đào Duy Từ, Đào Tấn, Nguyễn Diệu ... từ đó lòng yêu nghệ thuật
Tuồng đã ngấm vào tôi từ thưở nhỏ. Hồi bé, tôi đã mê hát bội, lại được cha mẹ
cho học âm nhạc từ lúc tiểu học, sau đó được đào tạo thành thiếu sinh quân
văn nghệ. Những lúc rảnh rỗi, tôi hay vào rạp hát để xem các vở tuồng do nghệ
sỹ biểu diễn và tập hát tuồng, vì thế niềm đam mê của tôi với bộ môn nghệ
thuật này rực cháy cho đến tận bây giờ. Lên đến cấp 3, tôi được ra miền Bắc
học văn hóa trong Đoàn Văn công liên khu V, ban ngày học văn hóa, buổi tối
thì tôi đi biểu diễn. Tôi thi đỗ lớp 10 văn hóa điểm cao và được chọn đi học
nước ngoài. Năm 1962, tôi được sang trường Đại học Sân khấu ở Liên Xô để
học đại học. Những năm đó, Liên Xô hùng mạnh nhưng còn nghèo. Chúng
tôi hàng ngày đi mua đồ ăn cũng phải xếp hàng như nước ta thời kỳ bao cấp.
Chúng tôi sống trong ký túc xá, trong phòng có vài sinh viên từ các nước đến,
nên đôi lúc cũng không thoải mái lắm trong sinh hoạt. Trường học thì xa nơi
ở, hàng ngày chúng tôi phải qua nhiều phương tiện giao thông công cộng mới
tới nơi. Rồi những ngày mùa đông lạnh giá, tuyết trắng rơi đầy càng làm cho
chúng tôi thấy cô đơn nơi xứ người, da diết nỗi nhớ nhà và người thân yêu.
Cuộc sống khó khăn là vậy, nhưng chúng tôi vẫn cố gắng để vươn lên trong
học tập. Ngày lên lớp, tối phải đến nhà hát để xem các nghệ sỹ biểu diễn. Có vở
kịch nổi tiếng "Vua Lia" của Đại văn hào Sếchxpia người Anh diễn. Người Nga
phải mua vé từ mấy tháng trước, còn tôi phải chầu chực ngoài cửa, rồi viết giấy
gửi vào trưởng rạp thì mới được cho vào đứng xem. Ôi! khổ sở vô cùng. Sau
những năm tháng học tập vất vả nhưng cũng đầy tình cảm quý mến của người
dân Liên Xô với lưu học sinh Việt Nam. Tôi về nước tiếp tục học tập. Những
năm 1965 - 1967, tôi học khoa Văn trường Đại học Tổng Hợp HN, lúc đó nước
ta đang có chiến tranh ác liệt, trường chúng tôi phải đi sơ tán. Chúng tôi sống
cùng với nhà dân nên chỉ chăm chú vào học tập, không dám chơi bời. Tôi vinh
dự được học cùng lớp với anh Nguyễn Phú Trọng (Tổng bí thư Đảng nước ta
3. 100 GIÁO SƯ việt nam TRỌN ĐỜI CỐNG HIẾN
Vietnamese professors dedicated lifetime
127
hiện nay), anh Trọng đã có lần nhận xét: Tôi là người tổ chức đoàn kịch có tính
chất chuyên nghiệp ở trường, dựng vở Kiều của giáo sư Hoàng Xuân Nhị và vở
Nguyễn Văn Trỗi của Học Phi rất thành công. Sau khi tốt nghiệp năm 1967,
tôi được về Bộ Văn hóa thông tin làm việc, phụ trách tổ trưởng tổ sân khấu,
đạo diễn cho phong trào sân khấu cả nước. Với kiến thức và kinh nghiệm tích
lũy được, tôi đã thực hiện công việc thuận lợi được nhiều người đánh giá tốt,
đó là cơ hội để tôi tiếp tục được mở mang tri thức chuyên sâu hơn nữa. Năm
1969, tôi được Nhà nước cử đi học nghiên cứu sinh ở Rumani theo chế độ
ưu tiên của Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam Việt Nam. Sang đó,
tôi được sống và học tập trong điều kiện của một nước phát triển, nên cuộc
sống đầy đủ hơn so với hồi sang Liên Xô học. Hơn nữa, Rumani còn là nước
có nhiều danh nhân văn hóa thế giới và có truyền thống về đào tạo văn hóa
nghệ thuật, có nhiều
thầy giỏi nên tôi đã
học được nhiều kinh
nghiệm quý. Ở đây,
tôi đã dựng thực tập
vở tuồng Nghêu Sò
Ốc Hến được các
giáo sư Rumani đánh
giá cao. Tôi được
sang khảo sát thực
tập ở một số nhà hát
lớn của Liên xô, Đức
để học tập nghiên
cứu những phương
pháp nghệ thuật tiên
tiến của nước bạn. Năm 1973 sau khi về nước, tôi được Bộ Văn hóa thông tin
cử làm đạo diễn chính cho Nhà hát tuồng Liên khu 5 (nay là Nhà hát tuồng
Đào Tấn). Nơi đây có rất nhiều nghệ sỹ tài năng, để học hỏi và trau dồi nghề
nghiệp về Tuồng, từ đó tôi có thêm vốn nghề cho việc dựng vở và giảng dạy
sau này. Suốt những năm tháng ở cái lò tuồng này, các bậc thầy ở Quảng Nam,
Bình Định đã giúp cho tôi rất nhiều kinh nghiệm thực tế. Đến trước ngày
Giải phóng miền Nam, tôi đã dàn dựng thành công các vở tuồng nổi tiếng liên
quan đến lịch sử là vở Trưng nữ Vương, vở Áo vải cờ đào, tuồng hài Con chó
vện. Sau ngày Giải phóng miền Nam, Nhà hát tuồng Liên khu V chuyển về
Bình Định. Về đó, ông thấy những kiến thức mình đã học nhiều năm nhưng
GS Hoàng Chương hướng dẫn động tác tuồng cho giáo
viên David Badagnani - Đại học Kent, Mỹ
4. 100 GIÁO SƯ việt nam TRỌN ĐỜI CỐNG HIẾN
Vietnamese professors dedicated lifetime
128
ít có điều kiện phát huy nên có mong muốn được chuyển sang làm nghiên
cứu khoa học. Ông xin ra miền Bắc để làm việc ở Viện Văn hóa nghệ thuật
Việt Nam, sau đó được Bộ Văn hóa thông tin bổ nhiệm làm trưởng đoàn nghệ
thuật tuồng thể nghiệm. Đây là nơi tập hợp được nhiều tài năng như: Đàm
Liên, Kim Cúc, Minh Ngọc... đoàn tuồng này hoạt động được một thời gian
để thúc đẩy sự phát triển của nghệ thuật truyền thống ở nước ta, sau đó Bộ
Văn hóa thông tin đã quyết định sát nhập đoàn với Nhà hát tuồng trung ương
thành Nhà hát tuồng Việt Nam và ông được bổ nhiệm làm Phó giám đốc nhà
hát tuồng Việt Nam phụ trách tuồng ở phía nam. Từ đó, ông có điều kiện để
tập trung vào việc phục hồi tuồng truyền thống và lịch sử như vở: Sơn Hậu,
Tam Nữ Đỗ Vương, Trưng nữ Vương... Từ khi ông về Viện Sân khấu công
tác, nhờ làm việc có uy tín được đề bạt làm thư ký hội đồng khoa học rồi làm
Phó viện trưởng và Viện trưởng, Viện sân khấu Việt Nam (1984 – 1999). Ông
tiếp tục dàn dựng thành công nhiều vở tuồng như: Quang Trung đại phá quân
Thanh, Nàng Sơkuntơla (Ấn Độ), Thanh gươm, hát bội và viết được các công
trình nghiên cứu khoa học về tuồng, Bài chòi rồi còn chỉ đạo, chủ biên một số
loại hình sân khấu khác như: chèo, cải lương, dân ca, kịch nói .
Ông đã được Bộ Giáo dục, Học viện Nghệ thuật Sân khấu – Điện ảnh
Rumani phong hàm giáo sư năm 1996 và mới đây lại được Bộ trưởng Bộ
ngoại giao Rumani trao bằng danh dự với công lao làm cầu nối văn hóa giữa
hai nước Việt Nam – Rumani. Trong suốt 24 năm làm Phó Chủ tịch phụ trách
văn hóa Hội Hữu nghị Việt Nam - Rumani. Trên con đường học tập, lao động
nghệ thuật, ông đã thể hiện bản lĩnh sáng tạo không biết mệt mỏi, sự nhiệt
tình cùng ý chí bền bỉ và dẻo dai như ngọn lửa luôn cháy trong ông. Ông đã
thể hiện sự cống hiến say mê cho sự nghiệp giữ gìn bảo tồn và phát huy nền
văn hóa nghệ thuật dân tộc. Bằng lời nói và những việc làm cụ thể, bất kể ở
nơi đâu, ngay cả trên diễn đàn, ông kịch liệt phê phán khuynh hướng, việc
làm tổn hại đến văn hóa nghệ thuật dân tộc. Ông kiên trì bảo vệ nền văn hóa
truyền thống dân tộc như tuồng, chèo, cải lương, dân ca kịch, Bài chòi... Cho
đến nay, ông đã nghiên cứu và công bố nhiều công trình khoa học về lĩnh vực
này có giá trị và nhiều công trình nghiên cứu khác như nghệ thuật phật giáo,
múa rối nước, hát quan họ, Đờn ca tài tử... Ngoài ra, ông còn xuất bản được
nhiều cuốn sách ở các thể loại: Tuồng và võ thuật, Nghệ thuật tuồng với cuộc
sống hôm nay, Bài chòi và dân ca Liên Khu 5 (được giải thưởng của Hội sân
khấu Việt Nam), Những vấn đề về sân khấu truyền thống, Chân dung nghệ sỹ
Tài năng và việc sử dụng tài năng, Chuyện lạ người chiến sỹ đặc công – (thể
văn xuôi), đặc biệt là công trình về Đào Tấn...
5. 100 GIÁO SƯ việt nam TRỌN ĐỜI CỐNG HIẾN
Vietnamese professors dedicated lifetime
129
Không chỉ gìn giữ và phát huy mà còn đưa nghệ thuật truyền thống
dân tộc bay cao, bay xa
Sống gần trọn đời với nghệ thuật truyền thống của dân tộc, trải qua
hơn 60 năm làm việc trong ngành văn hóa nghệ thuật, GS Hoàng Chương là
nhà nghiên cứu vừa có lý luận lại có thực tế biểu diễn và là đạo diễn kết hợp
thực tiễn cùng lý luận một cách ngọt ngào. Ngoài những công trình trực tiếp
viết, ông còn chủ biên, chủ trì nhiều công trình nghệ thuật sân khấu truyền
thống và văn hóa dân tộc ở nhiều tỉnh, thành trên cả nước. Gần đây, ông còn
thuyết trình rất thành công về văn hóa dân tộc tại Malaixia (tháng 8 năm
2017). Mỗi năm, ông chủ trì gần 10 cuộc hội thảo khoa học, viết gần 40 bài
nghiên cứu đăng trên các báo, tạp chí trong cả nước, nói hàng chục lần trên
các đài truyền hình, đài TNVN. Đặc biệt, ông là người năng động luôn có
những ý tưởng mới thiết thực đạt hiệu quả trong công tác nghiên cứu để gìn
giữ và phát huy nghệ thuật truyền thống về văn hóa dân tộc không bị mất đi
do các dòng nghệ thuật thương mại thịnh hành lấn át. Nói về nghiệp tuồng
của ông, phải nhắc đến những đóng góp có giá trị mà ông đã để lại cho đời,
những vở tuồng và kịch dàn dựng ở nước ngoài được giới sân khấu Rumani
đánh giá cao. Ông đã nghiên cứu, sưu tầm, biên soạn được hơn 30 công trình
về tuồng, Bài chòi, cải lương, múa rối nước, quan họ, nghệ thuật phật giáo... và
những vấn đề sân khấu truyền thống kể cả làm chủ biên, trong đó có những
công trình như: Lịch sử sân khấu Việt Nam, Văn Hiến ở một số tỉnh thành...
Và ông còn là người nghiên cứu sâu, rộng về nhiều vấn đề liên quan đến sân
khấu truyền thống như cải lương, chèo, rối nước, quan họ, hát xẩm, ca Huế...
Đại sứ Rumani Valerui Arteni có nhận xét: GS Hoàng Chương là một chuyên
gia hàng đầu về văn hóa dân tộc Việt Nam được đào tạo ở Rumani. Một nhà
nghiên cứu Nhật Bản đã khuyên tôi nên tìm đọc những quyển sách của GS
Hoàng Chương… Trong những năm công tác, ông hay dẫn đoàn nghệ thuật
truyền thống của mình tham gia biểu diễn liên hoan nghệ thuật dân gian quốc
tế các nước trên thế giới (1994, 1995 ở Anh và Rumani), năm 2009 tại Nhật
Bản. Năm 2002, 2015 ở Đức, ở Pháp, 2010, 2011, 2012, 2016 ở Mỹ... Khi trung
tâm của ông giới thiệu tiết mục được chuẩn bị công phu thì các chuyên gia
phía Nhật Bản đã thẩm định và từ chối một số tiết mục khác, vì họ cho rằng
tiết mục này đã cải biên, bị lai căng hoặc sân khấu hóa. Những tiết mục âm
nhạc sử dụng điện tử thì họ từ chối. Ông cho biết thêm: không chỉ ở Nhật Bản,
các nước tiên tiến khác cũng đang tìm về văn hóa cổ truyền nước ta. Họ xem
việc bảo tồn văn hóa dân gian chính là bảo tồn một dân tộc, như ở Rumani –
nước nổi tiếng của châu Âu về nghệ thuật dân gian truyền thống nên họ thích
6. 100 GIÁO SƯ việt nam TRỌN ĐỜI CỐNG HIẾN
Vietnamese professors dedicated lifetime
130
giao lưu với Việt Nam. Trong khi đó, nghệ thuật dân gian ở nước ta đang có
nhiều biến thái đáng buồn: Tây thì đến ta học về tuồng còn ta thì lại quay lưng!
Giáo sư Hoàng Chương than phiền: "Người nghệ sỹ thời nay hát không còn
hay như các nghệ nhân thời trước, cách diễn cũng không đúng với quy tắc
của tuồng truyền thống". Theo ông, hát tuồng phải hát bằng hơi gan, hơi ruột
chứ không phải là hát theo cái lối tuồng quát, tuồng hét, hoặc hát từ cổ họng
trở ra như một số người vẫn hát. Là người đắm đuối với hồn nghệ thuật dân
tộc, ông thấy băn khoăn trước thực trạng hiện nay, nhưng vẫn cố gắng gìn giữ
và phát huy tuồng truyền thống để nhiều người hiểu về nó mà có nhận thức
đúng đắn về nghệ thuật truyền thống. Năm 2010, ông đã làm cố vấn và trực
tiếp giới thiệu về tuồng trong một chương tình lớn về nghệ thuật tuồng trên
VTV1. Chính vì thế, sau khi nghỉ hưu ông vẫn tiếp tục cống hiến và làm nhiều
việc để có thể khôi phục lại hình ảnh của tuồng nói riêng và sân khấu truyền
thống nói chung, cụ thể là ông vận động thành lập Trung tâm Nghiên cứu Bảo
tồn và Phát huy văn hóa dân tộc.
Nhà quản lý tài năng
Từ năm 2000, ông vận động được những người có tên tuổi lớn và có
uy tín trong ngành văn hóa như: nhà thơ Tố Hữu, nhạc sỹ Trần Hoàn, Bộ
trưởng Bộ VHTT Nguyễn Khoa Điềm, Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh,
GS.AHLĐ Vũ Khiêu, GS.VS Vũ Tuyên Hoàng, GS.VS Hoàng Trinh, NSND
Đào Mộng Long, NNC Mịch Quang, các giáo sư Trần Văn Khê, Nguyễn
Thuyết Phong, Thái Kim Lan, Trần Bảng, Hoàng Châu Ký, Trường Lưu, nhà
văn Thanh Hương, tiếp theo là GS.VS Đặng Vũ Minh, nhạc sỹ Vũ Mão, Trung
tướng nhà văn Hữu Ước... thành lập Trung tâm Nghiên cứu Bảo tồn và Phát
huy Văn hóa dân tộc Việt Nam (Trung tâm), một tổ chức nghiên cứu khoa học
về văn hóa nghệ thuật duy nhất trực thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ
thuật Việt Nam. Trong những năm qua, Trung tâm triển khai hoạt động trên
nhiều lĩnh vực nghiên cứu, hội thảo, sưu tầm, khảo nghiệm về văn hóa dân tộc
ở nhiều nơi, đóng góp cho sự nghiệp bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc, có
tác động tích cực trong xã hội được lãnh đạo trung ương, Chính phủ cùng các
Bộ, ngành và cơ quan chức năng đánh giá cao. Đặc biệt, có những hội thảo do
Trung tâm tổ chức để lại dấu ấn sâu đậm cho các nhà quản lý, người làm nghề
và nhiều người dân như: hội thảo Chủ tịch Hồ Chí Minh và nghệ thuật dân
tộc; Hội thảo quốc tế về thư nhật ý trong tù của Hồ Chủ tịch tại Thủ đô của
Rumani, hội thảo Tố Hữu với văn hóa dân tộc, danh nhân Lê Đại Cang, Đào
Tấn danh nhân văn hóa dân tộc; Nguyễn Diêu với tuồng, Tổng bí thư Lê Duẩn
7. 100 GIÁO SƯ việt nam TRỌN ĐỜI CỐNG HIẾN
Vietnamese professors dedicated lifetime
131
với văn hóa dân tộc (2 lần), Thủ tướng Phạm Văn Đồng với văn hóa dân tộc (2
lần), 100 năm ngày sinh của GS.AHLĐ Vũ Khiêu, Mịch Quang, Nguyễn Vĩnh
Bảo, Ứng Bình Thúc Gia Thị, Tống Phước Phỗ…
Xuất phát từ những yêu cầu bức thiết của việc bảo tồn và phát huy các
giá trị tinh hoa văn hóa truyền thống và được sự hỗ trợ của Liên hiệp các hội
Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Trung tâm đã triển khai thực hiện thành
công một số đề tài nghiên cứu khoa học, như: Tìm hiểu và khôi phục múa rối
nước dân gian, Nghệ thuật Quan họ, Thi pháp nghệ thuật Đào Tấn; 100 năm
ra đời và phát triển của nghệ thuật Cải lương… trực tiếp thực hiện dự án Phục
hồi nghệ thuật Bài chòi trên miền bắc, phục hồi hát xẩm Hà thành, phục hồi
đàn Lạc cầm Mác Tuyên để biểu diễn chào mừng Ðại lễ 1000 năm Thăng Long
– Hà Nội và thực hiện tuyển tập kịch bản 1.300 trang về Bình Ðịnh - Tây Sơn
với Thăng Long - Hà Nội và hàng chục công trình khác như: Tài năng và sử
dụng tài năng, bài chòi nghệ thuật dân gian đặc sắc… Trung tâm còn xuất bản
các công trình nghiên cứu, tổng kết học thuật có giá trị tiêu biểu: Văn hiến Hà
Tây xưa và nay; Văn hiến Hà Tĩnh – Truyền thống và hiện đại; Văn hóa Hưng
Yên xưa và nay; Văn hiến Quảng Ngãi truyền thống và hiện đại; Văn nghệ sỹ
trí thức Hưng Yên với Thăng Long Hà Nội, Văn hiến Hà Nam truyền thống và
hiện đại; Văn hiến Vĩnh Phúc truyền thống và hiện đại…
Trong những năm gần đây, Trung tâm còn phối hợp với Cục Nghệ thuật
biểu diễn (Bộ VHTT&DL) triển khai, thực hiện dự án “Sân khấu học đường”
của Chính phủ tại nhiều địa phương trong cả nước. Qua đó, các em học sinh
không những được làm quen, yêu thích nghệ thuật dân tộc mà còn biểu diễn
và thành lập các đội nghệ thuật truyền thống tại các trường phổ thông, biểu
diễn thường xuyên, Chương trình đã nhận được sự hưởng ứng mạnh mẽ của
GS Hoàng Chương giảng tuồng ở trường Đại học Hobath William Smith (New York)
8. 100 GIÁO SƯ việt nam TRỌN ĐỜI CỐNG HIẾN
Vietnamese professors dedicated lifetime
132
ngành giáo dục, ngành văn hóa thông tin và nhân dân địa phương cả nước.
Một việc làm nữa của Trung tâm cũng có ý nghĩa xã hội lớn lao là khởi xướng
và phối hợp chặt chẽ với Uỷ ban An toàn giao thông Quốc gia, Bộ Giao thông
vận tải và địa phương về văn hóa giao thông trên phương tiện truyền thông
đại chúng, văn học nghệ thuật, thông qua các tác phẩm nghệ thuật thấm sâu
vào văn hóa tham gia giao thông của người dân, từ đó đã góp phần cùng cơ
quan chức năng và cả cộng đồng xây dựng văn hóa giao thông, góp phần
giảm thiểu tai nạn giao thông, mang lại hạnh phúc cho mọi người. Ngoài ra,
Trung tâm còn hỗ trợ các nhạc sỹ, ca sỹ xây dựng các chương trình về nghệ
thuật truyền thống (nghệ thuật rối nước, hát xẩm, chầu văn, hát chèo)… biểu
diễn trong cả nước. Không chỉ tham gia nhiều hoạt động xã hội ở trong nước,
Trung tâm còn đẩy mạnh hợp tác quan hệ với nhiều nước trên thế giới, tổ
chức gặp mặt, tọa đàm với Tham tán văn hóa một số nước trong khu vực, châu
Âu, đặt mối quan hệ với các tổ chức âm nhạc dân tộc VN ở một số nước như:
Mỹ, Nhật, Hàn Quốc, Pháp, Rumani... thường xuyên đưa nghệ sỹ nhạc dân
tộc của Việt Nam đi biểu diễn ở khắp thế giới. Tất cả những hoạt động này
đều từ sáng kiến và tổ chức chỉ đạo của giáo sư Hoàng Chương. Để có những
thành quả đáng nhớ và đầy tự hào trong nhiều năm qua, ông với cương vị là
Giám đốc Trung tâm đã không ngừng học tập, lao động và sáng tạo, cũng như
nghiên cứu, tìm tòi, bảo tồn và phát huy nền văn hóa dân tộc Việt Nam. Ông
còn là người chủ trì, chủ biên nhiều công trình cấp bộ về văn hóa dân tộc. Ông
cũng đã tổ chức các hội thảo có được nhiều tiếng vang trong và ngoài nước,
như hội thảo quốc tế âm nhạc và sân khấu truyền thống Việt Nam và thế giới,
nghệ thuật truyền thống Đông Nam Á, mối quan hệ văn hóa Việt Nam – Hàn
Quốc ...
Hiện nay, ông đang làm giám đốc Trung tâm kiêm chủ nhiệm Tạp chí
Văn hiến Việt Nam. Ông còn là Chủ tịch hội thơ Đường kiêm cả Phó Chủ
Tịch Hội Hữu Nghị Việt Nam - Rumani, và Chủ tịch hội đồng hương Bình
Định, phải gánh vác nhiều việc vì mọi người tín nhiệm vào tài năng, đức độ
và lòng nhiệt tình của ông. Gần đây, Báo Sức khỏe & Đời sống, Tạp chí Văn
Hiến Việt Nam đã đăng bài: Vì mình và vì mọi người nói về tài đức của giáo
sư Hoàng Chương và nỗi đau về thời cuộc người có ác ý với ông. Đài truyền
hình ANTV làm chân dung giáo sư Hoàng Chương với tên phim là "Người
con vĩ đại của miền đất Võ", đài VOV làm chương trình với tên giáo sư Hoàng
Chương cánh chim không mỏi, đài truyền hình nhân dân cũng đã làm một
chương trình tương tự. Ông là người đề xuất sáng lập ra Giải thưởng Đào
Tấn để tôn vinh danh nhân văn hoá dân tộc, đồng thời thông qua giải thưởng
9. 100 GIÁO SƯ việt nam TRỌN ĐỜI CỐNG HIẾN
Vietnamese professors dedicated lifetime
133
động viên những người có cống hiến đáng kể cho nền văn hoá dân tộc. Ông
lập ra quỹ đồng hương để hỗ trợ cho học sinh nghèo học giỏi ở Bình Định,
tìm cách giúp đỡ những người gặp khó khăn, nghèo túng. Ông đã giành tiền
tiết kiệm mua tặng cho ông Lê Văn Hinh - một thương binh nặng người Bình
Định sống rất nghèo ở thành phố Vinh, chiếc tivi Nhật. Ông Hinh vô cùng
cảm động và viết thư cảm ơn, trong thư có đoạn “30 năm rồi tôi mới được xem
tivi tại nhà (trước đó chỉ đi xem nhờ) cả ngày lẫn đêm tôi nằm xem tivi để biết
mọi chuyện trong nước và trên thế giới, chiếc tivi còn cho tôi giảm được những
cơn đau từ những vết thương khó chữa...”. Ông còn viết sách “Chuyện lạ người
chiến sỹ đặc công” được tổ chức hội thảo ở Bộ Văn hóa và nhiều người đọc
hoan nghênh.
Giáo sư Hoàng Chương quan niệm nghệ thuật không lấy số lượng tác
phẩm làm thước đo, mà quan trọng hơn là trong số ít công trình đó có giá trị
tư tưởng và dấu ấn nghệ thuật. Vì vậy, ông đã dày công nghiên cứu cho việc
bảo tồn và phát huy văn hoá dân tộc, vì nó là thành quả của hàng ngàn năm
lao động sáng tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng
đồng các dân tộc Việt Nam, đã hun đúc lên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt
Nam. Nhìn từ góc độ văn hoá, khí thiêng của dân tộc - chính là các giá trị tinh
thần, là hồn cốt, là bản lĩnh của dân tộc Việt Nam. Ông khẳng định rằng, với
tầm vóc là nền văn hoá lâu đời ở phương Đông, một nền văn hoá phong phú
và bền vững, được nối tiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác. Người dân nước ta
chiến thắng bất kỳ kẻ thù xâm lược nào, bởi có một nền văn hoá Việt Nam là
sức mạnh tinh thần, trong truyền thống lâu đời với hơn bốn ngàn năm lịch
sử đã ăn sâu vào máu của mỗi người Việt Nam. Với diện mạo văn hoá hết
sức rộng lớn và phong phú, bắt nguồn từ văn hoá Đông Sơn, Hoà Bình, Sa
Huỳnh, ốc Eo... trải khắp từ bắc chí nam, từ miền xuôi lên miền ngược với
đa màu sắc của 54 dân tộc anh em, văn hoá Việt Nam không thua kém bất kỳ
một nền văn hoá nào trên thế giới. Phải chăng niềm tự hào về truyền thống
văn hoá dân tộc đã tiếp cho ông thêm sức mạnh và ý chí bền bỉ cho công cuộc
tìm tòi lưu giữ và phát huy những nét đặc sắc của sân khấu truyền thống như:
Tuồng, Chèo, Cải lương, Bài chòi, Múa Rối nước, dân ca Bắc Trung Nam...
cũng vì mục tiêu bảo tồn và phát huy văn hoá dân tộc nên ông đã tập hợp
được hàng chục Giáo sư, Viện sỹ, kể cả những GS nổi tiếng ở nước ngoài
là Trần Văn Khê, Thái Kim Lan, Nguyễn Thuyết Phong, Mecgaet, Batresser
và nhiều Tiến sỹ, NSND, NSƯT tham gia hoạt động nghiên cứu tại Trung
tâm và tạp chí Văn hiến Việt Nam. Ông đào tạo được những cán bộ trẻ trở
thành giám đốc như Mai Tuyết Hoa, Phạm Ngọc Anh, Tố Hoa, ngoài ra còn
10. 100 GIÁO SƯ việt nam TRỌN ĐỜI CỐNG HIẾN
Vietnamese professors dedicated lifetime
134
hướng dẫn nhiều nghiên cứu sinh trong
và ngoài nước. Ông tranh thủ sự ủng hộ
của các cấp lãnh đạo từ Trung ương đến
địa phương, các tổ chức, cá nhân trong
và ngoài nước để thực hiện công trình
nghiên cứu khoa học lớn, nhỏ, kết quả là
những hoạt động của Trung tâm đã được
dư luận đánh giá cao. Trung tâm đã được
nhận huân chương và bằng khen của
Thủ tướng Chính phủ. Nhân dịp Trung
tâm kỷ niệm 15 năm thành lập, ông đã
mời Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đến
dự và phát biểu đánh giá cao thành tích
của Trung tâm. Ông có sức lao động bền
bỉ đáng khâm phục, liên tục họp hành và
tổ chức hội thảo về văn hoá dân tộc cả
trong và ngoài nước, bận rộn trong việc
điều hành, quản lý cơ quan nhưng vẫn
tham gia viết nhiều trên các phương tiện
thông tin đại chúng, nói trên các kênh
VTV, đài truyền hình Việt Nam về văn hoá nghệ thuật. Ngoài ra, ông còn
tham gia giảng dạy và nói chuyện tại các trường đại học, các cơ quan trên
cả nước. Ông là GS duy nhất được mời giảng về văn hóa, nghệ thuật, truyền
thống Việt Nam cho sinh viên Mỹ sang thực tập tại Việt Nam và tại nước Mỹ.
Chỉ riêng năm 2004, 2005 ông được liên tiếp 2 giải thưởng Giải B (không
có giải A) của Hội sân khấu Việt Nam cho các công trình nghiên cứu "Bài chòi
và dân ca Liên khu 5, "Tuồng và võ thuật”. Giải thưởng của Liên hiệp các hội
Khoa học Kỹ thuật Việt Nam. Giải thưởng của Viện Nghiên cứu âm nhạc tại
Mỹ - là nhà hoạt động văn hoá suất sắc của Việt Nam. Ông đã viết ca ngợi
những bậc danh nhân như: Đào Tấn, Nguyễn Hiền Ninh, Ưng Bình Thúc Gia
Thị... và những người có đức, có tài, có công ở Việt Nam, như: GS.AHLĐ Vũ
Khiêu, soạn giả, nhà nghiên cứu Mịch Quang, nhạc sư Nguyễn Vĩnh Bảo, GS
Trần Văn Khê, GS Hoàng Châu Ký, GS Lê Ngọc Cảnh đến người trẻ như Võ
Thành Tân, Mai Tuyết Hoa, Kiều Oanh... Ông tham gia tích cực vào việc phát
hiện, bảo vệ, tôn vinh những di sản văn hoá dân tộc cùng những công trình
mới như “lạc cầm 16” của nhạc sỹ Mác tuyên, hoặc “Múa Rối nước Mini” của
Phan Thanh Liêm, “Hát Xẩm” của Mai Tuyết Hoa, đồng thời ông luôn kịp thời
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tiếp
giáo sư Hoàng Chương
tại văn phòng
11. 100 GIÁO SƯ việt nam TRỌN ĐỜI CỐNG HIẾN
Vietnamese professors dedicated lifetime
135
viết bài thơ ca ngợi những người bạn có thành công xuất sắc như: Vương Duy
Biên, Hữu Ước, Hồ Quang Lợi, Bắc Hà, Đào Hồng Tuyển và cả người vợ của
mình.
Chính những tâm huyết và đóng góp với nền văn hóa dân tộc nước
nhà, ông đã được bạn bè, đồng nghiệp và nhiều người quý mến dành những
tình cảm thân thiết và ấm cúng. Có nhiều nhà khoa học đã từng nói: “GS. TS
Hoàng Chương là người trí tuệ, chuyên môn sâu trong lĩnh vực lý luận nghệ
thuật và đặc biệt là sân khấu Tuồng. Sức làm việc của ông chúng ta phải noi
theo, luôn luôn sáng tạo, tìm tòi, đổi mới. Đối với đồng chí, đồng đội ông hết
sức yêu quý và là con người hết sức thẳng thắng, luôn luôn bảo vệ cái đúng,
cái tốt và đấu tranh với cái xấu cái không đẹp…”. Năm 2000, ông được Chủ
tịch nước tặng Huân chương Lao động hạng II. Năm 2005, ông tiếp tục được
Chủ tịch nước tặng Huân chương Lao động hạng Nhất. Năm 2010, ông được
Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam tôn vinh là 1 trong 10 nhà
khoa học tiêu biểu. Năm 2015, ông được bầu là điển hình tiên tiến, được Thủ
tướng Chính phủ mời đi dự Đại hội thi đua yêu nước toàn quốc. Năm 2016,
ông được Chủ tịch Liên hiệp hội khoa học kỹ thuật Việt Nam tặng bằng chiến
sỹ thi đua toàn liên hiệp hội Khoa học và kỹ thuật Việt Nam.
Cả nước biết đến ông và quý mến ông, bởi ông sống vì mình và vì mọi
người. Ông đã đóng góp không nhỏ cho sự nghiệp bảo tồn và phát huy văn
hóa dân tộc, đưa văn hóa nước ta hội nhập với thế giới.
BTV Hoa Lan