GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN TẠI TAND QUA THỰC TIỄN HUYỆN ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM ĐÂY LÀ MỘT BÀI MẪU BÁO CÁO THỰC TẬP MÀ MÌNH MUỐN CHIA SẺ ĐẾN CHO CÁC BẠN SINH VIÊN HOÀN TOÀN MIỄN PHÍ VỀ NGÀNH LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN TẠI TAND QUA THỰC TIỄN HUYỆN ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM
1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ XUÂN
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TÀI SẢN CỦA VỢ
CHỒNG KHI LY HÔN TẠI TAND QUA THỰC TIỄN
HUYỆN ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM
Chuyên ngành: LUẬT DÂN SỰ
Mã số: 60 38 30
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS Nguyễn Phương Lan
HÀ NỘI - 2013
2. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chƣa đƣợc công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy, tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét
để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
NGUYỄN THỊ XUÂN
3. MỤC LỤC
Trang bìa phụ
Lời cam đoan
Mục lục
Bảng viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .......................................................................... 3
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài .......................................................... 3
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài ...................................................................... 4
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài ........................... 4
6. Những điểm mới và ý nghĩa của luận văn .................................................... 4
7. Kết cấu của luận văn ..................................................................................... 5
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN........................ 6
1.1. CĂN CỨ PHÁP LÝ ĐỂ GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP
TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN ....................................... 6
1.1.1. Căn cứ xác định tài sản chung của vợ chồng ........................................ 6
1.1.2. Căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng ...................................... 12
1.1.3. Xác định các nghĩa vụ tài sản chung, nghĩa vụ tài sản riêng của
vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân ....................................................... 15
1.2. MỘT SỐ NGUYÊN TẮC CƠ BẢN ĐỊNH HƢỚNG VIỆC GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP VỀ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG KHI
LY HÔN.............................................................................................. 19
1.2.1. Tôn trọng sự thoả thuận hợp lý của vợ chồng .................................... 20
1.2.2. Đảm bảo sự bình đẳng về quyền sở hữu tài sản của vợ chồng ........... 21
1.2.3. Đảm bảo lợi ích chính đáng của vợ, chồng trong sản xuất,nghề nghiệp..... 22
4. 1.2.4. Đảm bảo quyền, lợi íchchính đáng của vợ, con chƣa thành niên,
con đã thành niên không có khả năng lao động...............................23
1.2.5. Chia tài sản bằng hiện vật hoặc giá trị.............................................25
1.3. Ý NGHĨA CỦA VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TÀI SẢN
CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN..................................................27
Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN
TẠI TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BÀN, TỈNH
QUẢNG NAM.............................................................................30
2.1. XÁC ĐỊNH TÀI SẢN TRANH CHẤP TRONG VỤ ÁN LY HÔN
32
2.1.1. Đối tƣợng tài sản tranh chấp..........................................................32
2.1.2. Giá trị tài sản tranh chấp ................................................................34
2.1.3. Tranh chấp giữa vợ chồng về các nghĩa vụ tài sản phát sinh trong
thời kỳ hôn nhân............................................................................38
2.2. VẤN ĐỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT ĐỂ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP TÀI SẢN GIỮA VỢ VÀ CHỒNG KHI LY HÔN................41
2.2.1. Vận dụng các nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn trong thực tiễn
xét xử tại Toà án............................................................................42
2.2.2. Phƣơng thức giải quyết đối với tài sản đang tranh chấp ..................47
2.2.3. Giải quyết tranh chấp về các khoản nợ............................................54
2.2.4. Giải quyết tranh chấp về bất động sản giữa vợ và chồng..................58
Chương 3: NHỮNG VẪN ĐỀ PHÁT SINH TỪ THỰC TIỄN XÉT
XỬ VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT,
NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP VỀ TÀI SẢN GIỮA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN............68
3.1. NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁT SINH TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CÁC
TRANH CHẤP TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN.......... 68
5. 3.1.1. Vƣớng mắc về nhận thức và áp dụng pháp luật...............................68
3.1.2. Vấn đề định giá tài sản tranh chấp ..................................................73
3.1.3. Xác định tài sản của vợ chồng trong thực tế....................................77
3.1.4. Xác định những ngƣời có quyền lợi liên quan đến tài sản đang
tranh chấp.....................................................................................82
3.1.5. Xác định nghĩa vụ chung, nghĩa vụ riêng của vợ, chồng trong
thời kỳ hôn nhân............................................................................86
3.1.6. Vấn đề thủ tục tố tụng....................................................................88
3.2. NHỮNG ĐIỂM HẠN CHẾ CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHẾ ĐỊNH
TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG VÀ PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT ....................................................................93
3.3. MỘT SỐ ĐIỂM HẠN CHẾ HIỆU QUẢ CỦA VIỆC ÁP DỤNG
PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TÀI SẢN CỦA VỢ
CHỒNG KHI LY HÔN TẠI TOÀ ÁN......................................... 102
3.4. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CÁC TRANH CHẤP TÀI SẢN
GIỮA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN .............................................. 105
KẾT LUẬN........................................................................................... 113
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................... 115
6. BẢNG VIẾT TẮT
BLDS
BLTTDS
HĐXX
HNGĐ
Luật HN&GĐ
Nghị định 70/CP
Nghị quyết 02/2000/HĐTP
NN&PTNT
PT
ST
TAND
Tp.
UBND
: Bộ luật dân sự
: Bộ luật tố tụng dân sự
: Hội đồng xét xử
: hôn nhân gia đình
: Luật Hôn nhân và Gia đình
: Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001
của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật
Hôn nhân và Gia đình
: Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày
23/12/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao hƣớng dẫn áp dụng một số
quy định của Luật Hôn nhân gia đình 2000.
: nông nghiệp và phát triển nông thôn
: phúc thẩm
: sơ thẩm
: Tòa án nhân dân
Thành phố
: Ủy ban nhân dân
:
7. MỞ ĐẦU
1. Tính cấpthiết của đề tài
Gia đình là tế bào của xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Để xây
dựng gia đình tốt thì nền tảng hôn nhân phải bền vững, ngoài việc đƣợc hình
thành trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng, tiến bộ thì việc tạo lập tài sản là một
trong những điều kiện tất yếu để nuôi sống gia đình, là điều kiện vật chất, cơ
sở kinh tế cho hôn nhân tồn tại bền vững. Vì vậy, các nhà làm luật đã quan
tâm xây dựng các quy định về chế độ tài sản của vợ chồng là một trong những
chế định quan trọng, cơ bản nhất của pháp luật Hôn nhân và gia đình. Các quy
định của pháp luật về căn cứ xác lập tài sản của vợ chồng khẳng định rõ về
quyền sở hữu của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng và trên cơ sở
đó xác định nguyên tắc cơ bản giải quyết các tranh chấp về tài sản phát sinh
giữa vợ và chồng. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, pháp luật đã bộc lộ
những điểm chƣa phù hợp dẫn đến có nhiều cách hiểu không thống nhất, gây
khó khăn cho những ngƣời thực thi pháp luật cũng nhƣ không đảm bảo
quyền lợi chính đáng của các đƣơng sự.
Thông thƣờng, một vụ án hôn nhân gia đình cần giải quyết ba mối quan
hệ đó là quan hệ hôn nhân, quan hệ con chung và quan hệ về tài sản. Thực tế đã
cho thấy các tranh chấp về tài sản giữa vợ và chồng trong các vụ án ly hôn rất
phức tạp, thƣờng kéo dài, mất nhiều thời gian, tiền của, công sức của các đƣơng
sự cũng nhƣ của các cơ quan tiến hành tố tụng. Một trong những nguyên nhân
dẫn đến tình trạng đó là việc giải quyết tranh chấp về tài sản của vợ chồng khi ly
hôn chƣa đúng pháp luật, chƣa xác đáng, chƣa phù hợp với thực tế khách quan
của quan hệ sở hữu… do đó chƣa bảo vệ đƣợc quyền, lợi ích chính đáng của các
đƣơng sự. Vì vậy, sự nghiên cứu việc giải quyết các tranh chấp về tài sản giữa
vợ và chồng trong các vụ án ly hôn tại địa bàn
1
8. huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam nhằm làm sáng tỏ hơn các quy định pháp
luật cũng nhƣ vận dụng pháp luật để giải quyết vấn đề này là cần thiết.
Những năm gần đây, với sự phát triển của nền kinh tế thị trƣờng nên
đời sống xã hội cũng nhƣ kinh tế của ngƣời dân ngày càng đƣợc đảm bảo và
nâng cao. Song mặt trái của nền kinh tế thị trƣờng đã dẫn đến nhiều ngƣời
sống buông thả, coi trọng vật chất, tình cảm giữa mọi ngƣời với nhau không
còn mặn mà, đƣợc coi trọng nhƣ trƣớc. Giá trị tài sản lớn và sự coi trọng vật
chất làm cho những tranh chấp về tài sản giữa vợ và chồng trong các vụ án ly
hôn có tính quyết liệt, căng thẳng hơn, nên việc giải quyết cũng gặp nhiều khó
khăn.
Là một huyện có mức sống trung bình so với cả nƣớc song Điện Bàn
cũng chịu sự ảnh hƣởng chung của xã hội. Những năm gần đây, số lƣợng các
vụ án nói chung tại địa bàn, đặc biệt là án hôn nhân gia đình tăng nhanh về số
lƣợng, phức tạp về nội dung, nhiều vụ tranh chấp rất gay gắt, khiếu nại kéo
dài gây nhiều khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng cũng nhƣ những
ngƣời tham gia tố tụng. Hầu hết các vụ án đều đƣợc giải quyết trong thời hạn
luật định, thấu tình đạt lý, khách quan, đƣợc sự đồng tình của ngƣời dân. Tuy
nhiên, thực tiễn giải quyết vấn đề tài sản khi ly hôn trong các vụ án hôn nhân
gia đình còn gặp nhiều vƣớng mắc, bất cập do có nhiều quan điểm nhận thức,
đánh giá khác nhau nên vẫn còn một số vụ án bị cấp trên cải sửa, hủy dẫn đến
vụ án phải xét xử lại nhiều lần. Nguyên nhân thì có nhiều nhƣng phải kể đến
các quy định của pháp luật còn chƣa rõ ràng, một số quy định còn chung
chung, chƣa có sự thống nhất từ các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền và cá
nhân thực thi pháp luật liên quan đến giải quyết tài sản của vợ chồng trong vụ
án ly hôn.
Với đề tài: “Giải quyếttranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn tại
Tòa án nhân dân qua thực tiễn huyện Điện Bàn, tỉnhQuảng Nam”, tác giả
2
9. muốn giải quyết phần nào những vƣớng mắc trên nhằm hoàn thiện pháp luật
về giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn theo pháp luật Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chế độ tài sản của vợ chồng và việc giải quyết tranh chấp về tài sản
trong các vụ án hôn nhân gia đình đã đƣợc một số nhà khoa học nghiên cứu,
đề cập đến nhƣ sách chuyên khảo “Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp
luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam” của TS. Nguyễn Văn Cừ; sách chuyên
khảo “Luận bàn về các hình thức sở hữu và sở hữu chung hợp nhất của vợ
chồng” của TS Phùng Trung Tập... Đồng thời, cũng có một số luận văn cao
học đã và đang nghiên cứu về vấn đề tài sản của vợ chồng nhƣ: Nguyễn Thị
Thanh Xuân “Phápluậtvề giải quyết tranh chấp nhà ở và quyền sử dụng đất
khi ly hôn”, Nguyễn Thị Hạnh “Chia tài sản chung của vợ chồng theo pháp
luật Việt Nam – Thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện”. Vấn đề giải quyết
tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn đã đƣợc đề cập, nghiên cứu khá
nhiều ở những mức độ khác nhau, song việc nghiên cứu thực tiễn áp dụng
pháp luật giải quyết tranh chấp về tài sản giữa vợ và chồng khi ly hôn tại Tòa
án nhân dân huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam thì chƣa có công trình nào và
đây là công trình đầu tiên, do đó không trùng lặp với các công trình nghiên
cứu trƣớc đây.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích của đề tài là nghiên cứu các quy định của pháp luật về căn cứ
xác định tài sản của vợ chồng, nguyên tắc chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn
và cơ sở áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi
ly hôn; tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật để giải quyết vấn đề tài sản của
vợ chồng khi ly hôn tại địa phƣơng thông qua hoạt động xét xử của TAND
huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Từ đó, tìm hiểu những điểm bất cập,
vƣớng mắc, một số quan điểm áp dụng pháp luật chƣa thống nhất, đề xuất
3
10. một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả xét xử của
Tòa án về giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn.
Để đạt đƣợc các mục đíchtrên, đề tài thực hiện một số nhiệm vụ sau:
- Thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp
tài sản của vợ chồng khi ly hôn tại Tòa án.
- Thứ hai, nghiên cứu các căn cứ pháp lý xác định tài sản tranh chấp khi
ly hôn và các nguyên tắc chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn.
- Thứ ba, nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật khi xét xử
tại TAND huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam qua một số vụ án cụ thể, từ đó
tìm hiểu các vƣớng mắc, bất cập còn tồn tại và đề xuất hƣớng hoàn thiện.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật thực định giải quyết các tranh
chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn, chủ yếu là Luật HN&GĐ năm 2000 và
các văn bản khác có liên quan.
- Các bản án, quyết định đã đƣợc xét xử tại TAND huyện Điện Bàn,
tỉnh Quảng Nam về giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn từ
năm 2001 đến nay (từ khi Luật HN&GĐ năm 2000 có hiệu lực).
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử,
đề tài sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu nhƣ phân tích, tổng hợp, so sánh,
diễn giải, thống kê … đánh giá thực tiễn xét xử qua các bản án cụ thể tại
TAND huyện Điện Bàn.
6. Những điểm mới và ý nghĩa của luận văn
- Luận văn là một công trình nghiên cứu tƣơng đối khoa học, đầy đủ và
có hệ thống về vấn đề liên quan đến việc giải quyết tranh chấp tài sản của vợ
chồng khi ly hôn theo Luật HN&GĐ 2000 qua thực tiễn xét xử tại Toà án
nhân dân huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
4
11. - Trên cơ sở nghiên cứu về lý luận, đề tài còn tìm hiểu thực tiễn áp
dụng pháp luật thông qua hoạt động xét xử tại địa phƣơng, đồng thời đề xuất
một số biện pháp nhằm hoàn thiện pháp luật để giải quyết những vƣớng mắc
trong thực tiễn áp dụng pháp luật, nâng cao hiệu quả xét xử của TAND huyện
Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp tài sản của
vợ chồng khi ly hôn
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp tài sản
của vợ chồng khi ly hôn tại TAND huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam
Chương 3: Những vấn đề phát sinh từ thực tiễn xét xử và một số giải
pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp về tài sản
của vợ chồng khi ly hôn.
5
12. Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN
1.1. CĂN CỨ PHÁP LÝ ĐỂ GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP TÀI
SẢN CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN
Chế độ tài sản của vợ chồng theo quy định của Luật HN&GĐ năm
2000 là hình thức chế độ cộng đồng tạo sản, theo đó, tài sản mà vợ chồng có
đƣợc trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng. Ngoài ra, trong
một số trƣờng hợp, vợ chồng còn có quyền có tài sản riêng. Việc quy định về
quan hệ tài sản giữa vợ chồng và xác định tài sản chung, tài sản riêng của một
bên vợ, chồng là căn cứ để bảo vệ quyền lợi chính đáng của vợ chồng trong
gia đình, đồng thời là cơ sở giải quyết tranh chấp về tài sản của vợ chồng khi
ly hôn.
1.1.1. Căncứ xác định tài sảnchung của vợ chồng
Một trong những yếu tố quan trọng nhất để cuộc sống chung của vợ chồng
đƣợc tồn tại là việc tạo lập tài sản để nuôi sống gia đình. Việc xác định tài sản
chung của vợ chồng đƣợc các nhà làm luật quan tâm và quy định tƣơng đối đầy
đủ, cụ thể trong các văn bản pháp luật có liên quan, đảm bảo việc áp dụng vào
thực tiễn đƣợc thuận lợi hơn so với Luật HN&GĐ năm 1986.
Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định:
“Tàisản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập
do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp
khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân;tài sản mà vợ chồng được thừa kế
chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa
thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đấtmà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản
6
13. chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi
kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận.
Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất”.
Nhƣ vậy, căn cứ để xác định tài sản chung của vợ chồng dựa trên hai
cơ sở là “thời kỳ hôn nhân” và “nguồn gốc tài sản”. “Thời kỳ hôn nhân là
khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, tính từ ngày đăng ký kết hôn đến
ngày chấm dứt hôn nhân” (khoản 7 điều 8 Luật HN&GĐ 2000). Việc xác
định tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn sẽ đƣợc tính từ ngày đăng ký kết
hôn đến ngày phán quyết ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân đƣợc tạo thành từ
các nguồn gốc sau:
- Những tài sản do vợ chồng tạo ra:
Hành vi tạo ra tài sản là một trong những chức năng chính để nuôi sống
gia đình. Sau khi kết hôn, vợ chồng cùng chung sức trong việc tạo lập tài sản
để duy trì cuộc sống và đảm bảo cho gia đình tồn tại. Hành vi tạo ra tài sản là
việc vợ chồng tạo ra tài sản bằng chính sức lao động của mình dựa trên công
việc, chuyên môn của mình. Vợ chồng có thể trực tiếp tạo ra tài sản nhƣ gieo
mạ lấy thóc, nuôi cá, đóng giƣờng, tủ … hoặc thông qua các hợp đồng cụ thể
với ngƣời khác nhƣ mua nhà, xe… nhằm đảm bảo các nhu cầu sinh hoạt, tiêu
dùng của gia đình.
Những tài sản do vợ chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân là tài sản
chung của vợ chồng. Pháp luật nƣớc ta dƣới chế độ cũ cũng quy định những
tài sản do vợ chồng “tạo mãi” trong thời gian hôn thú sẽ thuộc tài sản chung
của vợ chồng.
- Các thu nhập hợp pháp của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân:
Thu nhập là việc nhận đƣợc tiền bạc, của cải vật chất từ một hoạt động
nào đó. Thu nhập hợp pháp của vợ chồng là việc hƣởng thành quả lao động
7
14. do tham gia lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh theo tính chất nghề
nghiệp, công việc, chuyên môn mà vợ chồng thực hiện. Tài sản chung từ thu
nhập hợp pháp của vợ chồng thƣờng là tiền lƣơng, tiền công lao động, tài sản
thu đƣợc qua hoạt động sản xuất nhƣ trồng trọt, chăn nuôi…, lợi nhuận thu
đƣợc thông qua hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Ngoài ra, tài sản chung của vợ chồng còn bao gồm các khoản thu nhập
hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Những thu nhập hợp
pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có thể là tiền thƣởng, tiền trợ
cấp, tiền trúng sổ xố mà vợ, chồng có đƣợc hoặc những tài sản mà vợ chồng
đƣợc xác lập quyền sở hữu theo quy định của BLDS đối với vật vô chủ, vật
không xác định đƣợc ai là chủ sở hữu (Điều 239); đối với vật bị chôn giấu, bị
chìm đắm đƣợc tìm thấy (Điều 240); đối với vật do ngƣời khác đánh rơi, bị
bỏ quên (Điều 241); đối với gia súc, gia cầm bị thất lạc (Điều 242, 243); đối
với vật nuôi dƣới nƣớc (Điều 244) … trong thời kỳ hôn nhân [32]. Đặc điểm
của loại tài sản này là không có yếu tố đền bù khi xác lập quyền sở hữu và
không do vợ chồng trực tiếp quản lý trƣớc khi xác lập sở hữu.
- Những tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung, được tặng cho chung
Việc xác lập loại tài sản này phụ thuộc vào ý chí của chủ sở hữu hoặc do
pháp luật quy định về thừa kế. Khi xác lập hợp đồng tặng cho chung hoặc di
chúc để lại tài sản chung cho vợ chồng, chủ sở hữu không có sự phân biệt kỷ
phần cho mỗi bên vợ, chồng đƣợc hƣởng. Nếu có sự xác định tỷ lệ tài sản cho
mỗi bên vợ, chồng thì phần tài sản đó sẽ thuộc tài sản riêng của mỗi bên theo tỷ
lệ đƣợc thừa kế, tặng cho. Trong trƣờng hợp ngƣời tặng cho vợ chồng tài sản
hoặc để lại tài sản theo di chúc cho vợ chồng mà định đoạt trƣớc phần quyền sở
hữu của mỗi bên vợ chồng đối với khối tài sản đó thì khối tài sản đó là tài sản
chung của vợ chồng, nhƣng là tài sản chung theo phần.
Trƣờng hợp chủ sở hữu tuyên bố cho chung hai vợ chồng nhƣng lại xác
8
15. định kỷ phần cho mỗi bên vợ, chồng đƣợc hƣởng hoặc vợ, chồng cùng hàng
thừa kế theo pháp luật, hai bên vợ chồng đƣợc hƣởng theo suất bằng nhau thì
về nguyên tắc, phần tài sản mà mỗi bên đƣợc hƣởng là tài sản riêng và chỉ
thuộc tài sản chung khi vợ, chồng tự nguyện nhập vào tài sản chung hoặc có
thỏa thuận tài sản đó là tài sản chung của vợ chồng.
“Trƣờng hợp vợ chồng cùng hàng thừa kế theo quy định của pháp luật
về thừa kế thì tài sản đƣợc thừa kế “theo hàng thừa kế” đó thuộc tài sản riêng
của vợ, chồng; chỉ là tài sản chung khi vợ chồng tự nguyện nhập vào tài sản
chung hoặc có thỏa thuận là tài sản chung của vợ chồng” [10, tr.157].
- Quyền sử dụng đấtmà vợ chồng có được sau khi kết hôn
Đất đai là một loại tài sản đặc biệt thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nƣớc
thống nhất quản lý. Quyền sử dụng đất là một loại quyền tài sản đƣợc pháp
luật công nhận và bảo vệ. Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có đƣợc sau khi
kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Nghị định 70/CP quy định:
+ Sau khi kết hôn, quyền sử dụng đất mà cả vợ và chồng hoặc mỗi bên
vợ hoặc chồng đƣợc Nhà nƣớc giao, kể cả giao khoán là tài sản chung của vợ
chồng. Quyền sử dụng đất này có thể là đất nông nghiệp để trồng cây hàng
năm, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối; đất nông nghiệp để trồng cây lâu
năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở đƣợc Nhà nƣớc giao, đất chuyên
dùng.
+ Sau khi kết hôn, quyền sử dụng đất mà cả vợ và chồng hoặc chỉ một
bên vợ hoặc chồng đƣợc Nhà nƣớc cho thuê là tài sản chung của vợ chồng.
+ Đối với quyền sử dụng đất do vợ chồng đƣợc chuyển đổi, chuyển nhƣợng,
thừa kế chung thì đƣợc thực hiện theo quy định tại Điều 95 Luật HN&GĐ.
+ Trƣờng hợp vợ chồng nhận thế chấp quyền sử dụng đất của ngƣời thứ
ba thì quyền nhận thế chấp đất cũng thuộc khối tài sản chung của vợ chồng.
Nhƣ vậy, quyền sử dụng đất mà vợ chồng có đƣợc sau khi kết hôn do
9
16. đƣợc Nhà nƣớc giao đất, cho thuê đất, đƣợc chuyển đổi, chuyển nhƣợng
hoặc thừa kế chung từ ngƣời khác thì đó là tài sản chung của vợ chồng.
Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có đƣợc trƣớc khi kết hôn, đƣợc
thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận.
- Những tài sản mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung;những tài
sản không đủ chứng cứ xác định là tài sản riêng.
Để xây dựng một gia đình hạnh phúc, bền vững thì việc phát triển kinh
tế, tạo lập tài sản của vợ chồng đƣợc các bên chú trọng. Khi tình cảm vợ
chồng còn mặn nồng, việc xác định rạch ròi tài sản chung của vợ chồng và tài
sản riêng của mỗi bên ít đƣợc quan tâm, coi trọng. Vợ chồng thƣờng có xu
hƣớng sử dụng các tài sản có đƣợc vào mục đích chung của gia đình, giới hạn
giữa tài sản chung và riêng không có sự phân biệt rõ ràng. Các bên thƣờng có
xu hƣớng nhập phần tài sản riêng của mình vào khối tài sản chung của vợ
chồng nhằm đảm bảo đời sống của gia đình. Pháp luật ghi nhận việc thỏa
thuận của các bên trên nguyên tắc quyền tự định đoạt của mỗi đƣơng sự, giữa
vợ và chồng có thể thỏa thuận tài sản nào là tài sản chung của vợ chồng và tài
sản nào là tài sản riêng của vợ, chồng. Việc nhập hay không nhập tài sản riêng
của mỗi bên vợ, chồng vào khối tài sản chung của vợ chồng có thể mặc nhiên
hoặc đƣợc thỏa thuận bằng văn bản.
Một khi vợ chồng có mâu thuẫn về tình cảm thì yếu tố tài sản cũng
đƣợc các bên đem ra so đo, tính toán với nhau. Do tính chất phức tạp của
quan hệ tài sản mà việc xác định đâu là tài sản chung của vợ chồng và đâu là
tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng gặp nhiều khó khăn. Có trƣờng hợp tài
sản riêng của một bên đƣợc sử dụng nhằm đảm bảo cuộc sống chung của vợ
chồng, giữa tài sản chung và tài sản riêng có sự chuyển hóa, trộn lẫn với nhau
dẫn đến khó xác định chính xác. Vì vậy, Khoản 3 Điều 27 Luật HN&GĐ đã
dự liệu: “Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài
10
17. sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì đó là
tài sản chung”.
Ví dụ: Sau khi kết hôn với chị H, anh K đã bán chiếc xe máy của mình
có trƣớc khi kết hôn để thêm tiền vào xây một ngôi nhà trên mảnh đất đƣợc
cha mẹ anh cho riêng anh dùng làm chỗ ở chung cho hai vợ chồng. Nhƣ vậy,
anh K đã tự nguyện nhập chiếc xe máy là tài sản riêng của anh (có đƣợc
trƣớc khi kết hôn) vào tài sản chung của vợ chồng (góp vào để xây ngôi nhà
chung). Việc nhập chiếc xe máy là tài sản riêng của anh K vào tài sản chung
đƣợc coi là sự mặc nhiên vì số tiền bán đƣợc chiếc xe đã dùng vào mục đích
chung của gia đình. Tuy nhiên, nếu anh K muốn nhập tài sản riêng là mảnh
đất do cha mẹ anh cho riêng hoặc mua trƣớc khi kết hôn vào tài sản chung
của vợ chồng thì phải lập văn bản và làm các thủ tục pháp lý có liên quan.
Việc anh dùng mảnh đất này để xây ngôi nhà chung cho vợ chồng không mặc
nhiên đƣợc coi là nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng. Anh K muốn
chứng minh tài sản nào là tài sản riêng của mình thì phải xuất trình chứng cứ,
nếu không chứng minh đƣợc thì tùy từng trƣờng hợp, Tòa án có thể suy đoán
đó là tài sản chung của vợ chồng hoặc là tài sản riêng của anh K.
Nhƣ vậy, so với các văn bản pháp luật trƣớc đây, Luật HN&GĐ năm
2000 đã có một điểm mới là nguyên tắc suy đoán tài sản chung của vợ chồng,
một trong những công cụ hữu hiệu để bảo vệ khối tài sản chung. Quy định tại
khoản 3 điều 27 Luật HN&GĐ chỉ thiết lập một suy đoán, không khẳng định
chắc chắn tất cả tài sản trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng.
Nguyên tắc này đã phần nào đảm bảo đƣợc sự công bằng trên cơ sở vì lợi ích
chung của gia đình và của vợ chồng.
“Trong trƣờng hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp
luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở
hữu phải ghi tên của cả vợ chồng” (khoản 2 điều 27 Luật HN&GĐ). Ngoài ra,
11
18. Luật HN&GĐ còn quy định tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung
hợp nhất, các quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với khối tài sản chung
đƣợc quy định tại Điều 28 Luật HN&GĐ, Điều 217 và Điều 219 BLDS.
Luật HN&GĐ năm 2000 đã quy định tƣơng đối cụ thể về căn cứ xác
định tài sản chung của vợ chồng dựa vào thời kỳ hôn nhân và nguồn gốc tài
sản. Những tài sản mà vợ, chồng không chứng minh đƣợc là tài sản riêng của
mỗi bên vợ, chồng thì đƣợc xác định là tài sản chung của vợ chồng.
1.1.2. Căncứ xác định tài sảnriêng của vợ, chồng
Luật HN&GĐ năm 1959 đã quy định chế độ tài sản của vợ chồng là
chế độ cộng đồng toàn sản, toàn bộ tài sản do vợ, chồng có đƣợc hoặc tạo ra
trƣớc và trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc tài sản chung của vợ chồng.
Luật HN&GĐ năm 1986 đƣợc ban hành vào thời kỳ đầu của sự nghiệp
đổi mới, lần đầu tiên ghi nhận vợ chồng có tài sản riêng tại Điều 16. Kế thừa
và phát triển quy định của Luật HN&GĐ năm 1986, Luật HN&GĐ năm 2000
đã quy định chế độ sở hữu riêng của vợ, chồng cụ thể hơn, tạo đƣợc cơ sở
pháp lý thống nhất khi áp dụng vào thực tế.
Điều 32 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định:
“1. Vợ, chồng có quyền có tài sản riêng.
Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết
hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân;
tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 và
Điều 30 của Luật này; đồ dùng, tư trang cá nhân.
2. Vợ, chồng có quyền nhập hoặckhông nhập tàisản riêng vào khối tài
sản chung”.
Tài sản riêng của vợ, chồng đƣợc xác lập dựa vào thời điểm tài sản đó
phát sinh trƣớc khi kết hôn; sự định đoạt của chủ sở hữu tài sản đã chuyển
dịch tài sản của mình cho mỗi bên vợ, chồng và trên sự kiện chia tài sản
chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân.
12
19. Nhƣ vậy, tài sản riêng của vợ, chồng đƣợc xác định dựa vào các căn cứ sau:
- Là tài sản mà mỗi bên vợ, chồng có trước khi kết hôn:
Thông qua lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và các thu nhập
hợp pháp khác, mỗi ngƣời có thể tạo ra một khối tài sản hoặc có đƣợc tài sản
thông qua các giao dịch dân sự trƣớc khi kết hôn. Những tài sản này thuộc
quyền sở hữu riêng của mỗi bên và đƣợc pháp luật thừa nhận, bảo hộ. Những
tài sản này không phải do vợ, chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân, không chịu
sự tác động bởi tính chất cộng đồng của quan hệ hôn nhân và lợi ích chung
của gia đình. Vì vậy, vợ chồng có thể xác lập quyền sở hữu của mình đối với
những tài sản phát sinh trƣớc khi kết hôn dựa trên các căn cứ đƣợc quy định
từ Điều 233 đến Điều 247 BLDS 2005 về xác lập quyền sở hữu đối với thu
nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp…
Quy định tài sản mà mỗi bên vợ, chồng có trƣớc khi kết hôn là tài sản
riêng của vợ chồng đã bảo vệ đƣợc quyền sở hữu cá nhân của vợ, chồng, là
căn cứ pháp lý bảo đảm tài sản riêng của vợ chồng khi giải quyết tranh chấp
trên thực tế; đồng thời phù hợp với quy định quyền sở hữu riêng của công dân
đƣợc Hiến pháp ghi nhận và bảo vệ.
- Tài sản mà vợ, chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong
thời kỳ hôn nhân.
Những tài sản này không do vợ chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân mà
đƣợc định đoạt bởi ý chí của chủ sở hữu. Việc pháp luật quy định những tài
sản này thuộc khối tài sản riêng của vợ, chồng nhằm bảo đảm quyền tự định
đoạt của các chủ sở hữu tài sản theo quy định của pháp luật về việc chuyển
dịch tài sản của mình cho mỗi bên vợ, chồng đƣợc hƣởng. Những tài sản mà
vợ, chồng đƣợc thừa kế riêng, tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân thƣờng
do những ngƣời thân thuộc, bạn bè của mỗi bên cho vợ, chồng đƣợc hƣởng
giá trị tài sản đó. Đó có thể là những tài sản do cha, mẹ cho riêng con trong
13
20. ngày cƣới, cha mẹ một bên khi chết để lại di chúc cho con mình là ngƣời vợ,
chồng đƣợc hƣởng … Những tài sản mà vợ, chồng đƣợc thừa kế riêng, tặng
cho riêng trong thời kỳ hôn nhân là tài sản riêng của vợ, chồng.
- Tài sản riêng của vợ, chồng gồm đồ dùng, tư trang cá nhân
Theo Từ điển Tiếng Việt của Nhà xuất bản Đà Nẵng năm 1997 thì “đồ
dùng là vật do con người tạo ra để dùng trong sinh hoạt, hoạt động hằng
ngày”; còn “tư trang là các thứ quý giá đi theo người của một cá nhân”.
Trong cuộc sống thƣờng ngày, mỗi ngƣời đều cần có những đồ dùng
phù hợp phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt và công việc chuyên môn của mình.
Ví dụ nhƣ quần áo, giày dép, sách vở phục vụ cho việc học tập … Vì vậy,
pháp luật quy định những đồ dùng, tƣ trang cá nhân là tài sản riêng của vợ,
chồng là cần thiết và phù hợp với thực tế cuộc sống. Đây là một trong những
điểm mới của Luật HN&GĐ năm 2000 so với các luật trƣớc đó. Quy định
này là cần thiết và phù hợp với thực tế cuộc sống bởi mọi cá nhân đều cần đến
những đồ dùng phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt, làm việc thƣờng ngày của bản
thân. Vì vậy, quy định này đảm bảo đƣợc quyền tự do cá nhân và cuộc sống
riêng tƣ của vợ chồng.
Tuy nhiên, từ khi Luật HN&GĐ năm 2000 có hiệu lực cho đến nay vẫn
chƣa có một văn bản hƣớng dẫn nào của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền giải
thích và hƣớng dẫn cụ thể trƣờng hợp này. Trong điều kiện kinh tế - xã hội ngày
càng phát triển, nhu cầu sinh hoạt của nhân dân ngày càng cao, những đồ dùng,
tƣ trang cá nhân cũng rất phong phú và có giá trị. Việc xem xét những trƣờng
hợp này gặp những khó khăn nhất định và còn nhiều quan điểm chƣa thống nhất.
Vì vậy, cần có văn bản hƣớng dẫn cụ thể để việc giải quyết đƣợc thống nhất,
đáp ứng quyền lợi hợp pháp của những ngƣời tham gia tố tụng.
- Những tài sản mà vợ, chồng được chia khi chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân.
14
21. Xuất phát từ thực tế cuộc sống, Luật HN&GĐ năm 2000 trên cơ sở kế
thừa Luật HN&GĐ năm 1986 đã quy định việc chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân và hậu quả pháp lý sau khi chia tài sản chung.
Theo đó, điều 30 Luật HN&GĐ quy định “trƣờng hợp chia tài sản chung của
vợ chồng thì hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã đƣợc chia thuộc sở hữu
riêng của mỗi ngƣời; phần tài sản còn lại không chia vẫn thuộc sở hữu chung
của vợ chồng”. Nhƣ vậy, phần tài sản chung đã đƣợc chia riêng cho mỗi bên
vợ, chồng là tài sản riêng của ngƣời đó. Những hoa lợi, lợi tức phát sinh từ
phần tài sản riêng đƣợc chia là tài sản riêng của vợ, chồng. “Thu nhập do lao
động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của
mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trƣờng
hợp vợ chồng có thỏa thuận khác” [29].
Nhƣ vậy, pháp luật đã quy định rõ tài sản riêng của vợ, chồng còn có
những tài sản mà vợ, chồng có đƣợc khi chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân.
1.1.3. Xác định các nghĩa vụ tài sản chung, nghĩa vụ tài sản riêng
của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân
Xuất phát từ nhu cầu cuộc sống chung, bên cạnh việc tạo lập tài sản
nhằm đảm bảo các nhu cầu sinh hoạt của gia đình; vợ, chồng còn phát sinh
các nghĩa vụ tài sản trong thời kỳ hôn nhân. Việc xác định các nghĩa vụ tài
sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân nhằm đảm bảo quyền lợi, nghĩa vụ
của mỗi bên vợ, chồng và quyền lợi của ngƣời thứ ba tham gia giao dịch với
vợ chồng.
Theo Từ điển Tiếng Việt thì “nghĩa vụ là việc mà pháp luật hay đạo
đức bắt buộc phải làm đối với xã hội, đối với người khác”. Tại Điều 280
BLDS quy định: “Nghĩa vụ dân sự là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể
phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá,
15
22. thực hiện công việc khác hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì
lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác”.
Nghĩa vụ về tài sản là một trong những nghĩa vụ dân sự mà đối tƣợng
thực hiện nghĩa vụ là tài sản và bên có nghĩa vụ phải trả tiền hoặc giấy tờ có
giá cho bên có quyền. Xem xét về nghĩa vụ tài sản của vợ chồng trong vụ án
ly hôn là việc xem xét về các giao dịch dân sự mà vợ chồng đã ký kết với
ngƣời khác cũng nhƣ các khoản nợ mà vợ chồng có nghĩa vụ thanh toán cho
bên có quyền trong thời hạn do các bên thỏa thuận. Vì vậy, việc xác định
nghĩa vụ tài sản nào là nghĩa vụ chung của vợ chồng và nghĩa vụ tài sản nào là
nghĩa vụ riêng của vợ hoặc chồng là một trong những vấn đề cần đƣợc quan
tâm, xem xét kỹ lƣỡng. Các nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng có thể phát sinh
từ giao dịch dân sự mà vợ chồng ký kết trong thời kỳ hôn nhân. Các nghĩa vụ
tài sản của vợ chồng có thể là nghĩa vụ riêng hoặc nghĩa vụ chung.
* Căn cứ xác định nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng
Nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng đƣợc xác định trên những căn
cứ sau:
- Giao dịch có sự thỏa thuận của vợ chồng, nghĩa là cả hai vợ chồng cùng
bàn bạc, thỏa thuận thực hiện giao dịch. Sự thỏa thuận thể hiện ở việc cả hai vợ
chồng cùng xác lập, thực hiện giao dịch phù hợp với quy định của pháp luật.
Theo quy định tại khoản 2, khoản 3 điều 28 Luật HN&GĐ thì nghĩa vụ
chung về tài sản của vợ chồng là những nghĩa vụ sau: thực hiện mục đích
chung, phục vụ cho lợi ích chung của gia đình; đáp ứng các nhiệm vụ chung
của vợ chồng và phục vụ hoạt động kinh doanh chung của vợ chồng.
Những nghĩa vụ này đƣợc xác định là nghĩa vụ chung của vợ chồng khi
có sự thỏa thuận, thống nhất ý chí của vợ chồng. Sự thỏa thuận ý chí của vợ
chồng còn bao hàm cả trƣờng hợp một bên vợ hoặc chồng ủy quyền cho bên
kia thực hiện giao dịch theo quy định tại Điều 24 Luật HN&GĐ.
16
23. - Giao dịch phát sinh từ trách nhiệm liên đới của vợ chồng.
Khi không có sự thỏa thuận ý chí của vợ chồng nhƣng vẫn phát sinh
nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng đối với trƣờng hợp quy định tại Điều
25 Luật HN&GĐ: “Vợ hoặc chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với giao
dịch dân sự hợp pháp do một trong hai ngƣời thực hiện nhằm đáp ứng nhu
cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình”.
Giao dịch hợp pháp là những giao dịch đáp ứng đầy đủ các điều kiện có
hiệu lực của giao dịch dân sự theo quy định tại Điều 122 BLDS. Nghĩa là
ngƣời tham gia giao dịch phải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự và tự
nguyện tham gia giao dịch, đặc biệt mục đích và nội dung giao dịch không vi
phạm các điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội.
Nhu cầu thiết yếu của gia đình là những nhu cầu có tính chất thƣờng
xuyên nhƣ: ăn, ở, mặc, chăm sóc sức khỏe cho các thành viên trong gia đình,
việc học hành của con trẻ... Ngoài ra, những nhu cầu có tính chất cấp thời, cấp
bách nhƣ việc sửa chữa nhà do bão, lũ, hỏa hoạn, chữa bệnh cho các thành
viên trong gia đình … cũng đƣợc xem là những nhu cầu thiết yếu của gia
đình.
Tuy nhiên, lợi ích của gia đình phải luôn đƣợc đặt trong lợi ích của
cộng đồng và xã hội. Điều đó có nghĩa là giao dịch của vợ, chồng đƣợc xác
định vì lợi ích chung của gia đình, trƣớc hết giao dịch đó phải đƣợc thực hiện
phù hợp với pháp luật và phù hợp với cách ứng xử giữa ngƣời với ngƣời
trong quan hệ xã hội.
Thông thƣờng, đối với những giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu sinh
hoạt, tiêu dùng hàng ngày trong gia đình, pháp luật không bắt buộc cả vợ và
chồng cùng xác lập giao dịch hoặc khi giao dịch phải hỏi ý kiến ngƣời kia.
Tuy nhiên, do mục đích giao dịch là để đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của
gia đình, nghĩa là cả gia đình đều thụ hƣởng từ giao dịch đó, nên cả vợ và
17
24. chồng đều phải liên đới trách nhiệm trong việc tiếp tục thực hiện giao dịch, vì
đó là trách nhiệm chung của vợ và chồng. Nghĩa vụ liên đới đƣợc hiểu là vợ
chồng phải cùng nhau thực hiện. Đối với các hợp đồng mà một bên ký kết với
ngƣời khác thì cả hai vợ chồng phải tạo điều kiện cho hợp đồng đƣợc thực
hiện. Ví dụ: ngƣời vợ viết giấy vay của ông A số tiền 1.000.000đ để nộp tiền
học cho con. Trƣờng hợp này, ngƣời vợ vay tiền nhằm mục đích phục vụ nhu
cầu thiết yếu của gia đình là lo cho con cái trong việc học hành nên cả hai vợ
chồng đều phải có trách nhiệm trả nợ cho ông A. Trách nhiệm liên đới phát
sinh đòi hỏi nghĩa vụ tài sản phải đƣợc thanh toán bằng tài sản chung của vợ
chồng. Nếu tài sản chung không đủ thì vợ, chồng có nghĩa vụ thanh toán bằng
tài sản riêng.
“Việc thanh toán nghĩa vụ chung về tài sản của vợ, chồng do vợ, chồng
thỏa thuận; nếu không thỏa thuận đƣợc thì yêu cầu Tòa án giải quyết” (khoản
3 điều 95 Luật HN&GĐ). Nếu xác định đƣợc các khoản nợ đang có tranh
chấp là nợ chung của vợ chồng thì cả hai vợ chồng phải có trách nhiệm liên
đới trả nợ. Việc thanh toán nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng đƣợc thực
hiện bằng tài sản chung của vợ chồng. Nếu một bên có tài sản riêng thì có thể
thanh toán bằng tài sản riêng trong trƣờng hợp tài sản chung không đủ.
* Căn cứ xác định nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ hoặc chồng
“Các bên đƣơng sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ chứng
minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp” (điều 6 BLTTDS). Do
đó, khi tranh chấp xảy ra, Tòa án căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ do đƣơng
sự cung cấp hoặc thu thập dựa vào mục đích của ngƣời thực hiện hành vi và
sự thỏa thuận của vợ chồng trong việc làm phát sinh nghĩa vụ tài sản để xác
định nghĩa vụ về tài sản là nghĩa vụ chung hay riêng của vợ, chồng.
Nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ, chồng đƣợc hiểu là các nghĩa vụ phát
sinh không vì lợi ích của gia đình; nghĩa vụ của một bên vợ hoặc chồng thực
18
25. hiện trƣớc khi kết hôn hoặc trong thời kỳ hôn nhân. Nhƣ vậy, căn cứ phát
sinh nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ hoặc chồng đƣợc xác định nhƣ sau:
- Căn cứ vào thời điểm phát sinh nghĩa vụ riêng đó, nếu nghĩa vụ phát
sinh trƣớc khi kết hôn đƣợc xác định là nghĩa vụ riêng của vợ hoặc chồng;
- Căn cứ vào mục đích của giao dịch do một bên vợ hoặc chồng thực
hiện trong thời kỳ hôn nhân: những giao dịch đƣợc một bên thực hiện không
vì lợi ích, nhu cầu sinh hoặt thiết yếu của gia đình là nghĩa vụ riêng của vợ
hoặc chồng;
- Nghĩa vụ riêng phát sinh do hành vi trái pháp luật, có lỗi làm phát
sinh thiệt hại cho ngƣời khác của một bên vợ hoặc chồng;
- Nghĩa vụ gắn liền với nhân thân của mỗi bên vợ, chồng không thể
chuyển giao cho ngƣời khác nhƣ cấp dƣỡng cho con riêng, cấp dƣỡng cho
vợ, chồng cũ …;
Về nguyên tắc, nợ riêng của ai thì ngƣời đó chịu trách nhiệm trả. Theo
điều 33 của Luật HN&GĐ thì: “Nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi ngƣời
đƣợc thanh toán từ tài sản riêng của ngƣời đó”. Trƣờng hợp tài sản riêng của
ngƣời đó không đủ thanh toán thì có thể chia tài sản chung của vợ chồng và
họ có quyền sử dụng phần tài sản của mình đƣợc chia để trả nợ.
Trong vụ án hôn nhân, Tòa án phải giải quyết đồng thời ba mối quan
hệ: quan hệ hôn nhân, quan hệ về con chung và quan hệ về tài sản. Xác định
đúng các tài sản tranh chấp và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng khi giải quyết ly
hôn sẽ đảm bảo đƣợc quyền lợi hợp pháp của mỗi bên đƣơng sự và bảo đảm
đƣợc quyền lợi của ngƣời thứ ba có liên quan.
1.2. MỘT SỐ NGUYÊN TẮC CƠ BẢN ĐỊNH HƢỚNG VIỆC GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP VỀ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN
Giải quyết tranh chấp về tài sản của vợ chồng khi ly hôn cần phải dựa
vào các nguyên tắc cụ thể, rõ ràng định hƣớng cho việc giải quyết đƣợc đúng
19
26. đắn. Việc giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn phải thực hiện
trên cơ sở các nguyên tắc quy định tại Khoản 2 Điều 95 Luật HN&GĐ 2000.
1.2.1. Tôntrọng sự thoả thuận hợp lý của vợ chồng
Quyền tự định đoạt của đƣơng sự là một trong những quyền cơ bản của
công dân đƣợc pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Điều 4 BLDS quy định quyền tự
do, cam kết thỏa thuận của công dân trong việc xác lập quyền, nghĩa vụ dân
sự. Việc giải quyết tranh chấp về tài sản của vợ chồng khi ly hôn cũng đƣợc
thực hiện trên nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận hợp lý của vợ chồng. Khoản
1 Điều 95 Luật HN&GĐ quy định: “Việc chia tài sản khi ly hôn do các bên tự
thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết”.
Đây là nguyên tắc thể hiện rõ nhất quyền tự do cam kết thỏa thuận của
công dân, tôn trọng ý chí tự nguyện, tự quyết định của các bên vợ, chồng trên
cơ sở thỏa thuận không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Nếu thỏa
thuận giải quyết về tài sản, các bên có thể nêu tâm tƣ, nguyện vọng của mình
và những khó khăn gặp phải sau khi ly hôn. Từ đó, Thẩm phán hòa giải để
các bên thống nhất với nhau trong việc phân chia tài sản nhằm đảm bảo cuộc
sống của mỗi bên cũng nhƣ quyền, lợi ích hợp pháp của con chung sau khi ly
hôn, nhất là các con chƣa thành niên, con đã thanh niên bị mất năng lực hành
vi dân sự.
Việc thỏa thuận thành công sẽ giảm đƣợc thời gian, công sức, tiền bạc
của các đƣơng sự, đồng thời tăng tình đoàn kết, thống nhất, không khoét sâu
vào mâu thuẫn của đƣơng sự vốn đã căng thẳng, tạo điều kiện cho việc thi
hành án đƣợc dễ dàng.
Hơn nữa, việc tạo điều kiện cho vợ chồng thỏa thuận giải quyết về tài sản
giúp các bên có cơ hội nêu lên tâm tƣ, nguyện vọng của mình, đảm bảo quyền
lợi hợp pháp của mỗi bên khi giải quyết tranh chấp. Nếu các bên không thỏa
thuận đƣợc thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
20
27. 1.2.2. Đảmbảo sự bình đẳng về quyền sở hữu tài sản của vợ chồng
Xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng của công dân đƣợc BLDS thừa
nhận, vợ, chồng có quyền bình đẳng trƣớc pháp luật, bình đẳng trong việc
hƣởng các quyền dân sự do pháp luật quy định. Trên cơ sở đó, giải quyết
tranh chấp về tài sản của vợ chồng đƣợc thực hiện theo nguyên tắc tài sản
chung của vợ chồng đƣợc chia đôi. Tuy nhiên, nguyên tắc này không phải là
bất biến mà đƣợc áp dụng linh hoạt cho phù hợp với thực tế, căn cứ vào hoàn
cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc
tạo lập, duy trì, phát triển tài sản chung.
Căn cứ vào khối tài sản chung của vợ chồng đã đƣợc xác định, việc
chia tài sản của vợ chồng đƣợc giải quyết chia đôi, mỗi ngƣời nhận một nửa
khối tài sản chung. Tài sản của vợ, chồng tạo ra trong suốt thời kỳ hôn nhân là
tài sản chung của vợ chồng không phân biệt công sức đóng góp của mỗi bên
có đều nhau hay không. “Laođộng của vợ, chồng trong gia đình được coi như
lao động có thu nhập”. Do tính chất cộng đồng của quan hệ hôn nhân nên
không phân biệt công sức đóng góp của mỗi bên vợ chồng trong việc tạo ra tài
sản.
Về nguyên tắc này, mọi tài sản do vợ chồng tạo ra hoặc chỉ do một bên
tạo ra trong thời kỳ hôn nhân đều là tài sản chung hợp nhất của vợ chồng. Vì
vậy, giải quyết tranh chấp về tài sản của vợ chồng khi ly hôn theo nguyên tắc
chia đôi tài sản chung nhằm đảm bảo đƣợc sự bình đẳng giới trong quan hệ
vợ chồng.
Tuy nhiên, khi chia tài sản chung của vợ chồng cũng cần xem xét đến
hoàn cảnh của mỗi bên nhƣ hoàn cảnh kinh tế hay sức khỏe … là điều kiện
riêng của vợ hoặc chồng mà các bên có thể gặp phải sau khi ly hôn; cũng có
thể xem xét đến công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát
triển tài sản này. Từ đó, giải quyết chia tài sản chung của vợ chồng một cách
21
28. hợp lý, phù hợp với quy định của pháp luật, đảm bảo đƣợc quyền lợi hợp
pháp của các bên đƣơng sự.
1.2.3. Đảmbảo lợi ích chính đáng của vợ, chồng trong sản xuất,
nghề nghiệp
Cùng với sự phát triển của xã hội, việc tạo lập và phát triển khối tài sản
chung của vợ chồng cũng rất đa dạng và phong phú. Tài sản chung của vợ
chồng đƣợc xác định cụ thể vào thời điểm ly hôn, có thể là các động sản hoặc
bất động sản. Pháp luật nƣớc ta cho phép mọi cá nhân có quyền thu nhập hợp
pháp trong các ngành nghề sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ và những thu
nhập khác từ tiền lƣơng, tiền thƣởng. Vì vậy, trong thời kỳ hôn nhân, vợ,
chồng có quyền sản xuất kinh doanh các ngành nghề phù hợp với khả năng,
chuyên môn của mình. Vợ chồng có thể mở cơ sở sản xuất kinh doanh hoặc
dùng một phần tài sản chung sử dụng vào mục đích kinh doanh với ngƣời
khác tạo ra thu nhập cho gia đình. Vợ, chồng khi tham gia quan hệ này với
ngƣời khác có thể nhân danh vợ chồng hoặc nhân danh bản thân mình nhằm
đảm bảo cuộc sống chung của vợ, chồng và của gia đình. Vì vậy, tài sản
chung của vợ chồng có thể là toàn bộ tài sản dùng để sản xuất kinh doanh
hoặc một phần vốn trong các doanh nghiệp, trong các thành phần kinh tế và
các tƣ liệu sản xuất thể hiện dƣới dạng vật chất khác của tài sản theo tính chất
là động sản hay bất động sản.
Việc chia tài sản chung của vợ chồng khi giải quyết ly hôn có thể ảnh
hƣởng đến việc sản xuất kinh doanh, hoạt động nghề nghiệp của một bên và
ảnh hƣởng đến quyền lợi của ngƣời thứ ba cùng tham gia sản xuất, kinh
doanh. Pháp luật dự liệu trƣờng hợp này nên đã quy định: “Bảo vệ lợi ích
chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các
bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo ra thu nhập”.
Ví dụ: Ông H tham gia góp vốn vào thành lập Công ty TNHH X hoạt
22
29. động trong lĩnh vực xây dựng. Vợ chồng ông thống nhất dùng chiếc xe ôtô 4
chỗ trị giá 2 tỷ đồng là tài sản chung của vợ chồng để tham gia góp vốn vào
Công ty X. Công ty X dùng chiếc xe nàylàm phương tiện vận chuyển cho hoạt
động đi lại của lãnh đạo công ty.
Trong trƣờng hợp này, ông H đã dùng tài sản chung của vợ chồng để
tham gia vào hoạt động kinh doanh, tạo ra thu nhập là tài sản chung của vợ
chồng. Khi giải quyết ly hôn, việc chia tài sản chung của vợ chồng đƣợc giải
quyết trên nguyên tắc chia đôi nhƣng có xem xét đến việc đảm bảo lợi ích
chính đáng của ông H trong hoạt động sản xuất kinh doanh để ông H có thể
tạo ra thu nhập. Vì vậy, nếu vợ chồng không thỏa thuận đƣợc vấn đề tài sản,
Tòa án sẽ ƣu tiên giao chiếc xe ôtô cho ông H sử dụng để ông có điều kiện
tiếp tục hoạt động kinh doanh trong Công ty X.
Hay nhƣ trƣờng hợp vợ chồng bà B có tài sản chung là một quầy tạp
hóa ở chợ. Bà B là ngƣời trực tiếp kinh doanh, buôn bán tại quầy tạp hóa này,
còn ông N (chồng bà B) có một công việc ổn định khác. Khi giải quyết ly hôn,
nếu vợ chồng bà B không thỏa thuận đƣợc thì Tòa án sẽ xem xét hoàn cảnh
của mỗi bên cũng nhƣ các điều kiện khác trong công việc, Tòa án sẽ quyết
định giao tài sản là quầy tạp hóa cho bên có nhu cầu hơn. Trong trƣờng hợp
này, bà B là ngƣời trực tiếp dùng quầy tạp hóa để kinh doanh, tạo ra thu nhập
còn ông N đã có công việc ổn định nên giao tài sản này cho bà B để bà tiếp
tục kinh doanh là hợp lý.
1.2.4. Đảmbảo quyền, lợi ích chính đáng của vợ, conchưa thành
niên, conđã thành niên không có khả năng lao động
Xuất phát từ đặc điểm về thể chất và tinh thần, ngƣời phụ nữ và các
con chƣa thành niên, con đã thành niên nhƣng không có khả năng lao động là
những đối tƣợng dễ bị xâm hại, dễ bị tổn thƣơng nên pháp luật đặc biệt quan
tâm, bảo vệ. Ngƣời phụ nữ có những hạn chế nhất định về sức khỏe, điều kiện
23
30. lao động, học tập … nên họ là những ngƣời yếu thế, thiệt thòi nhất trong gia
đình cũng nhƣ xã hội. Đối với các con chƣa thành niên, các con đã thành niên
nhƣng bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động là
những ngƣời chƣa phát triển đầy đủ hoặc có hạn chế về thể chất và tinh thần
nên khả năng lao động tạo ra thu nhập bị hạn chế, cần đƣợc quan tâm, chăm
sóc và giúp đỡ của các thành viên khác trong gia đình.
Trong khi đó, đàn ông là ngƣời có sức khỏe, có nhiều cơ hội học tập,
nâng cao chuyên môn nên họ thƣờng là lao động chính tạo ra thu nhập nuôi
sống gia đình. Với những hạn chế về sức khỏe, điều kiện tham gia vào xã hội
nên trong thực tế ngƣời phụ nữ thƣờng dành nhiều thời gian chăm sóc chồng,
con để ngƣời chồng có thời gian, điều kiện phục vụ cho công việc. Mặc dù
giữa vợ và chồng công sức tạo ra thu nhập có thể không ngang nhau nhƣng
mỗi ngƣời đều có những đóng góp chung để gia đình tồn tại, phát triển. Vì
vậy, pháp luật thừa nhận mọi tài sản của vợ chồng tạo ra trong thời kỳ hôn
nhân là tài sản chung của vợ chồng. Lao động của ngƣời vợ nội trợ trong gia
đình cũng đƣợc coi là lao động có thu nhập.
Vì vậy, một khi mâu thuẫn không giải quyết đƣợc dẫn đến ly hôn thì
ngƣời phụ nữ và con cái là những ngƣời chịu nhiều thiệt thòi và hậu quả bất
lợi của việc ly hôn nhƣ thu nhập, điều kiện học tập, cuộc sống thƣờng ngày
của con cái ... Ngƣời vợ từ chỗ chỉ ở nhà chăm sóc gia đình nay phải bƣơn
chải lao động kiếm sống sẽ gặp nhiều khó khăn; các con khi thay đổi môi
trƣờng sống sẽ ảnh hƣởng đến việc học tập, các điều kiện chăm sóc, chữa
bệnh ... Đồng thời, cha mẹ có những quyền và nghĩa vụ nhất định đối với con
cái trong gia đình xuất phát từ tình cảm và trách nhiệm. Mặc dù quan hệ hôn
nhân không còn tồn tại, song quan hệ giữa cha, mẹ và con cái không thay đổi.
Do đó, quyền lợi của con cái phải đƣợc đảm bảo nhƣ khi vợ, chồng chƣa ly
hôn. Khi giải quyết ly hôn, ngƣời con chƣa thành niên, bị mất năng lực dân
24
31. sự, bị tàn tật, không có khả năng lao động để tự nuôi mình sẽ đƣợc giao cho
cha hoặc mẹ có trách nhiệm trực tiếp nuôi dƣỡng, giáo dục. Ngƣời vợ hoặc
chồng không sống cùng ngƣời con đó phải có nghĩa vụ cấp dƣỡng theo quy
định tại Điều 56 Luật HN&GĐ. Để đảm bảo chất lƣợng cuộc sống cho con
chƣa thành niên, bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng
lao động để tự nuôi mình thì việc giải quyết về tài sản của vợ chồng khi ly
hôn sẽ đƣợc xem xét tạo điều kiện về chỗ ở, kinh tế cũng nhƣ các điều kiện
học tập, chữa bệnh, phục hồi chức năng của ngƣời vợ và các con.
Nguyên tắc này đã đảm bảo đƣợc quyền lợi của ngƣời vợ sau khi ly
hôn và con chƣa thành niên, con mất năng lực hành vi dân sự, bị tàn tật có
điều kiện sống tốt hơn, hạn chế, giảm thiểu bớt khả năng lâm vào hoàn cảnh
khó khăn, thiếu thốn vật chất sau khi vợ chồng ly hôn.
1.2.5. Chia tài sản bằng hiện vật hoặc giá trị
Trong đời sống chung giữa vợ chồng, tài sản chung đƣợc tạo ra trong
thời kỳ hôn nhân rất đa dạng và phong phú, có thể bao gồm các động sản và
bất động sản, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản. Các tài sản này có thể
do vợ chồng tạo lập ở khắp mọi nơi trong và ngoài nƣớc, có thể dịch chuyển
đƣợc hoặc không. Vì vậy, khi phân chia tài sản chung của vợ chồng là các vật
(bao gồm các động sản và bất động sản) cho mỗi bên sở hữu, pháp luật cho
phép ngƣời thực thi pháp luật có quyền phân chia bằng hiện vật hoặc theo giá
trị tùy vào yêu cầu của các bên cũng nhƣ các điều kiện thực tế khác. Điểm d
khoản 2 điều 95 Luật HN&GĐ quy định: “Tài sản chung của vợ chồng được
chia bằng hiện vật hoặc theo giá trị; bên nàonhận phần tàisản bằng hiện vật
có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia
phần giá trị chênh lệch”.
Nhƣ vậy, nếu tài sản chung của vợ chồng là các động sản hoặc bất động
sản có thể chia bằng hiện vật thì Tòa án áp dụng điểm d khoản 2 điều 95 Luật
25
32. HN&GĐ để chia theo giá trị hoặc giao hiện vật. Giá trị của tài sản có thể do các
bên đƣơng sự thỏa thuận hoặc yêu cầu Tòa án thành lập Hội đồng định giá để
thẩm định giá trị. Các tài sản có thể chia bằng hiện vật cho mỗi bên thì Tòa án
căn cứ vào hiện trạng để chia, trƣờng hợp tài sản không thể phân chia đƣợc thì
giao cho một bên sở hữu, bên còn lại đƣợc nhận theo giá trị chênh lệch.
Ví dụ: tài sản chung là một chiếc xe máy thì không thể phân chia bằng
hiện vật đƣợc mà phải giao cho một bên có nhu cầu sử dụng, bên còn lại
đƣợc quyền thanh toán giá trị chênh lệch. Trƣờng hợp tài sản cần chia là một
mảnh đất, thẩm phán cần xem xét đến nhu cầu sử dụng của mỗi bên cũng nhƣ
hiện trạng để quyết định có phân chia bằng hiện vật cho cả hai bên vợ, chồng
hay không. Nếu mảnh đất có thể phân chia và đủ diện tích để tách thửa theo
quy định của pháp luật thì cần chia bằng hiện vật cho cả hai bên.
Điều 95 Luật HN&GĐ 2000 đã quy định các nguyên tắc chung về việc
chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn. Tình hình thực tế cho thấy đối với các
loại tài sản là bất động sản thƣờng gặp nhiều khó khăn, vƣớng mắc vì tài sản
có giá trị lớn, ảnh hƣởng đến quyền lợi của các đƣơng sự. Khi tình cảm vợ
chồng không còn, giữa họ thƣờng có tranh chấp với nhau gay gắt về tài sản,
nhiều vụ việc kéo dài do đƣơng sự khiếu kiện ảnh hƣởng rất lớn đến quyền
và lợi ích của ngƣời khác. Luật HN&GĐ 2000 đã quy định các trƣờng hợp
chia tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng là nhà ở, quyền sử dụng đất,
các trƣờng hợp mà vợ chồng còn sống chung với gia đình bên cha mẹ chồng,
cha mẹ vợ tại các điều từ 96 đến 98 và hƣớng dẫn cụ thể tại Nghị định 70/CP.
Mục 12 Nghị quyết 02/2000/HĐTP đã hƣớng dẫn: “việc chia tài sản
chung của vợ chồng khi ly hôn phải theo đúng các nguyên tắc được quy định
tại điều 95. Ngoài ra, tùy vào từng trường hợp cụ thể mà áp dụng các quy
định tại điều 96, điều 97, điều 98 tương ứng”. Vì vậy, áp dụng các nguyên tắc
khi giải quyết tranh chấp về tài sản của vợ chồng phải xem xét một cách toàn
diện mới đủ cơ sở để giải quyết vụ án.
26
33. Các nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn là những tƣ tƣởng chỉ đạo mang
tính định hƣớng và phải tuân thủ. Việc giải quyết tranh chấp về tài sản của vợ
chồng khi ly hôn trƣớc hết do các bên thỏa thuận. Nếu không thỏa thuận
đƣợc thì đƣợc giải quyết theo nguyên tắc chia đôi, có xem xét đến hoàn cảnh
của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp cũng nhƣ các điều kiện
khác nhằm đảm bảo tính công bằng, quyền và lợi ích hợp pháp của vợ, chồng,
con và ngƣời thứ ba tham gia các quan hệ tài sản với vợ, chồng. Đây là quy
định “mở”, tạo điều kiện cho Thẩm phán linh hoạt, chủ động giải quyết các
tranh chấp xảy ra, đáp ứng đầy đủ nhu cầu, nguyện vọng của mỗi bên đƣơng
sự tham gia trong vụ án. Mặt khác, quy định này đã tạo điều kiện cho các
Thẩm phán không có tâm huyết với nghề có thể lợi dụng để giải quyết một
cách tùy tiện, bất hợp lý, làm cho việc giải quyết án không đƣợc thống nhất.
Cũng một nội dung nhƣng có nhiều cách giải quyết trái ngƣợc gây khó khăn,
trở ngại cho các đƣơng sự cũng nhƣ không đảm bảo quyền lợi hợp pháp của
những ngƣời tham gia tố tụng.
1.3. Ý NGHĨA CỦA VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TÀI SẢN
CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN
Pháp luật là công cụ để Nhà nƣớc quản lý xã hội, quản lý nền kinh tế.
Vì vậy, bên cạnh việc ban hành pháp luật buộc tất cả mọi công dân phải
nghiêm chỉnh chấp hành, Nhà nƣớc bảo đảm pháp luật phải đƣợc thực thi và
đi vào cuộc sống. Việc giải quyết tranh chấp về tài sản của vợ chồng khi ly
hôn là một trong những yếu tố đảm bảo pháp luật đƣợc thực hiện trong đời
sống, có những ý nghĩa quan trọng đối với xã hội.
Bản chất của quan hệ hôn nhân là quan hệ tài sản gắn liền với chủ thể
nhất định, không thể tách rời và không có tính đền bù ngang giá. Vì vậy, khi
hôn nhân không còn tồn tại thì việc giải quyết vấn đề tài sản là cần thiết,
trƣớc hết, đảm bảo quyền lợi của các bên vợ, chồng đối với khối tài
27
34. sản chung; đồng thời, quyền lợi chính đáng của ngƣời thứ ba tham gia quan
hệ tài sản với vợ chồng cũng đƣợc đảm bảo, ngăn ngừa các hậu quả xấu do
tranh chấp gây ra. Các bên có quyền nêu lên ý kiến, nguyện vọng để bảo vệ
quyền lợi cho mình.
Các tranh chấp về tài sản trong vụ án hôn nhân gia đình thƣờng phức
tạp về tính chất và nội dung. Vì vậy, khi giải quyết ly hôn, Tòa án cần căn cứ
vào các quy định của pháp luật và tình hình thực tế tại địa phƣơng để xem
xét, giải quyết triệt để, hợp lý các yêu cầu của đƣơng sự, đặc biệt là những
tranh chấp về tài sản của vợ chồng trong vụ án. Giải quyết tranh chấp về tài
sản của vợ chồng khi ly hôn đúng quy định của pháp luật sẽ đảm bảo đƣợc
quyền, lợi ích chính đáng của vợ, chồng; đặc biệt là quyền lợi của ngƣời phụ
nữ và con chƣa thành niên, con đã thành niên bị mất năng lực hành vi dân sự.
Thông qua giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn, ngƣời
thứ ba có giao dịch tài sản với vợ chồng có quyền yêu cầu hoặc Tòa án xác
định họ là ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để giải quyết phần tài sản
liên quan đến họ. Khi giải quyết đúng pháp luật, quyền lợi chính đáng của
những ngƣời có giao dịch tài sản với vợ chồng nhƣ cha mẹ chồng, cha mẹ vợ
hoặc ngƣời thứ ba khác đƣợc đảm bảo, trong đó có cả quyền lợi của các tổ
chức kinh tế, của Nhà nƣớc.
Giải quyết đúng pháp luật các tranh chấp về tài sản của vợ chồng khi ly
hôn sẽ tiết kiệm đƣợc thời gian, công sức, tiền bạc… của các bên đƣơng sự cũng
nhƣ ngƣời thực hiện pháp luật, tránh đƣợc các khiếu nại kéo dài. Trên cơ sở các
quy định của pháp luật, Thẩm phán tiến hành phân tích, hòa giải để các bên
đƣơng sự hiểu rõ các quyền lợi, nghĩa vụ của mình; từ đó các bên sẽ hiểu nhau,
hiểu pháp luật để lựa chọn hƣớng giải quyết cho phù hợp, đảm bảo duy trì quan
hệ sau tranh chấp, không làm sâu sắc mâu thuẫn giữa vợ và chồng cũng nhƣ gia
đình hai bên. Nhƣ vậy, các bên sẽ không phải mất nhiều thời
28
35. gian, công sức để theo kiện cũng nhƣ án phí chia tài sản sẽ đƣợc giảm nếu
các bên đƣơng sự thỏa thuận thành công. Một khi quyền lợi của các đƣơng sự
đƣợc đảm bảo sẽ tránh đƣợc các khiếu nại kéo dài không cần thiết. Tranh
chấp đƣợc giải quyết êm thắm sẽ giúp cơ quan thực thi pháp luật không phải
mất nhiều thời gian, công sức giải quyết vụ kiện. Đồng thời, Tòa án là cơ
quan thực thi pháp luật trực tiếp giải quyết tranh chấp sẽ tăng hiệu quả xét xử
và lòng tin của ngƣời dân vào việc xét xử của Tòa án khi giải quyết đúng,
chính xác, công bằng; ngƣợc lại, giải quyết tranh chấp về tài sản của vợ
chồng không công bằng, chính xác sẽ làm mất uy tín của Tòa án.
Việc giải quyết tranh chấp về tài sản của vợ chồng thành công giúp giải
tỏa sự nặng nề về tâm lý, duy trì và củng cố quan hệ giữa các bên và đảm bảo
đƣợc sự bình đẳng của vợ chồng trong quan hệ tài sản, tăng cƣờng tình đoàn
kết giữa các đƣơng sự tham gia trong vụ án. Đồng thời, các đƣơng sự thống
nhất với cách giải quyết của Tòa án sẽ tạo điều kiện cho việc thi hành án
đƣợc dễ dàng, đảm bảo tính khả thi của bản án thi hành trên thực tế khi bản
án có hiệu lực thi hành.
Với phán quyết công bằng, đúng pháp luật, lợi ích về tài sản của các
bên tranh chấp đƣợc đảm bảo; tính năng, công dụng của tài sản đƣợc phát
huy tối đa phù hợp với nhu cầu thực tế của mỗi bên vợ chồng.
Hơn nữa, việc giải quyết tranh chấp sẽ đánh giá đƣợc việc áp dụng
pháp luật trong giải quyết tranh chấp về tài sản của vợ chồng khi ly hôn tại
Tòa án, chỉ ra những bất cập và là cơ sở cho việc hoàn thiện pháp luật.
Nhìn chung, pháp luật quy định việc giải quyết tranh chấp về tài sản
của vợ chồng khi ly hôn tƣơng đối đầy đủ, cụ thể, rõ ràng giúp cho việc việc
giải quyết tranh chấp ngày càng tốt hơn. Đồng thời, với quy định của pháp
luật ngày càng hoàn thiện đã nâng cao nhận thức của ngƣời dân khi tham gia
quan hệ pháp luật có liên quan nên họ dễ dàng áp dụng pháp luật vào thực tế,
tránh xảy ra các tranh chấp không cần thiết.
29
36. Chương 2
THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN TẠI TOÀ ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM
Điện Bàn là một huyện đồng bằng ven biển của tỉnh Quảng Nam, có địa
bàn rộng, dân cƣ đông, tình hình kinh tế xã hội còn gặp nhiều khó khăn, thiên
tai lũ lụt xảy ra thƣờng xuyên đã tác động không nhỏ đến đời sống của nhân
dân. Đặc biệt, trong những năm gần đây việc chuyển dịch cơ cấu ngành kinh
tế diễn ra mạnh mẽ, tốc độ phát triển công nghiệp và dịch vụ tăng nhanh. Trên
địa bàn huyện hiện nay có khu công nghiệp Điện Nam - Điện Ngọc và các
cụm công nghiệp lân cận khác nên tập trung nhân công lao động đông đúc,
nhất là dân vãng lai dẫn đến tình hình tội phạm diễn biến rất phức tạp; các
tranh chấp, khiếu kiện dân sự, kinh doanh thƣơng mại xảy ra ngày càng tăng
và gay gắt, nhất là đối với các lĩnh vực tranh chấp về đất đai, xây dựng và giải
toả đền bù.
Đối với các tranh chấp về HNGĐ, trong những năm gần đây có sự gia
tăng về số lƣợng. Năm 2008, TAND huyện Điện Bàn thụ lý và giải quyết 145
vụ, việc HNGĐ, chiếm tỷ lệ 49% tổng số vụ án thụ lý (145/297); năm 2009,
thụ lý và giải quyết 184 vụ, việc, chiếm tỷ lệ 44% tổng số án thụ lý (184/415);
năm 2010, thụ lý và giải quyết 211/359 vụ, việc, chiếm tỷ lệ 58,7% so với
tổng số án thụ lý; năm 2011, TAND huyện Điện Bàn đã thụ lý và giải quyết
218 vụ, việc, chiếm tỷ lệ 58% (218/375) và tính đến tháng 9 năm 2012,
TAND huyện Điện Bàn thụ lý và giải quyết 217/410 vụ, việc, chiếm tỷ lệ
53% tổng số án đã thụ lý. Các vụ án HNGĐ thụ lý và giải quyết chiếm tỷ lệ
cao trong tổng số các vụ án đã thụ lý, nguyên nhân chính là khi đời sống vật
chất của ngƣời dân ngày càng tăng cao dẫn đến quan niệm về
30
37. gia đình không đƣợc coi trọng nhƣ trƣớc nên vợ chồng không sống đƣợc với
nhau thì giải quyết bằng cách ly hôn diễn ra khá phổ biến. Nguyên nhân ly
hôn thƣờng do mâu thuẫn gia đình gay gắt, nạn bạo hành, đánh đập, ngƣợc
đãi vợ con ngày càng gia tăng. Điều kiện kinh tế ngày càng khấm khá thì việc
ngoại tình, tệ nạn xã hội nhƣ cờ bạc, rƣợu chè có phần gia tăng … làm cho
tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn gay gắt dẫn đến ly hôn. Trong quá
trình giải quyết, xét xử các vụ án hôn nhân, Tòa án đã tiến hành đánh giá tài
liệu, chứng cứ mà các bên đƣơng sự cung cấp và do Tòa án thu thập, việc tiến
hành các biện pháp tố tụng dân sự đƣợc đảm bảo đúng quy định của pháp
luật; đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các bên đƣơng sự, đặc biệt coi
trọng quyền lợi của ngƣời vợ và con chƣa thành niên sau khi ly hôn. Hầu hết
các vụ án đều đƣợc Thẩm phán, Thƣ ký kiên trì hòa giải, phân tích các quy
định của pháp luật để các đƣơng sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ
án. Vì vậy, trong những năm qua, các vụ án phải đƣa ra xét xử không nhiều,
đa số các vụ án đƣợc đƣơng sự thỏa thuận với nhau, giúp tăng cƣờng tình
đoàn kết trong nội bộ quần chúng nhân dân, giảm bớt căng thẳng, mâu thuẫn
trƣớc đó, đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các bên đƣơng sự, khắc phục
đƣợc tình trạng khiếu nại kéo dài và tạo thuận lợi cho các đƣơng sự trong quá
trình thi hành án sau này.
Đối với các vụ án phải đƣa ra xét xử, hầu hết đều có tranh chấp về tài sản
và con chung. Một khi mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng thì tranh chấp về tài
sản trở nên gay gắt, trong khi mức thu nhập bình quân tại địa phƣơng không cao
nên cho dù tài sản tranh chấp không lớn nhƣng đó là toàn bộ tài sản của họ, vì
vậy, tranh chấp cũng không kém phần quyết liệt so với các vụ án khác trên toàn
quốc. Tòa án đã vận dụng các quy định của pháp luật một cách linh hoạt nhằm
đảm bảo quyền lợi của các bên đƣơng sự, trong đó quan tâm bảo vệ quyền lợi
của ngƣời phụ nữ và con cái chƣa thành niên để tạo điều
31
38. kiện cho họ ổn định chỗ ở, sinh sống và có điều kiện làm việc, học hành sau
khi ly hôn. Việc giải quyết các tranh chấp về tài sản khi ly hôn rất đa dạng về
vụ, việc; phức tạp về tính chất vì trong thời kỳ hôn nhân, tài sản của vợ chồng
còn liên quan đến nhiều chủ thể khác mà không chỉ tồn tại giữa vợ chồng đối
với nhau. Trong phạm vi luận văn xin phân tích hai nội dung cơ bản của việc
giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hôn tại TAND huyện Điện Bàn, đó là xác
định tài sản tranh chấp và áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp tài sản
giữa vợ chồng khi ly hôn.
2.1. XÁC ĐỊNH TÀI SẢN TRANH CHẤP TRONG VỤ ÁN LY HÔN
2.1.1. Đốitượng tài sản tranh chấp
Điện Bàn là một trong những huyện đồng bằng thuần nông, có mức
sống trung bình so với cả nƣớc, đời sống của đại đa số ngƣời dân không cao.
Vì vậy, những tài sản tranh chấp trong các vụ án hôn nhân gia đình tại địa
phƣơng có những đặc thù riêng, mặc dù giá trị không lớn và tính phức tạp
không cao.
Đối tƣợng tài sản tranh chấp trong vụ án hôn nhân gia đình là tài sản
mà các đƣơng sự kê khai, yêu cầu Tòa án giải quyết. Theo quy định tại Điều
163 BLDS thì tài sản có thể là vật, tiền, giấy tờ có giá hoặc các quyền về tài
sản. Tuy nhiên, không phải bất cứ tài sản nào cũng là đối tƣợng tranh chấp.
Tài sản đƣợc xem là đối tƣợng tranh chấp khi nó đƣợc phép giao dịch, đối
với những tài sản mà pháp luật cấm luân chuyển nhƣ chất nổ, vũ khí, ma túy
… thì không đƣợc xem là đốitƣợng tranh chấp mà đƣợc xử lý theo quy định
của pháp luật.
Để có căn cứ giải quyết tranh chấp và đảm bảo phán quyết của Tòa án
có tính khả thi, tài sản tranh chấp phải đang tồn tại vào thời điểm tranh chấp.
Các đƣơng sự phải cung cấp chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình.
Ví dụ tài sản tranh chấp là ngôi nhà gắn liền với quyền sử dụng đất thì đƣơng
32
39. sự phải cung cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và ngôi nhà phải còn
vào thời điểm tranh chấp.
Hầu hết các tài sản tranh chấp tại địa phƣơng là nhà ở và quyền sử dụng
đất mà các bên đƣơng sự cho là tài sản chung của vợ chồng. Sở dĩ đây là một
trong những tài sản mà các đƣơng sự tranh chấp nhiều nhất ở các vụ án ly hôn
bởi các tài sản này có giá trị lớn, đáp ứng nhu cầu về chỗ ở, sinh hoạt của các
đƣơng sự sau khi ly hôn; gắn liền với quyền sở hữu của mỗi ngƣời là việc kê
khai đăng ký và có sự quản lý chặt chẽ của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền.
Những năm qua, TAND huyện Điện Bàn giải quyết hầu hết các vụ án
ly hôn có tranh chấp về tài sản là nhà và đất ở. Trƣờng hợp vụ án ly hôn giữa
ông Nguyễn Ngọc Đình và bà Võ Thị Phƣơng là một ví dụ.
Tài sản tranh chấp trong vụ án này gồm: 01 ngôi nhà tạm gắn liền với
diện tích đất thổ cƣ 267m2
, 01 ngôi nhà cấp 4 và tài sản trong nhà nằm trên
đất của cha mẹ ruột ông Đình, 01 xe môtô hiệu Yamaha Jupiter. Hay nhƣ
trƣờng hợp vụ án ly hôn giữa bà Phạm Thị Quế và ông Lê Văn Đô cùng trú
tại: thôn Thái Sơn, xã Điện Tiến, huyện Điện Bàn. Các đƣơng sự tranh chấp
01 ngôi nhà cấp 4 gắn liền với 1893m2
đất ở, 01 chiếc xe máy, 01 con trâu, 02
con heo (lợn) nái, 01 con heo choai, 01 tivi màu 14inch, 01 chiếc xe bò, 01
máy tuốt lúa, 01 gƣờng gỗ 1,4m, 01 giƣờng gỗ 1,6m, 100 ang lúa khô và một
số thửa đất nông nghiệp.
Qua các ví dụ trên, chúng ta thấy đối tƣợng tài sản tranh chấp trong các
vụ án ly hôn rất đa dạng, phong phú và gắn với thực tế cuộc sống lao động tại
địa phƣơng. Đối tƣợng tài sản tranh chấp còn có thể là các tài sản khác nhƣ
đất nông nghiệp để sản xuất, xe máy, tiền gửi tiết kiệm, vàng cƣới, gia súc
nuôi trong nhà nhƣ bò, trâu, lợn hay những vật dụng khác trong gia đình.
Ngoài ra, tài sản tranh chấp còn có thể là những hàng hóa mà vợ chồng
đang sản xuất, kinh doanh, vốn góp của vợ chồng để thành lập doanh nghiệp
33
40. hoặc cổ phần mà vợ chồng đã mua khi công ty huy động vốn. Ví dụ: trƣờng
hợp xin ly hôn giữa ông Tạ Chấn Dƣ và bà Nguyễn Thị Lan; vợ chồng tranh
chấp 01 ngôi nhà xây trên 200m2
đất ở, 02 chiếc xe máy và toàn bộ số giầy
mà vợ chồng sản xuất, buôn bán.
Tại địa phƣơng, kinh tế chƣa thực sự phát triển, các loại tài sản chƣa
thực sự phong phú nên tài sản là các loại giấy tờ có giá nhƣ kỳ phiếu, tín
phiếu, séc hay các loại chứng khoán không nhiều. Vì vậy, các tranh chấp về
tài sản của vợ chồng khi ly hôn tại Tòa án Điện Bàn, chƣa có trƣờng hợp nào
đối tƣợng tài sản tranh chấp là các loại tài sản này.
Nhƣ vậy, đối tƣợng tài sản tranh chấp bao gồm những tài sản mà vợ
chồng kê khai yêu cầu Tòa án giải quyết. Tài sản tranh chấp là nhà và đất ở
thƣờng là đối tƣợng chủ yếu và có tính chất quan trọng hơn cả. Khi giải
quyết các tài sản khác cũng bộc lộ tính đa dạng, phức tạp đòi hỏi Thẩm phán
phải xem xét, nghiên cứu thận trọng hồ sơ vụ án cũng nhƣ các chứng cứ có
liên quan để giải quyết một cách đúng pháp luật, hợp tình, hợp lý.
2.1.2. Giá trị tài sản tranh chấp
Một trong những căn cứ để việc giải quyết tranh chấp tài sản của vợ
chồng khi ly hôn đƣợc đúng đắn là giá trị tài sản tranh chấp cần đƣợc xác
định hợp lý và chính xác. Giá trị tài sản tranh chấp có thể đƣợc xác định ngay
nhƣ tiền mặt, vàng, sổ tiết kiệm và các giấy tờ có giá khác. Ngoài ra, giá trị
tài sản tranh chấp còn đƣợc xác định bằng một số tiền tƣơng đƣơng với tài
sản đó vào thời điểm xét xử. Việc xác định giá trị những tài sản này có thể do
các bên đƣơng sự thỏa thuận hoặc thông qua tổ chức thẩm định giá tài sản.
Điều 92 BLTTDS đƣợc sửa đổi bổ sung năm 2011 quy định việc định
giá tài sản nhƣ sau: “Các bên có quyền tự thỏa thuận về việc xác định giá tài
sản, lựa chọn tổ chức thẩm định giá tài sản.
34
41. Tòa án ra quyết định định giá tài sản đang tranh chấp trong các
trường hợp sau:
a, theo yêu cầu của một hoặc các bên đương sự;
b, các bên thỏa thuận với nhau hoặc với tổ chức thẩm định giá theo
mức giá thấp nhằm trốn tránh nghĩa vụ với nhà nước”. Ngoài ra, Điều 92 còn
quy định về thành phần Hội đồng định giá, việc tham dự, phát biểu ý kiến và
quyết định về giá tại buổi định giá tài sản.
Điểm b khoản 1 Điều 92 BLTTDS quy định có hai trƣờng hợp mà Tòa
án phải ra quyết định định giá (không phụ thuộc vào ý chí của các đƣơng sự)
nhƣ sau:
Một là, các bên trong tranh chấp tự thỏa thuận và thống nhất đƣợc với
nhau về giá trị tài sản tranh chấp. Ví dụ: hai bên tranh chấp với nhau một ngôi
nhà và đều thống nhất với nhau là giá của ngôi nhà này là 100 triệu đồng và
đề nghị Tòa án ghi nhận sự thoả thuận của các bên. Hai là, hai bên không tự
thống nhất với nhau về giá trị tài sản tranh chấp, nhƣng thống nhất với nhau
là thuê dịch vụ thẩm định giá tài sản để xác định giá tài sản. Trong cả hai
trƣờng hợp nói tại điểm nói trên, nếu giá mà các bên thoả thuận với nhau
hoặc thoả thuận với tổ chức thẩm định giá tài sản mà mức giá này thấp (có thể
hiểu là thấp hơn giá sàn do nhà nƣớc quy định) nhằm trốn tránh nghĩa vụ với
nhà nƣớc thì Tòa án không chấp nhận sự thoả thuận này và Tòa án ra quyết
định định giá tài sản.
Theo quy định của pháp luật thì các đƣơng sự phải chịu án phí chia tài
sản tƣơng ứng với phần tài sản đƣợc nhận trong vụ án hôn nhân. Đồng thời,
khi bản án có hiệu lực thi hành và các bên có yêu cầu thi hành án thì ngƣời
yêu cầu phải nộp chi phí thi hành án tƣơng ứng với giá trị tài sản yêu cầu. Vì
vậy, để giảm các nghĩa vụ với Nhà nƣớc nhƣ tiền án phí, chi phí yêu cầu thi
hành án…, các bên thỏa thuận với nhau hoặc với tổ chức thẩm định giá theo
35
42. mức giá thấp. Quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 92 BLTTDS đã khắc phục
đƣợc tình trạng này, buộc các đƣơng sự phải tuân thủ theo các quy định của
pháp luật, đảm bảo vụ án đƣợc giải quyết chính xác, đáp ứng quyền lợi hợp
pháp của các bên đƣơng sự.
Để có cơ sở xem xét mức giá mà các bên đã thỏa thuận hoặc tổ chức
thẩm định giá đƣa ra có phù hợp với giá giao dịch tại địa phƣơng hay không,
Tòa án có thể tham khảo ý kiến của các cơ quan chuyên môn nhƣ phòng Tài
chính, phòng Tài nguyên Môi trƣờng hoặc tham khảo bảng giá do UBND cấp
tỉnh ban hành hàng năm để làm cơ sở xác định giá trị tài sản mà các đƣơng sự
thỏa thuận có phù hợp hay không. Tuy nhiên, không phải lúc nào ý kiến của
các cơ quan chuyên môn hoặc bảng giá của UBND tỉnh ban hành cũng chính
xác nên có nhiều trƣờng hợp phán quyết của Tòa án không thỏa mãn yêu cầu
của các đƣơng sự.
Trƣờng hợp xin ly hôn giữa bà Lƣu Thị Kim Luyến và ông Nguyễn
Đức Sơn là một ví dụ. Tài sản tranh chấp của vợ chồng gồm 01 ngôi nhà xây
2 tầng trên diện tích 332,9m2
(Nhà nƣớc chỉ công nhận quyền sử dụng đất
144,9m2
) tại khối 7, thị trấn Vĩnh Điện và một số tài sản khác. Hội đồng định
giá (do TAND huyện Điện Bàn thành lập) xác định tài sản tranh chấp có giá
trị tổng cộng là 529.465.000đ, trong đó, giá trị ngôi nhà là 239.660.000đ, giá
trị phần đất là 289.800.000đ. Do phần diện tích đất đƣợc Nhà công nhận là
144,9m2
đã xây dựng 01 ngôi nhà và không thể phân chia theo hiện vật đƣợc
nên Tòa án chia ngôi nhà và đất cho một bên và bên kia đƣợc nhận giá trị tài
sản chênh lệch. Tuy nhiên, so với giá thị trƣờng tại thời điểm định giá thì tài
sản tranh chấp thực tế có giá trị lớn hơn nhiều (qua tham khảo thì giá khoảng
3.000.000đ/1m2
, 144,9m2
tƣơng đƣơng 434.700.000đ) nhƣng ông Sơn, bà
Luyến đều không có yêu cầu định giá lại vì cả hai đều mong muốn nhận ngôi
nhà và thối trả giá trị chênh lệch. Đồng thời, giá trị tài sản định giá thấp thì án
36
43. phí phải chịu của mỗi bên cũng thấp nên các bên chấp nhận giá trị này. Trong
khi đó, giá trị do Hội đồng định giá xác định căn cứ vào nhiều yếu tố, cao hơn
giá do UBND tỉnh ban hành nên Tòa án không thể và không dám xác định
mức giá này thấp để ra Quyết định định giá lại. Vì vậy, cho dù Tòa án phân
chia hiện vật cho bên nào thì bên còn lại cũng khiếu nại vì có ảnh hƣởng đến
quyền lợi của họ.
Mục 12 Nghị quyết 02/2000/HĐTP đã hƣớng dẫn: “việc xác định giá
trị khối tài sản chung của vợ chồng hoặc phần giá trị mà họ phải thanh toán,
họ được hưởng là căn cứ vào giá giao dịch thực tế tại địa phương vào thời
điểm xét xử”.
Nhƣ vậy, giá trị tài sản đƣợc xác định theo giá thị trƣờng giao dịch vào
thời điểm định giá. Việc định giá tài sản phải tuân theo trình tự, thủ tục do
pháp luật quy định và là chứng cứ để Tòa án xem xét, phân chia tài sản cho
mỗi bên đƣơng sự phù hợp với nhu cầu thực tế của họ; đồng thời, việc xác
định giá trị tài sản tranh chấp cũng làm cơ sở cho Tòa án tính án phí cho đúng
theo quy định của pháp luật.
Trong quá trình giải quyết, xét xử các tranh chấp về tài sản trong những
vụ án HNGĐ tại TAND huyện Điện Bàn đƣợc thực hiện theo đúng quy định của
pháp luật. Khi phát sinh tranh chấp về tài sản trong vụ án, Thẩm phán đã tiến
hành phân tích, hòa giải theo quy định của pháp luật để các bên có thể thỏa thuận
với nhau về việc giải quyết vụ án, giúp các đƣơng sự giữ đƣợc tình cảm với
nhau, đồng thời giảm bớt thời gian cũng nhƣ gánh nặng án phí chia tài sản mà
mỗi bên phải chịu. Trƣờng hợp tranh chấp gay gắt, quyết liệt cần phải xét xử thì
Thẩm phán tạo điều kiện cho các bên thỏa thuận giá trị tài sản tranh chấp cho
phù hợp với thực tế. Nếu các bên không thỏa thuận đƣợc thì trên cơ sở yêu cầu
của đƣơng sự, Tòa án ra Quyết định định giá tài sản để xác định giá trị tài sản
tranh chấp. Hầu hết các vụ án có tranh chấp về tài sản đều
37
44. đƣợc xác định giá trị theo đúng quy định của pháp luật, tƣơng ứng với giá thị
trƣờng giao dịch của tài sản tranh chấp tại thời điểm xét xử. Tuy nhiên, trong
quá trình thực hiện vẫn còn phát sinh một số vƣớng mắc cần khắc phục.
2.1.3. Tranhchấp giữa vợ chồng về các nghĩa vụ tài sảnphát sinh
trong thời kỳ hôn nhân
Song song với việc xác định đối tƣợng và giá trị tài sản tranh chấp giữa
vợ chồng thì việc xác định các nghĩa vụ tài sản của vợ chồng phát sinh trong
thời kỳ hôn nhân cũng rất quan trọng, đảm bảo đƣợc quyền lợi chính đáng
của ngƣời thứ ba khi tham gia giao dịch với vợ chồng.
Nghĩa vụ tài sản phát sinh khi một hoặc hai bên vợ chồng có tham gia
giao dịch với ngƣời khác để phục vụ nhu cầu ăn, ở, sinh hoạt và các nhu cầu
khác của gia đình trong thời kỳ hôn nhân. Pháp luật quy định trách nhiệm của
vợ chồng đối với các giao dịch này, nếu một hoặc hai bên thực hiện giao dịch
nhằm phục vụ nhu cầu thiết yếu của gia đình thì cả hai vợ chồng phải có trách
nhiệm liên đới. Đối với những giao dịch khác do cả hai vợ chồng cùng ký kết
với ngƣời thứ ba thì cả hai vợ chồng cùng chịu trách nhiệm, những giao dịch
do một bên thực hiện nhằm phục vụ nhu cầu riêng của mình thì bên nào giao
kết hợp đồng bên đó phải chịu trách nhiệm riêng đối với giao dịch đó.
Ví dụ trƣờng hợp xin ly hôn giữa bà Lê Thị Ngọc và ông Võ Nhƣ Sang:
bà Ngọc cho rằng trong quá trình chung sống, do ông Sang bị tai nạn giao thông
không lao động đƣợc một thời gian, một mình bà phải chăm sóc, thuốc men cho
chồng và chi phí sinh hoạt cho gia đình nên không đủ khả năng cán đáng. Vì vậy,
bà có mƣợn của bà Lê Thị Thanh và bà Trƣơng Thị Nghĩa mỗi ngƣời 10 triệu
đồng để lo cho gia đình. Mặc dù ông Sang không thừa nhận số nợ này nhƣng có
một lần hòa giải ông thừa nhận, đồng thời qua xác minh thì thấy thực tế ông
Sang có bị tai nạn giao thông phải điều trị trong vòng 3 tháng. Thời gian này, bà
Ngọc phải chăm sóc cho chồng, con nên cả hai vợ
38