SlideShare a Scribd company logo
1 of 122
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ LY
CHÕ §ÞNH DÉN §é TRONG HîP T¸C QUèC TÕ
THEO LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ LY
CHÕ §ÞNH DÉN §é TRONG HîP T¸C QUèC TÕ
THEO LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN NGỌC CHÍ
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các
môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Thị Ly
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU................................................................................................................1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH DẪN ĐỘ TRONG
HỢP TÁC QUỐC TẾ THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ..........................6
1.1. KHÁI NIỆM “DẪN ĐỘ” VÀ “CHẾ ĐỊNH DẪN ĐỘ” .............................6
1.1.1. Sự ra đời và khái niệm dẫn độ....................................................................6
1.1.2. Khái niệm chế định dẫn độ.......................................................................13
1.2. NỘI DUNG CỦA CHẾ ĐỊNH DẪN ĐỘ .................................................20
1.2.1. Cơ sở dẫn độ............................................................................................20
1.2.2. Các nguyên tắc của dẫn độ.......................................................................22
1.2.3. Thủ tục dẫn độ .........................................................................................30
1.2.4. Thẩm quyền thực hiện dẫn độ ..................................................................32
1.2.5. Một số quy định khác về dẫn độ...............................................................33
1.3. PHÁP LUẬT MỘT SỐ KHU VỰC VÀ QUỐC GIA TRÊN THẾ
GIỚI VỀ DẪN ĐỘ ..................................................................................34
1.3.1. Pháp luật Châu Âu về dẫn độ ...................................................................34
1.3.2. Pháp luật Hoa Kỳ về dẫn độ.....................................................................37
Chương 2: CHẾ ĐỊNH DẪN ĐỘ TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM.............................................................................................39
2.1. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ DẪN ĐỘ TRƯỚC
NĂM 2003...............................................................................................39
2.2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ DẪN ĐỘ TỪ
NĂM 2003 ĐẾN NAY.............................................................................44
2.2.1. Tình hình ký kết các hiệp định và quy định của pháp luật trong nước
về dẫn độ..................................................................................................44
2.2.2. Những nội dung về dẫn độ trong các văn bản pháp luật của Việt Nam...........49
Chương 3: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG DẪN ĐỘ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.......87
3.1. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG DẪN ĐỘ Ở VIỆT NAM ........................87
3.1.1. Tình hình thực hiện các yêu cầu dẫn độ....................................................87
3.1.2. Nguyên nhân hạn chế hiệu quả của hoạt động dẫn độ ở Việt Nam............90
3.2. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CHẾ ĐỊNH DẪN ĐỘ.........................................94
3.2.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả áp
dụng chế định dẫn độ ...............................................................................94
3.2.2. Hoàn thiện pháp luật về dẫn độ ................................................................99
3.2.3. Các giải pháp khác nâng cao hiệu quả hoạt động dẫn độ ........................105
KẾT LUẬN........................................................................................................109
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................111
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS: Bộ luật hình sự
BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
ĐƯQT: Điều ước quốc tế
TAND: Tòa án nhân dân
TNHS: Trách nhiệm hình sự
TTHS: Tố tụng hình sự
TTTP: Tương trợ tư pháp
VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC BẢNG
Số hiệu bảng Tên bảng Trang
Bảng 3.1. Thống kê yêu cầu dẫn độ tội phạm ở Việt Nam từ 01/07/2008
đến 30/06/2014
88
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia đang có chiều hướng gia tăng, diễn
biến phức tạp đe dọa đến an ninh của các quốc gia, ảnh hưởng trực tiếp đến hòa
bình trên phạm vi toàn cầu. Trước tình hình đó, nhu cầu hợp tác quốc tế trong đấu
tranh, phòng ngừa tội phạm cần phải được tăng cường, củng cố. Dẫn độ là một
trong những nội dung quan trọng của hợp tác quốc tế đất tranh, phòng ngừa tội
phạm và được quy định trong các điều ước quốc tế cũng như pháp luật các quốc gia,
thể hiện sự nỗ lực của cộng đồng quốc tế trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm.
Những năm gần đây ở Việt Nam các tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia có
diễn biến phức tạp, theo chiều hướng gia tăng, đặc biệt xuất hiện nhiều tội phạm
mới như các tội phạm về tin học, rửa tiền, tội phạm sử dụng công nghệ cao…,các cơ
quan tố tụng ngày càng phải xử lý nhiều hơn các vụ án hình sự có yếu tố nước ngoài
và các cơ quan bảo vệ pháp luật của nước ngoài cũng phải xử lý nhiều vụ án hình sự
liên quan đến người Việt Nam. Những điều này đã đặt ra nhu cầu hợp tác với các
hoạt động hợp tác quốc tế trong quá trình giải quyết vụ án hình sự nhằm nâng cao
hiệu quả của việc đấu tranh với tình trạng người nước ngoài phạm tội ở Việt Nam
và người Việt Nam phạm tội ở nước ngoài, qua đó, góp phần thúc đẩy quá trình hội
nhập giữa nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 của Việt Nam đã dành Phần VIII để quy
định vấn đề hợp tác quốc tế, trong đó có chế định dẫn độ. Trước đó, vấn đề dẫn độ
đã được quy định trong các Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về dân sự, gia
đình và hình sự giữa Việt Nam với một số nước. Tuy nhiên, những quy định trong
các Hiệp định tương trợ còn nhiều hạn chế, một số nội dung không còn phù hợp với
xu thế và thực tiễn hợp tác quốc tế như: Quy định về dẫn độ, chuyển giao tài liệu hồ
sơ vụ án; Quy định việc giải quyết vấn đề quốc tịch trong lĩnh vực tư pháp; vấn đề
hợp tác có đi có lại... trong đấu tranh xử lý tội phạm. Những quy định trong Bộ luật
tố tụng hình sự năm 2003 về dẫn độ tội phạm cũng mới chỉ dừng lại ở mức khái
quát, chưa cụ thể nên khó áp dụng trong quá trình giải quyết vụ án của các cơ quan
2
tiến hành tố tụng. Bên cạnh đó, việc triển khai thực hiện các hiệp định đã được ký
kết còn nhiều hạn chế, thiếu các văn bản hướng dẫn cần thiết, chưa có sự quan tâm
chỉ đạo của các ngành chức năng liên quan. dẫn đến tình trạng các quy định về dẫn
độ ở Việt Nam còn mang nhiều tính hình thức; Năng lực, trình độ của cán bộ tiến
hành tố tụng còn hạn chế là một trong những nguyên nhân làm cho việc thực thi
pháp luật về dẫn độ tội phạm ở Việt Nam chưa đạt hiệu quả cao.
Trước thực trạng trên, việc nghiên cứu chế định dẫn độ tội phạm không
những có ý nghĩa góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh, xử lý tội phạm; hội nhập
quốc tế; bảo đảm quyền con người; thực hiện yêu cầu cải cách tư pháp mà còn góp
phần xây dựng lý luận về hợp tác quốc tế trong khoa học pháp lý tố tụng hình sự. Vì
vậy, em chọn đề tŕi “Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo luật tố tụng
hình sự Việt Nam” cho Luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Ở Việt Nam đã có một số nghiên cứu về dẫn độ tội phạm dưới dạng các bài
tạp chí, luận văn thạc sỹ, sách tham khảo… như nghiên cứu về Hoạt động dẫn độ
tội phạm theo Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với các nước theo Tạp
chí Dân chủ và pháp luật số 05 năm 2000 của tác giả Nguyễn Ngọc Anh, nghiên
cứu của tác giả Dương Tuyết Miên về “Vấn đề dẫn độ tội phạm” (Tạp chí Tòa án số
10 năm 2006), nghiên cứu của tác giả Nguyễn Giang Nam về “Dẫn độ tội phạm
theo pháp luật hiện hành” (Tạp chí Nhà nước và pháp luật. Viện Nhà nước và pháp
luật số 12 năm 2008), Luận văn thạc sỹ của tác giả Đào Thị Hà (2006) về “Vấn đề
dẫn độ trong pháp luật Việt Nam”… Bên cạnh đó một số giáo trình, sách tham khảo
của một số cơ sở đào tạo luật ở Việt Nam như “Giáo trình Công pháp Quốc tế” do
PGS.TS Nguyễn Bá Diến chủ biên, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội năm 2013, “Giáo
trình luật tố tụng hình sự Việt Nam” do PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí chủ biên, Nxb
Đại học quốc gia Hà Nội năm 2013, Những vấn đề lý luận và thực tiễn về luật hình
sự quốc tế, Nguyễn Ngọc Chí (chủ biên) (2011), NXB Chính trị Quốc gia năm
2013, “Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt nam”, Nxb Công an nhân dân năm 2008
của trường Đại học Luật Hà Nội cũng đã đề cập đến những nội dung cơ bản của vấn
đề dẫn độ trên cơ sở các văn bản pháp luật.
3
Tuy nhiên, các nghiên cứu phần lớn mới tập trung vào việc tiếp cận vấn đề và
khái quát nội dung của việc dẫn độ tội phạm trên cơ sở quy định của Hiệp định tương
trợ tư pháp giữa Việt Nam với các nước. Một số nghiên cứu chưa thể hiện được tính
ứng dụng vào thực tiễn thi hành pháp luật ở Việt Nam, đồng thời chưa có nghiên cứu
nào mang tính tổng thể về dẫn độ với tư cách là một chế định của luật hình sự. Vì vậy,
khi nghiên cứu, luận văn sẽ xem xét một cách toàn diện những vấn đề cơ bản liên quan
đến dẫn độ, đồng thời nghiên cứu thực trạng dẫn độ trên cơ sở kiến nghị các biện pháp
nâng cao hiệu quả dẫn độ ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài nhằm luận giải một cách khoa học cũng như xem xét,
đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật trong việc dẫn độ, trên cơ sở đó, đề xuất việc
hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động dẫn độ trong
quá trình giải quyết vụ án ở Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Phân tích trên bình diện lý luận về khái niệm dẫn độ, khái niệm về chế định
dẫn độ và làm rõ những nội dung của chế đình này cũng như phân biệt khái niệm
dẫn độ với một số khái niệm khác như “chuyển giao người bị kết án”, “trao đổi tội
phạm”, “trao trả tội phạm”…
- Làm rõ các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về dẫn độ;
- Nêu thực trạng, phân tích, đánh giá hiệu quả của hoạt động dẫn độ ở Việt Nam;
- Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả của
hoạt động dẫn độ tội phạm.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn về vấn đề dẫn độ với
tư cách là một chế định trong luật tố tụng hình sự Việt Nam trên cơ sở các quy định
của Bộ Luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003, Luật tương trợ tư pháp năm 2007
và Hiệp định dẫn độ giữa Việt Nam với một số nước trên thế giới như Hàn Quốc, Ốt
– xtrây – lia, Ấn Độ, Indonesia,…
4
4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Đề tài nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở các quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta về xây dựng nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải
cách tư pháp được thể hiện trong các Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002
của Bộ Chính trị về "Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian
tới", Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020.
Trước xu thế quốc tế hóa, việc nghiên cứu luận văn còn được thực hiện
trên tư tưởng tiến bộ của nhân loại về việc đấu tranh phòng chống tội phạm có
tính chất quốc tế.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn gồm: Phương
pháp lịch sử; Phương pháp phân tích, tổng hợp; Phương pháp so sánh đối chiếu;
Phương pháp tổng kết thực tiễn.
5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
5.1. Những điểm mới
Luận văn thể hiện những điểm mới của việc nghiên cứu chế định dẫn độ như sau:
Nghiên cứu toàn diện, có hệ thống những vấn đề pháp lý liên quan đến dẫn
độ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam trên cơ sở những hiệp ước quốc tế về vấn đề
dẫn độ được ký kết giữa Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới, đồng thời có sự
đánh giá liên hệ với diễn biến tình hình các tội phạm có tính chất quốc tế.
Nghiên cứu chế định dẫn độ trên cơ sở tương quan so sánh giữa pháp luật
Việt Nam với pháp luật một số nước trên thế giới để tìm ra những điểm tương đồng
và khác biệt qua đó đóng góp kiến nghị về sự phù hợp của chế định dẫn độ trong
luật tố tụng hình sự Việt Nam.
5.2. Đóng góp của luận văn
Việc nghiên cứu sẽ làm rõ hơn, đầy đủ hơn những vấn đề lý luận về dẫn
5
độ, giúp ta có nhận thức một cách khoa học về vấn đề; các kết quả tìm tòi,
nghiên cứu có thể được ứng dụng vào hoạt động dẫn độ ở Việt Nam qua đó nâng
cao hiệu quả của quá trình giải quyết vụ án hình sự về các tội phạm có tính chất
quốc tế. Đồng thời các kiến nghị, giải pháp được đề xuất trong luận văn có thể
được coi là một trong các nguồn tài liệu phục vụ cho việc hoàn thiện pháp luật
Việt Nam về dẫn độ trên cơ sở nội luật hóa các quy định về dẫn độ của các điều
ước quốc tế.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế
theo luật tố tụng hình sự
Chương 2. Chế định dẫn độ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Chương 3. Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động dẫn độ
trong tố tụng hình sự Việt Nam.
6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH DẪN ĐỘ
TRONG HỢP TÁC QUỐC TẾ THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. KHÁI NIỆM “DẪN ĐỘ” VÀ “CHẾ ĐỊNH DẪN ĐỘ”
1.1.1. Sự ra đời và khái niệm dẫn độ
1.1.1.1. Sự ra đời của dẫn độ
Dẫn độ được hình thành và phát triển cùng với luật quốc tế, là một bộ phận
của Luật hình sự quốc tế, nó được ra đời khi có nhu cầu trao đổi về tội phạm giữa các
quốc gia thông qua một thỏa ước quốc tế. Các nghiên cứu cho rằng, thời cổ đại qui
chế về dẫn độ đã ra đời, khi người nước ngoài phạm tội chống lại công dân nước
ngoài ở quốc gia sở tại, nơi người phạm tội cư trú. Trong thời kỳ này, đã xuất hiện
các điều ước quốc tế giữa một số quốc gia về dẫn độ, chẳng hạn: Năm 1296 trước
công nguyên, điều ước quốc tế về dẫn độ ở vùng Ai Cập cổ đại có nêu rõ rằng:
Nếu như một ai đó chạy khỏi Ai Cập và tới quốc gia Khettôv, thì vua
Khettôv sẽ không bắt giữ anh ta, mà bắt anh ta quay trở lại Ai Cập. Đặc
điểm của điều ước quốc tế này thể hiện ở chỗ, vấn đề không phải chỉ là các
tội phạm và thời kỳ đó, chế định dẫn độ còn đề cập tới cả người nô lệ da
trắng, đặc biệt là ở Hy Lạp và đế chế La Mã. Đồng thời, có các điều ước
quốc tế về dẫn độ giữa một số quốc gia thành phố của Hy Lạp [42, tr. 341].
Quan điểm này cũng được Christopher L. Blakesley khẳng định:
Trong thực tế, văn bản ngoại giao được biết đến sớm nhất có chứa
một phần quy định về sự lộ diện của những kẻ trốn chạy. Đó là Hiệp ước
về Hòa bình giữa Ramses II, Pharaon của Ai Cập, và vua Hittite Hattusili
III, được ký sau khi các nước cố gắng xâm chiếm Ai cập. Văn bản này
được viết bằng chữ tượng hình, được khắc trên Đền của Ammon ở
Karnak và nó cũng được bảo quản trên những chiếc bàn bằng đất sét ở
Akkodrain trong kho Hittite của Boghazkoi. Văn bản này được coi là các
ví dụ sớm nhất về các thỏa thuận về dẫn độ và những biểu hiện của nó
mà trong đó dẫn độ chỉ là một phần của một văn bản lớn được thiết kế
7
dành cho một mục đích lớn. Đối với các văn bản về dẫn độ đầu tiên của
thời kỳ hiện đại cũng vậy [49, tr.44].
Như vậy, dẫn độ ra đời khá sớm, từ thời kỳ cổ đại chứ không phải cho đến
thời kỳ hiện đại như một số học giả đưa ra. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng qui chế về
dẫn độ thời kỳ cổ đại chưa có đầy đủ các nội hàm và phạm vi như ngày nay chúng ta
quan niệm. Trải qua quá trình lịch sử, sự phát triển của qui chế về dẫn độ gắn liền với
sự phát triển của các quan hệ quốc tế và sự hợp tác trong đấu tranh xử lý tội phạm của
các quốc gia trên thế giới. “Nhiều nhà chức trách ở Pháp và Mỹ đã viết rằng trước
thế kỷ XIX, sự dẫn độ với nghĩa như thời hiện đại không tồn tại” [49, tr.44]. Nội
dung của quy chế dẫn độ đã thay đổi trong quá trình phát triển hợp tác giữa các
quốc gia trong đấu tranh xử lý tội phạm. Những thay đổi này được gắn liền với
những thay đổi của chế định di tản. Trong thời kỳ cổ đại, việc áp dụng chế định dẫn
độ gắn liền với việc tiếp nhận người tản cư. Sự quan hệ phụ thuộc nhau giữa chế độ
dẫn độ và chế độ di tản diễn ra trong nhiều thời đại. Vào năm 1303, Anh và Pháp đã
ký điều ước quốc tế về việc không dẫn độ đối với kẻ thù và người nổi loạn đối với
cả hai nước. Tới đầu thế kỷ thứ XVIII, bắt đầu có việc ký kết các điều ước quốc tế
giữa các quốc gia về việc dẫn độ các tội phạm chính trị và những người thực hiện
các tội phạm hình sự. Sự hợp tác tích cực giữa các quốc gia về dẫn độ diễn ra vào
thế kỷ XVIII. Trong thời gian đó các điều ước quốc tế về dẫn độ được ký kết trước
sự phát triển tiến bộ của khoa học công nghệ. Cũng theo sự phát triển này, một
lượng lớn dân cư từ Châu Âu đã di cư sang Châu Mỹ và các châu lục khác, một
nhóm tội phạm hình sự đã lợi dụng tình hình này để bỏ chạy khỏi tổ quốc của mình
nhằm thoát khỏi sự truy lùng và kết án hình sự. Tình trạng này đã thúc đẩy các quốc
gia với mục đích bảo vệ nền pháp chế tìm kiếm các chế định mới mà một trong các
chế định đó là dẫn độ. Có nhiều điều ước song phương cũng như đa phương về dẫn
độ được ký kết bởi các quốc gia Châu Âu, theo PGS.TS Nguyễn Trung Tín:
Một trong số các điều ước đa phương đầu tiên về dẫn độ là điều
ước Amenski năm 1802 với sự tham gia của Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào
Nha và Anh. Sau đó một loạt các điều ước quốc tế được ký kết ở Châu
8
Mỹ, Châu Âu và các Châu lục khác. Việc mở rộng sự hợp tác của các
quốc gia về vấn đề dẫn độ tội phạm được hậu thuẫn bởi sự ra đời và củng
cố các nguyên tắc của chế định dẫn độ tội phạm. Các nguyên tắc “có đi
có lại”, “chuyên môn” và các nguyên tắc khác [42, tr.342].
Trong thời gian ấy, pháp luật về dẫn độ tội phạm có hai mục đích: Một là
công cụ hợp tác của các quốc gia để ngăn chặn tội phạm, hai là công cụ để bảo vệ
chính người bị dẫn độ. Vì vậy, ngay vào các năm 40 của thế kỷ XIX các nước Châu
Âu đã thông qua một nguyên tắc là chỉ dẫn độ các tội phạm hình sự, chứ không dẫn
độ tội phạm chính trị hay những người đào ngũ. Sau chiến tranh thế giới lần thứ
nhất, vào năm 1924, “Ủy ban các chuyên viên về pháp điển hóa tiến bộ về luật pháp
quốc tế” của Hội quốc liên đã dự thảo và kiến nghị ký kết các công ước phổ cập
điều chỉnh vấn đề hợp tác quốc tế về dẫn độ tội phạm. Tuy nhiên, dự thảo này chưa
được ký kết thì Hội quốc liên đã ngừng hoạt động do chiến tranh.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, Tòa án Nuremberg và tòa án Tokyo xét
xử phát xít đã đề cập đến việc dẫn độ tội phạm, do đó năm 1946 Đại hội đồng liên
hợp quốc đã thông qua Nghị quyết áp dụng các biện pháp truy tìm, bắt giữ và dẫn
độ các tội phạm chiến tranh về quốc gia nơi thực hiện tội phạm để xét xử theo pháp
luật quốc gia sở tại. Năm 1947, Đại hội đồng liên hợp quốc tiếp tục thông qua Nghị
quyết về nghĩa vụ của các quốc gia trong việc dẫn độ và chuyển giao tội phạm chiến
tranh cho tòa án xét xử. Trong quá trình phát triển, hàng loạt các công ước quốc tế
về chống tội phạm có tính chất xuyên quốc gia ra đời, trong đó phần quan trọng là
các qui định về dẫn độ tội phạm, như: Công ước về khủng bố, trẻ em, buôn bán ma
túy, buôn bán người…Bên cạnh đó, năm 1990 Đại hội đồng Liên hợp quốc còn
thông qua điều ước mẫu về dẫn độ tội phạm làm cơ sở để các quốc gia tham gia, ký
kết các điều ước quốc tế về đấu tranh chống tội phạm nói chung và dẫn độ tội phạm
nói riêng. Trên cơ sở đó, những điều ước quốc tế đa phương mang tính toàn cầu, các
khu vực cũng đã ký kết các điều ước khu vực, mà tiêu biểu là Công ước quốc tế về
dẫn độ tội phạm châu Âu năm 1957…
Như vậy, cùng với sự phát triển quan hệ hợp tác giữa các quốc gia, qui chế
9
dẫn độ ngày càng được hoàn thiện, phát triển bảo đảm cho việc dẫn độ tội phạm có
hiệu quả, góp phần đấu tranh phòng ngừa tội phạm trên phạm vi toàn cầu cũng như
ở từng quốc gia, khu vực. Sự phát triển, hoàn thiện này thể hiện ở sự gia tăng các
điều ước quốc tế về dẫn độ, trong đó đã cụ thể hóa nhóm người thuộc diện dẫn độ
tội phạm, các phạm trù và các căn cứ dẫn độ cũng được xác định cụ thể hơn. Trong
đó, một nguyên tắc về dẫn độ tội phạm được hình thành và ngày càng được thừa
nhận rộng rãi là nguyên tắc mà theo đó những người thực hiện các hành vi vì động
cơ chính trị và vì thế phải rời khỏi tổ quốc của mình thì không thuộc diện bị dẫn độ.
1.1.1.2. Khái niệm dẫn độ tội phạm
Trong khoa học pháp lý, có nhiều khái niệm về dẫn độ được đưa ra căn cứ
vào phạm vi và cách tiếp cận khác nhau, GS.TSKH Lê Văn Cảm đưa ra khái niệm
dẫn độ khá cơ mở, hàm chứa nhiều nội dung:
Dẫn độ người phạm tội là một chế định của luật hình sự nhằm
tăng cường sự hợp tác giữa các quốc gia trong việc đấu tranh phòng và
chống tội phạm quốc tế và các tội phạm xuyên quốc gia, được thể hiện
trong việc: một quốc gia này (nước được yêu cầu) căn cứ vào các quy
định của Hiệp ước quốc tế về tương trợ tư pháp hình sự đã được ký kết
(hoặc các quy phạm pháp luật quốc tế trong trường hợp Hiệp định tương
ứng chưa được ký kết) chuyển giao người phạm tội đang ở trên lãnh thổ
của nó theo đề nghị của quốc gia kia (nước yêu cầu) mà trên lãnh thổ có
việc thực hiện tội phạm hoặc có người phạm tội là công dân của mình
(nước yêu cầu) để truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành hình phạt
với người ấy [11, tr.230].
Định nghĩa này không chỉ nêu lên đặc điểm của dẫn độ mà còn bao gồm
cả những nội hàm của khái niệm “Chế định dẫn độ” nên nội dung của nó khá
phong phú do tác giả tiếp cận dẫn độ với tư cách là một chế định pháp lý hình sự.
Tuy nhiên, trong giới hạn của việc đưa ra khái niệm “dẫn độ” của luận văn này,
tác giả luận văn chỉ tham khảo những đặc điểm về dẫn độ tội phạm mà định
nghĩa đã nêu ra.
10
Từ điển Oxford đã đưa ra khái niệm “Dẫn độ tội phạm là việc dẫn độ một
người bị buộc tội hoặc bị kết án đối với một tội phạm” [23, tr.14]. Định nghĩa này
về dẫn độ đã thiếu đi tính thuyết phục khi giải thích khái niệm dẫn độ bằng việc lặp
lại chính cụm từ “dẫn độ” (dẫn độ là dẫn độ). Đồng thời, định nghĩa này mới chỉ đề
cập đến đối tượng của dẫn độ mà chưa chỉ ra được chủ thể tiến hành dẫn độ, nguyên
tắc, thủ tục và mục đích của dẫn độ. Đặc biệt, định nghĩa chưa làm rõ được bản chất
của dẫn độ là một quá trình hướng tới mục đích chuyển giao người phạm tội để truy
cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành bản án giữa các quốc gia trong đấu tranh xử
lý tội phạm ở phạm vi toàn cầu.
Từ điển Tiếng Việt cũng đưa ra định nghĩa về dẫn độ, theo đó:“dẫn độ là
việc đưa phạm nhân người nước ngoài bị bắt ở nước mình giao cho cơ quan tư
pháp ở nước ngoài đó xét xử” [23, tr.15]. Tuy nhiên, đây được coi là cách giải thích
chưa hoàn chỉnh về dẫn độ bởi chỉ đề cập đến một nội dung của dẫn độ người phạm
tội để xét xử, trong khi đó, theo pháp luật quốc tế thì việc dẫn độ tội phạm còn
nhằm mục đích đưa người bị kết án trở về nước được yêu cầu để thi hành hình phạt.
Đồng thời, cũng giống như định nghĩa của Từ điển Oxford, định nghĩa này chưa nêu
được nguyên tắc, thủ tục và bản chất của dẫn độ.
Với cách tiếp cận tổng thể, xem xét dẫn độ tội phạm là một hiện tượng xã
hội, một quá trình xuất phát từ nhu cầu thực tiễn đấu tranh xử lý tội phạm giữa các
quốc gia, những định nghĩa về dẫn độ trong các điều ước quốc tế hoặc định nghĩa
do các học giả nước ngoài đưa ra ngắn gọn, đi vào bản chất hơn. Theo Interpol thì
dẫn độ là một quá trình, theo đó một nước (nước được yêu cầu) chuyển giao cá
nhân có mặt trên lãnh thổ của mình cho nước khác (nước yêu cầu) khi nước này
muốn xét xử hoặc thi hành bản án đã được tuyên đối với anh ta [23, tr.15]. Theo
Marjorie Whiteman, một chuyên gia về luật hình sự quốc tế của Mỹ thì: “dẫn độ là quá
trình mà theo đó người mà bị kết tội hoặc bị kết án tù về hành vi phạm tội trái với pháp
luật của một quốc gia và được tìm thấy ở một quốc gia khác sẽ được đưa trở về quốc
gia ban đầu để xét xử hoặc tuyên án” [49, tr.40].
11
Cũng theo xu hướng này, Giáo trình Công pháp quốc tế của Khoa Luật, Đại
học Quốc gia Hà Nội đã định nghĩa “Dẫn độ tội phạm là hành vi chuyển giao thể
nhân đang hiện diện trên lãnh thổ nước mình cho quốc gia yêu cầu nhằm mục đích
tiến hành truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành phán quyết hình sự đã có hiệu
lực pháp luật đối với thể nhân này” [21, tr.324]. Định nghĩa này khẳng định việc
dẫn độ chỉ áp dụng đối cá nhân người phạm tội (thể nhân) chứ không áp dụng đối
với pháp nhân là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật quốc tế về dẫn độ.
Đồng thời, định nghĩa đã nêu được mục đích của dẫn độ không chỉ để truy cứu trách
nhiệm hình sự mà còn để thi hành hình phạt, thông qua đó phần nào phản ánh được
bản chất của dẫn độ. Tuy nhiên, định nghĩa này cũng chưa nêu được đầy đủ nội hàm
của dẫn độ như nguyên tắc, thủ tục…
Trong cuốn “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về luật hình sự quốc tế”,
PGS.TS Nguyễn Trung Tín đưa ra định nghĩa: “Dẫn độ trong luật hình sự quốc tế
được hiểu là việc một quốc gia chuyển trao người bị cáo phạm tội hoặc người bị kết
án (quốc gia nơi những người đó có mặt) cho một quốc gia khác (thường là quốc
gia nơi tội phạm gây ra hoặc là quốc gia đã kết án người đó” [42, tr.335]. Đây là
định nghĩa tuy có cụ thể hơn nhưng mới dừng lại ở việc chỉ ra mục đích của dẫn độ
và phần nào phản ánh được bản chất dẫn độ mà còn thiếu đi những nội dung quan
trọng của dẫn độ.
Từ những phân tích, đánh giá các định nghĩa (nêu trên) về dẫn độ, tác giả
luận văn với cách tiếp tổng thể, dựa vào quy định pháp luật và thực tiễn dẫn độ đưa
ra định nghĩa sau: “Dẫn độ là một quá trình, theo đó, một nước (nước được yêu
cầu) chuyển giao người phạm tội đang có mặt trên lãnh thổ của mình cho nước
khác (nước yêu cầu) để truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành hình phạt
đối với người đó theo các nguyên tắc, thủ tục được qui định trong điều ước quốc
tế và pháp luật quốc gia”.
Định nghĩa này khắc phục được những hạn chế của các định nghĩa đã nêu
trên, do vậy nó phản ánh được đầy đủ bản chất của dẫn độ với các nội hàm sau:
Thứ nhất, mục đích dẫn độ: Định nghĩa nêu trên đã chỉ ra mục đích của dẫn
12
độ là truy cứu trách nhiệm hình sự và thi hành hình phạt đối với người phạm tội.
Hai mục đích này quyết định các nguyên tắc, thủ tục, trình tự dẫn độ trong các điều
ước quốc tế và cũng còn để phân biệt dẫn độ với các khái niệm liên quan, liền kề
trong luật quốc tế, như chuyển giao tội phạm đã bị kết án; chuyển giao vật chứng,
tài liệu hồ sơ vụ án...
Thứ hai, đối tượng của dẫn độ là người thực hiện hành vi phạm tội đang có
mặt ở một quốc gia (quốc gia được yêu cầu dẫn độ) về quốc gia (quốc gia yêu cầu
dẫn độ) để truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành hình phạt. Cũng cần lưu ý là
gần đây, vào những năm 60 của thế kỷ 20 xuất hiện và phát triển ngày càng nhiều
quy định chủ thể tội phạm là pháp nhân trong luật hình sự quốc gia. Tuy nhiên, quy
chế dẫn độ tội phạm trong luật quốc tế, cho đến hiện nay chỉ thừa nhận dẫn độ đối
với thể nhân (cá nhân) người phạm tội, không dẫn độ đối với pháp nhân.
Thứ ba, dẫn độ được thực hiện trên cơ sở các nguyên tắc được xác định do
các bên thỏa thuận trong điều ước quốc tế. Dẫn độ được thực hiện trên cơ sở sự tự
nguyện, thỏa thuận của các quốc gia, nhưng qua quá trình hình thành và phát triển
của chế định này cũng cho thấy việc dẫn độ được thực hiện trên cơ sở các nguyên
tắc được hình thành trong thực tiễn quan hệ quốc tế về dẫn độ. Những nguyên tắc
này được các quốc gia thừa nhận và xác định trong các điều ước quốc tế và nó giữ
vai trò nền tảng, định hướng cho toàn bộ quá trình dẫn độ, cũng như đối với việc
giải quyết các vấn đề pháp lý cụ thể có liên quan trực tiếp đến dẫn độ, như: Các
trường hợp dẫn độ, trường hợp không tiến hành dẫn độ và điều kiện dẫn độ tội
phạm… Ở mức độ khái quát nhất, những nguyên tắc dẫn độ sau được thừa nhận
rộng rãi và mang tính phổ biến như nguyên tắc chủ quyền quốc gia, nguyên tắc có
đi có lại, nguyên tắc không dẫn độ công dân của mình, nguyên tắc tội phạm kép,
nguyên tắc không dẫn độ tội phạm chính trị…
Thứ tư, dẫn độ tội phạm là một quá trình với các thủ tục pháp lý của các bên
liên quan. Dẫn độ liên quan đến pháp luật của các quốc gia và những thỏa thuận
giữa họ với nhau tạo ra hệ thống các thủ tục tố tụng chặt chẽ trong quá trình dẫn độ.
Thủ tục này khác với thủ tục tố tụng giải quyết vụ án hình sự thông thường ở chỗ,
13
ngoài việc tuân theo thủ tục tố tụng hình sự chung, còn phải thực thi những thủ tục
tố tụng được thỏa thuận giữa các quốc gia liên quan về dẫn độ. Do đó, thủ tục dẫn
độ là một trong những đặc điểm, những nội hàm của khái niệm dẫn độ.
1.1.2. Khái niệm chế định dẫn độ
Nếu như khái niệm “dẫn độ” dùng chỉ quá trình chuyển giao người phạm
tội để truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành bản án đối với người đó (như đã
phân tích ở phần trên) thì “chế định dẫn độ” là khái niệm pháp lý để chỉ hệ thống
các quy phạm pháp lý điều chỉnh hoạt động dẫn độ giữa các quốc gia với nhau
trong quan hệ quốc tế. Chế định pháp luật hay định chế pháp luật hoặc chế định là
tập hợp một nhóm quy phạm pháp luật có đặc điểm giống nhau để điều chỉnh nhóm
quan hệ xã hội tương ứng trong phạm vi một ngành luật hoặc nhiều ngành luật. Chế
định có thể được hiểu theo nghĩa rộng hoặc nghĩa hẹp. Nghĩa chung và rộng là các
yếu tố cấu thành cơ cấu pháp lý của thực tại xã hội, nghĩa hẹp là tổng thể các quy
phạm, quy tắc của một vấn đề pháp lý.
Trong các giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật của các cơ sở
đào luật ở Việt Nam cũng đưa ra định nghĩa về chế định pháp luật: “Chế định pháp
luật là nhóm những quy phạm pháp luật điều chỉnh một nhóm các quan hệ xã hội
cùng loại có liên hệ mật thiết với nhau” [46, tr.335] hoặc “Chế định pháp luật bao
gồm một số quy phạm có những đặc điểm chung giống nhau, nhằm điều chỉnh một
nhóm quan hệ xã hội tương ứng” [39, tr 195]… Trên cơ sở cách tiếp cận này thì chế
định dẫn độ tội phạm được hiểu là tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan
hệ dẫn độ tội phạm giữa các quốc gia, chỉ ra phạm vi tồn tại của các quy định làm
cơ sở cho việc dẫn độ giữa các quốc gia trong quan hệ quốc tế. Do đặc trưng của
hoạt động dẫn độ thể hiện nội dung ngoài biên giới của các quốc gia nên chế định
dẫn độ tội phạm mang tính tổng hợp vừa bao gồm các quy phạm pháp luật quốc tế
vừa bao gồm các quy phạm của quốc gia.
Trong khoa học luật hình sự và khoa học luật quốc tế, các nhà khoa học còn
có nhiều cách hiểu khác nhau về chế định dẫn độ. Có quan điểm cho rằng, dẫn độ là
chế định thuộc ngành luật nhà nước hoặc ngành luật hành chính, vì quyết định về
14
vấn đề dẫn độ thường không phải là Toà án, mà là Chính phủ hoặc một cơ quan
hành pháp nào đó của Chính phủ. Có quan điểm cho rằng, dẫn độ là chế định thuộc
luật tố tụng hình sự, vì khi dẫn độ người phạm tội cho một nước khác, các cơ quan
chức năng phải tuân thủ những bảo đảm nhất định về mặt tố tụng. Có quan điểm lại
cho rằng, dẫn độ là một bộ phận hợp thành của luật hình sự, vì thuộc chế định thi
hành hình phạt . Hiểu dẫn độ theo những quan điểm này là chính xác. Bởi lẽ, dẫn
độ không chỉ nhằm mục đích thi hành hình phạt mà còn nhằm xét xử người bị dẫn
độ. Từ phân tích này GS.TSKH Lê Văn Cảm khẳng định: “Dẫn độ người phạm tội
là một chế định của luật hình sự nhằm tăng cường sự hợp tác giữa các quốc gia
trong việc đấu tranh phòng và chống tội phạm quốc tế và các tội phạm xuyên quốc
gia”… [11, tr.230].
Khái niệm khoa học về chế định dẫn độ nêu trên của GS.TSKH Lê Văn Cảm
tương đối đầy đủ, phản ánh được bản chất, nội dung chủ yếu của dẫn độ và nguồn
pháp luật điều chỉnh hoạt động dẫn độ trong hợp tác quốc tế. Chia sẻ cách tiếp cận
này của GS.TSKH Lê Văn Cảm, tác giả luận văn cho rằng những nội hàm của khái
niệm “chế định dẫn độ” gồm: Thứ nhất, dẫn độ không đơn thuần là chế định thuộc
luật hình sự mà là chế định mang tính chất liên ngành của luật hình sự, luật TTHS,
Luật hành chính và Luật quốc tế. Theo quan niệm truyền thống, luật hình sự được
hiểu một cách chung nhất là một ngành luật điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan
đến tội phạm và các biện pháp trách nhiệm hình sự. Trong khi đó, dẫn độ là một quá
trình mang tính động, liên quan đến việc chuyển giao người phạm tội từ nước này
(nước được yêu cầu) đến nước khác (nước yêu cầu) nhằm xét xử hoặc thi hành án.
Do vậy, bên cạnh các qui định về tội phạm và hình phạt của luật hình sự được dùng
làm căn cứ để xác định những tội phạm trong phạm vi dẫn độ còn có các quy định
về thẩm quyền (cơ quan nào có thẩm quyền dẫn độ, phạm vi và mức độ thẩm quyền
của các cơ quan tham gia vào hoạt động dẫn độ ở một quốc gia), quy định về thủ
tục, trình tự, thời hạn dẫn độ… Những quy định này không thuộc phạm vi điều
chỉnh của các quy phạm pháp luật hình sự mà thuộc về luật hành chính, luật TTHS
nên dẫn độ là chế định liên ngành chứ không phải chỉ chế định của luật hình sự. Thứ
hai, căn cứ để dẫn độ không chỉ là các quy định trong các điều ước quốc tế về dẫn
15
độ, mà các quốc gia còn tiến hành dẫn độ cho nhau dựa trên nguyên tắc có đi có lại
khi chưa hoặc không thể ký kết các điều ước quốc tế liên quan đến dẫn độ. Vì vậy,
bên cạnh các điều ước quốc tế về dẫn độ giữa các quốc gia còn có các quy phạm
pháp luật quốc tế chung được sử dụng làm cơ sở cho các thỏa thuận dẫn độ đối với
từng trường hợp cụ thể khi giữa các quốc gia chưa có hiệp định về dẫn độ.
Từ phân tích trên có thể định nghĩa chế định dẫn độ như sau: Chế định dẫn
độ là tổng hợp các quy pháp phạm pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia điều
chỉnh hoạt động dẫn độ giữa các quốc gia, trong đó, một nước (nước được yêu cầu)
chuyển giao người phạm tội đang có mặt trên lãnh thổ của mình cho nước khác
(nước yêu cầu) để nước được chuyển giao tiến hành xét xử hoặc thi hành hình phạt
đối với người đó.
Định nghĩa này phản ánh những đặc trưng sau của chế định dẫn độ:
a. Chế định dẫn độ bao gồm tổng hợp các qui phạm pháp luật quốc tế và
pháp luật quốc gia
Trong khoa học pháp lý quốc tế có những quan điểm khác nhau về nguồn
của chế định dẫn độ tội phạm, nói cách khác là cơ sở của dẫn độ. Đây là vấn đề
phức tạp và chỉ khi xác định được rõ cơ sở của dẫn độ thì mới xác định được một
quốc gia có nghĩa vụ dẫn độ khi có yêu cầu hay không. Các nhà nghiên cứu về vấn
đề này đã đưa ra nhiều quan điểm về cơ sở của dẫn độ. Nhóm quan điểm thứ nhất
cho rằng cơ sở của dẫn độ chính là các điều ước quốc tế. Theo đó, các quốc gia
không có quyền cũng như nghĩa vụ phải dẫn độ người phạm tội nếu không có một
văn bản pháp lý quốc tế do quốc gia đó ký kết hoặc thừa nhận quy định quốc gia
đó có trách nhiệm trong việc dẫn độ tội phạm. Nhóm quan điểm thứ hai cho rằng,
cơ sở của dẫn độ tội phạm là pháp luật của mỗi quốc gia. Trong hệ thống pháp luật
của mỗi nước, các quốc gia tự xây dựng cho mình những quy định về dẫn độ,
trong đó chỉ ra những tội phạm bị dẫn độ, các trường hợp dẫn độ và từ chối dẫn
độ, trình tự, thủ tục của việc dẫn độ… Khi có các vấn đề về dẫn độ tội phạm phát
sinh, các quốc gia sẽ dựa vào những quy định này để giải quyết các yêu cầu liên
quan đến dẫn độ tội phạm.
16
Thực tế cho thấy, dẫn độ là quyền thuộc chủ quyền của mỗi quốc gia, tức là một
quốc gia hoàn toàn có quyền tự quyết định việc có hay không dẫn độ người phạm tội
theo yêu cầu của một nước khác. Tuy nhiên, mỗi một quốc gia bất kỳ đều quan tâm tới
việc trấn áp tội phạm mà pháp luật của mình đã ghi nhận. Trong trường hợp tội phạm
như vậy có mặt ở lãnh thổ quốc gia khác thì việc bắt giữ người phạm tội và dẫn độ về
quốc gia trên chỉ có thể thực hiện khi có điều ước quốc tế giữa hai quốc gia hữu quan,
bởi vì điều ước thường ghi nhận quyền và nghĩa vụ qua lại giữa các bên. Đối với những
quốc gia chưa ký kết điều ước quốc tế về dẫn độ thì việc dẫn độ có thể được thực hiện
trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản về dẫn độ được ghi nhận trong pháp luật quốc tế.
Trong trường hợp này, các quy phạm của luật quốc gia về dẫn độ mặc dù không phải là
cơ sở pháp lý trực tiếp để quốc gia thực hiện việc dẫn độ nhưng nó là cơ sở để quốc gia
yêu cầu dẫn độ quốc tế thực hiện yêu cầu của mình với điều kiện phù hợp với luật quốc
tế. Đây cũng là cơ sở để các quốc gia ký kết hay gia nhập các điều ước quốc tế về dẫn
độ tội phạm. Như vậy, cơ sở của dẫn độ tội phạm gồm có: các điều ước quốc tế, pháp
luật quốc gia và các nguyên tắc quốc tế về dẫn độ tội phạm.
b. Chế định dẫn độ điều chỉnh quan hệ giữa các quốc gia trong hoạt động dẫn độ
Là tổng hợp các qui phạm pháp luật quốc tế và quốc gia, chế định dẫn độ
tội phạm điều chỉnh các nội dung của quan hệ giữa các quốc gia về dẫn độ, đó là:
Nghĩa vụ dẫn độ, đối tượng dẫn độ, điều kiện, thủ tục dẫn độ và những vấn đề
khác có liên quan…
Nghĩa vụ dẫn độ
Trong quan hệ quốc tế, nghĩa vụ dẫn độ là một trong những nội dung quan
trọng của các điều ước quốc tế đa phương về dẫn độ. Theo đó, các điều ước này
hướng các quốc gia tới việc coi hoạt động dẫn độ như là một nghĩa vụ phải thực hiện
giữa các quốc gia thành viên. Khi phát sinh nhu cầu dẫn độ giữa hai nước thì nước
được yêu cầu sẽ tiến hành dẫn độ một cá nhân đang có mặt trên lãnh thổ quốc gia
mình cho nước yêu cầu nhằm thực hiện việc xét xử hoặc thi hành bản án đã có hiệu
lực pháp luật đối với cá nhân đó theo pháp luật của quốc gia đưa ra yêu cầu. Như đã
17
phân tích, dẫn độ được hình thành từ nhu cầu hợp tác giữa các quốc gia trong việc
đấu tranh phòng chống tội phạm. Theo đó, các quy định về dẫn độ thường thể hiện
tính ràng buộc về quyền và nghĩa vụ giữa các quốc gia trong hoạt động dẫn độ. Hiện
nay, các quy định của pháp luật về dẫn độ vừa tồn tại trong pháp luật quốc tế vừa tồn
tại trong pháp luật hình sự và tố tụng hình sự của quốc gia. Như vậy, nghĩa vụ dẫn độ
là một trong những nội dung điều chỉnh của chế định dẫn độ.
Đối tượng của dẫn độ
Việc quy định về đối tượng dẫn độ sẽ giúp các quốc gia thành viên trong các
điều ước quốc tế đưa ra yêu cầu dẫn độ phù hợp với loại tội phạm mà các quốc gia
đã xác định trong các điều ước. Thông thường các điều ước quốc tế chuyên môn sẽ
quy định đối tượng dẫn độ cụ thể là các loại tội phạm liên quan đến lĩnh vực chuyên
môn đó. Còn các điều ước quốc tế khác cũng sẽ ghi nhận đối tượng dẫn độ theo sự
thoả thuận của các quốc gia thành viên.
Điều kiện dẫn độ
Tuy dẫn độ tội phạm là nghĩa vụ quốc gia, nhưng khi tiến hành nó phụ thuộc
vào những điều kiện chung của pháp luật quốc tế cũng như những điều kiện trong
thỏa thuận riêng giữa các quốc gia. Những điều kiện đó thể hiện tập trung rõ nét
nhất ở các nguyên tắc của dẫn độ, như: Nguyên tắc chủ quyền quốc gia, nguyên tắc
có đi có lại, nguyên tắc tội phạm kép, nguyên tắc không dẫn độ công dân nước
mình, nguyên tắc không dẫn độ tội phạm chính trị… Ngoài ra, trong mỗi điều ước
quốc tế song phương, đa phương cụ thể về dẫn độ, các quốc gia còn đưa ra những
trường hợp mà quốc gia được yêu cầu có quyền từ chối dẫn độ như không dẫn độ
người phạm tội quân sự, người bị buộc tội hoặc kết án hay bất kỳ tội nào khác mà vì
đó người này bị giam giữ hoặc xét xử, có hình phạt tử hình theo pháp luật của nước
yêu cầu; người bị dẫn độ có thể bị tra tấn bởi nước yêu cầu….
Thủ tục dẫn độ
Thủ tục dẫn độ là một trong những vấn đề được các quốc gia đặc biệt quan
tâm. Thực tiễn cho thấy, các quy định về trình tự, thủ tục dẫn độ thường thuộc nội
18
dung điều chỉnh của pháp luật quốc gia. Tuy nhiên, việc đưa ra các quy định này
trong các văn bản pháp luật của quốc gia và việc đáp ứng nhỏ lẻ, riêng rẽ như vậy
đã gây ra rất nhiều khó khăn cho các quốc gia khác trong việc đưa ra yêu cầu về dẫn
độ. Chính vì vậy, trong quá trình thực hiện dẫn độ, các quốc gia đã thừa nhận những
thủ tục chung của yêu cầu dẫn độ tội phạm trong các điều ước quốc tế đa phương về
dẫn độ nhằm giúp cho hoạt động dẫn độ giữa các quốc gia thuận lợi, có hiệu quả.
c. Phân biệt chế định dẫn độ với các chế định khác có liên quan
- Chuyển giao tội phạm đã bị kết án
Chuyển giao tội phạm đã bị kết án và dẫn độ là hai chế định pháp lý khác
nhau về điều kiện, thủ tục và mục đích thực hiện. Chuyển giao tội phạm đã bị kết án
là việc cho phép các phạm nhân bị kết án ở nước ngoài được trở về nước nơi họ
mang quốc tịch hoặc nơi họ có mối quan hệ thân thiết để thi hành bản án đã có hiệu
lực pháp luật. Nhu cầu chuyển giao tội phạm đã bị kết án xuất phát từ nhiều lý do
khác nhau như việc thi hành bản án đối với phạm nhân là người nước ngoài thường
gây ra rất nhiều khó khăn cho nước sở tại về điều kiện thi hành bản án; quan hệ đối
ngoại giữa các nước; trách nhiệm của các nhà chức trách nước ngoài đối với công
dân của mình; vấn đề giáo dục người bị kết án tại cộng đồng sau khi đã thi hành
xong bản án... Quan điểm chung được thừa nhận trong cộng đồng quốc tế là việc
chuyển giao người phạm tội đã bị kết án sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc hoàn
lương và tái hòa nhập cộng đồng của người phạm tội nhanh hơn khi họ thụ án ở
nước kết án.
Trong khuôn khổ luật quốc tế đã có Công ước về chuyển giao cá nhân bị kết
án tù giam được thông qua năm 1978 tại Beclin, Công ước Châu Âu về chuyển giao
tù phạm thông qua năm 1983, Đại hội đồng Liên hợp quốc cũng đã thông qua hiệp
ước quốc tế mẫu về chuyển giao từ phạm nước ngoài năm 1985 [21, tr.342]. Theo
các văn bản này, việc chuyển giao phạm nhân quốc tế cần đảm bảo các điều kiện
sau: thứ nhất, phạm nhân phải là công dân của nước nơi anh ta sẽ chuyển về; thứ
hai, phạm nhân đã có bản án có hiệu lực pháp luật; thứ ba, việc chuyển giao chỉ
được thực hiện khi có sự đồng ý của nước có tòa án đưa ra phán quyết và nước mà
19
người phạm tội là công dân. Trong hầu hết các điều ước quốc tế về việc chuyển giao
phạm nhân, các quốc gia còn thỏa thuận việc chuyển giao cần có sự đồng ý của bản
thân phạm nhân. Bởi lẽ, nếu phạm nhân bị cưỡng chế chuyển giao thì mục tiêu trợ
giúp phạm nhân cải tạo và đẩy nhanh quá tình hoà nhập cộng đồng sẽ không đạt
được. Hơn nữa, sẽ nhân đạo nếu cho phép phạm nhân được thi hành bản án tại nước
mà anh ta có mối quan hệ gần gũi nếu anh ta muốn được như vậy.
- Trao đổi tội phạm
Khái niệm trao đổi tội phạm được hiểu là “các hành vi của các quốc gia dựa
trên cơ sở chủ quyền và quyền lợi quốc gia chấp nhận trao đổi với nhau các cá nhân
phạm tội” [21, tr.341]. Việc trao đổi như vậy thực hiện với sự tuân thủ nguyên tắc
tương xứng. Trong thực tiễn quan hệ quốc tế, việc trao đổi tội phạm có tính chất chính
trị nhiều hơn là pháp lý, có thể khẳng định tính chất chính trị chi phối toàn bộ các hoạt
động của các quốc gia trong quyết định trao đổi tội phạm. Điểm đặc biệt của trao đổi
tội phạm là việc một quốc gia sẽ trao những người phạm tội là công dân nước khác cho
quốc gia của những người đó với điều kiện quốc gia được trao trả cũng phải giao
những công dân của họ. Do đó, sự trao đổi có tính chất hai phía, và sự tương xứng
trong trao đổi tội phạm phải đảm bảo cả hai tiêu chí số lượng chất lượng. Chính vì vậy
mà các tội phạm được tiến hành trao đổi chủ yếu là các tội phạm trong thời kỳ chiến
tranh hoặc là tù nhân chiến tranh của hai quốc gia. Trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, việc
trao đổi tội phạm được thực hiện nhiều nhất, khoảng thập niên 60 hoặc 70 của thế kỷ
20, Liên xô và mỹ đã nhiều lần tiến hành trao đổi tội phạm, giữa các nước thuộc khối
Vacsava và NATO cũng phát sinh nhiều trường hợp trao đổi kiểu này [21, tr.342].
- Trao trả tội phạm
Trao trả tội phạm là khái niệm pháp lý luôn gắn liền với hành vi chiếm đoạt
phương tiện bay. Về bản chất pháp lý, trao trả tội phạm được hiểu là thủ tục dẫn độ
rút gọn đối với các cá nhân thực hiện hành vi “bắt cóc” phương tiện bay cho quốc
gia đăng tịch phương tiện bay [21, tr.342]. Trong quan hệ trao trả tội phạm xuất
hiện hai loại chủ thế, chủ thể yêu cầu trao trả tội phạm là quốc gia đăng tịch phương
tiện bay, còn chủ thể được yêu cầu là quốc gia nơi phương tiện bay bị chiếm đoạt
20
bất hợp pháp đã hạ cánh. Có thể nói đây là hình thức trợ giúp pháp lý đặc thù trong
hợp tác quốc tế chống tội phạm. Quá trình trao trả tội phạm được điều chỉnh lần đầu
tiên tại các điều ước quốc tế song phương về hợp tác ngăn chặn các hành vi chiếm
đoạt phương tiện bay dân sự được ký kết giữa các quốc gia.
1.2. NỘI DUNG CỦA CHẾ ĐỊNH DẪN ĐỘ
1.2.1. Cơ sở dẫn độ
1.2.1.1. Điều ước quốc tế
Các điều ước quốc tế có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc dẫn độ tội
phạm. Đây được coi là cơ sở pháp lý để các quốc gia tiến hành dẫn độ một cách
nhanh chóng và hiệu quả. Nếu không có điều ước quốc tế thì các quốc gia vẫn có
thể tiến hành dẫn độ trên cơ sở áp dụng nguyên tắc có đi có lại. Tuy nhiên, việc áp
dụng nguyên tắc có đi có lại không phải bao giờ cũng được thực hiện một cách dễ
dàng, đặc biệt đối với các nước ở các hệ thống pháp luật khác nhau. Chẳng hạn, các
nước theo hệ thống pháp luật Civil – law thì chấp nhận nguyên tắc có đi có lại, các
nước theo hệ thống pháp luật Common – law thì chỉ chấp nhận dẫn độ khi nước yêu
cầu và nước được yêu cầu đã ký kết hiệp định dẫn độ. Khi đã ký kết các điều ước
quốc tế, tức là nghĩa vụ dẫn độ tội phạm đã được ấn định rõ ràng và họ sẽ không có
quyền từ chối dẫn độ khi các điều kiện đã thỏa mãn với nội dung của điều ước. Điều
ước quốc tế cũng là một trong những văn bản quy định rất chặt chẽ về thủ tục dẫn
độ. Theo đó, các quốc gia có thể thực hiện việc dẫn độ theo một quy trình thống
nhất. Hiện nay, các điều ước quốc tế về dẫn độ có hai loại là các hiệp định song
phương và các công ước đa phương. Các công ước đa phương về dẫn độ hiện đại đã
được ký kết từ những năm sáu mươi của thế kỷ này, có thể kể đến các công ước dẫn
độ thuần túy như Công ước Châu Âu về dẫn độ tội phạm năm 1957, Công ước của
các nước châu Mỹ về dẫn độ năm 1981, Công ước về dẫn độ của các nước thuộc
Liên đoàn Ả rập, công ước về dẫn độ của Cộng đồng kinh tế các nước Tây Phi...
Ngoài ra, một số quốc gia còn ký kết các điều ước có chứa các quy định liên quan
đến dẫn độ để điều chỉnh vấn đề này. Các công ước này thường quy định nhiều nội
dung về tương trợ tư pháp giữa các quốc gia trong đó có cả vấn đề về dẫn độ tội
21
phạm. Có thể kể đến một số công ước như ba Công ước của Liên Hợp Quốc về
kiểm soát ma tuý năm 1961, 1971 và 1982, Công ước đa phương về các tội phạm và
một số hành vi khác thực hiện trên tàu bay năm 1963; Công ước La Hay về trấn áp
hành vi chiếm giữ bất hợp pháp tàu bay năm 1970; Công ước đa phương trấn áp
hành vi bất hợp pháp xâm phạm an toàn hàng không dân dụng năm 1971; Công ước
về phòng ngừa và trấn áp các tội chống lại người được hưởng sự bảo hộ quốc tế, kể
cả viên chức ngoại giao năm 1973; Công ước quốc tế về chống bắt cóc con tin năm
1979; Công ước quốc tế về trấn áp hành vi khủng bố bằng bom năm 1997; Công
ước quốc tế về trấn áp hành vi tài trợ cho khủng bố năm 1999...
1.2.1.2. Pháp luật quốc gia
Trước xu thế hội nhập quốc tế, việc các quốc gia tự xây dựng cho mình những
đạo luật riêng biệt điều chỉnh vấn đề dẫn độ tội phạm là cần thiết. Các đạo luật này
thường chứa các quy định xác định rõ các tội phạm thuộc diện dẫn độ quốc tế, hoặc là
thống kê các loại tội phạm mà việc dẫn độ quốc tế không được đảm bảo. Khi các
quốc gia chưa ký kết các điều ước quốc tế, thì các đạo luật về dẫn độ tội phạm của
quốc gia được coi là một trong những cơ sở để quốc gia thực hiện dẫn độ tội phạm
cùng với việc áp dụng các nguyên tắc khác của luật quốc tế về dẫn độ. Đây cũng
được coi là một trong những nguồn tham khảo mà các quốc gia có thể sử dụng khi
xây dựng các nội dung của các điều ước quốc tế về dẫn độ tội phạm. Tuy nhiên, các
đạo luật quốc gia không phải là cơ sở pháp lý trực tiếp để các quốc gia thực hiện dẫn
độ. Khi quốc gia đã tham gia các điều ước quốc tế, thì các quy định của điều ước sẽ
được thực hiện thay vì áp dụng các quy tắc về dẫn độ của luật quốc gia.
Về phạm vi, các quy phạm dẫn độ của quốc gia thường quy định các nội
dung về thủ tục dẫn độ, điều kiện và các nguyên tắc dẫn độ… Về hình thức, các quy
định pháp luật quốc gia về dẫn độ có thể được chứa đựng trong một đạo luật riêng
về dẫn độ, hoặc có thể được quy định chung trong pháp luật tố tụng hình sự, hoặc
được qui định riêng rẽ trong Luật hình sự, Luật tổ chức hành chính, Luật TTHS…
với những nội dung tương ứng phù hợp với phạm vi điều chỉnh của từng ngành luật
mà Việt nam là một ví dụ.
22
1.2.1.3. Quan hệ thân thiện có đi có lại giữa các quốc gia
Đây là một trong những nguyên tắc được thừa nhận rộng rãi của luật quốc tế về
dẫn độ. Nguyên tắc có đi có lại với tính chất là cơ sở quan trọng để các quốc gia xây
dựng các quy định của điều ước quốc tế về dẫn độ quốc tế. Khi phát sinh nhu cầu dẫn
độ người phạm tội mà giữa các nước chưa có điều ước quốc tế quy định về dẫn độ thì
nguyên tắc có đi có lại được coi là quy phạm trực tiếp điều chỉnh vẫn đề dẫn giữa hai
quốc gia đó trên cơ sở thực tiễn thông lệ quốc tế chung. Theo đó, một quốc gia sẽ dẫn
độ tội phạm cho quốc gia yêu cầu nếu quốc gia đó cam kết sẽ thực hiện dẫn độ khi có
điều kiện tương tự. (Xem thêm nguyên tắc có đi có lại mục 1.2.2.2 luận văn này).
1.2.2. Các nguyên tắc của dẫn độ
1.2.2.1. Nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia
Chủ quyền quốc gia là tối cao và bất khả xâm phạm thể hiện qua quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp. Đây là nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế cũng
như hoạt động dẫn độ tội phạm. Nội dung của nguyên tắc này được thể hiện trong
tuyên bố của Liên Hợp Quốc về các nguyên tắc của luật quốc tế năm 1970 với các
yếu tố sau: 1) Về mặt pháp lí các quốc gia đều bình đẳng; 2) Mỗi nước đều sử dụng
các quyền thuộc chủ quyền đầy đủ; 3) Mỗi nước có nghĩa vụ tôn trọng quyền năng
chủ thể của các nước khác; 4) Tính toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị của nhà
nước là bất khả xâm phạm; 5) Mỗi nước có quyền tự do lựa chọn và phát triển chế
độ chính trị, xã hội, kinh tế và văn hoá của mình; 6) Mỗi nước có nghĩa vụ thực hiện
nghiêm chỉnh nghĩa vụ quốc tế của mình và sống trong hoà bình với các nước khác.
Trong hoạt động dẫn độ nguyên tắc này được thể hiện như sau: khi một quốc gia
nhận được một yêu cầu dẫn độ thì quốc gia đó có quyền từ chối hay chấp nhận tùy
vào pháp luật dẫn độ của nước mình hay các điều ước quốc tế mà mình đã ký kết
hoặc tham gia. Quốc gia yêu cầu chỉ được tiếp nhận đối tượng sau khi quốc gia
được yêu cầu thực hiện xong các hoạt động liên quan đến dẫn độ. Do dẫn độ tội
phạm là vấn đề trực tiếp có ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của mỗi quốc gia, nó
không tồn tại dưới dạng nghĩa vụ pháp lý trong quan hệ với các quốc gia khác nên
quốc gia được yêu cầu sẽ không buộc phải dẫn độ người phạm tội nếu quốc gia này
không muốn làm việc đó.
23
Tuy nhiên, cũng cần nhận thấy rằng, mỗi quốc gia không thể tồn tại riêng lẻ
mà không có sự hợp tác, chia sẻ với các quốc gia khác. Trong công cuộc đấu tranh
phòng chống tội phạm đang phát triển ở phạm vi toàn cầu thì nhu cầu về sự hợp tác
giữa các quốc gia để dẫn độ những người phạm tội càng trở nên cần thiết hơn bao
giờ hết, bởi mỗi quốc gia không thể đảm bảo trong mọi trường hợp đều có thể tiến
hành xử lý hình sự đối với người phạm tội khi người đó có thể tự do di chuyển từ
quốc gia này sang quốc gia khác. Trong trường hợp này, yếu tố chủ quyền quốc gia
trong lĩnh vực dẫn độ tội phạm thường được thể hiện một cách linh hoạt thông qua
việc các quốc gia sử dụng nguyên tắc có đi có lại hoặc đàm phán, ký kết hoặc gia
nhập các điều ước quốc tế về dẫn độ để thực hiện dẫn độ người phạm tội cho một
bên phù hợp để bên đó tiến hành truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành hình
phạt đối với người phạm tội.
1.2.2.2. Nguyên tắc có đi có lại
Đây là nguyên tắc pháp lý cần thiết để đảm bảo việc dẫn độ tội phạm có hiệu
quả. Nội dung của nguyên tắc này quy định: nước được yêu cầu dẫn độ sẽ chấp
nhận dẫn độ với sự đảm bảo rằng nước có yêu cầu giúp đỡ cũng sẽ chấp nhận và
thực hiện một yêu cầu như vậy của nước được yêu cầu trong tương lai. Cơ sở của sự
có đi có lại trong hoạt động dẫn độ tội phạm giữa các quốc gia chính là nguyên tắc
tôn trọng quyền bình đẳng và chủ quyền giữa các quốc gia. Bởi thực chất vấn đề
dẫn độ không tạo ra sự bắt buộc phải thực hiện yêu cầu dẫn độ giữa quốc gia yêu
cầu với quốc gia được yêu cầu mà thể hiện sự thiện ý, thỏa thuận và thống nhất giữa
các quốc gia. Tuy nhiên, nguyên tắc này không đồng nghĩa với sự trao đổi ngang
bằng và ngay lập tức, mà tùy từng trường hợp để quyết định có thực hiện yêu cầu
hợp tác của bên đối tác hay không. Nguyên tắc có đi có lại thường được ghi nhận
trong các đạo luật quốc gia của các nước như: Luật về dẫn độ tội phạm năm 1958
của Tây Ban Nha, đạo luật năm 1870 của đại công quốc Luxembua, đạo luật năm
1954 của Ixraen, Bộ luật tố tụng hình sự của Tây Ban Nha, Luật tương trợ tư pháp
năm 2007 của Việt Nam.…
24
Nguyên tắc có đi có lại là nguyên tắc bao trùm, định hướng cho các quốc gia
trong việc ký kết các điều ước cũng như xây dựng các quy định liên quan đến dẫn
độ đồng thời xác định các trường hợp có thể dẫn độ khi một quốc gia nhận được
yêu cầu dẫn độ, nhất là khi giữa các quốc gia chưa ký kết các điều ước quốc tế quy
định các nội dung về dẫn độ. Thực tế cho thấy, khi hai quốc gia chưa có các điều
ước về dẫn độ thì nguyên tắc có đi có lại được coi là cơ sở quan trọng để các quốc
gia thực hiện dẫn độ người phạm tội. Tuy nhiên, việc áp dụng nguyên tắc này cũng
có thể đưa đến rủi ro nhất định như việc nước yêu cầu không thực hiện đúng cam
kết của mình (dẫn độ trong trường hợp tương tự) có thể làm ảnh hưởng đến quan hệ
ngoại giao của hai nước hoặc khi hai nước chưa có hiệp định về dẫn độ mà luật một
nước quy định chỉ áp dụng việc dẫn độ theo điều ước quốc tế thì việc áp dụng
nguyên tắc có đi có lại để dẫn độ người phạm tội trong trường hợp này rất khó thực
hiện. Do đó, các nước theo hệ thống pháp luật Common law chỉ dẫn độ khi nước
yêu cầu và nước được yêu cầu đã ký kết các hiệp ước song phương về dẫn độ, trong
khi các nước theo hệ thống pháp luật Civil law lại coi nguyên tắc có đi có lại là cơ
sở để giải quyết các trường hợp dẫn độ tội phạm giữa các quốc gia khi các nước này
chưa có hiệp ước về dẫn độ.
1.2.2.3. Nguyên tắc định tội danh kép
Đây là nguyên tắc đặc thù trong dẫn độ tội phạm được hầu hết các nước áp
dụng. Nội dung của nguyên tắc này là đối tượng bị yêu cầu dẫn độ chỉ có thể được
dẫn độ khi hành vi của họ được định danh là hành vi tội phạm theo luật quốc gia
của cả nước yêu cầu và nước nhận được yêu cầu dẫn độ. Nếu pháp luật của hai nước
không thỏa mãn điều kiện này thì quốc gia được yêu cầu có quyền từ chối dẫn độ.
Như vậy, quốc gia yêu cầu không thể yêu cầu dẫn độ người phạm tội nếu như hành
vi của người đó không cấu thành tội phạm theo pháp luật nước mình, ngược lại,
quốc gia được yêu cầu cũng có quyền từ chối dẫn độ nếu hành vi của người bị yêu
cầu không cấu thành tội phạm theo pháp luật của quốc gia đó. Thêm vào đó, tội
phạm mà người bị dẫn độ thực hiện phải được định mức hình phạt cụ thể phù hợp
pháp luật của cả hai nước được thể hiện trong luật quốc gia của mỗi nước hoặc theo
thỏa thuận giữa các quốc gia trong điều ước quốc tế đã được ký kết.
25
Quy định về định tội danh kép được các quốc gia sử dụng khá phổ biến trong
các hiệp ước song phương và đa phương về dẫn độ. Tuy nhiên, việc áp dụng nguyên
tắc này cũng có những khó khăn nhất định khi hệ thống pháp luật của các quốc gia
không có sự tương đồng. Trên thực tế, luật pháp của các quốc gia khác nhau thường
sẽ có sự khác nhau trong việc định nghĩa và phân loại hành vi phạm tội, hoặc cùng
hành vi sẽ bị trừng phạt bằng hình luật thì lại được gọi bằng tên tội phạm khác
nhau. Trong khi đó vì nguyên tắc độc lập chủ quyền, các quốc gia không thể điều
tra hệ thống pháp luật của nhau để xác định sự phù hợp của tội phạm bị dẫn độ.
Ngoài ra, nếu thời hiệu tố tụng hình sự đã chấm dứt hoặc có các đao luật ân xá theo
pháp luật của một trong hai nước thì việc truy cứu trách nhiệm hình sự cũng không
thể thực hiện được. Điểm c khoản 1 Điều 3 hiệp định về dẫn độ giữa Việt Nam và
Hàn Quốc cũng đã quy định rõ về vấn đề này: “Khi việc truy cứu trách nhiệm hình
sự hay áp dụng hình phạt đối với tội phạm được yêu cầu dẫn độ bị cản trở do quy
định về thời hiệu pháp luật của bên được yêu cầu quy định đối với tội phạm như vậy
nếu tội đó cũng được thực hiện tại Bên được yêu cầu”.
Để khắc phục tình trạng này, các quốc gia thường tiến hành so sánh hệ thống
pháp luật của nhau để tìm ra điểm tương đồng trong các tội phạm được yêu cầu dẫn
độ. Theo đó, không nhất thiết các tội phạm được định danh hay có cấu thành tội
phạm phải giống nhau tuyệt đối mà chỉ cần có một số điểm tương đồng thì các quốc
gia có thể tiến hành dẫn độ. Quan điểm này được nhiều quốc gia ủng hộ bởi bản
chất của nguyên tắc tội phạm kép là sự thống nhất về nội dung hành vi của tội phạm
chứ không phải là sự trùng hợp về tên gọi của tội phạm.
Nguyên tắc dẫn độ tội phạm kép được mở rộng trong cả trường hợp v́ một số
lư do khách quan như vị trí tự nhiên hay các điều kiện kinh tế xã hội mà trong hệ
thống pháp luật của nước được yêu cầu không quy định tội phạm được yêu cầu dẫn
độ. Ví dụ, Lào là quốc gia không có biển nên BLHS của Lào không quy định tội
cướp biển, trong trường hợp này nếu vận dụng nguyên tắc tội phạm kép thì sẽ
không thực hiện được việc dẫn độ nếu một quốc gia khác yêu cầu Lào dẫn độ người
phạm tội cướp biển. Tuy nhiên, các quốc gia cần linh hoạt để đảm bảo tội phạm
không có cơ hội được trốn thoát.
26
1.2.2.4. Nguyên tắc không dẫn độ công dân nước mình
Việc điều chỉnh vấn đề dẫn độ luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với quốc
tịch cá nhân bị yêu cầu dẫn độ. Nội dung của nguyên tắc không dẫn độ công dân
của quốc gia được yêu cầu là: nếu người được yêu cầu dẫn độ là công dân của quốc
gia được yêu cầu thì nước này có quyền từ chối dẫn độ người đó cho nước yêu cầu.
Nguyên tắc này thường được đặt ra khi đối tượng bị dẫn độ là các cá nhân đã thực
hiện hành vi phạm tội và bị xét xử hoặc người bị tình nghi thực hiện hành vi tội
phạm đang lẩn trốn ở ngoài lãnh thổ của quốc gia yêu cầu dẫn độ và cư trú tại quốc
gia anh ta là công dân.
Nguyên tắc không dẫn độ công dân được ghi nhận trong rất nhiều các văn
bản pháp lý quốc tế cũng như trong pháp luật của các quốc gia về dẫn độ.
Điều 6 (1), công ước Châu Âu năm 1957 về dẫn độ tội phạm quy định: “mỗi
bên ký kết có quyền từ chối dẫn độ công dân của mình”.
Điểm a, Điều 4 – Hiệp định dẫn độ mẫu của Liên Hiệp Quốc quy định: “việc
dẫn độ có thể bị từ chối: a) Nếu người bị yêu cầu dẫn độ là người người của nước
được yêu cầu.
Các văn bản khác như Tuyên bố chung của hội nghị quốc tế lần thứ III về
thống nhất hóa luật quốc tế, Công ước năm 1948 về tội phạm diệt chủng, Quy chế
của các tòa án quân sự quốc tế Nurumberg và Tokyo, công ước năm 1968 về việc
không áp dụng thời hiệu tố tụng đối với các tội phạm chiến tranh và tội phạm chống
loài người; công ước của các quốc gia thuộc SNG năm 1993 về tương trợ tư pháp
trong các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự [21, tr.333]… đều có các điều khoản
quy định về việc không dẫn độ công dân của nước mình.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Luật tương trợ tư pháp năm 2007 của Việt
Nam và tất cả hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự, hiệp định dẫn độ mà Việt
Nam đã ký kết với các nước đều quy định nguyên tắc không dẫn độ công dân là
trường hợp bắt buộc để từ chối dẫn độ.
Nguyên tắc không dẫn độ công dân được áp dụng khá phổ biến ở các quốc
gia theo hệ thống pháp luật Civil – Law. Những quan điểm bảo vệ nguyên tắc này
27
cho rằng, việc tiến hành các thủ tục tố tụng sẽ được đảm bảo và hiệu quả hơn nếu
người phạm tội được truy tố, xét xử và thi hành án tại quốc gia nơi anh ta là công
dân, đây cũng được coi là môi trường tốt nhất để người phạm tội phục hồi nhân
phẩm. Thêm vào đó xét xử công dân là quyền và trách nhiệm thuộc về chủ quyền
của mỗi quốc gia mà họ không thể từ chối khi công dân của mình thực hiện hành vi
phạm tội. Tuy nhiên, để đảm bảo không có một sự nhân nhượng mang tính chủ
quan nào đối với người phạm tội cũng như bỏ lọt tội phạm từ quốc gia mà anh ta là
công dân, các nước đều thống nhất rằng, khi nước được yêu cầu không thực hiện
dẫn độ công dân của mình thì có nghĩa vụ chuyển giao vụ việc cho cơ quan có thẩm
quyền của nước mình để tiến hành các thủ tục tố tụng hình sự cần thiết xét xử người
bị yêu cầu dẫn độ, đồng thời, thông báo cho các quốc gia yêu cầu dẫn độ được biết.
Điều 6 (2) công ước Châu Âu 1957 quy định: “Nếu bên được yêu cầu dẫn độ
không dẫn độ công dân của mình thì theo đề nghị của bên yêu cầu, bên được yêu
cầu phải giao người phạm tội cho các cơ quan có thẩm quyền của mình độ thực
hiện những thủ tục mà họ cho là phù hợp”.
Trên thực tế, nguyên tắc không dẫn độ công dân sẽ rất dễ ràng thực hiện nếu
như tư cách (quốc tịch) của công dân đó được xác định hay nói cách khác anh ta chỉ
có một quốc tịch nhưng sẽ rất khó khăn để áp dụng nguyên tắc này nếu như người
bị yêu cầu dẫn độ có từ hai quốc tịch trở lên. Bên cạnh đó, khái niệm “công dân”
cũng được hiểu khác nhau ở nhiều nước, ví dụ như Đan Mạch và Thụy Điển coi
công dân của Na Uy là công dân của mình. Điều này dẫn đến tình huống, khi có yêu
cầu dẫn độ thì xung đột quốc tịch sẽ làm cho việc dẫn độ khó thực hiện. Mặt khác,
nguyên tắc này có thể dẫn đến việc miễn trừ trách nhiệm hình sự đối với một số
người phạm tội ẩn náu trên đất nước của anh ta nếu quốc gia được yêu cầu không có
thẩm quyền xét xử hành vi phạm tội đó. Chính vì lý do này mà luật nhiều nước đã
cho phép thực hiện dẫn độ ngay cả khi người bị yêu cầu dẫn độ là công dân nước
mình, điển hình như Áo, Anh, Ixraen, Ấn độ, Canada… [21, tr. 333]. Ngoài ra,
nguyên tắc không dẫn độ công dân nước mình không được áp dụng khi các cá nhân
thực hiện các tội ác quốc tế như: tội phạm chống hòa bình, tội chống nhân loại, tội
28
phạm chiến tranh, tội diệt chủng, tội phân biệt chủng tộc… Bởi đây là những tội
phạm đặc biệt nguy hiểm, có thể ảnh hưởng đến hòa bình và an ninh nhân loại. Do
đó, các nước có nghĩa vụ dẫn độ công dân của nước mình cho nước ngoài xét xử
nếu công dân của họ thực hiện một trong các tội phạm này.
1.2.2.5. Nguyên tắc không dẫn độ người phạm tội về chính trị
Nguyên tắc không dẫn độ tội phạm chính trị bắt đầu xuất hiện vào cuối thế
kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX tại Pháp, khi quốc gia này quy định những người vì động
cơ chính trị chống lại chế độ phong kiến trong thời kỳ cách mạng tư sản không
được coi là đối tượng bị dẫn độ trong các điều ước quốc tế. Hiện nay, nguyên tắc
này đã được thừa nhận rộng rãi trong cộng đồng quốc tế và được ghi nhận trong các
điều ước quốc tế song phương và đa phương về dẫn độ giữa các quốc gia. Nội dung
của nguyên tắc không dẫn độ tội phạm chính trị được hiểu là nước được yêu cầu có
quyền từ chối dẫn độ cho quốc gia yêu cầu nếu người bị yêu cầu dẫn độ thực hiện
một tội phạm chính trị hay tội phạm có tính chất chính trị. Đây được coi là một
trong những chính sách có tính chất nhân văn của các quốc gia đối với loại tội phạm
đặc biệt này. Lập luận cho việc từ chối dẫn độ trong trường hợp này xuất phát từ
quan điểm người thực hiện tội phạm chính trị được coi là những người phạm tội vì
động cơ cao quý và mục đích chính trị thường liên quan đến các đảng phái, tôn giáo
hoặc lợi ích của một nhóm người nhất định trong xã hội. Do đó, họ không thể bị đối
xử như những người phạm tội thông thường khác.
Mặc dù nguyên tắc không dẫn độ tội phạm chính trị đã được thừa nhận và áp
dụng khá phổ biến ở các quốc gia trong việc thực hiện dẫn độ người phạm tội, tuy
nhiên, hiện nay chưa có một văn bản pháp lý nào đưa ra khái niệm về tội phạm chính
trị hay tội phạm có tính chất chính trị cũng như chưa có một cách hiểu thống nhất về
tội phạm chính trị giữa các quốc gia. Điều này có thể dẫn đến tình trạng việc dẫn độ
bị cản trở bởi thái độ không tích cực của nước được yêu cầu. Trong khoa học pháp lý
cũng đã có sự phân chia tội phạm chính trị thành hai loại là tội phạm chính trị tuyệt
đối (là những hành vi không gây ra bất kỳ sự nghi ngờ nào về tính chất chính trị của
tội phạm như: hành vi kêu gọi biểu tình, mít tinh, kích động các hoạt động vũ trang
29
chống chính trị) và tội phạm chính trị tương đối (là những hành vi phạm tội có tính
chất hình sự chung nhưng được thực hiện với động cơ, lý do chính trị như sát hại các
chính khách của đảng phái đối lập, đốt phá các kho vũ khí, các khu dân cư nhằm kích
động bạo loạn…) [21, tr.336]. Tuy nhiên đây chỉ là quan điểm lý luận và không được
coi là căn cứ để các quốc gia xác định tội phạm được yêu cầu có phải là tội phạm
chính trị và có thể từ chối dẫn độ người phạm tội đó hay không.
Thực tiễn cho thấy, cơ sở để xác định hành vi phạm tội có tính chất chính trị
hay không thường phụ thuộc vào hệ thống pháp luật cũng như chính sách, đường lối
của quốc gia được yêu cầu dẫn độ, nơi cá nhân dẫn độ đang bỏ trốn. Theo đó, quốc
gia được yêu cầu có thể từ chối dẫn độ người phạm tội nếu có căn cứ cho rằng hành
vi đó được thực hiện vì mục đích chính trị. Ngay cả những trường hợp phạm tội
thông thường nhưng nếu nước được yêu cầu nhận thấy tội phạm thông thường đó
được thực hiện vì động cơ chính trị thì cũng có thể từ chối dẫn độ và cho người bị
yêu cầu dẫn độ hưởng quyền cư trú chính trị. Do việc xác định tội phạm chính trị
khó khăn như vậy nên trong các văn bản pháp lý quốc tế dùng cách liệt kê những tội
phạm không được coi là tội phạm chính trị để để hưởng quyền cư trú bao gồm:
- Các tội chống loài người được quy định cụ thể trong Công ước về ngăn
chặn và trừng trị các tội diệt chủng, được Đại Hội đồng Liên hợp quốc thông qua
ngày 9.9.1948;
- Các hành vi vi phạm những quy định tại Điều 50 – Công ước Genevơ 1949
về cải thiện tình trạng của thương, bệnh binh thuộc lực lượng chiến đấu trên bộ;
Điều 51 - Công ước Genevơ 1949 về cải thiện tình trạng của thương, bệnh binh và
những người bị đắm tàu thuộc lực lượng hải quân; Điều 130 - Công ước Genevơ
1949 về đối xử với tù binh chiến tranh và Điều 147 - Công ước Genevơ 1949 về bảo
vệ dân thường trong thời chiến;
- Mọi hành vi tương tự như trên vi phạm các luật chiến tranh có hiệu lực
trong thời chiến, vi phạm các tập quán, tập quán chiến tranh hiện có nếu nó không
được quy định trong các Công ước Genevơ đã được đề cập ở trên;
- Hành vi phạm tội thuộc phạm vi Công ước về ngăn chặn hành vi bắt giữ máy
bay trái phép xâm phạm đến an ninh hàng không, được ký kết tại Hague ngày 16.9.1970;
30
- Hành vi phạm tội thuộc phạm vi Công ước về ngăn chặn hành vi bắt giữ
máy bay trái phép xâm phạm đến an ninh hàng không, được ký kết ngày 23.9.1971;
- Hành vi phạm tội nghiêm trọng xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tự do của
những cá nhân được bảo vệ bằng luật pháp quốc tế, bao gồm các nhân viên ngoại giao;
- Hành vi phạm tội bắt cóc trẻ em, bắt cóc con tin hay giam giữ người khác
trái phép nghiêm trọng;
- Hành vi phạm tội sử dụng bom, lựu đạn, tên lửa, súng ngắn tự động hoặc bom
thư, bom bưu phẩm nếu việc sử dụng này gây nguy hiểm cho con người. Trong đó,
thuật ngữ nguy hiểm được hiểu là việc gây chết người hoặc gây thương tích [22, tr.25].
Do tính chất dã man của hành vi khủng bố có thể gây nguy hại đến tính mạng
sức khoẻ của rất nhiều người dân vô tội nên luật quốc tế quy định người thực hiện
tội phạm khủng bố kể cả hành vi đó là vì mục đích chính trị thì cũng không được
hưởng quyền không bị dẫn độ. Ngoài ra, nguyên tắc không dẫn độ tội phạm chính
trị cũng có ngoại lệ nữa là thủ phạm giết hại nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu
chính phủ hoặc các nhà lãnh đạo cao cấp khác của quốc gia không được hưởng
quyền không bị dẫn độ sau khi thực hiện hành vi phạm tội.
1.2.3. Thủ tục dẫn độ
Theo các điều ước quốc tế song phương và đa phương cũng như nội luật của
các quốc gia, quy trình dẫn độ thường được chia làm các giai đoạn: Nước yêu cầu
gửi văn bản yêu cầu dẫn độ đến nước được yêu cầu, sau đó nước được yêu cầu xem
xét yêu cầu dẫn độ và ra quyết định, cuối cùng, hai Bên tiến hành chuyển giao
người bị yêu cầu dẫn độ và tài sản liên quan đến vụ án.
Theo quy định chung của luật quốc tế, yêu cầu dẫn độ phải được lập thành
văn bản do cơ quan có thẩm quyền của nước yêu cầu dẫn độ thực hiện, có kèm theo
các giấy tờ, tài liệu cần thiết làm căn cứ chứng minh cơ sở của yêu cầu dẫn độ. Trình
tự, thủ tục dẫn độ được thực hiện thông qua các kênh ngoại giao hoặc tư pháp của các
quốc gia có liên quan. Hiệp định mẫu về dẫn độ của Liên hợp quốc quy định “Yêu cầu
dẫn độ phải được thực hiện thông qua văn bản, hồ sơ và tài liệu sẽ được chuyển qua
kênh ngoại giao trực tiếp giữa cơ quan có thẩm quyền của các bên” [53, Điều 5], Công
ước Châu Âu năm 1957 cũng có quy định tương tự “Yêu cầu dẫn độ phải được lập
31
bằng văn bản và phải được truyền đạt thông qua các kênh ngoại giao” [51, Điều 12].
Các hiệp ước song phương về dẫn độ giữa các quốc gia cũng ghi nhận quy định này
làm cơ sở để tiến hành dẫn độ người phạm tội.
Trong mỗi trường hợp cụ thể thì văn bản yêu cầu dẫn độ có thể chứa đựng
những nội dung khác nhau phụ thuộc vào sự thỏa thuận giữa quốc gia yêu cầu dẫn
độ và quốc gia được yêu cầu. Nhìn chung, các điều ước song phương và đa phương
về dẫn độ giữa các nước quy định văn bản yêu cầu dẫn độ phải chứa đựng các nội
dung quan trọng gồm:
- Tên của cơ quan được yêu cầu dẫn độ tội phạm.
- Trình bày có tính chất miêu tả các hoàn cảnh thực tế của hành vi phạm tội và
văn bản pháp lý trong nước của mỗi quốc gia yêu cầu dẫn độ khẳng định cơ sở pháp
lý để công nhận hành vi đã thực hiện là hành vi tội phạm theo pháp luật nước này.
- Họ và tên của cá nhân bị yêu cầu dẫn độ, quốc tịch, nơi thường trú hoặc
tạm trú của người này và trong khả năng cho phép là bản nhận dạng cùng các thông
tin dữ liệu về lý lịch nhân thân và ảnh của cá nhân phạm tội.
- Mức độ thiệt hại vật chất nếu có của hành vi phạm tội gây ra [21, tr.339].
Sau khi nước yêu cầu gửi văn bản yêu cầu dẫn độ cùng các tài liệu kèm theo,
nước được yêu cầu có quyền đề nghị nước yêu cầu bổ sung thông tin để làm rõ
những vấn đề liên quan đến vụ việc dẫn độ. Trong trường hợp yêu cầu dẫn độ đã
đầy đủ, nước được yêu cầu sẽ tiến hành xem xét yêu cầu và quyết định có dẫn độ
hay không. Hiệp định mẫu về dẫn độ của Liên hợp quốc [53, Điều 6], Công ước
Châu Âu về dẫn độ năm 1957 [51, Điều 16], các điều ước về dẫn độ, luật dẫn độ
của các quốc gia đều có quy định về việc bắt giữ người bị yêu cầu dẫn độ sau khi
nhận được yêu cầu, tuy nhiên, theo kiến nghị của nước yêu cầu, việc bắt giữ cũng
có thể được thực hiện trước khi nước được yêu cầu nhận được văn bản yêu cầu dẫn
độ trong những trường hợp khẩn cấp nhằm tránh trường hợp người bị yêu cầu dẫn
độ chạy trốn.
Theo thông lệ chung, quốc gia yêu cầu muốn nhận người được dẫn độ từ
quốc gia khác phải đáp ứng các yêu cầu về mặt thủ tục do quốc gia được yêu cầu
32
đưa ra. Quy định này một phần xuất phát từ lập luận, trong quan hệ dẫn độ, vì
người phạm tội đang có mặt tại quốc gia được yêu cầu nên về mặt thủ tục việc dẫn
độ chủ yếu sẽ liên quan đến pháp luật của quốc gia được yêu cầu. Công ước Châu
Âu năm 1957 cũng đã có quy định tương tự về vấn đề này “Các thủ tục liên quan
đến việc dẫn độ và bắt giữ người tạm thời sẽ chỉ bị chi phối bởi pháp luật của Bên
được yêu cầu” [51, Điều 22].
Như vậy, trong hầu hết các điều ước quốc tế về dẫn độ tội phạm thì thủ
tục dẫn độ thường không được quy định chi tiết mà các bên thống nhất trình tự
dẫn độ còn các thủ tục chi tiết của quá trình dẫn độ sẽ do nước được yêu cầu
thực hiện. Nước yêu cầu sẽ thực hiện các thủ tục mà quốc gia được yêu cầu đề
nghị để việc dẫn độ đạt hiệu quả.
1.2.4. Thẩm quyền thực hiện dẫn độ
Do đặc trưng của dẫn độ thể hiện mối quan hệ hợp tác vượt ra khỏi phạm vi
lãnh thổ quốc gia nên các quyết định, hoạt động của quá trình dẫn độ thường là sự
nhân danh của một quốc gia trong quan hệ với quốc gia khác. Tuy nhiên, chúng ta
hiểu rằng, dẫn độ không phải là một hoạt động ngoại giao đơn thuần giữa hai nhà
nước mà là sự phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền của cả nước yêu cầu và
nước được yêu cầu nhằm đưa người phạm tội trở về nước yêu cầu để truy cứu
trách nhiệm hình sự hay thi hành hình phạt. Tương tự như vấn đề về trình tự, thủ
tục dẫn độ, thẩm quyền dẫn độ cũng là một nội dung thuộc sự điều chỉnh của luật
quốc gia và được quy định cụ thể trong các đạo luật về dẫn độ của mỗi quốc gia,
trong đó chỉ rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cơ quan trong việc giải
quyết các vấn đề về dẫn độ.
Tùy thuộc vào hệ thống các cơ quan nhà nước của mỗi quốc gia mà việc phân
chia nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan trong hoạt động dẫn độ có sự khác nhau
nhất định. Thông thường, dẫn độ sẽ bắt đầu từ việc gửi yêu cầu dẫn độ thông qua các
kênh ngoại giao của hai nước, cơ quan làm nhiệm vụ này cũng đồng thời giữ vai trò
đầu mối về dẫn độ. Tiếp đó, căn cứ vào các quy định pháp luật của nước được yêu
cầu các cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm xem xét, xử lý yêu cầu dẫn độ và phản
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT

More Related Content

What's hot

Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAYĐề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAYViết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú YênBáo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú YênDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 

What's hot (20)

Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAYĐề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
 
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAYLuận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOT
Luận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOTLuận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOT
Luận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOT
Luận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOTLuận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOT
Luận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOT
 
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
 
Đề tài: Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế, HOT
Đề tài: Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế, HOTĐề tài: Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế, HOT
Đề tài: Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế, HOT
 
Luận văn: Trách nhiệm của pháp nhân thương mại theo pháp luật
Luận văn: Trách nhiệm của pháp nhân thương mại theo pháp luậtLuận văn: Trách nhiệm của pháp nhân thương mại theo pháp luật
Luận văn: Trách nhiệm của pháp nhân thương mại theo pháp luật
 
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tộiLuận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
 
Luận văn: Tội trộm cắp theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trộm cắp theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
 
Tòa án trọng tài thường trực La Haye giải quyết tranh chấp quốc tế
Tòa án trọng tài thường trực La Haye giải quyết tranh chấp quốc tếTòa án trọng tài thường trực La Haye giải quyết tranh chấp quốc tế
Tòa án trọng tài thường trực La Haye giải quyết tranh chấp quốc tế
 
Luận văn: Quyền của người đồng tính chuyển giới theo pháp luật
Luận văn: Quyền của người đồng tính chuyển giới theo pháp luậtLuận văn: Quyền của người đồng tính chuyển giới theo pháp luật
Luận văn: Quyền của người đồng tính chuyển giới theo pháp luật
 
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HAYLuận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOTLuận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Tội buôn bán hàng cấm theo pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội buôn bán hàng cấm theo pháp luật hình sự, HAYLuận văn: Tội buôn bán hàng cấm theo pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội buôn bán hàng cấm theo pháp luật hình sự, HAY
 
Lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam - vấn đề lý luận và thực tiễn
Lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam - vấn đề lý luận và thực tiễnLỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam - vấn đề lý luận và thực tiễn
Lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam - vấn đề lý luận và thực tiễn
 
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú YênBáo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
 

Similar to Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT

Đề tài: Các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực t...
Đề tài: Các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực t...Đề tài: Các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực t...
Đề tài: Các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực t...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm, 9d - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm, 9d - Gửi miễn phí ...Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm, 9d - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm, 9d - Gửi miễn phí ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niên
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niênBảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niên
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niênDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 

Similar to Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT (20)

Luận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HAY
Luận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HAYLuận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HAY
Luận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HAY
 
Đề tài: Các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực t...
Đề tài: Các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực t...Đề tài: Các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực t...
Đề tài: Các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực t...
 
Luận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Luật
Luận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo LuậtLuận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Luật
Luận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Luật
 
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạtĐề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
 
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm, 9d - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm, 9d - Gửi miễn phí ...Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm, 9d - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm, 9d - Gửi miễn phí ...
 
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạmĐề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
 
Luận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật tại Tp Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật tại Tp Đà Nẵng, HAYLuận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật tại Tp Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật tại Tp Đà Nẵng, HAY
 
Luận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại Gò Vấp, Tp HCM
Luận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại Gò Vấp, Tp HCMLuận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại Gò Vấp, Tp HCM
Luận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại Gò Vấp, Tp HCM
 
Luận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo pháp luật
Luận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo pháp luậtLuận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo pháp luật
Luận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo pháp luật
 
Luận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại quận Gò Vấp
Luận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại quận Gò VấpLuận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại quận Gò Vấp
Luận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại quận Gò Vấp
 
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự, HAYLuận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt NamLuận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAY
 
Luận án: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HAY
Luận án: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HAYLuận án: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HAY
Luận án: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HOTLuận văn: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HOT
 
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niên
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niênBảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niên
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niên
 
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niên
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niênBảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niên
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niên
 
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (19)

ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 

Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ LY CHÕ §ÞNH DÉN §é TRONG HîP T¸C QUèC TÕ THEO LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ LY CHÕ §ÞNH DÉN §é TRONG HîP T¸C QUèC TÕ THEO LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN NGỌC CHÍ HÀ NỘI - 2015
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyễn Thị Ly
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục bảng MỞ ĐẦU................................................................................................................1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH DẪN ĐỘ TRONG HỢP TÁC QUỐC TẾ THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ..........................6 1.1. KHÁI NIỆM “DẪN ĐỘ” VÀ “CHẾ ĐỊNH DẪN ĐỘ” .............................6 1.1.1. Sự ra đời và khái niệm dẫn độ....................................................................6 1.1.2. Khái niệm chế định dẫn độ.......................................................................13 1.2. NỘI DUNG CỦA CHẾ ĐỊNH DẪN ĐỘ .................................................20 1.2.1. Cơ sở dẫn độ............................................................................................20 1.2.2. Các nguyên tắc của dẫn độ.......................................................................22 1.2.3. Thủ tục dẫn độ .........................................................................................30 1.2.4. Thẩm quyền thực hiện dẫn độ ..................................................................32 1.2.5. Một số quy định khác về dẫn độ...............................................................33 1.3. PHÁP LUẬT MỘT SỐ KHU VỰC VÀ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI VỀ DẪN ĐỘ ..................................................................................34 1.3.1. Pháp luật Châu Âu về dẫn độ ...................................................................34 1.3.2. Pháp luật Hoa Kỳ về dẫn độ.....................................................................37 Chương 2: CHẾ ĐỊNH DẪN ĐỘ TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.............................................................................................39 2.1. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ DẪN ĐỘ TRƯỚC NĂM 2003...............................................................................................39 2.2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ DẪN ĐỘ TỪ NĂM 2003 ĐẾN NAY.............................................................................44
  • 5. 2.2.1. Tình hình ký kết các hiệp định và quy định của pháp luật trong nước về dẫn độ..................................................................................................44 2.2.2. Những nội dung về dẫn độ trong các văn bản pháp luật của Việt Nam...........49 Chương 3: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG DẪN ĐỘ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.......87 3.1. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG DẪN ĐỘ Ở VIỆT NAM ........................87 3.1.1. Tình hình thực hiện các yêu cầu dẫn độ....................................................87 3.1.2. Nguyên nhân hạn chế hiệu quả của hoạt động dẫn độ ở Việt Nam............90 3.2. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CHẾ ĐỊNH DẪN ĐỘ.........................................94 3.2.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng chế định dẫn độ ...............................................................................94 3.2.2. Hoàn thiện pháp luật về dẫn độ ................................................................99 3.2.3. Các giải pháp khác nâng cao hiệu quả hoạt động dẫn độ ........................105 KẾT LUẬN........................................................................................................109 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................111
  • 6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự ĐƯQT: Điều ước quốc tế TAND: Tòa án nhân dân TNHS: Trách nhiệm hình sự TTHS: Tố tụng hình sự TTTP: Tương trợ tư pháp VKSND: Viện kiểm sát nhân dân XHCN: Xã hội chủ nghĩa
  • 7. DANH MỤC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 3.1. Thống kê yêu cầu dẫn độ tội phạm ở Việt Nam từ 01/07/2008 đến 30/06/2014 88
  • 8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia đang có chiều hướng gia tăng, diễn biến phức tạp đe dọa đến an ninh của các quốc gia, ảnh hưởng trực tiếp đến hòa bình trên phạm vi toàn cầu. Trước tình hình đó, nhu cầu hợp tác quốc tế trong đấu tranh, phòng ngừa tội phạm cần phải được tăng cường, củng cố. Dẫn độ là một trong những nội dung quan trọng của hợp tác quốc tế đất tranh, phòng ngừa tội phạm và được quy định trong các điều ước quốc tế cũng như pháp luật các quốc gia, thể hiện sự nỗ lực của cộng đồng quốc tế trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Những năm gần đây ở Việt Nam các tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia có diễn biến phức tạp, theo chiều hướng gia tăng, đặc biệt xuất hiện nhiều tội phạm mới như các tội phạm về tin học, rửa tiền, tội phạm sử dụng công nghệ cao…,các cơ quan tố tụng ngày càng phải xử lý nhiều hơn các vụ án hình sự có yếu tố nước ngoài và các cơ quan bảo vệ pháp luật của nước ngoài cũng phải xử lý nhiều vụ án hình sự liên quan đến người Việt Nam. Những điều này đã đặt ra nhu cầu hợp tác với các hoạt động hợp tác quốc tế trong quá trình giải quyết vụ án hình sự nhằm nâng cao hiệu quả của việc đấu tranh với tình trạng người nước ngoài phạm tội ở Việt Nam và người Việt Nam phạm tội ở nước ngoài, qua đó, góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập giữa nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 của Việt Nam đã dành Phần VIII để quy định vấn đề hợp tác quốc tế, trong đó có chế định dẫn độ. Trước đó, vấn đề dẫn độ đã được quy định trong các Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về dân sự, gia đình và hình sự giữa Việt Nam với một số nước. Tuy nhiên, những quy định trong các Hiệp định tương trợ còn nhiều hạn chế, một số nội dung không còn phù hợp với xu thế và thực tiễn hợp tác quốc tế như: Quy định về dẫn độ, chuyển giao tài liệu hồ sơ vụ án; Quy định việc giải quyết vấn đề quốc tịch trong lĩnh vực tư pháp; vấn đề hợp tác có đi có lại... trong đấu tranh xử lý tội phạm. Những quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về dẫn độ tội phạm cũng mới chỉ dừng lại ở mức khái quát, chưa cụ thể nên khó áp dụng trong quá trình giải quyết vụ án của các cơ quan
  • 9. 2 tiến hành tố tụng. Bên cạnh đó, việc triển khai thực hiện các hiệp định đã được ký kết còn nhiều hạn chế, thiếu các văn bản hướng dẫn cần thiết, chưa có sự quan tâm chỉ đạo của các ngành chức năng liên quan. dẫn đến tình trạng các quy định về dẫn độ ở Việt Nam còn mang nhiều tính hình thức; Năng lực, trình độ của cán bộ tiến hành tố tụng còn hạn chế là một trong những nguyên nhân làm cho việc thực thi pháp luật về dẫn độ tội phạm ở Việt Nam chưa đạt hiệu quả cao. Trước thực trạng trên, việc nghiên cứu chế định dẫn độ tội phạm không những có ý nghĩa góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh, xử lý tội phạm; hội nhập quốc tế; bảo đảm quyền con người; thực hiện yêu cầu cải cách tư pháp mà còn góp phần xây dựng lý luận về hợp tác quốc tế trong khoa học pháp lý tố tụng hình sự. Vì vậy, em chọn đề tŕi “Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo luật tố tụng hình sự Việt Nam” cho Luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Ở Việt Nam đã có một số nghiên cứu về dẫn độ tội phạm dưới dạng các bài tạp chí, luận văn thạc sỹ, sách tham khảo… như nghiên cứu về Hoạt động dẫn độ tội phạm theo Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với các nước theo Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 05 năm 2000 của tác giả Nguyễn Ngọc Anh, nghiên cứu của tác giả Dương Tuyết Miên về “Vấn đề dẫn độ tội phạm” (Tạp chí Tòa án số 10 năm 2006), nghiên cứu của tác giả Nguyễn Giang Nam về “Dẫn độ tội phạm theo pháp luật hiện hành” (Tạp chí Nhà nước và pháp luật. Viện Nhà nước và pháp luật số 12 năm 2008), Luận văn thạc sỹ của tác giả Đào Thị Hà (2006) về “Vấn đề dẫn độ trong pháp luật Việt Nam”… Bên cạnh đó một số giáo trình, sách tham khảo của một số cơ sở đào tạo luật ở Việt Nam như “Giáo trình Công pháp Quốc tế” do PGS.TS Nguyễn Bá Diến chủ biên, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội năm 2013, “Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam” do PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí chủ biên, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội năm 2013, Những vấn đề lý luận và thực tiễn về luật hình sự quốc tế, Nguyễn Ngọc Chí (chủ biên) (2011), NXB Chính trị Quốc gia năm 2013, “Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt nam”, Nxb Công an nhân dân năm 2008 của trường Đại học Luật Hà Nội cũng đã đề cập đến những nội dung cơ bản của vấn đề dẫn độ trên cơ sở các văn bản pháp luật.
  • 10. 3 Tuy nhiên, các nghiên cứu phần lớn mới tập trung vào việc tiếp cận vấn đề và khái quát nội dung của việc dẫn độ tội phạm trên cơ sở quy định của Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với các nước. Một số nghiên cứu chưa thể hiện được tính ứng dụng vào thực tiễn thi hành pháp luật ở Việt Nam, đồng thời chưa có nghiên cứu nào mang tính tổng thể về dẫn độ với tư cách là một chế định của luật hình sự. Vì vậy, khi nghiên cứu, luận văn sẽ xem xét một cách toàn diện những vấn đề cơ bản liên quan đến dẫn độ, đồng thời nghiên cứu thực trạng dẫn độ trên cơ sở kiến nghị các biện pháp nâng cao hiệu quả dẫn độ ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Việc nghiên cứu đề tài nhằm luận giải một cách khoa học cũng như xem xét, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật trong việc dẫn độ, trên cơ sở đó, đề xuất việc hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động dẫn độ trong quá trình giải quyết vụ án ở Việt Nam. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau: - Phân tích trên bình diện lý luận về khái niệm dẫn độ, khái niệm về chế định dẫn độ và làm rõ những nội dung của chế đình này cũng như phân biệt khái niệm dẫn độ với một số khái niệm khác như “chuyển giao người bị kết án”, “trao đổi tội phạm”, “trao trả tội phạm”… - Làm rõ các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về dẫn độ; - Nêu thực trạng, phân tích, đánh giá hiệu quả của hoạt động dẫn độ ở Việt Nam; - Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả của hoạt động dẫn độ tội phạm. 3.3. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn về vấn đề dẫn độ với tư cách là một chế định trong luật tố tụng hình sự Việt Nam trên cơ sở các quy định của Bộ Luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003, Luật tương trợ tư pháp năm 2007 và Hiệp định dẫn độ giữa Việt Nam với một số nước trên thế giới như Hàn Quốc, Ốt – xtrây – lia, Ấn Độ, Indonesia,…
  • 11. 4 4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu 4.1. Phương pháp luận Đề tài nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp được thể hiện trong các Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về "Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới", Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Trước xu thế quốc tế hóa, việc nghiên cứu luận văn còn được thực hiện trên tư tưởng tiến bộ của nhân loại về việc đấu tranh phòng chống tội phạm có tính chất quốc tế. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn gồm: Phương pháp lịch sử; Phương pháp phân tích, tổng hợp; Phương pháp so sánh đối chiếu; Phương pháp tổng kết thực tiễn. 5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn 5.1. Những điểm mới Luận văn thể hiện những điểm mới của việc nghiên cứu chế định dẫn độ như sau: Nghiên cứu toàn diện, có hệ thống những vấn đề pháp lý liên quan đến dẫn độ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam trên cơ sở những hiệp ước quốc tế về vấn đề dẫn độ được ký kết giữa Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới, đồng thời có sự đánh giá liên hệ với diễn biến tình hình các tội phạm có tính chất quốc tế. Nghiên cứu chế định dẫn độ trên cơ sở tương quan so sánh giữa pháp luật Việt Nam với pháp luật một số nước trên thế giới để tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt qua đó đóng góp kiến nghị về sự phù hợp của chế định dẫn độ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam. 5.2. Đóng góp của luận văn Việc nghiên cứu sẽ làm rõ hơn, đầy đủ hơn những vấn đề lý luận về dẫn
  • 12. 5 độ, giúp ta có nhận thức một cách khoa học về vấn đề; các kết quả tìm tòi, nghiên cứu có thể được ứng dụng vào hoạt động dẫn độ ở Việt Nam qua đó nâng cao hiệu quả của quá trình giải quyết vụ án hình sự về các tội phạm có tính chất quốc tế. Đồng thời các kiến nghị, giải pháp được đề xuất trong luận văn có thể được coi là một trong các nguồn tài liệu phục vụ cho việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam về dẫn độ trên cơ sở nội luật hóa các quy định về dẫn độ của các điều ước quốc tế. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn bao gồm 3 chương: Chương 1. Một số vấn đề lý luận về chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo luật tố tụng hình sự Chương 2. Chế định dẫn độ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam Chương 3. Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động dẫn độ trong tố tụng hình sự Việt Nam.
  • 13. 6 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH DẪN ĐỘ TRONG HỢP TÁC QUỐC TẾ THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1. KHÁI NIỆM “DẪN ĐỘ” VÀ “CHẾ ĐỊNH DẪN ĐỘ” 1.1.1. Sự ra đời và khái niệm dẫn độ 1.1.1.1. Sự ra đời của dẫn độ Dẫn độ được hình thành và phát triển cùng với luật quốc tế, là một bộ phận của Luật hình sự quốc tế, nó được ra đời khi có nhu cầu trao đổi về tội phạm giữa các quốc gia thông qua một thỏa ước quốc tế. Các nghiên cứu cho rằng, thời cổ đại qui chế về dẫn độ đã ra đời, khi người nước ngoài phạm tội chống lại công dân nước ngoài ở quốc gia sở tại, nơi người phạm tội cư trú. Trong thời kỳ này, đã xuất hiện các điều ước quốc tế giữa một số quốc gia về dẫn độ, chẳng hạn: Năm 1296 trước công nguyên, điều ước quốc tế về dẫn độ ở vùng Ai Cập cổ đại có nêu rõ rằng: Nếu như một ai đó chạy khỏi Ai Cập và tới quốc gia Khettôv, thì vua Khettôv sẽ không bắt giữ anh ta, mà bắt anh ta quay trở lại Ai Cập. Đặc điểm của điều ước quốc tế này thể hiện ở chỗ, vấn đề không phải chỉ là các tội phạm và thời kỳ đó, chế định dẫn độ còn đề cập tới cả người nô lệ da trắng, đặc biệt là ở Hy Lạp và đế chế La Mã. Đồng thời, có các điều ước quốc tế về dẫn độ giữa một số quốc gia thành phố của Hy Lạp [42, tr. 341]. Quan điểm này cũng được Christopher L. Blakesley khẳng định: Trong thực tế, văn bản ngoại giao được biết đến sớm nhất có chứa một phần quy định về sự lộ diện của những kẻ trốn chạy. Đó là Hiệp ước về Hòa bình giữa Ramses II, Pharaon của Ai Cập, và vua Hittite Hattusili III, được ký sau khi các nước cố gắng xâm chiếm Ai cập. Văn bản này được viết bằng chữ tượng hình, được khắc trên Đền của Ammon ở Karnak và nó cũng được bảo quản trên những chiếc bàn bằng đất sét ở Akkodrain trong kho Hittite của Boghazkoi. Văn bản này được coi là các ví dụ sớm nhất về các thỏa thuận về dẫn độ và những biểu hiện của nó mà trong đó dẫn độ chỉ là một phần của một văn bản lớn được thiết kế
  • 14. 7 dành cho một mục đích lớn. Đối với các văn bản về dẫn độ đầu tiên của thời kỳ hiện đại cũng vậy [49, tr.44]. Như vậy, dẫn độ ra đời khá sớm, từ thời kỳ cổ đại chứ không phải cho đến thời kỳ hiện đại như một số học giả đưa ra. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng qui chế về dẫn độ thời kỳ cổ đại chưa có đầy đủ các nội hàm và phạm vi như ngày nay chúng ta quan niệm. Trải qua quá trình lịch sử, sự phát triển của qui chế về dẫn độ gắn liền với sự phát triển của các quan hệ quốc tế và sự hợp tác trong đấu tranh xử lý tội phạm của các quốc gia trên thế giới. “Nhiều nhà chức trách ở Pháp và Mỹ đã viết rằng trước thế kỷ XIX, sự dẫn độ với nghĩa như thời hiện đại không tồn tại” [49, tr.44]. Nội dung của quy chế dẫn độ đã thay đổi trong quá trình phát triển hợp tác giữa các quốc gia trong đấu tranh xử lý tội phạm. Những thay đổi này được gắn liền với những thay đổi của chế định di tản. Trong thời kỳ cổ đại, việc áp dụng chế định dẫn độ gắn liền với việc tiếp nhận người tản cư. Sự quan hệ phụ thuộc nhau giữa chế độ dẫn độ và chế độ di tản diễn ra trong nhiều thời đại. Vào năm 1303, Anh và Pháp đã ký điều ước quốc tế về việc không dẫn độ đối với kẻ thù và người nổi loạn đối với cả hai nước. Tới đầu thế kỷ thứ XVIII, bắt đầu có việc ký kết các điều ước quốc tế giữa các quốc gia về việc dẫn độ các tội phạm chính trị và những người thực hiện các tội phạm hình sự. Sự hợp tác tích cực giữa các quốc gia về dẫn độ diễn ra vào thế kỷ XVIII. Trong thời gian đó các điều ước quốc tế về dẫn độ được ký kết trước sự phát triển tiến bộ của khoa học công nghệ. Cũng theo sự phát triển này, một lượng lớn dân cư từ Châu Âu đã di cư sang Châu Mỹ và các châu lục khác, một nhóm tội phạm hình sự đã lợi dụng tình hình này để bỏ chạy khỏi tổ quốc của mình nhằm thoát khỏi sự truy lùng và kết án hình sự. Tình trạng này đã thúc đẩy các quốc gia với mục đích bảo vệ nền pháp chế tìm kiếm các chế định mới mà một trong các chế định đó là dẫn độ. Có nhiều điều ước song phương cũng như đa phương về dẫn độ được ký kết bởi các quốc gia Châu Âu, theo PGS.TS Nguyễn Trung Tín: Một trong số các điều ước đa phương đầu tiên về dẫn độ là điều ước Amenski năm 1802 với sự tham gia của Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Anh. Sau đó một loạt các điều ước quốc tế được ký kết ở Châu
  • 15. 8 Mỹ, Châu Âu và các Châu lục khác. Việc mở rộng sự hợp tác của các quốc gia về vấn đề dẫn độ tội phạm được hậu thuẫn bởi sự ra đời và củng cố các nguyên tắc của chế định dẫn độ tội phạm. Các nguyên tắc “có đi có lại”, “chuyên môn” và các nguyên tắc khác [42, tr.342]. Trong thời gian ấy, pháp luật về dẫn độ tội phạm có hai mục đích: Một là công cụ hợp tác của các quốc gia để ngăn chặn tội phạm, hai là công cụ để bảo vệ chính người bị dẫn độ. Vì vậy, ngay vào các năm 40 của thế kỷ XIX các nước Châu Âu đã thông qua một nguyên tắc là chỉ dẫn độ các tội phạm hình sự, chứ không dẫn độ tội phạm chính trị hay những người đào ngũ. Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, vào năm 1924, “Ủy ban các chuyên viên về pháp điển hóa tiến bộ về luật pháp quốc tế” của Hội quốc liên đã dự thảo và kiến nghị ký kết các công ước phổ cập điều chỉnh vấn đề hợp tác quốc tế về dẫn độ tội phạm. Tuy nhiên, dự thảo này chưa được ký kết thì Hội quốc liên đã ngừng hoạt động do chiến tranh. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, Tòa án Nuremberg và tòa án Tokyo xét xử phát xít đã đề cập đến việc dẫn độ tội phạm, do đó năm 1946 Đại hội đồng liên hợp quốc đã thông qua Nghị quyết áp dụng các biện pháp truy tìm, bắt giữ và dẫn độ các tội phạm chiến tranh về quốc gia nơi thực hiện tội phạm để xét xử theo pháp luật quốc gia sở tại. Năm 1947, Đại hội đồng liên hợp quốc tiếp tục thông qua Nghị quyết về nghĩa vụ của các quốc gia trong việc dẫn độ và chuyển giao tội phạm chiến tranh cho tòa án xét xử. Trong quá trình phát triển, hàng loạt các công ước quốc tế về chống tội phạm có tính chất xuyên quốc gia ra đời, trong đó phần quan trọng là các qui định về dẫn độ tội phạm, như: Công ước về khủng bố, trẻ em, buôn bán ma túy, buôn bán người…Bên cạnh đó, năm 1990 Đại hội đồng Liên hợp quốc còn thông qua điều ước mẫu về dẫn độ tội phạm làm cơ sở để các quốc gia tham gia, ký kết các điều ước quốc tế về đấu tranh chống tội phạm nói chung và dẫn độ tội phạm nói riêng. Trên cơ sở đó, những điều ước quốc tế đa phương mang tính toàn cầu, các khu vực cũng đã ký kết các điều ước khu vực, mà tiêu biểu là Công ước quốc tế về dẫn độ tội phạm châu Âu năm 1957… Như vậy, cùng với sự phát triển quan hệ hợp tác giữa các quốc gia, qui chế
  • 16. 9 dẫn độ ngày càng được hoàn thiện, phát triển bảo đảm cho việc dẫn độ tội phạm có hiệu quả, góp phần đấu tranh phòng ngừa tội phạm trên phạm vi toàn cầu cũng như ở từng quốc gia, khu vực. Sự phát triển, hoàn thiện này thể hiện ở sự gia tăng các điều ước quốc tế về dẫn độ, trong đó đã cụ thể hóa nhóm người thuộc diện dẫn độ tội phạm, các phạm trù và các căn cứ dẫn độ cũng được xác định cụ thể hơn. Trong đó, một nguyên tắc về dẫn độ tội phạm được hình thành và ngày càng được thừa nhận rộng rãi là nguyên tắc mà theo đó những người thực hiện các hành vi vì động cơ chính trị và vì thế phải rời khỏi tổ quốc của mình thì không thuộc diện bị dẫn độ. 1.1.1.2. Khái niệm dẫn độ tội phạm Trong khoa học pháp lý, có nhiều khái niệm về dẫn độ được đưa ra căn cứ vào phạm vi và cách tiếp cận khác nhau, GS.TSKH Lê Văn Cảm đưa ra khái niệm dẫn độ khá cơ mở, hàm chứa nhiều nội dung: Dẫn độ người phạm tội là một chế định của luật hình sự nhằm tăng cường sự hợp tác giữa các quốc gia trong việc đấu tranh phòng và chống tội phạm quốc tế và các tội phạm xuyên quốc gia, được thể hiện trong việc: một quốc gia này (nước được yêu cầu) căn cứ vào các quy định của Hiệp ước quốc tế về tương trợ tư pháp hình sự đã được ký kết (hoặc các quy phạm pháp luật quốc tế trong trường hợp Hiệp định tương ứng chưa được ký kết) chuyển giao người phạm tội đang ở trên lãnh thổ của nó theo đề nghị của quốc gia kia (nước yêu cầu) mà trên lãnh thổ có việc thực hiện tội phạm hoặc có người phạm tội là công dân của mình (nước yêu cầu) để truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành hình phạt với người ấy [11, tr.230]. Định nghĩa này không chỉ nêu lên đặc điểm của dẫn độ mà còn bao gồm cả những nội hàm của khái niệm “Chế định dẫn độ” nên nội dung của nó khá phong phú do tác giả tiếp cận dẫn độ với tư cách là một chế định pháp lý hình sự. Tuy nhiên, trong giới hạn của việc đưa ra khái niệm “dẫn độ” của luận văn này, tác giả luận văn chỉ tham khảo những đặc điểm về dẫn độ tội phạm mà định nghĩa đã nêu ra.
  • 17. 10 Từ điển Oxford đã đưa ra khái niệm “Dẫn độ tội phạm là việc dẫn độ một người bị buộc tội hoặc bị kết án đối với một tội phạm” [23, tr.14]. Định nghĩa này về dẫn độ đã thiếu đi tính thuyết phục khi giải thích khái niệm dẫn độ bằng việc lặp lại chính cụm từ “dẫn độ” (dẫn độ là dẫn độ). Đồng thời, định nghĩa này mới chỉ đề cập đến đối tượng của dẫn độ mà chưa chỉ ra được chủ thể tiến hành dẫn độ, nguyên tắc, thủ tục và mục đích của dẫn độ. Đặc biệt, định nghĩa chưa làm rõ được bản chất của dẫn độ là một quá trình hướng tới mục đích chuyển giao người phạm tội để truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành bản án giữa các quốc gia trong đấu tranh xử lý tội phạm ở phạm vi toàn cầu. Từ điển Tiếng Việt cũng đưa ra định nghĩa về dẫn độ, theo đó:“dẫn độ là việc đưa phạm nhân người nước ngoài bị bắt ở nước mình giao cho cơ quan tư pháp ở nước ngoài đó xét xử” [23, tr.15]. Tuy nhiên, đây được coi là cách giải thích chưa hoàn chỉnh về dẫn độ bởi chỉ đề cập đến một nội dung của dẫn độ người phạm tội để xét xử, trong khi đó, theo pháp luật quốc tế thì việc dẫn độ tội phạm còn nhằm mục đích đưa người bị kết án trở về nước được yêu cầu để thi hành hình phạt. Đồng thời, cũng giống như định nghĩa của Từ điển Oxford, định nghĩa này chưa nêu được nguyên tắc, thủ tục và bản chất của dẫn độ. Với cách tiếp cận tổng thể, xem xét dẫn độ tội phạm là một hiện tượng xã hội, một quá trình xuất phát từ nhu cầu thực tiễn đấu tranh xử lý tội phạm giữa các quốc gia, những định nghĩa về dẫn độ trong các điều ước quốc tế hoặc định nghĩa do các học giả nước ngoài đưa ra ngắn gọn, đi vào bản chất hơn. Theo Interpol thì dẫn độ là một quá trình, theo đó một nước (nước được yêu cầu) chuyển giao cá nhân có mặt trên lãnh thổ của mình cho nước khác (nước yêu cầu) khi nước này muốn xét xử hoặc thi hành bản án đã được tuyên đối với anh ta [23, tr.15]. Theo Marjorie Whiteman, một chuyên gia về luật hình sự quốc tế của Mỹ thì: “dẫn độ là quá trình mà theo đó người mà bị kết tội hoặc bị kết án tù về hành vi phạm tội trái với pháp luật của một quốc gia và được tìm thấy ở một quốc gia khác sẽ được đưa trở về quốc gia ban đầu để xét xử hoặc tuyên án” [49, tr.40].
  • 18. 11 Cũng theo xu hướng này, Giáo trình Công pháp quốc tế của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội đã định nghĩa “Dẫn độ tội phạm là hành vi chuyển giao thể nhân đang hiện diện trên lãnh thổ nước mình cho quốc gia yêu cầu nhằm mục đích tiến hành truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành phán quyết hình sự đã có hiệu lực pháp luật đối với thể nhân này” [21, tr.324]. Định nghĩa này khẳng định việc dẫn độ chỉ áp dụng đối cá nhân người phạm tội (thể nhân) chứ không áp dụng đối với pháp nhân là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật quốc tế về dẫn độ. Đồng thời, định nghĩa đã nêu được mục đích của dẫn độ không chỉ để truy cứu trách nhiệm hình sự mà còn để thi hành hình phạt, thông qua đó phần nào phản ánh được bản chất của dẫn độ. Tuy nhiên, định nghĩa này cũng chưa nêu được đầy đủ nội hàm của dẫn độ như nguyên tắc, thủ tục… Trong cuốn “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về luật hình sự quốc tế”, PGS.TS Nguyễn Trung Tín đưa ra định nghĩa: “Dẫn độ trong luật hình sự quốc tế được hiểu là việc một quốc gia chuyển trao người bị cáo phạm tội hoặc người bị kết án (quốc gia nơi những người đó có mặt) cho một quốc gia khác (thường là quốc gia nơi tội phạm gây ra hoặc là quốc gia đã kết án người đó” [42, tr.335]. Đây là định nghĩa tuy có cụ thể hơn nhưng mới dừng lại ở việc chỉ ra mục đích của dẫn độ và phần nào phản ánh được bản chất dẫn độ mà còn thiếu đi những nội dung quan trọng của dẫn độ. Từ những phân tích, đánh giá các định nghĩa (nêu trên) về dẫn độ, tác giả luận văn với cách tiếp tổng thể, dựa vào quy định pháp luật và thực tiễn dẫn độ đưa ra định nghĩa sau: “Dẫn độ là một quá trình, theo đó, một nước (nước được yêu cầu) chuyển giao người phạm tội đang có mặt trên lãnh thổ của mình cho nước khác (nước yêu cầu) để truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành hình phạt đối với người đó theo các nguyên tắc, thủ tục được qui định trong điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia”. Định nghĩa này khắc phục được những hạn chế của các định nghĩa đã nêu trên, do vậy nó phản ánh được đầy đủ bản chất của dẫn độ với các nội hàm sau: Thứ nhất, mục đích dẫn độ: Định nghĩa nêu trên đã chỉ ra mục đích của dẫn
  • 19. 12 độ là truy cứu trách nhiệm hình sự và thi hành hình phạt đối với người phạm tội. Hai mục đích này quyết định các nguyên tắc, thủ tục, trình tự dẫn độ trong các điều ước quốc tế và cũng còn để phân biệt dẫn độ với các khái niệm liên quan, liền kề trong luật quốc tế, như chuyển giao tội phạm đã bị kết án; chuyển giao vật chứng, tài liệu hồ sơ vụ án... Thứ hai, đối tượng của dẫn độ là người thực hiện hành vi phạm tội đang có mặt ở một quốc gia (quốc gia được yêu cầu dẫn độ) về quốc gia (quốc gia yêu cầu dẫn độ) để truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành hình phạt. Cũng cần lưu ý là gần đây, vào những năm 60 của thế kỷ 20 xuất hiện và phát triển ngày càng nhiều quy định chủ thể tội phạm là pháp nhân trong luật hình sự quốc gia. Tuy nhiên, quy chế dẫn độ tội phạm trong luật quốc tế, cho đến hiện nay chỉ thừa nhận dẫn độ đối với thể nhân (cá nhân) người phạm tội, không dẫn độ đối với pháp nhân. Thứ ba, dẫn độ được thực hiện trên cơ sở các nguyên tắc được xác định do các bên thỏa thuận trong điều ước quốc tế. Dẫn độ được thực hiện trên cơ sở sự tự nguyện, thỏa thuận của các quốc gia, nhưng qua quá trình hình thành và phát triển của chế định này cũng cho thấy việc dẫn độ được thực hiện trên cơ sở các nguyên tắc được hình thành trong thực tiễn quan hệ quốc tế về dẫn độ. Những nguyên tắc này được các quốc gia thừa nhận và xác định trong các điều ước quốc tế và nó giữ vai trò nền tảng, định hướng cho toàn bộ quá trình dẫn độ, cũng như đối với việc giải quyết các vấn đề pháp lý cụ thể có liên quan trực tiếp đến dẫn độ, như: Các trường hợp dẫn độ, trường hợp không tiến hành dẫn độ và điều kiện dẫn độ tội phạm… Ở mức độ khái quát nhất, những nguyên tắc dẫn độ sau được thừa nhận rộng rãi và mang tính phổ biến như nguyên tắc chủ quyền quốc gia, nguyên tắc có đi có lại, nguyên tắc không dẫn độ công dân của mình, nguyên tắc tội phạm kép, nguyên tắc không dẫn độ tội phạm chính trị… Thứ tư, dẫn độ tội phạm là một quá trình với các thủ tục pháp lý của các bên liên quan. Dẫn độ liên quan đến pháp luật của các quốc gia và những thỏa thuận giữa họ với nhau tạo ra hệ thống các thủ tục tố tụng chặt chẽ trong quá trình dẫn độ. Thủ tục này khác với thủ tục tố tụng giải quyết vụ án hình sự thông thường ở chỗ,
  • 20. 13 ngoài việc tuân theo thủ tục tố tụng hình sự chung, còn phải thực thi những thủ tục tố tụng được thỏa thuận giữa các quốc gia liên quan về dẫn độ. Do đó, thủ tục dẫn độ là một trong những đặc điểm, những nội hàm của khái niệm dẫn độ. 1.1.2. Khái niệm chế định dẫn độ Nếu như khái niệm “dẫn độ” dùng chỉ quá trình chuyển giao người phạm tội để truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành bản án đối với người đó (như đã phân tích ở phần trên) thì “chế định dẫn độ” là khái niệm pháp lý để chỉ hệ thống các quy phạm pháp lý điều chỉnh hoạt động dẫn độ giữa các quốc gia với nhau trong quan hệ quốc tế. Chế định pháp luật hay định chế pháp luật hoặc chế định là tập hợp một nhóm quy phạm pháp luật có đặc điểm giống nhau để điều chỉnh nhóm quan hệ xã hội tương ứng trong phạm vi một ngành luật hoặc nhiều ngành luật. Chế định có thể được hiểu theo nghĩa rộng hoặc nghĩa hẹp. Nghĩa chung và rộng là các yếu tố cấu thành cơ cấu pháp lý của thực tại xã hội, nghĩa hẹp là tổng thể các quy phạm, quy tắc của một vấn đề pháp lý. Trong các giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật của các cơ sở đào luật ở Việt Nam cũng đưa ra định nghĩa về chế định pháp luật: “Chế định pháp luật là nhóm những quy phạm pháp luật điều chỉnh một nhóm các quan hệ xã hội cùng loại có liên hệ mật thiết với nhau” [46, tr.335] hoặc “Chế định pháp luật bao gồm một số quy phạm có những đặc điểm chung giống nhau, nhằm điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội tương ứng” [39, tr 195]… Trên cơ sở cách tiếp cận này thì chế định dẫn độ tội phạm được hiểu là tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ dẫn độ tội phạm giữa các quốc gia, chỉ ra phạm vi tồn tại của các quy định làm cơ sở cho việc dẫn độ giữa các quốc gia trong quan hệ quốc tế. Do đặc trưng của hoạt động dẫn độ thể hiện nội dung ngoài biên giới của các quốc gia nên chế định dẫn độ tội phạm mang tính tổng hợp vừa bao gồm các quy phạm pháp luật quốc tế vừa bao gồm các quy phạm của quốc gia. Trong khoa học luật hình sự và khoa học luật quốc tế, các nhà khoa học còn có nhiều cách hiểu khác nhau về chế định dẫn độ. Có quan điểm cho rằng, dẫn độ là chế định thuộc ngành luật nhà nước hoặc ngành luật hành chính, vì quyết định về
  • 21. 14 vấn đề dẫn độ thường không phải là Toà án, mà là Chính phủ hoặc một cơ quan hành pháp nào đó của Chính phủ. Có quan điểm cho rằng, dẫn độ là chế định thuộc luật tố tụng hình sự, vì khi dẫn độ người phạm tội cho một nước khác, các cơ quan chức năng phải tuân thủ những bảo đảm nhất định về mặt tố tụng. Có quan điểm lại cho rằng, dẫn độ là một bộ phận hợp thành của luật hình sự, vì thuộc chế định thi hành hình phạt . Hiểu dẫn độ theo những quan điểm này là chính xác. Bởi lẽ, dẫn độ không chỉ nhằm mục đích thi hành hình phạt mà còn nhằm xét xử người bị dẫn độ. Từ phân tích này GS.TSKH Lê Văn Cảm khẳng định: “Dẫn độ người phạm tội là một chế định của luật hình sự nhằm tăng cường sự hợp tác giữa các quốc gia trong việc đấu tranh phòng và chống tội phạm quốc tế và các tội phạm xuyên quốc gia”… [11, tr.230]. Khái niệm khoa học về chế định dẫn độ nêu trên của GS.TSKH Lê Văn Cảm tương đối đầy đủ, phản ánh được bản chất, nội dung chủ yếu của dẫn độ và nguồn pháp luật điều chỉnh hoạt động dẫn độ trong hợp tác quốc tế. Chia sẻ cách tiếp cận này của GS.TSKH Lê Văn Cảm, tác giả luận văn cho rằng những nội hàm của khái niệm “chế định dẫn độ” gồm: Thứ nhất, dẫn độ không đơn thuần là chế định thuộc luật hình sự mà là chế định mang tính chất liên ngành của luật hình sự, luật TTHS, Luật hành chính và Luật quốc tế. Theo quan niệm truyền thống, luật hình sự được hiểu một cách chung nhất là một ngành luật điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến tội phạm và các biện pháp trách nhiệm hình sự. Trong khi đó, dẫn độ là một quá trình mang tính động, liên quan đến việc chuyển giao người phạm tội từ nước này (nước được yêu cầu) đến nước khác (nước yêu cầu) nhằm xét xử hoặc thi hành án. Do vậy, bên cạnh các qui định về tội phạm và hình phạt của luật hình sự được dùng làm căn cứ để xác định những tội phạm trong phạm vi dẫn độ còn có các quy định về thẩm quyền (cơ quan nào có thẩm quyền dẫn độ, phạm vi và mức độ thẩm quyền của các cơ quan tham gia vào hoạt động dẫn độ ở một quốc gia), quy định về thủ tục, trình tự, thời hạn dẫn độ… Những quy định này không thuộc phạm vi điều chỉnh của các quy phạm pháp luật hình sự mà thuộc về luật hành chính, luật TTHS nên dẫn độ là chế định liên ngành chứ không phải chỉ chế định của luật hình sự. Thứ hai, căn cứ để dẫn độ không chỉ là các quy định trong các điều ước quốc tế về dẫn
  • 22. 15 độ, mà các quốc gia còn tiến hành dẫn độ cho nhau dựa trên nguyên tắc có đi có lại khi chưa hoặc không thể ký kết các điều ước quốc tế liên quan đến dẫn độ. Vì vậy, bên cạnh các điều ước quốc tế về dẫn độ giữa các quốc gia còn có các quy phạm pháp luật quốc tế chung được sử dụng làm cơ sở cho các thỏa thuận dẫn độ đối với từng trường hợp cụ thể khi giữa các quốc gia chưa có hiệp định về dẫn độ. Từ phân tích trên có thể định nghĩa chế định dẫn độ như sau: Chế định dẫn độ là tổng hợp các quy pháp phạm pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia điều chỉnh hoạt động dẫn độ giữa các quốc gia, trong đó, một nước (nước được yêu cầu) chuyển giao người phạm tội đang có mặt trên lãnh thổ của mình cho nước khác (nước yêu cầu) để nước được chuyển giao tiến hành xét xử hoặc thi hành hình phạt đối với người đó. Định nghĩa này phản ánh những đặc trưng sau của chế định dẫn độ: a. Chế định dẫn độ bao gồm tổng hợp các qui phạm pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia Trong khoa học pháp lý quốc tế có những quan điểm khác nhau về nguồn của chế định dẫn độ tội phạm, nói cách khác là cơ sở của dẫn độ. Đây là vấn đề phức tạp và chỉ khi xác định được rõ cơ sở của dẫn độ thì mới xác định được một quốc gia có nghĩa vụ dẫn độ khi có yêu cầu hay không. Các nhà nghiên cứu về vấn đề này đã đưa ra nhiều quan điểm về cơ sở của dẫn độ. Nhóm quan điểm thứ nhất cho rằng cơ sở của dẫn độ chính là các điều ước quốc tế. Theo đó, các quốc gia không có quyền cũng như nghĩa vụ phải dẫn độ người phạm tội nếu không có một văn bản pháp lý quốc tế do quốc gia đó ký kết hoặc thừa nhận quy định quốc gia đó có trách nhiệm trong việc dẫn độ tội phạm. Nhóm quan điểm thứ hai cho rằng, cơ sở của dẫn độ tội phạm là pháp luật của mỗi quốc gia. Trong hệ thống pháp luật của mỗi nước, các quốc gia tự xây dựng cho mình những quy định về dẫn độ, trong đó chỉ ra những tội phạm bị dẫn độ, các trường hợp dẫn độ và từ chối dẫn độ, trình tự, thủ tục của việc dẫn độ… Khi có các vấn đề về dẫn độ tội phạm phát sinh, các quốc gia sẽ dựa vào những quy định này để giải quyết các yêu cầu liên quan đến dẫn độ tội phạm.
  • 23. 16 Thực tế cho thấy, dẫn độ là quyền thuộc chủ quyền của mỗi quốc gia, tức là một quốc gia hoàn toàn có quyền tự quyết định việc có hay không dẫn độ người phạm tội theo yêu cầu của một nước khác. Tuy nhiên, mỗi một quốc gia bất kỳ đều quan tâm tới việc trấn áp tội phạm mà pháp luật của mình đã ghi nhận. Trong trường hợp tội phạm như vậy có mặt ở lãnh thổ quốc gia khác thì việc bắt giữ người phạm tội và dẫn độ về quốc gia trên chỉ có thể thực hiện khi có điều ước quốc tế giữa hai quốc gia hữu quan, bởi vì điều ước thường ghi nhận quyền và nghĩa vụ qua lại giữa các bên. Đối với những quốc gia chưa ký kết điều ước quốc tế về dẫn độ thì việc dẫn độ có thể được thực hiện trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản về dẫn độ được ghi nhận trong pháp luật quốc tế. Trong trường hợp này, các quy phạm của luật quốc gia về dẫn độ mặc dù không phải là cơ sở pháp lý trực tiếp để quốc gia thực hiện việc dẫn độ nhưng nó là cơ sở để quốc gia yêu cầu dẫn độ quốc tế thực hiện yêu cầu của mình với điều kiện phù hợp với luật quốc tế. Đây cũng là cơ sở để các quốc gia ký kết hay gia nhập các điều ước quốc tế về dẫn độ tội phạm. Như vậy, cơ sở của dẫn độ tội phạm gồm có: các điều ước quốc tế, pháp luật quốc gia và các nguyên tắc quốc tế về dẫn độ tội phạm. b. Chế định dẫn độ điều chỉnh quan hệ giữa các quốc gia trong hoạt động dẫn độ Là tổng hợp các qui phạm pháp luật quốc tế và quốc gia, chế định dẫn độ tội phạm điều chỉnh các nội dung của quan hệ giữa các quốc gia về dẫn độ, đó là: Nghĩa vụ dẫn độ, đối tượng dẫn độ, điều kiện, thủ tục dẫn độ và những vấn đề khác có liên quan… Nghĩa vụ dẫn độ Trong quan hệ quốc tế, nghĩa vụ dẫn độ là một trong những nội dung quan trọng của các điều ước quốc tế đa phương về dẫn độ. Theo đó, các điều ước này hướng các quốc gia tới việc coi hoạt động dẫn độ như là một nghĩa vụ phải thực hiện giữa các quốc gia thành viên. Khi phát sinh nhu cầu dẫn độ giữa hai nước thì nước được yêu cầu sẽ tiến hành dẫn độ một cá nhân đang có mặt trên lãnh thổ quốc gia mình cho nước yêu cầu nhằm thực hiện việc xét xử hoặc thi hành bản án đã có hiệu lực pháp luật đối với cá nhân đó theo pháp luật của quốc gia đưa ra yêu cầu. Như đã
  • 24. 17 phân tích, dẫn độ được hình thành từ nhu cầu hợp tác giữa các quốc gia trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm. Theo đó, các quy định về dẫn độ thường thể hiện tính ràng buộc về quyền và nghĩa vụ giữa các quốc gia trong hoạt động dẫn độ. Hiện nay, các quy định của pháp luật về dẫn độ vừa tồn tại trong pháp luật quốc tế vừa tồn tại trong pháp luật hình sự và tố tụng hình sự của quốc gia. Như vậy, nghĩa vụ dẫn độ là một trong những nội dung điều chỉnh của chế định dẫn độ. Đối tượng của dẫn độ Việc quy định về đối tượng dẫn độ sẽ giúp các quốc gia thành viên trong các điều ước quốc tế đưa ra yêu cầu dẫn độ phù hợp với loại tội phạm mà các quốc gia đã xác định trong các điều ước. Thông thường các điều ước quốc tế chuyên môn sẽ quy định đối tượng dẫn độ cụ thể là các loại tội phạm liên quan đến lĩnh vực chuyên môn đó. Còn các điều ước quốc tế khác cũng sẽ ghi nhận đối tượng dẫn độ theo sự thoả thuận của các quốc gia thành viên. Điều kiện dẫn độ Tuy dẫn độ tội phạm là nghĩa vụ quốc gia, nhưng khi tiến hành nó phụ thuộc vào những điều kiện chung của pháp luật quốc tế cũng như những điều kiện trong thỏa thuận riêng giữa các quốc gia. Những điều kiện đó thể hiện tập trung rõ nét nhất ở các nguyên tắc của dẫn độ, như: Nguyên tắc chủ quyền quốc gia, nguyên tắc có đi có lại, nguyên tắc tội phạm kép, nguyên tắc không dẫn độ công dân nước mình, nguyên tắc không dẫn độ tội phạm chính trị… Ngoài ra, trong mỗi điều ước quốc tế song phương, đa phương cụ thể về dẫn độ, các quốc gia còn đưa ra những trường hợp mà quốc gia được yêu cầu có quyền từ chối dẫn độ như không dẫn độ người phạm tội quân sự, người bị buộc tội hoặc kết án hay bất kỳ tội nào khác mà vì đó người này bị giam giữ hoặc xét xử, có hình phạt tử hình theo pháp luật của nước yêu cầu; người bị dẫn độ có thể bị tra tấn bởi nước yêu cầu…. Thủ tục dẫn độ Thủ tục dẫn độ là một trong những vấn đề được các quốc gia đặc biệt quan tâm. Thực tiễn cho thấy, các quy định về trình tự, thủ tục dẫn độ thường thuộc nội
  • 25. 18 dung điều chỉnh của pháp luật quốc gia. Tuy nhiên, việc đưa ra các quy định này trong các văn bản pháp luật của quốc gia và việc đáp ứng nhỏ lẻ, riêng rẽ như vậy đã gây ra rất nhiều khó khăn cho các quốc gia khác trong việc đưa ra yêu cầu về dẫn độ. Chính vì vậy, trong quá trình thực hiện dẫn độ, các quốc gia đã thừa nhận những thủ tục chung của yêu cầu dẫn độ tội phạm trong các điều ước quốc tế đa phương về dẫn độ nhằm giúp cho hoạt động dẫn độ giữa các quốc gia thuận lợi, có hiệu quả. c. Phân biệt chế định dẫn độ với các chế định khác có liên quan - Chuyển giao tội phạm đã bị kết án Chuyển giao tội phạm đã bị kết án và dẫn độ là hai chế định pháp lý khác nhau về điều kiện, thủ tục và mục đích thực hiện. Chuyển giao tội phạm đã bị kết án là việc cho phép các phạm nhân bị kết án ở nước ngoài được trở về nước nơi họ mang quốc tịch hoặc nơi họ có mối quan hệ thân thiết để thi hành bản án đã có hiệu lực pháp luật. Nhu cầu chuyển giao tội phạm đã bị kết án xuất phát từ nhiều lý do khác nhau như việc thi hành bản án đối với phạm nhân là người nước ngoài thường gây ra rất nhiều khó khăn cho nước sở tại về điều kiện thi hành bản án; quan hệ đối ngoại giữa các nước; trách nhiệm của các nhà chức trách nước ngoài đối với công dân của mình; vấn đề giáo dục người bị kết án tại cộng đồng sau khi đã thi hành xong bản án... Quan điểm chung được thừa nhận trong cộng đồng quốc tế là việc chuyển giao người phạm tội đã bị kết án sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc hoàn lương và tái hòa nhập cộng đồng của người phạm tội nhanh hơn khi họ thụ án ở nước kết án. Trong khuôn khổ luật quốc tế đã có Công ước về chuyển giao cá nhân bị kết án tù giam được thông qua năm 1978 tại Beclin, Công ước Châu Âu về chuyển giao tù phạm thông qua năm 1983, Đại hội đồng Liên hợp quốc cũng đã thông qua hiệp ước quốc tế mẫu về chuyển giao từ phạm nước ngoài năm 1985 [21, tr.342]. Theo các văn bản này, việc chuyển giao phạm nhân quốc tế cần đảm bảo các điều kiện sau: thứ nhất, phạm nhân phải là công dân của nước nơi anh ta sẽ chuyển về; thứ hai, phạm nhân đã có bản án có hiệu lực pháp luật; thứ ba, việc chuyển giao chỉ được thực hiện khi có sự đồng ý của nước có tòa án đưa ra phán quyết và nước mà
  • 26. 19 người phạm tội là công dân. Trong hầu hết các điều ước quốc tế về việc chuyển giao phạm nhân, các quốc gia còn thỏa thuận việc chuyển giao cần có sự đồng ý của bản thân phạm nhân. Bởi lẽ, nếu phạm nhân bị cưỡng chế chuyển giao thì mục tiêu trợ giúp phạm nhân cải tạo và đẩy nhanh quá tình hoà nhập cộng đồng sẽ không đạt được. Hơn nữa, sẽ nhân đạo nếu cho phép phạm nhân được thi hành bản án tại nước mà anh ta có mối quan hệ gần gũi nếu anh ta muốn được như vậy. - Trao đổi tội phạm Khái niệm trao đổi tội phạm được hiểu là “các hành vi của các quốc gia dựa trên cơ sở chủ quyền và quyền lợi quốc gia chấp nhận trao đổi với nhau các cá nhân phạm tội” [21, tr.341]. Việc trao đổi như vậy thực hiện với sự tuân thủ nguyên tắc tương xứng. Trong thực tiễn quan hệ quốc tế, việc trao đổi tội phạm có tính chất chính trị nhiều hơn là pháp lý, có thể khẳng định tính chất chính trị chi phối toàn bộ các hoạt động của các quốc gia trong quyết định trao đổi tội phạm. Điểm đặc biệt của trao đổi tội phạm là việc một quốc gia sẽ trao những người phạm tội là công dân nước khác cho quốc gia của những người đó với điều kiện quốc gia được trao trả cũng phải giao những công dân của họ. Do đó, sự trao đổi có tính chất hai phía, và sự tương xứng trong trao đổi tội phạm phải đảm bảo cả hai tiêu chí số lượng chất lượng. Chính vì vậy mà các tội phạm được tiến hành trao đổi chủ yếu là các tội phạm trong thời kỳ chiến tranh hoặc là tù nhân chiến tranh của hai quốc gia. Trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, việc trao đổi tội phạm được thực hiện nhiều nhất, khoảng thập niên 60 hoặc 70 của thế kỷ 20, Liên xô và mỹ đã nhiều lần tiến hành trao đổi tội phạm, giữa các nước thuộc khối Vacsava và NATO cũng phát sinh nhiều trường hợp trao đổi kiểu này [21, tr.342]. - Trao trả tội phạm Trao trả tội phạm là khái niệm pháp lý luôn gắn liền với hành vi chiếm đoạt phương tiện bay. Về bản chất pháp lý, trao trả tội phạm được hiểu là thủ tục dẫn độ rút gọn đối với các cá nhân thực hiện hành vi “bắt cóc” phương tiện bay cho quốc gia đăng tịch phương tiện bay [21, tr.342]. Trong quan hệ trao trả tội phạm xuất hiện hai loại chủ thế, chủ thể yêu cầu trao trả tội phạm là quốc gia đăng tịch phương tiện bay, còn chủ thể được yêu cầu là quốc gia nơi phương tiện bay bị chiếm đoạt
  • 27. 20 bất hợp pháp đã hạ cánh. Có thể nói đây là hình thức trợ giúp pháp lý đặc thù trong hợp tác quốc tế chống tội phạm. Quá trình trao trả tội phạm được điều chỉnh lần đầu tiên tại các điều ước quốc tế song phương về hợp tác ngăn chặn các hành vi chiếm đoạt phương tiện bay dân sự được ký kết giữa các quốc gia. 1.2. NỘI DUNG CỦA CHẾ ĐỊNH DẪN ĐỘ 1.2.1. Cơ sở dẫn độ 1.2.1.1. Điều ước quốc tế Các điều ước quốc tế có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc dẫn độ tội phạm. Đây được coi là cơ sở pháp lý để các quốc gia tiến hành dẫn độ một cách nhanh chóng và hiệu quả. Nếu không có điều ước quốc tế thì các quốc gia vẫn có thể tiến hành dẫn độ trên cơ sở áp dụng nguyên tắc có đi có lại. Tuy nhiên, việc áp dụng nguyên tắc có đi có lại không phải bao giờ cũng được thực hiện một cách dễ dàng, đặc biệt đối với các nước ở các hệ thống pháp luật khác nhau. Chẳng hạn, các nước theo hệ thống pháp luật Civil – law thì chấp nhận nguyên tắc có đi có lại, các nước theo hệ thống pháp luật Common – law thì chỉ chấp nhận dẫn độ khi nước yêu cầu và nước được yêu cầu đã ký kết hiệp định dẫn độ. Khi đã ký kết các điều ước quốc tế, tức là nghĩa vụ dẫn độ tội phạm đã được ấn định rõ ràng và họ sẽ không có quyền từ chối dẫn độ khi các điều kiện đã thỏa mãn với nội dung của điều ước. Điều ước quốc tế cũng là một trong những văn bản quy định rất chặt chẽ về thủ tục dẫn độ. Theo đó, các quốc gia có thể thực hiện việc dẫn độ theo một quy trình thống nhất. Hiện nay, các điều ước quốc tế về dẫn độ có hai loại là các hiệp định song phương và các công ước đa phương. Các công ước đa phương về dẫn độ hiện đại đã được ký kết từ những năm sáu mươi của thế kỷ này, có thể kể đến các công ước dẫn độ thuần túy như Công ước Châu Âu về dẫn độ tội phạm năm 1957, Công ước của các nước châu Mỹ về dẫn độ năm 1981, Công ước về dẫn độ của các nước thuộc Liên đoàn Ả rập, công ước về dẫn độ của Cộng đồng kinh tế các nước Tây Phi... Ngoài ra, một số quốc gia còn ký kết các điều ước có chứa các quy định liên quan đến dẫn độ để điều chỉnh vấn đề này. Các công ước này thường quy định nhiều nội dung về tương trợ tư pháp giữa các quốc gia trong đó có cả vấn đề về dẫn độ tội
  • 28. 21 phạm. Có thể kể đến một số công ước như ba Công ước của Liên Hợp Quốc về kiểm soát ma tuý năm 1961, 1971 và 1982, Công ước đa phương về các tội phạm và một số hành vi khác thực hiện trên tàu bay năm 1963; Công ước La Hay về trấn áp hành vi chiếm giữ bất hợp pháp tàu bay năm 1970; Công ước đa phương trấn áp hành vi bất hợp pháp xâm phạm an toàn hàng không dân dụng năm 1971; Công ước về phòng ngừa và trấn áp các tội chống lại người được hưởng sự bảo hộ quốc tế, kể cả viên chức ngoại giao năm 1973; Công ước quốc tế về chống bắt cóc con tin năm 1979; Công ước quốc tế về trấn áp hành vi khủng bố bằng bom năm 1997; Công ước quốc tế về trấn áp hành vi tài trợ cho khủng bố năm 1999... 1.2.1.2. Pháp luật quốc gia Trước xu thế hội nhập quốc tế, việc các quốc gia tự xây dựng cho mình những đạo luật riêng biệt điều chỉnh vấn đề dẫn độ tội phạm là cần thiết. Các đạo luật này thường chứa các quy định xác định rõ các tội phạm thuộc diện dẫn độ quốc tế, hoặc là thống kê các loại tội phạm mà việc dẫn độ quốc tế không được đảm bảo. Khi các quốc gia chưa ký kết các điều ước quốc tế, thì các đạo luật về dẫn độ tội phạm của quốc gia được coi là một trong những cơ sở để quốc gia thực hiện dẫn độ tội phạm cùng với việc áp dụng các nguyên tắc khác của luật quốc tế về dẫn độ. Đây cũng được coi là một trong những nguồn tham khảo mà các quốc gia có thể sử dụng khi xây dựng các nội dung của các điều ước quốc tế về dẫn độ tội phạm. Tuy nhiên, các đạo luật quốc gia không phải là cơ sở pháp lý trực tiếp để các quốc gia thực hiện dẫn độ. Khi quốc gia đã tham gia các điều ước quốc tế, thì các quy định của điều ước sẽ được thực hiện thay vì áp dụng các quy tắc về dẫn độ của luật quốc gia. Về phạm vi, các quy phạm dẫn độ của quốc gia thường quy định các nội dung về thủ tục dẫn độ, điều kiện và các nguyên tắc dẫn độ… Về hình thức, các quy định pháp luật quốc gia về dẫn độ có thể được chứa đựng trong một đạo luật riêng về dẫn độ, hoặc có thể được quy định chung trong pháp luật tố tụng hình sự, hoặc được qui định riêng rẽ trong Luật hình sự, Luật tổ chức hành chính, Luật TTHS… với những nội dung tương ứng phù hợp với phạm vi điều chỉnh của từng ngành luật mà Việt nam là một ví dụ.
  • 29. 22 1.2.1.3. Quan hệ thân thiện có đi có lại giữa các quốc gia Đây là một trong những nguyên tắc được thừa nhận rộng rãi của luật quốc tế về dẫn độ. Nguyên tắc có đi có lại với tính chất là cơ sở quan trọng để các quốc gia xây dựng các quy định của điều ước quốc tế về dẫn độ quốc tế. Khi phát sinh nhu cầu dẫn độ người phạm tội mà giữa các nước chưa có điều ước quốc tế quy định về dẫn độ thì nguyên tắc có đi có lại được coi là quy phạm trực tiếp điều chỉnh vẫn đề dẫn giữa hai quốc gia đó trên cơ sở thực tiễn thông lệ quốc tế chung. Theo đó, một quốc gia sẽ dẫn độ tội phạm cho quốc gia yêu cầu nếu quốc gia đó cam kết sẽ thực hiện dẫn độ khi có điều kiện tương tự. (Xem thêm nguyên tắc có đi có lại mục 1.2.2.2 luận văn này). 1.2.2. Các nguyên tắc của dẫn độ 1.2.2.1. Nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia Chủ quyền quốc gia là tối cao và bất khả xâm phạm thể hiện qua quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đây là nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế cũng như hoạt động dẫn độ tội phạm. Nội dung của nguyên tắc này được thể hiện trong tuyên bố của Liên Hợp Quốc về các nguyên tắc của luật quốc tế năm 1970 với các yếu tố sau: 1) Về mặt pháp lí các quốc gia đều bình đẳng; 2) Mỗi nước đều sử dụng các quyền thuộc chủ quyền đầy đủ; 3) Mỗi nước có nghĩa vụ tôn trọng quyền năng chủ thể của các nước khác; 4) Tính toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị của nhà nước là bất khả xâm phạm; 5) Mỗi nước có quyền tự do lựa chọn và phát triển chế độ chính trị, xã hội, kinh tế và văn hoá của mình; 6) Mỗi nước có nghĩa vụ thực hiện nghiêm chỉnh nghĩa vụ quốc tế của mình và sống trong hoà bình với các nước khác. Trong hoạt động dẫn độ nguyên tắc này được thể hiện như sau: khi một quốc gia nhận được một yêu cầu dẫn độ thì quốc gia đó có quyền từ chối hay chấp nhận tùy vào pháp luật dẫn độ của nước mình hay các điều ước quốc tế mà mình đã ký kết hoặc tham gia. Quốc gia yêu cầu chỉ được tiếp nhận đối tượng sau khi quốc gia được yêu cầu thực hiện xong các hoạt động liên quan đến dẫn độ. Do dẫn độ tội phạm là vấn đề trực tiếp có ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của mỗi quốc gia, nó không tồn tại dưới dạng nghĩa vụ pháp lý trong quan hệ với các quốc gia khác nên quốc gia được yêu cầu sẽ không buộc phải dẫn độ người phạm tội nếu quốc gia này không muốn làm việc đó.
  • 30. 23 Tuy nhiên, cũng cần nhận thấy rằng, mỗi quốc gia không thể tồn tại riêng lẻ mà không có sự hợp tác, chia sẻ với các quốc gia khác. Trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm đang phát triển ở phạm vi toàn cầu thì nhu cầu về sự hợp tác giữa các quốc gia để dẫn độ những người phạm tội càng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết, bởi mỗi quốc gia không thể đảm bảo trong mọi trường hợp đều có thể tiến hành xử lý hình sự đối với người phạm tội khi người đó có thể tự do di chuyển từ quốc gia này sang quốc gia khác. Trong trường hợp này, yếu tố chủ quyền quốc gia trong lĩnh vực dẫn độ tội phạm thường được thể hiện một cách linh hoạt thông qua việc các quốc gia sử dụng nguyên tắc có đi có lại hoặc đàm phán, ký kết hoặc gia nhập các điều ước quốc tế về dẫn độ để thực hiện dẫn độ người phạm tội cho một bên phù hợp để bên đó tiến hành truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành hình phạt đối với người phạm tội. 1.2.2.2. Nguyên tắc có đi có lại Đây là nguyên tắc pháp lý cần thiết để đảm bảo việc dẫn độ tội phạm có hiệu quả. Nội dung của nguyên tắc này quy định: nước được yêu cầu dẫn độ sẽ chấp nhận dẫn độ với sự đảm bảo rằng nước có yêu cầu giúp đỡ cũng sẽ chấp nhận và thực hiện một yêu cầu như vậy của nước được yêu cầu trong tương lai. Cơ sở của sự có đi có lại trong hoạt động dẫn độ tội phạm giữa các quốc gia chính là nguyên tắc tôn trọng quyền bình đẳng và chủ quyền giữa các quốc gia. Bởi thực chất vấn đề dẫn độ không tạo ra sự bắt buộc phải thực hiện yêu cầu dẫn độ giữa quốc gia yêu cầu với quốc gia được yêu cầu mà thể hiện sự thiện ý, thỏa thuận và thống nhất giữa các quốc gia. Tuy nhiên, nguyên tắc này không đồng nghĩa với sự trao đổi ngang bằng và ngay lập tức, mà tùy từng trường hợp để quyết định có thực hiện yêu cầu hợp tác của bên đối tác hay không. Nguyên tắc có đi có lại thường được ghi nhận trong các đạo luật quốc gia của các nước như: Luật về dẫn độ tội phạm năm 1958 của Tây Ban Nha, đạo luật năm 1870 của đại công quốc Luxembua, đạo luật năm 1954 của Ixraen, Bộ luật tố tụng hình sự của Tây Ban Nha, Luật tương trợ tư pháp năm 2007 của Việt Nam.…
  • 31. 24 Nguyên tắc có đi có lại là nguyên tắc bao trùm, định hướng cho các quốc gia trong việc ký kết các điều ước cũng như xây dựng các quy định liên quan đến dẫn độ đồng thời xác định các trường hợp có thể dẫn độ khi một quốc gia nhận được yêu cầu dẫn độ, nhất là khi giữa các quốc gia chưa ký kết các điều ước quốc tế quy định các nội dung về dẫn độ. Thực tế cho thấy, khi hai quốc gia chưa có các điều ước về dẫn độ thì nguyên tắc có đi có lại được coi là cơ sở quan trọng để các quốc gia thực hiện dẫn độ người phạm tội. Tuy nhiên, việc áp dụng nguyên tắc này cũng có thể đưa đến rủi ro nhất định như việc nước yêu cầu không thực hiện đúng cam kết của mình (dẫn độ trong trường hợp tương tự) có thể làm ảnh hưởng đến quan hệ ngoại giao của hai nước hoặc khi hai nước chưa có hiệp định về dẫn độ mà luật một nước quy định chỉ áp dụng việc dẫn độ theo điều ước quốc tế thì việc áp dụng nguyên tắc có đi có lại để dẫn độ người phạm tội trong trường hợp này rất khó thực hiện. Do đó, các nước theo hệ thống pháp luật Common law chỉ dẫn độ khi nước yêu cầu và nước được yêu cầu đã ký kết các hiệp ước song phương về dẫn độ, trong khi các nước theo hệ thống pháp luật Civil law lại coi nguyên tắc có đi có lại là cơ sở để giải quyết các trường hợp dẫn độ tội phạm giữa các quốc gia khi các nước này chưa có hiệp ước về dẫn độ. 1.2.2.3. Nguyên tắc định tội danh kép Đây là nguyên tắc đặc thù trong dẫn độ tội phạm được hầu hết các nước áp dụng. Nội dung của nguyên tắc này là đối tượng bị yêu cầu dẫn độ chỉ có thể được dẫn độ khi hành vi của họ được định danh là hành vi tội phạm theo luật quốc gia của cả nước yêu cầu và nước nhận được yêu cầu dẫn độ. Nếu pháp luật của hai nước không thỏa mãn điều kiện này thì quốc gia được yêu cầu có quyền từ chối dẫn độ. Như vậy, quốc gia yêu cầu không thể yêu cầu dẫn độ người phạm tội nếu như hành vi của người đó không cấu thành tội phạm theo pháp luật nước mình, ngược lại, quốc gia được yêu cầu cũng có quyền từ chối dẫn độ nếu hành vi của người bị yêu cầu không cấu thành tội phạm theo pháp luật của quốc gia đó. Thêm vào đó, tội phạm mà người bị dẫn độ thực hiện phải được định mức hình phạt cụ thể phù hợp pháp luật của cả hai nước được thể hiện trong luật quốc gia của mỗi nước hoặc theo thỏa thuận giữa các quốc gia trong điều ước quốc tế đã được ký kết.
  • 32. 25 Quy định về định tội danh kép được các quốc gia sử dụng khá phổ biến trong các hiệp ước song phương và đa phương về dẫn độ. Tuy nhiên, việc áp dụng nguyên tắc này cũng có những khó khăn nhất định khi hệ thống pháp luật của các quốc gia không có sự tương đồng. Trên thực tế, luật pháp của các quốc gia khác nhau thường sẽ có sự khác nhau trong việc định nghĩa và phân loại hành vi phạm tội, hoặc cùng hành vi sẽ bị trừng phạt bằng hình luật thì lại được gọi bằng tên tội phạm khác nhau. Trong khi đó vì nguyên tắc độc lập chủ quyền, các quốc gia không thể điều tra hệ thống pháp luật của nhau để xác định sự phù hợp của tội phạm bị dẫn độ. Ngoài ra, nếu thời hiệu tố tụng hình sự đã chấm dứt hoặc có các đao luật ân xá theo pháp luật của một trong hai nước thì việc truy cứu trách nhiệm hình sự cũng không thể thực hiện được. Điểm c khoản 1 Điều 3 hiệp định về dẫn độ giữa Việt Nam và Hàn Quốc cũng đã quy định rõ về vấn đề này: “Khi việc truy cứu trách nhiệm hình sự hay áp dụng hình phạt đối với tội phạm được yêu cầu dẫn độ bị cản trở do quy định về thời hiệu pháp luật của bên được yêu cầu quy định đối với tội phạm như vậy nếu tội đó cũng được thực hiện tại Bên được yêu cầu”. Để khắc phục tình trạng này, các quốc gia thường tiến hành so sánh hệ thống pháp luật của nhau để tìm ra điểm tương đồng trong các tội phạm được yêu cầu dẫn độ. Theo đó, không nhất thiết các tội phạm được định danh hay có cấu thành tội phạm phải giống nhau tuyệt đối mà chỉ cần có một số điểm tương đồng thì các quốc gia có thể tiến hành dẫn độ. Quan điểm này được nhiều quốc gia ủng hộ bởi bản chất của nguyên tắc tội phạm kép là sự thống nhất về nội dung hành vi của tội phạm chứ không phải là sự trùng hợp về tên gọi của tội phạm. Nguyên tắc dẫn độ tội phạm kép được mở rộng trong cả trường hợp v́ một số lư do khách quan như vị trí tự nhiên hay các điều kiện kinh tế xã hội mà trong hệ thống pháp luật của nước được yêu cầu không quy định tội phạm được yêu cầu dẫn độ. Ví dụ, Lào là quốc gia không có biển nên BLHS của Lào không quy định tội cướp biển, trong trường hợp này nếu vận dụng nguyên tắc tội phạm kép thì sẽ không thực hiện được việc dẫn độ nếu một quốc gia khác yêu cầu Lào dẫn độ người phạm tội cướp biển. Tuy nhiên, các quốc gia cần linh hoạt để đảm bảo tội phạm không có cơ hội được trốn thoát.
  • 33. 26 1.2.2.4. Nguyên tắc không dẫn độ công dân nước mình Việc điều chỉnh vấn đề dẫn độ luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với quốc tịch cá nhân bị yêu cầu dẫn độ. Nội dung của nguyên tắc không dẫn độ công dân của quốc gia được yêu cầu là: nếu người được yêu cầu dẫn độ là công dân của quốc gia được yêu cầu thì nước này có quyền từ chối dẫn độ người đó cho nước yêu cầu. Nguyên tắc này thường được đặt ra khi đối tượng bị dẫn độ là các cá nhân đã thực hiện hành vi phạm tội và bị xét xử hoặc người bị tình nghi thực hiện hành vi tội phạm đang lẩn trốn ở ngoài lãnh thổ của quốc gia yêu cầu dẫn độ và cư trú tại quốc gia anh ta là công dân. Nguyên tắc không dẫn độ công dân được ghi nhận trong rất nhiều các văn bản pháp lý quốc tế cũng như trong pháp luật của các quốc gia về dẫn độ. Điều 6 (1), công ước Châu Âu năm 1957 về dẫn độ tội phạm quy định: “mỗi bên ký kết có quyền từ chối dẫn độ công dân của mình”. Điểm a, Điều 4 – Hiệp định dẫn độ mẫu của Liên Hiệp Quốc quy định: “việc dẫn độ có thể bị từ chối: a) Nếu người bị yêu cầu dẫn độ là người người của nước được yêu cầu. Các văn bản khác như Tuyên bố chung của hội nghị quốc tế lần thứ III về thống nhất hóa luật quốc tế, Công ước năm 1948 về tội phạm diệt chủng, Quy chế của các tòa án quân sự quốc tế Nurumberg và Tokyo, công ước năm 1968 về việc không áp dụng thời hiệu tố tụng đối với các tội phạm chiến tranh và tội phạm chống loài người; công ước của các quốc gia thuộc SNG năm 1993 về tương trợ tư pháp trong các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự [21, tr.333]… đều có các điều khoản quy định về việc không dẫn độ công dân của nước mình. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Luật tương trợ tư pháp năm 2007 của Việt Nam và tất cả hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự, hiệp định dẫn độ mà Việt Nam đã ký kết với các nước đều quy định nguyên tắc không dẫn độ công dân là trường hợp bắt buộc để từ chối dẫn độ. Nguyên tắc không dẫn độ công dân được áp dụng khá phổ biến ở các quốc gia theo hệ thống pháp luật Civil – Law. Những quan điểm bảo vệ nguyên tắc này
  • 34. 27 cho rằng, việc tiến hành các thủ tục tố tụng sẽ được đảm bảo và hiệu quả hơn nếu người phạm tội được truy tố, xét xử và thi hành án tại quốc gia nơi anh ta là công dân, đây cũng được coi là môi trường tốt nhất để người phạm tội phục hồi nhân phẩm. Thêm vào đó xét xử công dân là quyền và trách nhiệm thuộc về chủ quyền của mỗi quốc gia mà họ không thể từ chối khi công dân của mình thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên, để đảm bảo không có một sự nhân nhượng mang tính chủ quan nào đối với người phạm tội cũng như bỏ lọt tội phạm từ quốc gia mà anh ta là công dân, các nước đều thống nhất rằng, khi nước được yêu cầu không thực hiện dẫn độ công dân của mình thì có nghĩa vụ chuyển giao vụ việc cho cơ quan có thẩm quyền của nước mình để tiến hành các thủ tục tố tụng hình sự cần thiết xét xử người bị yêu cầu dẫn độ, đồng thời, thông báo cho các quốc gia yêu cầu dẫn độ được biết. Điều 6 (2) công ước Châu Âu 1957 quy định: “Nếu bên được yêu cầu dẫn độ không dẫn độ công dân của mình thì theo đề nghị của bên yêu cầu, bên được yêu cầu phải giao người phạm tội cho các cơ quan có thẩm quyền của mình độ thực hiện những thủ tục mà họ cho là phù hợp”. Trên thực tế, nguyên tắc không dẫn độ công dân sẽ rất dễ ràng thực hiện nếu như tư cách (quốc tịch) của công dân đó được xác định hay nói cách khác anh ta chỉ có một quốc tịch nhưng sẽ rất khó khăn để áp dụng nguyên tắc này nếu như người bị yêu cầu dẫn độ có từ hai quốc tịch trở lên. Bên cạnh đó, khái niệm “công dân” cũng được hiểu khác nhau ở nhiều nước, ví dụ như Đan Mạch và Thụy Điển coi công dân của Na Uy là công dân của mình. Điều này dẫn đến tình huống, khi có yêu cầu dẫn độ thì xung đột quốc tịch sẽ làm cho việc dẫn độ khó thực hiện. Mặt khác, nguyên tắc này có thể dẫn đến việc miễn trừ trách nhiệm hình sự đối với một số người phạm tội ẩn náu trên đất nước của anh ta nếu quốc gia được yêu cầu không có thẩm quyền xét xử hành vi phạm tội đó. Chính vì lý do này mà luật nhiều nước đã cho phép thực hiện dẫn độ ngay cả khi người bị yêu cầu dẫn độ là công dân nước mình, điển hình như Áo, Anh, Ixraen, Ấn độ, Canada… [21, tr. 333]. Ngoài ra, nguyên tắc không dẫn độ công dân nước mình không được áp dụng khi các cá nhân thực hiện các tội ác quốc tế như: tội phạm chống hòa bình, tội chống nhân loại, tội
  • 35. 28 phạm chiến tranh, tội diệt chủng, tội phân biệt chủng tộc… Bởi đây là những tội phạm đặc biệt nguy hiểm, có thể ảnh hưởng đến hòa bình và an ninh nhân loại. Do đó, các nước có nghĩa vụ dẫn độ công dân của nước mình cho nước ngoài xét xử nếu công dân của họ thực hiện một trong các tội phạm này. 1.2.2.5. Nguyên tắc không dẫn độ người phạm tội về chính trị Nguyên tắc không dẫn độ tội phạm chính trị bắt đầu xuất hiện vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX tại Pháp, khi quốc gia này quy định những người vì động cơ chính trị chống lại chế độ phong kiến trong thời kỳ cách mạng tư sản không được coi là đối tượng bị dẫn độ trong các điều ước quốc tế. Hiện nay, nguyên tắc này đã được thừa nhận rộng rãi trong cộng đồng quốc tế và được ghi nhận trong các điều ước quốc tế song phương và đa phương về dẫn độ giữa các quốc gia. Nội dung của nguyên tắc không dẫn độ tội phạm chính trị được hiểu là nước được yêu cầu có quyền từ chối dẫn độ cho quốc gia yêu cầu nếu người bị yêu cầu dẫn độ thực hiện một tội phạm chính trị hay tội phạm có tính chất chính trị. Đây được coi là một trong những chính sách có tính chất nhân văn của các quốc gia đối với loại tội phạm đặc biệt này. Lập luận cho việc từ chối dẫn độ trong trường hợp này xuất phát từ quan điểm người thực hiện tội phạm chính trị được coi là những người phạm tội vì động cơ cao quý và mục đích chính trị thường liên quan đến các đảng phái, tôn giáo hoặc lợi ích của một nhóm người nhất định trong xã hội. Do đó, họ không thể bị đối xử như những người phạm tội thông thường khác. Mặc dù nguyên tắc không dẫn độ tội phạm chính trị đã được thừa nhận và áp dụng khá phổ biến ở các quốc gia trong việc thực hiện dẫn độ người phạm tội, tuy nhiên, hiện nay chưa có một văn bản pháp lý nào đưa ra khái niệm về tội phạm chính trị hay tội phạm có tính chất chính trị cũng như chưa có một cách hiểu thống nhất về tội phạm chính trị giữa các quốc gia. Điều này có thể dẫn đến tình trạng việc dẫn độ bị cản trở bởi thái độ không tích cực của nước được yêu cầu. Trong khoa học pháp lý cũng đã có sự phân chia tội phạm chính trị thành hai loại là tội phạm chính trị tuyệt đối (là những hành vi không gây ra bất kỳ sự nghi ngờ nào về tính chất chính trị của tội phạm như: hành vi kêu gọi biểu tình, mít tinh, kích động các hoạt động vũ trang
  • 36. 29 chống chính trị) và tội phạm chính trị tương đối (là những hành vi phạm tội có tính chất hình sự chung nhưng được thực hiện với động cơ, lý do chính trị như sát hại các chính khách của đảng phái đối lập, đốt phá các kho vũ khí, các khu dân cư nhằm kích động bạo loạn…) [21, tr.336]. Tuy nhiên đây chỉ là quan điểm lý luận và không được coi là căn cứ để các quốc gia xác định tội phạm được yêu cầu có phải là tội phạm chính trị và có thể từ chối dẫn độ người phạm tội đó hay không. Thực tiễn cho thấy, cơ sở để xác định hành vi phạm tội có tính chất chính trị hay không thường phụ thuộc vào hệ thống pháp luật cũng như chính sách, đường lối của quốc gia được yêu cầu dẫn độ, nơi cá nhân dẫn độ đang bỏ trốn. Theo đó, quốc gia được yêu cầu có thể từ chối dẫn độ người phạm tội nếu có căn cứ cho rằng hành vi đó được thực hiện vì mục đích chính trị. Ngay cả những trường hợp phạm tội thông thường nhưng nếu nước được yêu cầu nhận thấy tội phạm thông thường đó được thực hiện vì động cơ chính trị thì cũng có thể từ chối dẫn độ và cho người bị yêu cầu dẫn độ hưởng quyền cư trú chính trị. Do việc xác định tội phạm chính trị khó khăn như vậy nên trong các văn bản pháp lý quốc tế dùng cách liệt kê những tội phạm không được coi là tội phạm chính trị để để hưởng quyền cư trú bao gồm: - Các tội chống loài người được quy định cụ thể trong Công ước về ngăn chặn và trừng trị các tội diệt chủng, được Đại Hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 9.9.1948; - Các hành vi vi phạm những quy định tại Điều 50 – Công ước Genevơ 1949 về cải thiện tình trạng của thương, bệnh binh thuộc lực lượng chiến đấu trên bộ; Điều 51 - Công ước Genevơ 1949 về cải thiện tình trạng của thương, bệnh binh và những người bị đắm tàu thuộc lực lượng hải quân; Điều 130 - Công ước Genevơ 1949 về đối xử với tù binh chiến tranh và Điều 147 - Công ước Genevơ 1949 về bảo vệ dân thường trong thời chiến; - Mọi hành vi tương tự như trên vi phạm các luật chiến tranh có hiệu lực trong thời chiến, vi phạm các tập quán, tập quán chiến tranh hiện có nếu nó không được quy định trong các Công ước Genevơ đã được đề cập ở trên; - Hành vi phạm tội thuộc phạm vi Công ước về ngăn chặn hành vi bắt giữ máy bay trái phép xâm phạm đến an ninh hàng không, được ký kết tại Hague ngày 16.9.1970;
  • 37. 30 - Hành vi phạm tội thuộc phạm vi Công ước về ngăn chặn hành vi bắt giữ máy bay trái phép xâm phạm đến an ninh hàng không, được ký kết ngày 23.9.1971; - Hành vi phạm tội nghiêm trọng xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tự do của những cá nhân được bảo vệ bằng luật pháp quốc tế, bao gồm các nhân viên ngoại giao; - Hành vi phạm tội bắt cóc trẻ em, bắt cóc con tin hay giam giữ người khác trái phép nghiêm trọng; - Hành vi phạm tội sử dụng bom, lựu đạn, tên lửa, súng ngắn tự động hoặc bom thư, bom bưu phẩm nếu việc sử dụng này gây nguy hiểm cho con người. Trong đó, thuật ngữ nguy hiểm được hiểu là việc gây chết người hoặc gây thương tích [22, tr.25]. Do tính chất dã man của hành vi khủng bố có thể gây nguy hại đến tính mạng sức khoẻ của rất nhiều người dân vô tội nên luật quốc tế quy định người thực hiện tội phạm khủng bố kể cả hành vi đó là vì mục đích chính trị thì cũng không được hưởng quyền không bị dẫn độ. Ngoài ra, nguyên tắc không dẫn độ tội phạm chính trị cũng có ngoại lệ nữa là thủ phạm giết hại nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu chính phủ hoặc các nhà lãnh đạo cao cấp khác của quốc gia không được hưởng quyền không bị dẫn độ sau khi thực hiện hành vi phạm tội. 1.2.3. Thủ tục dẫn độ Theo các điều ước quốc tế song phương và đa phương cũng như nội luật của các quốc gia, quy trình dẫn độ thường được chia làm các giai đoạn: Nước yêu cầu gửi văn bản yêu cầu dẫn độ đến nước được yêu cầu, sau đó nước được yêu cầu xem xét yêu cầu dẫn độ và ra quyết định, cuối cùng, hai Bên tiến hành chuyển giao người bị yêu cầu dẫn độ và tài sản liên quan đến vụ án. Theo quy định chung của luật quốc tế, yêu cầu dẫn độ phải được lập thành văn bản do cơ quan có thẩm quyền của nước yêu cầu dẫn độ thực hiện, có kèm theo các giấy tờ, tài liệu cần thiết làm căn cứ chứng minh cơ sở của yêu cầu dẫn độ. Trình tự, thủ tục dẫn độ được thực hiện thông qua các kênh ngoại giao hoặc tư pháp của các quốc gia có liên quan. Hiệp định mẫu về dẫn độ của Liên hợp quốc quy định “Yêu cầu dẫn độ phải được thực hiện thông qua văn bản, hồ sơ và tài liệu sẽ được chuyển qua kênh ngoại giao trực tiếp giữa cơ quan có thẩm quyền của các bên” [53, Điều 5], Công ước Châu Âu năm 1957 cũng có quy định tương tự “Yêu cầu dẫn độ phải được lập
  • 38. 31 bằng văn bản và phải được truyền đạt thông qua các kênh ngoại giao” [51, Điều 12]. Các hiệp ước song phương về dẫn độ giữa các quốc gia cũng ghi nhận quy định này làm cơ sở để tiến hành dẫn độ người phạm tội. Trong mỗi trường hợp cụ thể thì văn bản yêu cầu dẫn độ có thể chứa đựng những nội dung khác nhau phụ thuộc vào sự thỏa thuận giữa quốc gia yêu cầu dẫn độ và quốc gia được yêu cầu. Nhìn chung, các điều ước song phương và đa phương về dẫn độ giữa các nước quy định văn bản yêu cầu dẫn độ phải chứa đựng các nội dung quan trọng gồm: - Tên của cơ quan được yêu cầu dẫn độ tội phạm. - Trình bày có tính chất miêu tả các hoàn cảnh thực tế của hành vi phạm tội và văn bản pháp lý trong nước của mỗi quốc gia yêu cầu dẫn độ khẳng định cơ sở pháp lý để công nhận hành vi đã thực hiện là hành vi tội phạm theo pháp luật nước này. - Họ và tên của cá nhân bị yêu cầu dẫn độ, quốc tịch, nơi thường trú hoặc tạm trú của người này và trong khả năng cho phép là bản nhận dạng cùng các thông tin dữ liệu về lý lịch nhân thân và ảnh của cá nhân phạm tội. - Mức độ thiệt hại vật chất nếu có của hành vi phạm tội gây ra [21, tr.339]. Sau khi nước yêu cầu gửi văn bản yêu cầu dẫn độ cùng các tài liệu kèm theo, nước được yêu cầu có quyền đề nghị nước yêu cầu bổ sung thông tin để làm rõ những vấn đề liên quan đến vụ việc dẫn độ. Trong trường hợp yêu cầu dẫn độ đã đầy đủ, nước được yêu cầu sẽ tiến hành xem xét yêu cầu và quyết định có dẫn độ hay không. Hiệp định mẫu về dẫn độ của Liên hợp quốc [53, Điều 6], Công ước Châu Âu về dẫn độ năm 1957 [51, Điều 16], các điều ước về dẫn độ, luật dẫn độ của các quốc gia đều có quy định về việc bắt giữ người bị yêu cầu dẫn độ sau khi nhận được yêu cầu, tuy nhiên, theo kiến nghị của nước yêu cầu, việc bắt giữ cũng có thể được thực hiện trước khi nước được yêu cầu nhận được văn bản yêu cầu dẫn độ trong những trường hợp khẩn cấp nhằm tránh trường hợp người bị yêu cầu dẫn độ chạy trốn. Theo thông lệ chung, quốc gia yêu cầu muốn nhận người được dẫn độ từ quốc gia khác phải đáp ứng các yêu cầu về mặt thủ tục do quốc gia được yêu cầu
  • 39. 32 đưa ra. Quy định này một phần xuất phát từ lập luận, trong quan hệ dẫn độ, vì người phạm tội đang có mặt tại quốc gia được yêu cầu nên về mặt thủ tục việc dẫn độ chủ yếu sẽ liên quan đến pháp luật của quốc gia được yêu cầu. Công ước Châu Âu năm 1957 cũng đã có quy định tương tự về vấn đề này “Các thủ tục liên quan đến việc dẫn độ và bắt giữ người tạm thời sẽ chỉ bị chi phối bởi pháp luật của Bên được yêu cầu” [51, Điều 22]. Như vậy, trong hầu hết các điều ước quốc tế về dẫn độ tội phạm thì thủ tục dẫn độ thường không được quy định chi tiết mà các bên thống nhất trình tự dẫn độ còn các thủ tục chi tiết của quá trình dẫn độ sẽ do nước được yêu cầu thực hiện. Nước yêu cầu sẽ thực hiện các thủ tục mà quốc gia được yêu cầu đề nghị để việc dẫn độ đạt hiệu quả. 1.2.4. Thẩm quyền thực hiện dẫn độ Do đặc trưng của dẫn độ thể hiện mối quan hệ hợp tác vượt ra khỏi phạm vi lãnh thổ quốc gia nên các quyết định, hoạt động của quá trình dẫn độ thường là sự nhân danh của một quốc gia trong quan hệ với quốc gia khác. Tuy nhiên, chúng ta hiểu rằng, dẫn độ không phải là một hoạt động ngoại giao đơn thuần giữa hai nhà nước mà là sự phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền của cả nước yêu cầu và nước được yêu cầu nhằm đưa người phạm tội trở về nước yêu cầu để truy cứu trách nhiệm hình sự hay thi hành hình phạt. Tương tự như vấn đề về trình tự, thủ tục dẫn độ, thẩm quyền dẫn độ cũng là một nội dung thuộc sự điều chỉnh của luật quốc gia và được quy định cụ thể trong các đạo luật về dẫn độ của mỗi quốc gia, trong đó chỉ rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cơ quan trong việc giải quyết các vấn đề về dẫn độ. Tùy thuộc vào hệ thống các cơ quan nhà nước của mỗi quốc gia mà việc phân chia nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan trong hoạt động dẫn độ có sự khác nhau nhất định. Thông thường, dẫn độ sẽ bắt đầu từ việc gửi yêu cầu dẫn độ thông qua các kênh ngoại giao của hai nước, cơ quan làm nhiệm vụ này cũng đồng thời giữ vai trò đầu mối về dẫn độ. Tiếp đó, căn cứ vào các quy định pháp luật của nước được yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm xem xét, xử lý yêu cầu dẫn độ và phản