Cơ sở lí luận cơ bản và hành trình sáng tạo nghệ thuật của Ma Văn Kháng. Văn hóa là khái niệm mang nội hàm khá rộng, nó liên quan đến mọi mặt của đời sống vật chất cũng như đời sống tinh thần của con người. Văn hóa là sản phẩm do con người sáng tạo ra, nó chi phối đến toàn bộ hoạt động của con người. Giữ một vai trò khá quan trọng, văn hóa đã trở thành một trong những đối tượng nghiên cứu chính của nhiều nhà nghiên cứu thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Ngay từ năm 1952, hai nhà nhân loại học Mỹ là Alfred Kroeber và Clyde Kluckhohn đã thống kê được có tới 164 định nghĩa khác nhau về văn hóa được đề cập đến trong các công trình nổi tiếng. Từ đó đến nay còn có biết bao nhiêu định nghĩa mới. Tuy nhiên, ở phạm vi đề tài, chúng tôi chỉ đề cập đến một số định nghĩa phổ biến, được mọi người sử dụng nhiều nhất.
Cơ sở lí luận cơ bản và hành trình sáng tạo nghệ thuật của Ma Văn Kháng.docx
1. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CƠ BẢN VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO NGHỆ THUẬT
CỦA MA VĂN KHÁNG
1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản
1.1.1. Khái niệm văn hóa và văn học
1.1.1.1. Khái niệm văn hóa
Văn hóa là khái niệm mang nội hàm khá rộng, nó liên quan đến mọi mặt của đời
sống vật chất cũng như đời sống tinh thần của con người. Văn hóa là sản phẩm do con
người sáng tạo ra, nó chi phối đến toàn bộ hoạt động của con người. Giữ một vai trò
khá quan trọng, văn hóa đã trở thành một trong những đối tượng nghiên cứu chính của
nhiều nhà nghiên cứu thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Ngay từ năm 1952, hai nhà nhân
loại học Mỹ là Alfred Kroeber và Clyde Kluckhohn đã thống kê được có tới 164 định
nghĩa khác nhau về văn hóa được đề cập đến trong các công trình nổi tiếng. Từ đó đến
nay còn có biết bao nhiêu định nghĩa mới. Tuy nhiên, ở phạm vi đề tài, chúng tôi chỉ
đề cập đến một số định nghĩa phổ biến, được mọi người sử dụng nhiều nhất.
Theo quan niệm phương Tây: "Văn hóa lúc đầu được hiểu là canh tác, trồng trọt
(cultus). Có hai loại trồng trọt, một là trồng trọt ngoài đồng (cultusagri) và hai là trồng
trọt tinh thần tức là sự giáo dục, bồi dưỡng tâm hồn con người" (Theo Hướng tới một
nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc). Như vậy, hiểu một cách đơn giản thì văn hóa
luôn gắn liền với quá trình sáng tạo ra các sản phẩm vật chất và tinh thần, gắn liền với
hoạt động giáo dục của con người.
Từ xa xưa, người phương Đông cũng đưa ra định nghĩa văn hóa riêng của mình,
cách định nghĩa này về cơ bản là khác so với định nghĩa của người phương Tây. Người
phương Đông quan niệm "văn" là vẻ đẹp, "hóa" là sự biến đổi, hai chữ này khi ghép
lại với nhau mang ý nghĩa là sự biến cải, thay đổi cho đẹp ra.
Cùng với bước chuyển mình của thời gian, khái niệm văn hóa cũng được mở rộng
và hoàn thiện từ nhiều mặt. Đầu tiên phải kể đến định nghĩa của nhà nhân loại học
người Anh Edward Burnett Tylor trong cuốn Văn hóa nguyên thủy (1871): văn hóa
hay văn minh hiểu theo nghĩa rộng trong dân tộc học là một tổng thể phức hợp gồm
kiến thức, đức tin, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục và bất cứ những
12
2. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
khả năng, tập quán nào mà con người thu nhận được với tư cách là một thành viên của
xã hội.
Sau định nghĩa của E. Tylor, đã có hàng loạt những định nghĩa khác nhau về văn
hóa, mỗi định nghĩa lại đưa ra một cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau. Trong số đó,
định nghĩa văn hóa mà UNESCO đưa ra có tầm khái quát cao hơn cả: "Văn hóa là tổng
hợp các hệ thống bao gồm các mặt tình cảm, tri thức, vật chất, tinh thần của xã hội.
Văn hóa không thuần túy bó hẹp trong hoạt động sáng tạo nghệ thuật mà còn bao hàm
cả phương thức sống, những quyền cơ bản của con người, truyền thống, tín ngưỡng".
Trong định nghĩa của mình, UNESCO đã nhấn mạnh rằng mỗi nền văn hóa đều có
những tính riêng biệt, chính điều này đã làm nên nét đặc sắc, phong phú cho các nền
văn hóa.
Trên đây là một vài định nghĩa văn hóa tiêu biểu của các nhà nghiên cứu nước ngoài.
Các nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam cũng đưa ra không ít định nghĩa khác nhau về văn
hóa. Trong số đó, định nghĩa văn hóa của Trần Ngọc Thêm trong cuốn Cơ sở văn hóa Việt
Nam được các nhà nghiên cứu cũng như các học giả đánh giá cao và sử dụng nhiều nhất.
Họ coi đó như một công cụ đắc lực, một tiền đề lý luận đúng đắn mỗi khi tìm hiểu về văn
hóa: "Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng
tạo ra và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người
với môi trường tự nhiên và xã hội" [56, tr.10].
Xuất phát từ những khái niệm trên, chúng ta có thể hiểu văn hóa là sản phẩm của
con người. Nó được tạo ra và phát triển trong mối quan hệ qua lại giữa con người với
xã hội. Tuy nhiên, sau khi đã được tạo ra, chính văn hóa lại quay trở lại tham gia vào
hoạt động tạo ra con người, duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn hóa được truyền
từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa. Nó phản ánh trình độ
phát triển của con người cũng như xã hội mà những con người đó đang sống thông qua
hình thức tổ chức đời sống, mọi hoạt động của con người, những giá trị vật chất, tinh
thần mà con người sáng tạo ra.
Trong những năm gần đây, cùng với khái niệm văn hóa, các nhà nghiên cứu còn
quan tâm đến khái niệm bản sắc văn hóa - một khái niệm gần gũi với văn hóa. Bản sắc
văn hóa cũng được đề cập đến trong nhiều công trình nghiên cứu.
13
3. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Nếu xét từ phương diện từ nguyên thì "bản" có nghĩa là cơ bản, bản chất, còn "sắc" có
nghĩa là màu sắc, sắc thái. Hiểu theo sự cắt nghĩa đó thì "bản sắc" là những gì mang
tính đặc trưng nhất, căn bản nhất của một sự vật, hiện tượng; nó là cơ sở để phân biệt
sự việc, hiện tượng này với sự việc, hiện tượng kia. Nói như vậy thì bản sắc văn hóa
cũng là những nét đặc trưng, độc đáo và cơ bản nhất giúp chúng ta có thể nhận diện
được một nền văn hóa và phân biệt nền văn hóa này với một nền văn hóa khác. Cũng
theo đó, tìm hiểu bản sắc văn hóa trong sáng tác của Ma Văn Kháng là đi khai
thác những dấu ấn văn hóa nổi bật trong sáng tác của nhà văn - những điểm sáng
mang tính đặc trưng, độc đáo mà chỉ cần nhắc đến người ta nghĩ ngay đến Ma
Văn Kháng chứ không phải một nhà văn nào khác.
Khái niệm "màu sắc văn hóa": Theo như chúng tôi tìm hiểu, từ trước tới nay khái
niệm "màu sắc văn hóa" chưa từng được nhắc đến trong bất cứ từ điển văn học hay từ
điển thuật ngữ văn học nào. Bởi vậy trong đề tài "Màu sắc văn hóa trong tiểu thuyết
Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới", chúng tôi mạnh dạn đưa ra cách hiểu về màu sắc văn
hóa đó là: những sắc thái văn hóa được phản ánh trong các sáng tác của Ma Văn Kháng.
Đó là những nét văn hóa truyền thống được truyền qua nhiều thế hệ, đến nay vẫn đang
tồn tại và dần dần thay đổi sao cho vừa giữ được nét đẹp truyền thống, vừa phù hợp
với cuộc sống hiện tại.
1.1.1.2. Khái niệm văn học
Văn học hiểu theo nghĩa rộng là thuật ngữ gọi chung cho tất cả các hành vi ngôn
ngữ nói - viết và các tác phẩm ngôn ngữ. Nếu hiểu theo nghĩa này thì các tác phẩm
chính trị, tôn giáo, triết học... cũng được gọi chung là văn học. Còn hiểu theo nghĩa hẹp
thì văn học bao gồm các tác phẩm ngôn từ phản ánh những vấn đề xã hội thông qua
hình tượng nghệ thuật. Như vậy, nếu hiểu theo nghĩa hẹp thì tất cả các tác phẩm chính
trị, triết học, tôn giáo... đều nằm ngoài phạm vi khái niệm văn học.
Trong thực tế, nhiều khi khái niệm văn học được dùng tương tự như khái niệm
văn chương. Tuy nhiên, giữa hai khái niệm này có sự khác nhau về phạm vi nghĩa, khái
niệm văn học thường có phạm vi rộng hơn khái niệm văn chương. Văn chương thường
chỉ nhấn mạnh vào tính thẩm mĩ, tính sáng tạo của văn học về phương diện nghệ thuật
ngôn từ.
14
4. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Cũng giống như màu sắc đối với hội họa, đường nét đối với điêu khắc, giai điệu
đối với âm nhạc... ngôn ngữ cũng là yếu tố thứ nhất của văn học. Hay nói cách khác,
văn học chính là một loại hình nghệ thuật ngôn từ. Theo M. Gorki, ngôn ngữ nhân dân
là tiếng nói "nguyên liệu", còn ngôn ngữ văn học là tiếng nói đã được "những người
thợ tinh xảo nhào luyện". Những nhà văn lớn trên thế giới đều là những nhà ngôn ngữ
điêu luyện. Ngôn ngữ phản ánh khả năng sáng tạo của nhà văn, nó là phương tiện để
nhà văn xây dựng nên các hình tượng nghệ thuật của riêng mình. Thông qua những
hình tượng nghệ thuật ấy, mỗi nhà văn có thể thể hiện lập trường, quan điểm, suy nghĩ,
cách đánh giá, nhìn nhận cũng như thái độ của mình trước hiện thực cuộc sống.
Mặc dù có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về "văn học" nhưng chúng ta có
thể lựa chọn cách định nghĩa được trình bày trong cuốn: "Từ điển thuật ngữ văn học":
"Văn học là loại hình nghệ thuật sáng tạo bằng ngôn từ. Khái niệm văn học bao gồm
cả văn học dân gian, được sáng tác và lưu truyền bằng miệng từ đời này sang đời khác
và văn học viết được sáng tác và lưu truyền dưới hình thức văn bản viết (...). Văn học
là sự phản ánh của đời sống xã hội thể hiện sự nhận thức và sáng tạo của con người
(...) Văn học lấy con người làm đối tượng nhận thức trung tâm. Văn học nhận thức con
người với toàn bộ tính tổng hợp, toàn vẹn, sống động trong các mối quan hệ đời sống
phong phú và phức tạp của nó trên phương diện thẩm mĩ. Trong tác phẩm văn học,
nhà văn không chỉ nhận thức chân lý khách quan mà còn bộc lộ tư tưởng và tình cảm,
ước mơ và khát vọng của mình đối với con người và cuộc sống. Do đó, nội dung của
văn học là sự thống nhất biện chứng giữa phương diện chủ quan và phương diện khách
quan" [15, tr.401-402]
1.1.2. Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học
Nói về mối quan hệ giữa văn hóa và văn học, giáo sư Trần Đình Sử đã từng phát
biểu: "văn học có một vị trí không thể thiếu trong mỗi nền văn hóa". Có nghĩa là văn
hóa và văn học là hai khía cạnh có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Cụ thể hơn,
mối quan hệ giữa văn hóa và văn học là mối quan hệ hữu cơ giữa cái chung với cái
riêng, giữa cái toàn thể với cái bộ phận. Cùng với triết học, chính trị, tôn giáo...
văn học cũng là một bộ phận hợp thành của toàn thể cấu trúc văn hóa. Nếu như mỗi
một dân tộc để có thể hình thành nên những giá trị văn hóa trong xã hội đều phải trải
15
5. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
qua một quá trình tìm kiếm, chọn lọc, đấu tranh, sáng tạo thì văn học chính là nơi lưu
giữ những thành quả đấu tranh, những giá trị văn hóa ấy. Ở cách diễn đạt khác, văn học
chính là tấm gương phản chiếu của văn hóa bằng nghệ thuật ngôn từ hay "văn học là
văn hóa lên tiếng bằng ngôn từ nghệ thuật" (Huỳnh Như Phương).
Nhà nghiên cứu nối tiếng thế giới M. Bakhtin cũng khẳng định mối quan hệ gắn
bó mật thiết, không thể tách rời giữa văn hóa và văn học: "Văn học là một bộ phận
không thể tách rời của văn hóa. Không thể hiểu nó ngoài cái mạch nguyên vẹn của
toàn bộ văn hóa của một thời đại trong đó nó tồn tại" [63, tr.362]
Mỗi tác giả văn học, dù ít hay nhiều, trong mỗi tác phẩm của mình đều tái hiện
hình ảnh của một nền văn hóa - nơi mình sinh sống và gắn bó. Đó có thể là một nền
văn hóa lúa nước với những kinh nghiệm dân gian được đúc kết từ ngàn đời qua kho
tàng tục ngữ, ca dao; đó là những nét văn hóa của "một thời vang bóng" trong truyện
ngắn của Nguyễn Tuân; hay truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm, sẵn sàng hi
sinh cho lý tưởng của Đảng trong các tác phẩm thời kỳ kháng chiến; bản sắc văn hóa
các dân tộc thiểu số trong thơ, văn của Bàn Tải Đoàn, Vi Hồng, Y Phương, Ma Trường
Nguyên...
Văn hóa chi phối toàn bộ hoạt động sáng tạo - tiếp nhận văn học. Bản thân mỗi
người nghệ sĩ trong quan điểm, cách cảm, cách nghĩ, cách viết đều được chi phối bởi
một nền văn hóa nhất định. Điều đó giải thích tại sao trong tác phẩm văn học lại mang
dáng dấp của văn hóa. Sự chi phối đó đã tác động đến việc lựa chọn đề tài, thể hiện chủ
đề, xây dựng thế giới nhân vật... của một nhà văn. Về phương diện hoạt động tiếp nhận,
văn hóa cũng chi phối đến cách đánh giá, thưởng thức, thị hiếu thẩm mĩ của độc giả.
Như vậy, nếu muốn tìm hiểu những nét văn hóa đặc sắc của một thời đại, chúng ta có
thể căn cứ vào các tác phẩm văn học của thời đại đó.
Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học không phải là mối quan hệ một chiều mà
nó là mối quan hệ qua lại, tác động lẫn nhau. Nếu như văn hóa tác động đến sự hình
thành và phát triển của văn học thì ngược lại, văn học với những ưu điểm nhất định của
mình cũng tác động trở lại văn hóa. Đối với văn hóa, văn học chính là nơi bảo lưu tốt
nhất những giá trị văn hóa lâu đời. Trên thực tế, có những giá trị văn hóa, những
16
6. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
truyền thống văn hóa (phong tục, tập quán, lễ hội...) ta không tài nào tìm thấy hay bắt
gặp ở ngoài hiện thực cuộc sống mà chỉ có thể bắt gặp trong những tác phẩm văn học
dân gian. Trải qua hàng ngàn đời, những nét văn hóa đó đã dần dần bị mai một và mất
đi nhưng nó vĩnh viễn tồn tại trong văn học, trong trí nhớ của mọi người.
Bên cạnh đó, văn học còn góp phần khẳng định, định hướng những giá trị văn
hóa của nhân loại. Từ lâu nay, những nhà văn, nhà thơ đích thực đồng thời cũng chính
là những nhà văn hóa tích cực. Bằng khả năng sử dụng ngôn từ tài tình của mình, các
nhà văn, nhà thơ vừa khẳng định những giá trị văn hóa tích cực, qua đó góp phần bảo
lưu và tuyên truyền đến mọi người dân vừa đấu tranh, phê phán, lên án, bài trừ những
biểu hiện văn hóa tiêu cực nhằm góp phần thanh lọc, tạo nên một nền văn hóa trong
lành. Không chỉ vậy, nhiều nhà văn, nhà thơ thông qua các tác phẩm văn học của mình
còn đi tiên phong, định hướng cho sự phát triển của một nền văn hóa mới mẻ, tiến bộ.
Độc giả nhờ đó mà có thể điều chỉnh lại cách sống, cách suy nghĩ, ứng xử của bản thân
sao cho phù hợp.
1.1.3. Tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa
Như tìm hiểu ở trên, văn hóa và văn học có mối quan hệ mật thiết, có ảnh hưởng
và tác động qua lại lẫn nhau. Do vậy, hướng tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa là
một hướng tiếp cận đúng, mang nhiều triển vọng trong thời điểm hiện nay.
Để tiếp cận, nghiên cứu một tác phẩm văn học, có rất nhiều con đường, nhiều
phương thức khác nhau; chẳng hạn như tiếp cận từ phương diện xã hội học, thi pháp
học, thể loại, đặc điểm... Đây đều là những hướng tiếp cận được các nhà nghiên cứu
cũng như bạn đọc sử dụng. Phương thức tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa đang
ngày càng khẳng định được thế mạnh cũng như sự ưu việt của mình. Đặc biệt là trong
thời đại nước ta đang có xu hướng mở rộng giao lưu văn hóa với các nước trong khu
vực và trên thế giới.
Giáo sư Trần Đình Sử trong bài nghiên cứu của mình đã đề cập đến vai trò, tác
dụng của xu hướng tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa. Theo Giáo sư hướng tiếp cận
này đã "mở rộng phạm vi đề tài nghiên cứu văn học, cho phép người ta nhìn văn học
dưới nhiều góc độ mới đầy hứa hẹn"
17
7. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa là phương pháp tiếp cận ưu tiên cho việc
phục nguyên không gian văn hóa trong đó tác phẩm văn học đã ra đời, xác lập sự chi
phối của các quan niệm triết học, tôn giáo, đạo đức, chính trị, thẩm mĩ, quan niệm về
con người, cũng như sự chi phối của các phương diện khác nhau trong đời sống sinh
hoạt xã hội... Hiểu theo cách khác, phương pháp tiếp cận này chính là việc đặt một tác
phẩm văn học vào môi trường văn hóa đã chi phối, tác động đến tác phẩm ấy. Từ xưa
đến nay, văn hóa vốn là một mảnh đất trù phú, ươm mầm cho các sáng tạo nghệ thuật.
Mỗi nhà văn trên thế giới đều chịu ảnh hưởng của một nền văn hóa riêng, các nhà văn
Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Mạch nguồn văn hóa lâu đời của dân tộc
đã thấm sâu vào tâm hồn của các nhà văn, nhà thơ từ đó chi phối đến thế giới nghệ
thuật, đến cách cảm, cách nghĩ, cách nhìn nhận đánh giá một sự vật, hiện tượng cũng
như cách sử dụng ngôn từ trong mỗi tác phẩm văn học mà họ sáng tạo ra. Do vậy, để
có thể hiểu một cách tổng thể, khái quát; đi đến ngọn nguồn, tận cùng giá trị tư tưởng
của một tác phẩm văn học, ta không thể tách rời tác phẩm văn học ấy với những yếu tố
văn hóa điển hình được thể hiện.
Bên cạnh đó, việc tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa sẽ giúp cho chúng ta có
những nhận định đúng đắn về giá trị đích thực của một tác phẩm văn học. Bởi mỗi dân
tộc lại có một nền văn hóa riêng; nền văn hóa ấy chi phối, quyết định đến mọi chuẩn
mực trong xã hội mà con người phải nương theo.
Ngày nay, nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa là hướng tiếp cận đang ngày
càng được đề cao và mở rộng với nhiều mục đích nghiên cứu khác nhau: nghiên cứu
thiên về giải mã các hình tượng nghệ thuật, tìm ra nền tảng văn hóa lịch sử của nó;
nghiên cứu nhằm nhận diện và miêu tả các biểu hiện văn hóa tồn tại trong một tác phẩm
văn học; nghiên cứu ngôn ngữ của văn bản nghệ thuật từ đó hiểu nghĩa và cơ chế kiến
tạo nghĩa của nội dung cũng như hình thức của tác phẩm văn học từ bối cảnh văn hóa
- xã hội...
Trong cuốn "Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa" PGS.TS Trần
Nho Thìn đã đề cập đến một số bài viết thành công với hướng tiếp cận văn học từ góc
nhìn văn hóa này: đó là Hoài Thanh trong bài viết mở đầu cho cuốn "Thi nhân Việt
Nam", Trần Đình Hựu với công trình "Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại".
18
8. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Tác giả đã mạnh dạn đưa ra sự đánh giá của mình: "Hoài Thanh đã chọn cách so sánh
thơ mới với thơ cũ trên nền của sự thay đổi văn hóa do cuộc tiếp xúc văn hóa Đông -
Tây... Trần Đình Hựu lại chọn cách đọc văn học trung đại trên cơ sở phân tích ảnh
hưởng của tư tưởng triết học - đạo đức - thẩm mĩ của Nho giáo". Trong bài viết của
mình, PGS.TS Trần Nho Thìn cũng nhắc đến hướng nghiên cứu, tiếp cận Truyện Kiều
của nhà nghiên cứu người Pháp René Craysac: "đã tìm cách lý giải tư tưởng, hành động
của nhân vật Truyện Kiều trên cơ sở liên hệ với quan niệm đề cao gia đình, xem nhẹ
cá nhân của văn hóa phương Đông". Như vậy, hướng tiếp cận của nhà nghiên cứu
người Pháp này cũng xuất phát từ góc nhìn văn hóa.
Tính đến thời điểm hiện tại, đã có khá nhiều công trình, nhiều tác giả nghiên cứu
văn học trong mối quan hệ mật thiết với văn hóa. Tiêu biểu ở Việt Nam, ta phải nhắc
đến các bài nghiên cứu của Trần Nho Thìn, Trần Đình Hựu, Trần Ngọc Vượng, Đỗ Lai
Thúy, Trần Lê Bảo... Những tác giả này thông qua những công trình nghiên cứu của
mình đã đạt được những thành công nhất định, góp phần làm phong phú hơn, đa dạng
hơn xu hướng tiếp cận tác phẩm văn học.
Tiếp cận văn học dưới góc nhìn văn hóa cùng với những khuynh hướng tiếp cận
văn học khác đã góp phần lí giải, giải mã trọn vẹn một tác phẩm văn học qua đó làm
cho tác phẩm văn học ấy trở lên thú vị, hấp dẫn hơn.
1.2. Hành trình sáng tạo nghệ thuật của Ma Văn Kháng
Ma Văn Kháng là nhà văn từng được mệnh danh là "người khuấy động văn đàn Việt
Nam hiện đại" (Lưu Khánh Thơ). Mặc dù so về tuổi đời thì Ma Văn Kháng không bằng
Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải nhưng ông vẫn thuộc nhóm đại biểu tinh anh của văn
học một thời, xứng danh là một trong những ngọn cờ tiên phong đổi mới.
1.2.1. Vài nét về tiểu sử Ma Văn Kháng
Ma Văn Kháng tên thật là Đinh Trọng Đoàn, sinh ngày 1 tháng 12 năm 1936 tại
làng Kim Liên - Đống Đa - Hà Nội. Đó là một làng quê cổ, thanh bình nhưng nghèo
nàn, cuộc sống của mọi người dân vô cùng vất vả. Ma Văn Kháng đã theo học và tốt
nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
Năm 1954, sau khi hòa bình lặp lại, cũng giống như bao thanh niên cùng thế hệ,
nghe theo tiếng gọi của tổ quốc, Ma Văn Kháng đã quyết định rời quê hương Hà Nội
19
9. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
thân yêu để đến với vùng đất Tây Bắc tham gia hoạt động cách mạng. Tuổi trẻ của ông
gắn với rất nhiều nghề: dạy học, làm thư kí cho Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Lào Cai, làm phóng
viên, viết báo... sau đó là viết văn. Nhà văn đã có giai đoạn sống gắn bó với cuộc sống
lam lũ nhưng chứa chan tình cảm của người miền núi: cuộc sống tuy vẫn còn lạc hậu
nhưng rất đỗi chân tình của đồng bào các dân tộc thiểu số, những mảnh đời gieo neo
của người dân miền xuôi tha phương cầu thực và lập nghiệp ở đây, những trai gái hăm
hở lên khai hoang, xây dựng quê hương mới, những điều mới mẻ từ quan hệ thầy trò
ấp áp tình xuôi ngược. Chính cuộc sống nơi đây đã thu hút, mời gọi, tạo thành một vốn
sống phong phú cho con đường viết văn của ông sau này. Ông viết báo, viết văn như
là một sự thôi thúc của tâm hồn.
Năm 1961, ông cho trình làng truyện ngắn "Phố cụt". Kể từ đây, sự nghiệp văn
chương của ông bắt đầu.
Từ năm 1974, Ma Văn Kháng là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.
Sau khi đất nước hoàn toàn thống nhất, năm 1976, Ma Văn Kháng đã rời Lào Cai
- quê hương thứ hai của ông để trở về Hà Nội công tác với tư cách là một nhà văn
chuyên nghiệp. Bắt đầu từ thời điểm này, một giai đoạn mới mở ra với sự nghiệp viết
văn của ông.
Ma Văn Kháng từng giữ chức Tổng biên tập, Phó Giám đốc Nhà Xuất bản Lao
Động. Từ tháng 3/1995, ông là Tổng biên tập Tạp chí Văn học nước ngoài của Hội Nhà
văn Việt Nam.
Trong sự nghiệp sáng tác của mình, Ma Văn Kháng đã nhận được khá nhiều giải
thưởng có giá trị:
Giải thưởng loại B của Hội Nhà văn Việt Nam (1986) cho tiểu thuyết Mùa lá rụng
trong vườn.
Giải thưởng của Hội đồng văn xuôi Hội Nhà văn Việt Nam (1995) cho tập truyện
ngắn Trăng soi sân nhỏ
Giải thưởng văn học ASEAN
Giải thưởng Nhà nước về Văn học - Nghệ thuật năm 2001
Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật năm 2012 cho các tác phẩm
Truyện ngắn chọn lọc, Mưa mùa hạ, Côi cút giữa cảnh đời, Gặp gỡ ở La Pan Tẩn.
20
10. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
1.2.2. Hành trình sáng tạo nghệ thuật của Ma Văn Kháng
Trước khi đến và gắn bó với sự nghiệp văn chương, Ma Văn Kháng đã từng làm
khá nhiều nghề khác nhau. Nhưng tự bản thân ông thấy với những nghề đó, ông chưa
thực sự trải được hết lòng mình. Chỉ đến khi bước chân vào sự nghiệp văn chương, ông
mới có thể giãi bày được hết tâm tư, tình cảm với đất và con người nơi ông sinh sống,
nơi ông đã từng đến, ở và làm việc.
Truyện ngắn đầu tiên mở đầu cho văn nghiệp của Ma Văn Kháng là Phố cụt.
Ngay trong lần xuất hiện đầu tiên, truyện ngắn đã được in trang trọng trên trang nhất
của tuần báo Văn nghệ số 136, ngày 3/3/1961. Với cốt truyện đơn giản, văn mạch rõ
ràng, truyện ngắn đã được đông đảo người dân tiếp nhận, nó báo hiệu sự nghiệp văn
chương của một nhà văn lớn đã bắt đầu khởi hành.
"Phố cụt" là truyện ngắn miêu tả về số phận của một vài người sống trong một
ngõ phố nhỏ, heo hút miền núi. Trong cuộc sống lam lũ, vất vả ấy, tình yêu và hạnh
phúc vẫn nhen nhóm và nảy nở một cách dung dị, chất phác giữa những mảnh đời đơn
chiếc, từng hứng chịu những vết thương do chế độ cũ để lại. Đọc truyện ngắn, người
đọc cảm nhận được tấm lòng ấm áp, nhân hậu, một niềm tin sắt son của tác giả rằng dù
cho hoàn cảnh có xô đẩy đến đâu, những con người lao động lương thiện vẫn luôn giữ
vững phẩm cách, sự bao dung, nhân hậu của mình.
Sự nghiệp văn chương của Ma Văn Kháng được chia ra thành hai giai đoạn, đó
là giai đoạn trước 1975 và giai đoạn sau 1975.
Trước năm 1975, Ma Văn Kháng thường tập trung vào đề tài miền núi ở nhiều
thời điểm lịch sử khác nhau: dưới chế độ cũ, hiện thực cuộc kháng chiến chống Pháp,
chống Mỹ, hiện thực xây dựng xã hội Chủ nghĩa ở miền bắc. Xa Phủ đề cập đến sự đổi
thay trong suy nghĩ, nhận thức và hành động của những con người miền núi. Ở họ, dù
vẫn tồn tại những vết thương to lớn do chế độ cũ để lại nhưng họ đã biết chủ động
chuyển mình để trở thành những con người mới có thể tự làm chủ cuộc đời.
Cùng với quá trình sáng tạo nghệ thuật, nhà văn đã đặt ra vô số vấn đề nhức nhối:
đó là vấn đề con người miền núi sẽ ra sao, cuộc sống của họ sẽ thay đổi như thế nào
trước hiện thực lớn lao của dân tộc? Điều đặc biệt là dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào,
nhà văn cũng luôn tin tưởng vào phẩm chất tốt đẹp và khả năng, ý chí tự vươn lên khắc
phục hoàn cảnh của họ.
21
11. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Cái móng ngựa là truyện ngắn phản ánh quá trình xây dựng cuộc sống mới ở vùng
cao cũng như thái độ, tâm tư, tình cảm, cách ứng xử của những con người miền núi
trước hiện thực, trước những tập tục lạc hậu, mê tín dị đoan đã tồn tại từ lâu đời.
Như vậy, trước năm 1975, các sáng tác của Ma Văn Kháng chính là một bức tranh
sinh động đầy màu sắc về cuộc sống của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc.
Nhà văn đã hòa nhập và thấu hiểu cuộc sống của những con người nơi đây. Trong các
tác phẩm của ông, những người dân miền núi đều hiện lên vô cùng đẹp đẽ với tình yêu
quê hương da diết, với tính cách trung thực, thật thà, chất phác yêu đời và lòng nhiệt
thành với cách mạng.
Trước hiện thực cuộc sống khó khăn và phức tạp, nhà văn đã cần cù, bền bỉ từng
bước thâm nhập vào cuộc sống. Ông gặp gỡ, hỏi han, ghi chép rồi lặng lẽ chuyển hóa
hiện thực cuộc sống lên các trang văn của mình. Thông qua những hình tượng nhân
vật, Ma Văn Kháng đã đặt ra những vấn đề bức xúc của đời sống muôn mặt.
Có thể nói, cảm hứng bao trùm lên các sáng tác của Ma Văn Kháng giai đoạn
trước năm 1975 là cảm hứng ngợi ca. Ngợi ca những con người mới, cuộc sống mới
trên quê hương miền núi. Cùng nằm trong dòng chảy chung của văn chương giai đoạn
này, Ma Văn Kháng cũng đề cao những con người cộng đồng, coi nhẹ con người cá
nhân. Đó là những con người có ý thức chính trị cao, sẵn sàng quên cái tôi để hi sinh
cho cái chung của cả dân tộc. Với khuynh hướng sử thi, các nhân vật hiện lên như
những đại diện xứng đáng cho sức mạnh của cộng đồng. Ma Văn Kháng đã đứng trên
quan điểm chung của cộng đồng mà miêu tả, mà kể chuyện.
Sáng tác của Ma Văn Kháng giai đoạn này cùng với sáng tác của các nhà văn
khác đã góp phần khởi sắc cho nền văn học viết về đề tài miền núi. Tuy nhiên vẫn tồn
tại những hạn chế nhất định. Đó là sự đơn điệu, lặp lại của chủ đề, tư tưởng tác phẩm;
cách nhìn nhận thế giới nhân vật còn thuần nhất, đơn giản, một chiều, chưa thấy được
sự phức tạp, đa dạng, nhiều chiều của thế giới nhân vật.
Sau khi đất nước thống nhất, năm 1976, Ma Văn Kháng đã rời Lào Cai trở về Hà
Nội. Kể từ đây, sự nghiệp sáng tác của ông bước sang một trang mới với các sáng tác
ngày càng nở rộ, đề tài được mở rộng, nhiều chủ đề được khai thác sâu hơn, tinh tế
hơn. Cảm hứng sử thi bao trùm toàn bộ sáng tác giai đoạn trước đã dần thay thế, nhường
chỗ cho cảm hứng thế sự, đời tư.
22
12. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Thời kỳ này, các sáng tác của ông có sự đổi mới trên cả hai bình diện: nội dung
và nghệ thuật. Trải qua sự chiêm nghiệm đã được đúc kết qua nhiều năm, cách nhìn về
cuộc sống và con người của nhà văn đã có sự thay đổi lớn: cuộc sống luôn đa dạng,
phong phú, bề bộn và phức tạp nhưng chính sự đa đạng ấy đã làm nên cái mới trong
các sáng tác của ông.
Sau 1975, Ma Văn Kháng tập trung viết về hai mảng đề tài đó là đề tài miền núi
và đề tài thành thị. Ở mảng đề tài miền núi nhà văn đi sâu khai thác những vấn đề về
số phận và cuộc đời của con người
Ở mảng đề tài thành thị, nhà văn lại hướng ngòi bút của mình vào những vấn đề
nóng hổi của xã hội: vấn đề đời tư, thế sự, nhân sinh... Nhiều lĩnh vực, nhiều mặt của
cuộc sống đã được ông đề cập đến: tình yêu, tình dục, hôn nhân, gia đình, đạo đức, sự
tha hóa do tác động của đồng tiền... Qua các sáng tác của mình, nhà văn đã bộc lộ sự
trăn trở về số phận con người, về sự tác động khủng khiếp của hoàn cảnh đối với con
người từ đó dẫn đến những xung đột quyết liệt giữa con người với con người, giữa con
người với hoàn cảnh sống và giữa con người với chính bản thân mình. Vấn đề đặt ra là
làm thế nào để giữ vững nhân cách và hoàn thiện nhân cách con người trong hoàn cảnh
phức tạp ấy?
Ma Văn Kháng được coi là một trong những người "đi tiền trạm" cho đổi mới
văn học. Mưa mùa hạ (1982), Mùa lá rụng trong vườn (1985) là những tác phẩm có
tính chất mở đường. Không ra lời tuyên bố chính thức nào như Nguyễn Khải hay
Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng lặng lẽ dấn bước trên con đường đổi mới với một
quyết tâm mạnh mẽ. Sự đổi mới trong sáng tác của nhà văn bắt đầu từ Mưa mùa hạ khi
ông không để cho tác phẩm kết thúc có hậu kiểu truyền thống. Cả hai nhân vật chính
đều phải chết: một người chết vì bệnh còn một người thì hi sinh, lấy thân mình che
chắn cho con đê. Cả hai nhân vật đều ấp ủ trong mình những khát vọng đẹp đẽ về cuộc
sống nhưng cuối cùng họ lại phải ra đi trong sự ai oán, day dứt. Đây là lí do mà tác
phẩm đã bị kiểm duyệt, không cho xuất bản một thời gian, đến khi được xuất bản lại
gây ra biết bao nhiêu sóng gió.
Mùa lá rụng trong vườn ra đời tiếp tục gây chú ý mạnh mẽ đến bạn đọc. Mặc dù
ban đầu vẫn vấp phải những ý kiến trái chiều nhưng tác phẩm cuối cùng cũng vượt qua
được những thử thách và được chuyển thể thành kịch bản điện ảnh. Những va
23
13. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
đập, những trở ngại trên con đường viết văn càng hun đúc thêm ý chí, quyết tâm của
nhà văn muốn được phơi bày tất cả ra trước mắt độc giả.
Năm 1989, cuốn tiểu thuyết Đám cưới không có giấy giá thú được nhà văn mạnh dạn
tung ra đã gây ra một cú "sốc" mạnh cho dư luận. Theo thống kê, có tời vài ba chục bài
viết (cả đăng và chưa đăng) tranh luận sôi nổi về vấn đề được đưa ra trong tác phẩm. Trong
đó có nhiều ý kiến trái chiều, khen hết lời mà chê cũng kịch liệt.
Ngòi bút miêu tả của nhà văn đã đi sâu vào đời sống tâm hồn của con người mà
giãi bày. Hiện thực cuộc sống qua ngòi bút của ông hiện lên với tất cả những mâu
thuẫn, phức tạp, vừa có ánh sáng lại vừa có bóng tối. Viết về những xấu xa, bạc nhược
ấy, nhà văn luôn bộc lộ một nỗi đau nhân tình âm thầm, lặng lẽ. Trở về chốn thị thành
giữa lúc đất nước đang chuyển mình mạnh mẽ, Ma Văn Kháng đã bắt gặp biết bao cảnh
nhếch nhác, đốn mạt; tình trạng thiếu hụt nhân tình, ích kỉ, đạo đức giả, đố kị, ghen
ghét nhau: Người đánh trống trường, Trăng soi sân nhỏ, Chọn chồng, Xóm giềng, Côi
cút giữa cảnh đời...
Có thể nói, sau 1975, sáng tác của Ma Văn Kháng là một bức tranh chân thực, đậm
nét về đời tư thế sự phức tạp, đa đoan trong xã hội Việt Nam thời kỳ Đổi mới. Với một
nhãn quan tinh tế, một thái độ bao dung và một tấm lòng nhân ái, nhà văn luôn quan tâm
đến cuộc sống con người, những mối quan hệ, những cách ứng xử của con người trong
cuộc sống. Điểm nhìn trần thuật của nhà văn cũng có sự thay đổi khá lớn: nếu giai đoạn
trước là điểm nhìn bên ngoài thì sang giai đoạn này, bên cạnh điểm nhìn bên ngoài còn có
điểm nhìn bên trong. Có lúc người trần thuật lại ẩn mình để cho nhân vật tự bộc lộ nhưng
có khi nhà văn lại thể hiện cái tôi của mình trong tác phẩm.
Thông qua hai giai đoạn trong quá trình sáng tác của Ma Văn Kháng, chúng ta
thấy nhà văn có sự thay đổi trong cái nhìn đối với cuộc sống, trong cách lựa chọn đề
tài và trong nghệ thuật thể hiện. Chính sự thay đổi này khiến những tác phẩm của ông
vô cùng hấp dẫn với người đọc.
Tiểu kết chương 1
Trên cơ sở tìm hiểu nội hàm các khái niệm văn hóa và văn học, chúng tôi đã đi
sâu tìm hiểu mối quan hệ biện chứng giữa văn hóa và văn học, để cuối cùng khẳng định
hướng tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa là một hướng đi đúng đắn, cần thiết.
24
14. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Đặc biệt đặt trong bối cảnh giao lưu văn hóa toàn cầu như hiện nay thì việc giữ gìn bản
sắc văn hóa của mỗi quốc gia, dân tộc là một việc làm vô cùng quan trọng.
Trong sự nghiệp sáng tác của mình, Ma Văn Kháng không ra khỏi quỹ đạo chung
của dòng chảy văn học Việt Nam. Trước thời kỳ Đổi mới ông sáng tác trên nguồn cảm
hứng sử thi, sau đổi mới ông sáng tác trên nguồn cảm hứng thế sự đời tư. Với vai trò
đi tiên phong trong thời kỳ Đổi mới, sáng tác của Ma Văn Kháng mang những nét độc
đáo, mới lạ, thể hiện tài năng sáng tác của nhà văn.