Download luận văn thạc sĩ ngành luật với đề tài: Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với các tổ chức hành nghề công chứng tại tỉnh Phú Yên, cho các bạn tham khảo
Đề tài: Pháp luật về tổ chức hành nghề công chứng tại Phú Yên
1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
............…/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
TRƯƠNG NỮ TRẦN CHUNG
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC BẰNG PHÁP LUẬT
ĐỐI VỚI CÁC TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ CÔNG CHỨNG
TẠI TỈNH PHÚ YÊN
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 60 38 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS NGUYỄN QUỐC SỬU
THỪA THIÊN HUẾ, NĂM 2017
2. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các thông
tin nêu trong luận văn là trung thực, chính xác. Các trích dẫn trong luận văn
đều được chú thích đầy đủ và chính xác. Các kết quả trình bày trong luận văn
không trùng lắp với các công trình nghiên cứu có liên quan đã được công bố.
Học viên
Trương Nữ Trần Chung
3. Lời Cảm Ơn
Với tình cảm trân trọng nhất, tác giả luận văn
xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới PGS.TS
Nguyễn Quốc Sửu, Học viện Hành chính Quốc gia đã
tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tác giả trong quá trình
hoàn thành Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật
Hành chính: “Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối
với các tổ chức hành nghề công chứng tại tỉnh Phú
Yên”
Xin trân trọng cảm ơn Ban Giám đốc, các thầy
giáo, cô giáo của Học viện Hành chính Quốc gia đã
tận tình, chu đáo trong quá trình tham gia giảng dạy
và truyền đạt kiến thức cho tác giả. Xin được bày tỏ
lời cảm ơn chân thành đến toàn thể cán bộ, công
chức, viên chức của Học viện Hành chính Quốc gia
đã tạo điều kiện thuận lợi nhất cho tác giả trong quá
trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành chương
trình cao học cũng như hoàn thành Luận văn này.
Kính mong nhận được sự góp ý của quý thầy
giáo, cô giáo, đồng nghiệp, các học viên Học viện
Hành chính Quốc gia và quý bạn đọc để Luận văn
được hoàn thiện và hữu ích hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!
Học viên
Trương Nữ Trần Chung
4. MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC BẰNG PHÁP
LUẬT ĐỐI VỚI TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ CÔNG CHỨNG .................. 8
1.1. Quan niệm về tổ chức hành nghề công chứng....................................... 8
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm công chứng................................................ 8
1.1.2. Khái niệm và phân loại tổ chức hành nghề công chứng .............. 13
1.2. Lý luận về quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với các tổ chức hành
nghề công chứng ......................................................................................... 19
1.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước bằng pháp luật................................ 19
1.2.2. Khái niệm quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với các tổ chức
hành nghề công chứng............................................................................ 21
1.2.3. Đặc điểm của quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với các tổ
chức hành nghề công chứng ................................................................... 22
1.2.4. Vai trò của quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với các tổ chức
hành nghề công chứng............................................................................ 30
1.2.5. Các nguyên tắc quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với các tổ
chức hành nghề công chứng ................................................................... 34
1.3. Nội dung cơ bản của pháp luật về quản lý tổ chức hành nghề công chứng37
1.3.1. Nguyên tắc thành lập tổ chức hành nghề công chứng.................. 37
1.3.2. Quyền và nghĩa vụ của tổ chức hành nghề công chứng............... 37
5. 1.3.3. Thành lập, chuyển đổi, giải thể Phòng công chứng ..................... 41
1.3.4. Thành lập, đăng ký và thay đổi nội dung đăng ký hoạt động của
Văn phòng công chứng ........................................................................... 42
1.3.5. Hợp nhất, sáp nhập, chuyển nhượng Văn phòng công chứng...... 45
1.3.6. Thu hồi quyết định thành lập và chấm dứt hoạt động của Văn
phòng công chứng................................................................................... 46
Tiểu kết Chương 1....................................................................................... 48
Chương 2: THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI
VỚI CÁC TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ CÔNG CHỨNG Ở TỈNH PHÚ
YÊN HIỆN NAY ........................................................................................... 49
2.1. Khái quát vị trí địa lý, tình hình dân cư, kinh tế – xã hội của tỉnh Phú
Yên có ảnh hưởng đến thực hiện pháp luật về quản lý nhà nước đối với các
tổ chức hành nghề công chứng ở tỉnh Phú Yên hiện nay ........................... 49
2.1.1. Khái quát vị trí địa lý tỉnh Phú Yên .............................................. 49
2.1.2. Tình hình dân cư, kinh tế - xã hội................................................. 49
2.2. Tình hình thực hiện pháp luật về quản lý nhà nước đối với các tổ chức
hành nghề công chứng ở Phú Yên hiện nay................................................ 53
2.2.1. Căn cứ pháp lý và khái quát về quản lý nhà nước đối với các tổ
chức hành nghề công chứng ở Phú Yên hiện nay................................... 53
2.2.2. Hoạt động xây dựng thể chế quản lý nhà nước đối với tổ chức
hành nghề công chứng............................................................................ 59
2.2.3. Thực hiện pháp luật trên một số lĩnh vực quản lý tổ chức hành
nghề công chứng ..................................................................................... 68
2.2.4. Thực hiện pháp luật về thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm đối với
các tổ chức hành nghề công chứng......................................................... 78
2.3. Đánh giá chung về thực hiện pháp luật quản lý nhà nước đối với các tổ
chức hành nghề công chứng ở Phú Yên hiện nay....................................... 86
6. 2.3.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân ..................................... 86
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân.................................................... 92
Tiểu kết Chương 2....................................................................................... 96
Chương 3: GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC BẰNG PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI CÁC TỔ CHỨC HÀNH
NGHỀ CÔNG CHỨNG Ở TỈNH PHÚ YÊN HIỆN NAY............................ 97
3.1. Sự cần thiết phải tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước bằng pháp luật
đối với các tổ chức hành nghề công chứng ở tỉnh Phú Yên ....................... 97
3.1.1. Dự báo tình hình phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Phú Yên thời gian tới97
3.1.2. Dự báo tình hình phát triển tổ chức hành nghề công chứng ở tỉnh
Phú Yên trong thời gian tới..................................................................... 99
3.2. Giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước bằng pháp luật
đối với các tổ chức hành nghề công chứng ở tỉnh Phú Yên hiện nay....... 105
3.2.1. Các giải pháp chung ................................................................... 105
3.2.2. Các giải pháp cụ thể của quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với
các tổ chức hành chính nhà nước ở tỉnh Phú Yên ................................ 111
Tiểu kết Chương 3..................................................................................... 128
KẾT LUẬN.................................................................................................. 129
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 131
7. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
HNCC : Hành nghề công chứng
LCC : Luật Công chứng
PCC : Phòng công chứng
QLNN : Quản lý nhà nước
UBND : Ủy ban nhân dân
VPCC : Văn phòng công chứng
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
8. DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1: Thực trạng hoạt động các tổ chức hành nghề công chứng tại tỉnh
Phú Yên đến tháng 3/2017..............................................................................58
Bảng 3.1: Quy hoạch dự kiến thành lập tổ chức hành nghề công chứng đến
năm 2020.......................................................................................................104
9. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân, vì dân ở nước ta ngày nay, pháp luật ngày càng phát huy mạnh
mẽ vai trò điều chỉnh các quan hệ xã hội. Việc tăng cường quản lý nhà nước
bằng pháp luật đối với các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội trở thành
một trong những yêu cầu cơ bản nhằm bảo đảm ổn định trật tự kinh tế - xã
hội, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.
Điều 12 Hiến pháp năm 1992 đã quy định về vai trò của pháp luật trong
quản lý nhà nước “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”, Hiến pháp năm 2013 cũng ghi nhận
điều đó tại Khoản 1 Điều 8: “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến
pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ”. Như vậy, khi thực hiện quản lý bất kỳ lĩnh
vực xã hội cụ thể nào Nhà nước đều phải dùng pháp luật như một công cụ phổ
biến và hữu hiệu nhất. Trong quản lý lĩnh vực tư pháp nói chung và hoạt động
công chứng nói riêng lại càng phải tuân thủ theo nguyên tắc pháp trị do Hiến
pháp quy định.
Hiện nay, các quan hệ dân sự, kinh doanh thương mại, đất đai… đã phát
triển mạnh mẽ, đa dạng trên cả bề rộng và bề sâu, cả trong nước và cả với nước
ngoài. Nhiều giao dịch dân sự, thương mại đòi hỏi phải được công chứng để
tạo chứng cứ có sức thuyết phục cao, chứng thực hóa các quan hệ dân sự. Việc
công chứng được yêu cầu thực hiện một cách chính xác theo đúng pháp luật
nhưng phải nhanh chóng kịp thời, thuận tiện cho người dân. Việc xã hội hóa
hoạt động công chứng đã góp phần đáp ứng kịp thời nhu cầu công chứng các
hợp đồng, giao dịch dân sự.... Luật Công chứng được ban hành đã đánh dấu
10. 2
bước phát triển quan trọng trong tổ chức thực hiện hoạt động công chứng, các
Văn phòng công chứng bên cạnh các Phòng công chứng nhà nước thể hiện sự
thay đổi có tính bước ngoặt trong nhận thức về vai trò của Nhà nước trong
nền kinh tế thị trường và tầm quan trọng của việc khuyến khích các cá nhân,
tổ chức tham gia cung cấp những dịch vụ phục vụ yêu cầu của nhân dân. Luật
Công chứng đánh dấu bước chuyển giao chính thức một phần các hoạt động
vốn được cho là chỉ có thể do Nhà nước thực hiện sang cho các cá nhân, tổ
chức phi nhà nước với mục đích nâng cao hơn nữa chất lượng phục vụ và
thoả mãn nhu cầu ngày càng đa dạng của xã hội. Với ý nghĩa như vậy, các
quy định của Luật Công chứng phải tạo thuận lợi cho sự ra đời, hoạt động
bình đẳng, hiệu quả của các tổ chức hành nghề công chứng; tạo điều kiện để
các cơ quan nhà nước thực hiện quản lý một cách hữu hiệu các hoạt động
công chứng và là điều kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân,
tổ chức là khách hàng của các tổ chức hành nghề công chứng. Tuy nhiên, qua
10 năm thi hành, Luật Công chứng cũng bộc lộ những bất cập, hạn chế. Bên
cạnh những kết quả đạt được đã bắt đầu xuất hiện những dấu hiệu tiêu cực như
sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các tổ chức hành nghề công chứng, các
quy định của Luật và những văn bản hướng dẫn thi hành đã bộc lộ những bất
cập làm cản trở việc thực thi có hiệu quả pháp luật về công chứng trên thực tế.
Trước khi Luật Công chứng có hiệu lực pháp luật, tại tỉnh Phú Yên việc
công chứng, chứng thực do Phòng Công chứng số 1 tỉnh Phú Yên cùng với
Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện. Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức thực
hiện đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập. Luật Công chứng ra đời đã giải quyết
cơ bản những hạn chế, bất cập trong lĩnh vực công chứng, chứng thực, kịp
thời thể chế hoá chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, phù hợp với
tiến trình cải cách hành chính, cải cách tư pháp, tăng cường hoạt động tư pháp
hướng về cơ sở, đặc biệt là cụ thể hoá chủ trương xã hội hoá hoạt động bổ trợ
11. 3
tư pháp, tăng cường năng lực tiếp cận hệ thống tư pháp của nhân dân được
xác định trong Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về
“Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020”. Sau 02 năm triển khai thi hành
Luật Công chứng năm 2014, các quy định của Luật đã cơ bản đi vào thực tiễn,
cho thấy sự phù hợp với định hướng phát triển nghề công chứng ở nước ta
trong giai đoạn mới, qua đó góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững, ổn
định của hoạt động công chứng. Trên địa bàn tỉnh Phú Yên có 06 tổ chức
hành nghề công chứng. Trong đó, có 01 Phòng Công chứng số 1 tỉnh Phú Yên
(đã thành lập ngày 01/4/2007) trực thuộc Sở Tư pháp với tổng số 02 công
chứng viên, hiện đã được giải thể năm 2016; 05 Văn phòng công chứng với
tổng số 09 công chứng viên.
Thực tế này cho thấy vấn đề quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với các
tổ chức hành nghề công chứng có vai trò hết sức quan trọng trong việc đảm bảo
tuân theo pháp luật của hoạt động công chứng, chứng thực ở nước ta nói chung
và tỉnh Phú Yên nói riêng.
Với ý nghĩa đặc biệt quan trọng đặt ra trong quản lý nhà nước bằng
pháp luật đối với các tổ chức hành nghề công chứng trong giai đoạn hiện nay
về mặt lý luận, thực tiễn, xây dựng các luận cứ khoa học, trên cơ sở đó đưa ra
các giải pháp quản lý với các tổ chức hành nghề công chứng phù hợp với thực
tiễn biến động của lĩnh vực công chứng một cách hiệu quả thông qua ban
hành văn bản quản lý, tổ chức thực hiện, thanh tra kiểm tra trên thực tế tại địa
bàn tỉnh Phú Yên. Chính vì lý do trên em chọn đề tài “Quản lý nhà nước
bằng pháp luật đối với các tổ chức hành nghề công chứng tại tỉnh Phú
Yên” làm đề tài luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính.
2. Tình hình nghiên cứu
- Nghiên cứu về quản lý nhà nước bằng pháp luật nói chung, quản lý nhà
nước bằng pháp luật đối với một lĩnh vực vấn đề cụ thể: “Tăng cường quản lý nhà
12. 4
nước bằng pháp luật đối với doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay” (Luận
văn thạc sĩ của tác giả Lê Văn Trung năm 2001); “Tăng cường quản lý nhà nước
bằng pháp luật trên lĩnh vực giao thông đường bộ ở Việt Nam hiện nay” (Luận
văn thạc sĩ của tác giả Dương Quốc Hoàng năm 2005); “Quản lý nhà nước bằng
pháp luật trong lĩnh vực hải quan – qua thực tiễn Hải quan tỉnh Thừa Thiên
Huế” (Luận văn thạc sĩ của tác giả Lê Xuân Vũ năm 2012).
- Nghiên cứu về công chứng và quản lý nhà nước về công chứng ở Việt
Nam, có thể kể tới một số công trình, bài viết nghiên cứu sau: “Phân cấp
quản lý nhà nước về công chứng, chứng thực (Qua thực tiễn tại thành phố Hồ
Chí Minh)” (Luận văn thạc sĩ của tác giả Phan Hải Hồ năm 2008); “Xã hội
hóa công chứng ở Việt Nam hiện nay - một số vấn đề lý luận và thực tiễn”
(Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Quang Minh năm 2009); “Xã hội hóa
công chứng ở Việt Nam hiện nay, thực trạng và giải pháp” (Luận văn thạc sĩ
của tác giả Phạm Thị Mai Trang năm 2011); “Kiến nghị hoàn thiện Luật
Công chứng” (Bài viết của tác giả Lê Quốc Hùng đăng trên Tạp chí Nghiên
cứu Lập pháp, số 1+2 (210+211), tháng 01 năm 2012); “Hoàn thiện pháp luật
về quản lý nhà nước đối với Văn phòng công chứng” (Bài viết của tác giả
Phan Hải Hồ đăng trên tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 14 (222), tháng 7
năm 2012).
Dưới góc độ khoa học Luật Hiến pháp – Luật Hành chính, chưa có công
trình nào nghiên cứu hệ thống về hoạt động quản lý nhà nước đối với các tổ chức
hành nghề công chứng ở tỉnh Phú Yên. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài luận văn là
cần thiết, đáp ứng yêu cầu về lý luận và thực tiễn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu hoạt động xây dựng pháp luật, thi hành pháp luật
của chủ thể có thẩm quyền để điều chỉnh đối với tổ chức và hoạt động của tổ
13. 5
chức hành nghề công chứng trên địa bàn tỉnh Phú Yên thời gian qua, từ đó đề
xuất các giải pháp khả thi nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh pháp luật trong
lĩnh vực này ở Phú Yên thời gian tới.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về đối tượng: Hoạt động quản lý nhà nước ở khía cạnh: hoạt
động xây dựng pháp luật (của cơ quan có thẩm quyền), hoạt động thi hành
pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở địa phương về lĩnh vực công
chứng theo Luật Công chứng hiện hành.
- Phạm vi về không gian: Chủ yếu nghiên cứu các hoạt động quản lý
nhà nước bằng pháp luật của cơ quan có thẩm quyền (trực tiếp) đối với các tổ
chức hành nghề công chứng trên địa bàn tỉnh Phú Yên.
- Phạm vi về thời gian: Từ khi Luật Công chứng 2006 có hiệu lực đến
nay.
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
4.1. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước bằng pháp
luật đối với các tổ chức hành nghề công chứng, luận văn đề xuất các giải pháp
nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với các tổ chức hành
nghề công chứng tại tỉnh Phú Yên hiện nay.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm sáng tỏ lý luận quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với các tổ
chức hành nghề công chứng.
- Phân tích, đánh giá, vai trò quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với
các tổ chức hành nghề công chứng trên văn bản quản lý, tổ chức thực hiện,
thanh tra, kiểm tra, đánh giá tình hình quản lý nhà nước bằng pháp luật đối
với các tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn tỉnh Phú Yên;
14. 6
- Đề xuất, xây dựng phương hướng hoàn thiện và một số giải pháp hữu
hiệu về hoạt động quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với các tổ chức hành
nghề công chứng trên địa bàn tỉnh Phú Yên. Vạch ra những nguyên nhân của
những bất cập, vướng mắc trên khía cạnh thực tiễn của hoạt động quản lý
cũng như các quy định của pháp luật.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Phương pháp luận nghiên cứu đề tài là phương pháp duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của Triết học Mác – Lênin.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể được sử dụng là: phương
pháp so sánh, phương pháp đánh giá, phương pháp điều tra, phương pháp
thống kê, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, nhằm làm sáng tỏ
và nội dung nghiên cứu của đề tài.
6. Đóng góp của luận văn
Là công trình chuyên khảo đầu tiên nghiên cứu tương đối có hệ thống
và toàn diện về quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với các tổ chức hành
nghề công chứng trên địa bàn tỉnh Phú Yên. Vì thế, luận văn có một số đóng
góp khoa học mới như sau:
- Đưa ra khái niệm, chỉ ra đặc điểm, phân tích nội dung quản lý nhà nước
bằng pháp luật đối với các tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn tỉnh
Phú Yên.
- Phân tích và chỉ ra được ưu điểm, hạn chế và chỉ rõ nguyên nhân của
thực trạng quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với các tổ chức hành nghề
công chứng trên địa bàn tỉnh Phú Yên.
15. 7
- Đề xuất được hệ thống giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước
bằng pháp luật đối với các tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn tỉnh
Phú Yên trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với
tổ chức hành nghề công chứng.
Chương 2: Thực hiện pháp luật về quản lý nhà nước đối với các tổ
chức hành nghề công chứng ở tỉnh Phú Yên hiện nay.
Chương 3: Giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước
bằng pháp luật đối với các tổ chức hành nghề công chứng ở tỉnh Phú Yên
hiện nay.
16. 8
Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC BẰNG PHÁP LUẬT
ĐỐI VỚI TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ CÔNG CHỨNG
1.1. Quan niệm về tổ chức hành nghề công chứng
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm công chứng
1.1.1.1. Khái niệm công chứng
Khái niệm công chứng là vấn đề mấu chốt của hoạt động công chứng,
có vai trò lý luận cũng như thực tiễn vô cùng quan trọng, nó không những ảnh
hưởng đến mô hình tổ chức, cơ chế hoạt động mà căn cứ vào đó người ta có
thể xác định được phạm vi, nội dung, thậm chí đến quyền và nghĩa vụ của
những cá nhân, được tổ chức giao cho quyền năng thực hiện chức năng
QLNN. Cho đến nay, chúng ta đã có 6 khái niệm khác nhau về công chứng
phục vụ cho công tác QLNN về công chứng trong các văn bản quy phạm
pháp luật của nhà nước ta. Cụ thể như sau:
- Thông tư số 574/QLTPK ngày 10/10/1987 của Bộ Tư pháp hướng
dẫn công tác công chứng nhà nước quy định: “Công chứng nhà nước là một
hoạt động của nhà nước, nhằm giúp công dân, các cơ quan, tổ chức lập và
xác nhận các văn bản sự kiện có ý nghĩa pháp lý, hợp pháp hóa các văn bản,
sự kiện đó, làm cho các văn bản, sự kiện đó có hiệu lực thực hiện. Bằng hoạt
động trên, công chứng nhà nước tạo ra những đảm bảo pháp lý để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, các cơ quan, tổ chức phù hợp với
Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam,
ngăn ngừa vi phạm pháp luật, giúp cho việc giải quyết các tranh chấp được
thuận lợi, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”.
- Nghị định số 45/HĐBT của HĐBT ngày 27 tháng 2 năm 1991 về tổ
chức và hoạt động công chứng nhà nước quy định: “Công chứng là việc
17. 9
chứng nhận xác thực các hợp đồng và giấy tờ theo quy định của pháp luật,
nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và cơ quan nhà nước, tổ
chức kinh tế, tổ chức xã hội (sau đây gọi tắt là các tổ chức), góp phần phòng
ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các hợp
đồng và giấy tờ đã được công chứng có giá trị chứng cứ”.
- Nghị định số 31/CP ngày 18 tháng 5 năm 1996 của Chính phủ về tổ
chức và hoạt động công chứng nhà nước quy định: “Công chứng là việc
chứng nhận xác thực của các hợp đồng và giấy tờ theo quy định của pháp
luật, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và cơ quan nhà
nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội (sau đây gọi tắt là các tổ chức), góp
phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Các hợp đồng và giấy tờ đã được công chứng nhà nước chứng nhận hoặc Ủy
ban nhân dân cấp có thẩm quyền chứng thực có giá trị chứng cứ, trừ trường
hợp bị tòa án nhân dân tuyên bố là vô hiệu”.
- Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 8 tháng 12 năm 2000 của Chính
phủ về công chứng, chứng thực, tại Điều 2 quy định: “Công chứng là việc
Phòng công chứng chứng nhận tính xác thực của hợp đồng được giao kết
hoặc giao dịch khác được xác lập trong quan hệ dân sự, thương mại và quan
hệ xã hội khác (Sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch) và thực hiện các việc
khác theo quy định của Nghị định này”. Đáng chú ý, Nghị định này đã có sự
phân định rõ khái niệm công chứng và chứng thực, điều mà các Nghị định
trước đây chưa làm rõ được, bản chất của hành vi công chứng là:“chứng nhận
tính xác thực của hợp đồng”, còn hành vi chứng thực lại chỉ là việc “xác
nhận sao y giấy tờ, hợp đồng, giao dịch và chữ ký của cá nhân”. Như vậy,
theo quy định nêu trên, hành vi công chứng chính là việc xác lập giá trị pháp
lý cho văn bản, hợp đồng; còn hành vi chứng thực chỉ đơn thuần là việc sao
lại các văn bản, hợp đồng.
18. 10
- Luật Công chứng năm 2006 quy định: “Công chứng là việc công
chứng viên chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch
khác (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch) bằng văn bản mà theo quy định của
pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công
chứng”.
- Khoản 1, Điều 2, Luật Công chứng năm 2014 quy định: “Công chứng
là việc công chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng chứng nhận
tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn bản
(sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch), tính chính xác, hợp pháp, không trái
đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước
ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt (sau đây gọi là bản dịch) mà
theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự
nguyện yêu cầu công chứng”.
Những khái niệm về công chứng gắn liền với sự thay đổi của xã hội
nước ta. Ở các giai đoạn phát triển khác nhau thì khái niệm về công chứng rõ
ràng có những thay đổi nhất định. Sự thay đổi này thể hiện quan điểm của nhà
nước ta về công chứng cũng như trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội,
nhưng xét về bản chất và mục đích của hành vi thì vẫn không thay đổi.
Từ các quy định pháp luật trên đây, có thể hiểu: Công chứng là việc
công chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng chứng nhận tính
xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn bản (sau
đây gọi là hợp đồng, giao dịch), tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo
đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài
hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt (sau đây gọi là bản dịch) mà theo
quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện
yêu cầu công chứng.
19. 11
1.1.1.2. Đặc điểm công chứng
Thứ nhất, công chứng là hành vi do công chứng viên thực hiện.
Công chứng viên do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm, miễn nhiệm,
chịu trách nhiệm tiếp nhận hoặc lập các hợp đồng, giao dịch theo yêu cầu của
người yêu cầu công chứng đảm bảo cho các hợp đồng, giao dịch sau khi được
chứng nhận có giá trị pháp lý như một văn bản của cơ quan công quyền.
Công chứng viên PCC là công chức, viên chức nhà nước được hưởng
lương từ ngân sách nhà nước; Công chứng viên VPCC không phải là công
chức, viên chức nhà nước, lương và các khoản thu nhập khác được trích từ
nguồn thu phí công chứng, thù lao công chứng và nguồn thu hợp pháp khác từ
hợp đồng công chứng.
Thứ hai, nội dung cơ bản của công chứng là chứng nhận các hợp đồng
và lập hợp đồng, giao dịch theo yêu cầu của công dân, tổ chức và chứng nhận
các hợp đồng, giao dịch theo quy định của pháp luật.
Đây là đặc điểm quan trọng của hoạt động công chứng để phân biệt với
các hoạt động mang tính chất hành chính khác của các cơ quan công quyền.
Việc lập hợp đồng, giao dịch theo yêu cầu của người yêu cầu công chứng và
chứng nhận các hợp đồng, giao dịch theo quy định của pháp luật chính là việc
tạo nên các văn bản công chứng.
Lập hợp đồng, giao dịch theo yêu cầu của người yêu cầu công chứng là
việc công chứng viên, bằng nghiệp vụ chuyên môn của mình giúp người yêu
cầu công chứng thể hiện được ý chí, nguyện vọng của mình được thỏa thuận
bằng văn bản, không vi phạm pháp luật, không trái đạo đức xã hội; hoặc tư
vấn, góp ý để người yêu cầu công chứng thể hiện đầy đủ ý chí, nguyện vọng
của mình một cách rõ ràng, chính xác trong các văn bản họ tự lập nhằm đảm
bảo tính hợp pháp của các hợp đồng, giao dịch họ tự lập. Nói cách khác, hành
20. 12
vi của công chứng viên nhằm xác nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp
đồng hoặc các giao dịch.
Tính xác thực của các tình tiết, sự kiện trong hợp đồng, giao dịch là vô
cùng quan trọng nhằm bảo đảm cho chúng có giá trị chứng cứ. Trong pháp
luật về tố tụng, khi nói đến chứng cứ thì bao giờ cũng đề cao tính xác thực
của các sự kiện, tình tiết có thực, khách quan được coi là chứng cứ. Sở dĩ
pháp luật coi văn bản công chứng có giá trị chứng cứ cũng là do tính xác thực
của các tình tiết, sự kiện có trong văn bản đó đã được công chứng viên xác
nhận. Tính xác thực này được công chứng viên kiểm chứng và xác nhận ngay
khi nó xảy ra trong thực tế, trong số đó có những tình tiết, sự kiện chỉ xảy ra
một lần, không để lại hình dạng, dấu vết về sau (ví dụ: Sự tự nguyện của các
bên khi ký kết hợp đồng) và do đó, nếu không có công chứng viên xác nhận
thì về sau rất dễ xảy ra tranh chấp mà Toà án không thể xác minh được.
Chứng nhận các hợp đồng, giao dịch theo quy định của pháp luật là
việc công chứng viên, bằng nghiệp vụ chuyên môn của mình xác nhận tính
hợp pháp của hợp đồng, giao dịch.
Nội hàm của khái niệm công chứng là tạo lập nên một loại chứng cứ
viết, có giá trị pháp lý cao, vì các hợp đồng, giấy tờ này được chứng nhận tính
xác thực của nó do những người có thẩm quyền công chứng, chứng nhận nên
nó mang dấu ấn của công quyền và trở thành “công chứng thư”. Về ngoại
diên của khái niệm công chứng bao hàm các loại giấy tờ, hợp đồng mà theo
quy định của pháp luật bắt buộc phải được công chứng, hoặc cá nhân tổ chức
tự nguyện công chứng để những giấy tờ này trở thành một chứng cứ có tính
pháp lý.
Thứ ba, văn bản công chứng có giá trị chứng cứ và giá trị thực hiện.
Văn bản công chứng do công chứng viên lập theo trình tự, thể thức bắt
buộc, ghi lại chính xác thời gian, không gian, ý chí, nguyện vọng cũng như
21. 13
năng lực chủ thể của các bên khi tham gia giao kết hợp đồng, giao dịch. Văn
bản công chứng trước hết nhằm tạo lập giá trị thực hiện giữa các bên tham gia
giao dịch, hợp đồng bằng việc ràng buộc quyền và nghĩa vụ giữa các bên, là
căn cứ pháp lý không thể bác bỏ buộc các bên phải thực hiện đúng các cam
kết đã xác lập, đồng thời có giá trị pháp lý cả với bên thứ ba.
Thứ tư, Nhà nước thực hiện sự quản lý bằng pháp luật đối với tổ
chức và hoạt động công chứng
Hoạt động công chứng là hoạt động mang tính dịch vụ công. Công
chứng là một biện pháp phòng ngừa tranh chấp, giúp công dân, tổ chức thực
hiện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình bằng pháp luật. Hoạt động
công chứng là hoạt động bổ trợ tư pháp, cung cấp chứng cứ cho hợp đồng tư
pháp nhưng hoàn toàn khác với hoạt động của các cơ quan tư pháp.
Trước đây, công chứng ở Việt Nam hoàn toàn do các cơ quan nhà nước
thực hiện, mang tính quyền lực nhà nước. Sau khi Luật Công chứng năm
2006 có hiệu lực, tổ chức HNCC gồm PCC (do UBND cấp tỉnh thành lập,
trực thuộc Sở Tư pháp, có trụ sở và con dấu riêng) và VPCC (do công chứng
viên thành lập, hoạt động theo quy định của Luật Doanh nghiệp). Cả 2 loại
hình này đều đặt dưới sự quản lý của nhà nước bằng pháp luật.
Như vậy, từ các phân tích trên, khái niệm công chứng có các nội dung
cấu thành như: công chứng viên, tổ chức HNCC và hoạt động công chứng.
1.1.2. Khái niệm và phân loại tổ chức hành nghề công chứng
1.1.2.1. Khái niệm tổ chức hành nghề công chứng
Luật Công chứng được ban hành đã đánh dấu bước phát triển quan
trọng trong tổ chức thực hiện hoạt động công chứng ở Việt Nam. Sự ra đời
của các VPCC bên cạnh các PCC nhà nước thể hiện sự thay đổi có tính bước
ngoặt trong nhận thức về vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường và
tầm quan trọng của việc khuyến khích các cá nhân, tổ chức tham gia cung cấp
22. 14
những dịch vụ phục vụ yêu cầu của nhân dân. Luật Công chứng đánh dấu
bước chuyển giao chính thức một phần các hoạt động vốn được cho là chỉ có
thể do Nhà nước thực hiện sang cho các cá nhân, tổ chức phi nhà nước với
mục đích nâng cao hơn nữa chất lượng phục vụ và thoả mãn nhu cầu ngày
càng đa dạng của xã hội.
Tiêu chí Quy hoạch phát triển tổ chức HNCC ở Việt Nam đến năm
2020 được ban hành làm cơ sở cho các địa phương xây dựng Quy hoạch phát
triển tổ chức HNCC của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đến năm
2020 bảo đảm đúng mục tiêu đặt ra tại Quyết định số 250/QĐ-TTg ngày 10
tháng 02 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Xây dựng
quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng ở Việt Nam đến
năm 2020” để tổng hợp, xây dựng và phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển
tổ chức hành nghề công chứng ở Việt Nam đến năm 2020.
Tổ chức HNCC được quy định tại Khoản 5 Điều 2 LCC năm 2014 bao
gồm: PCC là đơn vị sự nghiệp thuộc Sở Tư pháp do UBND cấp tỉnh quyết
định việc thành lập; VPCC là tổ chức hành nghề công chứng do công chứng
viên thành lập. Quyền và nghĩa vụ của các tổ chức HNCC được pháp luật quy
định chung không có sự phân biệt giữa PCC và VPCC. Quy định này bảo
đảm sự bình đẳng của các tổ chức HNCC trong hoạt động công chứng và
trong quản lý nhà nước về công chứng.
1.1.2.2. Phân loại tổ chức hành nghề công chứng
Qua các quy định của pháp luật công chứng về tổ chức HNCC, có thể
thấy được điểm khác biệt cơ bản giữa hai hình thức tổ chức HNCC đó là:
PCC do Nhà nước thành lập, công chứng viên và một số nhân viên là viên
chức nhà nước, Nhà nước đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc cho
PCC nếu không tự trang trải được. Còn VPCC do công chứng viên thành lập,
tự đăng ký hoạt động, tự đầu tư cở sở vật chất, trụ sở làm việc, tự trang trải trả
23. 15
lương cho công chứng viên, nhân viên phục vụ, phải mua bảo hiểm trách
nhiệm cho công chứng viên và nộp thuế theo quy định của pháp luật. VPCC
còn có nghĩa vụ mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên
của tổ chức mình.
a) Phòng công chứng
- Khái niệm Phòng công chứng
Cơ quan hoạt động công chứng chuyên trách của nước ta theo Nghị
định 75/2000 NĐ-CP (8/12/2000) có tên gọi là Phòng công chứng, thay cho
tên gọi Phòng Công chứng nhà nước trước đây. Khác với các cơ quan có thẩm
quyền công chứng khác, PCC là cơ quan duy nhất chuyên trách về hoạt động
công chứng. Về địa vị pháp lý tuy được đặt dưới sự quản lý của Giám đốc Sở
Tư pháp nhưng PCC khác hẳn với các phòng chuyên môn nghiệp vụ của Sở
Tư pháp ở những điểm quan trọng như sau: PCC có tư cách pháp nhân, có tài
khoản riêng, có con dấu riêng theo quy định của Chính phủ.
Với vị trí như vậy, PCC là cơ quan độc lập và được Nhà nước giao cho
việc thực hiện chức năng công chứng. Thông qua hoạt động công chứng, các
quy định hướng dẫn, điều chỉnh pháp luật trở thành hiện thực sinh động của
đời sống xã hội, thành hành vi xử sự theo đúng pháp luật. Trong hệ thống bộ
máy của Nhà nước thì PCC là cơ quan nhà nước, thực hiện chức năng nhiệm
vụ nhà nước là chứng nhận các việc công chứng theo quy định của pháp luật
hoặc theo yêu cầu của công dân, tổ chức.
- Đặc điểm của Phòng công chứng
Tuy hoạt động độc lập, song xuất phát từ công tác quản lý, cơ quan
công chứng có những nét riêng, thể hiện tính độc lập tương đối: Theo Điều 19
LCC 2014 quy định: “Phòng công chứng do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết
định thành lập; là đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Sở Tư pháp, có trụ sở, con
dấu và tài khoản riêng”. PCC là đơn vị sự nghiệp công lập. Chủ tịch UBND ra
24. 16
quyết định thành lập PCC trên cơ sở đề nghị của Giám đốc Sở Tư pháp; trong
một tỉnh, thành phố có thể có nhiều PCC, các PCC độc lập với nhau trong
hoạt động và có thẩm quyền địa hạt riêng. Là cơ quan đặt dưới sự quản lý của
Giám đốc Sở Tư pháp nhưng PCC khác các phòng chuyên môn của Sở Tư
pháp ở chỗ PCC không phải là cơ quan tham mưu giúp việc cho Sở Tư pháp.
Đối với việc thành lập PCC do UBND tỉnh quyết định thành lập theo
quy định tại Điều 20 LCC năm 2014: “Căn cứ vào nhu cầu công chứng tại
địa phương, Sở Tư pháp chủ trì phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài
chính, Sở Nội vụ xây dựng đề án thành lập PCC trình UBND cấp tỉnh xem
xét, quyết định”.
Nhân sự PCC gồm các công chức, viên chức hưởng chế độ lương theo
đơn vị sự nghiệp công lập và Trưởng phòng PCC do Chủ tịch UBND cấp tỉnh
bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.
Khi thực hiện các giao dịch tại PCC, tổ chức công dân phải đóng phí
công chứng. Theo Điều 66 LCC năm 2014 quy định: Phí công chứng bao
gồm phí công chứng hợp đồng, giao dịch, bản dịch, phí lưu giữ di chúc, phí
cấp bản sao văn bản công chứng. Người yêu cầu công chứng hợp đồng, giao
dịch, bản dịch, lưu giữ di chúc, cấp bản sao văn bản công chứng phải nộp phí
công chứng.
Mức thu, chế độ thu, nộp, sử dụng và quản lý phí công chứng được
thực hiện theo quy định của pháp luật hướng dẫn tại Thông tư số
257/2016/TT-BTC của Bộ tài chính ngày 11/10/2016.
Quản lý, sử dụng phí công chứng: công chứng thu phí được trích 50%
số tiền phí thu được để trang trải chi phí cho việc quản lý và thu phí theo chế
độ quy định. Nộp vào ngân sách nhà nước 50% tiền phí thu được theo
chương, loại, khoản, mục của mục lục ngân sách nhà nước hiện hành.
25. 17
b) Văn phòng công chứng
- Khái niệm Văn phòng công chứng
Tại Việt Nam VPCC chỉ xuất hiện sau khi Luật Công chứng năm 2006
có hiệu lực pháp luật. Đây là lần đầu tiên Việt Nam thừa nhận một mô hình
VPCC, tồn tại song song bên cạnh PCC, là một trong hai hình thức tổ chức
HNCC được quy định tại Điều 18 Luật Công chứng năm 2014.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 22 LCC năm 2014: “Văn phòng công
chứng được tổ chức và hoạt động như một loại hình công ty hợp danh theo
quy định của Luật doanh nghiệp...”.
- Đặc điểm của Văn phòng công chứng
Theo quy định tại Điều 22 LCC năm 2014, VPCC là tổ chức dịch vụ
công, VPCC được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật này và các
văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan đối với loại hình công ty hợp
danh. VPCC phải có từ hai công chứng viên hợp danh trở lên. VPCC không
có thành viên góp vốn. Người đại diện theo pháp luật của VPCC là Trưởng
Văn phòng. Trưởng VPCC phải là công chứng viên hợp danh của VPCC và
đã hành nghề công chứng từ 02 năm trở lên. Tên gọi của VPCC phải bao gồm
cụm từ “Văn phòng công chứng” kèm theo họ tên của Trưởng Văn phòng
hoặc họ tên của một công chứng viên hợp danh khác của VPCC do các công
chứng viên hợp danh thỏa thuận, không được trùng hoặc gây nhầm lẫn với tên
của tổ chức HNCC khác, không được vi phạm truyền thống lịch sử, văn hóa,
đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc. VPCC phải có trụ sở đáp ứng các
điều kiện do Chính phủ quy định. VPCC có con dấu và tài khoản riêng, hoạt
động theo nguyên tắc tự chủ về tài chính bằng nguồn thu từ phí công chứng,
thù lao công chứng và các nguồn thu hợp pháp khác. VPCC sử dụng con dấu
không có hình quốc huy. VPCC được khắc và sử dụng con dấu sau khi có
26. 18
quyết định cho phép thành lập. Thủ tục, hồ sơ xin khắc dấu, việc quản lý, sử
dụng con dấu của VPCC được thực hiện theo quy định pháp luật về con dấu.
Việc xác định VPCC hoạt động theo loại hình Công ty Hợp danh nhằm
mục đích chính là xác định về thuế, thuê lao động, kế toán, thống kê,… Các
quyền và nghĩa vụ của VPCC được quy định trong LCC và các văn bản quy
phạm pháp luật có liên quan.
Hoạt động của VPCC vừa mang tính công quyền (nhân danh nhà nước
vì lợi ích Nhà nước), vừa mang tích chất dịch vụ công (nhằm mục đích phục
vụ ngày càng tốt hơn cho lợi ích của các tổ chức, cá nhân có nhu cầu công
chứng, trên cơ sở phù hợp với lợi ích của toàn xã hội).
VPCC hoạt động theo nguyên tắc tự chủ về tài chính bằng nguồn thu
kinh phí đóng góp của công chứng viên, phí công chứng, thù lao công chứng
và các nguồn thu hợp pháp khác, bao gồm:
+ Kinh phí đóng góp của công chứng viên: Theo Luật Doanh nghiệp
+ Phí công chứng: Phí công chứng bao gồm phí công chứng hợp đồng,
giao dịch, phí lưu giữ di chúc, phí cấp bản sao văn bản công chứng. Mức thu
phí công chứng được áp dụng thống nhất đối với PCC và VPCC. Bộ Tài
chính chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp quy định mức thu, chế độ quản lý, sử
dụng phí công chứng.
+ Thù lao công chứng: Là khoản tiền do VPCC thu từ việc soạn thảo
hợp đồng, giao dịch, đánh máy, sao chụp và các việc khác liên quan đến công
việc công chứng theo yêu cầu của người yêu cầu công chứng. Mức thù lao đối
với từng loại việc do tổ chức HNCC xác định.
+ Các nguồn thu khác: Là khoản tiền do VPCC thu từ việc người yêu
cầu công chứng đề nghị xác minh, giám định hoặc thực hiện công chứng
ngoài trụ sở của VPCC. Mức chi phí này do người yêu cầu công chứng và tổ
chức HNCC thoả thuận.
27. 19
1.2. Lý luận về quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với các tổ chức hành
nghề công chứng
1.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước bằng pháp luật
QLNN bằng pháp luật đối với mọi mặt của đời sống xã hội được hiểu
là sự tác động của chủ thể quản lý (Nhà nước) lên đối tượng quản lý (các quá
trình xã hội, các hành vi của con người) nhằm đạt mục tiêu của quản lý thông
qua hệ thống pháp luật do Nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện trong
cuộc sống.
Pháp luật có vị trí đặc biệt quan trọng trong QLNN. Mặc dù Nhà nước
thực hiện các chức năng và nhiệm vụ quản lý của mình thông qua nhiều
phương tiện, công cụ quản lý khác nhau, nhưng trong đó pháp luật luôn là
công cụ quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết định đối với hiệu lực, hiệu quả của
hoạt động QLNN.
Trong giai đoạn cách mạng tư sản, sự ra đời và phát triển của lý thuyết
về nhà nước pháp quyền cũng khẳng định, trong hoạt động của nhà nước,
pháp luật có vị trí thượng tôn và nhà nước phải thực hiện việc quản lý xã hội
bằng pháp luật.
Đối với nhà nước ta, tư tưởng Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật
tuy được nhận thức muộn, song có thể nói, đó là đường lối đúng đắn của
Đảng và Nhà nước ta trong lý luận và thực tiễn xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Ngay từ Đại hội toàn quốc
lần thứ VI, khi quyết định xoá bỏ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung để
chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Đảng ta chỉ rõ:
“Quản lý đất nước bằng pháp luật, chứ không phải bằng đạo lý. Pháp luật là
thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng, thể hiện ý chí của nhân dân,
phải được thực hiện thống nhất trong cả nước”. Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng nêu: “Nhà nước ta phải
28. 20
có đủ quyền lực và đủ khả năng định ra luật pháp và tổ chức, quản lý mọi mặt
đời sống xã hội bằng pháp luật”. Như vậy, QLNN bằng pháp luật là một yêu
cầu, đòi hỏi đối với nhà nước. Thể chế hoá đường lối của Đảng về việc quản
lý đất nước bằng pháp luật, Điều 12 Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm
2013 cũng ghi nhận điều đó tại Khoản 1 Điều 8: “Nhà nước được tổ chức và
hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và
pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ”.
Trong nhà nước pháp quyền XHCN hiện nay, vai trò của pháp luật
trong việc QLNN được đảm bảo bởi các yếu tố sau:
- Pháp luật của Nhà nước là pháp luật XHCN, thể hiện ý chí và nguyện
vọng của đông đảo nhân dân lao động, cho nên dễ được mọi người tôn trọng
và thực hiện. Đây là một ưu thế quan trọng của công cụ pháp luật trong quản
lý kinh tế - xã hội ở nước ta.
- Pháp luật là công cụ do Nhà nước ban hành và tổ chức thực hiện bằng
sức mạnh cưỡng chế của bộ máy nhà nước nên hiệu lực của nó vô cùng mạnh
mẽ, tác động to lớn đến mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội.
- Pháp luật ở nước ta có quan hệ mật thiết với đường lối, chủ trương
của Đảng, theo đó, phương hướng, nội dung và việc tổ chức thực hiện pháp
luật được sự chỉ đạo quan trọng của Đảng. Đồng thời, nhờ đó, đường lối của
Đảng được triển khai một cách nhanh chóng, cụ thể và tiến hành trên quy mô
rộng lớn nhất. Thực tiễn pháp lý là môi trường để kiểm nghiệm tính đúng đắn
và hiệu quả thực hiện các đường lối, chính sách và quan điểm của Đảng.
- Điều quan trọng để pháp luật được coi là công cụ hàng đầu trong
QLNN về kinh tế - xã hội không chỉ ở những đặc tính ưu việt của nó mà còn
ở chỗ, pháp luật là công cụ chuyển tải và pháp lý hoá nội dung của các công
cụ khác vào thực tiễn QLNN. Các công cụ khác như kế hoạch, cơ chế, chính
sách, các nguồn lực của khu vực kinh tế nhà nước, các công cụ đòn bẩy kinh
29. 21
tế, nếu không được chuyển hoá bằng một hình thức pháp luật nhất định thì
hiệu lực và hiệu quả của việc thực hiện chúng sẽ không đảm bảo, thậm chí
không thể tiến hành được. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong một nhà
nước pháp quyền, ở đó yêu cầu quan trọng hàng đầu là Nhà nước quản lý mọi
mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, thông qua pháp luật.
Tóm lại, QLNN bằng pháp luật là hoạt động quản lý của nhà nước,
sử dụng công cụ quản lý riêng có của nhà nước là pháp luật (thông qua các
hoạt động xây dựng luật pháp, tổ chức thực hiện và bảo vệ pháp luật) để
thực hiện sự tác động điều chỉnh mang tính quyền lực nhà nước lên các quá
trình xã hội và hành vi của con người nhằm tăng cường pháp chế, thiết lập
một trật tự các quan hệ xã hội trong khuôn khổ luật pháp, thực hiện mục
tiêu xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong điều kiện
hiện nay, đây còn là một yêu cầu tất yếu khách quan thể hiện đặc trưng cơ
bản trong nội dung hoạt động quản lý đất nước của nhà nước pháp quyền
XHCN của dân, do dân và vì dân.
1.2.2. Khái niệm quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với các tổ chức hành
nghề công chứng
Điều 12 Hiến pháp cũ năm 1992 đã quy định về vai trò của pháp luật
trong quản lý nhà nước “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và không
ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”, Hiến pháp năm 2013 cũng ghi
nhận điều đó tại Khoản 1 Điều 8: “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo
Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực
hiện nguyên tắc tập trung dân chủ”.
QLNN bằng pháp luật là hoạt động quản lý của nhà nước, sử dụng công
cụ quản lý riêng của nhà nước là pháp luật (thông qua các hoạt động xây dựng
luật pháp, tổ chức thực hiện và bảo vệ pháp luật) để thực hiện sự tác động
điều chỉnh mang tính quyền lực nhà nước lên các quá trình xã hội và hành vi
30. 22
của con người nhằm tăng cường pháp chế, thiết lập một trật tự các quan hệ xã
hội trong khuôn khổ luật pháp, thực hiện mục tiêu xây dựng một xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh. Trong điều kiện hiện nay, đây còn là một yêu cầu tất
yếu khách quan thể hiện đặc trưng cơ bản trong nội dung hoạt động quản lý
đất nước của nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân.
Tổ chức HNCC bao gồm: PCC là đơn vị sự nghiệp thuộc Sở Tư pháp
do UBND cấp tỉnh quyết định việc thành lập; VPCC là tổ chức HNCC do
công chứng viên thành lập. Quyền và nghĩa vụ của các tổ chức HNCC được
pháp luật quy định chung không có sự phân biệt giữa PCC và VPCC. Quy
định này bảo đảm sự bình đẳng của các tổ chức HNCC trong hoạt động công
chứng và trong quản lý nhà nước về công chứng.
Từ các khái niệm về tổ chức HNCC và QLNN bằng pháp luật, có thể hiểu
QLNN bằng pháp luật đối với các tổ chức HNCC là việc nhà nước dùng các
biện pháp, công cụ pháp luật có được tác động vào lĩnh vực công chứng để hệ
thống các tổ chức HNCC hoạt động đúng định hướng, mục tiêu mà Nhà nước
mong muốn.
1.2.3. Đặc điểm của quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với các tổ chức
hành nghề công chứng
Một là, chủ thể quản lý – chủ yếu bởi các cơ quan hành chính nhà
nước
Theo quy định tại Điều 69 và Điều 70 Luật Công chứng năm 2014, hệ
thống các cơ quan QLNN về công chứng bao gồm:
a) Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính
cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Nhiệm vụ và quyền hạn của
Chính phủ theo Hiến pháp và Luật Tổ chức Chính phủ.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 69 LCC năm 2014: “Chính phủ thống
nhất quản lý nhà nước về công chứng”
31. 23
- Chính phủ chỉ đạo hoạt động quản lý công chứng đối với Bộ, cơ quan
ngang bộ và UBND cấp tỉnh;
- Đôn đốc, kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật về công chứng;
- Ban hành các văn bản pháp luật thuộc thẩm quyền làm cơ sở cho hoạt
động quản lý công chứng;…
b) Bộ Tư pháp là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng QLNN
về công tác xây dựng và thi hành pháp luật, kiểm tra văn bản quy phạm pháp
luật, kiểm soát thủ tục hành chính, phổ biến, giáo dục pháp luật; QLNN về thi
hành án dân sự, thi hành án hành chính, hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp,
bồi thường nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính và thi hành án và
các công tác tư pháp khác trong phạm vi cả nước; quản lý công tác thi hành
pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; QLNN các dịch vụ công trong các
lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 69 LCC năm 2014:
“Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
trong việc thực hiện QLNN về công chứng, có các nhiệm vụ, quyền hạn sau:
- Ban hành hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn
bản quy phạm pháp luật về công chứng;
- Xây dựng, trình Chính phủ ban hành chính sách phát triển nghề công
chứng, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy hoạch tổng thể phát triển tổ
chức HNCC trong cả nước;
- Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan hướng dẫn, triển
khai, quản lý việc thực hiện Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề
công chứng trong cả nước;
- Tuyên truyền, phổ biến pháp luật về công chứng, chính sách phát triển
nghề công chứng;
- Bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm công chứng viên;
32. 24
- Phê duyệt Điều lệ của tổ chức xã hội - nghề nghiệp toàn quốc của
công chứng viên sau khi thống nhất ý kiến với Bộ Nội vụ; đình chỉ thi hành
và yêu cầu sửa đổi những văn bản, quy định của tổ chức xã hội - nghề nghiệp
của công chứng viên trái với quy định của Hiến pháp, Luật này và các văn
bản quy phạm pháp luật khác có liên quan;
- Kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo về hoạt
động công chứng theo thẩm quyền;
- Định kỳ hằng năm báo cáo Chính phủ về hoạt động công chứng;
- Quản lý và thực hiện hợp tác quốc tế về hoạt động công chứng;
- Các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của Luật Công chứng và
các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan.”
c) UBND do Hội đồng nhân dân bầu là cơ quan chấp hành của Hội
đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm
trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và cơ quan nhà nước cấp trên.
UBND chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ
quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp nhằm
bảo đảm thực hiện chủ trương, biện pháp phát triển kinh tế - xã hội, củng cố
quốc phòng, an ninh và thực hiện các chính sách khác trên địa bàn.
UBND thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương, góp phần
bảo đảm sự chỉ đạo, quản lý thống nhất trong bộ máy hành chính nhà nước từ
trung ương tới cơ sở.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 70 LCC năm 2014:
“UBND cấp tỉnh thực hiện việc QLNN về công chứng tại địa phương
và có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
- Tổ chức thi hành, tuyên truyền, phổ biến pháp luật về công chứng,
chính sách phát triển nghề công chứng;
33. 25
- Thực hiện các biện pháp phát triển tổ chức HNCC trên địa bàn phù
hợp với Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức HNCC đã được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt;
- Quyết định thành lập PCC, bảo đảm cơ sở vật chất và phương tiện
làm việc cho các PCC; quyết định việc giải thể hoặc chuyển đổi PCC theo
quy định của Luật này;
- Ban hành tiêu chí xét duyệt hồ sơ đề nghị thành lập Văn phòng công
chứng; quyết định cho phép thành lập, thay đổi và thu hồi quyết định cho
phép thành lập Văn phòng công chứng, cho phép chuyển nhượng, hợp nhất,
sáp nhập Văn phòng công chứng;
- Ban hành mức trần thù lao công chứng tại địa phương;
- Kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm và giải quyết khiếu nại, tố cáo về
công chứng theo thẩm quyền; phối hợp với Bộ Tư pháp trong công tác kiểm
tra, thanh tra về công chứng;
- Báo cáo Bộ Tư pháp về việc thành lập, chuyển đổi, giải thể PCC; cho
phép thành lập, hợp nhất, sáp nhập, chuyển nhượng VPCC trên địa bàn. Định
kỳ hằng năm báo cáo Bộ Tư pháp về hoạt động công chứng tại địa phương để
tổng hợp báo cáo Chính phủ;
Các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của Luật Công chứng và
các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan.”
d) Sở Tư pháp là cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh thực hiện
chức năng tham mưu, giúp UBND cấp tỉnh QLNN về: công tác xây dựng và
thi hành pháp luật; theo dõi thi hành pháp luật; kiểm tra, xử lý văn bản quy
phạm pháp luật; kiểm soát thủ tục hành chính; pháp chế; phổ biến, giáo dục
pháp luật; hòa giải ở cơ sở; hộ tịch; quốc tịch; chứng thực; nuôi con nuôi; lý
lịch tư pháp; bồi thường nhà nước; trợ giúp pháp lý; luật sư; tư vấn pháp luật;
công chứng; giám định tư pháp; bán đấu giá tài sản; trọng tài thương mại;
34. 26
quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và công tác
tư pháp khác theo quy định của pháp luật.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 70 LCC năm 2014:
“Sở Tư pháp chịu trách nhiệm giúp UBND cấp tỉnh thực hiện QLNN
về công chứng tại địa phương, thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn quy định
tại Luật Công chứng và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan”.
Với tư cách là chủ thể quản lý mang tính công quyền, Nhà nước có các
chức năng quản lý cơ bản sau:
Thứ nhất, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho tổ chức và hoạt động
công chứng:
Cần đẩy mạnh, đổi mới công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về công
chứng, chứng thực để nâng cao nhận thức, hiểu biết của cán bộ, công chức,
viên chức và các tầng lớp nhân dân về tính chất, vị trí, vai trò, lợi ích thiết
thực của hoạt động công chứng.
Có chính sách hỗ trợ kinh phí khuyến khích các sinh viên tốt nghiệp cử
nhân luật tiếp tục học nghiệp vụ công chứng và tập sự hành nghề công chứng
vừa giải quyết việc làm vừa đảm bảo phát triển đội ngũ công chứng đáp ứng
theo lộ trình và theo địa bàn quy hoạch phát triển tổ chức HNCC đã duyệt.
Xây dựng các chính sách đồng bộ, thống nhất giữa các lĩnh vực, giữa
Trung ương và địa phương đối với lĩnh vực công chứng. Cần nghiên cứu sửa
đổi Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Nghị định số 23/2015/NĐ-CP về cấp bản sao từ
bản gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực
hợp đồng, giao dịch và các văn bản pháp luật liên quan theo hướng không
giao cho UBND cấp xã chứng thực các hợp đồng, giao dịch mà giao cho các
PCC, VPCC thực hiện công chứng tất cả các hợp đồng, giao dịch.
35. 27
Thứ hai, định hướng sự phát triển của các tổ chức HNCC:
Để đảm bảo thực hiện Quy hoạch phát triển tổ chức HNCC theo lộ
trình đến năm 2020, các cấp, ngành cần tập trung đẩy mạnh thực hiện các giải
pháp đã nêu trong Quy hoạch phát triển tổ chức HNCC, trong đó cần chú
trọng thực hiện các giải pháp sau:
UBND, Sở Tư pháp các tỉnh cần có quy hoạch phát triển tổ chức
HNCC hợp lý với điều kiện của đất nước cũng như từng địa phương hiện nay.
Trong đó phải chú trọng phát triển đồng đều các tổ chức HNCC tại các vùng
miền. Tránh tình trạng ở những địa bàn trung tâm thì phát triển nóng, ồ ạt, còn
các vùng sâu vùng xa thì lại thiếu vắng gây khó khăn cho người dân.
Thứ ba, kiểm tra, kiểm soát tổ chức và hoạt động công chứng:
Bộ Tư pháp tham mưu Chính phủ hoặc tự mình ban hành kịp thời, chất
lượng, đúng quy định các văn bản hướng dẫn thi hành LCC năm 2014; phối
hợp với các bộ, ngành liên quan trong việc hướng dẫn thi hành các quy định
pháp luật liên quan đến lĩnh vực công chứng. Theo dõi tình hình thực hiện
pháp luật công chứng trong cả nước, phát hiện những bất cập, vướng mắc,
hướng dẫn, giải đáp hoặc tham mưu, kiến nghị các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp. Sở Tư pháp tăng cường công
tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm tại các tổ chức HNCC, đặc biệt là xử
phạt nghiêm các hành vi vi phạm của công chứng viên, bảo đảm việc thực
hiện pháp luật công chứng luôn đúng đắn và chính xác.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của UBND cấp tỉnh, thành phố
trung ương, Sở Tư pháp và Hội công chứng đối với hoạt động của các tổ chức
HNCC. Đồng thời, xử lý kỷ luật nghiêm minh đối với đảng viên, cán bộ, công
chức, viên chức, công chứng viên có hành vi vi phạm. Việc vi phạm ngoài
việc xử phạt theo quy định thì phải đưa lên mạng quản lý hệ thống công
chứng, ghi rõ tên tổ chức HNCC, công chứng viên vi phạm để có tính chất răn
36. 28
đe các tổ chức HNCC khác. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo trong công tác
phòng ngừa vi phạm để công chức, viên chức, công chứng viên thấy được ý
nghĩa, tầm quan trọng, tính cấp thiết của công tác phòng chống vi phạm.
Thành lập các đoàn kiểm tra liên ngành để kiểm tra việc chấp hành
pháp luật công chứng, pháp luật thuế, pháp luật lao động tại các tổ chức
HNCC. Ngoài ra, UBND các tỉnh, Sở Tư pháp thường xuyên tiến hành kiểm
tra đột xuất để kịp thời phát hiện các trường hợp công chứng viên, tổ chức
HNCC vi phạm các quy định của pháp luật. Sở Tư pháp tổ chức tốt các công
tác tiếp công dân, giải quyết và trả lời bằng văn bản đối với các trường hợp
khiếu nại, tố cáo liên quan đến công chứng và tổ chức HNCC. Qua thanh tra,
kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, Sở Tư pháp tổ chức tổng kết rút kinh
nghiệm, thông báo rộng rãi đến các công chứng viên, các tổ chức HNCC khác
để hạn chế mắc phải.
Hai là, đối tượng quản lý – là các tổ chức HNCC
Hoạt động công chứng có những đặc thù sau:
- Hoạt động công chứng là hoạt động mang tính chuyên môn nghề
nghiệp của công chứng viên: Các PCC, VPCC thực hiện hoạt động công
chứng bằng kiến thức chuyên môn nghề nghiệp của các công chứng viên là
những người do Nhà nước bổ nhiệm với đầy đủ các điều kiện, tiêu chuẩn quy
định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người yêu cầu công chứng.
Các công chứng viên thông qua các thao tác nghề nghiệp của mình, giúp
khách hàng thể hiện ý chí, nguyện vọng, thỏa thuận bằng văn bản, đảm bảo
cho ý chí của họ phù hợp với pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Đồng thời,
công chứng viên còn kiểm tra, tư vấn góp ý để khách hàng có thể thể hiện
được đầy đủ ý chí, nguyện vọng của chính họ một cách chính xác rõ ràng nhất
trong các văn bản công chứng.
37. 29
- Văn bản công chứng có giá trị thực hiện và giá trị chứng cứ:
Văn bản công chứng là văn bản do công chứng viên lập theo trình tự,
thể thức bắt buộc, ghi lại một cách chính xác ngày, tháng, năm, địa điểm giao
kết và ý chí, nguyện vọng của các bên khi tham gia hợp đồng giao dịch.
- Hoạt động công chứng chịu sự quản lý của Nhà nước: Để tăng cường
công tác QLNN về công chứng, LCC phân định rõ nhiệm vụ quyền hạn của
các cơ quan trong quản lý về tổ chức và hoạt động công chứng, theo hướng
tăng cường vai trò của UBND cấp tỉnh đối với việc phát triển và quản lý hệ
thống tổ chức HNCC ở địa phương mình, đồng thời bảo đảm tính thống nhất
trong việc QLNN về công chứng trên phạm vi toàn quốc, đảm bảo các tổ chức
HNCC hoạt động trong khuôn khổ các quy định của pháp luật, phát huy được
vai trò, tầm quan trọng của công chứng trong đời sống xã hội.
Ba là, thể hiện sự đề cao vai trò của công cụ pháp luật trong hệ
thống các công cụ, phương tiện Nhà nước sử dụng để quản lý xã hội
Công chứng có vai trò rất lớn đối với đời sống xã hội và phát triển kinh
tế. Công chứng là một hoạt động quan trọng, một thể chế không thể thiếu
được của Nhà nước pháp quyền. Thông qua hoạt động công chứng và các quy
định hướng dẫn, điều chỉnh pháp luật trở thành hiện thực sinh động của đời
sống xã hội, thành hành vi sử xự theo đúng pháp luật.
Do đó, xét trên bình diện công dân thì văn bản công chứng là một công
cụ hữu hiệu bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ, phòng ngừa tranh chấp,
tạo ra sự ổn định của quan hệ giao dịch dân sự, tài sản, bảo đảm trật tự, kỷ
cương. Mặt khác, về phương diện Nhà nước thì văn bản công chứng tạo ra
một bằng chứng xác thực, kịp thời không ai có thể phản bác, chối cãi, trừ
trường hợp có ý kiến của người thứ ba và quá trình tố tụng cho là không đúng.
Về giá trị pháp lý, văn bản công chứng có hiệu lực thi hành đối với các
bên liên quan, trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ
38. 30
của mình thì bên kia có quyền yêu cầu Toà án giải quyết theo quy định của
pháp luật, trừ trường hợp các bên tham gia hợp đồng có thoả thuận khác. Văn
bản công chứng có giá trị chứng cứ; những tình tiết, sự kiện trong văn bản
công chứng không phải phải chứng minh, trừ trường hợp bị Toà án tuyên bố
là vô hiệu.
Trong phát triển kinh tế, các văn bản pháp lý được công chứng tạo điều
kiện thuận lợi hơn cho cá nhân, tổ chức tiện lợi trong giao dịch hơn. Đồng
thời, đây là cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp khi buộc các bên tham gia
giao dịch phải xác nhận tính xác thực của hợp đồng, cũng như địa vị, trách
nhiệm pháp lý trong tham gia giao dịch. Vì vậy, việc bắt buộc công chứng các
loại hợp đồng trong giao dịch liên quan đến kinh tế sẽ tránh được nhiều rắc
rối, kiện cáo phát sinh.
Bốn là, mục tiêu của quản lý – nhằm thực hiện mục tiêu xã hội hóa
hoạt động công chứng theo chiến lược Cải cách tư pháp
Song song với việc xã hội hóa thì cần có sự QLNN bằng pháp luật đối với
các tổ chức HNCC là việc nhà nước dùng các biện pháp, công cụ pháp luật có
được tác động vào lĩnh vực công chứng để hệ thống các tổ chức HNCC hoạt
động đúng định hướng, mục tiêu mà Nhà nước mong muốn theo mục tiêu của
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 là “xây dựng nền tư pháp trong sạch,
vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ
nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam XHCN; hoạt động tư pháp mà trọng tâm
là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao”.
1.2.4. Vai trò của quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với các tổ chức hành
nghề công chứng
1.2.4.1. QLNN bằng pháp luật đối với các tổ chức HNCC nhằm đảm bảo sự
ổn định và phát triển của các tổ chức HNCC theo hướng xã hội hóa
39. 31
Với vai trò, chức năng và vị trí đặc biệt nên các tổ chức HNCC phải
mang tính ổn định và phát triển bền vững rất cao. Không giống như sự phát
triển của các mô hình dịch vụ công khác, sự phát triển của các tổ chức HNCC
cần có sự điều tiết, phân bổ và kiểm soát trong một quy hoạch, nhất là sau khi
hoạt động công chứng đã được xã hội hóa. Chính vì vậy, rất cần thiết có quy
hoạch phát triển các mạng lưới các tổ chức HNCC, cũng như thực hiện
QLNN về công chứng trên cả nước để bảo đảm các tổ chức HNCC được
thành lập và phân bố một cách hợp lý, khoa học, đáp ứng các yêu cầu công
chứng của nhân dân một cách đầy đủ và thuận tiện.
Xã hội hóa công chứng đã phát triển rộng mạng lưới công chứng, xóa
bỏ việc kiêm nhiệm chức năng công chứng của các cơ quan hành chính, nâng
cao chất lượng dịch vụ công. Cải cách xã hội gắn liền với cải cách hoạt động
tư pháp là một trong những lĩnh vực được quan tâm hàng đầu. Nếu nhà nước
buông lỏng quản lý, hậu quả sẽ là vô cùng nghiêm trọng. Thực tế đã chứng
minh, do chúng ta chưa có được một hệ thống pháp luật trải rộng và thống
nhất trong việc áp dụng, chưa có một ngân hàng hồ sơ lưu trữ tốt nên đã có rất
nhiều tranh chấp phát sinh từ hoạt động của công chứng. Điều đó thêm một
lần nữa khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của VPCC trong sự nghiệp
phát triển ổn định kinh tế xã hội tại Việt Nam hiện nay. Mô hình VPCC đã
truyền tải ý chí đổi mới của nhà nước, góp phần thiết thực vào hoạt động xây
dựng chính sách công về công chứng theo tinh thần: “Xây dựng, hoàn thiện
hệ thống chính sách bảo đảm cung ứng dịch vụ công cộng thiết yếu, bình
đẳng cho mọi người dân”... “Đổi mới cơ chế quản lý và phương thức cung
ứng các dịch vụ công cộng”, “Phát huy tiềm năng, trí tuệ và các nguồn lực
vật chất trong nhân dân, của toàn xã hội để cùng nhà nước giải quyết các vấn
đề xã hội và chăm lo phát triển các dịch vụ công cộng”.
40. 32
Việc xã hội hóa dịch vụ công chứng cũng đồng nghĩa với việc cần nâng
cao trách nhiệm của cơ quan QLNN đối với hoạt động cung ứng loại hình
dịch vụ này. QLNN đối với hoạt động công chứng sau khi hệ thống các
VPCC được thành lập có những điểm mới thay đổi căn bản, theo đó, đối
tượng của hoạt động QLNN bao gồm các PCC và VPCC. Hoạt động QLNN
đối với VPCC gắn liền với việc quy định các tiêu chuẩn thành lập VPCC, cấp
phép thành lập, bổ nhiệm công chứng viên, giám sát, kiểm tra, đánh giá hoạt
động công chứng.
1.2.4.2. QLNN bằng pháp luật đối với các tổ chức HNCC nhằm đảm bảo tính
xác thực, tính hợp pháp cũng như hiệu lực của văn bản công chứng
Với vai trò của công chứng là chứng nhận tính xác thực (sự có thực,
hợp pháp của các hợp đồng giao dịch) công chứng có vai trò tích cực trong
việc phòng ngừa các tranh chấp hợp đồng, giao dịch có thể xảy ra. Vì thế, văn
bản công chứng có ý nghĩa là chứng cứ trước tòa, là căn cứ pháp lý hợp pháp
để xác lập quyền sở hữu cho các bên có quyền liên quan (ví dụ văn bản công
chứng hợp đồng mua bán nhà, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là
căn cứ để cơ quan đăng ký nhà đất cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở,
quyền sử dụng đất cho các chủ thể...). Ngoài ra, công chứng còn có vai trò tư
vấn: Công chứng viên tư vấn cho người yêu cầu công chứng về các thủ tục
pháp lý trong hoạt động công chứng....; Hoạt động công chứng đem lại nguồn
thu lớn cho ngân sách nhà nước từ việc thu phí công chứng, thuế ....
Có thể nói công chứng có mặt hầu hết trên các lĩnh vực, và gắn liền với
đời sống của một cá nhân, một con người từ lúc sinh ra đến lúc chết đi, đến
mọi hoạt động của một xã hội để đảm bảo cho mọi giao dịch xã hội được phát
triển an toàn, bền vững. Nhà nước trong các nền kinh tế thị trường cần phải
thiết lập và bảo vệ quyền sở hữu tư nhân, cũng như quyền được hưởng các lợi
ích kinh tế xuất phát từ các sử dụng quyền sở hữu đó thông qua công chứng.
41. 33
Văn bản công chứng là hành lang pháp lý để bảo vệ quyền lợi ích hợp
pháp của công dân, tổ chức, phù hợp với Hiến pháp và pháp luật, ngăn ngừa
hành vi vi phạm pháp luật, phòng ngừa rủi ro, tranh chấp hoặc khi có rủi ro
tranh chấp xảy ra các cơ quan nhà nước có thẩm quyền căn cứ vào văn bản
công chứng để giải quyết các vụ việc tranh chấp. Văn bản công chứng có giá
trị chứng cứ và công chứng viên là người được nhà nước bổ nhiệm, chịu trách
nhiệm trước pháp luật đối với những giao dịch, hợp đồng mà mình chứng
nhận, vì vậy nó có hiệu lực thi hành đối với các bên.
1.2.4.3. QLNN bằng pháp luật đối với các tổ chức HNCC nhằm đảm bảo cho
hoạt động của các tổ chức HNCC đúng phạm vi quy định của pháp luật,
không trái pháp luật và đạo đức xã hội
QLNN có vai trò định hướng sự phát triển của ngành theo lĩnh vực
công chứng, xuất phát từ bản chất của hoạt động công chứng là một hoạt động
công quyền của nhà nước, công chứng là hoạt động được nhà nước ủy quyền
để chứng nhận tính hợp pháp, tính xác thực của các hợp đồng, giao dịch. Vì
thế, việc xác định phạm vi, ranh giới các việc công chứng, nói cách khác là
xác định thẩm quyền của tổ chức HNCC được làm những việc gì có ý nghĩa
rất quan trọng đối với nhà nước trong quản lý đối với tổ chức HNCC, nhằm
phòng ngừa những vi phạm rất dễ xảy ra trong lĩnh vực này.
Trong giai đoạn hiện nay, với sự phát triển rất năng động của cơ chế thị
trường và sự hội nhập kinh tế quốc tế, vai trò của công chứng ngày càng trở
nên quan trọng, giúp nhà nước quản lý tốt các hoạt động giao dịch. LCC năm
2014 hiện nay đã thể hiện bước đột phá trong việc mở rộng phạm vi công
chứng, theo hướng: Cơ quan công chứng được phép chứng nhận các hợp
đồng, giao dịch mà pháp luật quy định phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức
tự nguyện yêu cầu, trừ quy định tại Khoản 1 Điều 2 LCC năm 2014. Đây là
những quy định rất tiến bộ, vừa có tính khoa học, vừa có tính pháp lý. Việc
42. 34
xác định mục đích và nội dung hợp đồng khi công chứng không vi phạm pháp
luật, không trái đạo đức xã hội là giới hạn phạm vi hoạt động của VPCC. Nhà
nước sẽ áp dụng trách nhiệm pháp lý rất nặng nề đối với các chủ thể thực hiện
hành vi công chứng, đòi hỏi công chứng viên vừa phải có nghiệp vụ chuyên
môn cao, vừa phải có đạo đức nghề nghiệp trong sáng mới có thể đáp ứng
được yêu cầu, nhiệm vụ.
Công chứng viên của các tổ chức HNCC đều do Bộ trưởng Bộ Tư pháp
bổ nhiệm và hành nghề công chứng theo quy định của pháp luật. Công chứng
viên trong tác nghiệp chuyên môn không chịu trách nhiệm trước cơ quản lý
hay trước Trưởng phòng mà tự chịu trách nhiệm trước pháp luật. Công chứng
viên có sự độc lập khi tác nghiệp, vì thế ở khía cạnh này, công chứng viên
không bị lệ thuộc vào cấp trên. Pháp luật không cho phép các cơ quan quản
lý, Trưởng phòng áp đặt mệnh lệnh hành chính hay can thiệp thiếu căn cứ
pháp luật vào tác nghiệp chuyên môn. Để đảm bảo việc các công chứng viên
làm đúng theo quy định của pháp luật, các tổ chức HNCC phải đảm bảo bằng
việc mua bảo hiểm, tuy nhiên bảo hiểm như thế nào, và đền bù như thế nào
khi các công chứng viên thực hiện sai quy định của pháp luật thì gần như
trong các văn bản QLNN đều chưa tiên liệu được vấn đề này. Các luật cần
quy định chi tiết hơn, phải đồng nhất tránh tình trạng làm thế nào cũng đúng,
các bên tham gia giao dịch sẽ phải gánh chịu hậu quả.
1.2.5. Các nguyên tắc quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với các tổ chức
hành nghề công chứng
Một là, nguyên tắc pháp chế.
Chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng đang ngày càng phát triển
và mang lại nhiều kết quả trong quá trình thực hiện. Chính vì vậy, quy định về
nguyên tắc hành nghề công chứng lại càng cần thiết trong hoạt động công
chứng. Bởi vì, hoạt động công chứng trong đó công chứng viên là người được
43. 35
Nhà nước giao quyền, thay mặt Nhà nước chứng nhận tính xác thực và tính
hợp pháp của các hợp đồng, giao dịch bằng văn bản mà theo quy định của
pháp luật phải công chứng hoặc tổ chức, cá nhân tự nguyện yêu cầu công
chứng. Thông qua hoạt động nghề công chứng, công chứng viên là người góp
phần bảo vệ pháp luật, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người yêu
cầu công chứng khi tham gia giao kết các hợp đồng, giao dịch tại tổ chức
HNCC. Do vậy, việc tuân thủ hiến pháp, pháp luật; khách quan, trung thực;
chịu trách nhiệm trước pháp luật về văn bản công chứng; tuân theo đạo đức
hành nghề công chứng là nguyên tắc không thể thiếu đối với hoạt động hành
nghề công chứng trong giai đoạn hiện nay. Nguyên tắc này yêu cầu:
- Xây dựng hệ thống pháp luật đủ, đồng bộ;
- Theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục;
- Tôn trọng tính tối thượng của Hiến pháp; bảo đảm quyền con người, quyền
công dân.
Hai là, đảm bảo quy hoạch về tổ chức HNCC ở các địa phương.
Triển khai thực hiện Quyết định số 2104/QĐ-TTg ngày 29/12/2012 của
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành
nghề công chứng đến năm 2020”
Việc phát triển tổ chức HNCC tại địa phương phải tuân thủ Quy hoạch
đã được phê duyệt. Khuyến khích, ưu tiên phát triển VPCC có nhiều công
chứng viên; có cơ sở vật chất, bộ máy hoạt động và đội ngũ công chứng viên,
nhân viên lành nghề.
Đến năm 2020, các địa phương phát triển các tổ chức HNCC ở tất cả
các huyện, thị xã, thành phố, đáp ứng được nhu cầu công chứng các hợp
đồng, giao dịch của tổ chức, cá nhân, tăng cường tính an toàn pháp lý, bảo
đảm các hợp đồng, giao dịch liên quan được công chứng. Việc phát triển các
tổ chức HNCC đảm bảo đúng lộ trình và quy hoạch.
44. 36
Tăng cường xã hội hóa hoạt động công chứng theo yêu cầu cải cách tư
pháp, đi đôi với tăng cường QLNN đối với hoạt động công chứng trên địa bàn
tỉnh để bảo đảm hoạt động công chứng đúng pháp luật, công chứng viên thực
hiện việc xác nhận tính hợp pháp, tính xác thực của các hợp đồng, giao dịch
tạo ra những bảo đảm pháp lý, ngăn ngừa rủi ro, tranh chấp.
Triển khai thực hiện có hiệu quả Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức
HNCC đến năm 2020 trên địa bàn tỉnh Phú Yên phù hợp với quy hoạch tổng
thể phát triển các tổ chức HNCC đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt tại Quyết định số 2104/QĐ-TTg ngày 29 tháng 12 năm 2012, đảm
bảo đúng quan điểm, mục tiêu, nội dung và lộ trình đã đề ra.
Ba là, nguyên tắc bảo đảm sự độc lập và tự chịu trách nhiệm của
công chứng viên trong thực hiện hoạt động công chứng.
Ở Việt Nam hiện nay, công chứng là hoạt động do nhà nước tổ chức và
quản lý, song hành vi công chứng lại do công chứng viên thực hiện một cách
độc lập, không bị chi phối hoặc áp đặt bởi bất cứ tổ chức hoặc cá nhân nào, vì
thế, người thực hiện hành vi công chứng phải chịu trách nhiệm cá nhân trước
pháp luật về công việc do mình thực hiện. Theo quy định hiện hành, công
chứng là một trong số các nghề bổ trợ tư pháp, công chứng viên là một chức
danh tư pháp. Công chứng viên hoạt động độc lập, tuân theo pháp luật, thủ
trưởng cơ quan công chứng không chịu trách nhiệm về văn bản công chứng
do công chứng viên thực hiện.
Ngoài ra, công chứng viên còn phải đảm bảo giữ bí mật tuyệt đối về nội
dung công chứng và các thông tin liên quan đến hoạt động công chứng, trừ
những trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu bằng văn bản về
việc cung cấp hồ sơ công chứng phục vụ cho công tác thanh tra, kiểm tra, truy
tố, xét xử vụ việc có liên quan đến việc đã công chứng.
45. 37
1.3. Nội dung cơ bản của pháp luật về quản lý tổ chức hành nghề công chứng
Trước yêu cầu thực tiễn của hoạt động công chứng và để tiếp tục thể
chế hoá Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020, tạo cơ sở pháp lý cho việc đẩy mạnh xã
hội hoá hoạt động công chứng, đảm bảo thực hiện tốt các nghĩa vụ thành viên
của Liên minh công chứng Quốc tế. Ngày 20/6/2014, tại Kỳ họp thứ 7, Quốc
hội khóa XIII đã thông qua Luật Công chứng số 53/2014/QH13. Chủ tịch
nước ký Lệnh công bố số 08/2014/L-CTN ngày 26/6/2014 công bố Luật Công
chứng và Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2015.
Ngoài việc kế thừa các quy định của LCC năm 2006 như tiếp tục ghi
nhận hai loại hình tổ chức hành nghề công chứng là PCC và VPCC thì
Chương 3 về tổ chức HNCC có những điểm sau:
1.3.1. Nguyên tắc thành lập tổ chức hành nghề công chứng
Theo Điều 18 LCC năm 2014, việc thành lập tổ chức HNCC phải tuân
theo quy định của Luật này và phù hợp với Quy hoạch tổng thể phát triển tổ
chức HNCC đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Quy định này nhằm
khắc phục tình trạng thành lập VPCC tràn lan, dẫn đến cạnh tranh không lành
mạnh, không đảm bảo chất lượng hoạt động công chứng.
Để tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động công chứng, LCC năm 2014
quy định PCC chỉ được thành lập tại những địa bàn chưa có điều kiện phát
triển được VPCC. VPCC thành lập tại các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã
hội khó khăn được hưởng chính sách ưu đãi theo quy định của Chính phủ.
Đây là quy định tạo nền tảng cho các quy định về thành lập và hoạt động của
PCC và VPCC tại các Điều tiếp theo.
1.3.2. Quyền và nghĩa vụ của tổ chức hành nghề công chứng
Theo quy định tại Điều 32 và Điều 33 LCC năm 2014, tổ chức
HNCC có các quyền và nghĩa vụ sau:
46. 38
- Có quyền ký hợp đồng làm việc, hợp đồng lao động với công chứng
viên quy định tại Điểm a và Điểm c Khoản 1 Điều 34 LCC năm 2014 và các
nhân viên làm việc cho tổ chức mình: đây là quyền cơ bản của tổ chức
HNCC. Hoạt động công chứng là một hoạt động khá phức tạp, đòi hỏi nhiều
kỹ năng như nghiên cứu áp dụng pháp luật; hướng dẫn khách hàng về thủ tục;
kiểm tra giấy tờ về nhân thân, tài sản; soạn thảo hợp đồng; lưu trữ hồ sơ....
Những công việc này cần được tiến hành nhanh chóng, chính xác để đảm
bảo cho hoạt động công chứng luôn được trôi chảy, không bị ùn tắc. Do
đó, bên cạnh công chứng viên là người đóng vai trò trung tâm, chỉ đạo,
điều hành và phối hợp các hoạt động, LCC cho phép các tổ chức HNCC
được thuê nhân viên để làm việc cho tổ chức của mình. Những nhân viên này
sẽ hỗ trợ công chứng viên trong từng hoạt động cụ thể, qua đó giúp hoạt
động công chứng đạt hiệu quả cao nhất.
- Có quyền thu phí công chứng, thù lao công chứng, chi phí khác:
Phí công chứng, thù lao công chứng và các chi phí khác được coi là
nguồn thu phát sinh từ hoạt động sự nghiệp của PCC.
Đối với phí công chứng, mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng
phí công chứng do pháp luật quy định tại Thông tư liên tịch số
115/2015/TTLT-BTC-BTP Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư liên
tịch số 08/2012/TTLT-BTC-BTP ngày 19/01/2012 hướng dẫn về mức thu,
chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí công chứng. Mức thu phí công
chứng được áp dụng thống nhất đối với PCC và VPCC.
Thù lao công chứng bao gồm thù lao soạn thảo hợp đồng, giao dịch,
đánh máy, sao chụp và các việc khác có liên quan đến việc công chứng (Ví dụ
như đề nghị xác minh, giám định, đề nghị công chứng ngoài trụ sở của khách
hàng đối với tổ chức HNCC…). Mức thù lao đối với từng loại việc nêu trên
47. 39
do tổ chức HNCC xác định hoặc do người yêu cầu công chứng và tổ chức
HNCC thỏa thuận với nhau.
- Cung cấp dịch vụ công chứng ngoài ngày, giờ làm việc của cơ quan
hành chính nhà nước để đáp ứng nhu cầu công chứng của nhân dân.
- Được khai thác, sử dụng thông tin từ cơ sở dữ liệu công chứng quy
định tại Điều 62 LCC năm 2014.
- Ngoài các quyền trên, tổ chức HNCC còn có các quyền khác theo
quy định LCC năm 2014 và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Đồng thời, tổ chức HNCC còn có các nghĩa vụ như sau:
- Quản lý công chứng viên hành nghề tại tổ chức mình trong việc tuân
thủ pháp luật và quy tắc đạo đức hành nghề công chứng.
- Chấp hành quy định pháp luật về lao động, thuế, tài chính, thống kê.
- Thực hiện chế độ làm việc theo ngày, giờ làm việc của cơ quan
hành chính nhà nước. Về thời gian làm việc: không chỉ các PCC là các đơn
vị do nhà nước thành lập mà các VPCC do các công chứng viên đủ điều
kiện thành lập cũng phải áp dụng chế độ làm việc giống các cơ quan hành
chính nhà nước.
- Niêm yết lịch làm việc, thủ tục công chứng, nội quy tiếp người yêu
cầu công chứng, phí công chứng, thù lao công chứng và chi phí khác tại trụ sở
của tổ chức HNCC.
- Mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên của tổ
chức HNCC theo quy định của LCC và bồi thường thiệt hại theo quy định.
Bồi thường thiệt hại do lỗi mà công chứng viên của tổ chức HNCC gây ra
cho người yêu cầu công chứng: Khi công chứng viên của tổ chức HNCC
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình gây thiệt
hại cho người yêu cầu công chứng thì tổ chức HNCC phải bồi thường
thiệt hại cho người yêu cầu công chứng trên nguyên tắc toàn bộ và kịp