Luận Văn Bảo Vệ Bên Yếu Thế Trong Pháp Luật Hợp Đồng. Người viết tiến hành nghiên cứu với các mục đích: Một là, chứng minh sự cần thiết của việc nhìn nhận và ghi nhận vấn đề hợp đồng có một bên yếu thế trong hệ thống pháp luật hợp đồng Việt Nam; và hai là, nêu lên những giải pháp cụ thể và nhìn nhận những vấn đề kèm theo khi nhà làm luật thực sự muốn ghi nhận quy định pháp luật điều chỉnh về hợp đồng có một bên yếu thế tại Việt Nam.
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...
Luận Văn Bảo Vệ Bên Yếu Thế Trong Pháp Luật Hợp Đồng.doc
1. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN LÂM GIANG
BẢO VỆ BÊN YẾU THẾ TRONG PHÁP
LUẬT HỢP ĐỒNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
2. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN LÂM GIANG
BẢO VỆ BÊN YẾU THẾ TRONG PHÁP
LUẬT HỢP ĐỒNG
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8380107
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. PHẠM DUY NGHĨA
3. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên là Nguyễn Lâm Giang, mã số học viên: 7701240658A, là học viên lớp Cao
học Luật LLM 01, Khóa chuyên ngành Luật kinh tế, Khoa Luật, Trường Đại học Kinh tế
TP. Hồ Chí Minh, là tác giả của Luận văn thạc sĩ luật học với đề tài “BẢO VỆ BÊN YẾU
THẾ TRONG PHÁP LUẬT HỢP ĐỒNG” (Sau đây gọi tắt là “Luận Văn”).
Tôi xin cam đoan tất cả các nội dung được trình bày trong Luận Văn này là kết quả
nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của người hướng dẫn khoa học.
Trong Luận Văn có sử dụng, trích dẫn một số ý kiến, quan điểm khoa học của một số tác
giả. Các thông tin này đều được trích dẫn nguồn cụ thể, chính xác và có thể kiểm chứng.
Các số liệu, thông tin được sử dụng trong Luận Văn là hoàn toàn khách quan và trung
thực.
Học viên thực hiện
Nguyễn Lâm Giang
4. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TÓM TẮT ĐỀ TÀI
PHẦN MỞ ĐẦU...................................................................................................................1
Chương 1. TỔNG QUAN VỀ HỢP ĐỒNG CÓ MỘT BÊN YẾU THẾ......................6
1.1 Những vấn đề cơ bản về hợp đồng có một bên yếu thế..............................6
1.1.1 Định nghĩa về hợp đồng...........................................................................6
1.1.2 Định nghĩa về hợp đồng có một bên yếu thế............................................8
1.2 Những vấn đề lý luận về hợp đồng có một bên yếu thế........................... 11
1.2.1 Cơ sở lý luận của hợp đồng có một bên yếu thế: Học thuyết giao dịch
không cân bằng ....................................................................................................................11
1.2.2 Phân loại các giao dịch bất công thái quá ..............................................14
1.2.3 Vấn đề hiệu lực của hợp đồng có một bên yếu thế ................................16
Kết luận Chương 1............................................................................................................ 20
Chương 2. PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG CÓ MỘT BÊN YẾU THẾ TRÊN THẾ
GIỚI 21
2.1 Khối Thịnh Vượng Chung (British Commonweath)............................... 21
2.2 Hoa Kỳ......................................................................................................... 28
2.3 Pháp ............................................................................................................. 31
2.4 Trung Quốc ................................................................................................. 35
2.5 Một số pháp luật quốc tế khác................................................................... 36
Kết luận Chương 2............................................................................................................ 37
Chương 3. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP VỀ PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG
CÓ MỘT BÊN YẾU THẾ TẠI VIỆT NAM 39
3.1 Một số quy định pháp luật và thực trạng về hợp đồng có một bên yếu
thế tại Việt Nam ................................................................................................................ 39
5. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
3.1.1 Hợp đồng thương mại điện tử ................................................................43
3.1.2 Hợp đồng theo mẫu................................................................................50
3.1.3 Một số hợp đồng có một bên yếu thế khác ............................................57
3.2 Giải pháp cho Việt Nam............................................................................. 59
3.2.1 Ghi nhận cụ thể về hợp đồng có một bên yếu thế, giao dịch bất công thái
quá........................................................................................................................................59
3.2.2 Quy định cụ thể về thẩm quyền tài quán đối với hợp đồng có một bên
yếu thế tại Việt Nam ............................................................................................................61
3.2.3 Một số vấn đề khác cần lưu ý trong pháp luật về hợp đồng có một bên
yếu thế tại Việt Nam ............................................................................................................67
Kết luận Chương 3............................................................................................................ 69
KẾT LUẬN........................................................................................................................ 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
PHẦN PHỤ LỤC ĐÍNH KÈM
6. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLDS Bộ luật Dân sự
BVQLNTD Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
SGDTMĐT Sàn giao dịch thương mại điện tử
TAND Tòa án nhân dân
TMĐT Thương mại điện tử
UCC Uniform Commercial Code (Hoa Kỳ)
TP.HCM Thành phố Hồ Chí Minh
7. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
TÓM TẮT ĐỀ TÀI
Luận văn thảo luận về các vấn đề liên quan đến bên yếu thế trong hợp đồng – vốn
là một chủ thể đặc biệt cần sự bảo vệ của pháp luật cũng như các cơ quan tài phán. Trong
một nền kinh tế thị trường ngày một sôi động, các quan hệ xã hội ngày càng mở rộng, đây
chính là tiền đề cho việc gia tăng các giao dịch, hợp đồng trong đời sống. Mặt khác, quan
hệ hợp đồng ngày nay không chỉ gói gọn trong “thuận mua vừa bán” mà trở nên phức tạp
hơn với sự xuất hiện của một quan hệ hợp đồng mới: hợp đồng có một bên yếu thế, vốn
đang gây ra nhiều tranh chấp trong thực tiễn hiện nay. Tuy nhiên, tại Việt Nam, bên yếu
thế trong hợp đồng vẫn chưa được bảo vệ thực sự dù pháp luật Việt Nam đã tồn tại hệ
thống chế định bảo vệ người tiêu dùng như quy định về thương mại điện tử, bảo vệ người
tiêu dùng, hợp đồng theo mẫu… Lập pháp quốc tế đã có những bước phát triển dài về vấn
đề bảo vệ bên yếu thế, mà nổi bật là các nước theo hệ thống pháp luật Common Law – nơi
khai sinh ra học thuyết nền tảng: Học thuyết về giao dịch không công bằng
(Unconscionability Doctrine). Do đó, nghiên cứu pháp luật các quốc gia tiêu biểu như Anh
Quốc, Úc, Hoa Kỳ cũng như một số nước theo hệ thống pháp luật Civil Law như Pháp,
Trung Quốc, cùng với sự so sánh, sẽ tìm ra các bài học kinh nghiệm cho lập pháp Việt
Nam. Để áp dụng các bài học lập pháp quốc tế, cần có sự xem xét kỹ lưỡng các vấn đề xã
hội thực sự của các hợp đồng có một bên yếu thế đang nổi cộm như hợp đồng theo mẫu,
hợp đồng thương mại điện tử, hợp đồng giả cách, hợp đồng sử dụng dịch vụ viễn thông…
thông qua những tranh chấp, vụ án thực tế, đối chiếu với thực trạng pháp luật Việt Nam để
tìm ra các giải pháp pháp lý thích hợp để đảm bảo vai trò của pháp luật là đảm bảo công
bằng xã hội.
Từ khóa: Bảo vệ bên yếu thế; Giao dịch bất công thái quá; Giao dịch không công
bằng; Người tiêu dùng; Thương mại điện tử; Hợp đồng tiêu dùng; Hợp đồng theo mẫu.
8. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
9. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
10. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Mỗi ngày chúng ta tham gia vào rất nhiều hợp đồng, nhưng liệu mỗi cá nhân có
nhận ra vị trí yếu thế của mình trong một số giao dịch dân sự hàng ngày. Hợp đồng có một
bên yếu thế không còn là một khái niệm xa lạ mà xuất hiện phổ biến trong đời sống, từ sử
dụng điện, nước, dịch vụ viễn thông, hợp đồng bảo hiểm đến các hoạt động thương mại
điện tử, đều là các hợp đồng mà chính chúng ta là bên yếu thế. Khi xã hội loài người phát
triển không ngừng, quan hệ hợp đồng trở nên phát triển, đa dạng, linh hoạt nhưng cũng
chứa đựng thêm nhiều rủi ro cho các bên. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, người nắm
giữ sức mạnh tài chính và thông tin thường có vị thế vượt trội trong thương lượng, thỏa
thuận và thực hiện hợp đồng. Thậm chí khi xảy ra tranh chấp, khả năng tiếp cận hệ thống
tư pháp và yêu cầu quyền lợi chính đáng của nhóm này cũng chiếm ưu thế rất cao. Từ đó
làm xuất hiện bên mạnh thế và đối trọng với nó là bên yếu thế cùng tồn tại trong một quan
hệ hợp đồng.
Pháp luật hợp đồng ngoài việc bảo vệ sự tôn nghiêm của hợp đồng cũng cần bảo
vệ các bên, đảm bảo cán cân lợi ích của giao dịch không chênh lệch quá lớn. Do đó pháp
luật hợp đồng cần có các biện pháp bảo vệ bên yếu thế trong các giao dịch không công
bằng bằng những can thiệp phù hợp nhằm tạo lập lại sự cân bằng cho cán cân lợi ích giữa
các bên, đồng thời vẫn giữ được nguyên tắc cốt lõi của hợp đồng chính là sự thỏa thuận
của các bên tham gia. Làm thế nào để pháp luật Việt Nam – nơi vẫn chưa trực tiếp ghi
nhận cũng chưa nhìn nhận đúng mức về vấn đề hợp đồng có một bên yếu thế – có thể đảm
bảo vai trò trên của mình?
Vì các lý do trên, người viết đã chọn đề tài “Bảo vệ bên yếu thế trong pháp luật
hợp đồng” để thực hiện nghiên cứu.
2. Câu hỏi nghiên cứu
Trong phạm vi đề tài này, người viết đặt ra những câu hỏi nghiên cứu như sau:
Thứ nhất, như thế nào là một hợp đồng có một bên yếu thế? Cơ sở lý luận cho chế
định hợp đồng này là gì và có nguồn gốc như thế nào?
Thứ hai, hợp đồng có một bên yếu thế có hiệu lực pháp luật hay không?
11. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
2
Thứ ba, pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam hiện nay quy định như thế nào để
bảo vệ bên yếu thế trong hợp đồng?
Thứ tư, những giải pháp, cách thức bảo vệ bên yếu thế trong quan hệ hợp đồng một
cách hiệu quả?
3. Tình hình nghiên cứu
3.1.Tình hình nghiên cứu trong nước
Việc nghiên cứu về hợp đồng có một bên yếu thế một cách toàn diện cũng như các
vấn đề lý luận cốt lõi của vấn đề này vẫn chưa được quan tâm, có chăng là những nghiên
cứu xoay quanh các vấn đề hợp đồng theo mẫu, hợp đồng thương mại điện tử dưới góc độ
bảo vệ bên yếu thế như bài viết của Nguyễn Như Phát “Điều kiện thương mại chung và
nguyên tắc tự do khế ước”, bài viết của Nguyễn Thị Hằng Nga “Bảo vệ bên yếu thế trước
các điều kiện thương mại chung bất công bằng – Cách giải quyết của pháp luật một số
quốc gia trên thế giới”. Đặc biệt, tại Kỷ yếu Hội thảo khoa học tháng 6/2013 về “Bảo vệ
quyền lợi của bên yếu thế” của Khoa Luật dân sự - Đại học Luật TP.HCM, Kỷ yếu nêu ra
việc bảo vệ quyền lợi của bên yếu thế trong rất nhiều lĩnh vực, chẳng hạn như bài tham
luận: “Bảo vệ bên yếu thế về thông tin trong pháp luật hợp đồng” của Đỗ Văn Đại, “Bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên yếu thế trong hợp đồng dân sự theo mẫu” của Chế
Mỹ Phương Đài, “Hợp đồng mẫu – Điều kiện giao dịch chung nhìn từ góc độ bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng” của Lê Minh Hùng, “Một số bất cập trong hợp đồng vay tài sản và
hướng hoàn thiện để bảo vệ bên vay triệt để hơn” của TS. Nguyễn Xuân Quang…; hội
thảo thể hiện sự quan tâm của giới học thuật về vấn đề hợp đồng có một bên yếu thế, tuy
nhiên vẫn chưa đi sâu vào nghiên cứu các vấn đề lý thuyết nền tảng cũng như chưa có
những đánh giá thực tế bằng những tranh chấp, bản án cụ thể về vấn đề.
3.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Vấn đề bảo vệ bên yếu thế trong pháp luật hợp đồng ở ngoài nước được quan tâm
và khai thác từ nhiều năm về trước. Các học giả ở các nước trên thế giới chủ yếu phân tích
vấn đề này bắt nguồn từ Học thuyết về giao dịch không công bằng (Unconscionability
Doctrine), sau đó là phát triển đến phân tích giao dịch không công bằng (unconscionable
bargains) – là một vấn đề nghiên cứu rất quen thuộc trong các trường luật tại quốc gia
Common Law, bằng chứng là tác phẩm quen thuộc The law of contract 5th
Edition của các
12. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
3
tác giả Janet O’Sullivan và Jonathan Hilliard đã dành hẳn một chương cho vấn đề này.
Ngoài ra, các nhà nghiên cứu luật học khác trên khắp thế giới cũng có những nghiên cứu
về vấn đề hợp đồng có một bên yếu thế, hay còn gọi là giao dịch không công bằng tại
pháp luật tại quốc gia mình như The Unconscionability Doctrine in U.S. Contract Law của
Per Gustafsson, Unconscionability in Australian Law: Development and Policy Issues của
Mark Sneddon, đặc biệt là tác phẩm Unconscionable Contracts: A Comparative Study of
the Approaches in England, France, Germany, and the United States của các tác giả A.H.
Angelo và E.P. Ellinger có sự so sánh sự tương quan giữa các hệ thống pháp luật về vấn đề
này. Ngoài ra, còn có một số tác phẩm phân tích một số khía cạnh khác của hợp đồng có
một bên yếu thế như bài viết A Contractarian Approach to Unconscionability của Horacio
Spector, Two Different Kinds Of Procedural And Substantive Unconscionability của
Richard Craswell… Những nghiên cứu này là tài liệu vô cùng quan trọng giúp tác giả có
thêm thông tin mang tính định hướng để người viết có thể nhìn nhận về vấn đề giao dịch
không công bằng tại các hệ thống pháp luật các quốc gia khác để có cách nghiên cứu, tìm
tòi và lập luận cho riêng mình, hướng đến chắt lọc những kinh nghiệm lập pháp áp dụng
vào tình hình thực tế tại Việt Nam.
4. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1.Mục đích nghiên cứu
Người viết tiến hành nghiên cứu với các mục đích: Một là, chứng minh sự cần thiết
của việc nhìn nhận và ghi nhận vấn đề hợp đồng có một bên yếu thế trong hệ thống pháp
luật hợp đồng Việt Nam; và hai là, nêu lên những giải pháp cụ thể và nhìn nhận những vấn
đề kèm theo khi nhà làm luật thực sự muốn ghi nhận quy định pháp luật điều chỉnh về hợp
đồng có một bên yếu thế tại Việt Nam.
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận Văn này là các vấn đề cơ bản về hợp đồng có một
bên yếu thế như định nghĩa, nội hàm, cơ sở lý luận, phân loại, vấn đề hiệu lực hợp đồng,
thực trạng và quy định pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về hợp đồng có một bên
yếu thế.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
13. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
4
Vấn đề bảo vệ bên yếu thế trong pháp luật hợp đồng là một vấn đề rất rộng, đồng
thời pháp luật liên quan đến bảo vệ bên yếu thế hợp đồng không được quy định tập trung ở
một quy định cụ thể nào mà được quy định rải rác ở các luật chuyên ngành. Bên yếu thế
trong xã hội hiện này hiện hữu ở rất nhiều khía cạnh, như người không có đầy đủ năng lực
hành vi, người bị nhược điểm về thể chất, tinh thần, người lao động trong một số quan hệ
lao động đặc biệt hay bên yếu thế trong pháp luật hợp đồng. Đề tài này được giới hạn trong
việc chủ yếu phân tích các vấn đề bảo vệ bên yếu thế là một chủ thể trong hợp đồng.
Mặt khác, hợp đồng có một bên yếu thế có mặt ở nhiều lĩnh vực, như bảo hiểm, tín
dụng, tiêu dùng…, hay như hợp đồng mua quyền nghỉ dưỡng là một chế định rất mới, tuy
nhiên, người viết chỉ nêu một vài hợp đồng có một bên yếu thế tiêu biểu, mang tính đại
diện để người đọc có thể phần nào nắm được thực trạng về hợp đồng có một bên yếu thế
tại Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tổng hợp, phân tích, đánh giá kết hợp với phương
pháp phân tích luật viết
Xuyên suốt Luận Văn, người viết thực hiện tổng hợp, thu thập các thông tin, bài
viết, tài liệu; phân tích, đưa ra đánh giá của bản thân về tài liệu và các quy định pháp luật
về bảo vệ bên yếu thế trong các quan hệ hợp đồng, kết hợp những vấn đề thực tiễn để rút ra
các hạn chế cũng như giải pháp khắc phục cần thiết.
- Phương pháp nghiên cứu so sánh luật
Người viết đã sưu tầm và phân tích so sánh cách quy định, cách giải quyết cùng
một vấn đề giữa Việt Nam và các quốc gia khác trên thế giới, qua đó, rút ra được những
phương án ưu việt và hiệu quả nhất cho vấn đề đặt ra.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Nghiên cứu đề cập tới vấn đề hợp đồng có một bên yếu thế với sự phân tích sâu vào
các vấn đề mang tính lý luận nhằm tạo một cơ sở lý luận hợp lý, tạo nền tảng cho việc phát
triển cơ sở pháp lý, cũng như là một nền móng cho các nghiên cứu sâu hơn về vấn đề này.
Mặt khác, việc phân tích và đánh giá các quy định pháp luật, án lệ và thực tế về vấn đề hợp
đồng có một bên yếu thế tại các quốc gia trên thế giới nhằm tạo một góc nhìn rộng hơn ra
thế giới cho người đọc, để thấy rằng vấn đề về hợp đồng có một bên yếu thế và giá trị áp
14. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
5
dụng của nó vốn đã được quan tâm và phát triển từ rất lâu, từ đó có một nhìn nhận về thực
trạng Việt Nam về các hợp đồng, giao dịch bất công mà bên yếu thế vẫn còn chịu thiệt
thòi, tìm ra nguồn gốc của những bất công đó mà có những suy nghĩ, những giải pháp pháp
lý thiết thực cho vấn đề này.
7. Cấu trúc của Luận Văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, Luận Văn bao gồm ba phần chính
sau: Chương 1: Tổng quan về hợp đồng có một bên yếu thế
Chương 2: Pháp luật về hợp đồng có một bên yếu thế trên thế giới
Chương 3: Thực trạng và giải pháp về pháp luật về hợp đồng có một bên yếu thế tại
Việt Nam
15. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
6
Chương 1. TỔNG QUAN VỀ HỢP ĐỒNG CÓ MỘT BÊN YẾU THẾ
Để có góc nhìn học thuật rõ ràng hơn về một vấn đề còn khá mơ hồ trong nghiên
cứu luật học tại Việt Nam, người viết xin bắt đầu từ những định nghĩa, đặc trưng và những
vấn đề lý luận cơ bản nhất liên quan đến hợp đồng có một bên yếu thế.
1.1 Những vấn đề cơ bản về hợp đồng có một bên yếu thế
1.1.1 Định nghĩa về hợp đồng
Kiến thức về luật hợp đồng luôn rộng mở, tùy thuộc vào phương hướng nghiên cứu
của từng học giả mà được phát triển theo các chủ đề khác nhau, nhưng tồn tại một mẫu số
chung là các bài nghiên cứu, bài viết về hợp đồng đều được bắt đầu bằng câu hỏi: Hợp
đồng là gì? Đối với một người đọc khắt khe, người viết đang lặp lại việc trả lời câu hỏi mà
bất cứ tác giả nghiên cứu về luật hợp đồng nào cũng đã giải quyết trước đây. Tuy nhiên,
người viết cho rằng, muốn giải quyết vấn đề nào đó, đều phải bắt đầu từ cội nguồn của vấn
đề đó. Chính vì vậy, khái niệm rất quen thuộc: “hợp đồng” sẽ được làm rõ tại phần đầu tiên
của nghiên cứu này.
Theo một quan niệm rất phổ biến trong xã hội vẫn tồn tại cho đến ngày nay, một
văn bản được coi là hợp đồng khi nó mang tiêu đề “Hợp Đồng”, bắt buộc phải có chữ ký
các bên, có giấy trắng, có mực đen, thì khi đó văn bản đó mới được xem là một hợp đồng –
và cùng lúc, văn bản đó mang một giá trị pháp lý nhất định. Tuy vậy, nội hàm của khái
niệm hợp đồng lại đơn giản hơn và thông dụng hơn rất nhiều. Trong thực tiễn áp dụng, một
văn bản với tên “thỏa thuận”, hay “biên bản”, đến “cam kết” đều chính là những hợp đồng.
Ngay cả việc mỗi sáng chúng ta mua một cốc cà phê nhỏ, hay nhấp chuột mua một cuốn
sách trên các trang thương mại điện tử, chúng ta đã bước vào quan hệ hợp đồng dù không
hề tồn tại một tờ giấy hay chữ ký nào. Theo người viết, hợp đồng cơ bản là một thỏa thuận.
Dưới góc độ pháp luật, do tính chất phổ biến của hợp đồng trong đời sống, chế định
này được hầu hết pháp luật các quốc gia ghi nhận từ rất lâu. Châu Âu là nơi có bề dày lịch
sử lập pháp về hợp đồng, được ghi nhận đầu tiên tại Luật La Mã cổ đại1
. Đến thế kỷ thứ
1
Nguyễn Ngọc Khánh, 2006. Chế định hợp đồng từ Luật La Mã đến BLDS, Tạp chí Kiểm
sát, số 7 (4-2006), tr.38.
16. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
7
XVIII – XX, sự phát triển của ngành khoa học pháp lý cũng như những tác động từ sự
chuyển hóa kinh tế – xã hội đã khiến cho chế định hợp đồng lần lượt được các nước Châu
Âu pháp điển hóa vào bộ luật dân sự của quốc gia mình. Chẳng hạn như tại quy định của
Bộ luật Napoleon, hay còn gọi là BLDS Pháp - có hiệu lực từ năm 1804 và mang giá trị
cho đến tận ngày nay - đã quy định: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó một
hoặc nhiều người cam kết với một hoặc nhiều người khác về việc chuyển giao một vật, làm
hoặc không làm một công việc nào đó”2
.
Tại Việt Nam, sự phát triển của hệ thống pháp luật nói chung, chế định pháp luật
hợp đồng nói riêng có lịch sử phát triển có phần chậm hơn so với các nước trên thế giới.
Thuật ngữ “hợp đồng” hoặc tương đương không thể tìm thấy trong các văn bản pháp luật
chính thức nào của nhà nước phong kiến Việt Nam3
. Cho đến khi lịch sử lập pháp Việt
Nam chứng kiến sự ra đời của ba bộ dân luật quan trọng, đó là Bộ Dân Luật giản yếu Nam
Kỳ năm 1883, Bộ Dân Luật Bắc Kỳ năm 1931 và Bộ Dân Luật Trung Kỳ năm 1936. Đây
là kết quả tiếp thu kinh nghiệm từ BLDS Pháp du nhập vào nước ta, đánh dấu lần đầu tiên
pháp luật Việt Nam định nghĩa “hợp đồng” – tại thời điểm đó mang tên gọi là “khế ước” –
là “một hiệp ước của một người hay nhiều người cam đoan với một hay nhiều người khác
để chuyển giao, để làm hay không làm cái gì”4
. Cho đến ngày nay, pháp luật Việt Nam
hiện hành định nghĩa hợp đồng là “sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi
hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”5
. Định nghĩa này tuy ngắn gọn nhưng đã khái quát
đầy đủ nội hàm cơ bản của hợp đồng, đồng thời thể hiện chính xác bản chất của hợp đồng
là một thỏa thuận.
Tóm lại, cho dù được định nghĩa như thế nào, bằng ngôn ngữ gì, hợp đồng tại bất
kỳ nơi đâu trên thế giới, trong bất kỳ lĩnh vực nào, đều có bản chất là một sự thỏa thuận
2
Điều 1011 BLDS Pháp.
3
Nguyễn Ngọc Khánh, 2006. Chế định hợp đồng từ Luật La Mã đến BLDS. Tạp chí Kiểm
Sát, số 7 (4-2006), tr.38-39.
4
Điều 644, đoạn 2, Bộ Dân Luật Bắc Kỳ và Điều 680, đoạn 2, Bộ Dân Luật Trung Kỳ.
5
Điều 385 BLDS 2015.
17. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
8
giữa hai hoặc nhiều bên, tạo ra các trách nhiệm pháp lý cho các bên bởi những quyền và
nghĩa vụ phát sinh từ thỏa thuận đó6
.
Trong một nền kinh tế thị trường ngày một sôi động, các quan hệ xã hội ngày càng
mở rộng, đây chính là tiền đề cho việc gia tăng các giao dịch kinh tế, dân sự với nội dung,
tính chất ngày một phức tạp với sự sáng tạo không ngừng của các chủ thể tham gia. Ngày
nay, bản chất hợp đồng được pháp luật đề cập vẫn không thay đổi - vẫn là sự thỏa thuận
giữa các bên. Tuy nhiên, quan hệ hợp đồng hiện nay đã phát triển phức tạp hơn với các loại
hợp đồng mới mẻ, trong đó có hợp đồng có một bên yếu thế - vốn đang gây ra nhiều tranh
chấp trong thực tiễn hiện nay. Do đó, cần thiết phải giải quyết tiếp theo đây là trả lời câu
hỏi, hợp đồng có một bên yếu thế là như thế nào?
1.1.2 Định nghĩa về hợp đồng có một bên yếu thế
Trước tiên, phân tích từ tên gọi “hợp đồng có một bên yếu thế”, ta xác định được
trước hết đây là một quan hệ hợp đồng, tức tồn tại một thỏa thuận giữa hai hoặc nhiều bên,
trong đó chủ thể của quan hệ hợp đồng này sẽ bao gồm một bên mạnh thế và một bên yếu
thế. Đi vào sâu hơn phân tích nội hàm của quan hệ hợp đồng này, bản chất của sự thỏa
thuận giữa bên mạnh thế và bên yếu thế phải tồn tại sự mất cân xứng về một khía cạnh nào
đó thuộc về hợp đồng. Đó có thể là sự mất cân xứng về khía cạnh năng lực đàm phán, hay
lợi thế về thông tin hoặc sự chiếm ưu thế trong khả năng giải quyết tranh chấp và chính sự
mất cân xứng này dẫn đến sự không cân bằng về mặt lợi ích giữa các chủ thể tham gia
quan hệ hợp đồng.
Trước đây, khi bàn về bên yếu thế trong pháp luật hợp đồng thường được các nhà
nghiên cứu đề cập ở những góc độ yếu thế về năng lực hành vi tham gia quan hệ hợp đồng,
như về vấn đề thể chất hoặc khả năng thực hiện quyền và nghĩa vụ của chủ thể. Thật vậy,
tại Việt Nam khi nghiên cứu về đề tài này nhiều quan điểm cho rằng bên yếu thế trong
quan hệ hợp đồng cũng tương đồng với nhóm yếu thế (nhóm thiệt thòi) được đề cập trong
các vấn đề về an sinh xã hội như người tàn tật, thanh thiếu niên, người cao tuổi, phụ nữ, trẻ
6
Hoàng Thế Liên (Cb), 1997. Bình luận khoa học Một số vấn đề cơ bản của BLDS (1995),
NXB Chính Trị Quốc Gia, tr. 162.
18. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
9
em…7
Tuy nhiên, xét trong phạm vi nghiên cứu về đề tài “hợp đồng có một bên yếu thế”
thì việc xác định như trên là chưa đầy đủ. Ở một góc nhìn khác, các nhà nghiên cứu luật
học tại Trường Đại học Luật TP.HCM vừa qua đã tổ chức nghiên cứu về “Bảo vệ quyền
lợi của người yếu thế trong lĩnh vực dân sự” bao gồm các vấn đề như hợp đồng dân sự
theo mẫu, hợp đồng cho vay nặng lãi, hợp đồng có chủ thể yếu thế về thông tin, hợp đồng
có chủ thể là lao động nữ, lao động trẻ em, người khuyết tật, người có nhược điểm về thể
chất, tâm thần…8
.
Tiến hành rà soát các văn bản pháp luật dân sự hiện hành tại Việt Nam thì có thể
thấy rằng, vấn đề hợp đồng có một bên yếu thế là gì và có những đặc trưng thế nào vẫn
chưa được trực tiếp ghi nhận cụ thể. Tuy nhiên, trong lịch sử lập pháp Việt Nam đã từng
minh thị quy định bảo về bên yếu thế trong hợp đồng với việc xác định sự không công
bằng về lợi ích – hay còn gọi là “sự thiệt thòi” – chính là một “tì ố của sự ưng thuận”, là
một yếu tố dẫn đến hợp đồng mất hiệu lực, đồng nghĩa giải thoát cho bên yếu thế khỏi các
nghĩa vụ ràng buộc tại hợp đồng. Tại các Điều 652 Bộ Dân Luật Bắc Kỳ và Điều 688 Bộ
Dân Luật Trung Kỳ đều có quy định rằng trong một khế ước, một bên chịu thiệt thòi (la
lésion) khi nào họ không nhận được những lợi ích tương đương với cùng khoản mà họ phải
cấp cho người đối ước như trường hợp mua đắt, bán rẻ, làm công quá hạ, trả lãi quá cao…
thì pháp luật, trong một số trường hợp hạn định, sẽ chấp nhận sự thiệt thòi này như một
nguyên nhân để tiêu hủy khế ước9
. Để áp dụng quy định này, khế ước có sự thiệt thòi phải
thỏa mãn 02 hai yếu tố bắt buộc như sau:
(i)Một là, sự thiệt thòi trong khế ước phải lớn hơn ngạch khoản đã minh thị
trong luật, tùy theo khế ước. Chẳng hạn như theo quy định tại Điều 986 Bộ Dân Luật Bắc
7
Xác định về nhóm yếu thế/nhóm thiệt thòi theo nghiên cứu “Công tác hỗ trợ nhóm yếu
thế ở Việt Nam” của Phạm Văn Quyết, Phạm Anh Tuấn.
https://bit.ly/2ttCf95 truy cập ngày 25/6/2017.
8
Xem thêm Hội thảo “Bảo vệ quyền lợi của người yếu thế trong lĩnh vực dân sự” do Khoa
Luật Dân sự, Trường Đại học Luật TP.HCM năm 2013
http://www.hcmulaw.edu.vn/hcmulaw/index.php?option=com_content&view=article&id=
8719:luat-dan-su&catid=330:s-ds-nckh&Itemid=369
9
Vũ Văn Mẫu, 1963. Việt Nam Dân luật lược khảo – Quyển II. Sài Gòn, Nhà xuất bản Bộ
Quốc gia Giáo dục, tr.135.
19. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
10
Kỳ và Điều 1104 Bộ Dân Luật Trung Kỳ thì trong trường hợp sự thiệt thòi có giá trị lớn
hơn phân nửa (1/2) giá bán bất động sản thì khế ước đó tồn tại một sự thiệt thòi; và
(ii) Hai là, sự thiệt thòi phải có tính hiện hữu ngay lúc kết ước khế ước; nhằm
phân biệt với trường hợp rằng khi khế ước được ký kết thì các cung khoản của hai bên rất
tương xứng, nhưng khi thi hành thì lại có sự xuất hiện chênh lệch rất lớn về nghĩa vụ của
hai bên, trường hợp này được pháp luật ghi nhận là một trường hợp bất tiên liệu
(l’imprévision)10
(đây cũng chính là điều khoản hardship trong pháp luật hiện hành).
Tuy nhiên, pháp luật hợp đồng thời bấy giờ cũng không minh thị quy định cụ thể
định nghĩa của hợp đồng có một bên yếu thế là như thế nào.
Hoa Kỳ cũng là một quốc gia có ghi nhận về hợp đồng có một bên yếu thế với tên
gọi khác là Hợp đồng hoặc điều khoản bất công thái quá (Unconscionable Contract or
Terms) tại Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ (Uniform Commercial Code - UCC) -
một đạo luật mẫu (nhất thể hóa) được xem là quan trọng nhất làm khuôn mẫu trong hệ
thống pháp luật Hoa Kỳ11
. Tuy nhiên, pháp luật hợp đồng Hoa Kỳ cũng chỉ dừng lại ở việc
quy định thẩm quyền Tòa án can thiệp vào điều khoản hoặc hợp đồng mà Tòa án cho là bất
công thái quá tại thời điểm ký kết12
mà không có một định nghĩa cụ thể về Hợp đồng hoặc
điều khoản bất công thái quá.
Tựu trung tất cả các nguồn thông tin tham khảo cũng như kiến thức nêu trên, người
viết xin đưa ra định nghĩa của riêng mình về hợp đồng có một bên yếu thế: Đó là một hợp
đồng chứa đựng những điều khoản không công bằng, tồn tại tình trạng bất lợi nghiêm
10
Chú thích số 9, tr.141-143.
11
Sau khi UCC được thống nhất về hình thức lần cuối cùng vào năm 1957, nó đã được tất
cả 50 tiểu bang và Đặc Khu Columbia thông qua, mặc dù có những trường hợp ngoại lệ như Tiểu
Bang Louisiana không phê chuẩn toàn bộ Điều 2 (Article 2) (quy định về hợp đồng mua bán) hoặc
như Tiểu Bang California không ghi nhận quy định về “Unconscionable Contract or Clause” như
một phần của Điều 2 (Article 2) UCC, tuy nhiên Tiểu Bang này vẫn có quy định tương tự về Hợp
đồng hoặc điều khoản bất công thái quá tại Điều 1670.5 Bộ luật California (The California
Code).
Xem thêm về việc ghi nhận UCC tại các tiểu bang Hoa Kỳ tại:
https://www.law.cornell.edu/uniform/ucc truy cập ngày 22/3/2017.
12
Điều §2-302 UCC.
20. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
11
trọng của bên yếu thế và sự trục lợi bằng những hành động không phù hợp của bên mạnh
thế.
1.2 Những vấn đề lý luận về hợp đồng có một bên yếu thế
1.2.1 Cơ sở lý luận của hợp đồng có một bên yếu thế: Học thuyết giao dịch không
cân bằng
Học thuyết về giao dịch không công bằng (Unconscionability Doctrine) được
thừa nhận trong dòng họ pháp luật Common Law và được xem như một trường hợp làm
mất hiệu lực của hợp đồng kinh điển được giảng dạy tại các trường luật tại Anh, Úc hay
Hoa Kỳ. Đã có nhiều nghiên cứu về Unconscionability Doctrine đều thống nhất rằng sự ra
đời của nó liên quan đến nguyên tắc công bằng (Equity), vốn xuất hiện từ thế kỷ XII tại
Anh. Equity được xây dựng nhằm bảo vệ những điều chính đáng, đúng đắn hoặc phù hợp
với lương tâm con người, công lý tự nhiên; theo thời gian được đúc kết thành hệ thống các
học thuyết và thủ tục pháp lý với tên gọi Luật Công bằng (Equity Law) phát triển song
song với pháp luật Common Law truyền thống; sau đó Equtity được sử dụng làm nguyên
tắc xét xử chủ yếu tại Tòa Đại pháp (Court of Equity)13
. Lần ghi nhận đầu tiên của nguyên
tắc công bằng trong giao dịch không công bằng này có thể kể đến án lệ James v Morgan
(1663) tại Anh - được chủ trì bởi Ngài Chánh án Robert Hyde tại Tòa án Hoàng đế (Court
of the King’s Bench). Theo án lệ này, người bán đã dùng một cách tính phức tạp quá mức
khiến cho người mua vì thiếu hiểu biết đã mua một con ngựa với “mức giá cắt cổ” là £100
(một trăm bảng Anh) dù rằng giá trị thực tế của nó chỉ là £8.Với lý lẽ bảo vệ lẽ công bằng,
Tòa án Anh đã trực tiếp điều chỉnh giá trị của giao dịch, phán quyết giá trị mua bán của
giao dịch này là £8. Mặc dù tại án lệ này không đề cập đến khái niệm Unconscionability
Doctrine nhưng đã được hầu hết các nhà nghiên cứu về đề tài này xem là án lệ đầu tiên
công nhận nguyên tắc chống lại giao dịch bất bình đẳng trong thông luật tại Anh cũng như
trong pháp luật hợp đồng của thế giới14
.
13
Trường Đại học Luật Hà Nội, 2014. Giáo trình luật so sánh, Nhà xuất bản Công an nhân
dân, tr.222-223.
14
Per Gustafsson, Master Thesis, 2010. The Unconscionability Doctrine in U.S. Contract
Law. The falcuty of law, Lund University, Sweden, p.6.
21. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
12
Những án lệ đầu tiên ghi nhận Unconscionability Doctrine được ban hành bởi Tòa
Công bằng tại Anh, tiêu biểu nhất là án lệ Earl of Aylesford v Morris (1873), theo đó Tòa
án quyết định bảo vệ người thanh niên trẻ vì sự hoang phí của mình đã bán đi quyền hưởng
di sản với giá rẻ mạt, Tòa đã tuyên hủy giao dịch này vì cho rằng “người thanh niên này đã
bước vào một giao dịch tăm tối, đầy lừa dối và cạm bẫy, nơi anh ta không thể tự bảo vệ
mình trước những người cố tâm khai thác điểm yếu của anh”. Một trường hợp khác Tòa án
hủy bỏ giao dịch mà họ cho rằng không công bằng là án lệ Fry v Lane (1888), trong đó hai
anh em nhà Fry làm nghề sửa ống nước và giặt giũ, mỗi tuần kiếm được £1; sau đó, họ
được hưởng quyền thừa kế bất động sản của người bác trai, tùy thuộc vào tuổi thọ của
người bác gái của họ. Tuy nhiên, họ được tư vấn bởi một luật sư “thiếu kinh nghiệm” và
đồng thời cũng là luật sư tư vấn cho ông Lane, để bán cho ông Lane quyền thừa kế với giá
rẻ mạt lần lượt là £170 và £270 vào năm 1878. Khi người bác gái qua đời vào năm 1886,
số tiền mỗi người đáng lẽ ra nhận được là £730, còn lúc năm 1878 số tiền này phải là £475
cho mỗi người thừa kế. Thẩm phán Kay J đã phán quyết rằng những người thừa kế trẻ tuổi
là “những người nghèo đáng thương với giáo dục không hoàn hảo” và cần được can thiệp
của Luật Công Bằng, lúc này, sự định giá quá thấp của người mua chính là một bằng chứng
vô lương tâm rõ ràng và Tòa yêu cầu người mua có nghĩa vụ xác định lại giá trị chuyển
nhượng quyền thừa kế sao cho “công bằng, vừa phải và hợp lý”15
. Cả hai án lệ này đã trở
thành các án lệ kinh điển của các trường hợp giao dịch không công bằng tại Anh, trong đó
“nhấn mạnh vị trí yếu thế hơn của một bên, và chính điểm yếu này đã bị bên còn lại khai
thác để đạt được những lợi ích không công bằng”16
.
Unconscionability Doctrine sau khi ra đời lại không được ghi nhận nhiều sự phát
triển tại các Tòa án Anh Quốc, lý do của việc này được Lord Diplock cho rằng: Dưới sự
ảnh hưởng của Jeremy Bentham với “Thuyết công lợi” và “Thuyết Laissez-faire” (Tự do
kinh tế), các Tòa án Anh vào thế kỷ XIX đã từ bỏ việc áp dụng các chính sách chống lại
giao dịch không công bằng trong các vụ việc liên quan tới hợp đồng17
. Sự hồi sinh của
15
Jill Poole, 2016. Casebook on Contract Law the 13th
edition, Oxford University Press,
p.731.
16
Janet O’Sullivan, Jonathan Hilliard, 2012. The law of contract 5th
Edition, Oxford
University Press, p.292-293.
17
Veronika Timofeeva, “The doctrine of unconscionable bargains is too uncertain and
undermines the classical theory of contract”, https://bit.ly/2IjGKaZ, truy cập ngày 25/6/2018, p.2.
22. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
13
Unconscionability Doctrine tại Tòa án Anh Quốc được cho rằng từ lời phát biểu tại phiên
tòa của Thẩm phán Lord Denning trong vụ án Lloyds Bank v Bundy: “Luật pháp của Anh
sẽ bảo vệ cho một người thực hiện ký kết hợp đồng có điều khoản bất công hoặc thực hiện
chuyển giao tài sản với giá vô cùng không tương xứng, mà người này không có sự tư vấn
độc lập, khi sức mạnh thương lượng của người này bị suy yếu trầm trọng bởi nhu cầu cuộc
sống hoặc ham muốn cá nhân, hoặc do sự thiếu hiểu biết hoặc sự yếu đuối, nhu nhược của
mình, đã bị người kia lợi dụng sức mạnh thương lượng cùng với những ảnh hưởng hoặc áp
lực quá mức, mang lại lợi ích quá mức cho người kia”18
.
Từ những án lệ trên, giới học thuật tại Anh có những sự nghiên cứu về tính ứng
dụng của Unconscionability Doctrine bằng những phép thử dựa trên các yếu tố của một
giao dịch được cho là giao dịch không công bằng. Phép thử của Nhà nghiên cứu luật -
Luật sư Patrick Selim Atiyah gồm có hai yếu tố, một là sự yếu thế rõ rệt của một bên trong
giao dịch, hai là sự không công bằng rõ ràng của các điều khoản trong hợp đồng19
. Mặt
khác, Giáo sư Luật học - Luật sư John Phillips đề xuất một phép thử khác gồm ba yếu tố,
một là bên yếu thế phải có “sự bất lợi nghiêm trọng” vì một số điểm yếu nào đó hoặc bị
khuyết tật, hai là bên mạnh thế đã khai thác những bất lợi này một cách “tội lỗi về mặt đạo
đức” và ba là các điều khoản của hợp đồng phải là không công bằng hoặc mang tính áp
bức20
. Cả hai phép thử được nêu trên đây có thể nói rằng không khác biệt đáng kể, ngoại
trừ phép thử của John Phillips thể hiện rõ ràng hơn về mặt lương tâm và tính tội lỗi của
hành vi của phía mạnh thế trong giao dịch.
Đến năm 2006, một quy chuẩn chung về các yếu tố của một giao dịch không công
bằng được đưa ra trong án lệ Choudry v Minhas (2006); quy chuẩn chung này được Tòa
án Anh áp dụng để xác định giao dịch không công bằng trong thông luật Anh cho đến
ngày nay. Các yếu tố này bao gồm:
(i) bên yếu thế phải ở trong một tình trạng thực sự bất lợi nghiêm trọng vì một hay
một số điểm yếu hoặc hạn chế nhất định,
18
Lloyd’s Bank Ltd. v. Bundy (1975)
19
Patrick Selim Atiyah, 2009. An Introduction to the Law of Contract 6th Edition.:
Clarendon Press Oxford, p.300.
20
John Phillips, 2008. “Smith v Hughes (1871)” in: Landmark Cases in the Law of
Contract 1st Edition. Hart Publishing, p.218.
23. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
14
(ii) bên mạnh thế có những hành động không đúng để trục lợi từ điểm yếu này của
bên kia,
(iii) các điều khoản trong hợp đồng không công bằng hoặc mang tính áp bức, và
cuối cùng là
(iv) bên yếu thế không nhận được sự tư vấn pháp lý độc lập nào21
.
Bốn yếu tố này cũng được Tòa án Anh Quốc công nhận là các yếu tố tiên quyết
một giao dịch có bị xem là một giao dịch không công bằng hay không, và từ đó có chịu sự
điều tiết của Unconscionability Doctrine hay không.
Cũng tương tự như thông luật Anh, Unconscionability Doctrine được du nhập sang
Hoa Kỳ và từ thế kỷ XX cho đến nay, học thuyết được áp dụng rộng rãi tại Tòa án của toàn
bộ Khối Thịnh Vượng Chung (British Commonwealth)22
, đồng thời ảnh hưởng mạnh mẽ
đến pháp luật về giao dịch bất công thái quá hay giao dịch không công bằng trên toàn thế
giới23
.
1.2.2 Phân loại các giao dịch bất công thái quá
Việc phân loại giao dịch bất công thái quá lần đầu tiên được đề cập bởi Giáo sư
Arthur Allen Leff, ông cho rằng tồn tại hai loại giao dịch bất công thái quá, tương ứng với
hai hình thức của sự bất công thái quá, là (i) sự bất công thái quá về mặt hình thức -
procedural unconscionability mà ông cho là “sự đàm phán hư hỏng” (bargaining
naughtines) và (ii) sự bất công thái quá về mặt nội dung - substantive unconscionability
mà ông cho là “sự xấu xa trong hệ quả của hợp đồng” (evil in the resulting contract)24
. Bắt
nguồn từ quan điểm này của Giáo sư Arthur Allen Leff, rất nhiều nghiên cứu luật học đã
đào sâu và tìm ra sự khác biệt, cũng như định nghĩa cụ thể về từng loại giao dịch bất công
thái quá. Có học giả cho rằng, không thể đưa ra một định nghĩa chính xác của procedural
21
Chú thích số 16, p.292-293.
22
Xem chú thích số 17.
23
Xem thêm phân tích về “Pháp luật về hợp đồng có một bên yếu thế trên thế giới” tại
Chương 2 của Luận Văn này
24 Arthur Allen Leff, 1967. Unconscionability and the Code – The Emperor’s New
Clause, University of Pennsylvania Law Review, Volume 115, p. 487. Available at:
https://bit.ly/2pAcT7l truy cập ngày 25/6/2018.
24. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
15
unconscionability và substantive unconscionability, tuy nhiên, điểm khác biệt trọng điểm
của hai loại giao dịch này có thể dễ dàng nhận diện và giúp ta có thể phân biệt được chúng,
cụ thể substantive unconscionability đề cập đến sự bất công thái quá của chính các điều
khoản của bản thân giao dịch đó (bất công về bản chất của hợp đồng) và việc bên mạnh thế
được hưởng lợi ích thái quá một cách vô lý; còn procedural unconscionability lại hướng
về các hoàn cảnh, điều kiện của giao dịch mà theo đó bên yếu thế đã đồng ý với các điều
khoản của giao dịch bất công thái quá25
. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều tranh cãi về ranh giới
giữa substantive unconscionability và procedural unconscionability, cũng như ý nghĩa
của việc phân loại này đối với việc xác định một giao dịch bất công thái quá, liệu rằng khi
Tòa án kết luận một giao dịch bất công thái quá có cần xác định có đầy đủ cả hai yếu tố
substantive unconscionability và procedural unconscionability hay chỉ cần một trong hai
yếu tố là có thể kết luận, và có trường hợp nào giao dịch bất công thái quá nào không có cả
một trong hai yếu tố trên26
?
Tuy vậy, đa số đều ủng hộ quan điểm rằng, procedural unconscionability bao gồm
các yếu tố “bên ngoài” giao dịch, là các yếu tố bất công thuộc về hoàn cảnh, điều kiện của
giao dịch, thường xuất phát từ chính sự chênh lệch vị thế của các bên tham gia giao dịch
hoặc các đặc điểm của quá trình thương lượng hợp đồng, chẳng hạn như quan hệ pháp lý
giữa các bên, kinh nghiệm, sự chuyên môn, trình độ hiểu biết, năng lực đàm phán, hoặc
tình hình tài chính của bên yếu thế so với bên mạnh thế. Ngoài ra, còn có các yếu tố bất
công được cài gắn trong quá trình thương thảo, ký kết hợp đồng, chẳng hạn như lợi dụng
tình trạng không đọc hợp đồng của người tiêu dùng (chủ yếu hợp đồng TMĐT), hoặc cung
cấp hợp đồng mẫu với nhiều điều khoản có ngôn ngữ hợp đồng khó có thể nắm bắt ở hiểu
biết thông thường cũng được xem là một yếu tố thuộc về procedural unconscionability.
Ngược lại, substantive unconscionability, là sự bất công về mặt nội dung, tức là sự
bất công nằm ở chính nội dung hợp đồng, dẫn đến những hệ quả bất công trên thực tế đối
với bên yếu thế. Có thể kể đến các yếu tố có thể cấu thành sự bất công về mặt nội dung như
sự chênh lệch quá lớn giữa giá cả và giá trị thực tế của giao dịch, hoặc như các điều khoản
mang nội dung hạn chế hoặc từ bỏ trách nhiệm, nghĩa vụ của một bên dẫn đến sự
25
Richard Craswell, 2010. Two Different Kinds Of Procedural And Substantive
Unconscionability. Available at: https://bit.ly/2QXnG7L truy cập ngày 08/7/2018.
26
Chú thích số 14, p.7
25. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
16
bất lợi nghiêm trọng cho bên còn lại, ảnh hưởng đáng kể đến mục đích của giao dịch. Tuy
nhiên, có những trường hợp đặc biệt, khi các điều khoản loại trừ trách nhiệm, nghĩa vụ
được miễn trừ, không bị xem là bất công thái quá. Bộ luật Thương mại thống nhất Hoa Kỳ
- UCC đã ghi nhận hai điều khoản như vậy, một là điều khoản về loại trừ nghĩa vụ bảo
hành khi đảm bảo một số điều kiện nhất định, được quy định tại Điều 2-316
27
và hai là
điều khoản về giới hạn biện pháp khắc phục, loại trừ và hạn chế thiệt hại được áp dụng
trong một số trường hợp hạn hữu, quy định tại Điều 2-719 UCC. Tuy nhiên, Khoản 3 Điều
2-719 UCC cũng nêu rõ rằng những điều khoản hợp đồng có nội dung hạn chế thiệt hại về
tính mạng, sức khỏe của người tiêu dùng sẽ được xem là bất công thái quá một cách hiển
nhiên (prima facie unconscionable), ngược lại, điều khoản hợp đồng có nội dung hạn chế
thiệt hại mang tính thương mại thì có thể áp dụng sự miễn trừ này28
.
1.2.3 Vấn đề hiệu lực của hợp đồng có một bên yếu thế
Bất kì bên nào khi tham gia vào một hợp đồng đều hướng đến sự ràng buộc pháp lý
về quyền và nghĩa vụ đối với nhau cũng như đều mong muốn bên kia thực hiện nghĩa vụ
phát sinh từ hợp đồng. Chính vì vậy, vấn đề hiệu lực hợp đồng chính là một trong những
vấn đề quan trọng mang tính bản chất của hợp đồng nói chung. Theo quan niệm truyền
thống, hợp đồng luôn được coi là sự ràng buộc mang tính bất biến, nhưng ngày nay đã có
nhiều hướng tiếp cận mới, hợp đồng không còn là một thứ “bất di bất dịch”, sự ràng buộc
của hợp đồng cũng có thể thay đổi để bảo vệ sự công bằng về lợi ích của các bên29
.
Để trả lời câu hỏi hợp đồng có một bên yếu thế có hiệu lực hay không thì trước
tiên, người viết xin đề cập lại một vấn đề liên quan trực tiếp đến hiệu lực của hợp đồng, đó
là các nguyên tắc cơ bản của hợp đồng:
(i) Nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng
Nguyên tắc tự do hợp đồng - được coi là nguyên lý, nguyên tắc căn bản nhất của
pháp luật hợp đồng thời kỳ đầu chủ nghĩa tư bản, đã đươc ra đời vào cuối thế kỷ XVIII -
27
Điều 2-316 Bộ luật UCC. Xem thêm tại: https://www.law.cornell.edu/ucc/2/2-316 truy
cập ngày 01/9/2018.
28 Điều 2-719 Bộ luật UCC. Xem thêm tại: https://www.law.cornell.edu/ucc/2/2-
719 truy cập ngày 01/9/2018.
29
Phạm Duy Nghĩa, 2003. Điều chỉnh thông tin bất cân xứng và quản lý rủi ro trong pháp
luật hợp đồng Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 05/2003, tr.39.
26. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
17
đầu thế kỷ XIX trên cơ sở học thuyết về tự do ý chí30
. Theo học thuyết tự do ý chí, khi
tham gia quan hệ dân sự, ý chí của con người là tối thượng và tự chủ, chỉ các hành vi xuất
phát từ ý chí tự chủ mới có hiệu lực ràng buộc đối với người đó31
. Chính những nội dung
này của học thuyết tự do ý chí đã phản ánh hai nội dung cơ bản của nguyên tắc tự do giao
kết hợp đồng: Một là, hợp đồng phải là kết quả của sự tự do thỏa thuận tự nguyện giữa các
bên, là sự thể hiện ý chí đích thực của các bên; và hai là, các bên tự do quyết định việc
tham gia quan hệ hợp đồng, tự do lựa chọn đối tác và tự do trong xác định nội dung và các
điều khoản của hợp đồng. Nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng được ghi nhận trong pháp
luật hợp đồng của hầu hết các quốc gia cũng như các văn bản pháp luật quốc tế32
.Tại Việt
Nam, nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng thuộc nội hàm một trong các nguyên tắc cơ bản
của pháp luật dân sự: “Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận”33
. Vì tầm quan trọng của
nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng, bất kỳ việc ràng buộc cản trở tự do ý chí nào cũng sẽ
vi phạm nguyên tắc cơ bản này, đồng thời là căn cứ khiến cho hợp đồng mất hiệu lực.
(ii) Nguyên tắc thiện chí, trung thực
Tương tự với nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng, nguyên tắc thiện chí, trung thực
cũng được thừa nhận rộng rãi, trở thành nghĩa vụ bắt buộc mà pháp luật đặt ra cho bất kỳ
bên nào tham gia vào hợp đồng, và cũng là kim chỉ nam cho việc giải quyết hậu quả tranh
chấp hợp đồng. Trong đó, thiện chí được hiểu là “không chỉ quan tâm, chăm lo đến quyền,
lợi ích hợp pháp của mình mà còn phải tôn trọng, quan tâm đến lợi ích lợi ích hợp pháp của
người khác”34
, còn trung thực theo cách hiểu thông thường là ngay thẳng, thật thà, đúng
sự thật. Như vậy, theo yêu cầu của nguyên tắc này, các bên khi tham gia vào quan hệ
30
Lê Trường Sơn, Luận án tiến sĩ luật học, 2015. Giai đoạn tiền hợp đồng trong pháp luật
Việt Nam, Trường Đại học Luật TP.HCM, tr.6.
31
Phạm Hoàng Giang, 2012. Sự phát triển của pháp luật hợp đồng từ nguyên tắc tự do
giao kết hợp đồng đến nguyên tắc công bằng. Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 10/2006, tr.28.
32
Xem Điều 1101 BLDS Pháp; Điều 4 Luật Hợp đồng Cộng hòa nhân dân Trung Hoa;
Điều 1:102 Bộ Nguyên tắc về Luật Hợp đồng của Liên Minh Châu Âu; Điều 7 Công ước CISG.
33
Khoản 2 Điều 3 BLDS 2015. Để làm rõ, trước đây BLDS 2005 quy định rõ tại Khoản 1
Điều 389: Nguyên tắc giao kết hợp đồng dân sự: Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái
pháp luật, đạo đức xã hội, tuy nhiên, điều luật này đã được bãi bỏ bởi BLDS 2015.
34
Điều 9 BLDS 1995.
27. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
18
hợp đồng cần phải hành động một cách ngay thẳng với nhau, bên cạnh theo đuổi lợi ích
của mình còn phải quan tâm đến lợi ích của bên còn lại.
Từ sự phân tích trên có thể thấy rằng: Hợp đồng có một bên yếu thế không đảm bảo
hai nguyên tắc kể trên. Cụ thể, bên yếu thế tùy từng trường hợp không được hưởng quyền
tự do ý chí khi tham gia hợp đồng, chẳng hạn như đối với hợp đồng dân sự theo mẫu thì
không được tự do lựa chọn nội dung hợp đồng, còn hợp đồng sử dụng điện, nước thì người
tiêu dùng không được tự do lựa chọn đối tác (do chỉ có một đối tác duy nhất là Nhà nước).
Mặt khác, đối với một số hợp đồng có bên yếu thế khác, chẳng hạn như hợp đồng mua bán
nhà giả cách che dấu hợp đồng cho vay nặng lãi35
, rõ ràng bên mạnh thế đã không hành
động theo nguyên tắc thiện chí, trung thực khi lợi dụng yếu điểm của bên còn lại để giành
lấy những lợi ích chênh lệch quá đáng kể, vi phạm nguyên tắc thiện chí, trung thực. Như
vậy, hợp đồng có một bên yếu thế đã không đảm bảo hai nguyên tắc quan trọng của hợp
đồng từ đó không có giá trị pháp lý ràng buộc đối với các bên.
Tuy nhiên, dưới góc độ của một quan điểm ngược lại, khi các bên đã đặt bút ký vào
hợp đồng thì phải tôn trọng và tuân thủ hợp đồng. Đây cũng chính là một nguyên tắc cơ
bản khác của hợp đồng:
(iii) Nguyên tắc tuân thủ hợp đồng (Nguyên tắc pacta sunt servanda)
Pacta sunt servanda trong tiếng La Tinh, nghĩa là: hợp đồng phải được tuân thủ,
còn được dịch là “nguyên tắc bất khả xâm phạm hợp đồng”36
. Theo nguyên tắc này, sau
khi hợp đồng đã được giao kết, các bên sẽ bị ràng buộc bởi các thỏa thuận có hiệu lực
trong hợp đồng, và hợp đồng chỉ có thể được thay đổi hoặc chấm dứt bằng sự thỏa thuận,
thống nhất của cả hai bên. Nguyên tắc này cũng được pháp luật hợp đồng trên thế giới thừa
nhận rộng rãi vì lẽ mục đích của pháp luật trước tiên là bảo vệ hiệu lực của hợp đồng. Thực
vậy, không nguyên tắc nào thực hiện vai trò bảo vệ này tốt hơn pacta sunt servanda.
Nguyên tắc này mang hai ý nghĩa, một là liên quan đến tính bất biến của hợp đồng và hai là
hợp đồng phải được tuân thủ nghiêm túc. Theo đó, hợp đồng mang tính ổn định, ràng
35
Xem thêm Tiểu Mục 3.1.3 Luận Văn này.
36
Lê Minh Hùng, Luận án tiến sĩ luật học, 2010. Hiệu lực của hợp đồng theo quy định
pháp luật Việt Nam, Trường Đại học Luật TP.HCM, TP.HCM, tr.31.
28. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
19
buộc và bất biến; hay nói một cách khác, ở vấn đề mà ta đang nghiên cứu, bên yếu thế đã
“bút sa gà chết”, bước vào quan hệ hợp đồng thì buộc phải tuân thủ nghiêm túc hợp đồng.
Tuy nhiên, sẽ là không công bằng khi pháp luật chỉ ghi nhận pacta sunt servanda
vì thực tiễn luôn xuất hiện những trường hợp pacta sunt servanda trở nên quá cực đoan và
cứng nhắc; chính vì vậy, pháp luật hợp đồng quốc tế cũng như các quốc gia đã tiếp nhận
thêm:
(iv) Nguyên tắc đảm bảo cân bằng lợi ích (Nguyên tắc rebus sic stantibus)
Nguyên tắc này được xây dựng trên nguyên tắc cơ bản đã được đề cập trước là
nguyên tắc thiện chí, trung thực. Nguyên tắc này giúp cho pháp luật điều chỉnh các hợp
đồng đã được xác lập một cách bất công, xâm phạm quyền lợi của bên yếu thế, làm cơ sở
để Tòa án can thiệp vào hiệu lực hợp đồng, đảm bảo lợi ích của các bên được cân bằng, tái
lập sự công bằng tương đối cho giao dịch37
.
Việc đối lập về nội hàm của hai nguyên tắc kể trên chính là minh chứng cho mối
quan hệ biện chứng, giữa rebus sic stantibus và pacta sunt servanda. Học giả người Ý
Ugo Draetta đã nhận định rằng: “Đây là hai nguyên tắc thay thế cho nhau, luôn cùng tồn
tại, và không một nguyên tắc nào trội hơn nguyên tắc nào”38
. Rebus sic stantibus dù đối
lập nhưng có ý nghĩa bổ sung cho pacta sunt servanda như là một trường hợp ngoại lệ,
giúp cho hợp đồng không bị bảo vệ một cách quá cực đoan. Rebus sic stantibus còn là một
giải pháp linh hoạt để hợp đồng được điều chỉnh một cách hợp lý, tái lập sự cân bằng lợi
ích giữa các bên, nhằm bảo vệ kẻ yếu thế, bảo vệ sự an toàn pháp lý của các bên trong các
hoàn cảnh có sự lạm dụng lợi thế của kẻ mạnh thế.
Như vậy, hợp đồng có một bên yếu thế là loại hợp đồng chứa đựng những điều
khoản không công bằng, tồn tại tình trạng bất lợi nghiêm trọng của bên yếu thế, rõ ràng đã
vi phạm nguyên tắc đảm bảo cân bằng lợi ích (rebus sic stantibus) như phân tích trên;
thêm vào đó, hợp đồng có một bên yếu thế còn trái với hai nguyên tắc cơ bản của hợp đồng
khác, đó là (1) nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng, (2) nguyên tắc thiện chí, trung thực.
37
Chú thích số 36, tr.33.
38
UgoDretta, 2004. Điều khoản về trường hợp bất khả kháng và điều khoản về hardship
trong hợp đồng quốc tế, Hội thảo Hợp đồng thương mại quốc tế, Nhà pháp luật Việt – Pháp, tr.181-
190.
29. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
20
Đây chính là cơ sở lý luận khẳng định rằng hợp đồng có một bên yếu thế rõ ràng không có
hiệu lực pháp luật, hơn nữa, pháp luật cần có những công cụ thích hợp để điều chỉnh, cân
bằng lợi ích các bên và bảo vệ bên yếu thế trong hợp đồng.
Kết luận Chương 1
Hợp đồng có một bên yếu thế mang bản chất của một hợp đồng, đó chính là một sự
thỏa thuận giữa các bên. Tuy nhiên, sự thỏa thuận này lại có những đặc trưng nhất định, đó
là chứa đựng những điều khoản không công bằng, tồn tại tình trạng bất lợi nghiêm trọng
của bên yếu thế và sự trục lợi bằng những hành động không phù hợp của bên mạnh thế.
Hợp đồng có một bên yếu thế tùy hệ thống pháp luật mà được ghi nhận với cái tên khác
nhau, chẳng hạn như tại các nước Common Law gọi hợp đồng này là các “giao dịch không
công bằng” hay “giao dịch bất công thái quá”, dù là tên gọi thế nào đều toát lên bản chất
một thỏa thuận có sự không công bằng, không cân bằng giữa hai bên về một khía cạnh nào
đó. Cơ sở lý luận nguồn cội cũng của hợp đồng có một bên yếu thế là Học thuyết về giao
dịch không công bằng (Unconscionability Doctrine) ra đời tại các Tòa án Anh Quốc.
Về vấn đề hiệu lực, hợp đồng có một bên yếu thế, đã không đảm bảo một số
nguyên tắc cơ bản của hợp đồng như nguyên tắc đảm bảo cân bằng lợi ích (rebus sic
stantibus), nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng, nguyên tắc thiện chí, trung thực, do đó hợp
đồng này không có hiệu lực pháp luật.
30. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
21
Chương 2. PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG CÓ MỘT BÊN YẾU THẾ
TRÊN THẾ GIỚI
2.1 Khối Thịnh Vượng Chung (British Commonweath)
Pháp luật về hợp đồng có một bên yếu thế trên thế giới được bắt nguồn từ học thuyết
về giao dịch không công bằng (Unconscionability Doctrine), vốn được khai sinh tại Anh
Quốc với các án lệ kinh điển, được xem là nền tảng của sự phát triển của pháp luật về hợp
đồng có một bên yếu thế trên khắp thế giới. Từ thế kỷ XX cho đến nay, Unconscionability
Doctrine được áp dụng rộng rãi tại Tòa án của toàn bộ Khối Thịnh Vượng Chung (British
Commonwealth). Một trong các quốc gia thuộc Khối Thịnh Vượng Chung chịu sự ảnh
hưởng mạnh mẽ của việc phát triển Unconscionability Doctrine của Anh Quốc chính là
nước Úc (Australia). Tuy vậy, học thuyết này không chịu sự gián đoạn như Anh Quốc39
mà được áp dụng xuyên suốt từ cuối thế kỷ XIX tại Tòa án các tiểu bang của Úc, thậm chí
Tòa án Tối cao Úc đã chính thức áp dụng Unconscionability Doctrine tại ba án lệ nổi tiếng
là (i) Blomley v. Ryan (1956) (giao dịch mua bán với giá trị không tương xứng và người
bán có tình trạng tinh thần không tốt do nghiện rượu)40
, (ii) Wilton v. Farnworth (1948)
(giao dịch tặng cho mà người tặng cho có trí tuệ thấp kém, khiếm thính và người được tặng
cho là con riêng của vợ với mưu đồ để cho cha dượng ký chứng từ tặng cho một cách
không minh bạch)41
và (iii) Commercial Bank of Australia v. Amadio (1983). Trong số ba
án lệ này, án lệ Commercial Bank of Australia v. Amadio (1983) của Tòa án Tối cao Úc là
một trong những án lệ tiêu biểu nhất của pháp luật Úc đối với vấn đề pháp luật về hợp
đồng bất công thái quá, cũng như là một án lệ tiêu biểu trên thế giới về trong lĩnh vực tín
dụng – được giảng dạy tại hầu hết các khoa luật cũng khoa ngân hàng trên khắp thế giới
với vai trò là điển hình của vấn đề “thế chấp vô lương tâm”.
Án lệ Commercial Bank of Australia v. Amadio (1983), cụ thể như sau:
39
Xem lại Tiểu Mục 1.2.1 của Luận Văn này.
40
Xem thêm án lệ Blomley v. Ryan (1956) (Tòa án Tối cao Úc) tại
http://www.unistudyguides.com/wiki/Blomley_v_Ryan truy cập ngày 28/8/2018
41 Xem thêm án lệ Wilton v. Farnworth (1948) (Tòa án Tối cao Úc) tại
https://jade.io/article/64549 truy cập ngày 28/8/2018.
31. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
22
Ông bà Amadio là người Ý, di dân sang Úc khoảng 40 năm nhưng tiếng Anh hạn
chế, hoàn toàn không có kiến thức và kinh nghiệm trong lĩnh vực ngân hàng. Con trai của
họ Vincenzo quản lý một số công ty và có vẻ thành công, dù trên thực tế, Vincenzo đang
ngập trong nợ nần. Vincenzo tiếp tục đi vay tại Ngân hàng Commercial Bank of Australia,
Ngân hàng yêu cầu bổ sung tài sản bảo đảm là bất động sản thuộc sở hữu của ông bà
Amadio ở Sydney. Vincenzo nói với cha mẹ là họ chỉ đảm bảo trong khoảng $50,000 với
thời hạn 6 tháng nhưng sự thực là bảo đảm cho toàn bộ khoản nợ của Vicenzo tại Ngân
hàng trên và không có giới hạn thời gian bảo đảm. Tại thời điểm ký kết, phía Ngân hàng
nhận biết được vấn đề rằng ông bà Amadio không hiểu bản chất thực cũng như giới hạn
của giao dịch thế chấp nhưng không giải thích cho họ về điều này. Các bên hoàn thành thủ
tục thế chấp, giải ngân. Sau đó công ty của Vicenzo lâm vào tình trạng phá sản và Ngân
hàng yêu cầu ông bà Amadio trả nợ thay, nếu không họ sẽ phát mãi tài sản thế chấp thu
hồi nợ. Ông bà Amadio không đồng ý với lý do hợp đồng thế chấp là bất công thái quá và
sự việc được đưa ra giải quyết tại toà án.
Ở cấp sơ thẩm phần thắng đã nghiêng về Ngân hàng, vì Vicenzo mới là người
thông tin không đúng sự thật cho ông bà Amadio về phạm vi thế chấp chứ không phải đại
diện Ngân hàng. Tuy nhiên ở cấp phúc thẩm, và sau đó là Toà án Tối cao Úc đều nhận
định và phán quyết rằng Ngân hàng đã thực hiện hành vi vô lương tâm, giao dịch thế chấp
này là một giao dịch bất công thái quá và do đó, không có hiệu lực ràng buộc đối với các
bên tham gia.42
Án lệ Commercial Bank of Australia v. Amadio (1983) được đánh giá đã thúc đẩy
sự phát triển Unconscionability Doctrine tại Úc nói chung và trong lĩnh vực tín dụng – thế
chấp nói riêng, đồng thời việc áp dụng án lệ này đã tạo nên sự bùng nổ như “một trận tuyết
lở” tại Úc43
, mà thường hay được nhắc đến như một trường hợp lợi dụng một cách vô
lương tâm (unconscientious taking advantage).
42 Xem thêm án lệ Commercial Bank of Australia v. Amadio (1983) (Tòa án Tối
cao Úc) tại https://jade.io/article89/67047 truy cập ngày 28/8/2018.
43
Mark Sneddon, 1992. Unconscionability in Australian Law: Development and Policy
Issues, Loyola of Los Angeles International and Comparative Law Review, Volume 14 (Issue 3), p.
549. Available at: http://digitalcommons.lmu.edu/ilr/vol14/iss3/7 truy cập ngày 28/8/2018.
32. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
23
Hơn nữa, Commercial Bank of Australia v. Amadio (1983) đã làm rõ các yếu tố
xác định một trường hợp lợi dụng một cách vô lương tâm, hay nói cách khác chính là giao
dịch có bên yếu thế, là tồn tại một bên yếu thế với tình trạng bất lợi, và một bên mạnh thế
với hành vi không chính đáng nhằm lợi dụng điểm yếu thế của bên còn lại. Cụ thể hơn, án
lệ này đã nêu rõ những yếu tố thể hiện sự yếu thế và tình trạng bất lợi của ông bà Amadio
đó chính là tuổi già, sự hạn chế trong việc đọc hiểu Tiếng Anh, sự thiếu kinh nghiệm và
hiểu biết trong lĩnh vực kinh doanh và niềm tin sai lầm của họ đối với tình hình tài chính
của công ty của con trai mình; đồng thời cũng nhấn mạnh hành vi trục lợi một cách vô
lương tâm của bên mạnh thế - Ngân hàng Commercial Bank of Australia – khi họ vẫn tiến
hành giao dịch thế chấp dù đã biết rõ rằng ông bà Amadio đang tiến hành giao dịch mà
hoàn toàn không mang về lợi ích tốt nhất cho họ. Thẩm phán Mason J (Justice Mason J) đã
nhấn mạnh rằng “ngân hàng phải chịu trách nhiệm về hành vi vô lương tâm, bởi vì, mặc dù
người giám đốc chi nhánh ngân hàng nhận biết "khả năng hợp lý" rằng ông bà Amadio
thiếu khả năng định đoạt những lợi ích tốt nhất cho họ trong một giao dịch đặc biệt bất
lợi; người giám đốc này vẫn tiến hành giao dịch mà không lưu ý và cung cấp thông tin một
cách đúng đắn, đồng thời không đề nghị ông bà Amadio tìm sự tư vấn độc lập về giao dịch
này”44
. Nhận định này của Thẩm phán Mason J (Justice Mason J) đã tạo nên một tiền lệ
thực tế, rằng đối với một giao dịch có sự tham gia của một bên yếu thế vì sự hạn chế về
ngôn ngữ, kiến thức, kinh nghiệm trong lĩnh vực liên quan, thì bên mạnh thế hơn cần có
những bước thận trọng trong việc giải thích, cung cấp thông tin về giao dịch cũng như đề
nghị bên yếu thế tìm sự tư vấn độc lập cho mình; và một khi bên mạnh thế trong giao dịch
thực hiện đầy đủ những điều này, giao dịch sẽ được xem là cải thiện đáng kể về sự chênh
lệch vị thế, và bên mạnh thế có thể thực hiện giao dịch này mà không bị xem là một trường
hợp lợi dụng một cách vô lương tâm. Ở một khía cạnh khác, các ngân hàng, tổ chức tài
chính tại Úc bấy giờ lại bày tỏ mạnh mẽ thái độ chỉ trích đối với phán quyết của Tòa án Tối
cao Úc trong Commercial Bank of Australia v. Amadio (1983), họ quan ngại rằng phán
quyết này sẽ khiến các giao dịch thế chấp không còn tính chắc chắn, đồng thời áp đặt cho
các ngân hàng “nghĩa vụ chăm sóc” quá mức cho các khách hàng được cho là bên
44 Xem thêm án lệ Commercial Bank of Australia v. Amadio (1983) (Tòa án Tối
cao Úc) tại https://jade.io/article89/67047 truy cập ngày 28/8/2018.
33. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
24
được yếu thế theo quan điểm của Tòa án45
. Tuy nhiên, các quan ngại của giới tài chính
ngân hàng vẫn không thể ngăn cản việc Tòa án tiếp tục viện dẫn Commercial Bank of
Australia v. Amadio (1983) vào các vụ việc tương tự, thậm chí còn ngày một nghiêm khắc
hơn như trong án lệ Guthrie v. ANZ Banking Group Ltd (1991), giao dịch thế chấp giữa
Ngân hàng và một người vợ bị chứng nghiện rượu, đã thực hiện thế chấp căn nhà gia đình
để bảo lãnh các khoản vay cho chồng tại Ngân hàng này, tuy nhiên Ngân hàng này không
tin đầy đủ cho bà về toàn bộ khoản vay của người chồng; mặc dù Ngân hàng đã thực hiện
việc đề nghị người vợ tìm một tư vấn độc lập cho mình, nhưng Tòa Phúc thẩm Tiểu bang
New South Wales vẫn quyết định đây là một trường hợp lợi dụng một cách vô lương tâm
và theo đó, giao dịch thế chấp này không có hiệu lực ràng buộc đối với các bên46
. Các án
lệ này đã trở thành một hệ thống công cụ pháp luật vô cùng hữu hiệu để bảo vệ khách hàng
trong mối quan hệ thế chấp – bảo lãnh với ngân hàng và các tổ chức tín dụng, tạo nên một
sự ảnh hưởng đáng kể đến nền kinh tế tài chính tín dụng Úc lúc bấy giờ47
.
Bên cạnh với hệ thống án lệ, nhà làm luật Úc còn xây dựng các quy định pháp luật
về các giao dịch bất công thái quá tại các văn bản pháp luật thành văn, chủ yếu xoay quanh
các vấn đề như giao dịch cho vay tiền (Điều 5 Đạo luật về Cho Vay Tiền năm 1928 của
tiểu bang Victoria)48
, giao dịch mua bán trả góp (Điều 24 Đạo luật về Mua bán trả góp
năm 1959 của tiểu bang Victoria)49
. Tuy nhiên, hai đạo luật nổi bật nhất trong việc bảo vệ
bên yếu thế trong các giao dịch bất công thái quá trong hệ thống pháp luật Úc phải kể đến:
Đạo luật Xem xét hợp đồng năm 1980 của tiểu bang New South Wales 1980 (The New
South Wales Contract Review Act of 1980) và Điều 52D của Đạo luật Thực hành thương
mại liên bang năm 1974 (The Federal Trade Practiace Acts 1974).
45
Xem Chú thích số 43, p. 551.
46 Xem thêm án lệ Guthrie v. ANZ Banking Group Ltd (1991) (Tòa Phúc thẩm
Tiểu bang New South Wales - Úc) tại https://nswlr.com.au/view/23-NSWLR-672 truy cập ngày
29/8/2018.
47 Janine Pascoe (2005), Guarantees, Financial Services Regulation and the role of
ASIC, p.1. Available at: https://bit.ly/2zqpxLX truy cập ngày 29/8/2018.
48
Xem thêm Money Lender Act 1928 (Victoria) tại https://bit.ly/2ND18LB truy cập ngày
29/8/2018.
49 Xem thêm Hire-Purchase Act 1959 (Victoria) tại https://bit.ly/2xD37Vu truy cập
ngày
34. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
29/8/2018.
35. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
25
Đạo luật Xem xét hợp đồng năm 1980 của Tiểu bang New South Wales (The
New South Wales Contract Review Act of 1980 – CRA 1980):
Đây được cho là đạo luật được lấy cảm hứng từ Điều §2-302 của Bộ luật UCC
(Hoa Kỳ) và được ban hành với “mục đích xem xét tính pháp lý của các hợp đồng và quy
định các biện pháp xử lý đối với các hợp đồng mang tính khắc nghiệt, áp bức, vô lương
tâm hoặc bất công thái quá”50
. Điểm đặc biệt của đạo luật này nằm ở việc cung cấp cho
Tòa án một danh sách 12 nhân tố rất cụ thể và đáng cân nhắc để quyết định liệu rằng một
hợp đồng có bất công thái quá trong những hoàn cảnh liên quan tới hợp đồng vào thời điểm
tạo ra hợp đồng hay không51
. Bên cạnh các yếu tố mà Điều 9 Đạo luật này đề cập, các
Thẩm phán có thể cân nhắc cả những yếu tố khác mà họ cho rằng có thể khiến cho một
giao dịch trở nên bất công thái quá. So sánh với quy định tương ứng tại Bộ luật UCC của
Hoa Kỳ, việc quy định 12 yếu tố để Tòa án cân nhắc khi xem xét một hợp đồng của CRA
1980 rõ ràng mang tính cụ thể và rõ ràng hơn, tạo một khung pháp lý nhất định để các bên
trước khi giao kết hợp đồng có sự đàm phán và soạn thảo kỹ lưỡng, tránh rơi vào trường
hợp bị xem là một giao dịch bất công thái quá. Bên cạnh đó, CRA 1980 còn quy định rõ
thẩm quyền của Tòa án, khi Tòa án đủ căn cứ xác định một giao dịch là bất công thái quá,
Tòa án có quyền từ chối thực thi một phần hoặc toàn bộ hợp đồng, và tuyên bố hợp đồng
vô hiệu một phần hoặc vô hiệu toàn bộ, hoặc trực tiếp điều chỉnh, thay đổi hợp đồng52
.
Thật vậy, trong án lệ West v. AGC Advances Ltd (1986), CRA 1980 đã lần đầu tiên
được Tòa án vận dụng vào thực tế; Tòa Phúc thẩm Tiểu bang New South Wales đã xét xử
một vụ án giữa bà West và Công ty tài chính Australian Guarantee Corporation (AGC
Advance Ltd), người chồng của bà – ông West – là nhân viên của một doanh nghiệp đang
có nhu cầu vay vốn kinh doanh. Ông West đã yêu cầu bà West thế chấp căn nhà của họ để
đảm bảo cho khoản vay của doanh nghiệp này. Bà West đã đồng ý thực hiện thế chấp dù
đã được con trai của bà – một kế toán và một người bạn hành nghề luật sư can ngăn về rủi
ro của giao dịch này. Tuy vậy, bà West lại không có sự tư vấn pháp lý độc lập nào. Cuối
50Lời giới thiệu của Đạo luật Xem xét hợp đồng năm 1980 của Tiểu bang New South
Wales; xem thêm The New South Wales Contract Review Act of 1980 tại https://bit.ly/2NWQDCn
truy cập ngày 30/8/2018.
51
Điều 9 Đạo luật Xem xét hợp đồng năm 1980 của Tiểu bang New South Wales.
52
Điều 7 Đạo luật Xem xét hợp đồng năm 1980 của Tiểu bang New South Wales
36. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
26
cùng, doanh nghiệp mà ông West làm việc đã không có khả năng thanh toán, ACG đã yêu
cầu bà West dùng tài sản thế chấp để thanh toán cho các khoản nợ của doanh nghiệp trên.
Bà West sau đó đệ đơn xin miễn trừ trách nhiệm hợp đồng tại Tòa án Tiểu bang New South
Wales với các căn cứ điểm là các quy định tại CRA 1980.
Tại Tòa cấp sơ thẩm cho rằng việc bà đề nghị áp dụng CRA 1980 là không phù hợp
vì bà không phải là khách hàng trực tiếp đi vay ACG, do đó, đơn xin miễn trừ trách nhiệm
hợp đồng của bà bị từ chối. Tuy nhiên, Tòa Phúc thẩm Tiểu bang New South Wales nhận
định rằng CRA 1980 là một đạo luật đáng được vận dụng một cách tự do trong phạm vi
của luật hợp đồng, chứ không giới hạn trong phạm vi quan hệ hợp đồng giữa hai bên mà
không cân nhắc đến lợi ích chính đáng của bên thứ ba53
. Theo đó, Thẩm phán Michael
McHugh (Tòa Phúc thẩm Tiểu bang New South Wales) đã vận dụng và phân tích quy định
CRA 1980 vào vụ án, ông cho rằng “hợp đồng là bất công vì có sự chênh lệch đáng kể
giữa giá trị giá cả của tài sản và giá trị của nó trong giao dịch, cho dù sự bất công về mặt
thủ tục của giao dịch này là chưa rõ ràng”, cuối cùng, Tòa Phúc thẩm Tiểu bang New
South Wales đã tuyên AGC đã thực hiện một giao dịch bất công thái quá với bà West, và
giao dịch này không có hiệu lực ràng buộc với các bên54
.
Việc vận dụng CRA 1980 đã thực sự tạo một dấu ấn rõ rệt của nền tư pháp Úc
trong việc bảo vệ bên yếu thế trong các giao dịch bất công thái quá, đặc biệt là lĩnh vực bảo
vệ khách hàng trong giao dịch tín dụng cũng như người tiêu dùng nói chung. Tuy nhiên,
CRA 1980 cũng có những giới hạn trong phạm vi áp dụng, cụ thể là Hoàng Gia, các cơ
quan chính phủ, công ty hoặc cá nhân tham gia vào hợp đồng với mục đích thương mại,
kinh doanh phù hợp với ngành nghề kinh doanh của mình, trừ nghề làm nông, thì đều
không được đệ đơn xin miễn trừ trách nhiệm hợp đồng lên Tòa án có thẩm quyền55
.
53
Cooper.R.E, 1989. Unconscionability in Consumer Transactions: Section 52 of the
Trade Practices Act, Queensland University of Technology Law Journal 1, Volumn 5, p.5.
Available at: http://classic.austlii.edu.au/au/journals/QUTLawJl/1989/1.html truy cập ngày
30/8/2018.
54 Xem thêm án lệ West v. AGC Advances Ltd (1986) (Tòa Phúc thẩm Tiểu bang
New South Wales - Úc) tại https://nswlr.com.au/view/5-NSWLR-610 truy cập ngày 30/8/2018.
55
Điều 6 Đạo luật Xem xét hợp đồng năm 1980 (CRA 1980) của Tiểu bang New South
Wales
37. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
27
Đạo luật Thực hành thương mại Liên bang năm 1974, được sửa đổi bổ sung
năm 1986 (the Federal Trade Practiace Acts 1986 – TPA 1986):
Điều luật đáng chú ý nhất trong lĩnh vực bảo vệ bên yếu thế của TPA 1986 chính là
Điều 52A, với quy định rằng: trong mọi trường hợp, một công ty trong lĩnh vực kinh
doanh, thương mại, khi cung cấp hoặc có khả năng cung cấp hàng hóa hoặc dịch vụ cho
khách hàng, thì không được thực hiện các giao dịch bất công thái quá56
. Theo khuôn mẫu
từ Đạo luật Xem xét Hợp đồng năm 1980 của Tiểu bang New South Wales (CRA 1980),
nhà làm luật đã bổ sung tại Điều 52A TPA 1986 các yếu tố mà Tòa án có thể xem xét liệu
rằng một hợp đồng có bị xem là bất công thái quá57
. Tuy nhiên, Điều 52A TPA 1986 có
phạm vi rộng hơn khi bao trùm cả các hành vi tiền hợp đồng (như quảng cáo hàng hóa) và
hành vi hậu hợp đồng (như việc thực hiện các quyền trong hợp đồng); mặt khác, Điều 52A
TPA 1986 không chỉ áp dụng ở giai đoạn thiết lập hợp đồng mà còn áp dụng cả với quá
trình thực thi hợp đồng, tức cho dù một hợp đồng không có điều khoản bất công thái quá,
nhưng quá trình một bên thực thi quyền của mình theo hợp đồng lại có những hành vi vô
lương tâm, bất công với bên còn lại thì Tòa án cũng có quyền áp dụng Điều 52A TPA 1986
để bảo vệ bên yếu thế58
. Đồng thời, Điều 52A TPA 1986 cũng hạn chế phạm vi áp dụng,
cụ thể là chỉ điều chỉnh các đối tượng là hàng hóa dịch vụ dùng cho tiêu dùng cá nhân, tiêu
dùng gia đình, tiêu dùng phổ thông, tiêu thụ nội địa và những hàng hóa không được dùng
để phân phối lại hoặc sản xuất lại đưa ra thị trường59
.
Chế tài của Đạo luật Thực hành thương mại Liên bang đối với hành vi vi phạm
Điều 52A là phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại cho người chịu tổn thất, đồng thời với
những chế tài khác như bị Tòa án từ chối việc tiếp tục thực hiện hợp đồng hoặc bị Tòa án
tuyên rằng hợp đồng vô hiệu, yêu cầu bồi hoàn tiền hoặc tài sản cho bên còn lại60
56
Khoản 1 Điều 52A Đạo luật Thực hành thương mại Liên bang.
57
Khoản 2 Điều 52A Đạo luật Thực hành thương mại Liên bang Úc.
58
Xem Chú thích số 43, p. 555.
59
Khoản 5, khoản 6 Đạo luật Thực hành thương mại Liên bang Úc.
60
Điều 80, Điều 87A Đạo luật Thực hành thương mại Liên bang Úc.
38. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
28
2.2 Hoa Kỳ
Bên cạnh đó, khi nói đến pháp luật có nhiều ứng dụng của Unconscionability
Doctrine phải kể đến Hoa Kỳ, nơi mà thông luật Anh đã được du nhập bằng con đường
chinh phục thuộc địa tại Châu Mỹ. Khi các thuộc địa và vùng lãnh thổ của Anh Quốc tại
Châu Mỹ giành được độc lập và trở thành các tiểu bang của Hoa Kỳ sau này, họ đã thông
qua và ghi nhận thông luật Anh như một nguồn pháp luật chính thức. Cho đến ngày nay, tất
cả các tiểu bang Hoa Kỳ, trừ tiểu bang Louisiana, đã áp dụng thông luật Anh vì không tồn
tại sự mâu thuẫn với phát triển của pháp luật hoặc chính sách công. Và cũng vì thế, học
thuyết về giao dịch không công bằng đã dường như được dễ dàng chấp nhận bởi các Tòa án
Hoa Kỳ như một trường hợp hợp đồng vô hiệu61
. Một án lệ điển hình minh chứng cho điều
này có thể kể đến là King v. Cohorn, trong đó, Tòa án Tối cao tiểu bang Tennessee đã bác
bỏ hiệu lực của một giao dịch mua bán đất, với sự nhận định rằng “các điều kiện giao dịch
và đặc điểm của các bên tham gia giao dịch” là điều rất đáng lưu ý, khi mà người mua
được mô tả là một người đàn ông “khéo léo, thông minh, sắc sảo, suy đoán” và người bán
là “người phụ nữ da đen, dốt nát, già nua, nghiện rượu, bệnh tật, khờ dại, và không có tài
sản khác nào ngoài lô đất được nói đến”. Vì người phụ nữ này không biết chữ, lại không
có đại diện pháp lý nên đã phải tiếp nhận hợp đồng thông qua lời đọc của nhân chứng –
cũng là con rể của người mua – với nội dung trao đổi lô đất để lấy “một toa xe nặng và ít
hơn một nửa một đàn ngựa kém”. Tòa án Tennessee đã cho rằng, nhìn vào “bản chất và đối
tượng của sự thương lượng”, rằng lô đất là tài sản duy nhất và trị giá đến khoảng $400 …
Phân tích của Tòa án Tennessee xem xét đến rất nhiều khía cạnh của hợp đồng, trong đó có
nhắc đến việc tồn tại sự bất bình đẳng về giá trị nhận được của các bên trong giao dịch, khi
người mua chẳng nhận được gì ngoài “một khoản phí tổn và nặng nề”62
.
Đặc biệt, pháp luật Hoa Kỳ còn ghi nhận học thuyết này vào khá nhiều văn bản
pháp luật thành văn. Có thể kể đến là Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ - Uniform
Commercial Code (UCC), tại Điều §2-302, UCC đã quy định nếu Tòa án phát hiện các
hợp đồng hoặc bất kỳ điều khoản của hợp đồng bất công thái quá tại thời điểm nó được
61
Chú thích số 14, p.7.
62
King v. Cohorn (1834)
39. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
29
thiết lập, Tòa án có thể từ chối thực thi hợp đồng, hoặc có thể thực thi các phần còn lại
của hợp đồng mà không có điều khoản bất công thái quá, hoặc nó có thể giới hạn sự áp
dụng của bất kỳ điều khoản bất công thái quá để tránh bất kỳ kết quả bất công thái quá
nào.
Việc ghi nhận Hợp đồng hoặc điều khoản bất công thái quá của UCC được các
luật gia Hoa Kỳ đánh giá là khá mới lạ trong hệ thống pháp luật hợp đồng Hoa Kỳ, tạo ra
một quy tắc rõ ràng cho Tòa án, không còn phụ thuộc và giới hạn trong nguyên tắc công
bằng (equity), có thể kiểm soát các giao dịch không công bằng mà không cần viện dẫn đến
các trường hợp mất hiệu lực hợp đồng như nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa hay cưỡng ép. Quy
định về Hợp đồng hoặc điều khoản bất công thái quá trong UCC được thông qua tại tại
50 tiểu bang và Quận Columbia tại Hoa Kỳ63
, và việc này đã tạo nên một động lực phát
triển mạnh mẽ về sau của Unconscionability Doctrine tại Hoa Kỳ, bằng chứng là việc áp
dụng Điều §2-302 UCC đã lan rộng ra cả những lĩnh vực khác của pháp luật hợp đồng,
vượt ra khỏi giới hạn của Điều 2 UCC (vốn chỉ quy định về hợp đồng mua bán hàng
hóa)64
.
Sự ảnh hưởng của Unconscionability Doctrine còn được thể hiện tại các quy định
pháp luật Hoa Kỳ liên quan đến quan hệ hợp đồng cho thuê bất động sản. Trước đây, quan
hệ giữa chủ đất và người thuê luôn mang tính bất cân xứng về quyền lợi do chủ đất thường
là bên mạnh thế với quyền lực áp đặt các điều khoản hợp đồng với người thuê. Tuy nhiên,
pháp luật Hoa Kỳ ngày càng bảo vệ người thuê, thông qua việc trang bị cho người thuê một
công cụ tự vệ, là quyền được yêu cầu Tòa án tuyên bố toàn bộ hoặc một một vài điều
khoản của một giao dịch cho thuê là bất công thái quá và mất hiệu lực thi hành. Quy định
này được ghi nhận tại Đạo luật Bất động sản New York, có hiệu lực từ ngày 26/7/1976.
Cụ thể tại Điều §235-c của Đạo luật này quy định là nếu Tòa án nhận thấy hợp đồng thuê
hoặc bất kỳ điều khoản nào của một hợp đồng thuê là bất công thái quá tại thời điểm giao
kết, Tòa án có thể từ chối thực thi hợp đồng thuê hoặc bất kỳ điều khoản nào của một hợp
đồng thuê đó, yêu cầu các bên thực hiện phần còn lại của hợp đồng thuê hoặc bất kỳ điều
63
Các tiểu bang Hoa Kỳ tùy từng trường hợp đã thông qua một phần hoặc toàn bộ các điều
khoản thuộc UCC, trong đó đáng chú ý nhất là việc tiểu bang Louisiana không thông qua toàn bộ
Điều 2 của Bộ luật UCC.
64
Chú thích số 14, p.9.