SlideShare a Scribd company logo
1 of 84
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN QUỐC TUẤN
ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM,
TỪ THỰC TIỄN TẠI TỈNH BẮC NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Hà Nội - 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN QUỐC TUẤN
ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM,
TỪ THỰC TIỄN TẠI TỈNH BẮC NINH
Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8380104
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHẠM MINH TUYÊN
Hà Nội - 2020
LỜI CAM ĐOAN.
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và
trung thực. Kết quả nghiên cứu nêu trong Luận văn chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Quốc Tuấn
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA
LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ.................................................... 6
1.1. Khát quát chung về Luật sư ....................................................................... 6
1.2. Khái quát về địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự ................. 16
1.3. Những yếu tố ảnh hưởng tới địa vị pháp lý của Luật sư trong tố tụng hình
sự Việt Nam .................................................................................................... 23
Tiểu kết chương 1............................................................................................ 25
Chương 2 ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ TRONG BỘ LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015 TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH......... 26
2.1. Địa vị pháp lý của luật sư trong Bộ luật tố tụng hình sự ......................... 26
2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định về địa vị pháp lý của Luật sư trong tố
tụng hình sự từ thực tiễn tại tỉnh Bắc Ninh..................................................... 39
Tiểu kết chương 2............................................................................................ 56
Chương 3 MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO ĐỊA
VỊ PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ................ 57
3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự về địa vị pháp lý của luật sư ...... 57
3.2. Cần nhận thức đúng đắn vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự.. 64
3.3. Trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng.. 65
3.4. Tăng cường về số lượng và nâng cao về chất lượng đội ngũ luật sư....... 68
3.5. Tăng cường tuyên truyền giáo dục pháp luật........................................... 72
Tiểu kết chương 3............................................................................................ 73
KẾT LUẬN.................................................................................................... 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................... 76
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS: Bộ luật dân sự
BLHS: Bộ luật hình sự
BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
CQTHTT: Cơ quan tiến hành tố tụng
TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao
TNHS: Trách nhiệm hình sự
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
PLTTHS: Pháp luật tố tụng hình sự
CQĐT: Cơ quan điều tra
VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
TAND: Tòa án nhân dân.
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Luật sư tham gia tố tụng trong vụ án hình sự được xác định là người
bào chữa, có vị trí quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án, sự tham gia
của luật sư cũng là căn cứ góp phần giúp Tòa án ban hành bản án, quyết định
một cách chính xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Nhận thức được
tầm quan trọng của Luật sư tham gia bào chữa trong vụ án hình sự, thời gian
qua Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương chính sách khẳng định vị trí,
vai trò quan trọng của luật sư có thể kể đến như: Nghị quyết 08/NQ-TW của
Bộ Chính trị đã nêu: Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết
quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng
cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên
đơn, bị đơn, người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định
đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định....
Bên cạnh đó, Nghị quyết số 49-NQ/TW còn đề ra những định hướng rất quan
trọng đối với việc xây dựng và hoàn thiện chế định luật sư cho phù hợp với
tình hình mới của đất nước trước xu hướng pháp triển và hội nhập, cụ thể là:
Đào tạo, phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, có phẩm chất chính trị,
đạo đức, có trình độ chuyên môn; hoàn thiện cơ chế đảm bảo để luật sư thực
hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa, đồng thời xác định rõ chế độ trách
nhiệm đối với luật sư. Nhà nước tạo điều kiện về mặt pháp lý để phát huy chế
độ tự quản của tổ chức luật sư; đề cao trách nhiệm của các tổ chức luật sư
đối với thành viên của mình. Đặc biệt, ngày 28 tháng 7 năm 2017 Chánh án
TAND tối cao đã ban hành Thông tư số: 01/2017/TT-TANDTC Quy định về
phòng xử án đã quy định vị trí ngồi của luật sư là ngang hàng với Viện kiểm
sát. Có thể thấy vị thế của Luật sư ngày càng được coi trọng, địa vị pháp lý
của luật sư ngày càng được nâng cao, khẳng định sự quan trọng của chủ thể
2
này trong hoạt động tố tụng. Chính vì vậy BLTTHS 2015, đã sửa đổi, bổ sung
nhiều quy định mới, lần đầu tiên vấn đề tranh tụng được quy định trong cả
Hiến pháp và là một nguyên tắc cơ bản của BLTTHS (Điều 26 BLTTHS
2015), tạo mọi điều kiện thuận lợi cho luật sư tham gia tố tụng và phần nào
khẳng định vị trí pháp lý quan trọng của Luật sư. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn
có những quy định chưa thật sự hợp lý, vướng mắc bất cập, ảnh hưởng đến
hoạt động bào chữa của luật sư đặt ra yêu cầu cấp thiết của việc nghiên cứu,
kiến nghị hoàn thiện. Chính vì vậy, học viên lựa chọn đề tài: Địa vị pháp lý
của luật sư trong tố tụng hình sự Việt Nam, từ thực tiễn tại tỉnh Bắc
Ninh làm luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong khoa học luật hình sự, đã có một số công trình nghiên cứu liên
quan đến Địa vị pháp lý của luật sư như: Giáo trình Luật sư và nghề luật sư,
Học viện tư pháp; Phan Đăng Thanh – Trương Thị Hòa, Lịch sử nghề luật sư
ở Việt Nam, Nxb. Tổng hợp, TP. Hồ Chí Minh; Quy tắc đạo đức và ứng xử
nghề nghiệp luật sư Việt Nam của Liên Đoàn luật sư Việt Nam; Giáo trình
Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Tư pháp;
Viện khoa học pháp lý, Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2003, NXB. Tư pháp, Hà Nội, 2005; Trần Văn Biên và Đinh Thế Hưng, Bình
luận khoa học BLTTHS 2015, Nxb Hồng Đức, Hà Nội, 2016; Trần Văn Bảy
(2001), Người bào chữa trong tố tụng hình sự, Tạp chí khoa học pháp luật;
Nguyễn Ngọc Khanh, Nâng cao vị thế của người bào chữa tại phiên tòa hình
sự, Tạp chí Luật học, Số 7/2008; Đỗ Đình Nghĩa, “Địa vị pháp lý của người
bào chữa trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam những vấn đề lý luận và thực
tiễn”, Luận văn tiến sĩ Luật học; Ngô Thị Ngọc Vân, Hoạt động bào chữa của
luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Luật án tiến sĩ luật học
trường Đại học luật Hà Nội năm 2016.
3
Có thể thấy đề tài liên quan đến Địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng
hình sự Việt Nam chưa thật sự được quan tâm, thể hiện ở việc các công trình
nghiên cứu còn hạn chế, chưa có công trình nghiên cứu nào ở cấp độ luật văn
thạc sĩ nghiên cứu, do vậy đề tài “Địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng
hình sự việt nam, từ thực tiễn tại tỉnh Bắc Ninh” của học viên đảm bảo tính
mới và không bị trùng lặp.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về
địa vị pháp lý của luật sư qua đó đề xuất các giải pháp nâng cao địa vị pháp lý
của luật sư.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để hoàn thành được mục đích đặt ra của việc nghiên cứu, luận văn xác
định những nhiệm vụ phải giải quyết sau đây:
- Làm rõ những vấn đề chung về địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng
hình sự
- Trình bày và phân tích các quy định của pháp luật hình sự về địa vị
pháp lý của luật sư
- Phân tích nội dung và các điểm mới quy định về địa vị pháp lý của
luật sư theo quy định của BLHS 2015 và thực tiễn áp dụng địa vị pháp lý của
luật sư trong tố tụng hình sự tại tỉnh Bắc Ninh thông qua các vụ án cụ thể.
- Trình bày các giải pháp bảo đảm nâng cao địa vị pháp lý của luật sư
trong thực tiễn xét xử các vụ án hình sự.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những quy định của pháp luật tố
tụng hình sự hiện hành thể hiện địa vị pháp lý của luật sư.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Đề tài được giới hạn trong các quy định của pháp luật tố
tụng hình sự theo quy định của BLTTHS 2015 thể hiện địa vị pháp lý của luật
sư với tư cách tham gia tố tụng là người bào chữa.
Giới hạn về không gian: Trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh;
Giới hạn về thời gian: Trong giai đoạn 05 năm từ năm 2015 – 2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lê nin, trong đó có sự vận dụng tổng hợp các phương pháp duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử. Luận văn vận dụng những quan điểm cơ bản của
Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn bản pháp luật Việt
Nam, các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài đăng trên tạp
chí của các nhà khoa học pháp lý và các luật gia Việt Nam.
Bên cạnh đó, học viên còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể
như: phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp luật học so sánh,
phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, đánh giá để làm sáng tỏ các
vấn đề của đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Học viên nghiên cứu một cách hệ thống về những vấn đề lý luận và
thực tiễn làm rõ địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự. Luận văn có
những điểm mới sau đây:
5
- Phân tích được khái niệm, đặc điểm địa vị pháp lý của luật sư trong tố
tụng hình sự.
- Là công trình nghiên cứu đầu tiên có sự phân tích một các toàn diện
các quy định pháp luật về địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự tính
đến thời điểm hiện nay.
- Là cơ sở dữ liệu nghiên cứu, đa dạng hóa các công trình nghiên cứu
về quy định địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự.
- Làm sáng tỏ vấn đề về lý luận và thực tiễn về địa vị pháp lý của luật
sư trong tố tụng hình sự, từ đó góp phần đưa ra các giải pháp nâng cao địa vị
pháp lý của luật sư trong công tác tham gia giải quyết vụ án hình sự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn bao gồm ba chương:
Chương 1. Những vấn đề chung về địa vị pháp lý của luật sư trong tố
tụng hình sự
Chương 2. Địa vị pháp lý của luật sư trong BLTTHS 2015 từ thực tiễn
tỉnh Bắc Ninh
Chương 3. Một số đề xuất kiến nghị nhằm nâng cao địa vị pháp lý của
luật sư trong tố tụng hình sự
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Khát quát chung về Luật sư
1.1.1. Khái niệm luật sư
Ở các nước phát triển trên thế giới, nghề Luật sư xuất hiện từ rất sớm
và ngày càng được coi trọng. Lịch sử cho thấy, từ thời Hy Lạp, La Mã cổ đại
đến thời kỳ Trung cổ, nghề Luật sư đã xuất hiện trong đời sống xã hội tuy
nhiên vẫn mang tính tự phát và Luật sư thời kỳ này không thể hiện rõ và đầy
đủ các tính chất nghề nghiệp của họ, vai trò của Luật sư bị hạn chế bởi chế độ
xã hội chuyên quyền hà khắc. Đến chế độ tư bản, các cuộc đấu tranh vì dân
chủ, bình đẳng diễn ra thường xuyên đã buộc chính quyền các nước tư sản
phải mở rộng quyền dân chủ cho người dân, nhu cầu của người dân đối với
việc được đảm bảo quyền và lợi ích của mình trên cơ sở các quy định pháp
luật luôn thường trực. Nghề Luật sư thể hiện vai trò to lớn của mình, dần hình
thành một nghề tự do [18]. Cho đến nay, nghề Luật sư tại các quốc gia phát
triển luôn được xã hội tôn vinh là một nghề cao quý.
Tại Việt Nam, sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa được ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số
46/SL ngày 10/10/1945 về tổ chức các đoàn thể Luật sư. Sắc lệnh này quy
định việc duy trì tổ chức Luật sư đã có, đồng thời vận dụng linh hoạt các quy
định pháp luật của chế độ cũ về Luật sư nhưng không trái với nguyên tắc độc
lập và chính thể dân chủ cộng hòa. Tại Hiến pháp năm 1946 cũng khẳng định
quyền bào chữa là một trong những quyền cơ bản của công dân. Các bản Hiến
pháp năm 1959, năm 1980, năm 1992 tiếp tục ghi nhận và đề cao nguyên tắc
quan trọng này.
7
Tuy nhiên, phải đến năm 2001, khi Pháp lệnh Luật sư được ban hành
và có hiệu lực thì Luật sư mới thực sự được coi là một nghề nghiệp trong xã
hội. Theo pháp lệnh này thì: “Luật sư là người có đủ điều kiện hành nghề
theo quy định của pháp lệnh này và tham gia hoạt động tố tụng, thực hiện tư
vấn pháp luật, các dịch vụ pháp lý khác theo yêu cầu của các cá nhân, tổ
chức nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của pháp
luật”[35]. Kể từ khi áp dụng theo Pháp lệnh Luật sư năm 2001, đội ngũ Luật
sư nước ta không ngừng được tăng nhanh về số lượng và đảm bảo về chất
lượng hoạt động. Các tổ chức luật sư hoạt động ngày càng chuyên nghiệp,
khẳng định được vai trò của tổ chức xã hội – nghề nghiệp, đồng thời tạo tiền
đề cho tổ chức luật sư tại nước ta ngày càng phát triển, vươn xa hơn và tiến
tới hội nhập với bạn bè quốc tế.
Có thể nói, Pháp lệnh Luật sư năm 2001 là cơ sở pháp lý quan trọng để
luật sư hành nghề, đảm bảo đáp ứng nhu cầu về mặt pháp lý cho cá nhân và tổ
chức. Tuy nhiên, qua quá trình áp dụng thực tiễn, Pháp lệnh Luật sư năm
2001 đã bộc lộ hạn chế, chưa đáp ứng đủ và kịp thời với nhu cầu và xu hướng
hiện tại. Trước bối cảnh đó, ngày 29 tháng 6 năm 2006, Quốc hội khóa XI kỳ
họp thứ 9 đã thông qua Luật Luật sư. Luật Luật sư năm 2006 có hiệu lực thi
hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2007 và thay thế Pháp lệnh Luật sư năm 2001.
Tại Điều 2 Luật Luật sư năm 2006 quy định: “Luật sư là người có đủ
tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật này, thực hiện dịch vụ
pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau đây gọi chung là
khách hàng)”. Thực chất, đây không được coi là quy định về định nghĩa như
thế nào là Luật sư mà đây chỉ là quy định về tiêu chuẩn chung trở thành Luật
sư. Đó là người Luật sư phải có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy
định của Luật Luật sư năm 2006, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của
cá nhân, cơ quan, tổ chức (khách hàng của luật sư). Như vậy, có thể thấy,
8
pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ đều chưa có quy định cụ thể định nghĩa
về luật sư.
Do đó, hiện nay, có rất nhiều quan điểm khác nhau về định nghĩa Luật
sư, trong đó có một số quan điểm như sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Luật sư là người hoạt động bào chữa
chuyên nghiệp hoạt động trong đoàn Luật sư. Quan điểm này còn rất chung
chung và chưa thực sự đầy đủ, bởi lẽ ngoài hoạt động bào chữa, Luật sư còn
thực hiện rất nhiều các hoạt động khác, các dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của
khách hàng như tham gia bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
trong các vụ án hình sự, dân sự, lao động, kinh doanh thương mại… tham gia
tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng…
Quan điểm thứ hai: Luật sư là người hành nghề liên quan đến lĩnh vực
pháp luật khi có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của pháp
luật của mỗi quốc gia [36]. Quan điểm này cũng khá là chung chung và gần
giống với quy định tại Điều 2 Luật Luật sư năm 2006.
Quan điểm thứ ba: Theo Đại từ điển tiếng Việt: "Luật sư là người có
chức trách, dùng pháp luật bào chữa cho bị can trước tòa án" [21]. Theo học
viên, định nghĩa này chưa thực sự chính xác, bởi vì, theo quy định của pháp
luật hình sự Việt Nam, người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử được gọi
là bị cáo chứ không phải bị can. Hơn nữa, ngoài hoạt động bào chữa tại Tòa
án nhân dân cho bị cáo thì Luật sư còn thực hiện nhiều dịch vụ pháp lý khác
như đã phân tích tại quan điểm thứ nhất.
Hiện nay, để trở thành một Luật sư, người đó phải đáp ứng tiêu chuẩn
luật sư theo quy định của pháp luật hiện hành.
9
Theo quy định tại Điều 2 Luật luật sư 2006 và Luật luật sư sửa đổi
2012 thì: Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy
định của Luật này, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ
quan, tổ chức (gọi chung là khách hàng).
Tại Điều 10 Luật Luật sư năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm 2012 quy
định về tiêu chuẩn Luật sư như sau: "Là công dân Việt Nam trung thành với
Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng
cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành
nghề luật sư, có sức khỏe bảo đảm hành nghề luật sư thì có thể trở thành luật
sư".
Người đáp ứng đủ tiêu chuẩn luật sư như trên chỉ thực sự được gọi là
luật sư và được phép hành nghề Luật sư khi đáp ứng đủ hai điều kiện sau:
được cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư và đã gia nhập một Đoàn Luật sư
(Điều 11 Luật Luật sư năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm 2012).
Có thể thấy, trải qua các giai đoạn phát triển của đất nước cùng với chất
lượng lập pháp của Quốc hội ngày càng được nâng cao, các quy định về Luật
sư cũng được quy định bổ sung, chặt chẽ theo hương nâng cao vai trò của
Luật sư trong Bộ luật tố tụng hình sự. Chính vì vậy, đội ngũ các Luật sư cũng
ngày càng tăng về số lượng và chất lượng (Nếu năm 2009 số thành viên của
liên đoàn Luật sư Việt Nam mới chỉ là 5.300 Luật sư thì tới tháng 9/2019, số
lượng Luật sư đã là 13.563 Luật sư tăng 61%). Nghề luật sư trong xã hội cũng
được coi trọng. Do vậy, đối với các Luật sư ngoài những yêu cầu về kiến
thức, những trình độ chuyên môn cao, nhằm góp phần quan trọng vào việc
bảo vệ quyền con người, quyền công dân và góp phần bảo vệ pháp chế, thúc
đẩy sự phát triển của xã hội. Để làm tốt công việc của mình, thì ngoài yêu cầu
10
về chuyên môn, các Luật sư còn phải tuân thủ theo những quy chế đạo đức
nghề nghiệp riêng của nghề luật sư.
Phạm vi hành nghề của luật sư trong vụ án hình sự
Trong vụ án hình sự, luật sư bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người tố
giác và người bị tố giác; người bị tạm giữ, người bị bắt do phạm tội quả tang
hoặc đang bị truy nã; bị can, bị cáo và trong toàn bộ quá trình khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Luật sư tham gia tố tụng với tư cách người
bảo vệ quyền lợi hợp pháp hoặc người đại diện cho người bị hại, nguyên đơn,
bị đơn dân sự, người có quyền, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu Luật sư là một chức danh tư pháp
độc lập, chỉ những người đáp ứng đủ tiêu chuẩn là công dân Việt Nam trung
thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức
tốt, có bằng cử nhật luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập
sự hành nghề Luật sư, có sức khỏe bảo đảm hành nghề Luật sư và đáp ứng đủ
điều kiện được cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư và đã gia nhập một Đoàn
luật sư để hành nghề Luật sư thực hiện các hoạt động chuyên môn, cung ứng
các dịch vụ pháp lý cho khách hàng.
1.1.2. Phân biệt Luật sư với tư cách là người bào chữa trong vụ án
hình sự với người bào chữa
Trước hết, về người bào chữa: Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã mở
rộng phạm vi người tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa. Theo đó,
tại Khoản 1 Điều 72 Bộ Luật tố tụng Hình sự năm 2015 quy định: “Người
bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa”.
11
Tại Khoản 2 Điều 72 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định người
bào chữa có thể là những người sau:
“2. Người bào chữa có thể là:
a) Luật sư;
b) Người đại diện của người bị buộc tội;
c) Bào chữa viên nhân dân;
d) Trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối
tượng được trợ giúp pháp lý”.
Thứ nhất, về Luật sư:
Như đã phân tích tại phần 1.1.1 Khái niệm về luật sư thì Luật sư là một
chức danh tư pháp độc lập, chỉ những người phải đáp ứng đủ tiêu chuẩn là
công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật,
có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhật luật, đã được đào tạo nghề Luật sư,
đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức khỏe bảo đảm hành nghề
luật sư và đáp ứng đủ điều kiện được cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư và đã
gia nhập một Đoàn luật sư để hành nghề luật sư thực hiện các hoạt động
chuyên môn, cung ứng các dịch vụ pháp lý cho khách hàng.
Luật sư tham gia vụ án hình sự với tư cách là người bào chữa cũng phải
đáp ứng đủ các tiêu chuẩn và điều kiện để hành nghề luật sư theo quy định
của pháp luật hiện hành.
Thứ hai, người đại diện của người bị buộc tội:
Trước đây, trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định diện
người bào chữa có thể là “người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo” (Điều 56), nay được quy định khái niệm rộng hơn là “người đại
diện của người bị buộc tội.
12
Tuy nhiên trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 không quy định cụ
thể như thế nào là người đại diện của người bị buộc tội. Do đó, ta có thể vận
dụng kiến thức từ Bộ Luật Dân sự và Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015 để
nói về người đại diện của người bị buộc tội. Theo đó, người đại diện của
người bị buộc tội có thể là người đại diện theo pháp luật của người bị buộc tội
và người đại diện theo ủy quyền của người bị buộc tội. Trong đó, người đại
diện theo pháp luật của người bị buộc tội là bố mẹ đẻ, bố mẹ nuôi, người đỡ
đầu, anh, chị em ruột và những người theo quy định của pháp luật đối với bị
can, bị cáo là người chưa thành niên, người bị hạn chế năng lực hành vi.
Người đại diện của người bị buộc tội nếu không bào chữa cho bị cáo thì họ
cũng có những quyền như người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, họ tham gia tố
tụng với tư cách là người đại diện hợp pháp, nếu họ tham gia tố tụng với tư
cách là người bào chữa thì họ có quyền và nghĩa vụ như đối với người bào
chữa. Người đại diện theo ủy quyền của người bị buộc tội là người được
người bị buộc tội ủy quyền bào chữa cho họ. Nhìn chung, người đại diện cho
người bị buộc tội phải đáp ứng một số tiêu chuẩn sau: là người đã thành niên;
không bị tâm thần hay bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; là công dân Việt
Nam và cư trú tại Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác đối
với người đại diện của người bị buộc tội có quốc tịch là người nước ngoài,
người không có quốc tịch hoặc người Việt Nam ở nước ngoài.
Thứ ba, bào chữa viên nhân dân:
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 72 Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015
thì bào chữa viên nhân dân là công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, trung
thành với Tổ quốc, có phẩm chất đạo đức tốt, có kiến thức pháp lý, đủ sức
khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao, được Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam hoặc tổ chức thành viên của Mặt trận cử tham gia bào chữa
cho người bị buộc tội là thành viên của tổ chức mình.
13
Thứ tư, trợ giúp viên pháp lý:
Đây là một quy định mới của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Việc
bổ sung trợ giúp viên pháp lý có thể tham gia tố tụng hình sự với tư cách là
người bào chữa góp phần đảm bảo quyền bào chữa miễn phí cho các đối
tượng thuộc diện chính sách.
Căn cứ vào Điều 17 và Điều 19 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 thì trợ
giúp viên pháp lý có thể được hiểu là viên chức của Trung tâm trợ giúp pháp
lý nhà nước có phẩm chất đạo đức tốt; có trình độ cử nhân luật trở lên; đã
được đào tạo nghề luật sư hoặc miễn đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian
tập sự hành nghề luật sư hoặc tập sự trợ giúp pháp lý; có sức khỏe đảm bảo
thực hiện công việc trợ giúp pháp lý; không đang trong thời gian bị xử lý kỷ
luật.
Ngoài ra, tư vấn viên pháp luật có kinh nghiệm 02 năm tư vấn pháp luật
trở lên làm việc tại tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý; cộng tác viên trợ giúp
pháp lý và luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý theo Hợp đồng với Trung tâm trợ
giúp pháp lý nhà nước hay luật sư thực hiện trợ giúp theo sự phân công của tổ
chức tham gia trợ giúp pháp lý cũng là đối tượng được thực hiện công tác trợ
giúp pháp lý.
Như vậy, có thể thấy, Luật sư tham gia tố tụng hình sự với tư cách là
Luật sư bào chữa và người bào chữa, hai khái niệm này không đồng nhất với
nhau. Trong thực tế, mọi người luôn quan niệm rằng người bào chữa phải là
luật sư và luật sư luôn luôn là người bào chữa, những người khác không phải
là luật sư thì không thể là người bào chữa. Tuy nhiên, đây là quan niệm sai
lầm. Bởi lẽ, từ những phân tích ở trên có thể thấy người bào chữa ngoài luật
sư còn có người đại diện của người bị buộc tội; bào chữa viên nhân dân; trợ
giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được
14
trợ giúp pháp lý. Tuy nhiên, Luật sư để trở thành người bào chữa khi tham gia
tố tụng hình sự phải là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị can, bị
cáo trong vụ án hình sự. Bên cạnh đó, pháp luật có quy định chặt chẽ hơn đối
với luật sư tham gia tố tụng hình sự với tư cách là người bào chữa. Người luật
sư phải đáp ứng đủ tiêu chuẩn luật sư và điều kiện hành nghề. Còn những
người khác không phải luật sư thì không phải đáp ứng các điều kiện này. Ví
dụ: Luật sư bao giờ cũng phải là người đã có bằng cử nhân Luật, phải học qua
lớp đào tạo Luật sư, phải có thời gian tập sự và dự thi kỳ thi tuyển chọn Luật
sư (Trừ một số trường hợp đặc cách như đã là Thẩm phán, Kiểm sát viên hoặc
có học vị Tiến sĩ...), còn đối với người đại diện và bào chữa viên nhân dân,
cũng được coi là người bào chữa nhưng lại không yêu cầu phải có những tiêu
chí như của Luật sư.
1.1.3. Vai trò của Luật sư trong tố tụng hình sự
Trong hoạt động tố tụng hình sự, Luật sư có vai trò vô cùng quan trọng.
Cụ thể:
Thứ nhất, Luật sư có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức; bảo vệ công lý, công bằng xã hội góp phần
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Bởi vậy, nhắc tới luật sư là đa phần mọi người sẽ nghĩ ngay đến vai trò
đầu tiên của luật sư là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng.
Trong xã hội ngày nay, có nhiều bộ phận người dân nước ta có trình độ dân trí
thấp, chưa am hiểu pháp luật. Bên cạnh đó, trình độ, năng lực của các cán bộ
tham gia tiến hành tố tụng còn nhiều hạn chế hoặc có một số cán bộ có hành
vi cố ý làm trái với quy định pháp luật nhằm trục lợi… Do đó, cần phải có
Luật sư – người am hiểu pháp luật, áp dụng pháp luật vào thực tiễn nhằm bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các cá nhân, tổ chức (khách hàng), bảo vệ
15
công lý, công bằng xã hội, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa. Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng của luật sư
phải dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật. Trên cơ sở đó, Luật sư tư vấn,
giúp khách hàng đưa ra những ý kiến, yêu cầu hợp pháp đối với cơ quan tiến
hành tố tụng hướng tới việc giải quyết các vụ án được thấu tình đạt lý.
Thứ hai, Luật sư là cầu nối truyền tải pháp luật vào đời sống bằng các
hoạt động chuyên môn của mình.
Thông qua hoạt động tư vấn pháp luật, Luật sư giải thích pháp luật theo
nhu cầu của các cá nhân, tổ chức (khách hàng), tư vấn cho khách hàng những
quyền và lợi ích hợp pháp của họ trên cơ sở các quy định của pháp luật,
hướng dẫn khách hàng thực hiện, ứng xử theo đúng chuẩn mực của các quy
định pháp luật. Thông qua hoạt động bào chữa, Luật sư tuyên truyền, giải
thích những quy định của pháp luật cho bị can, bị cáo để họ hiểu được những
quy định của pháp luật, những điều pháp luật cấm hay những điều pháp luật
cho phép. Từ đó, giúp cho họ ý thức được những hành vi sai trái của mình để
họ có thái độ ăn năn, hối cải, biết sửa sai nhằm được hưởng sự khoan hồng
của pháp luật, giúp cho họ sớm được làm lại cuộc đời. Bằng các hoạt động
chuyên môn của mình, Luật sư góp phần tuyên truyền, phổ biến pháp luật.
Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật của Luật sư không chỉ dừng lại ở
việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho khách hàng của mình mà thông qua
việc tư vấn pháp luật hay tranh tụng tại phiên tòa, luật sư nói lên tiếng nói của
công lý với tất cả mọi người trong phòng xét xử. Đó cũng chính là cách gửi
thông điệp đến toàn bộ xã hội. Qua đó, góp phần nâng cao ý thức pháp luật
trong xã hội, nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật của nhân dân, chủ động tham
gia đấu tranh phòng, chống tội phạm.
16
Thứ ba, Luật sư cung cấp các dịch vụ pháp lý khác nhằm đáp ứng nhu
cầu của khách hàng.
Bên cạnh việc thực hiện tranh tụng và tư vấn pháp luật, luật sư còn thực
hiện các dịch vụ pháp lý khác như: Soạn thảo hợp đồng, thực hiện các công
việc liên quan đến thủ tục hành chính, làm chứng các giao dịch mà khách yêu
cầu không trái với quy định của pháp luật,... Trong xã hội luôn biến động,
thay đổi từng ngày thì các nhu cầu của khách hàng cũng rất đa dạng. Chính vì
thế, luật sư phải là người có kiến thức, am hiểu sâu sắc về pháp luật, về tình
hình chính trị, kinh tế - xã hội, luôn nâng cao kiến thức trên mọi lĩnh vực để
có thể phục vụ, đáp ứng được các nhu cầu đa dạng của khách hàng. Việc thực
hiện các dịch vụ pháp lý này góp phần giúp cho khách hàng tiết kiệm thời
gian, công sức, chi phí cho công việc. Đồng thời, các công việc mà luật sư
thực hiện góp phần đảm bảo hạn chế các tranh chấp có thể xảy ra.
Nhìn chung, qua các hoạt động hành nghề của mình, luật sư có vai trò
quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ
chức; bảo vệ công lý và lẽ phải; tuyên truyền, phổ biến pháp luật; cung ứng
dịch vụ pháp lý đến khách hàng. Tuy nhiên, để thực hiện các hoạt động này
có hiệu quả, người luật sư không phải chỉ có kiến thức sâu rộng về pháp luật,
hiểu biết chính trị, xã hội mà còn phải là người có “cái tâm” với nghề để tránh
những hành vi xuyên tạc, phá rối, lợi dụng kẽ hở của pháp luật để thực hiện
các hành vi không đúng chuẩn mực gây mất niềm tin của nhân dân vào pháp
luật và nhà nước.
1.2. Khái quát về địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự
1.2.1. Khái niệm địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự
Thực tế từ trước đến nay cũng chưa có khái niệm cụ thể thế nào là địa
vị pháp lý của Luật sự trong tố tụng hình sự. Theo Từ điển luật học: “Địa vị
17
pháp lý là vị trí của chủ thể pháp luật trong mối quan hệ với những chủ thể
pháp luật khác trên cơ sở các quy định của pháp luật. Địa vị pháp lý của chủ
thể pháp luật thể hiện thành một tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý của
chủ thể, qua đó xác lập cũng như giới hạn khả năng của chủ thể trong các
hoạt động của mình”[33].
Theo đó, địa vị pháp lý của luật sư là tổng thể các quyền và nghĩa vụ
của Luật sư theo quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của luật sư;
được quyết định bởi mô hình tố tụng hình sự, chức năng tố tụng hình sự,
cácnguyeen tắc của tố tụng hình sự, vai trò, vị trí của bị can, bị cáo và mối
quan hệ giữa luật sư với các chủ thể khác tham gia tố tụng trong vụ án hình
sự. Trong tố tụng hình sự, địa vị pháp lý của luật sư được xác định là khi luật
sư tham gia tố tụng với vai trò là người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự (Điều 72, Điều 84 Bộ Luật Tố tụng hình sự năm
2015).
Địa vị pháp lý của luật sư giúp luật sư thực hiện nhiệm vụ, có điều kiện
thực hiện các biện pháp bảo vệ cho khách hàng, thể hiện phẩm chất nghề
nghiệp, trách nhiệm nghề nghiệp nhằm gỡ bỏ cáo buộc cho bị can, bị cáo hoặc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng, góp phần vào việc giải
quyết vụ án đúng pháp luật, đúng người, đúng tội, bảo vệ pháp chế xã hội, tạo
lòng tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước.
Trong vụ án hình sự, luật sư có thể tham gia tố tụng với tư cách là
người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc là người bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp cho người bị hại, đương sự có quyền và lợi ích liên
quan đến vụ án… Tuy nhiên, địa vị pháp lý của luật sư sẽ được thể hiện rõ nét
nhất khi luật sư tham gia tố tụng hình sự với vai trò là người bào chữa.
Luật sư tham gia tố tụng hình sự với tư cách là người bào chữa cho
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (hay còn được gọi là luật sư bào chữa) với
18
mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được bào chữa, đồng
thời góp phần đảm bảo cho quá trình giải quyết vụ án hình sự được dân chủ
khách quan, đúng theo quy định của pháp luật. Trong quá trình tham gia tố
tụng hình sự, luật sư có thể giám sát việc tuân thủ pháp luật của cơ quan tiến
hành tố tụng, tránh tình trạng oan sai, vi phạm pháp luật, có thể kịp thời phát
hiện và kiến nghị để khắc phục hậu quả trong thực tiễn.
Luật sư tham gia tố tụng hình sự với tư cách là người bào chữa phải
đáp ứng các tiêu chuẩn của luật sư là người có trình độ, có kiến thức pháp
luật, có kỹ năng hành nghề và kinh nghiệm trong lĩnh vực bào chữa thì mới có
thể đảm bảo việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo một
cách hiệu quả nhất.
Khi tham gia tố tụng với tư cách là Luật sư bào chữa thì Luật sư bào
chữa có những đặc điểm cơ bản sau:
- Luật sư chỉ trở thành người bào chữa, khi được người buộc tội nhờ
bào chữa hoặc do các Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định tham
gia bào chữa.
- Để thực hiện chức năng bào chữa của mình, Luật sư phải đến Cơ quan
có thẩm quyền tiến hành tố tụng để đăng ký việc bào chữa và được Cơ quan,
người có thẩm quyền THTT tiếp nhận việc đăng ký bào chữa.
- Trong hoạt động tranh tụng, Luật sư được quyền vận dụng các ký
năng nghề nghiệp, kiến thức pháp luật để đưa ra các lý lẽ, chứng cứ nhằm
chứng minh sự vô tội của thân chủ hoặc làm nhẹ đi trách nhiệm hình sự cho
thân chủ mà mình nhận bào chữa.
- Khi tham gia tố tụng để bào chữa cho thân chủ mà mình nhận bào
chữa, Luật sư không có quyền và lợi ích riêng liên quan đến vụ án, hoạt động
của Luật sư chỉ nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ mình.
19
Từ những phân tích trên, có thể hiểu địa vị pháp lý của Luật sư trong tố
tụng hình sự như sau: “Địa vị pháp lý của Luật sư của Luật sư là được sử
dụng các quyền của Luật sư theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự trong
mối quan hệ với những chủ thể pháp luật khác trên cơ sở các quy định của
pháp luật. Từ đó xác lập cũng như giới hạn khả năng của các chủ thể pháp
luật khác trong các hoạt động của mình”.
1.2.2 Ý nghĩa của địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự
+ Ý nghĩa về mặt chính trị, xã hội
Việc quy định địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự với vai
trò là người bào chữa thể hiện tính nhân đạo của Nhà nước ta. Pháp luật quy
định quyền bào chữa của bị can, bị cáo nhằm để họ có quyền bảo vệ mình
trước pháp luật. Quy định về người luật sư tham gia tố tụng hình sự với tư
cách là người bào chữa là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can,
bị cáo góp phần cân bằng trạng thái giữa công dân và nhà nước, giữa người bị
buộc tội và người buộc tội – cơ quan tiến hành tố tụng. Như vậy, có thể thấy,
việc quy định địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự là biện pháp
đảm bảo tốt nhất quyền bào chữa của công dân, phù hợp với nguyên tắc Hiến
định. Bên cạnh đó, quy định này còn thể hiện tính dân chủ của Bộ Luật tố
tụng hình sự, góp phần củng cố, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa. Thông qua sự tham gia tố tụng của luật sư với tư cách là người bào
chữa góp phần giúp vụ án hình sự được giải quyết đúng đắn theo quy định của
pháp luật, đảm bảo cho pháp luật được tôn trọng và thực thi một cách nghiêm
chỉnh, việc giải quyết vụ án phải đúng người, đúng tội, tránh tình trạng lạm
quyền của cơ quan tiến hành tố tụng, tạo được niềm tin của người dân đối với
Đảng và Nhà nước ta.
20
Bên cạnh đó, việc quy định địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình
sự không chỉ có ý nghĩa đối với cá nhân người bị buộc tội mà còn có ý nghĩa
đối với mọi cá nhân trong xã hội. Bởi lẽ, thông qua hoạt động giải quyết vụ án
hình sự trên thực tế góp phần cho mọi công dân quan tâm đến vụ án có thể
hiểu được cái giá phải trả cho hành vi vi phạm pháp luật; quyền và nghĩa vụ
của mỗi công dân cần tuân thủ pháp luật, không làm những điều pháp luật
cấm. Thông qua hoạt động xét xử vụ án hình sự công khai cũng là một hình
thức tuyên truyền pháp luật đến với người dân, góp phần nâng cao ý thức
chấp hành pháp luật của mọi người.
Ý nghĩa về mặt pháp lý
Việc quy định quyền và nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng
hình sự có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với việc bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của người bị buộc tội. Qua đó góp phần quan trọng trong việc xác
định sự thật của vụ án, đảm bảo việc giải quyết vụ án được khách quan, toàn
diện, đầy đủ và đúng theo quy định của pháp luật, đảm bảo không làm oan
người vô tội. Thông qua sự tham gia của luật sư trong tố tụng hình sự còn góp
phần nâng cao hiệu quả hoạt động của của quá trình tiến hành tố tụng.
Dựa vào các quyền năng mà pháp luật trao cho luật sư với tư cách là
người bào chữa trong vụ án hình sự, luật sư có thể tham gia tố tụng từ khi
khởi tố vụ án, hay trong các trường hợp bắt người cho đến khi thi hành án.
Các quy định này giúp cho người bảo chữa có thể giám sát việc thi hành pháp
luật của các cơ quan tiến hành tố tụng và các chủ thể có quyền trong tố tụng
hình sự. Qua đó, đảm bảo rằng các cơ quan và chủ thể có thẩm quyền tiến
hành tố tụng phải thực thi đúng theo quy định của pháp luật.
Bên cạnh đó, thông qua hoạt động bào chữa của luật sư còn góp phần
tích cực vào việc thực hiện các nhiệm vụ của tố tụng hình sự đó là phòng
21
ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công
minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan
người vô tội, góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, đồng thời giáo dục
người dân ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội
phạm.
1.2.3. So sánh về địa vị pháp lý của Luật sư trong các mô hình tố
tụng
Trong hệ thống tư pháp hình sự trên thế giới từ trước tới nay vẫn tồn tại
hai mô hình tố tụng là tố tụng tranh tụng và tố tụng thẩm vấn (hay còn gọi là
xét hỏi). Cả hai hệ thống tố tụng nói trên đều hướng tới mục đích tìm ra sự
thật khách quan của vụ án, trừng trị người phạm tội và không làm oan người
vô tội.
Tuy nhiên xét về địa vị pháp lý của Luật sư, thì giữa các mô hình tố
tụng hiện nay cũng có sự khác biệt như sau:
- Đối với mô hình tố tụng tranh tụng, được sử dụng nhiều ở các quốc
gia như Anh, Mỹ, Australia... Đối với các quốc gia theo mô hình tố tụng tranh
tụng thì địa vị pháp lý của Luật sư cũng được coi trọng hơn, bởi vì theo mô
hình này Luật hình thức sẽ được đề cao hơn Luật nội dung với nguyên tắc
“Trọng chứng hơn trọng cung”. Hoạt động tranh tụng tại phiên tòa luôn mang
tính tự do, cởi mở giữa bên buộc tội và bên bị buộc tội với một thủ tục tố tụng
công khai và triệt để tôn trọng nguyên tắc tranh tụng, mọi chứng cứ viết, các
biên bản của Cảnh sát chỉ mang tính tham khảo chứ không được coi là chứng
cứ. Mà các chứng cứ sẽ do bên buộc tội và bên bào chữa đưa ra để chứng
minh sự có tội hay vô tội của bị cáo. Các bên đều bình đẳng với nhau trong
việc sử dụng pháp luật. Chính vì vậy, trong mô hình tố tụng tranh tụng thì vai
22
trò của Luật sư bào chữa rất được đề cao và đương nhiên địa vị pháp lý của
Luật sư trong mô hình này cũng được coi trọng. Chính vì vậy đã có câu ví
“Bệnh nhân có thể không có Bác sĩ điều trị, nhưng bị can, bị cáo phải có Luật
sư bào chữa[19].
Đối với mô hình tố tụng tranh tụng, tại phiên tòa Công tố viên chỉ đóng
vai trò chủ thể buộc tội còn Luật sư bào chữa sẽ đóng vai trò là chủ thể của
bên gỡ tội. Cả hai chủ thể này đều có thể sử dụng tất cả các kỹ năng, phương
tiện, biện pháp mà pháp luật cho phép để tranh luận, phản bác lẫn nhau và đều
cố gắng thuyết phục Tòa án chấp nhận quan điểm của mình. Tòa án chỉ đóng
vai trò trọng tài, bảo đảm cho các bên được tự do tranh tụng theo quy định của
pháp luật. Tòa án sẽ cấn nhắc các chứng cứ mà hai bên đưa ra, để đưa ra phán
quyết của mình chứ không có nghĩa vụ phải chứng minh tìm ra sự thật của vụ
án.
Địa vị pháp lý của Luật sư trong mô hình tố tụng tranh tụng được coi
trọng thể hiện ở việc, các Luật sư luôn được chủ động và độc lập trong việc
đưa ra các chứng cứ, vật chứng, các quan điểm pháp lý, để chứng minh sự vô
tội hay làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo mà mình bảo vệ. Luật sư
không bị ràng buộc, hạn chế gì từ phía công tố, ngoài việc phải tuân thủ các
quy định của tố tụng
- Đối với tố tụng thẩm vấn, Được sử dụng phổ biến ở các quốc gia như
Pháp, Tây Ban Nha, Đức, Áo, Hà Lan... Mô hình tố tụng thẩm vấn lại ngược
lại so với mô hình tố tụng tranh tụng là coi trọng Luật nội dung hơn Luật hình
thức (trọng cung hơn trọng chứng), nên các chứng cứ viết được coi trọng. Tố
tụng thẩm vấn lại đề cao vai trò của Tòa án, Thẩm phán vừa là người đưa ra
quyết định điều tra vụ án, có trách nhiệm tìm ra sự thật của vụ án và chỉ đạo
toàn bộ các giai đoạn tố tụng. Ở mô hình này thì Viện Công tố cũng có nhiều
23
quyền hạn hơn so với tố tụng tranh tụng. Tuy nhiên, theo mô hình này vai trò
của Thẩm phán là rất lớn, Thẩm phán hoạt động độc lập, điều tra làm rõ sự
thật của vụ án, tất cả các chứng cứ buộc tội hay gỡ tội đều do Thẩm phán điều
tra độc lập và ra các phán quyết trên nguyên tắc khách quan, tôn trọng sự thật.
Với đặc điểm như vậy thì, vai trò của Luật sư bào chữa cũng rất mờ
nhạt, dẫn đến địa vị pháp lý của Luật sư cũng không được coi trọng như tố
tụng tranh tụng.
Đối với Việt Nam, không hoàn toàn sử dụng mô hình tố tụng tranh tụng
hay tố tụng thẩm vấn mà chúng ta biết chắt lọc tìm tòi những tính ưu việt của
hai mô hình tố tụng trên để xây dựng mô hình tố tụng phù hợp với đặc điểm
của Việt Nam như khoa học thường gọi là “mô hình tố tụng pha trộn”. Với sự
kết hợp các yếu tố tích cực của hai mô hình trên nên ở Việt Nam Luật sư cũng
được đề cao và địa vị pháp lý của Luật sư cũng được coi trọng như đã phân
tích ở trên.
1.3. Những yếu tố ảnh hưởng tới địa vị pháp lý của Luật sư trong
tố tụng hình sự Việt Nam
Để bảo đảm địa vị pháp lý của Luật sự trong tố tụng hình sự Việt Nam,
thì phải có các yếu tố khách quan, chủ quan bảo đảm được việc thực hiện đầy
đủ các quyền và nghĩa vụ của Luật sư trong quá trình tham gia vào hoạt động
bào chữa bao gồm:
- Về yếu tố pháp luật, cần phải có Hệ thống pháp luật cả về hình thức
và nội dung cần phải đầy đủ, cụ thể, rõ ràng, minh bạch, tạo điều kiện để các
Luật sư áp dụng thống nhất, các văn bản, các quy định cũng cần phải quy định
cụ thể về quyền cũng như nghĩa vụ của Luật sư, làm rõ trách nhiệm của Luật
sư cũng như của các cơ quan và người có thẩm quyền THTT trong quá trình
giải quyết các vụ án hình sự. Các chủ thể buộc tội và gỡ tội đều có quyền bình
24
đẳng trong việc phát hiện, kiến nghị đối với mọi sai phạm của nhau và có
quyền yêu cầu khắc phục hoặc xử lý bằng chế tài pháp luật, nếu nghiêm trọng
thì đề nghị xử lý theo pháp luật hình sự. Tránh đề ra các quy định không công
bằng giữa Luật sư và bên công tố.
- Về yếu tố con người, Các Luật sư cũng cần phải chú trọng tới đạo đức
nghề nghiệp và trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đặc biệt là tôn trọng nguyên
tắc pháp chế trong tố tụng hình sự để không còn những nhận thức không đúng
từ phía người có thẩm quyền tố tụng cho rằng Luật sư tham gia tố tụng chỉ
gây rối, gây khó khăn cho các Cơ quan THTT thậm chí là “chạy án”, để từ đó
coi nhẹ vai trò của Luật sự và coi thường địa vị pháp lý của Luật sư.
- Yếu tố nhận thức của người dân, thực tiễn hiện nay không phải ở đâu
người dân cũng nhận thức đúng vai trò của luật sư, cũng còn một bộ phận
nhân dân chưa hiểu đúng về vai trò của Luật sư đặc biệt là ở giai đoạn điều tra
vụ án hình sự nên đã từ chối hoặc không mời Luật sư tham gia. Do vậy, nhiều
khi các Luật sư không có điều kiện tham gia vụ án sớm để thực hiện hiệu quả
quyền và nghĩa vụ của Luật sư trong việc tìm ra sự thật vụ án từ giai đoạn
điều tra.
25
Tiểu kết chương 1
Qua nghiên cứu những vấn đề chung về địa vị pháp lý của luật sư trong tố
tụng hình sự bằng cách phân tích khái quát chung về luật sư và địa vị pháp lý
của luật sư trong tố tụng hình sự, ta thấy được vai trò, ý nghĩa của luật sư
trong tố tụng hình đó là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ
chức; bảo vệ công lý, công bằng xã hội góp phần xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa; là cầu nối truyền tải pháp luật vào đời sống bằng các
hoạt động chuyên môn của mình;luật sư cung cấp các dịch vụ pháp lý khác
nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Ngoài ra, tại chương 1 cũng khẳng
định được địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự là có ý nghĩa vô
cùng quan trọng không chỉ đối với người bị buộc tội mà còn với cả tình hình
chính trị, xã hội của quốc gia. Thông qua những vấn đề chung được phân tích
tại chương 1 làm cơ sở, tiền đề cho việc đi sâu phân tích nội dung địa vị pháp
lý của luật sư trong tố tụng hình sự tại chương 2 của luận văn.
26
Chương 2
ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ NĂM 2015 TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH
2.1. Địa vị pháp lý của luật sư trong Bộ luật tố tụng hình sự
2.1.1. Khái quát về địa vị pháp lý Luật sư trong tố tụng hình sự trước
khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự 2015
Trải qua các giai đoạn lịch sử phát triển của đất nước, mặc dù có những
giai đoạn chúng ta chưa ban hành Bộ luật tố tụng hình sự, nhưng địa vị pháp
lý của luật sư luôn được đề cập và có sự quan tâm nhất định, đề cao vai trò
của Luật sư thể hiện thông qua các quy định về quyền và nghĩa vụ của người
bào chữa nói chung và của Luật sư nói riêng cụ thể như sau:
Ngay sau Cách mạng tháng tám thành công tháng 8/1945, Nước Việt
Nam dân chủ công hòa được thành lập thì ngày 13/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ký sắc lện số 33C về việc thành lập Tòa án Quân sự và tại Điều 5 của
Sắc lệnh 33C đã quy định “Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác
bênh vực cho họ”. Tại Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946 về việc Tổ chức các
Tòa án và các ngạch Thẩm phán thì tại Điều 46 đã quy định: “Các Luật sư có
quyền biện hộ trước tất cả các Tòa án, trừ Tòa án sơ cấp”.
Tại Bản Hiến pháp đầu tiên được Quốc hội thông qua ngày 9/11/1946
của Nước Việt Nam dân chủ công hòa đã ghi nhận địa vị pháp lý của Luật sư
thông qua quy định tại Điều 67 là “Bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc
nhờ luật sư bào chữa”. Trên tinh thần của Hiến pháp 1946, thì tại Sắc lệnh số
69 – SL ngày 18/6/1949, với quy định cho phép các bị can có thể nhờ một
công dân, không phải là luật sư, bênh vực trước Tòa án. Nếu bị can không có
27
ai bênh vực, ông Chánh án có thể tự mình hay theo lời yêu cầu của bị can cử
người bào chữa cho bị can.
Mặc dù các quy định trên, chưa quy định cụ thể về địa vị pháp lý của
Luật sư, nhưng đó chính là những quy định định hướng, bảo đảm địa vị pháp
lý của Luật sư khi tham gia hoạt động bào chữa trước Tòa án và bảo đảm
quyền bào chữa của người bị buộc tội trước Tòa án.
Tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa VIII ngày 28/6/1988, đã thông qua Bộ
luật tố tụng hình sự đầu tiên, ngoài các quy định về nguyên tắc chung, trình
tự, thủ tục giải quyết vụ án hình sự thì cũng đã có những quy định về địa vị
pháp lý của Luật sư thông qua các quy định về quyền và nghĩa vụ của người
bào chữa, như quy định về bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo (Điều
12); quyền và nghĩa vụ của người bào chữa (Điều 36). Theo đó, người bào
chữa nói chung và Luật sư có quyền tham gia tố tụng từ giai đoạn khởi tố bị
can; có quyền có mặt khi lấy lời khai của bị can và nếu Điều tra viên đồng ý
thì được phép đặt câu hỏi; quyền đề nghị thay đổi người THTT... Người bào
chữa được sử dụng mọi biện pháp theo pháp luật quy định để làm sáng tỏ
những tình tiết khách quan của vụ án và để chứng minh sự vô tội của bị can,
bị cáo hoặc những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo...
Có thể thấy, BLTTHS 1988, đã đánh dấu một bước tiến lớn trong quá
trình phát triển hệ thống pháp luật TTHS ở nước ta và đã có những quy định
cụ thể hóa các quyền và nghĩa vụ của Luật sư bào chữa. Những quy định này
đã tạo địa vị pháp lý của Luật sư bào chữa với các Cơ quan và người có thẩm
quyền THTT.
Quy định của BLTTHS 2003 về địa vị pháp lý của Luật sư
Tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khpas XI ngày 26/11/2003 đã thông qua
BLTTHS 2003, đã sửa đổi, bổ sung toàn diện BLTTHS 1988. Về địa vị pháp
28
lý của Luật sư thông qua các quy định về quyền và nghĩa vụ của người bào
chữa nói chung và Luật sư nói riêng, đã được mở rộng đáng kể so với quy
định tại BLTTHS 1988. Theo đó theo quy định tại Điều 58 thì Luật sư bào
chữa có quyền tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can và bắt người trong
trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang hoặc bắt người đang bị truy nã.
Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự thì Luật sư bào chữa có quyền
có mặt khi lấy lời khai bị can, nếu Điều tra viên đồng ý thì được quyền đặt
câu hỏi với người bị tạm giữ, bị can, có mặt trong các hoạt động điều tra khác;
xem các biên bản tố tụng mà có sự tham gia của mình; đề nghị Cơ quan điều
tra báo trước về thời gian, địa điểm khi lấy lời khai hoặc hỏi cung bị can; thay
đổi người THTT, phiên dịch, giám định; thu thập tài liệu, chứng cứ liên quan
đến vụ án và liên quan đến việc bào chữa...
Mặc dù các quy định của BLTTHS 2003, đã có nhiều tiến bộ hơn so
với BLYYHS 1988 đặc biệt là các vấn đề liên quan đến địa vị pháp lý của
Luật sư, song qua hơn 10 năm thi hành thì BLTTHS 2003 cũng bộc lộ nhiều
hạn chế, bất cập nói chung về công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và về
các quy định liên quan đến địa vị pháp lý của Luật sư nói riêng, nên đòi hỏi
cần phải sửa đổi, bổ sung toàn diện BLTTHS 2003 là một yêu cầu cấp thiết.
Chính vì vậy, tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIII ngày 27/11/2015 đã thông
qua BLTTHS 2015 có hiệu lực thi hành bắt đầu từ ngày 01/01/2018. Trong đó
BLTTHS 2015 đã xây dựng một chương mới là Chương V quy định về bào
chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự.
2.1.2. Địa vị pháp lý của Luật sư trong Bộ luật tố tụng hình sự năm
2015
2.1.2.1. Quyền của luật sư theo Bộ luật tố tụng hình sự 2015
29
Quyền của luật sư tham gia tố tụng hình sự với tư cách là người bào
chữa được quy định cụ thể tại Khoản 1 Điều 73 Bộ luật tố tụng hình sự năm
2015.
Tại điểm a, điểm b Khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 quy định
người bào chữa có quyền:
“a. Gặp, hỏi người bị buộc tội.
b. Có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị
can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì
được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi
cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người
bị bắt, người bị tạm giữ, bị can”.
Trước đây, tại điểm a, điểm b khoản 2 Điều 58 BLTTHS năm 2003 chỉ
quy định người bào chữa có quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm
giữ, khi hỏi cung bị can và người bào chữa cần đề nghị Cơ quan điều tra báo
trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can.
Quy định này dẫn đến tình trạng việc tham gia trong giai đoạn điều tra của
người bào chữa chỉ mang tính hình thức. Bởi lẽ cuộc gặp, hỏi này do Điều tra
viên chủ động lên kế hoạch, việc hỏi của người bào chữa chỉ được tiến hành
khi được Điều tra viên đồng ý, việc thông báo trước cho người bào chữa
thường không bảo đảm kịp thời gian để làm việc, hỏi cung bị can...
Hiện nay, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung thêm quy định mới về việc
gặp, hỏi người bị buộc tội. Qua đó, phân tách được hai cuộc gặp, hỏi như sau:
- Thứ nhất, theo điểm a Khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 thì luật
sư tham gia tố tụng hình sự với tư cách là người bào chữa có thể chủ động
30
tiến hành gặp, hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong bất cứ
giai đoạn tố tụng nào và không bị hạn chế số lần, thời gian gặp, được hỏi;
được trao đổi riêng tư với người bị buộc tội trong điều kiện giám sát của cơ sở
giam giữ mà không bắt buộc phải có những người tiến hành tố tụng. Tuy
nhiên, để được gặp người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam
thì người bào chữa phải xuất trình văn bản thông báo người bào chữa, Thẻ
luật sư hoặc Thẻ trợ giúp viên pháp lý hoặc Chứng minh nhân dân hoặc thẻ
Căn cước công dân Cơ quan quản lý người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo
đang bị tạm giam phải phổ biến nội quy, quy chế của cơ sở giam giữ và yêu
cầu người bào chữa chấp hành nghiêm chỉnh. Trường hợp phát hiện người
bào chữa vi phạm các quy định về việc gặp thì phải dừng ngay việc gặp và lập
biên bản, báo cáo người có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật.
(Theo Điều 80 BLTTHS năm 2015).
- Thứ hai, theo điểm b Khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 thì luật sư
tham gia tố tụng hình sự với tư cách là người bào chữa có thể có mặt tại cuộc
gặp do Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên chủ động tiếp hành, theo kế hoạch đã
được chuẩn bị trước nhằm lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi
cung bị can. Tuy nhiên, trong những cuộc gặp như này, người bào chữa chỉ
được hỏi người bị bắt, bị tạm giữ, bị can khi người có thẩm quyền tiến hành
lấy lời khai, hỏi cung đồng ý. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có
thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, bị tạm giữ, bị
can.
Theo điểm c Khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 quy định người bào
chữa có quyền: “Có mặt trong hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết
giọng nói và hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này”.
31
Đây là một quy định mới, cụ thể hơn trong BLTTHS năm 2015. Theo
đó, Luật sư – người bào chữa có quyền có mặt trong hoạt động đối chất, nhận
dạng, nhận biết giọng nói và hoạt động điều tra khác theo quy định của
BLTTHS. Quy định này nhằm đảm bảo quyền cho người bào chữa được tham
gia, có mặt trong các giai đoạn điều tra quan trọng góp phần giúp cho người
bào chữa có thể nắm bắt được các tình tiết vụ án một cách rõ nét và thu thập
chứng cứ có lợi cho thân chủ của mình.
Theo điểm d Khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 quy định người bào
chữa có quyền: “Được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về
thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành
hoạt động điều tra khác theo quy định của bộ luật này”.
Đây là quyền cơ bản của Luật sư tham gia tố tụng hình sự với tư cách
là người bào chữa. Bởi lẽ, luật sư phải được cơ quan có thẩm quyền tiến hành
tố tụng thông báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời
gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác thì luật sư bào chữa mới có
thể sắp xếp công việc để tham gia, có mặt trong các buổi gặp, hỏi cung người
bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam được Điều tra viên, Kiểm
sát viên sắp xếp.
Tại điểm đ Khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 quy định người bào
chữa có quyền: “Xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình,
quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa”.
Quyền “Xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình,
quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa” thực chất đã được
quy định từ BLTTHS năm 2003. Quy định này nhằm tạo sự giám sát lẫn nhau
giữa luật sư với người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Qua đó, phát hiện
những sai phạm kịp thời, đồng thời quy định này còn góp phần giúp cho cơ
32
quan tiến hành tố tụng và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện
công tác tiến hành tố tụng thận trọng hơn, thực hiện đúng theo quy định của
pháp luật, tránh những vi phạm trong tố tụng.
Tại điểm e Khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 quy định người bào
chữa có quyền: “Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng,
người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật;
đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế”.
Đây là một quy định được mở rộng phạm vi hơn so với BLTTHS năm
2003. Trước đây, tại BLTTHS năm 2003 quy định luật sư có quyền đề nghị
thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy
định của Bộ luật này. Ngoài việc đề nghị thay đổi các đối tượng như BLTTHS
năm 2003 đã quy định thì BLTTHS năm 2015 quy định thêm một số đối
tượng sau: người định giá tài sản, người dịch thuật. Ngoài ra, BLTTHS năm
2015 còn quy định việc người bào chữa có quyền đề nghị thay đổi, hủy bỏ
biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế. Đây là một quy định tiến bộ, mở
rộng hơn các quyền của người bào chữa khi tham gia tố tụng.
Tại điểm g Khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 quy định người bào
chữa có quyền: “Đề nghị tiến hành hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ
luật này; đề nghị triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng khác,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng”.
Theo báo cáo đánh giá thực trạng hành nghề luật sư trong tố tụng hình
sự, Liên đoàn Luật sư Việt Nam đã chỉ ra những hạn chế khi có nhiều hoạt
động tố tụng khác như chứng kiến việc khám nghiệm hiện trường, khám
nghiệm tử thi, xem xét các dấu vết trên thân thể, thực hiện điều tra, thu giữ
vật chứng, định giá và bán đấu giá tài sản… thiếu vắng vai trò và sự hiện diện
của luật sư. Ngoài ra, ngoại trừ một số vụ án liên quan đến các hành vi xâm
33
phạm hoạt động tư pháp, việc triệu tập Điều tra viên để làm rõ các vấn đề liên
quan việc vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, các dấu hiệu bức cung, nhục
hình, làm sai lệch hồ sơ vụ án… gần như không được pháp luật tố tụng hình
sự quy định cũng như không được tiến hành trên thực tế[26].
Chính vì vậy, BLTTHS năm 2015 quy định người bào chữa có quyền
đề nghị tiến hành hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này; đề nghị
triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng khác, người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng tại điểm g khoản 1 Điều 73 là phù hợp. Quy định này góp
phần giải quyết những bất cập trong thực tiễn tham gia tố tụng hình sự của
người bào chữa, góp phần nâng cao địa vị pháp lý, quyền của người bào chữa,
đồng thời làm rõ trách nhiệm của Điều tra viên, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án.
Tại điểm h, điểm i và điểm k Khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 quy
định người bào chữa có quyền:
“h, Thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu.
i, Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật
liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh
giá.
k, Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ,
giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản”.
Trước thời điểm BLTTHS năm 2015 có hiệu lực, nhiều hoạt động tố
tụng thiếu vắng sự hiện diện và vai trò của người bào chữa. Trong nhiều
trường hợp, người bào chữa tự mình thu thập chứng cứ, tài liệu từ phía nhân
chứng, tổ chức, cá nhân có liên quan nhưng đều bị cơ quan tiến hành tố tụng
từ chối hoặc gây khó khăn. Do đó, địa vị pháp lý của người bào chữa chưa
thực sự tương xứng với chức năng cơ bản trong tố tụng hình sự.
34
Để khắc phục tình trạng này, khoản 1 Điều 73 Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2015 đưa ra tới 3 quyền của người bào chữa gồm: Thu thập, đưa ra
chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về
chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng kiểm tra, đánh giá; Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản. Theo
đó, người bào chữa có quyền thu thập, đưa ra chứng cứ, kiểm tra, đánh giá và
trình bày ý kiến về chứng cứ. Trong trường hợp việc thu thập chứng cứ gặp
khó khăn, người bào chữa có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành
tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá tài sản.
Việc quy định như vậy nhằm đảm bảo quyền thu thập chứng cứ của người bào
chữa, góp phần nâng cao vị thế của người bào chữa trong tố tụng hình sự.
Tại điểm l Khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 quy định người bào
chữa có quyền: “Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án
liên quan đến việc bào chữa từ khi kết thúc điều tra”.
Quyền đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án là
những điều cần thiết giúp luật sư nắm vững các tình tiết của vụ án. Từ đó, luật
sư – người bào chữa nắm vững được bị can bị buộc tội trên cơ sở nào và tìm
hướng gỡ tội cho bị can.
Trước đây, trong BLTTHS năm 2003 quy định người bào chữa có
quyền đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan
đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật. Như
vậy, thời điểm sau khi kết thúc điều tra, hồ sơ vụ án đã được chuyển sang
Viện kiểm sát để xem xét việc truy tố. Còn BLTTHS năm 2015 quy định về
quyền này của người bào chữa là thời điểm từ khi kết thúc điều tra. Việc quy
định như vậy nhằm giúp cho người bào chữa sớm tiếp cận các tài liệu có
trong hồ sơ vụ án từ hoạt động điều tra của cơ quan có thẩm quyền, nhằm
35
nắm được các tình tiết, các yếu tố buộc tội quan trọng, từ đó tìm hướng bào
chữa cho thân chủ của mình.
Tại điểm m Khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 quy định người bào
chữa có quyền: “Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa”.
Thông qua việc hỏi, tranh luận tại phiên tòa, luật sư – người bào chữa
có thể làm sáng tỏ những vấn đề còn vướng mắc trong vụ án, làm rõ sự thật
khách quan, từ đó làm cơ sở cho Hội đồng xét xử xem xét, giải quyết vụ án
thấu tình đạt lý. Việc quy định tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa của
người bào chữa được xem là quyền cơ bản của luật sư – người bào chữa, góp
phần bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho bị cáo tại phiên tòa.
Tại điểm n Khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 quy định người bào
chữa có quyền: “Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng”.
Trường hợp thấy quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng không đúng, không có căn cứ theo quy định của
pháp luật hay vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng thì luật sư – người bào
chữa có quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng nhằm đảm bảo quyền lợi cho thân chủ của
mình.
Tại điểm o Khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 quy định người bào
chữa có quyền: “Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu bị cáo là
người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất theo quy
định của Bộ luật này”.
Nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo là người dưới 18
tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất, BLTTHS năm 2015 quy
định người bào chữa có quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án đối
36
với bị cáo thuộc đối tượng trên để đề nghị Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại
vụ án theo trình tụ phúc thẩm nhằm đảm bảo quyền lợi cho bị cáo.
Như vậy, có thể thấy, BLTTHS năm 2015 đã có những quy định cụ thể
hơn và bổ sung thêm một số quyền cho người bào chữa giúp cho người bào
chữa có thể thực hiện tốt chức năng bào chữa của mình trong hoạt động tố
tụng hình sự. Qua đó, thấy được vị thế của luật sư – người bào chữa trong tố
tụng hình sự.
2.1.2.2. Nghĩa vụ của luật sư theo Bộ luật tố tụng hình sự 2015
Pháp luật tố tụng hình sự hiện hành ghi nhận các quyền cho luật sư
tham gia tố tụng hình sự với tư cách là người bào chữa, đồng thời cũng quy
định người bào chữa có trách nhiệm, nghĩa vụ phải thực hiện trong quá trình
tham gia tố tụng như sau:
Tại điểm a Khoản 2 Điều 73 BLTTHS năm 2015 quy định người bào
chữa có nghĩa vụ: “Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng
tỏ những tình tiết xác định người bị buộc tội vô tội, những tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo”.
Nhiệm vụ của người bào chữa nói chung và luật sư nói riêng là bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội trong suốt quá trình tố tụng.
Do đó, để người bào chữa có thể thực hiện tốt công việc này, pháp luật quy
định họ có trách nhiệm sử dụng mọi biện pháp do luật định để làm sáng tỏ
những tình tiết xác định người bị buộc tội vô tội, những tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Theo đó, người bào chữa có thể sử
dụng mọi biện pháp để thực hiện nhiệm vụ bào chữa cho thân chủ của mình
nhưng phải dựa trên tinh thần tôn trọng sự thật khách quan và tôn trọng pháp
luật, tức là sử dụng mọi biện pháp hợp pháp để bảo vệ quyền và lời ích chính
đáng cho người bị buộc tội.
37
Tại điểm b Khoản 2 Điều 73 BLTTHS năm 2015 quy định người bào
chữa có nghĩa vụ: “Giúp người bị buộc tội về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của họ”.
Thông thường, người bị buộc tội thường có tâm lý không ổn định, thiếu
hiểu biết về pháp luật, không thể tự bào chữa cho chính mình một cách tốt
nhất. Do đó, cần phải có sự hiện diện của luật sư – người am hiểu pháp luật
sâu sắc tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa để giúp người bị buộc
tội về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ.
Tại điểm c Khoản 2 Điều 73 BLTTHS năm 2015 quy định người bào
chữa có nghĩa vụ: “Không được từ chối bào chữa cho người bị buộc tội mà
mình đã đảm nhận bào chữa nếu không vì lý do bất khả kháng hoặc không
phải do trở ngại khách quan”.
Trước đây, theo BLTTHS năm 2003, luật sư không được quyền từ chối
bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà mình đã đảm nhận bào chữa,
nếu không có lý do chính đáng. Đến BLTTHS năm 2015 quy định cụ thể hơn
là luật sư không được từ chối bào chữa cho người bị buộc tội mà mình đã đảm
nhận bào chữa nếu không vì lý do bất khả kháng hoặc không phải do trở ngại
khách quan. Như vậy, có thể thấy, nếu không phải là lý do bất khả kháng hoặc
do trở ngại khách quan thì luật sư không được từ chối bào chữa cho người bị
buộc tội mà mình đã đảm nhận bào chữa.
Ngoài ra, BLTTHS năm 2015 còn quy định một số nghĩa vụ mà luật sư
cần phải thực hiện là:
- Tôn trọng sự thật; không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục
người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật (Điểm d Khoản 2
Điều 73 BLTTHS năm 2015).
38
- Có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án; trường hợp chỉ định người bào
chữa theo quy định tại khoản 1 Điều 76 của Bộ luật này thì phải có mặt theo
yêu cầu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát (Điểm đ Khoản 2 Điều 73
BLTTHS năm 2015).
- Không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết khi thực hiện bào
chữa; không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án
vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi
ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân (Điểm e Khoản 2 Điều 73
BLTTHS năm 2015).
- Không được tiết lộ thông tin về vụ án, về người bị buộc tội mà mình
biết khi bào chữa, trừ trường hợp người này đồng ý bằng văn bản và không
được sử dụng thông tin đó vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi
ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân
(Điểm g Khoản 2 Điều 73 BLTTHS năm 2015). Đây là điểm mới so với
BLTTHS năm 2003 nhằm đảm bảo bí mật của vụ án, về người bị buộc tội mà
luật sư đảm nhận việc bào chữa.
Có thể thấy, trong suốt quá trình tham gia tố tụng, luật sư với vai trò là
người bào chữa không chỉ có nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng
cho người bị buộc tội mà còn có nhiệm vụ tôn trọng, bảo vệ pháp luật và bảo
vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Theo đó, luật sư muốn bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho người bị buộc tội thì phải tôn trọng sự thật khách quan và tôn
trọng pháp luật. Bên cạnh đó, luật sư muốn đảm bảo pháp chế xã hội chủ
nghĩa thì phải đảm bảo việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị
buộc tội trên cơ sở áp dụng đúng pháp luật. Do đó, để đảm bảo thực hiện tốt
các nhiệm vụ này, luật sư với tư cách là người bào chữa cần phải thực hiện
các quyền và nghĩa vụ của mình theo đúng quy định của pháp luật.
39
2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định về địa vị pháp lý của Luật sư
trong tố tụng hình sự từ thực tiễn tại tỉnh Bắc Ninh
2.2.1. Tổng quan điều kiện kinh tế - xã hội của tỉnh Bắc Ninh
Bắc Ninh là một tỉnh cửa ngõ phía Bắc của Thủ đô Hà Nội, trung tâm
xứ Kinh Bắc cổ xưa, mảnh đất địa linh nhân kiệt, nơi có truyền thống khoa
bảng và nền văn hóa lâu đời. Tỉnh Bắc Ninh có 08 đơn vị hành chính cấp
huyện gồm 01 thành phố, 01 thị xã và 06 huyện.
+ Phía Bắc giáp tỉnh Bắc Giang.
+ Phía Nam giáp tỉnh Hưng Yên.
+ Phía Đông giáp tỉnh Hải Dương.
+ Phía Tây và Tây Nam giáp thủ đô Hà Nội.
Tỉnh Bắc Ninh với diện tích tự nhiên 823 km2, có 8 đơn vị hành chính
cấp huyện gồm 01 thành phố Bắc Ninh, 01 thị xã Từ Sơn và 06 huyện bao
gồm: Yên Phong, Quế Võ, Tiên Du, Thuận Thành, Gia Bình, Lương Tài.
Tỉnh Bắc Ninh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ: Hà Nội, Hải
Phòng, Quảng Ninh, khu vực có mức tăng trưởng kinh tế cao. Bắc Ninh có
các trục đường giao thông lớn quan trọng chạy qua, nối liền tỉnh với các
Trung tâm kinh tế, văn hoá và thương mại của phía Bắc, Việt Nam như:
- Đường Quốc lộ 1A;
- Quốc lộ 1B mới;
- Quốc lộ 18: Quốc lộ 18 sau khi cải tạo sẽ là đường giao thông rất
thuận tiện đi sân bay Quốc tế Nội Bài và đi cảng biển nước sâu Cái Lân,
Quảng Ninh.
- Quốc lộ 38, Tuyến đường sắt xuyên Việt đi Trung Quốc.
40
Có thể thấy, với vị trí địa lý thuận lợi, giao thông phát triển góp phần
làm cho Bắc Ninh thuộc tỉnh phát triển nền kinh tế mạnh mẽ của cả nước, tạo
cho Bắc Ninh nhiều lợi thế về phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng
cao chất lượng đời sống xã hội.
Trong những năm trở lại đây, tỉnh Bắc Ninh có sự thay đổi vượt bậc về
kinh tế - xã hội, các khu dân cư mới liên tục được xây dựng, khu công nghiệp,
khu chế xuất liên tục phát triển đã khiến hàng nghìn lao động từ các địa
phương lân cận và một số tỉnh miền núi đổ về lao động kiếm sống. Ngoài ra,
tỉnh Bắc Ninh có nhiều chính sách thu hút đầu tư nước ngoài. Do đó, nhiều
người lao động nước ngoài về Bắc Ninh lưu trú và lao động. Điều này làm gia
tăng tỷ lệ tội phạm trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Cụ thể:
Theo Báo cáo tổng kết công tác năm 2018 của Công an tỉnh Bắc Ninh,
Công an tỉnh đã thực hiện điều tra làm rõ 561/714 vụ phạm pháp hình sự, mở
rộng điều tra 71 vụ, tỷ lệ điều tra chung đạt 80,5%; án rất nghiêm trọng và đặc
biệt nghiêm trọng điều tra làm rõ 52/54 vụ, mở rộng 3 vụ, đạt tỷ lệ 96,5%; bắt
294 vụ, 1355 đối tượng cờ bạc (so năm 2017 giảm 19 vụ), trong đó khởi tố
104 vụ, 646 bị can, còn lại xử lý hành chính…[37]
Theo Báo cáo sơ kết công tác công an 06 tháng đầu năm 2019 của
Công an tỉnh Bắc Ninh, trong 06 tháng đầu năm (tính từ ngày 16/12/2018 đến
15/6/2019) toàn tỉnh Bắc Ninh xảy ra 282 vụ phạm pháp hình sự, trong đó
điều tra làm rõ 215 vụ với 407 đối tượng, điều tra mở rộng 59 vụ, đạt tỷ lệ
điều tra 80,4%; phát hiện, bắt giữ 425 vụ, với 591 đối tượng mua bán, vận
chuyển, tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy, trong đó khởi tố 345 vụ, với
382 bị can, còn lại xử lý hành chính[38].
Nhìn chung, trong những năm gần đây, tình hình kinh tế - xã hội tại
tỉnh Bắc Ninh phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng so với các tỉnh khác trong cả
41
nước. Bên cạnh mặt tích cực của nền kinh tế - xã hội phát triển của trên địa
bàn tỉnh Bắc Ninh thì luôn tồn tại mặt tiêu cực của xã hội đó là tình hình tội
phạm xảy ra khá nhiều. Trong nhiều vụ án hình sự, nhằm đảm bảo quyền và
lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội cần phải có luật sư tham gia tố tụng
với tư cách là người bào chữa. Trước tình hình đó, cần phải xem xét địa vị
pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, cụ thể
học viên sẽ nghiên cứu, phân tích tình hình luật sư tham gia tố tụng trong giới
hạn phạm vi tại tỉnh Bắc Ninh.
2.2.2. Thực trạng tham gia giải quyết vụ án hình sự của luật sư tại
tỉnh Bắc Ninh
Hiện nay, Đoàn luật sư tỉnh Bắc Ninh gồm có 57 luật sư thành viên; 10
Công ty luật TNHH, 09 Văn phòng luật sư và 07 chi nhánh Công ty luật đăng
ký hoạt động trên địa bàn tỉnh.
Trong nhiệm kỳ này, Đoàn luật sư tỉnh Bắc Ninh đã tham gia tổng số
vụ việc là 2953 vụ, tăng 783 vụ việc so với nhiệm kỳ trước. Các vụ việc Luật
sư tham gia thụ lý giải quyết đã tăng đều ở các lĩnh vực hình sự, dân sự, kinh
tế, lao động, hôn nhân gia đình, hành chính.
Đặc biệt là tham gia đầy đủ 537 vụ án hình sự chỉ định phải có luật sư
theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Nhiều vụ án hình sự có tính chất
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, số lượng luật sư tham gia bào chữa theo chỉ
định có từ 5 đến 9 luật sư tham gia, thời gian xét xử liên tục kéo dài, nhưng
các luật sư đều thể hiện tinh thần trách nhiệm cao.
Ngoài ra, Đoàn luật sư tỉnh đã thực hiện 781 vụ việc trợ giúp pháp lý
lưu động; ký kết với Hội doanh nghiệp nhỏ và vừa về Quy chế hỗ trợ pháp lý
cho doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Phối hợp với Đài Phát thanh và
Truyền hình tỉnh tổ chức sản xuất chương trình Luật sư của bạn với 99
42
chương trình và hơn 2000 phút phát sóng mang hơi thở cuộc sống pháp luật,
được người dân đón nhận[39].
Nhìn chung, trong những năm gần đây, việc luật sư tham gia các vụ
việc nói chung và vụ án hình sự nói riêng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh là khá
nhiều, đặc biệt các vụ án hình sự chỉ định là 100% có sự tham gia của luật sư
theo đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Có thể thấy, địa
vị pháp lý của luật sư càng ngày càng được coi trọng. Để làm rõ hơn vấn đề
này, học viên xin được phân tích tình hình thực tiễn áp dụng các quy định về
địa vị pháp lý của Luật sư trong tố tụng hình sự trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
trong giai đoạn 2015 – 2019.
2.2.3. Thực tiễn áp dụng các quy định về địa vị pháp lý của Luật sư
trong tố tụng hình sự tại tỉnh Bắc Ninh
2.2.3.1. Kết quả đạt được
Trong những năm gần đây, số lượng các VAHS có luật sư tham gia bào
chữa có xu hướng ngày càng tăng, trong đó luôn đảm bảo 100% các vụ án
theo yêu cầu của Cơ quan tiến hành tố tụng đều có luật sư tham gia đầy đủ.
Tuy nhiên, hiện nay, với tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
luôn vận động, phát triển không ngừng, nhu cầu về dịch vụ pháp lý tăng cao,
bên cạnh đó, số lượng đội ngũ luật sư tại tỉnh Bắc Ninh cũng gia tăng nhanh
chóng, đồng thời đảm bảo về chất lượng tranh tụng, điều này khiến tỷ lệ số vụ
án mà luật sư tham gia bào chữa do được khách hàng mời, yêu cầu ngày càng
tăng so với số vụ án bào chữa chỉ định.
Để thấy được kết quả hoạt động tham gia bào chữa của luật sư trong
thời gian qua, học viên đã tiến hành thu thập, khảo sát, phân tích số liệu thống
kê thực tế tại Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn 2015 – 2019 như
sau:
43
Bảng 2.1. Số vụ án có luật sư tham gia bào chữa tại một số loại tội
phạm trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2015-2019.
Tội danh
Số vụ án có Luật sư tham gia/tổng số vụ án
Năm
2015
Năm
2016
Năm
2017
Năm
2018
Năm
2019
Các tội xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, nhân
phẩm, danh dự của con
người
32 29 42 40 40
Các tội xâm phạm sở hữu 62 74 78 83 84
Các tội xâm phạm trật tự
quản lý kinh tế
36 34 41 45 66
Các tội xâm phạm an toàn
công cộng, trật tự công
cộng
21 29 33 46 40
Tổng số vụ án 151/298 166/331 194/377 214/400 230/484
Nguồn: Báo cáo tổng số vụ án hình sự của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh
qua các năm (2015-2019).
Từ bảng số liệu trên, có thể thấy, giai đoạn từ năm 2015 – 2019, số
lượng vụ án hình sự có chiều hướng tăng lên, đồng nghĩa với đó là tình hình
tội phạm gia tăng và có diễn biến ngày càng phức tạp. Sự gia tăng tình hình
44
tội phạm ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình trị an, an toàn xã hội. Trước tình
hình đó, số lượng luật sư tham gia các vụ án hình sự cũng ngày càng tăng. Cụ
thể: Năm 2015, có 151 vụ án có sự tham gia của luật sư trên tổng số 298 vụ
án hình sự. Năm 2016, có 166 vụ án có luật sư tham gia trên tổng số 331 vụ
án hình sự. Năm 2017, có 194 vụ án có luật sư tham gia trên tổng số 377 vụ
án hình sự. Năm 2018, có 214 vụ án có luật sư tham gia trên tổng số 400 vụ
án hình sự. Trong năm 2019, cũng có 230 vụ án hình sự có sự tham gia của
luật sư trên tổng số 484 vụ án hình sự. Đây là những con số khá ấn tượng, thể
hiện sự tham gia, có mặt luật sư trong các vụ án hình sự chiếm tới hơn 50%
tổng số vụ án hình sự của các năm. Có thể thấy, giai đoạn 2015 – 2019 có sự
tiến bộ vượt bậc, nhiều luật sư tham gia các vụ án hình sự, điều này thể hiện
sự nâng cao vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự.
Bảng 2.2. Bảng số liệu thống kê vụ án luật sư được mời và luật sư
tham gia bào chữa do chỉ định tại Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh
Năm xét xử Số lượng vụ án có Luật
sư được mời tham gia
bào chữa
Số lượng vụ án có Luật
sư tham gia bào chữa
chỉ định
2015 69 82
2016 87 79
2017 125 69
2018 135 79
2019 152 78
Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự việt nam, từ thực tiễn tại tỉnh bắc ninh
Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự việt nam, từ thực tiễn tại tỉnh bắc ninh
Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự việt nam, từ thực tiễn tại tỉnh bắc ninh
Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự việt nam, từ thực tiễn tại tỉnh bắc ninh
Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự việt nam, từ thực tiễn tại tỉnh bắc ninh
Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự việt nam, từ thực tiễn tại tỉnh bắc ninh
Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự việt nam, từ thực tiễn tại tỉnh bắc ninh
Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự việt nam, từ thực tiễn tại tỉnh bắc ninh
Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự việt nam, từ thực tiễn tại tỉnh bắc ninh
Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự việt nam, từ thực tiễn tại tỉnh bắc ninh
Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự việt nam, từ thực tiễn tại tỉnh bắc ninh
Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự việt nam, từ thực tiễn tại tỉnh bắc ninh
Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự việt nam, từ thực tiễn tại tỉnh bắc ninh
Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự việt nam, từ thực tiễn tại tỉnh bắc ninh
Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự việt nam, từ thực tiễn tại tỉnh bắc ninh
Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự việt nam, từ thực tiễn tại tỉnh bắc ninh
Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự việt nam, từ thực tiễn tại tỉnh bắc ninh
Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự việt nam, từ thực tiễn tại tỉnh bắc ninh
Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự việt nam, từ thực tiễn tại tỉnh bắc ninh
Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự việt nam, từ thực tiễn tại tỉnh bắc ninh
Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự việt nam, từ thực tiễn tại tỉnh bắc ninh
Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự việt nam, từ thực tiễn tại tỉnh bắc ninh
Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự việt nam, từ thực tiễn tại tỉnh bắc ninh
Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự việt nam, từ thực tiễn tại tỉnh bắc ninh
Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự việt nam, từ thực tiễn tại tỉnh bắc ninh
Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự việt nam, từ thực tiễn tại tỉnh bắc ninh
Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự việt nam, từ thực tiễn tại tỉnh bắc ninh
Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự việt nam, từ thực tiễn tại tỉnh bắc ninh
Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự việt nam, từ thực tiễn tại tỉnh bắc ninh
Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự việt nam, từ thực tiễn tại tỉnh bắc ninh
Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự việt nam, từ thực tiễn tại tỉnh bắc ninh
Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự việt nam, từ thực tiễn tại tỉnh bắc ninh
Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự việt nam, từ thực tiễn tại tỉnh bắc ninh
Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự việt nam, từ thực tiễn tại tỉnh bắc ninh
Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự việt nam, từ thực tiễn tại tỉnh bắc ninh

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAYLuận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
 
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOTLuận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
 
Luận văn: Cơ chế bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật ở Việt Nam
Luận văn: Cơ chế bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật ở Việt NamLuận văn: Cơ chế bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật ở Việt Nam
Luận văn: Cơ chế bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật ở Việt Nam
 
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt NamLuận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng hình sựLuận văn: Bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng hình sự
 
Đề tài: Vai trò của ý thức pháp luật với việc thực hiện pháp luật
Đề tài: Vai trò của ý thức pháp luật với việc thực hiện pháp luậtĐề tài: Vai trò của ý thức pháp luật với việc thực hiện pháp luật
Đề tài: Vai trò của ý thức pháp luật với việc thực hiện pháp luật
 
Luận văn: Văn hóa pháp luật của Luật sư ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Văn hóa pháp luật của Luật sư ở Việt Nam, HAYLuận văn: Văn hóa pháp luật của Luật sư ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Văn hóa pháp luật của Luật sư ở Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sự
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sựLuận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sự
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sự
 
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOTĐề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
 
Luận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo Luật hình sự
Luận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo Luật hình sựLuận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo Luật hình sự
Luận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo Luật hình sự
 
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt NamLuận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận án: Quyền của người bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Quyền của người bị hại trong tố tụng hình sự Việt NamLuận án: Quyền của người bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Quyền của người bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong thi hành công vụ
Luận văn: Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong thi hành công vụLuận văn: Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong thi hành công vụ
Luận văn: Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong thi hành công vụ
 
Luận văn: Thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, HAY
Luận văn: Thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, HAYLuận văn: Thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, HAY
Luận văn: Thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, HAY
 
Luận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOT
Luận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOTLuận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOT
Luận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự, HOTLuận văn: Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích, HAY
Luận văn: Nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích, HAYLuận văn: Nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích, HAY
Luận văn: Nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích, HAY
 
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOTLuận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
 
Luận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
Luận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nướcLuận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
Luận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
 

Similar to Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự việt nam, từ thực tiễn tại tỉnh bắc ninh

Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...
ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...
ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...Luận Văn 1800
 

Similar to Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự việt nam, từ thực tiễn tại tỉnh bắc ninh (20)

Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án ở tỉnh Bình Định
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án ở tỉnh Bình ĐịnhLuận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án ở tỉnh Bình Định
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án ở tỉnh Bình Định
 
Luận văn: Tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự tại Hà Nội
Luận văn: Tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự tại Hà NộiLuận văn: Tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự tại Hà Nội
Luận văn: Tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự tại Hà Nội
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...
 
ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...
ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...
ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...
 
Địa vị pháp lý của Thẩm phán.doc
Địa vị pháp lý của Thẩm phán.docĐịa vị pháp lý của Thẩm phán.doc
Địa vị pháp lý của Thẩm phán.doc
 
Giới Hạn Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án Hình Sự Theo Pháp Luật.doc
Giới Hạn Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án Hình Sự Theo Pháp Luật.docGiới Hạn Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án Hình Sự Theo Pháp Luật.doc
Giới Hạn Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án Hình Sự Theo Pháp Luật.doc
 
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án tỉnh Cà Mau, 9đ
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án tỉnh Cà Mau, 9đLuận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án tỉnh Cà Mau, 9đ
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án tỉnh Cà Mau, 9đ
 
Luận văn: Hoạt động của Luật sư trong Điều tra vụ án hình sự
Luận văn: Hoạt động của Luật sư trong Điều tra vụ án hình sựLuận văn: Hoạt động của Luật sư trong Điều tra vụ án hình sự
Luận văn: Hoạt động của Luật sư trong Điều tra vụ án hình sự
 
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sựLuận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
 
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đ
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đLuận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đ
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đ
 
Luận văn: Địa vị pháp lý của thư ký tòa án theo pháp luật, HAY
Luận văn: Địa vị pháp lý của thư ký tòa án theo pháp luật, HAYLuận văn: Địa vị pháp lý của thư ký tòa án theo pháp luật, HAY
Luận văn: Địa vị pháp lý của thư ký tòa án theo pháp luật, HAY
 
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12
 
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà NẵngLuận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
 
Tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại Tòa án quân sự, 9đ
Tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại Tòa án quân sự, 9đTranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại Tòa án quân sự, 9đ
Tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại Tòa án quân sự, 9đ
 
Tranh tụng tại phiên tòa hình sự của các Tòa án quân sự Quân khu 2
Tranh tụng tại phiên tòa hình sự  của các Tòa án quân sự Quân khu 2Tranh tụng tại phiên tòa hình sự  của các Tòa án quân sự Quân khu 2
Tranh tụng tại phiên tòa hình sự của các Tòa án quân sự Quân khu 2
 
Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm đối với bản án sơ thẩm
Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm đối với bản án sơ thẩmThẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm đối với bản án sơ thẩm
Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm đối với bản án sơ thẩm
 
Luận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
Luận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sựLuận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
Luận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
 
Luận án: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận án: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAYLuận án: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận án: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
 
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAYTranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
 
Giám Đốc Thẩm Vụ Án Hình Sự Theo Pháp Luật Tố Tụng.doc
Giám Đốc Thẩm Vụ Án Hình Sự Theo Pháp Luật Tố Tụng.docGiám Đốc Thẩm Vụ Án Hình Sự Theo Pháp Luật Tố Tụng.doc
Giám Đốc Thẩm Vụ Án Hình Sự Theo Pháp Luật Tố Tụng.doc
 

More from TÀI LIỆU NGÀNH MAY

ĐỀ CƯƠNG MÔN HỌC VẬT LIỆU DỆT MAY Bài giảng Vật liệu dệt may - ThS. Nguyễn Th...
ĐỀ CƯƠNG MÔN HỌC VẬT LIỆU DỆT MAY Bài giảng Vật liệu dệt may - ThS. Nguyễn Th...ĐỀ CƯƠNG MÔN HỌC VẬT LIỆU DỆT MAY Bài giảng Vật liệu dệt may - ThS. Nguyễn Th...
ĐỀ CƯƠNG MÔN HỌC VẬT LIỆU DỆT MAY Bài giảng Vật liệu dệt may - ThS. Nguyễn Th...TÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
Một số biện pháp góp phần hoàn thiện chi phí sản xuất và tính giá thành sản p...
Một số biện pháp góp phần hoàn thiện chi phí sản xuất và tính giá thành sản p...Một số biện pháp góp phần hoàn thiện chi phí sản xuất và tính giá thành sản p...
Một số biện pháp góp phần hoàn thiện chi phí sản xuất và tính giá thành sản p...TÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
Thực trạng áp dụng hệ thống quản lý chất lượng của các doanh nghiệp Việt Nam ...
Thực trạng áp dụng hệ thống quản lý chất lượng của các doanh nghiệp Việt Nam ...Thực trạng áp dụng hệ thống quản lý chất lượng của các doanh nghiệp Việt Nam ...
Thực trạng áp dụng hệ thống quản lý chất lượng của các doanh nghiệp Việt Nam ...TÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
Tiểu luận Thương mại điện tử Nghiên cứu mô hình kinh doanh thương mại điện tử...
Tiểu luận Thương mại điện tử Nghiên cứu mô hình kinh doanh thương mại điện tử...Tiểu luận Thương mại điện tử Nghiên cứu mô hình kinh doanh thương mại điện tử...
Tiểu luận Thương mại điện tử Nghiên cứu mô hình kinh doanh thương mại điện tử...TÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
Tiểu luận Những tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với kinh tế, thương...
Tiểu luận Những tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với kinh tế, thương...Tiểu luận Những tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với kinh tế, thương...
Tiểu luận Những tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với kinh tế, thương...TÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
Tiểu luận Thanh toán quốc tế Tỷ giá hối đoái chính sách tỷ giá hối đoái ở Việ...
Tiểu luận Thanh toán quốc tế Tỷ giá hối đoái chính sách tỷ giá hối đoái ở Việ...Tiểu luận Thanh toán quốc tế Tỷ giá hối đoái chính sách tỷ giá hối đoái ở Việ...
Tiểu luận Thanh toán quốc tế Tỷ giá hối đoái chính sách tỷ giá hối đoái ở Việ...TÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
Thực trạng và giải pháp phát triển hoạt động trung tâm Đào tạo Logistics tiểu...
Thực trạng và giải pháp phát triển hoạt động trung tâm Đào tạo Logistics tiểu...Thực trạng và giải pháp phát triển hoạt động trung tâm Đào tạo Logistics tiểu...
Thực trạng và giải pháp phát triển hoạt động trung tâm Đào tạo Logistics tiểu...TÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
Nghiên cứu cơ chế quản lý và vận hành thị trường cước vận tải container đường...
Nghiên cứu cơ chế quản lý và vận hành thị trường cước vận tải container đường...Nghiên cứu cơ chế quản lý và vận hành thị trường cước vận tải container đường...
Nghiên cứu cơ chế quản lý và vận hành thị trường cước vận tải container đường...TÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp liên quan đến nhãn hiệu của doanh nghiệp tại ...
Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp liên quan đến nhãn hiệu của doanh nghiệp tại ...Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp liên quan đến nhãn hiệu của doanh nghiệp tại ...
Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp liên quan đến nhãn hiệu của doanh nghiệp tại ...TÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
Tình hình xuất nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam qua các năm.docx
Tình hình xuất nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam qua các năm.docxTình hình xuất nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam qua các năm.docx
Tình hình xuất nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam qua các năm.docxTÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
Pháp luật của các quốc gia ASEAN chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Civil ...
Pháp luật của các quốc gia ASEAN chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Civil ...Pháp luật của các quốc gia ASEAN chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Civil ...
Pháp luật của các quốc gia ASEAN chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Civil ...TÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
Ô nhiễm môi trường tại các làng nghề sản xuất hương trên địa bàn xã Quốc Tuấn...
Ô nhiễm môi trường tại các làng nghề sản xuất hương trên địa bàn xã Quốc Tuấn...Ô nhiễm môi trường tại các làng nghề sản xuất hương trên địa bàn xã Quốc Tuấn...
Ô nhiễm môi trường tại các làng nghề sản xuất hương trên địa bàn xã Quốc Tuấn...TÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
Trình bày các phương pháp và công cụ Quản lý Nhà nước (QLNN) về kinh tế. Lý l...
Trình bày các phương pháp và công cụ Quản lý Nhà nước (QLNN) về kinh tế. Lý l...Trình bày các phương pháp và công cụ Quản lý Nhà nước (QLNN) về kinh tế. Lý l...
Trình bày các phương pháp và công cụ Quản lý Nhà nước (QLNN) về kinh tế. Lý l...TÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
Xây dựng mô hình kinh doanh fast-food online an toàn và tiện lợi tại thành ph...
Xây dựng mô hình kinh doanh fast-food online an toàn và tiện lợi tại thành ph...Xây dựng mô hình kinh doanh fast-food online an toàn và tiện lợi tại thành ph...
Xây dựng mô hình kinh doanh fast-food online an toàn và tiện lợi tại thành ph...TÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
Khóa luận tốt nghiệp Luật học Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài lý luận v...
Khóa luận tốt nghiệp Luật học Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài lý luận v...Khóa luận tốt nghiệp Luật học Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài lý luận v...
Khóa luận tốt nghiệp Luật học Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài lý luận v...TÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh doanh Pháp luật Việt Nam về cứu trợ xã hội.pdf
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh doanh Pháp luật Việt Nam về cứu trợ xã hội.pdfKhóa luận tốt nghiệp Luật kinh doanh Pháp luật Việt Nam về cứu trợ xã hội.pdf
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh doanh Pháp luật Việt Nam về cứu trợ xã hội.pdfTÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo Luậ...
Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo Luậ...Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo Luậ...
Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo Luậ...TÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
Pháp luật về góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam hiện nay.pdf
Pháp luật về góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam hiện nay.pdfPháp luật về góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam hiện nay.pdf
Pháp luật về góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam hiện nay.pdfTÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
Hôn nhân đồng tính dưới góc độ quyền con người.pdf
Hôn nhân đồng tính dưới góc độ quyền con người.pdfHôn nhân đồng tính dưới góc độ quyền con người.pdf
Hôn nhân đồng tính dưới góc độ quyền con người.pdfTÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
Bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý.pdf
Bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý.pdfBảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý.pdf
Bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý.pdfTÀI LIỆU NGÀNH MAY
 

More from TÀI LIỆU NGÀNH MAY (20)

ĐỀ CƯƠNG MÔN HỌC VẬT LIỆU DỆT MAY Bài giảng Vật liệu dệt may - ThS. Nguyễn Th...
ĐỀ CƯƠNG MÔN HỌC VẬT LIỆU DỆT MAY Bài giảng Vật liệu dệt may - ThS. Nguyễn Th...ĐỀ CƯƠNG MÔN HỌC VẬT LIỆU DỆT MAY Bài giảng Vật liệu dệt may - ThS. Nguyễn Th...
ĐỀ CƯƠNG MÔN HỌC VẬT LIỆU DỆT MAY Bài giảng Vật liệu dệt may - ThS. Nguyễn Th...
 
Một số biện pháp góp phần hoàn thiện chi phí sản xuất và tính giá thành sản p...
Một số biện pháp góp phần hoàn thiện chi phí sản xuất và tính giá thành sản p...Một số biện pháp góp phần hoàn thiện chi phí sản xuất và tính giá thành sản p...
Một số biện pháp góp phần hoàn thiện chi phí sản xuất và tính giá thành sản p...
 
Thực trạng áp dụng hệ thống quản lý chất lượng của các doanh nghiệp Việt Nam ...
Thực trạng áp dụng hệ thống quản lý chất lượng của các doanh nghiệp Việt Nam ...Thực trạng áp dụng hệ thống quản lý chất lượng của các doanh nghiệp Việt Nam ...
Thực trạng áp dụng hệ thống quản lý chất lượng của các doanh nghiệp Việt Nam ...
 
Tiểu luận Thương mại điện tử Nghiên cứu mô hình kinh doanh thương mại điện tử...
Tiểu luận Thương mại điện tử Nghiên cứu mô hình kinh doanh thương mại điện tử...Tiểu luận Thương mại điện tử Nghiên cứu mô hình kinh doanh thương mại điện tử...
Tiểu luận Thương mại điện tử Nghiên cứu mô hình kinh doanh thương mại điện tử...
 
Tiểu luận Những tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với kinh tế, thương...
Tiểu luận Những tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với kinh tế, thương...Tiểu luận Những tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với kinh tế, thương...
Tiểu luận Những tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với kinh tế, thương...
 
Tiểu luận Thanh toán quốc tế Tỷ giá hối đoái chính sách tỷ giá hối đoái ở Việ...
Tiểu luận Thanh toán quốc tế Tỷ giá hối đoái chính sách tỷ giá hối đoái ở Việ...Tiểu luận Thanh toán quốc tế Tỷ giá hối đoái chính sách tỷ giá hối đoái ở Việ...
Tiểu luận Thanh toán quốc tế Tỷ giá hối đoái chính sách tỷ giá hối đoái ở Việ...
 
Thực trạng và giải pháp phát triển hoạt động trung tâm Đào tạo Logistics tiểu...
Thực trạng và giải pháp phát triển hoạt động trung tâm Đào tạo Logistics tiểu...Thực trạng và giải pháp phát triển hoạt động trung tâm Đào tạo Logistics tiểu...
Thực trạng và giải pháp phát triển hoạt động trung tâm Đào tạo Logistics tiểu...
 
Nghiên cứu cơ chế quản lý và vận hành thị trường cước vận tải container đường...
Nghiên cứu cơ chế quản lý và vận hành thị trường cước vận tải container đường...Nghiên cứu cơ chế quản lý và vận hành thị trường cước vận tải container đường...
Nghiên cứu cơ chế quản lý và vận hành thị trường cước vận tải container đường...
 
Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp liên quan đến nhãn hiệu của doanh nghiệp tại ...
Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp liên quan đến nhãn hiệu của doanh nghiệp tại ...Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp liên quan đến nhãn hiệu của doanh nghiệp tại ...
Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp liên quan đến nhãn hiệu của doanh nghiệp tại ...
 
Tình hình xuất nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam qua các năm.docx
Tình hình xuất nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam qua các năm.docxTình hình xuất nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam qua các năm.docx
Tình hình xuất nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam qua các năm.docx
 
Pháp luật của các quốc gia ASEAN chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Civil ...
Pháp luật của các quốc gia ASEAN chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Civil ...Pháp luật của các quốc gia ASEAN chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Civil ...
Pháp luật của các quốc gia ASEAN chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Civil ...
 
Ô nhiễm môi trường tại các làng nghề sản xuất hương trên địa bàn xã Quốc Tuấn...
Ô nhiễm môi trường tại các làng nghề sản xuất hương trên địa bàn xã Quốc Tuấn...Ô nhiễm môi trường tại các làng nghề sản xuất hương trên địa bàn xã Quốc Tuấn...
Ô nhiễm môi trường tại các làng nghề sản xuất hương trên địa bàn xã Quốc Tuấn...
 
Trình bày các phương pháp và công cụ Quản lý Nhà nước (QLNN) về kinh tế. Lý l...
Trình bày các phương pháp và công cụ Quản lý Nhà nước (QLNN) về kinh tế. Lý l...Trình bày các phương pháp và công cụ Quản lý Nhà nước (QLNN) về kinh tế. Lý l...
Trình bày các phương pháp và công cụ Quản lý Nhà nước (QLNN) về kinh tế. Lý l...
 
Xây dựng mô hình kinh doanh fast-food online an toàn và tiện lợi tại thành ph...
Xây dựng mô hình kinh doanh fast-food online an toàn và tiện lợi tại thành ph...Xây dựng mô hình kinh doanh fast-food online an toàn và tiện lợi tại thành ph...
Xây dựng mô hình kinh doanh fast-food online an toàn và tiện lợi tại thành ph...
 
Khóa luận tốt nghiệp Luật học Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài lý luận v...
Khóa luận tốt nghiệp Luật học Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài lý luận v...Khóa luận tốt nghiệp Luật học Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài lý luận v...
Khóa luận tốt nghiệp Luật học Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài lý luận v...
 
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh doanh Pháp luật Việt Nam về cứu trợ xã hội.pdf
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh doanh Pháp luật Việt Nam về cứu trợ xã hội.pdfKhóa luận tốt nghiệp Luật kinh doanh Pháp luật Việt Nam về cứu trợ xã hội.pdf
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh doanh Pháp luật Việt Nam về cứu trợ xã hội.pdf
 
Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo Luậ...
Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo Luậ...Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo Luậ...
Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo Luậ...
 
Pháp luật về góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam hiện nay.pdf
Pháp luật về góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam hiện nay.pdfPháp luật về góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam hiện nay.pdf
Pháp luật về góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam hiện nay.pdf
 
Hôn nhân đồng tính dưới góc độ quyền con người.pdf
Hôn nhân đồng tính dưới góc độ quyền con người.pdfHôn nhân đồng tính dưới góc độ quyền con người.pdf
Hôn nhân đồng tính dưới góc độ quyền con người.pdf
 
Bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý.pdf
Bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý.pdfBảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý.pdf
Bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý.pdf
 

Recently uploaded

ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )lamdapoet123
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHTư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHThaoPhuong154017
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocBai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocVnPhan58
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11zedgaming208
 
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Học viện Kstudy
 
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập PLDC.pdf
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập  PLDC.pdf200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập  PLDC.pdf
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập PLDC.pdfdong92356
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếHệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếngTonH1
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
 
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHTư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocBai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11
 
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
 
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập PLDC.pdf
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập  PLDC.pdf200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập  PLDC.pdf
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập PLDC.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếHệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 

Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự việt nam, từ thực tiễn tại tỉnh bắc ninh

  • 1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN QUỐC TUẤN ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM, TỪ THỰC TIỄN TẠI TỈNH BẮC NINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ Hà Nội - 2020
  • 2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN QUỐC TUẤN ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM, TỪ THỰC TIỄN TẠI TỈNH BẮC NINH Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8380104 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHẠM MINH TUYÊN Hà Nội - 2020
  • 3. LỜI CAM ĐOAN. Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Kết quả nghiên cứu nêu trong Luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Nguyễn Quốc Tuấn
  • 4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ.................................................... 6 1.1. Khát quát chung về Luật sư ....................................................................... 6 1.2. Khái quát về địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự ................. 16 1.3. Những yếu tố ảnh hưởng tới địa vị pháp lý của Luật sư trong tố tụng hình sự Việt Nam .................................................................................................... 23 Tiểu kết chương 1............................................................................................ 25 Chương 2 ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015 TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH......... 26 2.1. Địa vị pháp lý của luật sư trong Bộ luật tố tụng hình sự ......................... 26 2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định về địa vị pháp lý của Luật sư trong tố tụng hình sự từ thực tiễn tại tỉnh Bắc Ninh..................................................... 39 Tiểu kết chương 2............................................................................................ 56 Chương 3 MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ................ 57 3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự về địa vị pháp lý của luật sư ...... 57 3.2. Cần nhận thức đúng đắn vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự.. 64 3.3. Trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng.. 65 3.4. Tăng cường về số lượng và nâng cao về chất lượng đội ngũ luật sư....... 68 3.5. Tăng cường tuyên truyền giáo dục pháp luật........................................... 72 Tiểu kết chương 3............................................................................................ 73 KẾT LUẬN.................................................................................................... 74 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................... 76
  • 5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLDS: Bộ luật dân sự BLHS: Bộ luật hình sự BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự CQTHTT: Cơ quan tiến hành tố tụng TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao TNHS: Trách nhiệm hình sự XHCN: Xã hội chủ nghĩa PLTTHS: Pháp luật tố tụng hình sự CQĐT: Cơ quan điều tra VKSND: Viện kiểm sát nhân dân TAND: Tòa án nhân dân.
  • 6. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Luật sư tham gia tố tụng trong vụ án hình sự được xác định là người bào chữa, có vị trí quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án, sự tham gia của luật sư cũng là căn cứ góp phần giúp Tòa án ban hành bản án, quyết định một cách chính xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Nhận thức được tầm quan trọng của Luật sư tham gia bào chữa trong vụ án hình sự, thời gian qua Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương chính sách khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của luật sư có thể kể đến như: Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ Chính trị đã nêu: Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định.... Bên cạnh đó, Nghị quyết số 49-NQ/TW còn đề ra những định hướng rất quan trọng đối với việc xây dựng và hoàn thiện chế định luật sư cho phù hợp với tình hình mới của đất nước trước xu hướng pháp triển và hội nhập, cụ thể là: Đào tạo, phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, có phẩm chất chính trị, đạo đức, có trình độ chuyên môn; hoàn thiện cơ chế đảm bảo để luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa, đồng thời xác định rõ chế độ trách nhiệm đối với luật sư. Nhà nước tạo điều kiện về mặt pháp lý để phát huy chế độ tự quản của tổ chức luật sư; đề cao trách nhiệm của các tổ chức luật sư đối với thành viên của mình. Đặc biệt, ngày 28 tháng 7 năm 2017 Chánh án TAND tối cao đã ban hành Thông tư số: 01/2017/TT-TANDTC Quy định về phòng xử án đã quy định vị trí ngồi của luật sư là ngang hàng với Viện kiểm sát. Có thể thấy vị thế của Luật sư ngày càng được coi trọng, địa vị pháp lý của luật sư ngày càng được nâng cao, khẳng định sự quan trọng của chủ thể
  • 7. 2 này trong hoạt động tố tụng. Chính vì vậy BLTTHS 2015, đã sửa đổi, bổ sung nhiều quy định mới, lần đầu tiên vấn đề tranh tụng được quy định trong cả Hiến pháp và là một nguyên tắc cơ bản của BLTTHS (Điều 26 BLTTHS 2015), tạo mọi điều kiện thuận lợi cho luật sư tham gia tố tụng và phần nào khẳng định vị trí pháp lý quan trọng của Luật sư. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn có những quy định chưa thật sự hợp lý, vướng mắc bất cập, ảnh hưởng đến hoạt động bào chữa của luật sư đặt ra yêu cầu cấp thiết của việc nghiên cứu, kiến nghị hoàn thiện. Chính vì vậy, học viên lựa chọn đề tài: Địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự Việt Nam, từ thực tiễn tại tỉnh Bắc Ninh làm luận văn thạc sĩ. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong khoa học luật hình sự, đã có một số công trình nghiên cứu liên quan đến Địa vị pháp lý của luật sư như: Giáo trình Luật sư và nghề luật sư, Học viện tư pháp; Phan Đăng Thanh – Trương Thị Hòa, Lịch sử nghề luật sư ở Việt Nam, Nxb. Tổng hợp, TP. Hồ Chí Minh; Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam của Liên Đoàn luật sư Việt Nam; Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Tư pháp; Viện khoa học pháp lý, Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, NXB. Tư pháp, Hà Nội, 2005; Trần Văn Biên và Đinh Thế Hưng, Bình luận khoa học BLTTHS 2015, Nxb Hồng Đức, Hà Nội, 2016; Trần Văn Bảy (2001), Người bào chữa trong tố tụng hình sự, Tạp chí khoa học pháp luật; Nguyễn Ngọc Khanh, Nâng cao vị thế của người bào chữa tại phiên tòa hình sự, Tạp chí Luật học, Số 7/2008; Đỗ Đình Nghĩa, “Địa vị pháp lý của người bào chữa trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Luận văn tiến sĩ Luật học; Ngô Thị Ngọc Vân, Hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Luật án tiến sĩ luật học trường Đại học luật Hà Nội năm 2016.
  • 8. 3 Có thể thấy đề tài liên quan đến Địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự Việt Nam chưa thật sự được quan tâm, thể hiện ở việc các công trình nghiên cứu còn hạn chế, chưa có công trình nghiên cứu nào ở cấp độ luật văn thạc sĩ nghiên cứu, do vậy đề tài “Địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự việt nam, từ thực tiễn tại tỉnh Bắc Ninh” của học viên đảm bảo tính mới và không bị trùng lặp. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về địa vị pháp lý của luật sư qua đó đề xuất các giải pháp nâng cao địa vị pháp lý của luật sư. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để hoàn thành được mục đích đặt ra của việc nghiên cứu, luận văn xác định những nhiệm vụ phải giải quyết sau đây: - Làm rõ những vấn đề chung về địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự - Trình bày và phân tích các quy định của pháp luật hình sự về địa vị pháp lý của luật sư - Phân tích nội dung và các điểm mới quy định về địa vị pháp lý của luật sư theo quy định của BLHS 2015 và thực tiễn áp dụng địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự tại tỉnh Bắc Ninh thông qua các vụ án cụ thể. - Trình bày các giải pháp bảo đảm nâng cao địa vị pháp lý của luật sư trong thực tiễn xét xử các vụ án hình sự. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
  • 9. 4 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành thể hiện địa vị pháp lý của luật sư. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Về nội dung: Đề tài được giới hạn trong các quy định của pháp luật tố tụng hình sự theo quy định của BLTTHS 2015 thể hiện địa vị pháp lý của luật sư với tư cách tham gia tố tụng là người bào chữa. Giới hạn về không gian: Trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh; Giới hạn về thời gian: Trong giai đoạn 05 năm từ năm 2015 – 2019. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin, trong đó có sự vận dụng tổng hợp các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử. Luận văn vận dụng những quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn bản pháp luật Việt Nam, các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài đăng trên tạp chí của các nhà khoa học pháp lý và các luật gia Việt Nam. Bên cạnh đó, học viên còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp luật học so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, đánh giá để làm sáng tỏ các vấn đề của đề tài. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Học viên nghiên cứu một cách hệ thống về những vấn đề lý luận và thực tiễn làm rõ địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự. Luận văn có những điểm mới sau đây:
  • 10. 5 - Phân tích được khái niệm, đặc điểm địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự. - Là công trình nghiên cứu đầu tiên có sự phân tích một các toàn diện các quy định pháp luật về địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự tính đến thời điểm hiện nay. - Là cơ sở dữ liệu nghiên cứu, đa dạng hóa các công trình nghiên cứu về quy định địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự. - Làm sáng tỏ vấn đề về lý luận và thực tiễn về địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự, từ đó góp phần đưa ra các giải pháp nâng cao địa vị pháp lý của luật sư trong công tác tham gia giải quyết vụ án hình sự. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn bao gồm ba chương: Chương 1. Những vấn đề chung về địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự Chương 2. Địa vị pháp lý của luật sư trong BLTTHS 2015 từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh Chương 3. Một số đề xuất kiến nghị nhằm nâng cao địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự
  • 11. 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1. Khát quát chung về Luật sư 1.1.1. Khái niệm luật sư Ở các nước phát triển trên thế giới, nghề Luật sư xuất hiện từ rất sớm và ngày càng được coi trọng. Lịch sử cho thấy, từ thời Hy Lạp, La Mã cổ đại đến thời kỳ Trung cổ, nghề Luật sư đã xuất hiện trong đời sống xã hội tuy nhiên vẫn mang tính tự phát và Luật sư thời kỳ này không thể hiện rõ và đầy đủ các tính chất nghề nghiệp của họ, vai trò của Luật sư bị hạn chế bởi chế độ xã hội chuyên quyền hà khắc. Đến chế độ tư bản, các cuộc đấu tranh vì dân chủ, bình đẳng diễn ra thường xuyên đã buộc chính quyền các nước tư sản phải mở rộng quyền dân chủ cho người dân, nhu cầu của người dân đối với việc được đảm bảo quyền và lợi ích của mình trên cơ sở các quy định pháp luật luôn thường trực. Nghề Luật sư thể hiện vai trò to lớn của mình, dần hình thành một nghề tự do [18]. Cho đến nay, nghề Luật sư tại các quốc gia phát triển luôn được xã hội tôn vinh là một nghề cao quý. Tại Việt Nam, sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 46/SL ngày 10/10/1945 về tổ chức các đoàn thể Luật sư. Sắc lệnh này quy định việc duy trì tổ chức Luật sư đã có, đồng thời vận dụng linh hoạt các quy định pháp luật của chế độ cũ về Luật sư nhưng không trái với nguyên tắc độc lập và chính thể dân chủ cộng hòa. Tại Hiến pháp năm 1946 cũng khẳng định quyền bào chữa là một trong những quyền cơ bản của công dân. Các bản Hiến pháp năm 1959, năm 1980, năm 1992 tiếp tục ghi nhận và đề cao nguyên tắc quan trọng này.
  • 12. 7 Tuy nhiên, phải đến năm 2001, khi Pháp lệnh Luật sư được ban hành và có hiệu lực thì Luật sư mới thực sự được coi là một nghề nghiệp trong xã hội. Theo pháp lệnh này thì: “Luật sư là người có đủ điều kiện hành nghề theo quy định của pháp lệnh này và tham gia hoạt động tố tụng, thực hiện tư vấn pháp luật, các dịch vụ pháp lý khác theo yêu cầu của các cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của pháp luật”[35]. Kể từ khi áp dụng theo Pháp lệnh Luật sư năm 2001, đội ngũ Luật sư nước ta không ngừng được tăng nhanh về số lượng và đảm bảo về chất lượng hoạt động. Các tổ chức luật sư hoạt động ngày càng chuyên nghiệp, khẳng định được vai trò của tổ chức xã hội – nghề nghiệp, đồng thời tạo tiền đề cho tổ chức luật sư tại nước ta ngày càng phát triển, vươn xa hơn và tiến tới hội nhập với bạn bè quốc tế. Có thể nói, Pháp lệnh Luật sư năm 2001 là cơ sở pháp lý quan trọng để luật sư hành nghề, đảm bảo đáp ứng nhu cầu về mặt pháp lý cho cá nhân và tổ chức. Tuy nhiên, qua quá trình áp dụng thực tiễn, Pháp lệnh Luật sư năm 2001 đã bộc lộ hạn chế, chưa đáp ứng đủ và kịp thời với nhu cầu và xu hướng hiện tại. Trước bối cảnh đó, ngày 29 tháng 6 năm 2006, Quốc hội khóa XI kỳ họp thứ 9 đã thông qua Luật Luật sư. Luật Luật sư năm 2006 có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2007 và thay thế Pháp lệnh Luật sư năm 2001. Tại Điều 2 Luật Luật sư năm 2006 quy định: “Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật này, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau đây gọi chung là khách hàng)”. Thực chất, đây không được coi là quy định về định nghĩa như thế nào là Luật sư mà đây chỉ là quy định về tiêu chuẩn chung trở thành Luật sư. Đó là người Luật sư phải có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật Luật sư năm 2006, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức (khách hàng của luật sư). Như vậy, có thể thấy,
  • 13. 8 pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ đều chưa có quy định cụ thể định nghĩa về luật sư. Do đó, hiện nay, có rất nhiều quan điểm khác nhau về định nghĩa Luật sư, trong đó có một số quan điểm như sau: Quan điểm thứ nhất cho rằng: Luật sư là người hoạt động bào chữa chuyên nghiệp hoạt động trong đoàn Luật sư. Quan điểm này còn rất chung chung và chưa thực sự đầy đủ, bởi lẽ ngoài hoạt động bào chữa, Luật sư còn thực hiện rất nhiều các hoạt động khác, các dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của khách hàng như tham gia bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong các vụ án hình sự, dân sự, lao động, kinh doanh thương mại… tham gia tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng… Quan điểm thứ hai: Luật sư là người hành nghề liên quan đến lĩnh vực pháp luật khi có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của pháp luật của mỗi quốc gia [36]. Quan điểm này cũng khá là chung chung và gần giống với quy định tại Điều 2 Luật Luật sư năm 2006. Quan điểm thứ ba: Theo Đại từ điển tiếng Việt: "Luật sư là người có chức trách, dùng pháp luật bào chữa cho bị can trước tòa án" [21]. Theo học viên, định nghĩa này chưa thực sự chính xác, bởi vì, theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam, người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử được gọi là bị cáo chứ không phải bị can. Hơn nữa, ngoài hoạt động bào chữa tại Tòa án nhân dân cho bị cáo thì Luật sư còn thực hiện nhiều dịch vụ pháp lý khác như đã phân tích tại quan điểm thứ nhất. Hiện nay, để trở thành một Luật sư, người đó phải đáp ứng tiêu chuẩn luật sư theo quy định của pháp luật hiện hành.
  • 14. 9 Theo quy định tại Điều 2 Luật luật sư 2006 và Luật luật sư sửa đổi 2012 thì: Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật này, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức (gọi chung là khách hàng). Tại Điều 10 Luật Luật sư năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm 2012 quy định về tiêu chuẩn Luật sư như sau: "Là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức khỏe bảo đảm hành nghề luật sư thì có thể trở thành luật sư". Người đáp ứng đủ tiêu chuẩn luật sư như trên chỉ thực sự được gọi là luật sư và được phép hành nghề Luật sư khi đáp ứng đủ hai điều kiện sau: được cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư và đã gia nhập một Đoàn Luật sư (Điều 11 Luật Luật sư năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm 2012). Có thể thấy, trải qua các giai đoạn phát triển của đất nước cùng với chất lượng lập pháp của Quốc hội ngày càng được nâng cao, các quy định về Luật sư cũng được quy định bổ sung, chặt chẽ theo hương nâng cao vai trò của Luật sư trong Bộ luật tố tụng hình sự. Chính vì vậy, đội ngũ các Luật sư cũng ngày càng tăng về số lượng và chất lượng (Nếu năm 2009 số thành viên của liên đoàn Luật sư Việt Nam mới chỉ là 5.300 Luật sư thì tới tháng 9/2019, số lượng Luật sư đã là 13.563 Luật sư tăng 61%). Nghề luật sư trong xã hội cũng được coi trọng. Do vậy, đối với các Luật sư ngoài những yêu cầu về kiến thức, những trình độ chuyên môn cao, nhằm góp phần quan trọng vào việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân và góp phần bảo vệ pháp chế, thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Để làm tốt công việc của mình, thì ngoài yêu cầu
  • 15. 10 về chuyên môn, các Luật sư còn phải tuân thủ theo những quy chế đạo đức nghề nghiệp riêng của nghề luật sư. Phạm vi hành nghề của luật sư trong vụ án hình sự Trong vụ án hình sự, luật sư bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người tố giác và người bị tố giác; người bị tạm giữ, người bị bắt do phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã; bị can, bị cáo và trong toàn bộ quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Luật sư tham gia tố tụng với tư cách người bảo vệ quyền lợi hợp pháp hoặc người đại diện cho người bị hại, nguyên đơn, bị đơn dân sự, người có quyền, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự. Từ những phân tích trên, có thể hiểu Luật sư là một chức danh tư pháp độc lập, chỉ những người đáp ứng đủ tiêu chuẩn là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhật luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề Luật sư, có sức khỏe bảo đảm hành nghề Luật sư và đáp ứng đủ điều kiện được cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư và đã gia nhập một Đoàn luật sư để hành nghề Luật sư thực hiện các hoạt động chuyên môn, cung ứng các dịch vụ pháp lý cho khách hàng. 1.1.2. Phân biệt Luật sư với tư cách là người bào chữa trong vụ án hình sự với người bào chữa Trước hết, về người bào chữa: Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã mở rộng phạm vi người tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa. Theo đó, tại Khoản 1 Điều 72 Bộ Luật tố tụng Hình sự năm 2015 quy định: “Người bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa”.
  • 16. 11 Tại Khoản 2 Điều 72 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định người bào chữa có thể là những người sau: “2. Người bào chữa có thể là: a) Luật sư; b) Người đại diện của người bị buộc tội; c) Bào chữa viên nhân dân; d) Trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý”. Thứ nhất, về Luật sư: Như đã phân tích tại phần 1.1.1 Khái niệm về luật sư thì Luật sư là một chức danh tư pháp độc lập, chỉ những người phải đáp ứng đủ tiêu chuẩn là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhật luật, đã được đào tạo nghề Luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức khỏe bảo đảm hành nghề luật sư và đáp ứng đủ điều kiện được cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư và đã gia nhập một Đoàn luật sư để hành nghề luật sư thực hiện các hoạt động chuyên môn, cung ứng các dịch vụ pháp lý cho khách hàng. Luật sư tham gia vụ án hình sự với tư cách là người bào chữa cũng phải đáp ứng đủ các tiêu chuẩn và điều kiện để hành nghề luật sư theo quy định của pháp luật hiện hành. Thứ hai, người đại diện của người bị buộc tội: Trước đây, trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định diện người bào chữa có thể là “người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo” (Điều 56), nay được quy định khái niệm rộng hơn là “người đại diện của người bị buộc tội.
  • 17. 12 Tuy nhiên trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 không quy định cụ thể như thế nào là người đại diện của người bị buộc tội. Do đó, ta có thể vận dụng kiến thức từ Bộ Luật Dân sự và Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015 để nói về người đại diện của người bị buộc tội. Theo đó, người đại diện của người bị buộc tội có thể là người đại diện theo pháp luật của người bị buộc tội và người đại diện theo ủy quyền của người bị buộc tội. Trong đó, người đại diện theo pháp luật của người bị buộc tội là bố mẹ đẻ, bố mẹ nuôi, người đỡ đầu, anh, chị em ruột và những người theo quy định của pháp luật đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người bị hạn chế năng lực hành vi. Người đại diện của người bị buộc tội nếu không bào chữa cho bị cáo thì họ cũng có những quyền như người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, họ tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hợp pháp, nếu họ tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa thì họ có quyền và nghĩa vụ như đối với người bào chữa. Người đại diện theo ủy quyền của người bị buộc tội là người được người bị buộc tội ủy quyền bào chữa cho họ. Nhìn chung, người đại diện cho người bị buộc tội phải đáp ứng một số tiêu chuẩn sau: là người đã thành niên; không bị tâm thần hay bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; là công dân Việt Nam và cư trú tại Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác đối với người đại diện của người bị buộc tội có quốc tịch là người nước ngoài, người không có quốc tịch hoặc người Việt Nam ở nước ngoài. Thứ ba, bào chữa viên nhân dân: Theo quy định tại Khoản 3 Điều 72 Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì bào chữa viên nhân dân là công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, trung thành với Tổ quốc, có phẩm chất đạo đức tốt, có kiến thức pháp lý, đủ sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao, được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hoặc tổ chức thành viên của Mặt trận cử tham gia bào chữa cho người bị buộc tội là thành viên của tổ chức mình.
  • 18. 13 Thứ tư, trợ giúp viên pháp lý: Đây là một quy định mới của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Việc bổ sung trợ giúp viên pháp lý có thể tham gia tố tụng hình sự với tư cách là người bào chữa góp phần đảm bảo quyền bào chữa miễn phí cho các đối tượng thuộc diện chính sách. Căn cứ vào Điều 17 và Điều 19 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 thì trợ giúp viên pháp lý có thể được hiểu là viên chức của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước có phẩm chất đạo đức tốt; có trình độ cử nhân luật trở lên; đã được đào tạo nghề luật sư hoặc miễn đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư hoặc tập sự trợ giúp pháp lý; có sức khỏe đảm bảo thực hiện công việc trợ giúp pháp lý; không đang trong thời gian bị xử lý kỷ luật. Ngoài ra, tư vấn viên pháp luật có kinh nghiệm 02 năm tư vấn pháp luật trở lên làm việc tại tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý; cộng tác viên trợ giúp pháp lý và luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý theo Hợp đồng với Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước hay luật sư thực hiện trợ giúp theo sự phân công của tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý cũng là đối tượng được thực hiện công tác trợ giúp pháp lý. Như vậy, có thể thấy, Luật sư tham gia tố tụng hình sự với tư cách là Luật sư bào chữa và người bào chữa, hai khái niệm này không đồng nhất với nhau. Trong thực tế, mọi người luôn quan niệm rằng người bào chữa phải là luật sư và luật sư luôn luôn là người bào chữa, những người khác không phải là luật sư thì không thể là người bào chữa. Tuy nhiên, đây là quan niệm sai lầm. Bởi lẽ, từ những phân tích ở trên có thể thấy người bào chữa ngoài luật sư còn có người đại diện của người bị buộc tội; bào chữa viên nhân dân; trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được
  • 19. 14 trợ giúp pháp lý. Tuy nhiên, Luật sư để trở thành người bào chữa khi tham gia tố tụng hình sự phải là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị can, bị cáo trong vụ án hình sự. Bên cạnh đó, pháp luật có quy định chặt chẽ hơn đối với luật sư tham gia tố tụng hình sự với tư cách là người bào chữa. Người luật sư phải đáp ứng đủ tiêu chuẩn luật sư và điều kiện hành nghề. Còn những người khác không phải luật sư thì không phải đáp ứng các điều kiện này. Ví dụ: Luật sư bao giờ cũng phải là người đã có bằng cử nhân Luật, phải học qua lớp đào tạo Luật sư, phải có thời gian tập sự và dự thi kỳ thi tuyển chọn Luật sư (Trừ một số trường hợp đặc cách như đã là Thẩm phán, Kiểm sát viên hoặc có học vị Tiến sĩ...), còn đối với người đại diện và bào chữa viên nhân dân, cũng được coi là người bào chữa nhưng lại không yêu cầu phải có những tiêu chí như của Luật sư. 1.1.3. Vai trò của Luật sư trong tố tụng hình sự Trong hoạt động tố tụng hình sự, Luật sư có vai trò vô cùng quan trọng. Cụ thể: Thứ nhất, Luật sư có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức; bảo vệ công lý, công bằng xã hội góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Bởi vậy, nhắc tới luật sư là đa phần mọi người sẽ nghĩ ngay đến vai trò đầu tiên của luật sư là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng. Trong xã hội ngày nay, có nhiều bộ phận người dân nước ta có trình độ dân trí thấp, chưa am hiểu pháp luật. Bên cạnh đó, trình độ, năng lực của các cán bộ tham gia tiến hành tố tụng còn nhiều hạn chế hoặc có một số cán bộ có hành vi cố ý làm trái với quy định pháp luật nhằm trục lợi… Do đó, cần phải có Luật sư – người am hiểu pháp luật, áp dụng pháp luật vào thực tiễn nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các cá nhân, tổ chức (khách hàng), bảo vệ
  • 20. 15 công lý, công bằng xã hội, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng của luật sư phải dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật. Trên cơ sở đó, Luật sư tư vấn, giúp khách hàng đưa ra những ý kiến, yêu cầu hợp pháp đối với cơ quan tiến hành tố tụng hướng tới việc giải quyết các vụ án được thấu tình đạt lý. Thứ hai, Luật sư là cầu nối truyền tải pháp luật vào đời sống bằng các hoạt động chuyên môn của mình. Thông qua hoạt động tư vấn pháp luật, Luật sư giải thích pháp luật theo nhu cầu của các cá nhân, tổ chức (khách hàng), tư vấn cho khách hàng những quyền và lợi ích hợp pháp của họ trên cơ sở các quy định của pháp luật, hướng dẫn khách hàng thực hiện, ứng xử theo đúng chuẩn mực của các quy định pháp luật. Thông qua hoạt động bào chữa, Luật sư tuyên truyền, giải thích những quy định của pháp luật cho bị can, bị cáo để họ hiểu được những quy định của pháp luật, những điều pháp luật cấm hay những điều pháp luật cho phép. Từ đó, giúp cho họ ý thức được những hành vi sai trái của mình để họ có thái độ ăn năn, hối cải, biết sửa sai nhằm được hưởng sự khoan hồng của pháp luật, giúp cho họ sớm được làm lại cuộc đời. Bằng các hoạt động chuyên môn của mình, Luật sư góp phần tuyên truyền, phổ biến pháp luật. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật của Luật sư không chỉ dừng lại ở việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho khách hàng của mình mà thông qua việc tư vấn pháp luật hay tranh tụng tại phiên tòa, luật sư nói lên tiếng nói của công lý với tất cả mọi người trong phòng xét xử. Đó cũng chính là cách gửi thông điệp đến toàn bộ xã hội. Qua đó, góp phần nâng cao ý thức pháp luật trong xã hội, nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật của nhân dân, chủ động tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm.
  • 21. 16 Thứ ba, Luật sư cung cấp các dịch vụ pháp lý khác nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Bên cạnh việc thực hiện tranh tụng và tư vấn pháp luật, luật sư còn thực hiện các dịch vụ pháp lý khác như: Soạn thảo hợp đồng, thực hiện các công việc liên quan đến thủ tục hành chính, làm chứng các giao dịch mà khách yêu cầu không trái với quy định của pháp luật,... Trong xã hội luôn biến động, thay đổi từng ngày thì các nhu cầu của khách hàng cũng rất đa dạng. Chính vì thế, luật sư phải là người có kiến thức, am hiểu sâu sắc về pháp luật, về tình hình chính trị, kinh tế - xã hội, luôn nâng cao kiến thức trên mọi lĩnh vực để có thể phục vụ, đáp ứng được các nhu cầu đa dạng của khách hàng. Việc thực hiện các dịch vụ pháp lý này góp phần giúp cho khách hàng tiết kiệm thời gian, công sức, chi phí cho công việc. Đồng thời, các công việc mà luật sư thực hiện góp phần đảm bảo hạn chế các tranh chấp có thể xảy ra. Nhìn chung, qua các hoạt động hành nghề của mình, luật sư có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức; bảo vệ công lý và lẽ phải; tuyên truyền, phổ biến pháp luật; cung ứng dịch vụ pháp lý đến khách hàng. Tuy nhiên, để thực hiện các hoạt động này có hiệu quả, người luật sư không phải chỉ có kiến thức sâu rộng về pháp luật, hiểu biết chính trị, xã hội mà còn phải là người có “cái tâm” với nghề để tránh những hành vi xuyên tạc, phá rối, lợi dụng kẽ hở của pháp luật để thực hiện các hành vi không đúng chuẩn mực gây mất niềm tin của nhân dân vào pháp luật và nhà nước. 1.2. Khái quát về địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự 1.2.1. Khái niệm địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự Thực tế từ trước đến nay cũng chưa có khái niệm cụ thể thế nào là địa vị pháp lý của Luật sự trong tố tụng hình sự. Theo Từ điển luật học: “Địa vị
  • 22. 17 pháp lý là vị trí của chủ thể pháp luật trong mối quan hệ với những chủ thể pháp luật khác trên cơ sở các quy định của pháp luật. Địa vị pháp lý của chủ thể pháp luật thể hiện thành một tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể, qua đó xác lập cũng như giới hạn khả năng của chủ thể trong các hoạt động của mình”[33]. Theo đó, địa vị pháp lý của luật sư là tổng thể các quyền và nghĩa vụ của Luật sư theo quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của luật sư; được quyết định bởi mô hình tố tụng hình sự, chức năng tố tụng hình sự, cácnguyeen tắc của tố tụng hình sự, vai trò, vị trí của bị can, bị cáo và mối quan hệ giữa luật sư với các chủ thể khác tham gia tố tụng trong vụ án hình sự. Trong tố tụng hình sự, địa vị pháp lý của luật sư được xác định là khi luật sư tham gia tố tụng với vai trò là người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (Điều 72, Điều 84 Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015). Địa vị pháp lý của luật sư giúp luật sư thực hiện nhiệm vụ, có điều kiện thực hiện các biện pháp bảo vệ cho khách hàng, thể hiện phẩm chất nghề nghiệp, trách nhiệm nghề nghiệp nhằm gỡ bỏ cáo buộc cho bị can, bị cáo hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng, góp phần vào việc giải quyết vụ án đúng pháp luật, đúng người, đúng tội, bảo vệ pháp chế xã hội, tạo lòng tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước. Trong vụ án hình sự, luật sư có thể tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người bị hại, đương sự có quyền và lợi ích liên quan đến vụ án… Tuy nhiên, địa vị pháp lý của luật sư sẽ được thể hiện rõ nét nhất khi luật sư tham gia tố tụng hình sự với vai trò là người bào chữa. Luật sư tham gia tố tụng hình sự với tư cách là người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (hay còn được gọi là luật sư bào chữa) với
  • 23. 18 mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được bào chữa, đồng thời góp phần đảm bảo cho quá trình giải quyết vụ án hình sự được dân chủ khách quan, đúng theo quy định của pháp luật. Trong quá trình tham gia tố tụng hình sự, luật sư có thể giám sát việc tuân thủ pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng, tránh tình trạng oan sai, vi phạm pháp luật, có thể kịp thời phát hiện và kiến nghị để khắc phục hậu quả trong thực tiễn. Luật sư tham gia tố tụng hình sự với tư cách là người bào chữa phải đáp ứng các tiêu chuẩn của luật sư là người có trình độ, có kiến thức pháp luật, có kỹ năng hành nghề và kinh nghiệm trong lĩnh vực bào chữa thì mới có thể đảm bảo việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo một cách hiệu quả nhất. Khi tham gia tố tụng với tư cách là Luật sư bào chữa thì Luật sư bào chữa có những đặc điểm cơ bản sau: - Luật sư chỉ trở thành người bào chữa, khi được người buộc tội nhờ bào chữa hoặc do các Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định tham gia bào chữa. - Để thực hiện chức năng bào chữa của mình, Luật sư phải đến Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để đăng ký việc bào chữa và được Cơ quan, người có thẩm quyền THTT tiếp nhận việc đăng ký bào chữa. - Trong hoạt động tranh tụng, Luật sư được quyền vận dụng các ký năng nghề nghiệp, kiến thức pháp luật để đưa ra các lý lẽ, chứng cứ nhằm chứng minh sự vô tội của thân chủ hoặc làm nhẹ đi trách nhiệm hình sự cho thân chủ mà mình nhận bào chữa. - Khi tham gia tố tụng để bào chữa cho thân chủ mà mình nhận bào chữa, Luật sư không có quyền và lợi ích riêng liên quan đến vụ án, hoạt động của Luật sư chỉ nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ mình.
  • 24. 19 Từ những phân tích trên, có thể hiểu địa vị pháp lý của Luật sư trong tố tụng hình sự như sau: “Địa vị pháp lý của Luật sư của Luật sư là được sử dụng các quyền của Luật sư theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự trong mối quan hệ với những chủ thể pháp luật khác trên cơ sở các quy định của pháp luật. Từ đó xác lập cũng như giới hạn khả năng của các chủ thể pháp luật khác trong các hoạt động của mình”. 1.2.2 Ý nghĩa của địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự + Ý nghĩa về mặt chính trị, xã hội Việc quy định địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự với vai trò là người bào chữa thể hiện tính nhân đạo của Nhà nước ta. Pháp luật quy định quyền bào chữa của bị can, bị cáo nhằm để họ có quyền bảo vệ mình trước pháp luật. Quy định về người luật sư tham gia tố tụng hình sự với tư cách là người bào chữa là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo góp phần cân bằng trạng thái giữa công dân và nhà nước, giữa người bị buộc tội và người buộc tội – cơ quan tiến hành tố tụng. Như vậy, có thể thấy, việc quy định địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự là biện pháp đảm bảo tốt nhất quyền bào chữa của công dân, phù hợp với nguyên tắc Hiến định. Bên cạnh đó, quy định này còn thể hiện tính dân chủ của Bộ Luật tố tụng hình sự, góp phần củng cố, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Thông qua sự tham gia tố tụng của luật sư với tư cách là người bào chữa góp phần giúp vụ án hình sự được giải quyết đúng đắn theo quy định của pháp luật, đảm bảo cho pháp luật được tôn trọng và thực thi một cách nghiêm chỉnh, việc giải quyết vụ án phải đúng người, đúng tội, tránh tình trạng lạm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng, tạo được niềm tin của người dân đối với Đảng và Nhà nước ta.
  • 25. 20 Bên cạnh đó, việc quy định địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự không chỉ có ý nghĩa đối với cá nhân người bị buộc tội mà còn có ý nghĩa đối với mọi cá nhân trong xã hội. Bởi lẽ, thông qua hoạt động giải quyết vụ án hình sự trên thực tế góp phần cho mọi công dân quan tâm đến vụ án có thể hiểu được cái giá phải trả cho hành vi vi phạm pháp luật; quyền và nghĩa vụ của mỗi công dân cần tuân thủ pháp luật, không làm những điều pháp luật cấm. Thông qua hoạt động xét xử vụ án hình sự công khai cũng là một hình thức tuyên truyền pháp luật đến với người dân, góp phần nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của mọi người. Ý nghĩa về mặt pháp lý Việc quy định quyền và nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội. Qua đó góp phần quan trọng trong việc xác định sự thật của vụ án, đảm bảo việc giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện, đầy đủ và đúng theo quy định của pháp luật, đảm bảo không làm oan người vô tội. Thông qua sự tham gia của luật sư trong tố tụng hình sự còn góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của của quá trình tiến hành tố tụng. Dựa vào các quyền năng mà pháp luật trao cho luật sư với tư cách là người bào chữa trong vụ án hình sự, luật sư có thể tham gia tố tụng từ khi khởi tố vụ án, hay trong các trường hợp bắt người cho đến khi thi hành án. Các quy định này giúp cho người bảo chữa có thể giám sát việc thi hành pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng và các chủ thể có quyền trong tố tụng hình sự. Qua đó, đảm bảo rằng các cơ quan và chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thực thi đúng theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, thông qua hoạt động bào chữa của luật sư còn góp phần tích cực vào việc thực hiện các nhiệm vụ của tố tụng hình sự đó là phòng
  • 26. 21 ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, đồng thời giáo dục người dân ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. 1.2.3. So sánh về địa vị pháp lý của Luật sư trong các mô hình tố tụng Trong hệ thống tư pháp hình sự trên thế giới từ trước tới nay vẫn tồn tại hai mô hình tố tụng là tố tụng tranh tụng và tố tụng thẩm vấn (hay còn gọi là xét hỏi). Cả hai hệ thống tố tụng nói trên đều hướng tới mục đích tìm ra sự thật khách quan của vụ án, trừng trị người phạm tội và không làm oan người vô tội. Tuy nhiên xét về địa vị pháp lý của Luật sư, thì giữa các mô hình tố tụng hiện nay cũng có sự khác biệt như sau: - Đối với mô hình tố tụng tranh tụng, được sử dụng nhiều ở các quốc gia như Anh, Mỹ, Australia... Đối với các quốc gia theo mô hình tố tụng tranh tụng thì địa vị pháp lý của Luật sư cũng được coi trọng hơn, bởi vì theo mô hình này Luật hình thức sẽ được đề cao hơn Luật nội dung với nguyên tắc “Trọng chứng hơn trọng cung”. Hoạt động tranh tụng tại phiên tòa luôn mang tính tự do, cởi mở giữa bên buộc tội và bên bị buộc tội với một thủ tục tố tụng công khai và triệt để tôn trọng nguyên tắc tranh tụng, mọi chứng cứ viết, các biên bản của Cảnh sát chỉ mang tính tham khảo chứ không được coi là chứng cứ. Mà các chứng cứ sẽ do bên buộc tội và bên bào chữa đưa ra để chứng minh sự có tội hay vô tội của bị cáo. Các bên đều bình đẳng với nhau trong việc sử dụng pháp luật. Chính vì vậy, trong mô hình tố tụng tranh tụng thì vai
  • 27. 22 trò của Luật sư bào chữa rất được đề cao và đương nhiên địa vị pháp lý của Luật sư trong mô hình này cũng được coi trọng. Chính vì vậy đã có câu ví “Bệnh nhân có thể không có Bác sĩ điều trị, nhưng bị can, bị cáo phải có Luật sư bào chữa[19]. Đối với mô hình tố tụng tranh tụng, tại phiên tòa Công tố viên chỉ đóng vai trò chủ thể buộc tội còn Luật sư bào chữa sẽ đóng vai trò là chủ thể của bên gỡ tội. Cả hai chủ thể này đều có thể sử dụng tất cả các kỹ năng, phương tiện, biện pháp mà pháp luật cho phép để tranh luận, phản bác lẫn nhau và đều cố gắng thuyết phục Tòa án chấp nhận quan điểm của mình. Tòa án chỉ đóng vai trò trọng tài, bảo đảm cho các bên được tự do tranh tụng theo quy định của pháp luật. Tòa án sẽ cấn nhắc các chứng cứ mà hai bên đưa ra, để đưa ra phán quyết của mình chứ không có nghĩa vụ phải chứng minh tìm ra sự thật của vụ án. Địa vị pháp lý của Luật sư trong mô hình tố tụng tranh tụng được coi trọng thể hiện ở việc, các Luật sư luôn được chủ động và độc lập trong việc đưa ra các chứng cứ, vật chứng, các quan điểm pháp lý, để chứng minh sự vô tội hay làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo mà mình bảo vệ. Luật sư không bị ràng buộc, hạn chế gì từ phía công tố, ngoài việc phải tuân thủ các quy định của tố tụng - Đối với tố tụng thẩm vấn, Được sử dụng phổ biến ở các quốc gia như Pháp, Tây Ban Nha, Đức, Áo, Hà Lan... Mô hình tố tụng thẩm vấn lại ngược lại so với mô hình tố tụng tranh tụng là coi trọng Luật nội dung hơn Luật hình thức (trọng cung hơn trọng chứng), nên các chứng cứ viết được coi trọng. Tố tụng thẩm vấn lại đề cao vai trò của Tòa án, Thẩm phán vừa là người đưa ra quyết định điều tra vụ án, có trách nhiệm tìm ra sự thật của vụ án và chỉ đạo toàn bộ các giai đoạn tố tụng. Ở mô hình này thì Viện Công tố cũng có nhiều
  • 28. 23 quyền hạn hơn so với tố tụng tranh tụng. Tuy nhiên, theo mô hình này vai trò của Thẩm phán là rất lớn, Thẩm phán hoạt động độc lập, điều tra làm rõ sự thật của vụ án, tất cả các chứng cứ buộc tội hay gỡ tội đều do Thẩm phán điều tra độc lập và ra các phán quyết trên nguyên tắc khách quan, tôn trọng sự thật. Với đặc điểm như vậy thì, vai trò của Luật sư bào chữa cũng rất mờ nhạt, dẫn đến địa vị pháp lý của Luật sư cũng không được coi trọng như tố tụng tranh tụng. Đối với Việt Nam, không hoàn toàn sử dụng mô hình tố tụng tranh tụng hay tố tụng thẩm vấn mà chúng ta biết chắt lọc tìm tòi những tính ưu việt của hai mô hình tố tụng trên để xây dựng mô hình tố tụng phù hợp với đặc điểm của Việt Nam như khoa học thường gọi là “mô hình tố tụng pha trộn”. Với sự kết hợp các yếu tố tích cực của hai mô hình trên nên ở Việt Nam Luật sư cũng được đề cao và địa vị pháp lý của Luật sư cũng được coi trọng như đã phân tích ở trên. 1.3. Những yếu tố ảnh hưởng tới địa vị pháp lý của Luật sư trong tố tụng hình sự Việt Nam Để bảo đảm địa vị pháp lý của Luật sự trong tố tụng hình sự Việt Nam, thì phải có các yếu tố khách quan, chủ quan bảo đảm được việc thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của Luật sư trong quá trình tham gia vào hoạt động bào chữa bao gồm: - Về yếu tố pháp luật, cần phải có Hệ thống pháp luật cả về hình thức và nội dung cần phải đầy đủ, cụ thể, rõ ràng, minh bạch, tạo điều kiện để các Luật sư áp dụng thống nhất, các văn bản, các quy định cũng cần phải quy định cụ thể về quyền cũng như nghĩa vụ của Luật sư, làm rõ trách nhiệm của Luật sư cũng như của các cơ quan và người có thẩm quyền THTT trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự. Các chủ thể buộc tội và gỡ tội đều có quyền bình
  • 29. 24 đẳng trong việc phát hiện, kiến nghị đối với mọi sai phạm của nhau và có quyền yêu cầu khắc phục hoặc xử lý bằng chế tài pháp luật, nếu nghiêm trọng thì đề nghị xử lý theo pháp luật hình sự. Tránh đề ra các quy định không công bằng giữa Luật sư và bên công tố. - Về yếu tố con người, Các Luật sư cũng cần phải chú trọng tới đạo đức nghề nghiệp và trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đặc biệt là tôn trọng nguyên tắc pháp chế trong tố tụng hình sự để không còn những nhận thức không đúng từ phía người có thẩm quyền tố tụng cho rằng Luật sư tham gia tố tụng chỉ gây rối, gây khó khăn cho các Cơ quan THTT thậm chí là “chạy án”, để từ đó coi nhẹ vai trò của Luật sự và coi thường địa vị pháp lý của Luật sư. - Yếu tố nhận thức của người dân, thực tiễn hiện nay không phải ở đâu người dân cũng nhận thức đúng vai trò của luật sư, cũng còn một bộ phận nhân dân chưa hiểu đúng về vai trò của Luật sư đặc biệt là ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự nên đã từ chối hoặc không mời Luật sư tham gia. Do vậy, nhiều khi các Luật sư không có điều kiện tham gia vụ án sớm để thực hiện hiệu quả quyền và nghĩa vụ của Luật sư trong việc tìm ra sự thật vụ án từ giai đoạn điều tra.
  • 30. 25 Tiểu kết chương 1 Qua nghiên cứu những vấn đề chung về địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự bằng cách phân tích khái quát chung về luật sư và địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự, ta thấy được vai trò, ý nghĩa của luật sư trong tố tụng hình đó là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức; bảo vệ công lý, công bằng xã hội góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; là cầu nối truyền tải pháp luật vào đời sống bằng các hoạt động chuyên môn của mình;luật sư cung cấp các dịch vụ pháp lý khác nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Ngoài ra, tại chương 1 cũng khẳng định được địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự là có ý nghĩa vô cùng quan trọng không chỉ đối với người bị buộc tội mà còn với cả tình hình chính trị, xã hội của quốc gia. Thông qua những vấn đề chung được phân tích tại chương 1 làm cơ sở, tiền đề cho việc đi sâu phân tích nội dung địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự tại chương 2 của luận văn.
  • 31. 26 Chương 2 ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015 TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH 2.1. Địa vị pháp lý của luật sư trong Bộ luật tố tụng hình sự 2.1.1. Khái quát về địa vị pháp lý Luật sư trong tố tụng hình sự trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự 2015 Trải qua các giai đoạn lịch sử phát triển của đất nước, mặc dù có những giai đoạn chúng ta chưa ban hành Bộ luật tố tụng hình sự, nhưng địa vị pháp lý của luật sư luôn được đề cập và có sự quan tâm nhất định, đề cao vai trò của Luật sư thể hiện thông qua các quy định về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa nói chung và của Luật sư nói riêng cụ thể như sau: Ngay sau Cách mạng tháng tám thành công tháng 8/1945, Nước Việt Nam dân chủ công hòa được thành lập thì ngày 13/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lện số 33C về việc thành lập Tòa án Quân sự và tại Điều 5 của Sắc lệnh 33C đã quy định “Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bênh vực cho họ”. Tại Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946 về việc Tổ chức các Tòa án và các ngạch Thẩm phán thì tại Điều 46 đã quy định: “Các Luật sư có quyền biện hộ trước tất cả các Tòa án, trừ Tòa án sơ cấp”. Tại Bản Hiến pháp đầu tiên được Quốc hội thông qua ngày 9/11/1946 của Nước Việt Nam dân chủ công hòa đã ghi nhận địa vị pháp lý của Luật sư thông qua quy định tại Điều 67 là “Bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc nhờ luật sư bào chữa”. Trên tinh thần của Hiến pháp 1946, thì tại Sắc lệnh số 69 – SL ngày 18/6/1949, với quy định cho phép các bị can có thể nhờ một công dân, không phải là luật sư, bênh vực trước Tòa án. Nếu bị can không có
  • 32. 27 ai bênh vực, ông Chánh án có thể tự mình hay theo lời yêu cầu của bị can cử người bào chữa cho bị can. Mặc dù các quy định trên, chưa quy định cụ thể về địa vị pháp lý của Luật sư, nhưng đó chính là những quy định định hướng, bảo đảm địa vị pháp lý của Luật sư khi tham gia hoạt động bào chữa trước Tòa án và bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội trước Tòa án. Tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa VIII ngày 28/6/1988, đã thông qua Bộ luật tố tụng hình sự đầu tiên, ngoài các quy định về nguyên tắc chung, trình tự, thủ tục giải quyết vụ án hình sự thì cũng đã có những quy định về địa vị pháp lý của Luật sư thông qua các quy định về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa, như quy định về bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo (Điều 12); quyền và nghĩa vụ của người bào chữa (Điều 36). Theo đó, người bào chữa nói chung và Luật sư có quyền tham gia tố tụng từ giai đoạn khởi tố bị can; có quyền có mặt khi lấy lời khai của bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được phép đặt câu hỏi; quyền đề nghị thay đổi người THTT... Người bào chữa được sử dụng mọi biện pháp theo pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết khách quan của vụ án và để chứng minh sự vô tội của bị can, bị cáo hoặc những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo... Có thể thấy, BLTTHS 1988, đã đánh dấu một bước tiến lớn trong quá trình phát triển hệ thống pháp luật TTHS ở nước ta và đã có những quy định cụ thể hóa các quyền và nghĩa vụ của Luật sư bào chữa. Những quy định này đã tạo địa vị pháp lý của Luật sư bào chữa với các Cơ quan và người có thẩm quyền THTT. Quy định của BLTTHS 2003 về địa vị pháp lý của Luật sư Tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khpas XI ngày 26/11/2003 đã thông qua BLTTHS 2003, đã sửa đổi, bổ sung toàn diện BLTTHS 1988. Về địa vị pháp
  • 33. 28 lý của Luật sư thông qua các quy định về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa nói chung và Luật sư nói riêng, đã được mở rộng đáng kể so với quy định tại BLTTHS 1988. Theo đó theo quy định tại Điều 58 thì Luật sư bào chữa có quyền tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can và bắt người trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang hoặc bắt người đang bị truy nã. Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự thì Luật sư bào chữa có quyền có mặt khi lấy lời khai bị can, nếu Điều tra viên đồng ý thì được quyền đặt câu hỏi với người bị tạm giữ, bị can, có mặt trong các hoạt động điều tra khác; xem các biên bản tố tụng mà có sự tham gia của mình; đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian, địa điểm khi lấy lời khai hoặc hỏi cung bị can; thay đổi người THTT, phiên dịch, giám định; thu thập tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ án và liên quan đến việc bào chữa... Mặc dù các quy định của BLTTHS 2003, đã có nhiều tiến bộ hơn so với BLYYHS 1988 đặc biệt là các vấn đề liên quan đến địa vị pháp lý của Luật sư, song qua hơn 10 năm thi hành thì BLTTHS 2003 cũng bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập nói chung về công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và về các quy định liên quan đến địa vị pháp lý của Luật sư nói riêng, nên đòi hỏi cần phải sửa đổi, bổ sung toàn diện BLTTHS 2003 là một yêu cầu cấp thiết. Chính vì vậy, tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIII ngày 27/11/2015 đã thông qua BLTTHS 2015 có hiệu lực thi hành bắt đầu từ ngày 01/01/2018. Trong đó BLTTHS 2015 đã xây dựng một chương mới là Chương V quy định về bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự. 2.1.2. Địa vị pháp lý của Luật sư trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 2.1.2.1. Quyền của luật sư theo Bộ luật tố tụng hình sự 2015
  • 34. 29 Quyền của luật sư tham gia tố tụng hình sự với tư cách là người bào chữa được quy định cụ thể tại Khoản 1 Điều 73 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Tại điểm a, điểm b Khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 quy định người bào chữa có quyền: “a. Gặp, hỏi người bị buộc tội. b. Có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can”. Trước đây, tại điểm a, điểm b khoản 2 Điều 58 BLTTHS năm 2003 chỉ quy định người bào chữa có quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và người bào chữa cần đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can. Quy định này dẫn đến tình trạng việc tham gia trong giai đoạn điều tra của người bào chữa chỉ mang tính hình thức. Bởi lẽ cuộc gặp, hỏi này do Điều tra viên chủ động lên kế hoạch, việc hỏi của người bào chữa chỉ được tiến hành khi được Điều tra viên đồng ý, việc thông báo trước cho người bào chữa thường không bảo đảm kịp thời gian để làm việc, hỏi cung bị can... Hiện nay, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung thêm quy định mới về việc gặp, hỏi người bị buộc tội. Qua đó, phân tách được hai cuộc gặp, hỏi như sau: - Thứ nhất, theo điểm a Khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 thì luật sư tham gia tố tụng hình sự với tư cách là người bào chữa có thể chủ động
  • 35. 30 tiến hành gặp, hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong bất cứ giai đoạn tố tụng nào và không bị hạn chế số lần, thời gian gặp, được hỏi; được trao đổi riêng tư với người bị buộc tội trong điều kiện giám sát của cơ sở giam giữ mà không bắt buộc phải có những người tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, để được gặp người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam thì người bào chữa phải xuất trình văn bản thông báo người bào chữa, Thẻ luật sư hoặc Thẻ trợ giúp viên pháp lý hoặc Chứng minh nhân dân hoặc thẻ Căn cước công dân Cơ quan quản lý người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam phải phổ biến nội quy, quy chế của cơ sở giam giữ và yêu cầu người bào chữa chấp hành nghiêm chỉnh. Trường hợp phát hiện người bào chữa vi phạm các quy định về việc gặp thì phải dừng ngay việc gặp và lập biên bản, báo cáo người có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật. (Theo Điều 80 BLTTHS năm 2015). - Thứ hai, theo điểm b Khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 thì luật sư tham gia tố tụng hình sự với tư cách là người bào chữa có thể có mặt tại cuộc gặp do Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên chủ động tiếp hành, theo kế hoạch đã được chuẩn bị trước nhằm lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can. Tuy nhiên, trong những cuộc gặp như này, người bào chữa chỉ được hỏi người bị bắt, bị tạm giữ, bị can khi người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, bị tạm giữ, bị can. Theo điểm c Khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 quy định người bào chữa có quyền: “Có mặt trong hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này”.
  • 36. 31 Đây là một quy định mới, cụ thể hơn trong BLTTHS năm 2015. Theo đó, Luật sư – người bào chữa có quyền có mặt trong hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và hoạt động điều tra khác theo quy định của BLTTHS. Quy định này nhằm đảm bảo quyền cho người bào chữa được tham gia, có mặt trong các giai đoạn điều tra quan trọng góp phần giúp cho người bào chữa có thể nắm bắt được các tình tiết vụ án một cách rõ nét và thu thập chứng cứ có lợi cho thân chủ của mình. Theo điểm d Khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 quy định người bào chữa có quyền: “Được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác theo quy định của bộ luật này”. Đây là quyền cơ bản của Luật sư tham gia tố tụng hình sự với tư cách là người bào chữa. Bởi lẽ, luật sư phải được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thông báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác thì luật sư bào chữa mới có thể sắp xếp công việc để tham gia, có mặt trong các buổi gặp, hỏi cung người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam được Điều tra viên, Kiểm sát viên sắp xếp. Tại điểm đ Khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 quy định người bào chữa có quyền: “Xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình, quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa”. Quyền “Xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình, quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa” thực chất đã được quy định từ BLTTHS năm 2003. Quy định này nhằm tạo sự giám sát lẫn nhau giữa luật sư với người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Qua đó, phát hiện những sai phạm kịp thời, đồng thời quy định này còn góp phần giúp cho cơ
  • 37. 32 quan tiến hành tố tụng và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện công tác tiến hành tố tụng thận trọng hơn, thực hiện đúng theo quy định của pháp luật, tránh những vi phạm trong tố tụng. Tại điểm e Khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 quy định người bào chữa có quyền: “Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế”. Đây là một quy định được mở rộng phạm vi hơn so với BLTTHS năm 2003. Trước đây, tại BLTTHS năm 2003 quy định luật sư có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này. Ngoài việc đề nghị thay đổi các đối tượng như BLTTHS năm 2003 đã quy định thì BLTTHS năm 2015 quy định thêm một số đối tượng sau: người định giá tài sản, người dịch thuật. Ngoài ra, BLTTHS năm 2015 còn quy định việc người bào chữa có quyền đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế. Đây là một quy định tiến bộ, mở rộng hơn các quyền của người bào chữa khi tham gia tố tụng. Tại điểm g Khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 quy định người bào chữa có quyền: “Đề nghị tiến hành hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này; đề nghị triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng khác, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng”. Theo báo cáo đánh giá thực trạng hành nghề luật sư trong tố tụng hình sự, Liên đoàn Luật sư Việt Nam đã chỉ ra những hạn chế khi có nhiều hoạt động tố tụng khác như chứng kiến việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, xem xét các dấu vết trên thân thể, thực hiện điều tra, thu giữ vật chứng, định giá và bán đấu giá tài sản… thiếu vắng vai trò và sự hiện diện của luật sư. Ngoài ra, ngoại trừ một số vụ án liên quan đến các hành vi xâm
  • 38. 33 phạm hoạt động tư pháp, việc triệu tập Điều tra viên để làm rõ các vấn đề liên quan việc vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, các dấu hiệu bức cung, nhục hình, làm sai lệch hồ sơ vụ án… gần như không được pháp luật tố tụng hình sự quy định cũng như không được tiến hành trên thực tế[26]. Chính vì vậy, BLTTHS năm 2015 quy định người bào chữa có quyền đề nghị tiến hành hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này; đề nghị triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng khác, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tại điểm g khoản 1 Điều 73 là phù hợp. Quy định này góp phần giải quyết những bất cập trong thực tiễn tham gia tố tụng hình sự của người bào chữa, góp phần nâng cao địa vị pháp lý, quyền của người bào chữa, đồng thời làm rõ trách nhiệm của Điều tra viên, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án. Tại điểm h, điểm i và điểm k Khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 quy định người bào chữa có quyền: “h, Thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu. i, Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá. k, Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản”. Trước thời điểm BLTTHS năm 2015 có hiệu lực, nhiều hoạt động tố tụng thiếu vắng sự hiện diện và vai trò của người bào chữa. Trong nhiều trường hợp, người bào chữa tự mình thu thập chứng cứ, tài liệu từ phía nhân chứng, tổ chức, cá nhân có liên quan nhưng đều bị cơ quan tiến hành tố tụng từ chối hoặc gây khó khăn. Do đó, địa vị pháp lý của người bào chữa chưa thực sự tương xứng với chức năng cơ bản trong tố tụng hình sự.
  • 39. 34 Để khắc phục tình trạng này, khoản 1 Điều 73 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đưa ra tới 3 quyền của người bào chữa gồm: Thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản. Theo đó, người bào chữa có quyền thu thập, đưa ra chứng cứ, kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ. Trong trường hợp việc thu thập chứng cứ gặp khó khăn, người bào chữa có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá tài sản. Việc quy định như vậy nhằm đảm bảo quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa, góp phần nâng cao vị thế của người bào chữa trong tố tụng hình sự. Tại điểm l Khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 quy định người bào chữa có quyền: “Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa từ khi kết thúc điều tra”. Quyền đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án là những điều cần thiết giúp luật sư nắm vững các tình tiết của vụ án. Từ đó, luật sư – người bào chữa nắm vững được bị can bị buộc tội trên cơ sở nào và tìm hướng gỡ tội cho bị can. Trước đây, trong BLTTHS năm 2003 quy định người bào chữa có quyền đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật. Như vậy, thời điểm sau khi kết thúc điều tra, hồ sơ vụ án đã được chuyển sang Viện kiểm sát để xem xét việc truy tố. Còn BLTTHS năm 2015 quy định về quyền này của người bào chữa là thời điểm từ khi kết thúc điều tra. Việc quy định như vậy nhằm giúp cho người bào chữa sớm tiếp cận các tài liệu có trong hồ sơ vụ án từ hoạt động điều tra của cơ quan có thẩm quyền, nhằm
  • 40. 35 nắm được các tình tiết, các yếu tố buộc tội quan trọng, từ đó tìm hướng bào chữa cho thân chủ của mình. Tại điểm m Khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 quy định người bào chữa có quyền: “Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa”. Thông qua việc hỏi, tranh luận tại phiên tòa, luật sư – người bào chữa có thể làm sáng tỏ những vấn đề còn vướng mắc trong vụ án, làm rõ sự thật khách quan, từ đó làm cơ sở cho Hội đồng xét xử xem xét, giải quyết vụ án thấu tình đạt lý. Việc quy định tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa của người bào chữa được xem là quyền cơ bản của luật sư – người bào chữa, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho bị cáo tại phiên tòa. Tại điểm n Khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 quy định người bào chữa có quyền: “Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng”. Trường hợp thấy quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan người có thẩm quyền tiến hành tố tụng không đúng, không có căn cứ theo quy định của pháp luật hay vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng thì luật sư – người bào chữa có quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng nhằm đảm bảo quyền lợi cho thân chủ của mình. Tại điểm o Khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 quy định người bào chữa có quyền: “Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu bị cáo là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất theo quy định của Bộ luật này”. Nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất, BLTTHS năm 2015 quy định người bào chữa có quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án đối
  • 41. 36 với bị cáo thuộc đối tượng trên để đề nghị Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án theo trình tụ phúc thẩm nhằm đảm bảo quyền lợi cho bị cáo. Như vậy, có thể thấy, BLTTHS năm 2015 đã có những quy định cụ thể hơn và bổ sung thêm một số quyền cho người bào chữa giúp cho người bào chữa có thể thực hiện tốt chức năng bào chữa của mình trong hoạt động tố tụng hình sự. Qua đó, thấy được vị thế của luật sư – người bào chữa trong tố tụng hình sự. 2.1.2.2. Nghĩa vụ của luật sư theo Bộ luật tố tụng hình sự 2015 Pháp luật tố tụng hình sự hiện hành ghi nhận các quyền cho luật sư tham gia tố tụng hình sự với tư cách là người bào chữa, đồng thời cũng quy định người bào chữa có trách nhiệm, nghĩa vụ phải thực hiện trong quá trình tham gia tố tụng như sau: Tại điểm a Khoản 2 Điều 73 BLTTHS năm 2015 quy định người bào chữa có nghĩa vụ: “Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị buộc tội vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo”. Nhiệm vụ của người bào chữa nói chung và luật sư nói riêng là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội trong suốt quá trình tố tụng. Do đó, để người bào chữa có thể thực hiện tốt công việc này, pháp luật quy định họ có trách nhiệm sử dụng mọi biện pháp do luật định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị buộc tội vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Theo đó, người bào chữa có thể sử dụng mọi biện pháp để thực hiện nhiệm vụ bào chữa cho thân chủ của mình nhưng phải dựa trên tinh thần tôn trọng sự thật khách quan và tôn trọng pháp luật, tức là sử dụng mọi biện pháp hợp pháp để bảo vệ quyền và lời ích chính đáng cho người bị buộc tội.
  • 42. 37 Tại điểm b Khoản 2 Điều 73 BLTTHS năm 2015 quy định người bào chữa có nghĩa vụ: “Giúp người bị buộc tội về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ”. Thông thường, người bị buộc tội thường có tâm lý không ổn định, thiếu hiểu biết về pháp luật, không thể tự bào chữa cho chính mình một cách tốt nhất. Do đó, cần phải có sự hiện diện của luật sư – người am hiểu pháp luật sâu sắc tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa để giúp người bị buộc tội về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ. Tại điểm c Khoản 2 Điều 73 BLTTHS năm 2015 quy định người bào chữa có nghĩa vụ: “Không được từ chối bào chữa cho người bị buộc tội mà mình đã đảm nhận bào chữa nếu không vì lý do bất khả kháng hoặc không phải do trở ngại khách quan”. Trước đây, theo BLTTHS năm 2003, luật sư không được quyền từ chối bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà mình đã đảm nhận bào chữa, nếu không có lý do chính đáng. Đến BLTTHS năm 2015 quy định cụ thể hơn là luật sư không được từ chối bào chữa cho người bị buộc tội mà mình đã đảm nhận bào chữa nếu không vì lý do bất khả kháng hoặc không phải do trở ngại khách quan. Như vậy, có thể thấy, nếu không phải là lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan thì luật sư không được từ chối bào chữa cho người bị buộc tội mà mình đã đảm nhận bào chữa. Ngoài ra, BLTTHS năm 2015 còn quy định một số nghĩa vụ mà luật sư cần phải thực hiện là: - Tôn trọng sự thật; không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật (Điểm d Khoản 2 Điều 73 BLTTHS năm 2015).
  • 43. 38 - Có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án; trường hợp chỉ định người bào chữa theo quy định tại khoản 1 Điều 76 của Bộ luật này thì phải có mặt theo yêu cầu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát (Điểm đ Khoản 2 Điều 73 BLTTHS năm 2015). - Không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết khi thực hiện bào chữa; không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân (Điểm e Khoản 2 Điều 73 BLTTHS năm 2015). - Không được tiết lộ thông tin về vụ án, về người bị buộc tội mà mình biết khi bào chữa, trừ trường hợp người này đồng ý bằng văn bản và không được sử dụng thông tin đó vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân (Điểm g Khoản 2 Điều 73 BLTTHS năm 2015). Đây là điểm mới so với BLTTHS năm 2003 nhằm đảm bảo bí mật của vụ án, về người bị buộc tội mà luật sư đảm nhận việc bào chữa. Có thể thấy, trong suốt quá trình tham gia tố tụng, luật sư với vai trò là người bào chữa không chỉ có nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho người bị buộc tội mà còn có nhiệm vụ tôn trọng, bảo vệ pháp luật và bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Theo đó, luật sư muốn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội thì phải tôn trọng sự thật khách quan và tôn trọng pháp luật. Bên cạnh đó, luật sư muốn đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa thì phải đảm bảo việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội trên cơ sở áp dụng đúng pháp luật. Do đó, để đảm bảo thực hiện tốt các nhiệm vụ này, luật sư với tư cách là người bào chữa cần phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình theo đúng quy định của pháp luật.
  • 44. 39 2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định về địa vị pháp lý của Luật sư trong tố tụng hình sự từ thực tiễn tại tỉnh Bắc Ninh 2.2.1. Tổng quan điều kiện kinh tế - xã hội của tỉnh Bắc Ninh Bắc Ninh là một tỉnh cửa ngõ phía Bắc của Thủ đô Hà Nội, trung tâm xứ Kinh Bắc cổ xưa, mảnh đất địa linh nhân kiệt, nơi có truyền thống khoa bảng và nền văn hóa lâu đời. Tỉnh Bắc Ninh có 08 đơn vị hành chính cấp huyện gồm 01 thành phố, 01 thị xã và 06 huyện. + Phía Bắc giáp tỉnh Bắc Giang. + Phía Nam giáp tỉnh Hưng Yên. + Phía Đông giáp tỉnh Hải Dương. + Phía Tây và Tây Nam giáp thủ đô Hà Nội. Tỉnh Bắc Ninh với diện tích tự nhiên 823 km2, có 8 đơn vị hành chính cấp huyện gồm 01 thành phố Bắc Ninh, 01 thị xã Từ Sơn và 06 huyện bao gồm: Yên Phong, Quế Võ, Tiên Du, Thuận Thành, Gia Bình, Lương Tài. Tỉnh Bắc Ninh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, khu vực có mức tăng trưởng kinh tế cao. Bắc Ninh có các trục đường giao thông lớn quan trọng chạy qua, nối liền tỉnh với các Trung tâm kinh tế, văn hoá và thương mại của phía Bắc, Việt Nam như: - Đường Quốc lộ 1A; - Quốc lộ 1B mới; - Quốc lộ 18: Quốc lộ 18 sau khi cải tạo sẽ là đường giao thông rất thuận tiện đi sân bay Quốc tế Nội Bài và đi cảng biển nước sâu Cái Lân, Quảng Ninh. - Quốc lộ 38, Tuyến đường sắt xuyên Việt đi Trung Quốc.
  • 45. 40 Có thể thấy, với vị trí địa lý thuận lợi, giao thông phát triển góp phần làm cho Bắc Ninh thuộc tỉnh phát triển nền kinh tế mạnh mẽ của cả nước, tạo cho Bắc Ninh nhiều lợi thế về phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng đời sống xã hội. Trong những năm trở lại đây, tỉnh Bắc Ninh có sự thay đổi vượt bậc về kinh tế - xã hội, các khu dân cư mới liên tục được xây dựng, khu công nghiệp, khu chế xuất liên tục phát triển đã khiến hàng nghìn lao động từ các địa phương lân cận và một số tỉnh miền núi đổ về lao động kiếm sống. Ngoài ra, tỉnh Bắc Ninh có nhiều chính sách thu hút đầu tư nước ngoài. Do đó, nhiều người lao động nước ngoài về Bắc Ninh lưu trú và lao động. Điều này làm gia tăng tỷ lệ tội phạm trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Cụ thể: Theo Báo cáo tổng kết công tác năm 2018 của Công an tỉnh Bắc Ninh, Công an tỉnh đã thực hiện điều tra làm rõ 561/714 vụ phạm pháp hình sự, mở rộng điều tra 71 vụ, tỷ lệ điều tra chung đạt 80,5%; án rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng điều tra làm rõ 52/54 vụ, mở rộng 3 vụ, đạt tỷ lệ 96,5%; bắt 294 vụ, 1355 đối tượng cờ bạc (so năm 2017 giảm 19 vụ), trong đó khởi tố 104 vụ, 646 bị can, còn lại xử lý hành chính…[37] Theo Báo cáo sơ kết công tác công an 06 tháng đầu năm 2019 của Công an tỉnh Bắc Ninh, trong 06 tháng đầu năm (tính từ ngày 16/12/2018 đến 15/6/2019) toàn tỉnh Bắc Ninh xảy ra 282 vụ phạm pháp hình sự, trong đó điều tra làm rõ 215 vụ với 407 đối tượng, điều tra mở rộng 59 vụ, đạt tỷ lệ điều tra 80,4%; phát hiện, bắt giữ 425 vụ, với 591 đối tượng mua bán, vận chuyển, tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy, trong đó khởi tố 345 vụ, với 382 bị can, còn lại xử lý hành chính[38]. Nhìn chung, trong những năm gần đây, tình hình kinh tế - xã hội tại tỉnh Bắc Ninh phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng so với các tỉnh khác trong cả
  • 46. 41 nước. Bên cạnh mặt tích cực của nền kinh tế - xã hội phát triển của trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh thì luôn tồn tại mặt tiêu cực của xã hội đó là tình hình tội phạm xảy ra khá nhiều. Trong nhiều vụ án hình sự, nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội cần phải có luật sư tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa. Trước tình hình đó, cần phải xem xét địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng hình sự trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, cụ thể học viên sẽ nghiên cứu, phân tích tình hình luật sư tham gia tố tụng trong giới hạn phạm vi tại tỉnh Bắc Ninh. 2.2.2. Thực trạng tham gia giải quyết vụ án hình sự của luật sư tại tỉnh Bắc Ninh Hiện nay, Đoàn luật sư tỉnh Bắc Ninh gồm có 57 luật sư thành viên; 10 Công ty luật TNHH, 09 Văn phòng luật sư và 07 chi nhánh Công ty luật đăng ký hoạt động trên địa bàn tỉnh. Trong nhiệm kỳ này, Đoàn luật sư tỉnh Bắc Ninh đã tham gia tổng số vụ việc là 2953 vụ, tăng 783 vụ việc so với nhiệm kỳ trước. Các vụ việc Luật sư tham gia thụ lý giải quyết đã tăng đều ở các lĩnh vực hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân gia đình, hành chính. Đặc biệt là tham gia đầy đủ 537 vụ án hình sự chỉ định phải có luật sư theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Nhiều vụ án hình sự có tính chất tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, số lượng luật sư tham gia bào chữa theo chỉ định có từ 5 đến 9 luật sư tham gia, thời gian xét xử liên tục kéo dài, nhưng các luật sư đều thể hiện tinh thần trách nhiệm cao. Ngoài ra, Đoàn luật sư tỉnh đã thực hiện 781 vụ việc trợ giúp pháp lý lưu động; ký kết với Hội doanh nghiệp nhỏ và vừa về Quy chế hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Phối hợp với Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh tổ chức sản xuất chương trình Luật sư của bạn với 99
  • 47. 42 chương trình và hơn 2000 phút phát sóng mang hơi thở cuộc sống pháp luật, được người dân đón nhận[39]. Nhìn chung, trong những năm gần đây, việc luật sư tham gia các vụ việc nói chung và vụ án hình sự nói riêng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh là khá nhiều, đặc biệt các vụ án hình sự chỉ định là 100% có sự tham gia của luật sư theo đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Có thể thấy, địa vị pháp lý của luật sư càng ngày càng được coi trọng. Để làm rõ hơn vấn đề này, học viên xin được phân tích tình hình thực tiễn áp dụng các quy định về địa vị pháp lý của Luật sư trong tố tụng hình sự trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn 2015 – 2019. 2.2.3. Thực tiễn áp dụng các quy định về địa vị pháp lý của Luật sư trong tố tụng hình sự tại tỉnh Bắc Ninh 2.2.3.1. Kết quả đạt được Trong những năm gần đây, số lượng các VAHS có luật sư tham gia bào chữa có xu hướng ngày càng tăng, trong đó luôn đảm bảo 100% các vụ án theo yêu cầu của Cơ quan tiến hành tố tụng đều có luật sư tham gia đầy đủ. Tuy nhiên, hiện nay, với tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh luôn vận động, phát triển không ngừng, nhu cầu về dịch vụ pháp lý tăng cao, bên cạnh đó, số lượng đội ngũ luật sư tại tỉnh Bắc Ninh cũng gia tăng nhanh chóng, đồng thời đảm bảo về chất lượng tranh tụng, điều này khiến tỷ lệ số vụ án mà luật sư tham gia bào chữa do được khách hàng mời, yêu cầu ngày càng tăng so với số vụ án bào chữa chỉ định. Để thấy được kết quả hoạt động tham gia bào chữa của luật sư trong thời gian qua, học viên đã tiến hành thu thập, khảo sát, phân tích số liệu thống kê thực tế tại Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn 2015 – 2019 như sau:
  • 48. 43 Bảng 2.1. Số vụ án có luật sư tham gia bào chữa tại một số loại tội phạm trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2015-2019. Tội danh Số vụ án có Luật sư tham gia/tổng số vụ án Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018 Năm 2019 Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người 32 29 42 40 40 Các tội xâm phạm sở hữu 62 74 78 83 84 Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế 36 34 41 45 66 Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng 21 29 33 46 40 Tổng số vụ án 151/298 166/331 194/377 214/400 230/484 Nguồn: Báo cáo tổng số vụ án hình sự của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh qua các năm (2015-2019). Từ bảng số liệu trên, có thể thấy, giai đoạn từ năm 2015 – 2019, số lượng vụ án hình sự có chiều hướng tăng lên, đồng nghĩa với đó là tình hình tội phạm gia tăng và có diễn biến ngày càng phức tạp. Sự gia tăng tình hình
  • 49. 44 tội phạm ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình trị an, an toàn xã hội. Trước tình hình đó, số lượng luật sư tham gia các vụ án hình sự cũng ngày càng tăng. Cụ thể: Năm 2015, có 151 vụ án có sự tham gia của luật sư trên tổng số 298 vụ án hình sự. Năm 2016, có 166 vụ án có luật sư tham gia trên tổng số 331 vụ án hình sự. Năm 2017, có 194 vụ án có luật sư tham gia trên tổng số 377 vụ án hình sự. Năm 2018, có 214 vụ án có luật sư tham gia trên tổng số 400 vụ án hình sự. Trong năm 2019, cũng có 230 vụ án hình sự có sự tham gia của luật sư trên tổng số 484 vụ án hình sự. Đây là những con số khá ấn tượng, thể hiện sự tham gia, có mặt luật sư trong các vụ án hình sự chiếm tới hơn 50% tổng số vụ án hình sự của các năm. Có thể thấy, giai đoạn 2015 – 2019 có sự tiến bộ vượt bậc, nhiều luật sư tham gia các vụ án hình sự, điều này thể hiện sự nâng cao vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự. Bảng 2.2. Bảng số liệu thống kê vụ án luật sư được mời và luật sư tham gia bào chữa do chỉ định tại Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh Năm xét xử Số lượng vụ án có Luật sư được mời tham gia bào chữa Số lượng vụ án có Luật sư tham gia bào chữa chỉ định 2015 69 82 2016 87 79 2017 125 69 2018 135 79 2019 152 78