SlideShare a Scribd company logo
1 of 110
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ VIẾT KIÊN
NG¦êI LµM CHøNG TRONG LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM
(Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh §¾k L¾k)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ VIẾT KIÊN
NG¦êI LµM CHøNG TRONG LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM
(Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh §¾k L¾k)
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. ĐỖ THỊ PHƯỢNG
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả trong Luận văn chưa được công bố trong bất
kỳ công trình nào khác. Các ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm
bảo tính chính xác, khách quan, trung thực.
Người cam đoan
Lê Viết Kiên
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU.......................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI LÀM
CHỨNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ ...........................6
1.1. Khái niệm và đặc điểm về người làm chứng..................................6
1.1.1. Khái niệm người làm chứng..............................................................6
1.1.2. Đặc điểm về người làm chứng ........................................................11
1.2. Vai trò của người làm chứng trong tố tụng hình sự.................... 14
1.3. Quy định về người làm chứng trong pháp luật tố tụng hình
sự một số nước trên thế giới ......................................................... 20
1.3.1. Quy định về người làm chứng trong pháp luật tố tụng hình sự
của Cộng hòa liên bang Đức ........................................................... 20
1.3.2. Quy định về người làm chứng trong pháp luật tố tụng hình sự
của Cộng hòa Pháp ......................................................................... 21
1.3.3. Quy định về người làm chứng trong pháp luật tố tụng hình sự
của Liên bang Nga .......................................................................... 23
1.3.4. Quy định về người làm chứng trong pháp luật tố tụng hình sự
của Nhật Bản ..................................................................................24
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM VỀ NGƯỜI LÀM CHỨNG VÀ THỰC TIỄN
ÁP DỤNG TẠI TỈNH ĐẮKLẮK................................................. 26
2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện
hành về người làm chứng .............................................................26
2.1.1. Quy định về quyền của người làm chứng........................................26
2.1.2. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về nghĩa vụ
của người làm chứng....................................................................... 33
2.1.3. Một số quy định khác trong luật tố tụng hình sự Việt Nam có
liên quan đến người làm chứng....................................................... 38
2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam về người làm chứng tại tỉnh Đắk Lắk ......................... 44
2.2.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân ........................................44
2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân ...................................................... 53
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ VỀ NGƯỜI LÀM CHỨNG TẠI TỈNH ĐẮK LẮK......67
3.1. Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về người
làm chứng...................................................................................... 67
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả của các cơ quan tiến hành tố
tụng đối với người làm chứng tại tỉnh Đắk Lắk..........................93
KẾT LUẬN................................................................................................. 97
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................. 100
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS: Bộ luật dân sự
BLHS: Bộ luật hình sự
BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
CQĐT: Cơ quan điều tra
CQTHTT: Cơ quan tiến hành tố tụng
TA: Tòa án
TTHS: Tố tụng hình sự
VAHS: Vụ án hình sự
VKS: Viện kiểm sát
DANH MỤC BẢNG
Số hiệu bảng Tên bảng Trang
Bảng 2.1: Số liệu các vụ án hình sự thụ lý của TAND tỉnh
Đắk Lắk từ năm 1999 đến năm 2013 44
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đi đôi với quá trình hội nhập phát triển kinh tế là yêu cầu xây dựng một
xã hội có những thiết chế pháp luật chặt chẽ và cụ thể, trong đó quyền con
người phải được tôn trọng và bảo vệ. Người làm chứng được quy định trong
Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 là cơ sở pháp lý quan trọng để
nâng cao vai trò, vị trí và bảo vệ người làm chứng - là một chủ thể trong vụ án
hình sự góp phần làm rõ sự thật khách quan của vụ án, là một chế định lâu đời
trong hệ thống pháp luật của Nhà nước ta và các nước khác trên thế giới, xuất
phát từ lời khai của người làm chứng là một trong những chứng cứ có vai trò
rất quan trọng giúp vụ án được sáng tỏ. Cùng với quá trình hội nhập kinh tế
thế giới, sự hoàn thiện các quy định của pháp luật đối với người làm chứng và
sự bảo đảm của nhà nước về địa vị pháp lý của người làm chứng sẽ có ý nghĩa
thiết thực trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người, của các
tổ chức chính trị và của toàn xã hội nói chung cũng như quyền lợi của người
làm chứng nói riêng; góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào sự công
minh của pháp luật, của Nhà nước và đồng thời góp phần quan trọng xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vững mạnh.
Hiện nay Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định theo hướng ngày
càng hoàn thiện hơn về quyền và nghĩa vụ của người làm chứng, mở rộng
quyền của họ và những biện pháp bảo đảm tố tụng cho các quyền đó. Tuy
nhiên, việc quy định các quyền và nghĩa vụ của người làm chứng và quy định
về địa vị pháp lý của người làm chứng trong BLTTHS năm 2003 vẫn chưa tạo
cơ sở pháp lý phù hợp để khuyến khích người làm chứng tích cực thực hiện
nghĩa vụ công dân của mình, hợp tác với Nhà nước trong đấu tranh phòng
chống tội phạm, xác minh sự thật khách quan của vụ án chưa thực sự bảo đảm
các quyền, lợi ích chính đáng của người làm chứng. Trong khi đó, hoạt động
của tội phạm ngày càng nguy hiểm và táo tợn hơn trong việc trả thù, đe dọa,
2
hành hung người làm chứng. Hiện nay những quy định về người làm chứng
trong pháp luật hiện hành còn nhiều bất cập về nội dung và những cơ chế
chưa được giải quyết.
Từ những vấn đề nêu trên, người làm chứng trong luật tố tụng hình sự
Việt Nam, nhất là đối với các vụ án lớn, người làm chứng thường ít ra làm
chứng, từ chối làm chứng, khai báo chịu sự tác động của nhiều yếu tố khách
quan, chủ quan chi phối gây thiệt hại cho nhà nước, xã hội. Cùng với việc đẩy
mạnh hội nhập phát triển kinh tế, xã hội. Đảng và nhà nước ta cũng đang tiến
hành cải cách tư pháp theo nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, hoàn thiện hệ thống
pháp luật trong nước, phù hợp với hội nhập quốc tế trong đó các quy định về
quyền, nghĩa vụ của người làm chứng là một dẫn chứng cụ thể.
Việc nghiên cứu người làm chứng trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt
Nam để có cái nhìn sâu hơn, đầy đủ hơn và có những giải pháp hoàn thiện
quy định của pháp luật về người làm chứng là hoàn toàn cần thiết.
Xuất phát từ thực tế cấp thiết đó tôi đã chọn đề tài: “Người làm chứng
trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn
tỉnh Đắk Lắk)” làm cơ sở nghiên cứu khoa học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Có nhiều tác giả nghiên cứu trong các công trình khoa học có cấp độ
khác nhau quy định của pháp luật về người làm chứng trong luật Hình sự.
Trong đó có một số bài viết như: “Bảo vệ người làm chứng và quyền miễn trừ
người làm chứng trong tố tụng hình sự” của PGS.TS Nguyễn Thái Phúc,
trường Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh (Tạp chí khoa học pháp lý số 3 năm
2007); “Lời khai của người làm chứng trong vụ án hình sự” của TS. Trần
Quang Tiệp, Tổng cục An ninh, Bộ công an (Tạp chí khoa học pháp lý số 4
năm 2005); “Hoàn thiện quy định của BLTTHS nhằm bảo vệ người làm chứng
khi tham gia tố tụng” của Ths. Nguyễn Hải Ninh (Trường Đại học Luật Hà
3
Nội); “Hoàn thiện cơ sở pháp lý về bảo vệ người tố giác, người làm chứng,
người bị hại trong vụ án hình sự” của PGS.TS Trần Đình Nhã (Phó chủ nhiệm
Ủy ban quốc phòng và an ninh của Quốc hội); “Một số vấn đề trong việc bảo
vệ người làm chứng” của tác giả Đinh Tuấn Anh (Học viện cảnh sát) trên tạp
chí kiểm sát số 7/2008; “Quyền con người, quyền công dân trong hiến pháp
Việt Nam” của PGS.TS Nguyễn Văn Động, Nxb khoa học xã hội 2005; đề tài
nghiên cứu khoa học cấp cơ sở “Các quyền cơ bản hiến định của công dân
trong lĩnh vực tố tụng hình sự” của TS. Tô Văn Hòa trường Đại học Luật Hà
Nội; “Những vấn đề lý luận về bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật trong
lĩnh vực tư pháp hình sự” của PGS.TSKH Lê Cảm, tạp chí Tòa án nhân dân số
01/2006; “Một số vấn đề cần chú ý về tâm lý xã hội của người làm chứng” của
Đinh Thế Anh, Tạp chí kiểm sát số 7/2008; “Cần quy định rõ, đầy đủ tư cách
pháp lý quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng” của Đinh Văn Lý, Tạp
chí kiểm sát số 17/2009; “Vấn đề bảo vệ nhân chứng, người tố giác và những
người tham gia tố tụng khác” của T.S Phạm Mạnh Hùng, Trường đào tạo bồi
dưỡng nghiệp vụ kiểm sát (Tạp chí kiểm sát số 7 tháng 4 năm 2012); “Hoàn
thiện chế định người làm chứng trong tố tụng hình sự đảm bảo tính khách quan,
minh bạch tại phiên tòa” của Th.S Nguyễn Thị Tuyết, Tòa án quân sự Trung
ương (Tạp chí Tòa án nhân dân số 10 tháng 5 năm 2011) vv…
Các bài viết này đã đề cập đến nhiều khía cạnh phân tích, bình luận các
quyền và nghĩa vụ cũng như địa vị pháp lý của người làm chứng trong bộ luật
tố tụng hình sự, giúp người đọc nhận thức cụ thể, chi tiết hơn về người làm
chứng về địa vị pháp lý của người làm chứng trong TTHS Việt Nam như về
vai trò của người làm chứng; đặc điểm về tâm lý xã hội khi tham gia làm
chứng; cơ sở pháp lý bảo vệ người làm chứng. Có những bài viết đã chỉ ra
được những tồn tại, vướng mắc trong thực tiễn thực hiện các quy định của
pháp luật hình sự về người làm chứng từ đó đề xuất một số kiến nghị giải
pháp hoàn thiện quy định pháp luật về người làm chứng trong TTHS.
4
Mặc dù đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu trục tiếp hoặc gián
tiếp về người làm chứng trong TTHS Việt Nam dưới nhiều góc độ khác nhau
như đã nêu và đã góp phần làm phong phú, hoàn thiện hơn khoa học pháp luật
nói chung, khoa học pháp luật TTHS nói riêng, hoàn thiện hệ thống pháp luật
và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tuy nhiên qua nghiên cứu
và tìm hiểu nhiều nguồn thông tin khác nhau tác giả nhận thấy chưa có Luận
văn thạc sỹ, Luận án tiến sỹ nào nghiên cứu về đề tài “Người làm chứng trong
Luật tố tụng hình sự Việt Nam trên cơ sở nghiên cứu tại tỉnh Đắk Lắk”
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Mục đích: Luận văn làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn của việc
quy định quyền và nghĩa vụ người làm chứng, đánh giá những ưu điểm và hạn
chế trong các quy định pháp luật về vấn đề này, từ đó tìm ra những nguyên nhân
và giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về người làm chứng trong TTHS.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Nghiên cứu cơ sở lý luận về vai trò, ý nghĩa
cũng như quyền và nghĩa vụ của người làm chứng theo quy định của
BLTTHS năm 2003. Phân tích đánh giá tính khả thi của pháp luật về người
làm chứng trong từ đó nêu lên những bất cập tồn tại trong quy định của Luật
cũng như trong quá trình áp dụng pháp luật. Phân tích quy định về địa vị pháp
lý của người làm chứng trên cơ sở làm rõ yếu tố tâm lý người làm chứng, vai
trò của họ trong giải quyết vụ án hình sự. Tìm ra những giải pháp, phương
thức hoàn thiện các quy định pháp luật và việc áp dụng thống nhất pháp luật,
đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của người làm chứng. Nghiên cứu số
liệu trên cơ sở tổng kết công tác năm 2013 của ngành Tòa án nhân dân tỉnh
Đắk Lắk về người làm chứng trong tố tụng hình sự và đề ra những giải pháp,
kiến nghị để hoàn thiện các quy định về người làm chứng.
Về phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung phân tích quy định của
BLTTHS năm 2003 về quyền và nghĩa vụ người làm chứng trên cơ sở lý luận
và thực tiễn thực hiện những quy định về quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của
các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc đảm bảo quyền của người làm chứng.
5
4. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, những quan điểm của Đảng và Nhà nước và quy định trong Hiến pháp
năm 2013 về quyền con người, luận văn được nghiên cứu chủ yếu bằng
phương pháp luận duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử; kết hợp
với các phương pháp nghiên cứu khoa học truyền thống khác như: thu thập,
phân tích các văn bản quy phạm pháp luật, tổng hợp, so sánh, thống kê,
nghiên cứu thực tiễn và phân tích các bất cập trong các vụ án có người làm
chứng và một số phương pháp luận khác.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Lý luận: Luận văn góp phần làm sáng tỏ và bổ sung vào khoa học pháp
lý của luật tố tụng hình sự Việt Nam về người làm chứng. Là tài liệu tham
khảo trong quá trình nghiên cứu, giảng dạy pháp luật và các cơ sở đào tạo luật
của Việt Nam.
Thực tiễn: Luận văn nghiên cứu làm cơ sở cho việc hoạch định và thực
thi nhiệm vụ trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm và là tài liệu
tham khảo cho cơ quan tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về người làm chứng trong luật tố
tụng hình sự.
Chương 2: Qui định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành
về người làm chứng và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Đắk Lắk.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam và nâng cao hiệu quả về người làm chứng tại
tỉnh Đắk Lắk.
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI LÀM CHỨNG TRONG
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm và đặc điểm về người làm chứng
1.1.1. Khái niệm người làm chứng
Trong lịch sử lập pháp Việt Nam, Bộ luật Hồng Đức là bộ luật đầu tiên
quy định về người làm chứng, Điều 714 quy định:
Những người làm chứng trong việc kiện tụng nếu xét ra ngày
thường đôi bên kiện tụng là người thân tình hay có thù oán, thì
không cho phép ra làm chứng. Nếu những người ấy giấu giếm ra
làm chứng, thì khép vào tội không nói đúng sự thật. Hình quan,
ngục biết mà dung túng việc đó đều bị tội [40].
Trong Bộ luật tố tụng áp dụng tại Bắc kỳ thời Pháp thuộc người làm
chứng được quy định cụ thể tại Điều 20 như sau: "Phàm người chứng đã liệt
danh trong đơn khống chế và các người mà quan thẩm phán liệu nghĩ đến
chất vấn trong khi thẩm cứu, thì đều phải bị đòi gọi đến TA để chất vấn".
Ngoài việc quy định chủ thể nào là người làm chứng, bộ luật còn quy định về
nghĩa vụ của người làm chứng tại Điều 22 như sau:
Phàm người chứng đã bị chiếu lệ đòi gọi, không có gì hợp lẽ
mà tự ý không đến hầu trước Tòa sơ cấp nghĩ xử việc vi cảnh, hoặc
trước TA tỉnh, hoặc Tòa đệ tam cấp hoặc trước quan thẩm cứu thì
có thể bị ép bắt phải đến hầu và vì cớ không đến hầu phải bị xử phạt
từ 1 đồng đến 5 đồng và phạt giam từ 1 ngày đến 5 ngày, hoặc hai
thứ phải chịu một [12].
Trước khi BLTTHS năm 1988 ra đời, trong pháp luật TTHS Việt Nam
đã có những văn bản hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao, công văn số 98-
7
NCPL ngày 2/3/1974 gửi Tòa án nhân dân địa phương đề cập việc thu thập,
kiểm tra, đánh giá chứng cứ từ lời khai của người làm chứng. Công văn nêu
lên sự cần thiết phải xác minh, kiểm tra, đánh giá chứng cứ từ lời khai của
người làm chứng. Lời khai của người làm chứng trực tiếp hay gián tiếp đều
phải được xác minh có đúng sự thật không vì những lý do sau:
- Người làm chứng tuy khách quan nhưng vì trí nhớ hoặc mắt có thể
không tốt, nên thuật lại có thể không hoàn toàn đúng diễn biến của sự việc
- Việc xảy ra đã lâu nên không nhớ chi tiết, thuật lại có thiếu sót
- Ngại phiền phức hoặc thù oán mà không khai hết sự việc mà mình đã biết
- Vì cảm tình hoặc có mâu thuẫn với một bên trong vụ án mà khai thêm
hoặc bớt, thiếu chính xác
- Có nhân chứng, vì nhớ không kỹ mà khai thêm, bớt, suy diễn theo chủ
quan của mình
- Vì bị đe dọa hoặc bị mua chuộc mà khai sai sự thật
- Đã khai không đúng, nhưng sau vẫn khai như trước, vì sợ khai khác
thì bị đánh giá là người không trung thực
Thông thường lời khai của những người đúng đắn, ngay thẳng, không
có thân thuộc, bạn bè, không có mâu thuẫn gì với bị cáo, với người bị hại
hoặc không có quyền lợi gì liên quan đến vụ án thì có nhiều khả năng chính
xác. Tuy nhiên, không thể khẳng định trước là lời khai của nhân chứng nào là
đáng tin hơn nhân chứng nào, dù là nhân chứng trực tiếp, nếu lời khai ấy chưa
được xác minh, thẩm tra lại.
Trong công văn này, Tòa án nhân dân tối cao còn rút ra một vấn đề cần
chú ý khi kiểm tra, đánh giá chứng cứ từ lời khai của người làm chứng:
- Xem nhân chứng thuộc loại trực tiếp hay gián tiếp
- Sự việc họ khai có rõ ràng hay chỉ là phỏng đoán, suy diễn
- Trạng thái về tinh thần, tuổi của người làm chứng
8
- Cương vị, điều kiện công tác, nơi ở của họ có thể cho phép họ biết rõ
sự việc như họ đã khai không? [33].
- Họ có quan hệ thân thuộc, bạn bè hoặc có mâu thuẫn gì với bị cáo, với
người bị hại không? Quyền lợi của họ có liên quan đến vụ án không?
Như vậy, vấn đề người làm chứng, cũng như việc quy định về quyền,
nghĩa vụ của họ được đề cập từ rất sớm trong lịch sử lập pháp Việt Nam.
Pháp luật hầu hết các quốc gia đều có những quy định về người làm chứng
vì lời khai của người làm chứng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giải
quyết vụ án một cách chính xác, khách quan, không làm oan người vô tội,
không bỏ lọt tội phạm, tăng niềm tin của nhân dân vào pháp luật. Với những
ý nghĩa trên, BLTTHS năm 2003 đã ghi nhận người làm chứng là người
tham gia tố tụng hình sự tại Điều 55, có sự bổ sung, kế thừa các quy định
của BLTTHS năm 1988.
BLTTHS năm 2003 quy định:
Người nào biết được các tình tiết liên quan đến vụ án đều có
thể được triệu tập đến làm chứng.
Những người sau đây không được làm chứng:
a) Người bào chữa của bị can, bị cáo;
b) Người do có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà
không có khả năng nhận thức được những tình tiết của vụ án hoặc
không có khả năng khai báo đúng đắn [18, Điều 55].
Như vậy theo quy định của pháp luật có thể hiểu như sau về người
làm chứng:
+ Người làm chứng là người biết được các tình tiết liên quan đến vụ
án. Nhận thức của người làm chứng về các tình tiết của vụ án có thể trực tiếp
hoặc gián tiếp (trực tiếp nhìn thấy, nghe thấy hay được người khác kể lại).
Những tình tiết mà người làm chứng biết được có thể liên quan đến đối
9
tượng chứng minh được quy định tại Điều 63 BLTTHS năm 2003 hoặc các
tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án (có ý nghĩa chứng
minh). Việc họ biết được các tình tiết của vụ án là một thực tế khách quan,
và vì vậy họ có thể được triệu tập đến để khai báo về thực tế khách quan đó
với tư cách người làm chứng cung cấp chứng cứ cho người có trách nhiệm
chứng minh. Việc một người biết về các tình tiết liên quan đến vụ án hình sự
là một thực tế khách quan, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của cơ quan
hay người tiến hành tố tụng.
+ Người tham gia tố tụng với tư cách người làm chứng khi họ không
phải người bào chữa của bị can, bị cáo. Theo quy định tại Điều 56 BLTTHS
năm 2003 thì người bào chữa có thể là luật sư; người đại diện hợp pháp của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; bào chữa viên nhân dân. Người bào chữa của
bị can, bị cáo có thể biết được các tình tiết của vụ án từ nhiều nguồn và trong
những khoảng thời gian khác nhau: có thể biết trước khi tham gia tố tụng với
tư cách người bào chữa từ những thông tin không phải do bị can, bị cáo cung
cấp, có thể biết được các tình tiết đó do có mặt ở nơi xảy ra tội phạm, do quen
biết bị can, bị cáo hoặc do được người khác kể lại... Cũng có thể người đó biết
được các tình tiết vụ án trong quá trình thực hiện nhiệm vụ bào chữa do được
đọc hồ sơ vụ án, do tiếp xúc với bị can, bị cáo. Người bào chữa tham gia tố
tụng để thực hiện chức năng gỡ tội nên chỉ đưa ra các chứng cứ có lợi cho bị
can, bị cáo. Vì vậy, điểm b khoản 2 Điều 56 BLTTHS năm 2003 cũng đã quy
định nếu một người nào đó đã tham gia tố tụng với tư cách người bào chữa thì
không được làm chứng trong vụ án đó.
+ Người đó phải có khả năng nhận thức được các tình tiết của vụ án và
có khả năng khai báo đúng đắn. Điểm b khoản 2 Điều 55 BLTTHS năm 2003
quy định những người do có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà không
có khả năng nhận thức được những tình tiết liên quan đến vụ án hoặc không
10
có khả năng khai báo đúng đắn thì không được làm chứng. Theo quy định của
pháp luật thì người làm chứng là người biết được các tình tiết liên quan tới vụ
án, những người có nhược điểm về thể chất biết được các tình tiết theo cách
riêng của họ. Người điếc không nghe thấy được nhưng có thể nhìn thấy,
người mù không thể nhìn thấy được nhưng có thể nghe thấy. Vì vậy, nếu vào
thời điểm nhận thức hoặc khai báo sự việc mà do có nhược điểm về thể chất
hoặc tâm thần mà không có khả năng nhận thức hoặc khai báo đúng đắn thì
không được làm chứng. Nếu các nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần không
làm ảnh hưởng đến khả năng nhận thức và khai báo thì có thể tham gia tố
tụng với tư cách người làm chứng.
+ Người biết được các tình tiết liên quan đến vụ án chỉ có thể trở
thành người làm chứng khi được các cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập.
Trong thực tiễn điều tra có nhiều người biết tình tiết của vụ án đang điều tra
nhưng không trở thành người làm chứng bởi luật quy định những trường hợp
này không được làm chứng (người bào chữa của bị can, bị cáo; người có
nhược điểm tâm thần, thể chất mà không có khả năng nhận thức và khai báo
đúng đắn - khoản 2 Điều 55 BLTTHS năm 2003) hoặc do cơ quan có thẩm
quyền xét thấy không cần thiết phải triệu tập họ để lấy lời khai với tư cách
người làm chứng trong vụ án. Trường hợp có nhiều người biết các thông tin
liên quan đến vụ án, các cơ quan tiến hành tố tụng phải có sự lựa chọn.
Những người biết được nhiều tin tức quan trọng, biết được các tình tiết một
cách sâu sắc, chính xác, đầy đủ; những người có khả năng mô tả lại một
cách tốt nhất những hiểu biết của họ mà cơ quan điều tra đang cần; những
người có thiện chí, có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ người làm chứng
thường được các cơ quan tiến hành tố tụng lựa chọn. Việc lựa chọn triệu tập
ai là người làm chứng sẽ làm giảm được khối lượng công việc, tránh tình
trạng lan man trong thu thập chứng cứ.
11
Từ những phân tích trên có thể hiểu khái niệm về người làm chứng như
sau: Người làm chứng là người biết được tình tiết liên quan đến vụ án, được
cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng triệu tập để khai báo về những sự
việc cần xác minh trong vụ án.
1.1.2. Đặc điểm về người làm chứng
Trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự có thể nhận
thấy đại đa số quần chúng nhân dân luôn sẵn sàng cộng tác với các cơ quan
tiến hành tố tụng, cung cấp những thông tin có ích cho việc giải quyết vụ án.
Nhưng bên cạnh đó vẫn còn nhiều người lẩn tránh việc ra làm chứng hoặc
làm chứng với thái độ miễn cưỡng, khai báo không đầy đủ thậm chí khai báo
gian dối gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án, nguyên nhân của tình trạng
này chủ yếu đều xuất phát từ tâm lý xã hội của người làm chứng. Những đặc
điểm về nhận thức và tâm lý khác biệt của người làm chứng trong tố tụng
hình sự có thể lý giải phần nào tình trạng người làm chứng không tích cực
hợp tác với các cơ quan tiến hành tố tụng:
- Nhiều người làm chứng chưa nhận thức đầy đủ về nghĩa vụ pháp lý
của mình.
Theo quy định của pháp luật việc một người ra làm chứng không chỉ
giúp các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án được nhanh chóng, chính
xác mà còn là việc thực hiện nghĩa vụ công dân đã được pháp luật quy định
((Điều 79 Hiến pháp năm 1992; Điều 4 BLHS năm 1999; Điều 25, Điều 55
BLTTHS năm 2003). Thậm chí việc từ chối khai báo hoặc khai báo gian dối
còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự (Điều 308, Điều 307 BLHS).
Do trình độ hiểu biết pháp luật của đại đa số người dân còn hạn chế nên
không phải ai cũng nhận thức được nghĩa vụ của mình trước pháp luật. Nhiều
người cho rằng trách nhiệm điều tra làm rõ tội phạm là trách nhiệm của các cơ
quan bảo vệ pháp luật, không phải trách nhiệm của họ. Không vi phạm pháp
12
luật, và thực hiện các nghĩa vụ với Nhà nước (như nộp thuế, các khoản phí, lệ
phí) đối với một số người đã là thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của công dân của
mình. Còn trách nhiệm điều tra tội phạm là công việc của các cơ quan tiến
hành tố tụng bởi Nhà nước đã giao cho các cơ quan đó làm nhiệm vụ này. Họ
còn nghĩ mình không phải là người duy nhất biết được các tình tiết liên quan
tới vụ án, ngoài họ ra còn nhiều người khác biết. Vì vậy, nếu họ không ra làm
chứng thì sẽ có người khác làm chứng thay. Từ đó dẫn đến thái độ thờ ơ,
thiếu trách nhiệm trong việc cung cấp thông tin mà họ biết với các cơ quan
tiến hành tố tụng.
- Người làm chứng có tâm lý sợ phiền hà, không muốn mất thời gian
ảnh hưởng tới công việc và sinh hoạt của mình, tốn kém tiền của hoặc bị phía
đối tượng trong vụ án mua chuộc. Ra làm chứng cũng có nghĩa là tham gia
vào hoạt động tố tụng cho nên người làm chứng có nghĩa vụ pháp lý trong
suốt thời gian điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Người làm chứng có thể
được cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập để lấy lời khai, nhận diện, đối chất
vào bất kỳ thời điểm nào trong quá trình giải quyết vụ án theo quy định của
pháp luật... Điều đó ảnh hưởng đến thời gian làm việc, học tập, sinh hoạt, ảnh
hưởng đến thu nhập kinh tế thậm chí phải mất chi phí cho việc làm chứng (chi
phí đi lại, ăn ở). Theo quy định của pháp luật người làm chứng được thanh
toán các khoản chi phí trên nhưng thực tế các khoản tiền được thanh toán đó
thường không theo kịp giá cả thị trường. Hơn nữa nhiều người làm chứng có
hoàn cảnh khó khăn về kinh tế nên thường viện lý do thoái thác để không đến
làm chứng hoặc làm chứng không đúng hẹn hay chỉ khai báo qua loa cho
xong việc, tâm lý không muốn “ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng” vẫn còn tồn
tại. Nhiều trường hợp người làm chứng bị mua chuộc từ phía đối tượng hoặc
người nhà của họ nên đã khai báo theo hướng có lợi cho bị can, bị cáo.
- Người làm chứng sợ bị xử lý trước pháp luật do bản thân họ có liên
quan tới sự việc tội phạm ở mức độ nhất định hoặc sợ bị phát hiện những hành
13
vi xấu xa của mình, họ sợ bị liên đới chịu trách nhiệm với kẻ phạm tội. Trường
hợp người làm chứng không có hành vi liên quan tới sự việc phạm tội nhưng
tình cờ được chứng kiến hành vi phạm tội trong khi bản thân họ đang làm
những chuyện xấu xa, vô đạo đức do đó họ chỉ muốn tránh xa các cơ quan bảo
vệ pháp luật để không bị lâm vào tình cảnh rắc rối. Đó còn chưa kể tới những
người đã và đang có hành vi vi phạm pháp luật, phạm tội nhưng chưa bị phát
hiện, họ rất sợ phải tiếp xúc với cơ quan bảo vệ pháp luật vì theo tâm lý “có tật
giật mình”. Trong thâm tâm họ luôn sợ rằng “cái sảy nảy cái ung” nên tốt nhất
không nên ra làm chứng để bảo vệ an toàn cho bản thân mình.
- Người làm chứng sợ ảnh hưởng không tốt đến uy tín, danh dự của bản
thân hoặc đến mối quan hệ với các đối tượng trong vụ án. Quan niệm “dĩ hòa
vi quý”, coi trọng tình cảm của người phương Đông khiến cho nhiều người
không muốn làm mất lòng ai, không muốn người khác xì xào, bàn tán không
có lợi cho mình nhất là những người có địa vị nhất định trong xã hội. Khi ra
làm chứng trước pháp luật họ sợ bị mọi người xung quanh hiểu lầm mình có
dính líu gì đó đến vụ án nên mới bị cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập. Mặt
khác trong xã hội vẫn còn nhiều người thành kiến với việc kiện tụng, coi việc
tố cáo nhau là xấu dù họ biết việc bị tố cáo là việc xấu, thậm chí là tội phạm.
Họ muốn tội phạm bị trừng trị nghiêm minh nhưng nhiều người vẫn cảm thấy
“áy náy” vì cho rằng vì mình đứng ra làm chứng mà người khác vào tù. Việc
làm chứng với họ rất khó khăn nên thường thiếu nhiệt tình. Tìm thêm đồng
minh là những người làm chứng khác để chứng tỏ rằng không chỉ có mình họ
khai báo, tố giác tội phạm mà còn có thêm những người khác nữa, giải tỏa
được tâm lý họ không phải là người duy nhất bị mọi người soi mói, không
thấy áy náy nhiều bởi họ không là người duy nhất “đưa” người khác vào tù,
cảm giác xấu hổ, áy náy đó sẽ được san sẻ. Nếu giữa người làm chứng và bị
can, bị cáo có mối quan hệ thân quen thì họ còn có thêm tâm lý sợ bị đưa lên
14
bàn cân của dư luận, bị mất lòng tin với gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, họ sợ
bị tẩy chay. Do vậy, trừ trường hợp kẻ phạm tội là kẻ dã man, đối xử tàn ác
với gia đình người thân khiến ai cũng căm ghét còn hầu hết những người làm
chứng có quan hệ gia đình, bạn bè với các đối tượng của vụ án đều tỏ ra thiếu
trung thực, khai báo có lợi cho đối tượng.
- Người làm chứng có tâm lý sợ bị trả thù, thiếu niềm tin với các cơ
quan tiến hành tố tụng. Thực tế trong những vụ án ma túy, buôn bán phụ nữ
trẻ em, liên quan tới các băng nhóm tội phạm nhiều người làm chứng và
người thân của họ đã bị đối tượng, đồng bọn hay gia đình đối tượng mua
chuộc, dọa dẫm buộc họ phải im lặng hay khai báo có lợi cho đối tượng,
nhiều người làm chứng đã bị trả thù. Vì vậy, nhiều người biết rõ sự việc phạm
tội nhưng không dám tố giác tội phạm, khi được cơ quan tiến hành tố tụng
triệu tập họ tìm cách thoái thác, thất hẹn hoặc khai báo theo những gì đã bàn
bạc, thỏa thuận với đối tượng. Những nguyên nhân trên đều xuất phát từ tính
toán về lợi ích cá nhân của người làm chứng [34 trang 147].
1.2. Vai trò của người làm chứng trong tố tụng hình sự
Vai trò của người làm chứng trong TTHS là chủ thể tham gia tố tụng
với tư cách là người phối hợp với CQTHTT trong quá trình giải quyết và làm
sáng tỏ vụ án, với mong muốn duy nhất tìm ra sự thật khách quan của vụ án
hình sự. Nhìn chung khi tham gia vào TTHS người làm chứng là chủ thể
không có sự quan tâm pháp lý về kết cục của vụ án. Lý do tham gia của người
làm chứng trong TTHS không phải vì lợi ích của họ mà là lợi ích của bị can,
bị cáo, người bị hại, của CQTHTT và lợi ích chung của xã hội: đó là làm sáng
tỏ sự thật khách quan của vụ án, người làm chứng không được bất cứ quyền
lợi về mặt vật chất nào từ việc làm chứng. Sự tham gia của họ góp phần vào
việc chứng minh làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Khi so sánh vai
trò, chức năng tố tụng của người làm chứng với người bị hại và bị can, bị cáo
15
sẽ nhận thấy rõ sự khác biệt về tư cách tố tụng của người làm chứng với các
chủ thể khác trong TTHS. Theo đó người bị hại tham gia tố tụng với tư cách
là chủ thể buộc tội, thực hiện quyền công dân và quyền tố tụng, cùng với
CQTHTT xác định có tội phạm xảy ra, bảo vệ quyền lợi của mình, cũng giống
như người bị hại, bị can, bị cáo tham gia tố tụng với tư cách chủ thể rõ ràng là
vì lợi ích của cá nhân của mình. Trong khi đó người làm chứng tham gia tố
tụng với tư cách là người phối hợp với CQTHTT trong quá trình giải quyết vụ
án, tham gia tố tụng không vì lợi ích cá nhân. Bằng việc cung cấp lời khai mà
mình biết có liên quan đến vụ án hình sự, người làm chứng làm sáng tỏ những
tình tiết cần thiết trong quá trình điều tra, chứng minh tội phạm. Đối với
người làm chứng thì tham gia vào vụ án và trình bày lời khai trung thực tất cả
những gì mình biết về vụ án không những là quyền, nghĩa vụ công dân của
mình mà còn là nghĩa vụ tố tụng của họ. Đối với nhà nước thì người làm
chứng là người phối hợp với nhà nước, với CQTHTT trong cuộc đấu tranh
phòng chống tội phạm.
Vai trò của người làm chứng là hỗ trợ tư pháp, sẽ dễ dàng nhận thấy sự
khác biệt giữa người làm chứng và người bị hại trong TTHS. Theo đó người
bị hại là nạn nhân trực tiếp của hành vi tội phạm nên lời khai của họ có thể
phản ánh đậm nét hơn những đánh giá, cảm xúc chủ quan về các tình tiết của
vụ án so với lời khai của người làm chứng.
Lời khai người bị hại không chỉ là nguồn chứng cứ làm sáng
tỏ sự thật của vụ án mà là còn lời buộc tội, là công cụ bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của người đó. Trình bày lời khai không
chỉ là nghĩa vụ tố tụng mà đồng thời còn là quyền tố tụng của
người bị hại [13 trang 9].
Ở góc độ này người bị hại được nhìn nhận là chủ thể thực hiện chức
năng buộc tội, còn người làm chứng là người giúp cho CQTHTT trong quá
trình điều tra, chứng minh có hay không hành vi phạm tội.
16
Vai trò của người làm chứng là một nguồn chứng cứ quan trọng trong
việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Một vụ án hình sự bao giờ cũng để lại
dấu vết và những dấu vết đó được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau,
có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự, nhằm xác
định có hay không có hành vi phạm tội. Các cơ quan THTT sẽ căn cứ vào các
dấu vết đã thu thập được để khởi tố, truy tố, xét xử một người có hành vi
phạm tội. Những dấu vết đó được gọi là chứng cứ. Theo quy định khoản 2
Điều 64 BLTTHS thì lời khai của người làm chứng là một nguồn chứng cứ rất
quan trọng cho việc giải quyết vụ án, hoàn cảnh phạm tội, nhân thân người
phạm tội... người làm chứng sẽ cung cấp thông tin hữu ích cho CQTHTT
trong việc chứng minh làm sáng tỏ vụ án. Thêm vào đó người làm chứng
tham gia với tư cách là người vì lợi ích chung, lợi ích xã hội, không có bất kỳ
lợi ích cá nhân với mong muốn làm sáng tỏ vụ án nên lời khai không phiến
diện như lời khai của người bị hại, bị can, bị cáo... chính vì vậy lời khai của
người làm chứng có tác dụng chứng minh rất cao. Hoạt động tố tụng càng có
tính tranh tụng bao nhiêu, sự bình đẳng về quyền của các bên trong hoạt động
chứng minh càng được thừa nhận đầy đủ bao nhiêu thì lời khai của người làm
chứng càng quan trọng và được sử dụng phổ biến bấy nhiêu. Lời khai của
người làm chứng là loại chứng cứ được cung cấp và thể hiện qua con người
cụ thể, cho nên lời khai sinh động, dễ hiểu và cụ thể hơn nó luôn thể hiện
phản ánh đúng với những gì mà họ biết về vụ án, lời khai của người làm
chứng luôn được hiểu một cách trực tiếp hơn là vật chứng phải phân tích, làm
rõ và tổng hợp với các tình tiết khác mới hiểu được vật chứng đó đang chứng
minh điều gì, “đặc biệt người làm chứng phải chịu trách nhiệm về lời khai của
mình, luôn bị ràng buộc trách nhiệm pháp lý với những gì mình nói” phải cam
đoan không khai gian dối (Điều 204 BLTTHS) nên tính chính xác càng cao.
Vai trò của người làm chứng trong nghĩa vụ chứng minh: Chứng minh
17
trong TTHS là một dạng hoạt động mang tính chất pháp lý được điều chỉnh
bởi luật tố tụng hình sự và pháp luật liên quan, được thực hiện bởi chủ thể có
quyền. Quá trình chứng minh có hay không có tội phạm đó là nghĩa vụ bắt
buộc của cơ quan THTT như CQĐT, VKS, TA "trách nhiệm chứng minh tội
phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng
không buộc phải chứng minh là mình vô tội" (Điều 10 BLTTHS) chứ không
phải thuộc về đương sự như trong tố tụng dân sự [33] và kết quả của hoạt
động này sẽ là một bản án, quyết định của Tòa án mang tính chất cưỡng chế
thi hành, đó là công cụ để Tòa án có thể nhận thức được chính xác vụ việc đã
xảy ra trên thực tế, làm cơ sở đưa ra phán quyết cho vụ án nhanh chóng, chính
xác, khách quan.
Vai trò của người làm chứng đối với việc làm sáng tỏ sự thật vụ án.
Trong quá trình đi tìm sự thật khách quan của vụ án thì nghĩa vụ chứng minh
làm sáng tỏ vụ án hình sự là quan trọng nhất và luôn luôn tồn tại trong các
giai đoạn của quá trình tố tụng. Từ khi khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
CQTHTT luôn cố gắng chứng minh:
Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian địa điểm và
những tình tiết khác của hành vi phạm tội; ai là người thực hiện hành
vi phạm tội, có lỗi hay không có lỗi, do vô ý hay do cố ý, có năng lực
trách nhiệm hình sự hay không, mục đích, động cơ phạm tội; những
tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can,
bị cáo và những đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo tính chất
mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra [15, Điều 63]
và hầu hết trong các giai đoạn của quá trình tố tụng thì CQTHTT luôn
cần đến sự cộng tác của người làm chứng. Bằng việc cung cấp lời khai cho
CQTHTT thì khi đó vai trò lời khai của người làm chứng hỗ trợ CQTHTT
trong quá trình chứng minh làm sáng tỏ vụ án. Quá trình chứng minh làm
18
sáng tỏ vụ án là quá trình đi tìm những gì có liên quan đến vụ án, bằng
phương pháp nghiệp vụ trên cơ sở phân tích, đánh giá, tổng hợp những chứng
cứ thu thập được trong quá trình tố tụng CQTHTT sẽ rút ra được kết luận một
cách khoa học, có logic nhất về vụ án làm căn cứ phán quyết của Tòa án.
Giống như các chứng cứ khác, lời khai của người làm chứng luôn chứa đựng
những yếu tố có giá trị chứng minh làm sáng tỏ vụ án, bên cạnh đó lời khai
của người làm chứng khác vật chứng ở chỗ là luôn luôn phản ánh đúng đắn và
sinh động những gì mà người làm chứng muốn thể hiện hơn là vật chứng vì
đó là sự phản ánh thật của một con người qua lời nói và hành động của mình.
Trong trường hợp những vụ án không có chứng cứ nào khác ngoài lời khai
của người làm chứng thì CQTHTT căn cứ vào lời khai của người làm chứng
mà vẫn có thể chứng minh làm sáng tỏ vụ án.
Trong trường hợp người làm chứng khai báo không khách quan, không
chính xác không đúng sự thật thì điều đó làm cho quá trình tố tụng khó khăn
phức tạp hơn, làm cho điều tra bị sai lệnh, quá trình điều tra kéo dài, hao phí
tiền bạc của Nhà nước dẫn đến oan sai... một số đối tượng đã mua chuộc
người làm chứng khai báo gian dối nhằm che dấu hành vi phạm tội hoặc đe
dọa tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm của người làm chứng hoặc
người thân của họ. Như vậy thấy được lời khai của người làm chứng là vô
cùng quan trọng và sức ảnh hưởng lớn đối với việc làm sáng tỏ vụ án, lời khai
của người làm chứng có thể giúp cơ quan điều tra định hướng được quá trình
điều tra, có thể là căn cứ cho VKS phê chuẩn quyết định khởi tố, truy tố và
cũng là cơ sở cho Tòa án ra bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật tránh
oan sai hay bỏ lọt tội phạm.
Vai trò của người làm chứng trong việc bảo vệ pháp luật, bảo vệ những
quyền cơ bản của công dân. Quy định của BLTTHS thì một trong những
nhiệm vụ cơ bản đó là "không bỏ lọt tội phạm và bảo vệ pháp chế xã hội chủ
19
nghĩa". Điều 1 BLTTHS được coi là kim chỉ nam cho phương pháp hoạt động
trong TTHS. Theo đó, người làm chứng cũng như các chủ thể khác trong quá
trình tố tụng luôn cố gắng chứng minh tội phạm, không để có người bị oan,
không để cho những người lợi dụng để làm điều sai trái, những người vi phạm
pháp luật sống ngoài vòng pháp luật thì đó cũng là một trong những cách bảo
vệ hữu hiệu nhất. Bằng sự tham gia đóng góp vào quá trình chứng minh tội
phạm, lời khai của người làm chứng luôn chứng minh có hay không có hành
vi phạm tội xảy ra trên thực tế, tìm ra tội phạm để trừng trị theo đúng như
những quy định của pháp luật hình sự, làm cho những quy định của pháp luật
được thực thi trên thực tế thể hiện qua các mặt. Thứ nhất, pháp luật hình sự đã
trừng trị những hành vi phạm tội, giáo dục công dân phòng chống những kẻ
xấu lợi dụng khe hở của pháp luật để xuyên tạc, chống phá Nhà nước. Thứ
hai, việc thực hiện đúng với các quy định của pháp luật hình sự, tham gia
cộng tác với CQTHTT khai báo trung thực góp phần làm sáng tỏ vụ án người
làm chứng đã góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
BLTTHS coi việc đảm bảo quyền công dân là một trong những nguyên
tắc cơ bản của hoạt động tố tụng, điều này thể hiện bản chất nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa luôn đề cao và tôn trọng các quyền của con người vì lợi ích của
con người bao gồm quyền Hiến định và luật định. Khi người làm chứng tham
gia tố tụng cung cấp lời khai, hỗ trợ tư pháp thì cũng đồng nghĩa với người
làm chứng thực hiện quyền của mình, quyền công dân, một trong những
quyền rất cơ bản được pháp luật tôn trọng quy định tại Điều 25 của BLTTHS:
Các tổ chức, công dân có quyền và nghĩa vụ phát hiện tố giác
hành vi phạm tội; tham gia đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm,
góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của
công dân, tổ chức. Làm tốt vai trò của người làm chứng đồng nghĩa
với việc bảo vệ quyền lợi của mình, bảo vệ cho bị can, bị cáo tránh
20
khỏi những hàm oan, trả lại sự công bằng, khôi phục danh dự cho họ
trong trường hợp họ không thực hiện phạm tội, hoặc làm sáng tỏ vụ
án, trả lại sự công bằng cho người bị hại, bù đắp những mất mát do
những hành vi do tội phạm gây ra, thì lúc đó lời khai của người làm
chứng có tác dụng bảo vệ cho người bị hại [18, Điều 25]
Do vậy lời khai của người làm chứng có tác dụng bảo vệ công lý, bảo
vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người.
Vai trò của người làm chứng trong nghĩa vụ chứng minh đối với công
cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Mọi công dân trong xã hội dù ở cương
vị nào cũng đều bị chi phối bởi pháp luật, tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội đều chịu sự điều chỉnh những quy định của pháp luật. Nhiệm vụ của công
dân là tuân theo pháp luật. Nhiệm vụ của TTHS không những là phát hiện tất
cả hành vi phạm tội đã diễn ra trên thực tế mà còn hạn chế tới mức thấp nhất
hành vi đó, người làm chứng là một chủ thể của quá trình tố tụng tuân thủ
những quy định của pháp luật TTHS về trình tự, thủ tục và tính trung thực
trong cung cấp lời khai cho CQTHTT trong quá trình làm sáng tỏ vụ án với
mong muốn tìm ra người phạm tội, mục đích, động cơ của hành vi và quá
trình thực hiện phạm tội như thế nào…, từ đó những người thực thi pháp luật
có cái nhìn tổng quát và toàn diện hơn về những hành vi phạm tội mà có
phương hướng và phương pháp cụ thể có hiệu quả để phòng chống tội phạm.
1.3. Quy định về người làm chứng trong pháp luật tố tụng hình sự
một số nước trên thế giới
1.3.1. Quy định về người làm chứng trong pháp luật tố tụng hình sự
của Cộng hòa liên bang Đức
Trước khi vụ án đưa ra xét xử, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết
định triệu tập những người liên quan đến phiên tòa, nếu phiên tòa kéo dài
Thẩm phán có thể quyết định những người làm chứng được triệu tập đến phiên
tòa sẽ kéo dài thời gian triệu tập đến phiên tòa. Sau khi người làm chứng được
21
Tòa án triệu tập được kiểm tra bởi Thẩm phán chỉ định nếu việc ốm đau hoặc
sức khỏe và những yếu tố khác gây ảnh hưởng đến việc có mặt của người làm
chứng trong một thời hạn không xác định, “nguyên tắc này tương tự sẽ được áp
dụng nếu người làm chứng không thể có mặt tại phiên tòa vì ở quá xa, người
làm chứng tham gia xét xử thông qua việc đưa ra lời tuyên thệ ngoại trừ các
trường hợp đã được quy định hoặc được chấp nhận” [38, Điều 223]. Việc
kiểm tra người làm chứng có thể ở địa điểm khác nếu có nguy cơ ảnh hưởng
nghiêm trọng đối với người làm chứng khi người làm chứng được kiểm tra
với sự có mặt những người tham gia phiên tòa chính thức và nếu nguy cơ đó
không thể khắc phục được bằng cách khác như đưa bị cáo ra khỏi phòng xét
xử và xét xử kín thì Tòa án có thể quyết định đưa người làm chứng đến một
địa điểm khác để kiểm tra. Việc lấy lời khai người làm chứng được truyền
hình trực tiếp đồng thời tới phòng xử án. Lời khai của người làm chứng sẽ
được ghi lại nếu có đủ căn cứ khẳng định việc lo sợ rằng không thể kiểm tra
người làm chứng tại phiên tòa chính thức sau này và nếu việc ghi âm, ghi
hình đó là cần thiết để xác định sự thật vụ án (Điều 247a). Người làm chứng
đã tham gia vào quá trình kiểm tra có thể không có mặt tại nơi phiên tòa diễn
ra chỉ được khi sự cho phép hoặc chỉ dẫn của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa,
cơ quan công tố và bị cáo được thông báo trước về việc này [38].
1.3.2. Quy định về người làm chứng trong pháp luật tố tụng hình sự
của Cộng hòa Pháp
Về việc xét hỏi nhân chứng Thẩm phán điều tra triệu tập bất kỳ ai có
tuyên bố hữu ích với mình thông qua thừa phát lại hoặc sỹ quan cảnh sát,
nhân chứng cũng có thể được triệu tập bằng thư tín thông thường, thư bảo
đảm thông qua các kênh hành chính, họ cũng có thể trình diện. “Khi được
triệu tập hoặc gửi thư, nhân chứng được thông báo là nếu không trình
diện hoặc từ chối trình diện thì có thể bị nhân viên thực thi pháp luật áp
giải” [37, Điều 101]. Nếu nhân chứng không trình diện hoặc từ chối trình
22
diện Thẩm phán điều tra có thể theo yêu cầu của công tố viên cấp quyện, lệnh
cho người này bị áp giải bởi các cơ quan thực thi pháp luật. Các biện pháp thực
thi pháp luật được tiến hành đối với các nhân chứng không thực hiện nghĩa vụ
theo một bên đề xuất bằng văn bản, nhân chứng được trực tiếp đưa tới trước
Thẩm phán đã đề xuất áp dụng các biện pháp này. Nếu nhân chứng không thể
trình diện, thì Thẩm phán có thể đến tận nơi để xét hỏi, đối với trường hợp nhân
chứng cố tình không thực hiện theo lệnh triệu tập thì Thẩm phán có thể phạt tiền.
Thẩm phán điều tra với sự trợ giúp của thư ký xét hỏi riêng nhân chứng
hoặc đối chất giữa họ với một hoặc nhiều bên. Đối với nhân chứng bị điếc
Thẩm phán điều tra phải chỉ định chính thức một người phiên dịch ngôn ngữ ra
hiệu hoặc người khác đủ tiêu chuẩn giao tiếp với người điếc để giúp đỡ người
này trong quá trình xét hỏi. Nhân chứng phải tuyên thệ nói ra toàn bộ sự thật và
không có gì ngoài sự thật. Thẩm phán hỏi tên, tuổi, nghề nghiệp, nơi ở, người
thân ở mức độ nào, hoặc có được trợ cấp của những người này không. Thẩm
phán không được xét hỏi với tư cách nhân chứng những người mà chứng cứ
củng cố và nghiêm trọng cho thấy họ tham gia thực hiện tội phạm.
Ngoài các quy định nêu trên thì pháp luật tố tụng hình sự nước cộng
hòa Pháp còn có quy định nhân chứng bổ trợ được quy định từ điều 113-1 đến
điều 113-8. Bất kỳ ai có tên trong đề xuất ban đầu hoặc bổ sung của công tố
viên và không bị thẩm tra tư pháp có thể chỉ bị xét hỏi với tư cách nhân chứng
bổ trợ. Bất kỳ ai có tên trong khiếu nại hoặc do nạn nhân trình báo có thể
được xét hỏi với tư cách nhân chứng. Bất kỳ ai do nhân chứng khai báo hoặc
có bằng chứng tương đối chắc chắn cho thấy họ có thể tham gia với tư cách
thủ phạm hoặc đồng phạm trong việc thực hiện phạm tội mà Thẩm phán điều
tra đang thụ lý có thể được xét hỏi với tư cách nhân chứng bổ trợ. Nhân chứng
bổ trợ được hưởng từ quyền được Luật sư trợ giúp, Luật sư này do nhân chứng
bổ trợ chọn hoặc do đoàn luật sư đề cử nếu người liên quan yêu cầu. Trong lần
đầu xét hỏi nhân chứng bổ trợ, Thẩm phán điều tra phải thông báo cho người
23
này về quyền của họ, nhân chứng bổ trợ không thể bị đặt dưới sự giám sát tư
pháp hoặc bị tạm giam trước khi xét xử, hoặc là đối tượng của lệnh chuyển
giao hoặc bị thẩm tra tư pháp và nhân chứng bổ trợ không tuyên thệ [37].
1.3.3. Quy định về người làm chứng trong pháp luật tố tụng hình sự
của Liên bang Nga
Việc lấy lời khai được tiến hành trong giai đoạn tố tụng trước khi xét
xử tại tòa án, lấy lời khai của người làm chứng là những thông tin do họ đưa
ra khi lấy lời khai. Khi lấy lời khai người làm chứng có thể được hỏi về bất kỳ
tình tiết nào liên quan đến vụ án, về nhân thân của bị can, người bị hại và mối
quan hệ giữa họ với bị can, người bị hại và những người làm chứng khác.
Việc lấy lời khai được tiến hành ở nơi tiến hành điều tra dự thẩm, trong
trường hợp xét thấy cần thiết, dự thẩm viên có quyền tiến hành việc lấy lời
khai tại nơi ở của đương sự và lấy lời khai không quá 4 tiếng. Việc lấy lời
khai của người làm chứng chưa đủ 14 tuổi và từ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi theo
ý kiến của Dự thẩm viên, được tiến hành với sự tham gia của nhà sư phạm.
Khi lấy lời khai của người chưa thành niên thì đại diện hợp pháp của họ được
quyền có mặt, người làm chứng là người chưa đủ 16 tuổi thì không bị cảnh
báo về trách nhiệm do từ chối khai báo hoặc khai báo gian dối. Khi làm việc
với người làm chứng phải ghi lời khai riêng từng người và không có mặt của
người làm chứng khác chưa được lấy lời khai, trước khi lấy lời khai người
làm chứng chủ tọa phiên tòa xác định nhân thân, làm rõ mối quan hệ của họ
với bị cáo và người bị hại, giải thích quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của họ,
bên yêu cầu triệu tập người làm chứng đến phiên tòa đưa ra những câu hỏi đối
với người làm chứng trước, sau khi các bên đã hỏi người làm chứng Thẩm
phán đưa ra những câu hỏi đối với họ. Những người làm chứng đã khai báo
có thể rời khỏi phòng xử án trước khi kết thúc việc điều tra tại Tòa án nếu
được chủ tọa phiên tòa cho phép sau khi đã tham khảo ý kiến của các bên.
24
Trong trường hợp cần thiết phải bảo đảm sự an toàn cho
người làm chứng, họ hàng thân thích của họ thì Tòa án không tiết lộ
những thông tin thực về nhân thân của người làm chứng và có
quyền tiến hành lấy lời khai của họ trong những điều kiện để những
người khác tham gia vào quá trình xét xử không nhìn thấy họ và
Tòa án phải quyết định về việc này [39, Điều 278].
Người làm chứng có thể sử dụng những ghi chép đã được đệ trình trước
tòa theo yêu cầu của họ, việc công bố lời khai đã được thu thập trong quá
trình điều tra, xét xử cũng như công bố phim âm bản, ảnh, phim đèn chiếu
được thực hiện trong quá trình lấy lời khai băng ghi âm, ghi hình, phim về
việc lấy lời khai chỉ được phép các bên đồng ý và trong trường hợp người làm
chứng vắng mặt [39].
1.3.4. Quy định về người làm chứng trong pháp luật tố tụng hình sự
của Nhật Bản
Trừ các quy định khác trong bộ luật tố tụng hình sự Nhật Bản:
Tòa án có thể kiểm tra bất kỳ ai với tư cách nhân chứng, liên
quan đến bất kỳ tình tiết nào thuộc về một người là hoặc đã từng là
cán bộ chính phủ, thì chính người này hoặc cơ quan này đã cam kết
là tình tiết này thuộc bí mật công vụ, người này không bị kiểm tra
với tư cách nhân chứng trừ khi và cho đến khi có sự đồng ý của cơ
quan giám sát; với điều kiện là cơ quan giám sát này không thể từ
chối sự đồng ý trừ các trường hợp có thể gây thiệt hại nghiêm trọng
đến lợi ích nhà nước [36, Điều 144].
Quyền từ chối khai báo, bất kỳ ai cũng có thể từ chối khai báo nếu lo sợ
là có thể bị truy tố hoặc kết án, bất kỳ ai cũng có thể từ chối khai báo nếu sợ
là những người sau có thể bị truy tố hoặc kết án: Vợ chồng, họ hàng huyết
thống trong phạm vi ruột thịt ba đời hoặc thân thuộc trong phạm vi ruột thịt
đời thứ hai, người giám hộ, giám sát việc giám hộ. Sự tham dự của nhân
25
chứng, khi Tòa án kiểm tra nhân chứng, nếu họ cho rằng có khả năng nhân
chứng cảm thấy quá lo lắng hoặc căng thẳng, xem xét độ tuổi, tình trạng trí óc
và thể chất, hoặc bất kỳ tình huống nào khác của nhân chứng, lắng nghe quan
điểm của công tố viên, bị cáo hoặc người bào chữa, thì có thể ra lệnh cho
người phù hợp để giảm bớt sự lo lắng và căng thẳng và cho là không có nguy
cơ làm cản trở việc kiểm tra của Thẩm phán hoặc người liên quan trong vụ án
hoặc tuyên bố của nhân chứng, hoặc gây ra những ảnh hưởng sai trái đến nội
dung của tuyên bố ở cùng với nhân chứng trong khi nhân chứng này đưa ra
tuyên bố (Điều 157). Tòa án có thể kiểm tra nhân chứng, tùy thuộc bản chất
của tội phạm, độ tuổi, tình trạng trí óc và thể chất, quan hệ với bị cáo hoặc bất
kỳ tình huống nào khác của nhân chứng, nếu cho rằng có nguy cơ gây áp lực
quá nặng và cản trở sự bình yên của trí óc khi nhân chứng đưa ra tuyên bố với
sự có mặt của bị cáo, người bào chữa, thực hiện các biện pháp mà bị cáo và
nhân chứng không thể đơn phương hoặc cùng nhau công nhận tình trạng của
bên kia. Với điều kiện là liên quan đến bất kỳ biện pháp nào cho bị cáo không
thể nhận ra nhân chứng, thì có thể được thực hiện chỉ trong trường hợp có
người bào chữa. Tòa án có thể, nếu thấy cần sau khi xem xét tầm quan trọng
của nhân chứng, độ tuổi, nghề nghiệp, điều kiện sức khỏe các tình huống khác
và mức độ nghiêm trọng của vụ án và lắng nghe quan điểm của công tố viên
và bị cáo hoặc người bào chữa, kiểm tra nhân chứng này bằng cách triệu tập
người này ở bên ngoài trụ sở Tòa án hoặc nơi có mặt của người này.
Nhân chứng khi tuyên thệ hoặc khai báo mà không có lý do
chính đáng, phải bị phạt tiền phi hình sự không quá một trăm nghìn
yên và có thể bị ra lệnh bồi thường các chi phí phát sinh do việc từ
chối. Bất kỳ ai từ chối tuyên thệ hoặc khai báo mà không có lý do
chính đáng thì bị phạt tiền không quá một trăm nghìn yên hoặc bị
giam giữ hình sự [36, Điều 161].
26
Chương 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
VỀ NGƯỜI LÀM CHỨNG VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
TẠI TỈNH ĐẮKLẮK
2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về
người làm chứng
2.1.1. Quy định về quyền của người làm chứng
Khác với quy định của BLTTHS năm 1998 là người làm chứng không
được hưởng bất kỳ một quyền dân sự nào trong khi phần lớn những chủ thể
tham gia tố tụng khác tùy theo mức độ đều được Bộ luật quy định họ phải
thực hiện một loạt các nghĩa vụ như: phải có mặt trước khi CQTHTT triệu tập
và phải khai báo đúng sự thật, nếu khai báo gian dối hoặc trốn tránh việc khai
báo mà không có lý do chính đáng thì có thể phải chịu chế tài hình sự và bị xử
lý theo pháp luật. Sự không tương xứng giữa quyền và nghĩa vụ này trái với
nguyên tắc “tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân” quy định tại
Điều 3 BLTTHS năm 1988 và tiếp tục được khẳng định tại Điều 4 BLTTHS
năm 2003 đã được sửa đổi theo hướng bổ sung một số quyền cần thiết cho
người làm chứng khi thực hiện nhiệm vụ tố tụng của mình.
Việc bổ sung một số quyền của người làm chứng quy định tại khoản 3
Điều 55 bao gồm cả quyền hiến định và quyền luật định - điều mà BLTTHS
năm 1988 không có.
- Quyền yêu cầu cơ quan triệu tập họ bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh
dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của mình khi
tham gia tố tụng (điểm a khoản 3 Điều 55 BLTTHS).
Xuất phát từ sự nhận thức tính nguy hiểm của các hoạt động đấu tranh
phòng, chống tội phạm, các quốc gia đều có sự trang bị về mặt vật chất và
27
những quyền năng pháp lý cần thiết cho các tổ chức, cá nhân có chức năng
phòng, chống tội phạm nhằm nâng cao hiệu quả phòng, chống tội phạm và
bảo vệ những chủ thể này trước nguy cơ xâm hại bởi các tội phạm. Quyền
được bảo vệ của người làm chứng cũng như những người tham gia tố tụng
khác tồn tại cùng với quyền được bảo vệ của các cơ quan, tổ chức, nhân viên
nhà nước trực tiếp tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Người làm chứng có thể gặp nguy hiểm hoặc chịu những hậu quả bất
lợi do việc họ tham gia tố tụng và khai báo về những tình tiết của vụ án. Sự
nguy hiểm về tính mạng hoặc hậu quả bất lợi đó có thể do bị can, bị cáo,
người bị hại trong vụ án hoặc những người khác đem lại; những hậu quả bất
lợi đó còn có thể do cơ quan tiến hành tố tụng gây ra (có thể khi lấy lời khai
của người làm chứng, một số người tiến hành tố tụng có hành vi làm ảnh
hưởng tới nhân phẩm, tài sản hoặc sức khỏe của họ). Vì vậy, người làm chứng
có quyền yêu cầu cơ quan triệu tập họ bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp khác khi tham tham gia tố
tụng. Các cơ quan tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp cần thiết để
đảm bảo sự an toàn, bảo đảm các quyền lợi hợp pháp của người làm chứng và
không được có hành vi làm ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm của họ.
Điểm a khoản 3 Điều 55 BLTTHS năm 2003 là sự cụ thể hóa một số
quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp năm 1992 ghi nhận như:
Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp
luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm. Không ai bị
bắt, nếu không có quyết định của Tòa án, quyết định hoặc phê chuẩn
của Viện kiểm sát, trừ trường hợp phạm tội quả tang; việc bắt và giam
giữ người phải đúng pháp luật. Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức,
nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân [17, Điều 7];
28
Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà
ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh
nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác... Nhà nước bảo hộ quyền
sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân [17, Điều 58].
Điểm a khoản 3 Điều 55 BLTTHS còn là sự cụ thể hóa một trong
những nguyên tắc cơ bản của hoạt động tố tụng hình sự đó là nguyên tắc bảo
hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân (quy định
tại Điều 7 BLTTHS). Nội dung nguyên tắc này xác định rõ:
Người bị hại, người làm chứng và người tham gia tố tụng
khác cũng như người thân thích của họ mà bị đe dọa đến tính mạng,
sức khỏe, bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm, tài sản thì cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng những biện pháp cần
thiết để bảo vệ theo quy định của pháp luật [18, Điều 7].
Quyền được bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản
và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của người làm chứng là một yêu cầu tất
yếu khách quan. Bởi lẽ, quyền được bảo vệ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự,
nhân phẩm và tài sản hợp pháp của công dân là vấn đề quan trọng được quy
định trong Hiến pháp và cụ thể hoá bằng các chế định pháp luật hình sự,
TTHS ở mỗi quốc gia, mỗi công dân trong xã hội đương nhiên có quyền được
bảo vệ từ phía Nhà nước trước nguy cơ xâm hại các quyền và lợi ích hợp
pháp của mình. Người làm chứng là công dân có vai trò đặc biệt - người tham
gia TTHS, lời khai của họ có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình giải quyết
vụ án hình sự. Vì vậy, họ có nguy cơ bị người phạm tội ngăn cản, khả năng bị
xâm hại tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản cao hơn nên cần
phải có cơ chế đặc biệt để bảo vệ họ.
Các cơ quan tiến hành tố tụng muốn thu thập được đầy đủ các thông tin
từ người làm chứng, sử dụng làm chứng cứ chứng minh tội phạm, người thực
29
hiện hành vi phạm tội và các vấn khác cần chứng minh trong vụ án hình sự thì
phải đảm bảo an toàn cho họ, loại trừ các cản trở ảnh hưởng đến việc khai báo
đúng đắn của họ. Thực tiễn cho thấy trong các vụ án hình sự lời khai của
người làm chứng có giá trị chứng minh càng lớn thì nguy cơ bị xâm hại đến
thể chất, tinh thần và tài sản của họ càng cao, nhất là các vụ án phạm tội có tổ
chức, bọn tội phạm là những tên lưu manh, côn đồ trong băng nhóm có tổ
chức theo kiểu “xã hội đen”...
Việc BLTTHS năm 2003 xác định rõ quyền của người làm chứng được
yêu cầu cơ quan triệu tập bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm,
tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của mình khi tham gia tố tụng và
cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm phải áp dụng những biện pháp cần
thiết để bảo vệ theo quy định của pháp luật là một đòi hỏi khách quan, thể
hiện thái độ, trách nhiệm của Nhà nước đối với nhân dân, để nhân dân có thể
tin tưởng và an tâm tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm. Đây là sự
đánh dấu lần đầu tiên trong hoạt động TTHS vấn đề bảo vệ người làm chứng
được quy định trong BLTTHS, là dấu hiệu thể hiện pháp luật TTHS Việt Nam
đang xích gần với thông lệ quốc tế. Có thể tìm thấy trong các Văn kiện quốc
tế ghi nhận những nội dung liên quan đến quyền con người trong TTHS như
Tuyên ngôn nhân quyền thế giới năm 1948; Công ước quốc tế về các quyền
dân sự, chính trị năm 1966 (ICCPR); Tuyên ngôn về những nguyên tắc cơ bản
của hoạt động xét xử đối với nạn nhân của tội phạm và nạn nhân của sự lạm
dụng quyền lực do Liên hiệp quốc ban hành ngày 29/11/1985. Các văn bản
này đưa đến một khẳng định: quyền con người trong TTHS là sự cụ thể quyền
sống, quyền được tự do trong lĩnh vực TTHS. Đây được coi là tiêu chuẩn về
nhân quyền trong TTHS. Cho đến nay, Việt Nam đã tham gia phần lớn và
cam kết thực hiện ở cả hai phương diện lập pháp và cam kết thực hiện các văn
kiện về quyền con người.
30
Do đó, khi tham gia vào hoạt động TTHS nếu người làm chứng nhận
thấy có người đe dọa hoặc có khả năng bị đe dọa đến tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm, tài sản thì có thể yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng đã
triệu tập mình bằng các biện pháp cần thiết bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền lợi ích hợp pháp khác của mình, như yêu
cầu cơ quan tiến hành tố tụng cử người bảo vệ hoặc giao các tài sản cho cơ
quan tiến hành tố tụng tạm thời bảo quản.
Quyền được bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản
và các quyền lợi ích họp pháp khác là quyền chính đáng của một công dân khi
tham gia vào hoạt động TTHS, là nghĩa vụ của Nhà nước, trực tiếp là các cơ
quan tiến hành tố tụng nhằm bảo đảm cho quá trình phát hiện, xử lý tội phạm
được chính xác, toàn diện.
+ Quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng (điểm b khoản 3 Điều 55 BLTTHS).
Quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng là sự cụ thể hóa một trong những quyền Hiến
định cơ bản của công dân thuộc nhóm quyền về chính trị quy định tại Hiến
pháp 1992. Hiến pháp quy định: “Công dân có quyền khiếu nại với cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan Nhà
nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá
nhân nào” [17, Điều 74]. Quyền này còn được ghi nhận là một nguyên tắc cơ
bản của TTHS - Điều 31 BLTTHS quy định “Công dân, cơ quan, tổ chức có
quyền khiếu nại, công dân có quyền tố cáo những việc làm trái pháp luật
trong hoạt động TTHS của các cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành
TTHS hoặc của bất cứ cá nhân nào thuộc các cơ quan đó” [18]. Đồng thời
BLTTHS dành hẳn một chương quy định về khiếu nại, tố cáo (Chương
XXXV) thể hiện rõ mục tiêu và trách nhiệm bảo đảm thực hiện dân chủ trong
31
hoạt động TTHS, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Những
quy định này được hướng dẫn thi hành tại Thông tư liên tịch số 02/2005/TTLT -
VKSNDTC -TANDTC - BCA - BTP ngày 10/8/2005.
Người làm chứng nếu nhận thấy các quyết định, hành vi của cơ quan,
người tiến hành tố tụng là sai trái, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh
dự nhân phẩm, tài sản của bản thân thì có quyền khiếu nại đến cơ quan có
thẩm quyền yêu cầu bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Chẳng
hạn, người làm chứng có thể khiếu nại quyết định dẫn giải người làm chứng,
quyết định trưng cầu giám định của cơ tiến hành tố tụng, khiếu nại về biên
bản lấy lời khai người làm chứng chưa thành niên không có chữ ký của người
đại diện hợp pháp; khiếu nại việc người tiến hành tố tụng khi lấy lời khai, đối
chất, nhận dạng, xét hỏi không giải thích quyền và nghĩa vụ cho người làm
chứng; người tiến hành tố tụng có hành vi dụ dỗ, mua chuộc, đe dọa để người
làm chứng khai báo theo yêu cầu của họ...
Người làm chứng là một trong những chủ thể tham gia tố tụng, việc họ
có quyền khiếu nại các quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người tiến
hành tố tụng thể hiện sự bình đẳng giữa các chủ thể tham gia tố tụng, phù hợp
với nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật
được quy định tại Điều 5 BLTTHS năm 2003. Việc quy định về quyền khiếu
nại các quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người tiến hành tố tụng của
người làm chứng thể hiện bản chất dân chủ của pháp luật TTHS, vừa có ý
nghĩa bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân vừa góp phần
khắc phục những sai phạm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Quy định như vậy nhằm làm cho người
làm chứng quan tâm hơn tới các quyết định, hành vi của cơ quan, người tiến
hành tố tụng liên quan tới quyền lợi hợp pháp của mình để họ có thể bảo vệ
quyền lợi của mình khi tham gia TTHS.
32
+ Quyền được cơ quan triệu tập thanh toán chi phí đi lại và những chi
phí khác theo quy định của pháp luật (điểm c khoản 3 Điều 55 BLTTHS).
Ngoài một số nguyên tắc cơ bản của công dân được quy định trong
Hiến pháp, BLTTHS năm 2003 còn trao cho người làm chứng được thanh
toán chi phí làm chứng. Việc thanh toán chi phí đi lại và những chi phí khác
tạo điều kiện thuận lợi về kinh phí vật chất cho người làm chứng thực hiện
nghĩa vụ công dân của mình, thúc đẩy người làm chứng tích cực thực hiện
nghĩa vụ của mình. Điều đó là hoàn toàn hợp lý bởi, khi người làm chứng
được triệu tập tham gia tố tụng thì họ phải hoãn lại công việc riêng của mình
để có mặt theo giấy triệu tập của CQTHTT và hoàn thành đầy đủ nhiệm vụ
của một người làm chứng, việc ra làm chứng ảnh hưởng rất nhiều đến thời
gian và trình tự công việc hàng ngày của họ, chưa kể đến những mất mát về
tài sản mà họ phải gánh chịu, nên họ có quyền được bù đắp và hoàn toàn xứng
đáng có được quyền này. Theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 55 BLTTHS
thì người làm chứng có thể liệt kê các chi phí liên quan đến việc đi lại, ăn ở
(trường hợp người làm chứng ở xa) và các chi phí khác, yêu cầu cơ quan tiến
hành tố tụng thanh toán các chi phí đó. Tuy nhiên, hiện nay chưa có văn bản
nào quy định cụ thể những loại “chi phí khác ” được thanh toán trong quá
trình người làm chứng thực hiện nghĩa vụ tố tụng. Đối với người làm chứng
dưới 16 tuổi khi lấy lời khai phải có mặt của cha, mẹ hoặc người đại diện hợp
pháp hoặc thầy, cô giáo của người đó tham dự, nhưng BLTTHS không quy
định những chủ thể này được thanh toán các chi phí. Thông thường các cơ
quan tiến hành tố tụng thanh toán chi phí đi lại cho người làm chứng theo hóa
đơn hoặc giấy xác nhận. Quy định người làm chứng được thanh toán các chi
phí theo quy đinh tại khoản 3 Điều 55 BLTTHS năm 2003 là hợp lý nhưng
chưa đầy đủ và cụ thể để có thể thực hiện thống nhất trên thực tế. Chưa thực
sự đảm bảo được quyền lợi cho người làm chứng, khuyến khích họ thực hiện
33
nghĩa vụ của mình, ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án hình sự. Trong
thời gian dài, quy định này được coi là một “đặc quyền” của người làm chứng
mà những người tham gia tố tụng với tư cách hỗ trợ cho hoạt động tố tụng
hình sự khác không có như người giám định, người phiên dịch. Ngày
28/3/2012 Ủy ban thường vụ Quốc Hội ban hành Pháp lệnh chi phí giám định,
định giá; chi phí cho người làm chứng, người phiên dịch trong tố tụng thì việc
được “thanh toán chi phí đi lại và những chi phí khác” không còn là “đặc
quyền” của người làm chứng.
Các quyền của người làm chứng như quyền yêu cầu cơ quan triệu tập
bảo vệ tính mạng sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền, lợi ích
họp pháp của mình; quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của người
tiến hành tố tụng, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng; quyền được thanh
toán chi phí đi lại và những chi phí khác theo quy định của pháp luật là những
quy định mới của BLTTHS năm 2003. Đây là sự đổi mới tư duy lập pháp về
người làm chứng của pháp luật.
2.1.2. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về nghĩa vụ
của người làm chứng
BLTTHS năm 2003 đã quy định tương đối toàn diện và đầy đủ về
nghĩa vụ của người làm chứng; cụ thể, theo quy định tại khoản 4 Điều 55 quy
định những nghĩa vụ của người làm chứng phải tuân thủ:
Có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, Tòa án; trong trường hợp cố ý không đến mà không có lý do
chính đáng và việc vắng mặt của họ gây trở ngại cho việc điều tra,
truy tố, xét xử thì có thể bị dẫn giải; Khai báo trung thực tất cả
những tình tiết mà mình biết về vụ án. Người làm chứng từ chối
hoặc trốn tránh việc khai báo mà không có lý do chính đáng thì phải
chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 308 của BLHS [18, Điều 55].
34
Để góp phần cho quá trình tố tụng diễn ra có hiệu quả và nhanh chóng
thì người làm chứng phải tuân thủ và thực hiện những nghĩa vụ đã quy định
trong suốt quá trình tố tụng.
+ Nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, Tòa án; trong trường hợp cố ý không đến mà không có lý do chính đáng
và việc vắng mặt của họ gây trở ngại cho việc điều tra, truy tố, xét xử thì có
thể bị dẫn giải (điểm a khoản 4 Điều 55 BLTTHS)
Khoản 1 Điều 25 BLTTHS quy định: “Các tổ chức, công dân có quyền
và nghĩa vụ phát hiện, tố giác hành vi phạm tội; tham gia đấu tranh phòng
ngừa và chống tội phạm, góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi
ích hợp pháp của công dân, tổ chức” [18], như vậy phòng, chống tội phạm là
nghĩa vụ của mọi công dân với Nhà nước. Người làm chứng khi nhận được
giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu họ thực hiện nghĩa vụ
công dân của mình để giải quyết một vụ án cụ thể, phải có mặt theo giấy triệu
tập đó. Sự có mặt của người làm chứng đúng thời gian, địa điểm ghi trong
giấy triệu tập là cần thiết, có ý nghĩa quan trọng trong giải quyết án. Qua hoạt
động lấy lời khai, đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra các tình tiết của
vụ án sẽ được làm rõ. Tại phiên tòa, lời khai trước đó của người làm chứng
với cơ quan điều tra sẽ được thẩm định lại, được làm rõ để sử dụng làm căn
cứ xác định tội phạm, quyền được bào chữa của bị cáo cũng được đảm bảo.
Nếu người làm chứng vắng mặt không có lý do chính đáng và việc vắng mặt
của họ gây khó khăn, trở ngại cho việc điều tra, truy tố, xét xử thì có thể bị
dẫn giải. Quy định này có ý nghĩa quan trọng nhằm bảo đảm sự có mặt của
người làm chứng khi được triệu tập, hạn chế việc họ lẩn tránh, thoái thác trách
nhiệm không chịu hợp tác với các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình
xác định sự thật khách quan của vụ án. Việc người làm chứng có mặt đúng
thời gian, địa điểm theo giấy triệu tập sẽ tránh được sự tốn kém nhất định về
35
kinh phí trong quá trình giải quyết vụ án. Việc vắng mặt người làm chứng còn
ảnh hưởng tới công việc của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố
tụng khác và những người tham gia phiên tòa như cảnh sát hỗ trợ tư pháp.
Bên cạnh thiệt hại về kinh tế là thiệt hại về công lý - nếu người làm chứng
không có mặt tại phiên tòa, Hội đồng xét xử sẽ không thể thẩm tra lại chứng
cứ mà người làm chứng đã cung cấp tại cơ quan điều tra. Từ đó quyền bào
chữa của bị cáo sẽ khó được bảo đảm, hoạt động xét xử có thể gặp những khó
khăn, thậm chí đi đến bế tắc, kẻ phạm tội đích thực không bị truy cứu trách
nhiệm hình sự và tiếp tục sống nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật, gây hoang
mang trong dư luận, tạo cơ hội cho các phần tử phản động lợi dụng chống phá
Đảng và Nhà nước.
Khoản 2 Điều 133 BLTTHS năm 2003 quy định khi triệu tập người
làm chứng: “Các cơ quan, tổ chức đó có trách nhiệm tạo điều kiện cho người
làm chứng thực hiện nghĩa vụ” [18]. Quy định này dường như không thực
hiện được trên thực tế vì trong các luật chuyên ngành không quy định về
quyền của người lao động được nghỉ việc để tham gia làm chứng trong vụ án
hình sự. Trong Bộ luật lao động chỉ quy định thời gian nghỉ hưởng nguyên
lương là nghỉ hàng năm (Điều 74) nghỉ về việc riêng (Điều 78), nghỉ ngày lễ
(Điều 73) [23]. Luật cán bộ, công chức cũng không có quy định nào về việc
cán bộ, công chức được phép nghỉ làm tại cơ quan để thực hiện nghĩa vụ làm
chứng của mình. Do vậy khi được triệu tập người làm chứng phải xuất trình
giấy triệu tập báo cáo cơ quan nơi công tác để được nghỉ làm việc tham gia tố
tụng khi có yêu cầu của CQTHTT.
+ Nghĩa vụ khai trung thực tất cả những tình tiết mà mình biết về vụ án
(điểm b khoản 4 Điều 55 BLTTHS).
Người làm chứng tham gia tố tụng với chức năng hỗ trợ cơ quan tiến
hành tố tụng làm sáng tỏ vụ án. Lời khai gian dối của người làm chứng có thể
36
làm tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Tội
phạm cần phải được trừng trị nghiêm minh, do vậy khai trung thực tất cả
những tình tiết mà mình biết về vụ án là một trong những nghĩa vụ quan trọng
của người làm chứng. So với những người tham gia tố tụng khác như người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người
có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bào chữa, người bảo vệ
quyền lợi của đương sự thì người làm chứng là chủ thể không quan tâm đến
kết quả giải quyết vụ án bởi kết quả giải quyết vụ án không ảnh hưởng đến
quyền, lợi ích của họ. Người làm chứng tham gia vào quá trình giải quyết vụ
án do họ biết những tình tiết liên quan đến vụ án, lời khai của họ là nguồn
chứng cứ quan trọng góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án
nhằm bảo vệ lợi ích chung của xã hội. Vì vậy, người làm chứng phải có nghĩa
vụ khai báo tất cả, khai trung thực, không che dấu những gì mà họ biết về vụ
án. Việc người làm chứng cam đoan không khai gian dối quy định tại khoản 1
Điều 204 BLTTHS là một biện pháp giúp người làm chứng thấy được rõ hơn
trách nhiệm và nghĩa vụ của mình tại tòa, đối với người làm chứng là người
chưa thành niên không phải cam đoan. Tuy nhiên, BLTTHS năm 2003 chỉ
quy định người làm chứng phải cam đoan không khai gian dối tại phiên tòa
còn ở giai đoạn tố tụng khác không quy định.
Pháp luật TTHS của một số quốc gia trên thế giới như Đức, Pháp,
Nga, Nhật Bản buộc người làm chứng phải tuyên thệ cam đoan lời khai của
mình là đúng sự thật, đồng thời quy định cụ thể về hình thức tuyên thệ. Ví
dụ, pháp luật của CHLB Đức quy định: Trước khi lấy lời khai, người làm
chứng được nhắc nhở là phải nói lên sự thật và được thông báo rằng lời
khai của họ được đưa ra phải được kèm theo lời tuyên thệ, trừ khi được
pháp luật có quy định khác. Người làm chứng được giải thích tầm quan
trọng của việc tuyên thệ, khả năng lựa chọn giữa việc tuyên thệ với sự xác
37
nhận về mặt tôn giáo và trách nhiệm pháp lý hình sự của việc khai báo
không chính xác hoặc không đầy đủ.
Những người chưa đủ 16 tuổi vào thời điểm lấy lời khai,
người không hiểu biết tầm quan trọng và bản chất của lời tuyên thệ
do họ là người có nhược điểm về trí tuệ hoặc tâm thần hay tình
cảm; người bị tình nghi đã thực hiện tội phạm và là đối tượng của
việc điều tra hoặc đã tham gia vào việc thực hiện tội phạm hoặc
người bị tình nghi là đồng phạm, cản trở công lý hoặc tiêu thụ tài
sản trộm cắp hoặc đã bị tuyên phạt về việc đó [15].
Pháp luật TTHS của Việt Nam còn quy định: Nếu người làm chứng từ
chối hoặc trốn tránh việc khai báo mà không có lý do chính đáng thì phải chịu
trách nhiệm sự theo Điều 308 BLHS; khai báo gian đối thì phải chịu trách
nhiệm hình sự theo Điều 307 BLHS. Trong khi đó tại Điều 314 BLHS quy
định hành vi không tố giác tội phạm của những người là ông, bà, cha, mẹ,
con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của kẻ phạm tội không phải là tội
phạm (trừ trường hợp không tố giác tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia
hoặc các tội đặc biệt nghiêm trọng). BLHS đã thể hiện sự quan tâm của Nhà
nước đối với khía cạnh đạo đức trong quá trình giải quyết mối quan hệ giữa
Nhà nước và công dân đảm bảo quy định của pháp luật hình sự phù hợp với
truyền thống đạo đức của dân tộc. Bộ luật TTHS ban hành sau nhưng khi quy
định về nghĩa vụ của người làm chứng đã không tiếp thu và phát triển được tư
tưởng nhân văn này, trong khoa học pháp lý của nước ta chưa nói đến giao
lưu nhân đạo hóa, mở rộng bảo đảm quyền con người trong TTHS của nhiều
nước trên thế giới [13].
Nhìn chung, BLTTHS năm 2003 có bước tiến đáng kể so với BLTTHS
năm 1988 khi bổ sung các quy định về quyền và nghĩa vụ của người làm
chứng, làm cho người làm chứng đầy đủ, rõ ràng hơn, tạo điều kiện thuận lợi
38
cho người làm chứng khi tham gia vào hoạt động TTHS. Qua phân tích có thể
khẳng định người làm chứng không được hưởng một lợi ích vật chất hay tinh
thần nào khi tham gia vào vụ án; các quyền mà BLTTHS thừa nhận cho người
làm chứng chỉ là quyền yêu cầu được bù đắp những thiệt thòi, mất mát hoặc
ngăn chặn những mất mát, tổn thất có thể xảy ra đối với họ liên quan đến sự
hợp tác của họ với cơ quan tiến hành tố tụng [13]. Quy định về quyền và
nghĩa vụ của người làm chứng không tương xứng với nhau - nặng về nghĩa vụ
và trách nhiệm nên chưa khuyến khích được người làm chứng trong công tác
đấu tranh phòng, chống tội phạm.
2.1.3. Một số quy định khác trong luật tố tụng hình sự Việt Nam có
liên quan đến người làm chứng
* Quy định của BLTTHS năm 2003 về trách nhiệm của Cơ quan tiến
hành tố tụng và người tiến hành tố tụng bảo đảm các quyền, lợi ích và nghĩa
vụ cho người làm chứng.
- Phải áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ tính mạng, sức khỏe,
danh dự nhân phẩm, tài sản của người làm chứng và người thân thích của họ
theo quy định của pháp luật. Đi đôi với việc quy định các quyền cho người
làm chứng, BLTTHS năm 2003 cũng quy định về trách nhiệm của cơ quan và
người tiến hành tố tụng, tạo sự ràng buộc trách nhiệm từ phía Nhà nước, bảo
đảm thực thi quyền lợi cho người làm chứng. Điều 7 BLTTHS quy định:
Người bị hại, người làm chứng và người tham gia tố tụng
khác cũng như người thân thích của họ mà bị đe dọa đến tính mạng,
sức khỏe, bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm, tài sản thì cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng những biện pháp cần
thiết để bảo vệ theo quy định của pháp luật [18, Điều 7].
Đây là một quy định mới quan trọng được bổ sung mang tính nguyên
tắc của BLTTHS, được cụ thể tại khoản 5 Điều 211 BLTTHS
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOTLuận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
 
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sựLuận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đLuận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
 
Luận văn: Chứng minh trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Chứng minh trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, HAYLuận văn: Chứng minh trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Chứng minh trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, HAY
 
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAYLuận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
 
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sựLuận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
 
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOTLuận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
 
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đLuận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
 
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sựLuận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
 
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấnĐề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
 
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu từ thực tiễn xét xử củ...
Luận văn: Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu từ thực tiễn xét xử củ...Luận văn: Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu từ thực tiễn xét xử củ...
Luận văn: Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu từ thực tiễn xét xử củ...
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAYLuận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019
LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019
LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019
 
Luận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOT
Luận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOTLuận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOT
Luận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOT
 
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAYLuận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
 
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAYLuận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
 

Similar to Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam

Similar to Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam (20)

Luận văn: Địa vị pháp lý của người làm chứng theo pháp luật, 9đ
Luận văn: Địa vị pháp lý của người làm chứng theo pháp luật, 9đLuận văn: Địa vị pháp lý của người làm chứng theo pháp luật, 9đ
Luận văn: Địa vị pháp lý của người làm chứng theo pháp luật, 9đ
 
Luận văn: So sánh đối tượng chứng minh theo luật tố tụng, HOT
Luận văn: So sánh đối tượng chứng minh theo luật tố tụng, HOTLuận văn: So sánh đối tượng chứng minh theo luật tố tụng, HOT
Luận văn: So sánh đối tượng chứng minh theo luật tố tụng, HOT
 
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạtĐề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
 
Đề tài: Địa vị pháp lý của người bị hại trong tố tụng hình sự, HOT
Đề tài: Địa vị pháp lý của người bị hại trong tố tụng hình sự, HOTĐề tài: Địa vị pháp lý của người bị hại trong tố tụng hình sự, HOT
Đề tài: Địa vị pháp lý của người bị hại trong tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAYLuận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
 
Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOTLuận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
 
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdf
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdfNHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdf
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdf
 
Luận văn: Vai trò người bào chữa trong điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Vai trò người bào chữa trong điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn phí ...Luận văn: Vai trò người bào chữa trong điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Vai trò người bào chữa trong điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn phí ...
 
Đề tài: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự, HAY
Đề tài: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự, HAYĐề tài: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự, HAY
Đề tài: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sựLuận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
 
Luận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
Luận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sựLuận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
Luận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
 
Luận án: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận án: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAYLuận án: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận án: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOT
 
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOTQuyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
 
Luận án: Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, HAY
Luận án: Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, HAYLuận án: Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, HAY
Luận án: Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, HAY
 
vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay
vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nayvai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay
vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay
 
Luận văn: Vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp, HAY
Luận văn: Vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp, HAYLuận văn: Vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp, HAY
Luận văn: Vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp, HAY
 
vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay
vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nayvai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay
vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay
 
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụngLuận văn: Nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
DungxPeach
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
dangdinhkien2k4
 

Recently uploaded (20)

Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
 

Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ VIẾT KIÊN NG¦êI LµM CHøNG TRONG LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM (Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh §¾k L¾k) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ VIẾT KIÊN NG¦êI LµM CHøNG TRONG LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM (Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh §¾k L¾k) Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. ĐỖ THỊ PHƯỢNG HÀ NỘI - 2015
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, khách quan, trung thực. Người cam đoan Lê Viết Kiên
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt Danh mục bảng MỞ ĐẦU.......................................................................................................1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI LÀM CHỨNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ ...........................6 1.1. Khái niệm và đặc điểm về người làm chứng..................................6 1.1.1. Khái niệm người làm chứng..............................................................6 1.1.2. Đặc điểm về người làm chứng ........................................................11 1.2. Vai trò của người làm chứng trong tố tụng hình sự.................... 14 1.3. Quy định về người làm chứng trong pháp luật tố tụng hình sự một số nước trên thế giới ......................................................... 20 1.3.1. Quy định về người làm chứng trong pháp luật tố tụng hình sự của Cộng hòa liên bang Đức ........................................................... 20 1.3.2. Quy định về người làm chứng trong pháp luật tố tụng hình sự của Cộng hòa Pháp ......................................................................... 21 1.3.3. Quy định về người làm chứng trong pháp luật tố tụng hình sự của Liên bang Nga .......................................................................... 23 1.3.4. Quy định về người làm chứng trong pháp luật tố tụng hình sự của Nhật Bản ..................................................................................24 Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ NGƯỜI LÀM CHỨNG VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TỈNH ĐẮKLẮK................................................. 26
  • 5. 2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về người làm chứng .............................................................26 2.1.1. Quy định về quyền của người làm chứng........................................26 2.1.2. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về nghĩa vụ của người làm chứng....................................................................... 33 2.1.3. Một số quy định khác trong luật tố tụng hình sự Việt Nam có liên quan đến người làm chứng....................................................... 38 2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về người làm chứng tại tỉnh Đắk Lắk ......................... 44 2.2.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân ........................................44 2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân ...................................................... 53 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ VỀ NGƯỜI LÀM CHỨNG TẠI TỈNH ĐẮK LẮK......67 3.1. Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về người làm chứng...................................................................................... 67 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả của các cơ quan tiến hành tố tụng đối với người làm chứng tại tỉnh Đắk Lắk..........................93 KẾT LUẬN................................................................................................. 97 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................. 100
  • 6. DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLDS: Bộ luật dân sự BLHS: Bộ luật hình sự BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự CQĐT: Cơ quan điều tra CQTHTT: Cơ quan tiến hành tố tụng TA: Tòa án TTHS: Tố tụng hình sự VAHS: Vụ án hình sự VKS: Viện kiểm sát
  • 7. DANH MỤC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1: Số liệu các vụ án hình sự thụ lý của TAND tỉnh Đắk Lắk từ năm 1999 đến năm 2013 44
  • 8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đi đôi với quá trình hội nhập phát triển kinh tế là yêu cầu xây dựng một xã hội có những thiết chế pháp luật chặt chẽ và cụ thể, trong đó quyền con người phải được tôn trọng và bảo vệ. Người làm chứng được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 là cơ sở pháp lý quan trọng để nâng cao vai trò, vị trí và bảo vệ người làm chứng - là một chủ thể trong vụ án hình sự góp phần làm rõ sự thật khách quan của vụ án, là một chế định lâu đời trong hệ thống pháp luật của Nhà nước ta và các nước khác trên thế giới, xuất phát từ lời khai của người làm chứng là một trong những chứng cứ có vai trò rất quan trọng giúp vụ án được sáng tỏ. Cùng với quá trình hội nhập kinh tế thế giới, sự hoàn thiện các quy định của pháp luật đối với người làm chứng và sự bảo đảm của nhà nước về địa vị pháp lý của người làm chứng sẽ có ý nghĩa thiết thực trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người, của các tổ chức chính trị và của toàn xã hội nói chung cũng như quyền lợi của người làm chứng nói riêng; góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào sự công minh của pháp luật, của Nhà nước và đồng thời góp phần quan trọng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vững mạnh. Hiện nay Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định theo hướng ngày càng hoàn thiện hơn về quyền và nghĩa vụ của người làm chứng, mở rộng quyền của họ và những biện pháp bảo đảm tố tụng cho các quyền đó. Tuy nhiên, việc quy định các quyền và nghĩa vụ của người làm chứng và quy định về địa vị pháp lý của người làm chứng trong BLTTHS năm 2003 vẫn chưa tạo cơ sở pháp lý phù hợp để khuyến khích người làm chứng tích cực thực hiện nghĩa vụ công dân của mình, hợp tác với Nhà nước trong đấu tranh phòng chống tội phạm, xác minh sự thật khách quan của vụ án chưa thực sự bảo đảm các quyền, lợi ích chính đáng của người làm chứng. Trong khi đó, hoạt động của tội phạm ngày càng nguy hiểm và táo tợn hơn trong việc trả thù, đe dọa,
  • 9. 2 hành hung người làm chứng. Hiện nay những quy định về người làm chứng trong pháp luật hiện hành còn nhiều bất cập về nội dung và những cơ chế chưa được giải quyết. Từ những vấn đề nêu trên, người làm chứng trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, nhất là đối với các vụ án lớn, người làm chứng thường ít ra làm chứng, từ chối làm chứng, khai báo chịu sự tác động của nhiều yếu tố khách quan, chủ quan chi phối gây thiệt hại cho nhà nước, xã hội. Cùng với việc đẩy mạnh hội nhập phát triển kinh tế, xã hội. Đảng và nhà nước ta cũng đang tiến hành cải cách tư pháp theo nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, hoàn thiện hệ thống pháp luật trong nước, phù hợp với hội nhập quốc tế trong đó các quy định về quyền, nghĩa vụ của người làm chứng là một dẫn chứng cụ thể. Việc nghiên cứu người làm chứng trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam để có cái nhìn sâu hơn, đầy đủ hơn và có những giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về người làm chứng là hoàn toàn cần thiết. Xuất phát từ thực tế cấp thiết đó tôi đã chọn đề tài: “Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)” làm cơ sở nghiên cứu khoa học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Có nhiều tác giả nghiên cứu trong các công trình khoa học có cấp độ khác nhau quy định của pháp luật về người làm chứng trong luật Hình sự. Trong đó có một số bài viết như: “Bảo vệ người làm chứng và quyền miễn trừ người làm chứng trong tố tụng hình sự” của PGS.TS Nguyễn Thái Phúc, trường Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh (Tạp chí khoa học pháp lý số 3 năm 2007); “Lời khai của người làm chứng trong vụ án hình sự” của TS. Trần Quang Tiệp, Tổng cục An ninh, Bộ công an (Tạp chí khoa học pháp lý số 4 năm 2005); “Hoàn thiện quy định của BLTTHS nhằm bảo vệ người làm chứng khi tham gia tố tụng” của Ths. Nguyễn Hải Ninh (Trường Đại học Luật Hà
  • 10. 3 Nội); “Hoàn thiện cơ sở pháp lý về bảo vệ người tố giác, người làm chứng, người bị hại trong vụ án hình sự” của PGS.TS Trần Đình Nhã (Phó chủ nhiệm Ủy ban quốc phòng và an ninh của Quốc hội); “Một số vấn đề trong việc bảo vệ người làm chứng” của tác giả Đinh Tuấn Anh (Học viện cảnh sát) trên tạp chí kiểm sát số 7/2008; “Quyền con người, quyền công dân trong hiến pháp Việt Nam” của PGS.TS Nguyễn Văn Động, Nxb khoa học xã hội 2005; đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở “Các quyền cơ bản hiến định của công dân trong lĩnh vực tố tụng hình sự” của TS. Tô Văn Hòa trường Đại học Luật Hà Nội; “Những vấn đề lý luận về bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự” của PGS.TSKH Lê Cảm, tạp chí Tòa án nhân dân số 01/2006; “Một số vấn đề cần chú ý về tâm lý xã hội của người làm chứng” của Đinh Thế Anh, Tạp chí kiểm sát số 7/2008; “Cần quy định rõ, đầy đủ tư cách pháp lý quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng” của Đinh Văn Lý, Tạp chí kiểm sát số 17/2009; “Vấn đề bảo vệ nhân chứng, người tố giác và những người tham gia tố tụng khác” của T.S Phạm Mạnh Hùng, Trường đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát (Tạp chí kiểm sát số 7 tháng 4 năm 2012); “Hoàn thiện chế định người làm chứng trong tố tụng hình sự đảm bảo tính khách quan, minh bạch tại phiên tòa” của Th.S Nguyễn Thị Tuyết, Tòa án quân sự Trung ương (Tạp chí Tòa án nhân dân số 10 tháng 5 năm 2011) vv… Các bài viết này đã đề cập đến nhiều khía cạnh phân tích, bình luận các quyền và nghĩa vụ cũng như địa vị pháp lý của người làm chứng trong bộ luật tố tụng hình sự, giúp người đọc nhận thức cụ thể, chi tiết hơn về người làm chứng về địa vị pháp lý của người làm chứng trong TTHS Việt Nam như về vai trò của người làm chứng; đặc điểm về tâm lý xã hội khi tham gia làm chứng; cơ sở pháp lý bảo vệ người làm chứng. Có những bài viết đã chỉ ra được những tồn tại, vướng mắc trong thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật hình sự về người làm chứng từ đó đề xuất một số kiến nghị giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về người làm chứng trong TTHS.
  • 11. 4 Mặc dù đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu trục tiếp hoặc gián tiếp về người làm chứng trong TTHS Việt Nam dưới nhiều góc độ khác nhau như đã nêu và đã góp phần làm phong phú, hoàn thiện hơn khoa học pháp luật nói chung, khoa học pháp luật TTHS nói riêng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tuy nhiên qua nghiên cứu và tìm hiểu nhiều nguồn thông tin khác nhau tác giả nhận thấy chưa có Luận văn thạc sỹ, Luận án tiến sỹ nào nghiên cứu về đề tài “Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam trên cơ sở nghiên cứu tại tỉnh Đắk Lắk” 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn Mục đích: Luận văn làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn của việc quy định quyền và nghĩa vụ người làm chứng, đánh giá những ưu điểm và hạn chế trong các quy định pháp luật về vấn đề này, từ đó tìm ra những nguyên nhân và giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về người làm chứng trong TTHS. Nhiệm vụ nghiên cứu: Nghiên cứu cơ sở lý luận về vai trò, ý nghĩa cũng như quyền và nghĩa vụ của người làm chứng theo quy định của BLTTHS năm 2003. Phân tích đánh giá tính khả thi của pháp luật về người làm chứng trong từ đó nêu lên những bất cập tồn tại trong quy định của Luật cũng như trong quá trình áp dụng pháp luật. Phân tích quy định về địa vị pháp lý của người làm chứng trên cơ sở làm rõ yếu tố tâm lý người làm chứng, vai trò của họ trong giải quyết vụ án hình sự. Tìm ra những giải pháp, phương thức hoàn thiện các quy định pháp luật và việc áp dụng thống nhất pháp luật, đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của người làm chứng. Nghiên cứu số liệu trên cơ sở tổng kết công tác năm 2013 của ngành Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk về người làm chứng trong tố tụng hình sự và đề ra những giải pháp, kiến nghị để hoàn thiện các quy định về người làm chứng. Về phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung phân tích quy định của BLTTHS năm 2003 về quyền và nghĩa vụ người làm chứng trên cơ sở lý luận và thực tiễn thực hiện những quy định về quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc đảm bảo quyền của người làm chứng.
  • 12. 5 4. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng và Nhà nước và quy định trong Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, luận văn được nghiên cứu chủ yếu bằng phương pháp luận duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử; kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khoa học truyền thống khác như: thu thập, phân tích các văn bản quy phạm pháp luật, tổng hợp, so sánh, thống kê, nghiên cứu thực tiễn và phân tích các bất cập trong các vụ án có người làm chứng và một số phương pháp luận khác. 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Lý luận: Luận văn góp phần làm sáng tỏ và bổ sung vào khoa học pháp lý của luật tố tụng hình sự Việt Nam về người làm chứng. Là tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên cứu, giảng dạy pháp luật và các cơ sở đào tạo luật của Việt Nam. Thực tiễn: Luận văn nghiên cứu làm cơ sở cho việc hoạch định và thực thi nhiệm vụ trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm và là tài liệu tham khảo cho cơ quan tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng. 6. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về người làm chứng trong luật tố tụng hình sự. Chương 2: Qui định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về người làm chứng và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Đắk Lắk. Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và nâng cao hiệu quả về người làm chứng tại tỉnh Đắk Lắk.
  • 13. 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI LÀM CHỨNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm và đặc điểm về người làm chứng 1.1.1. Khái niệm người làm chứng Trong lịch sử lập pháp Việt Nam, Bộ luật Hồng Đức là bộ luật đầu tiên quy định về người làm chứng, Điều 714 quy định: Những người làm chứng trong việc kiện tụng nếu xét ra ngày thường đôi bên kiện tụng là người thân tình hay có thù oán, thì không cho phép ra làm chứng. Nếu những người ấy giấu giếm ra làm chứng, thì khép vào tội không nói đúng sự thật. Hình quan, ngục biết mà dung túng việc đó đều bị tội [40]. Trong Bộ luật tố tụng áp dụng tại Bắc kỳ thời Pháp thuộc người làm chứng được quy định cụ thể tại Điều 20 như sau: "Phàm người chứng đã liệt danh trong đơn khống chế và các người mà quan thẩm phán liệu nghĩ đến chất vấn trong khi thẩm cứu, thì đều phải bị đòi gọi đến TA để chất vấn". Ngoài việc quy định chủ thể nào là người làm chứng, bộ luật còn quy định về nghĩa vụ của người làm chứng tại Điều 22 như sau: Phàm người chứng đã bị chiếu lệ đòi gọi, không có gì hợp lẽ mà tự ý không đến hầu trước Tòa sơ cấp nghĩ xử việc vi cảnh, hoặc trước TA tỉnh, hoặc Tòa đệ tam cấp hoặc trước quan thẩm cứu thì có thể bị ép bắt phải đến hầu và vì cớ không đến hầu phải bị xử phạt từ 1 đồng đến 5 đồng và phạt giam từ 1 ngày đến 5 ngày, hoặc hai thứ phải chịu một [12]. Trước khi BLTTHS năm 1988 ra đời, trong pháp luật TTHS Việt Nam đã có những văn bản hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao, công văn số 98-
  • 14. 7 NCPL ngày 2/3/1974 gửi Tòa án nhân dân địa phương đề cập việc thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ từ lời khai của người làm chứng. Công văn nêu lên sự cần thiết phải xác minh, kiểm tra, đánh giá chứng cứ từ lời khai của người làm chứng. Lời khai của người làm chứng trực tiếp hay gián tiếp đều phải được xác minh có đúng sự thật không vì những lý do sau: - Người làm chứng tuy khách quan nhưng vì trí nhớ hoặc mắt có thể không tốt, nên thuật lại có thể không hoàn toàn đúng diễn biến của sự việc - Việc xảy ra đã lâu nên không nhớ chi tiết, thuật lại có thiếu sót - Ngại phiền phức hoặc thù oán mà không khai hết sự việc mà mình đã biết - Vì cảm tình hoặc có mâu thuẫn với một bên trong vụ án mà khai thêm hoặc bớt, thiếu chính xác - Có nhân chứng, vì nhớ không kỹ mà khai thêm, bớt, suy diễn theo chủ quan của mình - Vì bị đe dọa hoặc bị mua chuộc mà khai sai sự thật - Đã khai không đúng, nhưng sau vẫn khai như trước, vì sợ khai khác thì bị đánh giá là người không trung thực Thông thường lời khai của những người đúng đắn, ngay thẳng, không có thân thuộc, bạn bè, không có mâu thuẫn gì với bị cáo, với người bị hại hoặc không có quyền lợi gì liên quan đến vụ án thì có nhiều khả năng chính xác. Tuy nhiên, không thể khẳng định trước là lời khai của nhân chứng nào là đáng tin hơn nhân chứng nào, dù là nhân chứng trực tiếp, nếu lời khai ấy chưa được xác minh, thẩm tra lại. Trong công văn này, Tòa án nhân dân tối cao còn rút ra một vấn đề cần chú ý khi kiểm tra, đánh giá chứng cứ từ lời khai của người làm chứng: - Xem nhân chứng thuộc loại trực tiếp hay gián tiếp - Sự việc họ khai có rõ ràng hay chỉ là phỏng đoán, suy diễn - Trạng thái về tinh thần, tuổi của người làm chứng
  • 15. 8 - Cương vị, điều kiện công tác, nơi ở của họ có thể cho phép họ biết rõ sự việc như họ đã khai không? [33]. - Họ có quan hệ thân thuộc, bạn bè hoặc có mâu thuẫn gì với bị cáo, với người bị hại không? Quyền lợi của họ có liên quan đến vụ án không? Như vậy, vấn đề người làm chứng, cũng như việc quy định về quyền, nghĩa vụ của họ được đề cập từ rất sớm trong lịch sử lập pháp Việt Nam. Pháp luật hầu hết các quốc gia đều có những quy định về người làm chứng vì lời khai của người làm chứng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giải quyết vụ án một cách chính xác, khách quan, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm, tăng niềm tin của nhân dân vào pháp luật. Với những ý nghĩa trên, BLTTHS năm 2003 đã ghi nhận người làm chứng là người tham gia tố tụng hình sự tại Điều 55, có sự bổ sung, kế thừa các quy định của BLTTHS năm 1988. BLTTHS năm 2003 quy định: Người nào biết được các tình tiết liên quan đến vụ án đều có thể được triệu tập đến làm chứng. Những người sau đây không được làm chứng: a) Người bào chữa của bị can, bị cáo; b) Người do có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà không có khả năng nhận thức được những tình tiết của vụ án hoặc không có khả năng khai báo đúng đắn [18, Điều 55]. Như vậy theo quy định của pháp luật có thể hiểu như sau về người làm chứng: + Người làm chứng là người biết được các tình tiết liên quan đến vụ án. Nhận thức của người làm chứng về các tình tiết của vụ án có thể trực tiếp hoặc gián tiếp (trực tiếp nhìn thấy, nghe thấy hay được người khác kể lại). Những tình tiết mà người làm chứng biết được có thể liên quan đến đối
  • 16. 9 tượng chứng minh được quy định tại Điều 63 BLTTHS năm 2003 hoặc các tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án (có ý nghĩa chứng minh). Việc họ biết được các tình tiết của vụ án là một thực tế khách quan, và vì vậy họ có thể được triệu tập đến để khai báo về thực tế khách quan đó với tư cách người làm chứng cung cấp chứng cứ cho người có trách nhiệm chứng minh. Việc một người biết về các tình tiết liên quan đến vụ án hình sự là một thực tế khách quan, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của cơ quan hay người tiến hành tố tụng. + Người tham gia tố tụng với tư cách người làm chứng khi họ không phải người bào chữa của bị can, bị cáo. Theo quy định tại Điều 56 BLTTHS năm 2003 thì người bào chữa có thể là luật sư; người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; bào chữa viên nhân dân. Người bào chữa của bị can, bị cáo có thể biết được các tình tiết của vụ án từ nhiều nguồn và trong những khoảng thời gian khác nhau: có thể biết trước khi tham gia tố tụng với tư cách người bào chữa từ những thông tin không phải do bị can, bị cáo cung cấp, có thể biết được các tình tiết đó do có mặt ở nơi xảy ra tội phạm, do quen biết bị can, bị cáo hoặc do được người khác kể lại... Cũng có thể người đó biết được các tình tiết vụ án trong quá trình thực hiện nhiệm vụ bào chữa do được đọc hồ sơ vụ án, do tiếp xúc với bị can, bị cáo. Người bào chữa tham gia tố tụng để thực hiện chức năng gỡ tội nên chỉ đưa ra các chứng cứ có lợi cho bị can, bị cáo. Vì vậy, điểm b khoản 2 Điều 56 BLTTHS năm 2003 cũng đã quy định nếu một người nào đó đã tham gia tố tụng với tư cách người bào chữa thì không được làm chứng trong vụ án đó. + Người đó phải có khả năng nhận thức được các tình tiết của vụ án và có khả năng khai báo đúng đắn. Điểm b khoản 2 Điều 55 BLTTHS năm 2003 quy định những người do có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà không có khả năng nhận thức được những tình tiết liên quan đến vụ án hoặc không
  • 17. 10 có khả năng khai báo đúng đắn thì không được làm chứng. Theo quy định của pháp luật thì người làm chứng là người biết được các tình tiết liên quan tới vụ án, những người có nhược điểm về thể chất biết được các tình tiết theo cách riêng của họ. Người điếc không nghe thấy được nhưng có thể nhìn thấy, người mù không thể nhìn thấy được nhưng có thể nghe thấy. Vì vậy, nếu vào thời điểm nhận thức hoặc khai báo sự việc mà do có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần mà không có khả năng nhận thức hoặc khai báo đúng đắn thì không được làm chứng. Nếu các nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần không làm ảnh hưởng đến khả năng nhận thức và khai báo thì có thể tham gia tố tụng với tư cách người làm chứng. + Người biết được các tình tiết liên quan đến vụ án chỉ có thể trở thành người làm chứng khi được các cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập. Trong thực tiễn điều tra có nhiều người biết tình tiết của vụ án đang điều tra nhưng không trở thành người làm chứng bởi luật quy định những trường hợp này không được làm chứng (người bào chữa của bị can, bị cáo; người có nhược điểm tâm thần, thể chất mà không có khả năng nhận thức và khai báo đúng đắn - khoản 2 Điều 55 BLTTHS năm 2003) hoặc do cơ quan có thẩm quyền xét thấy không cần thiết phải triệu tập họ để lấy lời khai với tư cách người làm chứng trong vụ án. Trường hợp có nhiều người biết các thông tin liên quan đến vụ án, các cơ quan tiến hành tố tụng phải có sự lựa chọn. Những người biết được nhiều tin tức quan trọng, biết được các tình tiết một cách sâu sắc, chính xác, đầy đủ; những người có khả năng mô tả lại một cách tốt nhất những hiểu biết của họ mà cơ quan điều tra đang cần; những người có thiện chí, có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ người làm chứng thường được các cơ quan tiến hành tố tụng lựa chọn. Việc lựa chọn triệu tập ai là người làm chứng sẽ làm giảm được khối lượng công việc, tránh tình trạng lan man trong thu thập chứng cứ.
  • 18. 11 Từ những phân tích trên có thể hiểu khái niệm về người làm chứng như sau: Người làm chứng là người biết được tình tiết liên quan đến vụ án, được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng triệu tập để khai báo về những sự việc cần xác minh trong vụ án. 1.1.2. Đặc điểm về người làm chứng Trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự có thể nhận thấy đại đa số quần chúng nhân dân luôn sẵn sàng cộng tác với các cơ quan tiến hành tố tụng, cung cấp những thông tin có ích cho việc giải quyết vụ án. Nhưng bên cạnh đó vẫn còn nhiều người lẩn tránh việc ra làm chứng hoặc làm chứng với thái độ miễn cưỡng, khai báo không đầy đủ thậm chí khai báo gian dối gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án, nguyên nhân của tình trạng này chủ yếu đều xuất phát từ tâm lý xã hội của người làm chứng. Những đặc điểm về nhận thức và tâm lý khác biệt của người làm chứng trong tố tụng hình sự có thể lý giải phần nào tình trạng người làm chứng không tích cực hợp tác với các cơ quan tiến hành tố tụng: - Nhiều người làm chứng chưa nhận thức đầy đủ về nghĩa vụ pháp lý của mình. Theo quy định của pháp luật việc một người ra làm chứng không chỉ giúp các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án được nhanh chóng, chính xác mà còn là việc thực hiện nghĩa vụ công dân đã được pháp luật quy định ((Điều 79 Hiến pháp năm 1992; Điều 4 BLHS năm 1999; Điều 25, Điều 55 BLTTHS năm 2003). Thậm chí việc từ chối khai báo hoặc khai báo gian dối còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự (Điều 308, Điều 307 BLHS). Do trình độ hiểu biết pháp luật của đại đa số người dân còn hạn chế nên không phải ai cũng nhận thức được nghĩa vụ của mình trước pháp luật. Nhiều người cho rằng trách nhiệm điều tra làm rõ tội phạm là trách nhiệm của các cơ quan bảo vệ pháp luật, không phải trách nhiệm của họ. Không vi phạm pháp
  • 19. 12 luật, và thực hiện các nghĩa vụ với Nhà nước (như nộp thuế, các khoản phí, lệ phí) đối với một số người đã là thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của công dân của mình. Còn trách nhiệm điều tra tội phạm là công việc của các cơ quan tiến hành tố tụng bởi Nhà nước đã giao cho các cơ quan đó làm nhiệm vụ này. Họ còn nghĩ mình không phải là người duy nhất biết được các tình tiết liên quan tới vụ án, ngoài họ ra còn nhiều người khác biết. Vì vậy, nếu họ không ra làm chứng thì sẽ có người khác làm chứng thay. Từ đó dẫn đến thái độ thờ ơ, thiếu trách nhiệm trong việc cung cấp thông tin mà họ biết với các cơ quan tiến hành tố tụng. - Người làm chứng có tâm lý sợ phiền hà, không muốn mất thời gian ảnh hưởng tới công việc và sinh hoạt của mình, tốn kém tiền của hoặc bị phía đối tượng trong vụ án mua chuộc. Ra làm chứng cũng có nghĩa là tham gia vào hoạt động tố tụng cho nên người làm chứng có nghĩa vụ pháp lý trong suốt thời gian điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Người làm chứng có thể được cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập để lấy lời khai, nhận diện, đối chất vào bất kỳ thời điểm nào trong quá trình giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật... Điều đó ảnh hưởng đến thời gian làm việc, học tập, sinh hoạt, ảnh hưởng đến thu nhập kinh tế thậm chí phải mất chi phí cho việc làm chứng (chi phí đi lại, ăn ở). Theo quy định của pháp luật người làm chứng được thanh toán các khoản chi phí trên nhưng thực tế các khoản tiền được thanh toán đó thường không theo kịp giá cả thị trường. Hơn nữa nhiều người làm chứng có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế nên thường viện lý do thoái thác để không đến làm chứng hoặc làm chứng không đúng hẹn hay chỉ khai báo qua loa cho xong việc, tâm lý không muốn “ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng” vẫn còn tồn tại. Nhiều trường hợp người làm chứng bị mua chuộc từ phía đối tượng hoặc người nhà của họ nên đã khai báo theo hướng có lợi cho bị can, bị cáo. - Người làm chứng sợ bị xử lý trước pháp luật do bản thân họ có liên quan tới sự việc tội phạm ở mức độ nhất định hoặc sợ bị phát hiện những hành
  • 20. 13 vi xấu xa của mình, họ sợ bị liên đới chịu trách nhiệm với kẻ phạm tội. Trường hợp người làm chứng không có hành vi liên quan tới sự việc phạm tội nhưng tình cờ được chứng kiến hành vi phạm tội trong khi bản thân họ đang làm những chuyện xấu xa, vô đạo đức do đó họ chỉ muốn tránh xa các cơ quan bảo vệ pháp luật để không bị lâm vào tình cảnh rắc rối. Đó còn chưa kể tới những người đã và đang có hành vi vi phạm pháp luật, phạm tội nhưng chưa bị phát hiện, họ rất sợ phải tiếp xúc với cơ quan bảo vệ pháp luật vì theo tâm lý “có tật giật mình”. Trong thâm tâm họ luôn sợ rằng “cái sảy nảy cái ung” nên tốt nhất không nên ra làm chứng để bảo vệ an toàn cho bản thân mình. - Người làm chứng sợ ảnh hưởng không tốt đến uy tín, danh dự của bản thân hoặc đến mối quan hệ với các đối tượng trong vụ án. Quan niệm “dĩ hòa vi quý”, coi trọng tình cảm của người phương Đông khiến cho nhiều người không muốn làm mất lòng ai, không muốn người khác xì xào, bàn tán không có lợi cho mình nhất là những người có địa vị nhất định trong xã hội. Khi ra làm chứng trước pháp luật họ sợ bị mọi người xung quanh hiểu lầm mình có dính líu gì đó đến vụ án nên mới bị cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập. Mặt khác trong xã hội vẫn còn nhiều người thành kiến với việc kiện tụng, coi việc tố cáo nhau là xấu dù họ biết việc bị tố cáo là việc xấu, thậm chí là tội phạm. Họ muốn tội phạm bị trừng trị nghiêm minh nhưng nhiều người vẫn cảm thấy “áy náy” vì cho rằng vì mình đứng ra làm chứng mà người khác vào tù. Việc làm chứng với họ rất khó khăn nên thường thiếu nhiệt tình. Tìm thêm đồng minh là những người làm chứng khác để chứng tỏ rằng không chỉ có mình họ khai báo, tố giác tội phạm mà còn có thêm những người khác nữa, giải tỏa được tâm lý họ không phải là người duy nhất bị mọi người soi mói, không thấy áy náy nhiều bởi họ không là người duy nhất “đưa” người khác vào tù, cảm giác xấu hổ, áy náy đó sẽ được san sẻ. Nếu giữa người làm chứng và bị can, bị cáo có mối quan hệ thân quen thì họ còn có thêm tâm lý sợ bị đưa lên
  • 21. 14 bàn cân của dư luận, bị mất lòng tin với gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, họ sợ bị tẩy chay. Do vậy, trừ trường hợp kẻ phạm tội là kẻ dã man, đối xử tàn ác với gia đình người thân khiến ai cũng căm ghét còn hầu hết những người làm chứng có quan hệ gia đình, bạn bè với các đối tượng của vụ án đều tỏ ra thiếu trung thực, khai báo có lợi cho đối tượng. - Người làm chứng có tâm lý sợ bị trả thù, thiếu niềm tin với các cơ quan tiến hành tố tụng. Thực tế trong những vụ án ma túy, buôn bán phụ nữ trẻ em, liên quan tới các băng nhóm tội phạm nhiều người làm chứng và người thân của họ đã bị đối tượng, đồng bọn hay gia đình đối tượng mua chuộc, dọa dẫm buộc họ phải im lặng hay khai báo có lợi cho đối tượng, nhiều người làm chứng đã bị trả thù. Vì vậy, nhiều người biết rõ sự việc phạm tội nhưng không dám tố giác tội phạm, khi được cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập họ tìm cách thoái thác, thất hẹn hoặc khai báo theo những gì đã bàn bạc, thỏa thuận với đối tượng. Những nguyên nhân trên đều xuất phát từ tính toán về lợi ích cá nhân của người làm chứng [34 trang 147]. 1.2. Vai trò của người làm chứng trong tố tụng hình sự Vai trò của người làm chứng trong TTHS là chủ thể tham gia tố tụng với tư cách là người phối hợp với CQTHTT trong quá trình giải quyết và làm sáng tỏ vụ án, với mong muốn duy nhất tìm ra sự thật khách quan của vụ án hình sự. Nhìn chung khi tham gia vào TTHS người làm chứng là chủ thể không có sự quan tâm pháp lý về kết cục của vụ án. Lý do tham gia của người làm chứng trong TTHS không phải vì lợi ích của họ mà là lợi ích của bị can, bị cáo, người bị hại, của CQTHTT và lợi ích chung của xã hội: đó là làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, người làm chứng không được bất cứ quyền lợi về mặt vật chất nào từ việc làm chứng. Sự tham gia của họ góp phần vào việc chứng minh làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Khi so sánh vai trò, chức năng tố tụng của người làm chứng với người bị hại và bị can, bị cáo
  • 22. 15 sẽ nhận thấy rõ sự khác biệt về tư cách tố tụng của người làm chứng với các chủ thể khác trong TTHS. Theo đó người bị hại tham gia tố tụng với tư cách là chủ thể buộc tội, thực hiện quyền công dân và quyền tố tụng, cùng với CQTHTT xác định có tội phạm xảy ra, bảo vệ quyền lợi của mình, cũng giống như người bị hại, bị can, bị cáo tham gia tố tụng với tư cách chủ thể rõ ràng là vì lợi ích của cá nhân của mình. Trong khi đó người làm chứng tham gia tố tụng với tư cách là người phối hợp với CQTHTT trong quá trình giải quyết vụ án, tham gia tố tụng không vì lợi ích cá nhân. Bằng việc cung cấp lời khai mà mình biết có liên quan đến vụ án hình sự, người làm chứng làm sáng tỏ những tình tiết cần thiết trong quá trình điều tra, chứng minh tội phạm. Đối với người làm chứng thì tham gia vào vụ án và trình bày lời khai trung thực tất cả những gì mình biết về vụ án không những là quyền, nghĩa vụ công dân của mình mà còn là nghĩa vụ tố tụng của họ. Đối với nhà nước thì người làm chứng là người phối hợp với nhà nước, với CQTHTT trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Vai trò của người làm chứng là hỗ trợ tư pháp, sẽ dễ dàng nhận thấy sự khác biệt giữa người làm chứng và người bị hại trong TTHS. Theo đó người bị hại là nạn nhân trực tiếp của hành vi tội phạm nên lời khai của họ có thể phản ánh đậm nét hơn những đánh giá, cảm xúc chủ quan về các tình tiết của vụ án so với lời khai của người làm chứng. Lời khai người bị hại không chỉ là nguồn chứng cứ làm sáng tỏ sự thật của vụ án mà là còn lời buộc tội, là công cụ bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người đó. Trình bày lời khai không chỉ là nghĩa vụ tố tụng mà đồng thời còn là quyền tố tụng của người bị hại [13 trang 9]. Ở góc độ này người bị hại được nhìn nhận là chủ thể thực hiện chức năng buộc tội, còn người làm chứng là người giúp cho CQTHTT trong quá trình điều tra, chứng minh có hay không hành vi phạm tội.
  • 23. 16 Vai trò của người làm chứng là một nguồn chứng cứ quan trọng trong việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Một vụ án hình sự bao giờ cũng để lại dấu vết và những dấu vết đó được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự, nhằm xác định có hay không có hành vi phạm tội. Các cơ quan THTT sẽ căn cứ vào các dấu vết đã thu thập được để khởi tố, truy tố, xét xử một người có hành vi phạm tội. Những dấu vết đó được gọi là chứng cứ. Theo quy định khoản 2 Điều 64 BLTTHS thì lời khai của người làm chứng là một nguồn chứng cứ rất quan trọng cho việc giải quyết vụ án, hoàn cảnh phạm tội, nhân thân người phạm tội... người làm chứng sẽ cung cấp thông tin hữu ích cho CQTHTT trong việc chứng minh làm sáng tỏ vụ án. Thêm vào đó người làm chứng tham gia với tư cách là người vì lợi ích chung, lợi ích xã hội, không có bất kỳ lợi ích cá nhân với mong muốn làm sáng tỏ vụ án nên lời khai không phiến diện như lời khai của người bị hại, bị can, bị cáo... chính vì vậy lời khai của người làm chứng có tác dụng chứng minh rất cao. Hoạt động tố tụng càng có tính tranh tụng bao nhiêu, sự bình đẳng về quyền của các bên trong hoạt động chứng minh càng được thừa nhận đầy đủ bao nhiêu thì lời khai của người làm chứng càng quan trọng và được sử dụng phổ biến bấy nhiêu. Lời khai của người làm chứng là loại chứng cứ được cung cấp và thể hiện qua con người cụ thể, cho nên lời khai sinh động, dễ hiểu và cụ thể hơn nó luôn thể hiện phản ánh đúng với những gì mà họ biết về vụ án, lời khai của người làm chứng luôn được hiểu một cách trực tiếp hơn là vật chứng phải phân tích, làm rõ và tổng hợp với các tình tiết khác mới hiểu được vật chứng đó đang chứng minh điều gì, “đặc biệt người làm chứng phải chịu trách nhiệm về lời khai của mình, luôn bị ràng buộc trách nhiệm pháp lý với những gì mình nói” phải cam đoan không khai gian dối (Điều 204 BLTTHS) nên tính chính xác càng cao. Vai trò của người làm chứng trong nghĩa vụ chứng minh: Chứng minh
  • 24. 17 trong TTHS là một dạng hoạt động mang tính chất pháp lý được điều chỉnh bởi luật tố tụng hình sự và pháp luật liên quan, được thực hiện bởi chủ thể có quyền. Quá trình chứng minh có hay không có tội phạm đó là nghĩa vụ bắt buộc của cơ quan THTT như CQĐT, VKS, TA "trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội" (Điều 10 BLTTHS) chứ không phải thuộc về đương sự như trong tố tụng dân sự [33] và kết quả của hoạt động này sẽ là một bản án, quyết định của Tòa án mang tính chất cưỡng chế thi hành, đó là công cụ để Tòa án có thể nhận thức được chính xác vụ việc đã xảy ra trên thực tế, làm cơ sở đưa ra phán quyết cho vụ án nhanh chóng, chính xác, khách quan. Vai trò của người làm chứng đối với việc làm sáng tỏ sự thật vụ án. Trong quá trình đi tìm sự thật khách quan của vụ án thì nghĩa vụ chứng minh làm sáng tỏ vụ án hình sự là quan trọng nhất và luôn luôn tồn tại trong các giai đoạn của quá trình tố tụng. Từ khi khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử CQTHTT luôn cố gắng chứng minh: Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; ai là người thực hiện hành vi phạm tội, có lỗi hay không có lỗi, do vô ý hay do cố ý, có năng lực trách nhiệm hình sự hay không, mục đích, động cơ phạm tội; những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và những đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo tính chất mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra [15, Điều 63] và hầu hết trong các giai đoạn của quá trình tố tụng thì CQTHTT luôn cần đến sự cộng tác của người làm chứng. Bằng việc cung cấp lời khai cho CQTHTT thì khi đó vai trò lời khai của người làm chứng hỗ trợ CQTHTT trong quá trình chứng minh làm sáng tỏ vụ án. Quá trình chứng minh làm
  • 25. 18 sáng tỏ vụ án là quá trình đi tìm những gì có liên quan đến vụ án, bằng phương pháp nghiệp vụ trên cơ sở phân tích, đánh giá, tổng hợp những chứng cứ thu thập được trong quá trình tố tụng CQTHTT sẽ rút ra được kết luận một cách khoa học, có logic nhất về vụ án làm căn cứ phán quyết của Tòa án. Giống như các chứng cứ khác, lời khai của người làm chứng luôn chứa đựng những yếu tố có giá trị chứng minh làm sáng tỏ vụ án, bên cạnh đó lời khai của người làm chứng khác vật chứng ở chỗ là luôn luôn phản ánh đúng đắn và sinh động những gì mà người làm chứng muốn thể hiện hơn là vật chứng vì đó là sự phản ánh thật của một con người qua lời nói và hành động của mình. Trong trường hợp những vụ án không có chứng cứ nào khác ngoài lời khai của người làm chứng thì CQTHTT căn cứ vào lời khai của người làm chứng mà vẫn có thể chứng minh làm sáng tỏ vụ án. Trong trường hợp người làm chứng khai báo không khách quan, không chính xác không đúng sự thật thì điều đó làm cho quá trình tố tụng khó khăn phức tạp hơn, làm cho điều tra bị sai lệnh, quá trình điều tra kéo dài, hao phí tiền bạc của Nhà nước dẫn đến oan sai... một số đối tượng đã mua chuộc người làm chứng khai báo gian dối nhằm che dấu hành vi phạm tội hoặc đe dọa tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm của người làm chứng hoặc người thân của họ. Như vậy thấy được lời khai của người làm chứng là vô cùng quan trọng và sức ảnh hưởng lớn đối với việc làm sáng tỏ vụ án, lời khai của người làm chứng có thể giúp cơ quan điều tra định hướng được quá trình điều tra, có thể là căn cứ cho VKS phê chuẩn quyết định khởi tố, truy tố và cũng là cơ sở cho Tòa án ra bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật tránh oan sai hay bỏ lọt tội phạm. Vai trò của người làm chứng trong việc bảo vệ pháp luật, bảo vệ những quyền cơ bản của công dân. Quy định của BLTTHS thì một trong những nhiệm vụ cơ bản đó là "không bỏ lọt tội phạm và bảo vệ pháp chế xã hội chủ
  • 26. 19 nghĩa". Điều 1 BLTTHS được coi là kim chỉ nam cho phương pháp hoạt động trong TTHS. Theo đó, người làm chứng cũng như các chủ thể khác trong quá trình tố tụng luôn cố gắng chứng minh tội phạm, không để có người bị oan, không để cho những người lợi dụng để làm điều sai trái, những người vi phạm pháp luật sống ngoài vòng pháp luật thì đó cũng là một trong những cách bảo vệ hữu hiệu nhất. Bằng sự tham gia đóng góp vào quá trình chứng minh tội phạm, lời khai của người làm chứng luôn chứng minh có hay không có hành vi phạm tội xảy ra trên thực tế, tìm ra tội phạm để trừng trị theo đúng như những quy định của pháp luật hình sự, làm cho những quy định của pháp luật được thực thi trên thực tế thể hiện qua các mặt. Thứ nhất, pháp luật hình sự đã trừng trị những hành vi phạm tội, giáo dục công dân phòng chống những kẻ xấu lợi dụng khe hở của pháp luật để xuyên tạc, chống phá Nhà nước. Thứ hai, việc thực hiện đúng với các quy định của pháp luật hình sự, tham gia cộng tác với CQTHTT khai báo trung thực góp phần làm sáng tỏ vụ án người làm chứng đã góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. BLTTHS coi việc đảm bảo quyền công dân là một trong những nguyên tắc cơ bản của hoạt động tố tụng, điều này thể hiện bản chất nền dân chủ xã hội chủ nghĩa luôn đề cao và tôn trọng các quyền của con người vì lợi ích của con người bao gồm quyền Hiến định và luật định. Khi người làm chứng tham gia tố tụng cung cấp lời khai, hỗ trợ tư pháp thì cũng đồng nghĩa với người làm chứng thực hiện quyền của mình, quyền công dân, một trong những quyền rất cơ bản được pháp luật tôn trọng quy định tại Điều 25 của BLTTHS: Các tổ chức, công dân có quyền và nghĩa vụ phát hiện tố giác hành vi phạm tội; tham gia đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức. Làm tốt vai trò của người làm chứng đồng nghĩa với việc bảo vệ quyền lợi của mình, bảo vệ cho bị can, bị cáo tránh
  • 27. 20 khỏi những hàm oan, trả lại sự công bằng, khôi phục danh dự cho họ trong trường hợp họ không thực hiện phạm tội, hoặc làm sáng tỏ vụ án, trả lại sự công bằng cho người bị hại, bù đắp những mất mát do những hành vi do tội phạm gây ra, thì lúc đó lời khai của người làm chứng có tác dụng bảo vệ cho người bị hại [18, Điều 25] Do vậy lời khai của người làm chứng có tác dụng bảo vệ công lý, bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người. Vai trò của người làm chứng trong nghĩa vụ chứng minh đối với công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Mọi công dân trong xã hội dù ở cương vị nào cũng đều bị chi phối bởi pháp luật, tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội đều chịu sự điều chỉnh những quy định của pháp luật. Nhiệm vụ của công dân là tuân theo pháp luật. Nhiệm vụ của TTHS không những là phát hiện tất cả hành vi phạm tội đã diễn ra trên thực tế mà còn hạn chế tới mức thấp nhất hành vi đó, người làm chứng là một chủ thể của quá trình tố tụng tuân thủ những quy định của pháp luật TTHS về trình tự, thủ tục và tính trung thực trong cung cấp lời khai cho CQTHTT trong quá trình làm sáng tỏ vụ án với mong muốn tìm ra người phạm tội, mục đích, động cơ của hành vi và quá trình thực hiện phạm tội như thế nào…, từ đó những người thực thi pháp luật có cái nhìn tổng quát và toàn diện hơn về những hành vi phạm tội mà có phương hướng và phương pháp cụ thể có hiệu quả để phòng chống tội phạm. 1.3. Quy định về người làm chứng trong pháp luật tố tụng hình sự một số nước trên thế giới 1.3.1. Quy định về người làm chứng trong pháp luật tố tụng hình sự của Cộng hòa liên bang Đức Trước khi vụ án đưa ra xét xử, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định triệu tập những người liên quan đến phiên tòa, nếu phiên tòa kéo dài Thẩm phán có thể quyết định những người làm chứng được triệu tập đến phiên tòa sẽ kéo dài thời gian triệu tập đến phiên tòa. Sau khi người làm chứng được
  • 28. 21 Tòa án triệu tập được kiểm tra bởi Thẩm phán chỉ định nếu việc ốm đau hoặc sức khỏe và những yếu tố khác gây ảnh hưởng đến việc có mặt của người làm chứng trong một thời hạn không xác định, “nguyên tắc này tương tự sẽ được áp dụng nếu người làm chứng không thể có mặt tại phiên tòa vì ở quá xa, người làm chứng tham gia xét xử thông qua việc đưa ra lời tuyên thệ ngoại trừ các trường hợp đã được quy định hoặc được chấp nhận” [38, Điều 223]. Việc kiểm tra người làm chứng có thể ở địa điểm khác nếu có nguy cơ ảnh hưởng nghiêm trọng đối với người làm chứng khi người làm chứng được kiểm tra với sự có mặt những người tham gia phiên tòa chính thức và nếu nguy cơ đó không thể khắc phục được bằng cách khác như đưa bị cáo ra khỏi phòng xét xử và xét xử kín thì Tòa án có thể quyết định đưa người làm chứng đến một địa điểm khác để kiểm tra. Việc lấy lời khai người làm chứng được truyền hình trực tiếp đồng thời tới phòng xử án. Lời khai của người làm chứng sẽ được ghi lại nếu có đủ căn cứ khẳng định việc lo sợ rằng không thể kiểm tra người làm chứng tại phiên tòa chính thức sau này và nếu việc ghi âm, ghi hình đó là cần thiết để xác định sự thật vụ án (Điều 247a). Người làm chứng đã tham gia vào quá trình kiểm tra có thể không có mặt tại nơi phiên tòa diễn ra chỉ được khi sự cho phép hoặc chỉ dẫn của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, cơ quan công tố và bị cáo được thông báo trước về việc này [38]. 1.3.2. Quy định về người làm chứng trong pháp luật tố tụng hình sự của Cộng hòa Pháp Về việc xét hỏi nhân chứng Thẩm phán điều tra triệu tập bất kỳ ai có tuyên bố hữu ích với mình thông qua thừa phát lại hoặc sỹ quan cảnh sát, nhân chứng cũng có thể được triệu tập bằng thư tín thông thường, thư bảo đảm thông qua các kênh hành chính, họ cũng có thể trình diện. “Khi được triệu tập hoặc gửi thư, nhân chứng được thông báo là nếu không trình diện hoặc từ chối trình diện thì có thể bị nhân viên thực thi pháp luật áp giải” [37, Điều 101]. Nếu nhân chứng không trình diện hoặc từ chối trình
  • 29. 22 diện Thẩm phán điều tra có thể theo yêu cầu của công tố viên cấp quyện, lệnh cho người này bị áp giải bởi các cơ quan thực thi pháp luật. Các biện pháp thực thi pháp luật được tiến hành đối với các nhân chứng không thực hiện nghĩa vụ theo một bên đề xuất bằng văn bản, nhân chứng được trực tiếp đưa tới trước Thẩm phán đã đề xuất áp dụng các biện pháp này. Nếu nhân chứng không thể trình diện, thì Thẩm phán có thể đến tận nơi để xét hỏi, đối với trường hợp nhân chứng cố tình không thực hiện theo lệnh triệu tập thì Thẩm phán có thể phạt tiền. Thẩm phán điều tra với sự trợ giúp của thư ký xét hỏi riêng nhân chứng hoặc đối chất giữa họ với một hoặc nhiều bên. Đối với nhân chứng bị điếc Thẩm phán điều tra phải chỉ định chính thức một người phiên dịch ngôn ngữ ra hiệu hoặc người khác đủ tiêu chuẩn giao tiếp với người điếc để giúp đỡ người này trong quá trình xét hỏi. Nhân chứng phải tuyên thệ nói ra toàn bộ sự thật và không có gì ngoài sự thật. Thẩm phán hỏi tên, tuổi, nghề nghiệp, nơi ở, người thân ở mức độ nào, hoặc có được trợ cấp của những người này không. Thẩm phán không được xét hỏi với tư cách nhân chứng những người mà chứng cứ củng cố và nghiêm trọng cho thấy họ tham gia thực hiện tội phạm. Ngoài các quy định nêu trên thì pháp luật tố tụng hình sự nước cộng hòa Pháp còn có quy định nhân chứng bổ trợ được quy định từ điều 113-1 đến điều 113-8. Bất kỳ ai có tên trong đề xuất ban đầu hoặc bổ sung của công tố viên và không bị thẩm tra tư pháp có thể chỉ bị xét hỏi với tư cách nhân chứng bổ trợ. Bất kỳ ai có tên trong khiếu nại hoặc do nạn nhân trình báo có thể được xét hỏi với tư cách nhân chứng. Bất kỳ ai do nhân chứng khai báo hoặc có bằng chứng tương đối chắc chắn cho thấy họ có thể tham gia với tư cách thủ phạm hoặc đồng phạm trong việc thực hiện phạm tội mà Thẩm phán điều tra đang thụ lý có thể được xét hỏi với tư cách nhân chứng bổ trợ. Nhân chứng bổ trợ được hưởng từ quyền được Luật sư trợ giúp, Luật sư này do nhân chứng bổ trợ chọn hoặc do đoàn luật sư đề cử nếu người liên quan yêu cầu. Trong lần đầu xét hỏi nhân chứng bổ trợ, Thẩm phán điều tra phải thông báo cho người
  • 30. 23 này về quyền của họ, nhân chứng bổ trợ không thể bị đặt dưới sự giám sát tư pháp hoặc bị tạm giam trước khi xét xử, hoặc là đối tượng của lệnh chuyển giao hoặc bị thẩm tra tư pháp và nhân chứng bổ trợ không tuyên thệ [37]. 1.3.3. Quy định về người làm chứng trong pháp luật tố tụng hình sự của Liên bang Nga Việc lấy lời khai được tiến hành trong giai đoạn tố tụng trước khi xét xử tại tòa án, lấy lời khai của người làm chứng là những thông tin do họ đưa ra khi lấy lời khai. Khi lấy lời khai người làm chứng có thể được hỏi về bất kỳ tình tiết nào liên quan đến vụ án, về nhân thân của bị can, người bị hại và mối quan hệ giữa họ với bị can, người bị hại và những người làm chứng khác. Việc lấy lời khai được tiến hành ở nơi tiến hành điều tra dự thẩm, trong trường hợp xét thấy cần thiết, dự thẩm viên có quyền tiến hành việc lấy lời khai tại nơi ở của đương sự và lấy lời khai không quá 4 tiếng. Việc lấy lời khai của người làm chứng chưa đủ 14 tuổi và từ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi theo ý kiến của Dự thẩm viên, được tiến hành với sự tham gia của nhà sư phạm. Khi lấy lời khai của người chưa thành niên thì đại diện hợp pháp của họ được quyền có mặt, người làm chứng là người chưa đủ 16 tuổi thì không bị cảnh báo về trách nhiệm do từ chối khai báo hoặc khai báo gian dối. Khi làm việc với người làm chứng phải ghi lời khai riêng từng người và không có mặt của người làm chứng khác chưa được lấy lời khai, trước khi lấy lời khai người làm chứng chủ tọa phiên tòa xác định nhân thân, làm rõ mối quan hệ của họ với bị cáo và người bị hại, giải thích quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của họ, bên yêu cầu triệu tập người làm chứng đến phiên tòa đưa ra những câu hỏi đối với người làm chứng trước, sau khi các bên đã hỏi người làm chứng Thẩm phán đưa ra những câu hỏi đối với họ. Những người làm chứng đã khai báo có thể rời khỏi phòng xử án trước khi kết thúc việc điều tra tại Tòa án nếu được chủ tọa phiên tòa cho phép sau khi đã tham khảo ý kiến của các bên.
  • 31. 24 Trong trường hợp cần thiết phải bảo đảm sự an toàn cho người làm chứng, họ hàng thân thích của họ thì Tòa án không tiết lộ những thông tin thực về nhân thân của người làm chứng và có quyền tiến hành lấy lời khai của họ trong những điều kiện để những người khác tham gia vào quá trình xét xử không nhìn thấy họ và Tòa án phải quyết định về việc này [39, Điều 278]. Người làm chứng có thể sử dụng những ghi chép đã được đệ trình trước tòa theo yêu cầu của họ, việc công bố lời khai đã được thu thập trong quá trình điều tra, xét xử cũng như công bố phim âm bản, ảnh, phim đèn chiếu được thực hiện trong quá trình lấy lời khai băng ghi âm, ghi hình, phim về việc lấy lời khai chỉ được phép các bên đồng ý và trong trường hợp người làm chứng vắng mặt [39]. 1.3.4. Quy định về người làm chứng trong pháp luật tố tụng hình sự của Nhật Bản Trừ các quy định khác trong bộ luật tố tụng hình sự Nhật Bản: Tòa án có thể kiểm tra bất kỳ ai với tư cách nhân chứng, liên quan đến bất kỳ tình tiết nào thuộc về một người là hoặc đã từng là cán bộ chính phủ, thì chính người này hoặc cơ quan này đã cam kết là tình tiết này thuộc bí mật công vụ, người này không bị kiểm tra với tư cách nhân chứng trừ khi và cho đến khi có sự đồng ý của cơ quan giám sát; với điều kiện là cơ quan giám sát này không thể từ chối sự đồng ý trừ các trường hợp có thể gây thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích nhà nước [36, Điều 144]. Quyền từ chối khai báo, bất kỳ ai cũng có thể từ chối khai báo nếu lo sợ là có thể bị truy tố hoặc kết án, bất kỳ ai cũng có thể từ chối khai báo nếu sợ là những người sau có thể bị truy tố hoặc kết án: Vợ chồng, họ hàng huyết thống trong phạm vi ruột thịt ba đời hoặc thân thuộc trong phạm vi ruột thịt đời thứ hai, người giám hộ, giám sát việc giám hộ. Sự tham dự của nhân
  • 32. 25 chứng, khi Tòa án kiểm tra nhân chứng, nếu họ cho rằng có khả năng nhân chứng cảm thấy quá lo lắng hoặc căng thẳng, xem xét độ tuổi, tình trạng trí óc và thể chất, hoặc bất kỳ tình huống nào khác của nhân chứng, lắng nghe quan điểm của công tố viên, bị cáo hoặc người bào chữa, thì có thể ra lệnh cho người phù hợp để giảm bớt sự lo lắng và căng thẳng và cho là không có nguy cơ làm cản trở việc kiểm tra của Thẩm phán hoặc người liên quan trong vụ án hoặc tuyên bố của nhân chứng, hoặc gây ra những ảnh hưởng sai trái đến nội dung của tuyên bố ở cùng với nhân chứng trong khi nhân chứng này đưa ra tuyên bố (Điều 157). Tòa án có thể kiểm tra nhân chứng, tùy thuộc bản chất của tội phạm, độ tuổi, tình trạng trí óc và thể chất, quan hệ với bị cáo hoặc bất kỳ tình huống nào khác của nhân chứng, nếu cho rằng có nguy cơ gây áp lực quá nặng và cản trở sự bình yên của trí óc khi nhân chứng đưa ra tuyên bố với sự có mặt của bị cáo, người bào chữa, thực hiện các biện pháp mà bị cáo và nhân chứng không thể đơn phương hoặc cùng nhau công nhận tình trạng của bên kia. Với điều kiện là liên quan đến bất kỳ biện pháp nào cho bị cáo không thể nhận ra nhân chứng, thì có thể được thực hiện chỉ trong trường hợp có người bào chữa. Tòa án có thể, nếu thấy cần sau khi xem xét tầm quan trọng của nhân chứng, độ tuổi, nghề nghiệp, điều kiện sức khỏe các tình huống khác và mức độ nghiêm trọng của vụ án và lắng nghe quan điểm của công tố viên và bị cáo hoặc người bào chữa, kiểm tra nhân chứng này bằng cách triệu tập người này ở bên ngoài trụ sở Tòa án hoặc nơi có mặt của người này. Nhân chứng khi tuyên thệ hoặc khai báo mà không có lý do chính đáng, phải bị phạt tiền phi hình sự không quá một trăm nghìn yên và có thể bị ra lệnh bồi thường các chi phí phát sinh do việc từ chối. Bất kỳ ai từ chối tuyên thệ hoặc khai báo mà không có lý do chính đáng thì bị phạt tiền không quá một trăm nghìn yên hoặc bị giam giữ hình sự [36, Điều 161].
  • 33. 26 Chương 2 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ NGƯỜI LÀM CHỨNG VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TỈNH ĐẮKLẮK 2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về người làm chứng 2.1.1. Quy định về quyền của người làm chứng Khác với quy định của BLTTHS năm 1998 là người làm chứng không được hưởng bất kỳ một quyền dân sự nào trong khi phần lớn những chủ thể tham gia tố tụng khác tùy theo mức độ đều được Bộ luật quy định họ phải thực hiện một loạt các nghĩa vụ như: phải có mặt trước khi CQTHTT triệu tập và phải khai báo đúng sự thật, nếu khai báo gian dối hoặc trốn tránh việc khai báo mà không có lý do chính đáng thì có thể phải chịu chế tài hình sự và bị xử lý theo pháp luật. Sự không tương xứng giữa quyền và nghĩa vụ này trái với nguyên tắc “tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân” quy định tại Điều 3 BLTTHS năm 1988 và tiếp tục được khẳng định tại Điều 4 BLTTHS năm 2003 đã được sửa đổi theo hướng bổ sung một số quyền cần thiết cho người làm chứng khi thực hiện nhiệm vụ tố tụng của mình. Việc bổ sung một số quyền của người làm chứng quy định tại khoản 3 Điều 55 bao gồm cả quyền hiến định và quyền luật định - điều mà BLTTHS năm 1988 không có. - Quyền yêu cầu cơ quan triệu tập họ bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của mình khi tham gia tố tụng (điểm a khoản 3 Điều 55 BLTTHS). Xuất phát từ sự nhận thức tính nguy hiểm của các hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm, các quốc gia đều có sự trang bị về mặt vật chất và
  • 34. 27 những quyền năng pháp lý cần thiết cho các tổ chức, cá nhân có chức năng phòng, chống tội phạm nhằm nâng cao hiệu quả phòng, chống tội phạm và bảo vệ những chủ thể này trước nguy cơ xâm hại bởi các tội phạm. Quyền được bảo vệ của người làm chứng cũng như những người tham gia tố tụng khác tồn tại cùng với quyền được bảo vệ của các cơ quan, tổ chức, nhân viên nhà nước trực tiếp tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm. Người làm chứng có thể gặp nguy hiểm hoặc chịu những hậu quả bất lợi do việc họ tham gia tố tụng và khai báo về những tình tiết của vụ án. Sự nguy hiểm về tính mạng hoặc hậu quả bất lợi đó có thể do bị can, bị cáo, người bị hại trong vụ án hoặc những người khác đem lại; những hậu quả bất lợi đó còn có thể do cơ quan tiến hành tố tụng gây ra (có thể khi lấy lời khai của người làm chứng, một số người tiến hành tố tụng có hành vi làm ảnh hưởng tới nhân phẩm, tài sản hoặc sức khỏe của họ). Vì vậy, người làm chứng có quyền yêu cầu cơ quan triệu tập họ bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp khác khi tham tham gia tố tụng. Các cơ quan tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp cần thiết để đảm bảo sự an toàn, bảo đảm các quyền lợi hợp pháp của người làm chứng và không được có hành vi làm ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của họ. Điểm a khoản 3 Điều 55 BLTTHS năm 2003 là sự cụ thể hóa một số quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp năm 1992 ghi nhận như: Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm. Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Tòa án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát, trừ trường hợp phạm tội quả tang; việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật. Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân [17, Điều 7];
  • 35. 28 Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác... Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân [17, Điều 58]. Điểm a khoản 3 Điều 55 BLTTHS còn là sự cụ thể hóa một trong những nguyên tắc cơ bản của hoạt động tố tụng hình sự đó là nguyên tắc bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân (quy định tại Điều 7 BLTTHS). Nội dung nguyên tắc này xác định rõ: Người bị hại, người làm chứng và người tham gia tố tụng khác cũng như người thân thích của họ mà bị đe dọa đến tính mạng, sức khỏe, bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm, tài sản thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng những biện pháp cần thiết để bảo vệ theo quy định của pháp luật [18, Điều 7]. Quyền được bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của người làm chứng là một yêu cầu tất yếu khách quan. Bởi lẽ, quyền được bảo vệ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm và tài sản hợp pháp của công dân là vấn đề quan trọng được quy định trong Hiến pháp và cụ thể hoá bằng các chế định pháp luật hình sự, TTHS ở mỗi quốc gia, mỗi công dân trong xã hội đương nhiên có quyền được bảo vệ từ phía Nhà nước trước nguy cơ xâm hại các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Người làm chứng là công dân có vai trò đặc biệt - người tham gia TTHS, lời khai của họ có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Vì vậy, họ có nguy cơ bị người phạm tội ngăn cản, khả năng bị xâm hại tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản cao hơn nên cần phải có cơ chế đặc biệt để bảo vệ họ. Các cơ quan tiến hành tố tụng muốn thu thập được đầy đủ các thông tin từ người làm chứng, sử dụng làm chứng cứ chứng minh tội phạm, người thực
  • 36. 29 hiện hành vi phạm tội và các vấn khác cần chứng minh trong vụ án hình sự thì phải đảm bảo an toàn cho họ, loại trừ các cản trở ảnh hưởng đến việc khai báo đúng đắn của họ. Thực tiễn cho thấy trong các vụ án hình sự lời khai của người làm chứng có giá trị chứng minh càng lớn thì nguy cơ bị xâm hại đến thể chất, tinh thần và tài sản của họ càng cao, nhất là các vụ án phạm tội có tổ chức, bọn tội phạm là những tên lưu manh, côn đồ trong băng nhóm có tổ chức theo kiểu “xã hội đen”... Việc BLTTHS năm 2003 xác định rõ quyền của người làm chứng được yêu cầu cơ quan triệu tập bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của mình khi tham gia tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm phải áp dụng những biện pháp cần thiết để bảo vệ theo quy định của pháp luật là một đòi hỏi khách quan, thể hiện thái độ, trách nhiệm của Nhà nước đối với nhân dân, để nhân dân có thể tin tưởng và an tâm tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm. Đây là sự đánh dấu lần đầu tiên trong hoạt động TTHS vấn đề bảo vệ người làm chứng được quy định trong BLTTHS, là dấu hiệu thể hiện pháp luật TTHS Việt Nam đang xích gần với thông lệ quốc tế. Có thể tìm thấy trong các Văn kiện quốc tế ghi nhận những nội dung liên quan đến quyền con người trong TTHS như Tuyên ngôn nhân quyền thế giới năm 1948; Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 (ICCPR); Tuyên ngôn về những nguyên tắc cơ bản của hoạt động xét xử đối với nạn nhân của tội phạm và nạn nhân của sự lạm dụng quyền lực do Liên hiệp quốc ban hành ngày 29/11/1985. Các văn bản này đưa đến một khẳng định: quyền con người trong TTHS là sự cụ thể quyền sống, quyền được tự do trong lĩnh vực TTHS. Đây được coi là tiêu chuẩn về nhân quyền trong TTHS. Cho đến nay, Việt Nam đã tham gia phần lớn và cam kết thực hiện ở cả hai phương diện lập pháp và cam kết thực hiện các văn kiện về quyền con người.
  • 37. 30 Do đó, khi tham gia vào hoạt động TTHS nếu người làm chứng nhận thấy có người đe dọa hoặc có khả năng bị đe dọa đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản thì có thể yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng đã triệu tập mình bằng các biện pháp cần thiết bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền lợi ích hợp pháp khác của mình, như yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng cử người bảo vệ hoặc giao các tài sản cho cơ quan tiến hành tố tụng tạm thời bảo quản. Quyền được bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền lợi ích họp pháp khác là quyền chính đáng của một công dân khi tham gia vào hoạt động TTHS, là nghĩa vụ của Nhà nước, trực tiếp là các cơ quan tiến hành tố tụng nhằm bảo đảm cho quá trình phát hiện, xử lý tội phạm được chính xác, toàn diện. + Quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng (điểm b khoản 3 Điều 55 BLTTHS). Quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng là sự cụ thể hóa một trong những quyền Hiến định cơ bản của công dân thuộc nhóm quyền về chính trị quy định tại Hiến pháp 1992. Hiến pháp quy định: “Công dân có quyền khiếu nại với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào” [17, Điều 74]. Quyền này còn được ghi nhận là một nguyên tắc cơ bản của TTHS - Điều 31 BLTTHS quy định “Công dân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại, công dân có quyền tố cáo những việc làm trái pháp luật trong hoạt động TTHS của các cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành TTHS hoặc của bất cứ cá nhân nào thuộc các cơ quan đó” [18]. Đồng thời BLTTHS dành hẳn một chương quy định về khiếu nại, tố cáo (Chương XXXV) thể hiện rõ mục tiêu và trách nhiệm bảo đảm thực hiện dân chủ trong
  • 38. 31 hoạt động TTHS, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Những quy định này được hướng dẫn thi hành tại Thông tư liên tịch số 02/2005/TTLT - VKSNDTC -TANDTC - BCA - BTP ngày 10/8/2005. Người làm chứng nếu nhận thấy các quyết định, hành vi của cơ quan, người tiến hành tố tụng là sai trái, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm, tài sản của bản thân thì có quyền khiếu nại đến cơ quan có thẩm quyền yêu cầu bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Chẳng hạn, người làm chứng có thể khiếu nại quyết định dẫn giải người làm chứng, quyết định trưng cầu giám định của cơ tiến hành tố tụng, khiếu nại về biên bản lấy lời khai người làm chứng chưa thành niên không có chữ ký của người đại diện hợp pháp; khiếu nại việc người tiến hành tố tụng khi lấy lời khai, đối chất, nhận dạng, xét hỏi không giải thích quyền và nghĩa vụ cho người làm chứng; người tiến hành tố tụng có hành vi dụ dỗ, mua chuộc, đe dọa để người làm chứng khai báo theo yêu cầu của họ... Người làm chứng là một trong những chủ thể tham gia tố tụng, việc họ có quyền khiếu nại các quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người tiến hành tố tụng thể hiện sự bình đẳng giữa các chủ thể tham gia tố tụng, phù hợp với nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật được quy định tại Điều 5 BLTTHS năm 2003. Việc quy định về quyền khiếu nại các quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người tiến hành tố tụng của người làm chứng thể hiện bản chất dân chủ của pháp luật TTHS, vừa có ý nghĩa bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân vừa góp phần khắc phục những sai phạm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Quy định như vậy nhằm làm cho người làm chứng quan tâm hơn tới các quyết định, hành vi của cơ quan, người tiến hành tố tụng liên quan tới quyền lợi hợp pháp của mình để họ có thể bảo vệ quyền lợi của mình khi tham gia TTHS.
  • 39. 32 + Quyền được cơ quan triệu tập thanh toán chi phí đi lại và những chi phí khác theo quy định của pháp luật (điểm c khoản 3 Điều 55 BLTTHS). Ngoài một số nguyên tắc cơ bản của công dân được quy định trong Hiến pháp, BLTTHS năm 2003 còn trao cho người làm chứng được thanh toán chi phí làm chứng. Việc thanh toán chi phí đi lại và những chi phí khác tạo điều kiện thuận lợi về kinh phí vật chất cho người làm chứng thực hiện nghĩa vụ công dân của mình, thúc đẩy người làm chứng tích cực thực hiện nghĩa vụ của mình. Điều đó là hoàn toàn hợp lý bởi, khi người làm chứng được triệu tập tham gia tố tụng thì họ phải hoãn lại công việc riêng của mình để có mặt theo giấy triệu tập của CQTHTT và hoàn thành đầy đủ nhiệm vụ của một người làm chứng, việc ra làm chứng ảnh hưởng rất nhiều đến thời gian và trình tự công việc hàng ngày của họ, chưa kể đến những mất mát về tài sản mà họ phải gánh chịu, nên họ có quyền được bù đắp và hoàn toàn xứng đáng có được quyền này. Theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 55 BLTTHS thì người làm chứng có thể liệt kê các chi phí liên quan đến việc đi lại, ăn ở (trường hợp người làm chứng ở xa) và các chi phí khác, yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng thanh toán các chi phí đó. Tuy nhiên, hiện nay chưa có văn bản nào quy định cụ thể những loại “chi phí khác ” được thanh toán trong quá trình người làm chứng thực hiện nghĩa vụ tố tụng. Đối với người làm chứng dưới 16 tuổi khi lấy lời khai phải có mặt của cha, mẹ hoặc người đại diện hợp pháp hoặc thầy, cô giáo của người đó tham dự, nhưng BLTTHS không quy định những chủ thể này được thanh toán các chi phí. Thông thường các cơ quan tiến hành tố tụng thanh toán chi phí đi lại cho người làm chứng theo hóa đơn hoặc giấy xác nhận. Quy định người làm chứng được thanh toán các chi phí theo quy đinh tại khoản 3 Điều 55 BLTTHS năm 2003 là hợp lý nhưng chưa đầy đủ và cụ thể để có thể thực hiện thống nhất trên thực tế. Chưa thực sự đảm bảo được quyền lợi cho người làm chứng, khuyến khích họ thực hiện
  • 40. 33 nghĩa vụ của mình, ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án hình sự. Trong thời gian dài, quy định này được coi là một “đặc quyền” của người làm chứng mà những người tham gia tố tụng với tư cách hỗ trợ cho hoạt động tố tụng hình sự khác không có như người giám định, người phiên dịch. Ngày 28/3/2012 Ủy ban thường vụ Quốc Hội ban hành Pháp lệnh chi phí giám định, định giá; chi phí cho người làm chứng, người phiên dịch trong tố tụng thì việc được “thanh toán chi phí đi lại và những chi phí khác” không còn là “đặc quyền” của người làm chứng. Các quyền của người làm chứng như quyền yêu cầu cơ quan triệu tập bảo vệ tính mạng sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền, lợi ích họp pháp của mình; quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của người tiến hành tố tụng, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng; quyền được thanh toán chi phí đi lại và những chi phí khác theo quy định của pháp luật là những quy định mới của BLTTHS năm 2003. Đây là sự đổi mới tư duy lập pháp về người làm chứng của pháp luật. 2.1.2. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về nghĩa vụ của người làm chứng BLTTHS năm 2003 đã quy định tương đối toàn diện và đầy đủ về nghĩa vụ của người làm chứng; cụ thể, theo quy định tại khoản 4 Điều 55 quy định những nghĩa vụ của người làm chứng phải tuân thủ: Có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án; trong trường hợp cố ý không đến mà không có lý do chính đáng và việc vắng mặt của họ gây trở ngại cho việc điều tra, truy tố, xét xử thì có thể bị dẫn giải; Khai báo trung thực tất cả những tình tiết mà mình biết về vụ án. Người làm chứng từ chối hoặc trốn tránh việc khai báo mà không có lý do chính đáng thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 308 của BLHS [18, Điều 55].
  • 41. 34 Để góp phần cho quá trình tố tụng diễn ra có hiệu quả và nhanh chóng thì người làm chứng phải tuân thủ và thực hiện những nghĩa vụ đã quy định trong suốt quá trình tố tụng. + Nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án; trong trường hợp cố ý không đến mà không có lý do chính đáng và việc vắng mặt của họ gây trở ngại cho việc điều tra, truy tố, xét xử thì có thể bị dẫn giải (điểm a khoản 4 Điều 55 BLTTHS) Khoản 1 Điều 25 BLTTHS quy định: “Các tổ chức, công dân có quyền và nghĩa vụ phát hiện, tố giác hành vi phạm tội; tham gia đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức” [18], như vậy phòng, chống tội phạm là nghĩa vụ của mọi công dân với Nhà nước. Người làm chứng khi nhận được giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu họ thực hiện nghĩa vụ công dân của mình để giải quyết một vụ án cụ thể, phải có mặt theo giấy triệu tập đó. Sự có mặt của người làm chứng đúng thời gian, địa điểm ghi trong giấy triệu tập là cần thiết, có ý nghĩa quan trọng trong giải quyết án. Qua hoạt động lấy lời khai, đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra các tình tiết của vụ án sẽ được làm rõ. Tại phiên tòa, lời khai trước đó của người làm chứng với cơ quan điều tra sẽ được thẩm định lại, được làm rõ để sử dụng làm căn cứ xác định tội phạm, quyền được bào chữa của bị cáo cũng được đảm bảo. Nếu người làm chứng vắng mặt không có lý do chính đáng và việc vắng mặt của họ gây khó khăn, trở ngại cho việc điều tra, truy tố, xét xử thì có thể bị dẫn giải. Quy định này có ý nghĩa quan trọng nhằm bảo đảm sự có mặt của người làm chứng khi được triệu tập, hạn chế việc họ lẩn tránh, thoái thác trách nhiệm không chịu hợp tác với các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình xác định sự thật khách quan của vụ án. Việc người làm chứng có mặt đúng thời gian, địa điểm theo giấy triệu tập sẽ tránh được sự tốn kém nhất định về
  • 42. 35 kinh phí trong quá trình giải quyết vụ án. Việc vắng mặt người làm chứng còn ảnh hưởng tới công việc của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng khác và những người tham gia phiên tòa như cảnh sát hỗ trợ tư pháp. Bên cạnh thiệt hại về kinh tế là thiệt hại về công lý - nếu người làm chứng không có mặt tại phiên tòa, Hội đồng xét xử sẽ không thể thẩm tra lại chứng cứ mà người làm chứng đã cung cấp tại cơ quan điều tra. Từ đó quyền bào chữa của bị cáo sẽ khó được bảo đảm, hoạt động xét xử có thể gặp những khó khăn, thậm chí đi đến bế tắc, kẻ phạm tội đích thực không bị truy cứu trách nhiệm hình sự và tiếp tục sống nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật, gây hoang mang trong dư luận, tạo cơ hội cho các phần tử phản động lợi dụng chống phá Đảng và Nhà nước. Khoản 2 Điều 133 BLTTHS năm 2003 quy định khi triệu tập người làm chứng: “Các cơ quan, tổ chức đó có trách nhiệm tạo điều kiện cho người làm chứng thực hiện nghĩa vụ” [18]. Quy định này dường như không thực hiện được trên thực tế vì trong các luật chuyên ngành không quy định về quyền của người lao động được nghỉ việc để tham gia làm chứng trong vụ án hình sự. Trong Bộ luật lao động chỉ quy định thời gian nghỉ hưởng nguyên lương là nghỉ hàng năm (Điều 74) nghỉ về việc riêng (Điều 78), nghỉ ngày lễ (Điều 73) [23]. Luật cán bộ, công chức cũng không có quy định nào về việc cán bộ, công chức được phép nghỉ làm tại cơ quan để thực hiện nghĩa vụ làm chứng của mình. Do vậy khi được triệu tập người làm chứng phải xuất trình giấy triệu tập báo cáo cơ quan nơi công tác để được nghỉ làm việc tham gia tố tụng khi có yêu cầu của CQTHTT. + Nghĩa vụ khai trung thực tất cả những tình tiết mà mình biết về vụ án (điểm b khoản 4 Điều 55 BLTTHS). Người làm chứng tham gia tố tụng với chức năng hỗ trợ cơ quan tiến hành tố tụng làm sáng tỏ vụ án. Lời khai gian dối của người làm chứng có thể
  • 43. 36 làm tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Tội phạm cần phải được trừng trị nghiêm minh, do vậy khai trung thực tất cả những tình tiết mà mình biết về vụ án là một trong những nghĩa vụ quan trọng của người làm chứng. So với những người tham gia tố tụng khác như người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự thì người làm chứng là chủ thể không quan tâm đến kết quả giải quyết vụ án bởi kết quả giải quyết vụ án không ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của họ. Người làm chứng tham gia vào quá trình giải quyết vụ án do họ biết những tình tiết liên quan đến vụ án, lời khai của họ là nguồn chứng cứ quan trọng góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án nhằm bảo vệ lợi ích chung của xã hội. Vì vậy, người làm chứng phải có nghĩa vụ khai báo tất cả, khai trung thực, không che dấu những gì mà họ biết về vụ án. Việc người làm chứng cam đoan không khai gian dối quy định tại khoản 1 Điều 204 BLTTHS là một biện pháp giúp người làm chứng thấy được rõ hơn trách nhiệm và nghĩa vụ của mình tại tòa, đối với người làm chứng là người chưa thành niên không phải cam đoan. Tuy nhiên, BLTTHS năm 2003 chỉ quy định người làm chứng phải cam đoan không khai gian dối tại phiên tòa còn ở giai đoạn tố tụng khác không quy định. Pháp luật TTHS của một số quốc gia trên thế giới như Đức, Pháp, Nga, Nhật Bản buộc người làm chứng phải tuyên thệ cam đoan lời khai của mình là đúng sự thật, đồng thời quy định cụ thể về hình thức tuyên thệ. Ví dụ, pháp luật của CHLB Đức quy định: Trước khi lấy lời khai, người làm chứng được nhắc nhở là phải nói lên sự thật và được thông báo rằng lời khai của họ được đưa ra phải được kèm theo lời tuyên thệ, trừ khi được pháp luật có quy định khác. Người làm chứng được giải thích tầm quan trọng của việc tuyên thệ, khả năng lựa chọn giữa việc tuyên thệ với sự xác
  • 44. 37 nhận về mặt tôn giáo và trách nhiệm pháp lý hình sự của việc khai báo không chính xác hoặc không đầy đủ. Những người chưa đủ 16 tuổi vào thời điểm lấy lời khai, người không hiểu biết tầm quan trọng và bản chất của lời tuyên thệ do họ là người có nhược điểm về trí tuệ hoặc tâm thần hay tình cảm; người bị tình nghi đã thực hiện tội phạm và là đối tượng của việc điều tra hoặc đã tham gia vào việc thực hiện tội phạm hoặc người bị tình nghi là đồng phạm, cản trở công lý hoặc tiêu thụ tài sản trộm cắp hoặc đã bị tuyên phạt về việc đó [15]. Pháp luật TTHS của Việt Nam còn quy định: Nếu người làm chứng từ chối hoặc trốn tránh việc khai báo mà không có lý do chính đáng thì phải chịu trách nhiệm sự theo Điều 308 BLHS; khai báo gian đối thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 307 BLHS. Trong khi đó tại Điều 314 BLHS quy định hành vi không tố giác tội phạm của những người là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của kẻ phạm tội không phải là tội phạm (trừ trường hợp không tố giác tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội đặc biệt nghiêm trọng). BLHS đã thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với khía cạnh đạo đức trong quá trình giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân đảm bảo quy định của pháp luật hình sự phù hợp với truyền thống đạo đức của dân tộc. Bộ luật TTHS ban hành sau nhưng khi quy định về nghĩa vụ của người làm chứng đã không tiếp thu và phát triển được tư tưởng nhân văn này, trong khoa học pháp lý của nước ta chưa nói đến giao lưu nhân đạo hóa, mở rộng bảo đảm quyền con người trong TTHS của nhiều nước trên thế giới [13]. Nhìn chung, BLTTHS năm 2003 có bước tiến đáng kể so với BLTTHS năm 1988 khi bổ sung các quy định về quyền và nghĩa vụ của người làm chứng, làm cho người làm chứng đầy đủ, rõ ràng hơn, tạo điều kiện thuận lợi
  • 45. 38 cho người làm chứng khi tham gia vào hoạt động TTHS. Qua phân tích có thể khẳng định người làm chứng không được hưởng một lợi ích vật chất hay tinh thần nào khi tham gia vào vụ án; các quyền mà BLTTHS thừa nhận cho người làm chứng chỉ là quyền yêu cầu được bù đắp những thiệt thòi, mất mát hoặc ngăn chặn những mất mát, tổn thất có thể xảy ra đối với họ liên quan đến sự hợp tác của họ với cơ quan tiến hành tố tụng [13]. Quy định về quyền và nghĩa vụ của người làm chứng không tương xứng với nhau - nặng về nghĩa vụ và trách nhiệm nên chưa khuyến khích được người làm chứng trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. 2.1.3. Một số quy định khác trong luật tố tụng hình sự Việt Nam có liên quan đến người làm chứng * Quy định của BLTTHS năm 2003 về trách nhiệm của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng bảo đảm các quyền, lợi ích và nghĩa vụ cho người làm chứng. - Phải áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm, tài sản của người làm chứng và người thân thích của họ theo quy định của pháp luật. Đi đôi với việc quy định các quyền cho người làm chứng, BLTTHS năm 2003 cũng quy định về trách nhiệm của cơ quan và người tiến hành tố tụng, tạo sự ràng buộc trách nhiệm từ phía Nhà nước, bảo đảm thực thi quyền lợi cho người làm chứng. Điều 7 BLTTHS quy định: Người bị hại, người làm chứng và người tham gia tố tụng khác cũng như người thân thích của họ mà bị đe dọa đến tính mạng, sức khỏe, bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm, tài sản thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng những biện pháp cần thiết để bảo vệ theo quy định của pháp luật [18, Điều 7]. Đây là một quy định mới quan trọng được bổ sung mang tính nguyên tắc của BLTTHS, được cụ thể tại khoản 5 Điều 211 BLTTHS