SlideShare a Scribd company logo
1 of 123
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐẶNG QUANG THẮNG
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ
Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự
Mã số : 60 38 40
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: GS.TSHK LÊ VĂN CẢM
Hà Nội - 2012
2
MỞ ĐẦU ......................................................................................................4
Chương I ....................................................................................................10
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TÙ Ở VIỆT
NAM ...........................................................................................................10
1.1. Khái niệm thi hành án phạt tù và ý nghĩa của việc nghiên cứu nó .....10
1.1.1. Khái niệm thi hành án phạt tù.....................................................10
1.1.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu thi hành án phạt tù.........................12
1.2 Vai trò của thi hành án phạt tù...........................................................13
1.2.1 Trong công tác giáo dục những người bị kết án..........................13
1.2.2 Trong hoạt động tư pháp hình sự.............................................16
1.2.3 Trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm ..................18
1.3. Các đặc điểm cơ bản của thi hành án phạt tù .....................................20
1.3.1. Đặc điểm thứ nhất .....................................................................20
1.3.2. Đặc điểm thứ hai .......................................................................20
1.3.3. Đặc điểm thứ ba........................................................................20
1.3.4. Đặc điểm thứ tư .......................................................................21
1.4 . Phân loại thì hành án phạt tù ............................................................21
1.4.1. Thi hành án phạt tù có thời hạn ..................................................22
1.4.2. Thi hành án phạt tù chung thân...................................................23
1.5. Thi hành án phạt tù trong pháp luật thi hành án hình sự của một số
nước trên thế giới.....................................................................................24
1.5.1. Thi hành án phạt tù tại Nga [51] .................................................24
1.5.2. Thi hành án phạt tù tại Thái Lan[44] ..........................................29
1.5.3. Thi hành án phạt tù tại Cộng hòa nhân dân Trung Hoa[44] ........32
1.5.4. Thi hành án phạt tù tại các nước khác (kể cả Anh và Wales)[44] 36
1.5.5. Thi hành án phạt tù tại Bungaria.................................................37
Chương II...................................................................................................42
CÁC QUY ĐỊNH VỀ THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ TRONG PHÁP LUẬT
VIỆT NAM.................................................................................................42
2.1 Các quy định thi hánh án phạt tù từ sau các mạng tháng 8 đến Bộ luật
Tố tụng Hình sự năm 1988 ......................................................................42
2.2. Các quy định của pháp luật về thi hành án phạt tù từ khi có Bộ luật tố
tụng hình sự năm 1988 đến Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 ...............48
2.3 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 ...................................................57
Chương III .................................................................................................65
THỰC TRẠNG THI HÀNH HÌNH PHẠT TÙ Ở VIỆT NAM VÀ CÁC
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ Ở
VIỆT NAM.................................................................................................65
3.1. Thực trạng tình hình thi hành án phạt tù............................................65
3
3.1.4 Những ưu điểm, tồn tại và nguyên nhân của thực trạng thi hành án
phạt tù ở Việt Nam hiện nay.................................................................75
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành án phạt tù ở nước ta hiện nay
.................................................................................................................87
3.2.1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả thi hành án phạt tù..............87
3.2.2. Hoàn thiện những quy định của pháp luật về tổ chức thi hành án
phạt tù..................................................................................................94
3.2.3. Hoàn thiện những quy định của pháp luật thi hành án phạt tù cần
nghiên cứu, vận dụng của các nước ngoài ............................................99
3.2.4. Giải pháp về tổ chức, bộ máy của các cơ quan có nhiệm vụ thi
hành án phạt tù...................................................................................108
3.2.5. Giải pháp về tăng cường sự phối hợp giữa Tòa án, Viện Kiểm sát,
Công an và các cơ quan hữu quan khác..............................................110
3.2.6. Giải pháp tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về thi hành
án phạt tù ...........................................................................................110
3.2.7. Giải pháp về tăng cường hợp tác quốc tế trong thi hành án phạt tù
...........................................................................................................113
3.2.8. Giải pháp về cơ sở vật chất - kỹ thuật, trang thiết bị cho các cơ
quan có nhiệm vụ thi hành án phạt tù.................................................114
3.2.9. Giúp người mãn hạn tù tái hòa nhập để giảm tỷ lệ phạm tội .....114
KẾT LUẬN ..............................................................................................117
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................120
4
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu:
Công cuộc đổi mới của Đảng ta được khởi xướng từ Đại hội toàn quốc
lần thứ VI năm 1986 cho tới nay đã 26 năm, trong tiến trình ấy bộ mặt xã hội
từng bước được thay đổi. Nền kinh tế chuyển từ chế độ quản lý tập trung
quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiện nay trong xã hội xảy ra rất nhiều hiện
tượng tiêu cực như nạn tham nhũng , buôn lậu và các tệ nạn xã hội khác đã
trở thành một trong những nguy cơ đe doạ sự ổn định xã hội, sự nghiệp đổi
mới của toàn dân.
Việc đấu tranh chống tội phạm đươc tiến hành bằng tổng thể các biện
pháp kinh tế - xã hội và pháp lý, trong đó Thi hành án phạt tù đã phát huy tác
dụng tích cực và có hiệu quả trong lĩnh vực quản lý, giam giữ, giáo dục, cải
tạo phạm nhân, góp phần quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh phòng, chống
tội phạm, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của
nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, phục vụ tích cực vào công
cuộc đổi mới. Thi hành án hình sự nói chung, thi hành án phạt tù nói riêng là
một hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước nhằm thực hiện bản án, quyết
định đã có hiệu lực của Tòa án trong thực tiễn. Bản án, quyết định của Tòa án
được thi hành chính là lúc công lý được thực hiện trong cuộc sống. Nhiệm vụ
của giai đoạn này nhằm mục đích cảm hoá tư tưởng, giáo dục nhân cách, văn
hóa, kỹ năng lao động nhằm mục đích làm cho người thụ án trở thành một
công dân tốt cho xã hội, mặt khác góp phần răn đe, ngăn ngừa chung. Đặc
trưng cơ bản của thi hành án (THA) phạt tù là tính cưỡng chế nghiêm khắc.
Người phải THA phạt tù bị cách ly khỏi xã hội, khỏi môi trường sống bình
5
thường và phải chịu sự quản lý, giáo dục trong môi trường tách biệt với
những quy định chặt chẽ và nghiêm ngặt.
THA phạt tù là một vấn đề quan trọng thể hiện quan điểm, đường lối,
chính sách của Đảng và nhà nước ta đối với công tác cải tạo, giáo dục những
người lầm lỗi. Hoạt động THA phạt tù của chúng ta một mặt nhằm đề cao
tính nghiêm minh của pháp luật, đề cao pháp chế XHCN, mặt khác, đó là quá
trình giáo dục, cải tạo phạm nhân để giúp họ nhận thức một cách sâu sắc sai
lầm của mình và từ đó, họ tự giác cải tạo, sửa chữa lỗi lầm, xây dựng ý thức
tuân thủ pháp luật và các quy tắc của đời sống xã hội, ngăn ngừa hành vi tái
phạm tội và hơn nữa là giúp họ sớm hoàn lương để trở về với cộng đồng xã
hội. Việc áp dụng THA phạt tù ở nước ta phải luôn quán triệt phương châm
“kết hợp giữa trừng phạt và cải tạo”, trong đó đặt công tác giáo dục, cải tạo
con người lên hàng đầu nhằm giúp người THA phạt tù chuyển hóa về mặt tư
tưởng, tích cực sửa chữa thói xấu trong ứng xử trái với chuẩn mực của xã hội
để tìm lại chân giá trị của mình trong đời sống xã hội.
THA phạt tù không chỉ là một hoạt động trực tiếp tác động đến người
phải THA mà còn tác động đến gia đình của người phạm tội, đến các thành
viên khác trong xã hội. Do đó, nghiên cứu việc tổ chức THA phạt tù có ý
nghĩa xã hội sâu sắc.
THA nói chung và THA phạt tù nói riêng là một hoạt động trong lĩnh
vực công tác tư pháp. Do đó, quá trình tổ chức THA phạt tù không tách khỏi
quá trình cải cách tư pháp của nước ta hiện nay.
Với ý nghĩa là giai đoạn cuối cùng của quá trình giải quyết một vụ án,
thi hành án có mối quan hệ hữu cơ với giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét
xử. Nếu mục đích của thi hành án không đạt được thì toàn bộ hoạt động của
6
cơ quan điều tra, truy tố, xét xử trước đó cũng trở nên vô nghĩa. Nếu như một
bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật không được thi hành
hoặc thi hành không nghiêm thì trật tự kỷ cương xã hội bị vi phạm, quyền lực
Nhà nước bị xem thường. Chính vì vậy, việc bảo đảm hiệu lực của các bản
án, quyết định của Tòa án là một yêu cầu khách quan trong hoạt động quản lý
Nhà nước.
Chúng ta không thể phủ nhận những kết quả đã đạt được của thi hành
án hình sự trong những năm vừa qua, hàng vạn người bị kết án đã chấp hành
xong hình phạt, trở về với cuộc sống lương thiện. Thi hành án hình sự có
những đóng góp quan trọng nhằm bảo đảm hiệu lực của các bản án, quyết
định của Tòa án, góp phần giữ vững trật tự kỷ cương và ổn định xã hội. Tuy
nhiên bên cạnh những mặt tích cực, hệ thống tổ chức và hoạt động thi hành
án cũng bộc lộ những mặt hạn chế nhất định.
Vì vậy, đổi mới tổ chức và hoạt động Thi hành án hình sự nói chung và
thi hành án phạt tù nói riêng là yêu cầu khách quan nhằm tạo lập một cơ chế
hữu hiệu đảm bảo thực thi có hiệu quả các bản án, quyết định của Tòa án đã
có hiệu lực pháp luật trong toàn xã hội, thể hiện tính nghiêm minh của pháp
luật, bảo vệ quyền dân chủ của nhân dân, bảo đảm trật tự an toàn xã hội và
môi trường pháp lý tin cậy trong mọi mặt sinh hoạt của đời sống xã hội.
Tuy nhiên, trước yêu cầu của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước,
của cải cách tư pháp theo đường lối của Đảng. Thực tiễn thi hành án phạt tù
đã bộc lộ một số mặt hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của cuộc
đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới. do vậy việc nghiên cứu
đề tài : “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn thi hành án phạt tù ở Việt Nam”
7
để trên cơ sở đó giải quyết các vướng mắc trong lý luận và thực tiễn và góp
phần hoàn thiện hơn về mặt lập pháp các quy định thi hành án phạt tù.
2. Tình hình nghiên cứu
Thi hành án phạt tù là một vấn đề đã được nhiều nhà luật học trên thế
giới và trong nước quan tâm nghiên cứu. Tác giả Hoàng Ngọc Nhất có công
trình "Một số vấn đề cấp bách về thi hành án hình sự", trong đó có đề cập đến
thi hành án tù (Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 1 năm 2001); tác giả Đỗ
Văn Chỉnh có công trình " người đang chấp hành hình phạt tù bị bệnh nặng
được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù- những tồn tại và vấn đề cần hướng
dẫn” (Tạp chí tòa án nhân dân số 04/2006); tác giả Đỗ Văn Chỉnh với bài viết
“ Bàn về thi hành án hình sự” ( Tạp chí Tòa án nhân dân số 08/2010); tác giả
Nguyễn Phong Hòa công trình nghiên cứu “Thực trạng công tác thi hành án
hình sự và những kiến nghị” (Tạp chí tòa án nhân dân tháng 11/2006) ; tác
giả Mai Bộ với công trình “ Về việc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù”
(Tạp chí tòa án nhân dân số 08/2005). Các công trình nói trên đã đề cập đến
các khía cạnh khác nhau của việc thi hành án phạt tù, nhưng chưa có công
trình nào nghiên cứu một cách tương đối toàn diện và tương đối có hệ thống
về thi hành án phạt tù và các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành án phạt tù
dưới cấp độ một luận văn Thạc sỹ luật học.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng nghiên cứu của luận văn
a) Mục đích của luận văn là nghiên cứu một cách có hệ thống một số
vấn đề lý luận và thực tiễn thi hành án phạt tù để đề ra các giải pháp nâng cao
hiệu quả thi hành án phạt tù ở nước ta.
b) Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích trên, tác giả của luận văn đã đặt ra và giải quyết
các nhiệm vụ sau:
8
1- Làm sáng tỏ cơ sở lý luận - thực tiễn về thi hành án phạt tù.
2- Đánh giá thực tiễn thi hành án phạt tù, nêu ra mặt được, mặt chưa
được của việc thi hành án phạt tù trong giai đoạn từ khi ban hành Pháp lệnh
Thi hành án phạt tù 1993 cho đến nay.
3- Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành án phạt tù ở
Việt Nam.
c) Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu thi hành án phạt tù ở Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, về chính sách hình sự nói chung,
chính sách thi hành án phạt tù nói riêng. Đề tài được thực hiện trên cơ sở quán
triệt các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, các văn bản pháp luật của Nhà nước về
thi hành án phạt tù. Cơ sở thực tiễn của khóa luận các báo cáo chuyên đề về
thi hành án phạt tù của Tổng Cục Cảnh sát Quản lý trại giam và hỗ trợ tư pháp,
Bộ Công an, Vụ Kiểm sát cải tạo và giam giữ, Viện Kiểm sát nhân dân tối
cao...
Cơ sở phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong khi thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các
phương pháp sau: phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, lịch sử, lôgíc,
so sánh, thống kê.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu và những kiến nghị của luận văn có ý nghĩa quan
trọng đối với hoạt động thi hành án phạt tù ở Việt Nam. Việc đề xuất hệ
9
thống các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành án phạt tù có ý nghĩa góp
phần hoàn thiện các quy định của pháp luật về thi hành án phạt tù, hướng dẫn
áp dụng thống nhất các quy định về thi hành án phạt tù, giúp các cơ quan thi
hành án phạt tù có các biện pháp hữu hiệu nhằm giáo dục, cải tạo phạm nhân,
tái hòa nhập họ với cộng đồng.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương:
- Chương I: Một số vấn đề lý luận thi hành án phạt tù ở Việt Nam.
- Chương II: Các quy định về thi hành án phạt tù trong pháp luật Việt
Nam.
- Chương III: Thực trạng và các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành
án phạt tù ở Việt Nam.
10
Chương I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TÙ Ở VIỆT
NAM
1.1. Khái niệm thi hành án phạt tù và ý nghĩa của việc nghiên cứu nó
1.1.1. Khái niệm thi hành án phạt tù
Theo Hán - Việt từ điển của tác giả Đào Duy Anh, thi hành là: "Đem
cái việc đã trù định sẵn mà làm ra cho có hiệu quả" [46, tr. 398]. Như vậy, thi
hành án có thể được hiểu là đem bản án của Tòa án ra thi hành trên thực tế
cho có hiệu quả; còn thi hành án hình sự là việc đưa các bản án, quyết định
hình sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật ra thi hành trên thực tế. Điều này
có nghĩa, chỉ các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và
đang có hiệu lực pháp luật mới được đem thi hành. Đó là các bản án, quyết
định hình sự được quy định tại khoản 1, Điều 255 Bộ luật tố tụng hình sự
nhưng chưa quá thời hiệu thi hành theo quy định tại Điều 55 Bộ luật hình sự
năm 1999:
1. Những bản án và quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng
cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm;
2.Những bản án và quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm;
3. Những quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Tòa án
Theo quy định những bản án, quyết định hình sự của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật không được thi hành ngay mà còn phải qua một trình tự, thủ
tục, tổ chức thi hành. Đó là việc Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm vụ án
hoặc được ủy quyền căn cứ vào Khoản 1, Điều 256 Bộ luật tố tụng hình sự
trong thời hạn bảy ngày ra quyết định thi hành án.
Thi hành các bản án và quyết định có hiệu lực của Tòa án là một hoạt
động phức tạp, đa dạng liên quan đến nhiều lĩnh vực từ việc thi hành các hình
11
phạt chính như cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, trục xuất, tù có
thời hạn, tù chung thân, tử hình đến các hình phạt bổ sung như cấm đảm
nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, cấm cư trú,
quản chế, tước một số quyền công dân, tịch thu tài sản, phạt tiền (khi không
áp dụng là hình phạt chính), trục xuất (khi không áp dụng là hình phạt chính);
các biện pháp tư pháp như tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm,
trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, buộc công khai xin lỗi, bắt
buộc chữa bệnh; các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành
niên phạm tội như giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo
dưỡng. Như vậy, thi hành án hình sự và hình phạt, biện pháp tư pháp có quan
hệ hữu cơ, tác động qua lại, chặt chẽ với nhau. Trong mối quan hệ này, hình
phạt và biện pháp tư pháp giữ vai trò quyết định, quy định nội dung, phương
pháp, hình thức, thời gian thi hành án hình sự. Có thể dễ dàng chứng minh
điều này, vì thi hành hình phạt tử hình khác với thi hành hình phạt tù, khác
với thi hành các hình phạt không phải là tù và tử hình và càng khác với thi
hành các biện pháp tư pháp. Ngược lại, thi hành án hình sự có tác động trở lại
đối với hình phạt, biện pháp tư pháp, làm cho mục đích của hình phạt, biện
pháp tư pháp được thực hiện trên thực tế, đảm bảo tính nghiêm minh của
pháp luật.
Thực chất của thi hành án hình sự là việc tổ chức thi hành các hình
phạt, biện pháp tư pháp được quy định trong bản án hoặc quyết định hình sự
có hiệu lực pháp luật trên thực tế. Đó chính là việc thực thi công lý trên cơ sở
chân lý đã được hoạt động tố tụng hình sự chứng minh.
Nội dung thi hành án hình sự rất rộng, bao gồm: thủ tục, chế độ, tổ
chức thi hành án, áp dụng các biện pháp hành chính, giáo dục, y tế, văn hóa,
xã hội và thực hiện chế độ, chính sách đối với người bị kết án. Các quan hệ
12
xã hội cụ thể phát sinh trong quá trình thi hành và chấp hành hình phạt như:
việc đưa bản án ra thi hành, chỉ định cơ quan tổ chức thi hành án, tổ chức lực
lượng, cơ sở vật chất đảm bảo cho thi hành án; quản lý nhà nước về công tác
thi hành án; quy định về quyền và nghĩa vụ của người chấp hành án; nghĩa vụ
của cơ quan nhà nước hữu quan... do pháp luật thi hành án hình sự quy định.
Qua nghiên cứu pháp luật thi hành án hình sự, lý luận và thực tiễn thi
hành án hình sự ở một số nước trên thế giới có thể thấy, lý luận thi hành án
hình sự kém phát triển hơn so với lý luận về các ngành luật khác trong hệ
thống tư pháp hình sự. Điều này được lý giải bởi tình trạng pháp luật điều
chỉnh lĩnh vực này còn chưa đầy đủ, lại thường bị bổ sung, sửa đổi; còn rất ít
các công trình nghiên cứu khoa học, các sách chuyên khảo về lĩnh vực này.
Từ sự phân tích ở trên, có thể đi đến kết luận: thi hành án phạt tù là
việc cơ quan Thi hành án hình sự buộc phạm nhân phải chịu sự quản lý giam
giữ, giáo dục và cải tạo để họ trở thành người có ích cho xã hội.
1.1.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu thi hành án phạt tù
Việc thi hành án hình sự nói chung, thi hành án phạt tù nói riêng,
lần đầu tiên được quy định trong Luật thi hành án hình sự của nước ta,
có ý nghĩa về mặt lập pháp hết sức to lớn, đánh dấu sự trưởng thành về
mặt kỹ thuật lập pháp thi hành án hình sự của nước ta.
Trong thi hành án hình sự, thi hành án phạt tù đóng một vai trò quan
trọng. Nó đảm bảo cho bản án phạt tù có thời hạn, phạt tù chung thân của Tòa
án đã có hiệu lực pháp luật được thực hiện trên thực tế, thể hiện sự chuyên
chế của Nhà nước xã hội chủ nghĩa trong việc kiên quyết xử lý những phần tử
phạm tội mà Nhà nước xét thấy cần phải cách ly khỏi xã hội có thể giáo dục,
cải tạo được và trả lại cho cộng đồng. Việc quy định thi hành án phạt tù trong
Luật thi hành án hình sự như vậy là nhằm góp phần tích cực vào việc bảo vệ
13
sự an toàn, vững mạnh của chế độ, bảo vệ tính mạng, tài sản, danh dự, nhân
phẩm, danh dự của công dân. Những vi phạm về trình tự, thủ tục trong thi
hành án phạt tù đều bị coi là những hành vi vi phạm pháp luật; chúng không
những xâm hại hoạt động đúng đắn của các cơ quan có nhiệm vụ thi hành án
phạt tù, xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của người chấp hành án, mà
còn làm giảm lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà
nước. Như vậy, việc quy định thi hành án phạt tù còn đảm bảo sự dân chủ,
tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người chấp hành án, thể hiện tính ưu
việt của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Việc nghiên cứu thi hành án phạt tù, ngoài ý nghĩa về mặt lý luận, còn
có ý nghĩa phục vụ nâng cao nhận thức của nhân dân nói chung, cán bộ các
cơ quan bảo vệ pháp luật nói chung về sự cần thiết phải thực hiện đúng, đầy
đủ, chặt chẽ các quy định của pháp luật về thi hành án phạt tù, góp phần nâng
cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm; giúp công dân có cơ sở pháp
lý tham gia vào hoạt động thi hành án hình sự nói chung, thi hành án phạt tù
nói riêng, đồng thời tạo cơ sở pháp lý cho người phải chấp hành án phạt tù
được tự bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Bên cạnh đó, nó có ý
nghĩa cung cấp cứ liệu khoa học cho việc hoàn thiện các quy định của pháp
luật về thi hành án hình sự nói chung, thi hành án phạt tù nói riêng và phục
vụ các cơ quan chức năng trong việc hướng dẫn áp dụng thống nhất các quy
định về thi hành án phạt tù. Như vậy, việc nghiên cứu thi hành án phạt tù có ý
nghĩa rất quan trọng trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
1.2 Vai trò của thi hành án phạt tù
1.2.1 Trong công tác giáo dục những người bị kết án
Công tác thi hành án hình sự nói chung, thi hành án phạt tù nói riêng là
giai đoạn cuối cùng, bảo đảm cho bản án, quyết định của Tòa án được chấp
14
hành, góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và pháp chế xã hội
chủ nghĩa:góp phần quan trọng trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, giữ
vững ổn định chính trị- xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà
nước. Chính vì lẽ đó, vị trí vai trò đặc biệt quan trọng của thi hành án đã
được quy định ngay tại điều 136 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 1992: “ Các bản án và quyết định của Tòa án nhân dân đã có
hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức
xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người
và đơn vị hữu quan phải nghiêm minh chấp hành”. Đặc trưng cơ bản của thi
hành án (THA) phạt tù là tính cưỡng chế nghiêm khắc. Người phải THA phạt
tù bị cách ly khỏi xã hội, khỏi môi trường sống bình thường và phải chịu sự
quản lý, giáo dục trong môi trường tách biệt với những quy định chặt chẽ và
nghiêm ngặt.
THA phạt tù là một vấn đề quan trọng thể hiện quan điểm, đường lối,
chính sách của Đảng và nhà nước ta đối với công tác cải tạo, giáo dục những
người lầm lỗi. Hoạt động THA phạt tù của chúng ta một mặt nhằm đề cao
tính nghiêm minh của pháp luật, đề cao pháp chế XHCN, mặt khác, đó là quá
trình giáo dục, cải tạo phạm nhân để giúp họ nhận thức một cách sâu sắc sai
lầm của mình và từ đó, họ tự giác cải tạo, sửa chữa lỗi lầm, xây dựng ý thức
tuân thủ pháp luật và các quy tắc của đời sống xã hội, ngăn ngừa hành vi tái
phạm tội và hơn nữa là giúp họ sớm hoàn lương để trở về với cộng đồng xã
hội. Việc áp dụng THA phạt tù ở nước ta phải luôn quán triệt phương châm
kết hợp giữa “ trừng phạt và giáo dục”, “ cưỡng chế và thuyết phục”, trong đó
đặt công tác giáo dục, cải tạo con người lên hàng đầu nhằm giúp người THA
phạt tù chuyển hóa về mặt tư tưởng, tích cực sửa chữa thói xấu trong ứng xử
trái với chuẩn mực của xã hội để tìm lại chân giá trị của mình trong đời sống
xã hội.
15
THA phạt tù không chỉ là một hoạt động trực tiếp tác động đến người
phải THA mà còn tác động đến gia đình của người phạm tội, đến các thành
viên khác trong xã hội. Do đó, nghiên cứu việc tổ chức THA phạt tù có ý
nghĩa xã hội sâu sắc.
Quá trình giam giữ đối với người bị kết án cũng là quá trình giáo dục,
cải tạo họ nhằm giúp họ sửa chữa lỗi lầm để trở về với xã hội. Chính vì vậy,
việc nghiên cứu và áp dụng các biện pháp quản lý giáo dục đối với người
phạm tội trong các trại giam cũng như việc thực hiện các chế độ, chính sách
đối với họ có ý nghĩa hết sức to lớn. Nó không chỉ nhằm bảo đảm sự chặt chẽ
trong quản lý, giáo dục người phạm tội mà còn động viên, khơi dậy và phát
huy ý thức tự giác, lòng tự trọng của người phạm tội trong quá trình tự rèn
luyện, cải tạo mình, giúp họ sớm tìm lại chân giá trị của mình trong đời sống
xã hội. Đồng thời, việc sử dụng các biện pháp quản lý, giáo dục và thực hiện
tốt các chế độ chính sách đối với người phạm tội trong các trại giam chính là
sự phản ánh về trình độ, năng lực quản lý của nhà nước; sự quan tâm của nhà
nước, xã hội đối với những người bị lầm lỗi; sự thể hiện thái độ của nhà nước
về các quyền của con người. Có thể nói, về vấn đề này nhiều nước đã có
nhiều sáng tạo và kinh nghiệm tốt trong quản lý, giáo dục cũng như thực hiện
các chính sách mang tính nhân đạo đối với người bị áp dụng hình phạt tù.
Các nhà tâm lý học, tội phạm học Việt Nam từ trước đến nay đều thống nhất
quan điểm cho rằng, việc giáo dục, cải tạo người phạm tội trở thành người
lương thiện là điều hoàn toàn có thể làm được. Quan điểm này hoàn toàn phù
hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh: "Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong
lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở mỗi con người nảy nở như hoa mùa
xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng" [50, tr.
558].
16
Giáo dục người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội trong giáo
dục học được gọi là giáo dục lại người phạm tội. Đây là quá trình nhằm làm
thay đổi những quan điểm, nhận thức không đúng đắn của người phạm tội,
cải tạo các thói quen, hành động sai trái đã hình thành ở người phạm tội.
Những nhận thức, hành động sai trái của người phạm tội không phải là
bản tính vốn có của họ, mà là do ảnh hưởng của những yếu tố không lành
mạnh trong môi trường gia đình, nhà trường, xã hội, của những điều kiện
thuận lợi cho tội phạm phát sinh, phát triển, những thiếu sót trong quản lý xã
hội của các cơ quan chức năng... Những nhận thức, thói quen xấu ở người
phạm tội hoàn toàn có thể cải tạo được, nếu tổ chức đúng đắn việc giáo dục
lại người bị kết án trong thi hành án hình sự.
1.2.2 Trong hoạt động tư pháp hình sự
Thi hành án hình sự nói chung, thi hành án phạt tù nói riêng có vai trò
quan trọng trong hoạt động tư pháp hình sự nói chung và quá trình giải quyết
vụ án nói riêng. Hoạt động thi hành hình sự là công đoạn cuối cùng, bảo đảm
cho các bản án, quyết định hình sự của Tòa án được chấp hành. Hoạt động thi
hành án hình sự nói chung, thi hành án phạt tù nói riêng có thể được hiểu là
hình thức các thẩm quyền tương ứng do luật định của hệ thống các cơ quan
chuyên trách thuộc nhánh quyền hành pháp mà thông qua đó các bản án kết
tội có hiệu lực pháp luật của tòa án được bảo đảm thi hành trong thực tiễn, cụ
thể: Là việc cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền theo quy định của Luật
thi hành án hình sự buộc phạm nhân phải chịu quản lý giam giữ, giáo dục, cải
tạo để họ trở thành người có ích cho xã hội
THA phạt tù là một hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước nhằm
thực hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án trong thực tiễn. Bản
án, quyết định của Tòa án được thi hành chính là lúc công lý được thực hiện
17
trong cuộc sống. Nhiệm vụ của giai đoạn này nhằm mục đích cảm hoá tư
tưởng, giáo dục nhân cách, văn hóa, kỹ năng lao động nhằm mục đích làm
cho người thụ án trở thành một công dân tốt cho xã hội, mặt khác góp phần
răn đe, ngăn ngừa chung. Với ý nghĩa là giai đoạn cuối cùng của quá trình
giải quyết một vụ án, thi hành án có mối quan hệ hữu cơ với giai đoạn khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử. Nếu mục đích của thi hành án không đạt được thì
toàn bộ hoạt động của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử trước đó cũng trở nên
vô nghĩa. Nếu như một bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật
không được thi hành hoặc thi hành không nghiêm thì trật tự kỷ cương xã hội
bị vi phạm, quyền lực Nhà nước bị xem thường. Chính vì vậy, việc bảo đảm
hiệu lực của các bản án, quyết định của Tòa án là một yêu cầu khách quan
trong hoạt động quản lý Nhà nước. Với tư cách là bộ phận cấu thành của hệ
thống tư pháp hình sự, chúng ta có thể thấy được cơ quan thi hành án hình sự
nói chung, thi hành án phạt tù nói riêng với việc thực hiện tốt những nhiệm
vụ được triển khai cụ thể trên cơ sở các chức năng của mình, Thi hành án
phạt tù sẽ góp phần cùng với các cơ quan tiến hành tố tụng củng cố niềm tin
của nhân dân vào hiệu lực của bộ máy Nhà nước, vào hiệu quả và sức mạnh
của pháp luật và pháp chế, vào một loạt các tư tưởng pháp lý cao cả và tiến
bộ được thừa nhận chung của nền văn minh nhân loại (như: công bằng, nhân
đạo, dân chủ và pháp chế), cũng như vào thắng lợi huy hoàng của chính nghĩa
đối với tàn bạo, của công lý đối với bất công, của cái thiện đối với cái ác, vào
các giá trị quí báu của xã hội dân sự và các nguyên tắc được thừa nhận chung
của nhà nước pháp quyền với bảy nguyên tắc cơ bản:
1. Nhà nước pháp quyền là tổ chức công quyền (quyền lực công khai)
trong hệ thống chính trị của xã hội dân sự.
18
2. Nhà nước pháp quyền là Nhà nước được xây dựng trên các tư tưởng
pháp lý tiến bộ của nhân loại như công bằng, nhân đạo, dân chủ, pháp chế.
3. Nhà nước pháp quyền là Nhà nước đảm bảo thực sự việc tôn trọng
và bảo vệ các quyền và tự do của con người.
4. Nhà nước pháp quyền là Nhà nước đảm bảo thực sự điạ vị ngự trị
của pháp luật trong các lĩnh vực sinh hoạt của đời sống xã hội.
5. Nhà nước pháp quyền là Nhà nước đảm bảo thực sự tính tối thượng
của luật trong các lĩnh vực hoạt động của Nhà nước.
6. Nhà nước pháp quyền là Nhà nước đảm bảo thực sự nguyên tắc phân
công quyền lực thành ba nhánh – lập pháp, hành pháp và tư pháp.
7. Nhà nước pháp quyền đảm bảo thực sự chủ quyền của nhân dân .
1.2.3 Trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm
Hệ thống pháp luật đấu tranh phòng chống tội phạm là tổng thể những
văn bản pháp luật thống nhất có chứa các chế định và các quy phạm pháp luật
do nhà nước ban hành trong lĩnh vực tư pháp hình sự bao gồm các văn bản
pháp luật tố tụng hình sự, pháp luật thi hành án hình sự cũng như một số văn
bản pháp luật khác có liên quan đến tổ chức hoạt động tư pháp hình sự với tư
cách là những căn cứ pháp lý điều chỉnh các nhóm quan hệ xã hội phát sinh
trong toàn quá trình xử lý tội phạm và giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự
của người phạm tội nhằm bảo đảm cho việc triển khai hoạt động đấu tranh
phòng chống tội phạm của hệ thống tư pháp hình sự được tuân thủ đúng pháp
luật, đạt hiệu quả và các mục đích của nó.
19
Với tư cách là “đầu ra cuối cùng” trong toàn bộ toàn bộ hoạt động thực
tiễn của hệ thống tư pháp hình sự của đất nước, Thi hành án hình sự là một
ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật về đấu tranh phòng, chống tội
phạm. Thi hành án hình sự là giai đoạn cuối cùng của một vụ án hình sự.
Công tác điều tra, truy tố và xét xử là rất quan trọng. Quyết định hình phạt
của Toà án chính là sự đánh giá, sự lên án của Nhà nước đối với hành vi
phạm tội mà bị cáo đã thực hiện. Nếu chỉ dừng ở mức đánh giá, lên án mà
không thực hiện bằng các biện pháp mang tính cưỡng chế đặc trưng của
quyền lực nhà nước thì tác dụng giáo dục, răn đe, phòng ngừa và tính chịu
hình phạt hạn chế, thậm chí là không có tác dụng. Chính vì vậy, Luật thi hành
àn hình sự đã có những quy định cụ thể về thi hành án hình sự nói chung , thi
hành án phạt tù nói riêng, các quy định về thi hành án phạt tù nhằm đảm bảo
việc thi hành nghiêm túc các bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực
pháp luật hoặc chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay.
20
1.3. Các đặc điểm cơ bản của thi hành án phạt tù
1.3.1. Đặc điểm thứ nhất – Thi hành án phạt tù là một hoạt động mang tính
quyền lực Nhà nước, là hình thức thực hiện các thẩm quyền tương ứng của hệ
thống các cơ quan chuyên trách thuộc nhánh quyền hành pháp nhằm thực
hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án trong thực tiễn. Bản án,
quyết định của Tòa án được thi hành chính là lúc công lý được thực hiện trong
cuộc sống. Nhiệm vụ của giai đoạn này nhằm mục đích cảm hoá tư tưởng, giáo
dục nhân cách, văn hóa, kỹ năng lao động và làm cho người thụ án trở thành
một công dân tốt cho xã hội, mặt khác góp phần răn đe, ngăn ngừa chung. Với
ý nghĩa là giai đoạn cuối cùng của quá trình giải quyết một vụ án, thi hành án
có mối quan hệ hữu cơ với giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Nếu mục
đích của thi hành án không đạt được thì toàn bộ hoạt động của cơ quan điều
tra, truy tố, xét xử trước đó cũng trở nên vô nghĩa. Nếu như một bản án, quyết
định của Tòa án có hiệu lực pháp luật không được thi hành hoặc thi hành
không nghiêm thì trật tự kỷ cương xã hội bị vi phạm, quyền lực Nhà nước bị
xem thường. Chính vì vậy, việc bảo đảm hiệu lực của các bản án, quyết định
của Tòa án là một yêu cầu khách quan trong hoạt động quản lý Nhà nước.
1.3.2. Đặc điểm thứ hai – là tính cưỡng chế nghiêm khắc của thi hành án phạt
tù. Người phải THA phạt tù bị cách ly khỏi xã hội, khỏi môi trường sống bình
thường và phải chịu sự quản lý, giáo dục trong môi trường tách biệt với những
quy định chặt chẽ và nghiêm ngặt. Bằng hoạt động thi hành án phạt tù, các
bản án kết tội có hiệu lực pháp luật (tù có thời hạn, tù chung thân) được đảm
bảo thi hành trong thực tiễn bằng sức mạnh cưỡng chế nghiêm khắc nhất.
1.3.3. Đặc điểm thứ ba- THA phạt tù là một vấn đề quan trọng thể
hiện quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước ta đối với công
tác cải tạo, giáo dục những người lầm lỗi. Giáo dục người phạm tội là một
trong những mục đích của hình phạt được quy định tại Điều 27 Bộ luật Hình
sự năm 1999: "Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn
giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật
và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới".
Mục đích của hình phạt là thành tố có tính chất quyết định, quy định
nội dung, phương pháp, hình thức, tiêu chí, biện pháp kiểm tra, đánh giá kết
quả của thi hành án hình sự. Mục đích của hình phạt có đạt được hay không
phụ thuộc vào Cơ quan thi hành án hình sự và người bị kết án, đặc biệt là phụ
21
thuộc vào việc cán bộ, nhân viên Cơ quan thi hành án hình sự có ý thức được
đầy đủ ý nghĩa của mục đích của hình phạt hay không? Do đó, quán triệt mục
đích của hình phạt trong hoạt động thi hành án hình sự nói chung, mục đích
giáo dục người phạm tội nói riêng là nhiệm vụ thường xuyên của các Cơ
quan thi hành án hình sự.
Giáo dục người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội trong giáo
dục học được gọi là giáo dục lại người phạm tội. Đây là quá trình nhằm làm
thay đổi những quan điểm, nhận thức không đúng đắn của người phạm tội,
cải tạo các thói quen, hành động sai trái đã hình thành ở người phạm tội.
Những nhận thức, hành động sai trái của người phạm tội không phải là
bản tính vốn có của họ, mà là do ảnh hưởng của những yếu tố không lành
mạnh trong môi trường gia đình, nhà trường, xã hội, của những điều kiện
thuận lợi cho tội phạm phát sinh, phát triển, những thiếu sót trong quản lý xã
hội của các cơ quan chức năng... Những nhận thức, thói quen xấu ở người
phạm tội hoàn toàn có thể cải tạo được, nếu tổ chức đúng đắn việc giáo dục
lại người bị kết án trong thi hành án hình sự.
1.3.4. Đặc điểm thứ tư – Để đảm bảo tính truyền thống và sự nghiêm
minh, tính khả thi và hiệu quả cao nên hoạt động thi hành án phạt tù của nước
ta luôn và cần phải do hệ thống các cơ quan chuyên trách của Bộ Công an
thuộc nhánh quyền hành pháp với tư cách là một trong nhưng dạng lực lượng
cũ trang nhân dân của Nhà nước đảm nhiệm.
1.4 . Phân loại thì hành án phạt tù
Thi hành án hình sự nói chung, thi hành án phạt tù nói riêng là là giai
đoạn cuối cùng của một vụ án hình sự. Thi hành án phạt tù là thi hành quyết
22
định phạt tù gồm có tù chung thân và tù có thời hạn của các bản án hình sự
theo quyết định của Tòa án nhân dân
1.4.1. Thi hành án phạt tù có thời hạn
Hình phạt tù có thời hạn là buộc người bị kết án phải chấp hành hình
phạt tại trại giam trong một thời hạn nhất định. áp dụng hình phạt tù không
chỉ nhằm trực tiếp trừng trị, giáo dục người phạm tội mà còn nhằm giáo dục
người khác về ý thức tôn trọng pháp luật và tham gia vào quá trình phòng
ngừa, đấu tranh chống mọi hành vi vi phạm pháp luật.
Đặc trưng cơ bản của thi hành án phạt tù là tính cưỡng chế nghiêm
khắc. Người phải thi hành án phạt tù bị cách ly khỏi xã hội, khỏi môi trường
sống bình thường và phải chịu sự quản lý, giáo dục trong môi trường tách
biệt với những quy định chặt chẽ và nghiêm ngặt.
Tù có thời hạn là hình phạt buộc người bị kết án phải cách ly khỏi xã
hội trong một thời gian nhất định.
Tù có thời hạn là hình thức phạt phổ biến được quy định trong hầu hết
các điều luật thuộc Phần các tội phạm riêng. So với hình phạt cải tạo không
giam giữ thì tù có thời hạn có nội dung cưỡng chế nghiêm khắc nhiều hơn.
Nếu như cải tạo không giam giữ tác động đến người bị kết án mà không cần
phải cách ly khỏi xã hội, khỏi môi trường sống và hoạt động bình thường của
họ trước khi phạm tội thì đối với tù có thời hạn người bị kết án bị tước tự do
bị giam giữ trong một môi trường chịu sự chi phối ngặt nghèo. Hạn chế sự tự
do của người bị kết án tù có thời hạn là nội dung pháp lý chủ yếu của hình
phạt này. Nói cách khác tù có thời hạn tác động đến quyền lợi thiết thân trong
những quyền cơ bản của con người đó là quyền tự do. Theo điều 33 Bộ luật
Hình sự quy định: “tù có thời hạn là việc buộc người bị kết án phải chấp hành
23
hình phạt tại trại giam trong một thời hạn nhất định. Tù có thời hạn đối với
người phạm một tội có mức tối thiểu là 3 tháng, mức tối đa là hai mười năm.
Thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù, cứ
mỗi ngày tạm giữ, tạm giam bằng một ngày tù”. Hình phạt tù có thời hạn nó
bao hàm kết hợp giữa trừng trị và cải tạo giáo dục, giữa cưỡng chế và thuyết
phục cũng như phòng ngừa đấu tranh chống tội phạm, tuy nhiên khi nghiên
cứu tìm hiểu giữa hình phạt tù và các hình phạt khác còn có một khoảng cách
quá xa về nội dung cưỡng chế cũng như chế độ chấp hành nên hạn chế sự lựa
chọn của tòa án khi xét xử.
1.4.2. Thi hành án phạt tù chung thân
Theo điều 34 Bộ luật hình sự quy định: “Tù chung thân hành hình phạt
tù không có thời hạn được áp dụng đối với người phạm tội trường hợp đặc
biệt nghiêm trọng, nhưng chưa đến mức phạt tử hình. Không áp dụng tù
chung thân đối với người chưa thành niên phạm tội”.
Tù chung thân là loại hình phạt có tính chất nghiêm khắc hơn hình phạt
tù có thời hạn và nhẹ hơn hình phạt tử hình. Tù chung thân giống tù có thời
hạn ở chỗ các hình phạt này đều tước tự do của người bị kết án cách ly khỏi
xã hội để giáo dục cải tạo và phòng ngừ tội phạm. Nhưng điểm khác của nó
là ở chỗ nó có khả năng tước tự do của một người bị kết án hết đời.
Trong hệ thống hình phạt luật hình sự nước ta thì tù chung thân là loại
hình phạt được áp dụng hình phạt tù có thời hạn mặc dù ở mức cao nhất của
khung là 20 năm tù vẫn còn chưa tương xứng với tính chất và hình vi phạm
tội nghĩa là việc áp dụng nó vẫn còn nhẹ, nhưng nếu áp dụng hình phạt tử
hình thì chưa thật cần thiết.
24
Nhìn từ từ góc độ lý luận cũng như thực tiễn hình phạt tù chung thân
đóng một vai trò quan trọng trong việc áp dụng hình phạt cũng như trong đấu
tranh phòng và chống tội phạm.
Tuy nhiên, về mặt luật định giữa hình phạt tù chung thân và tử hình
không có danh giới rõ ràng về điều kiện áp dụng. Trong điều 34 Bộ luật hình
sự quy định điều kiện áp dụng tù chung thân dưới dạng là: “được áp dụng đối
với người phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng nhưng chưa đến
mức tử hình”. Như vậy với người phạt tù chung thân có nghĩa là họ vẫn còn
có khả năng cải tạo giáo dục. Theo pháp luật hình sự Việt Nam thì một người
bị tù chung thân có khả năng được giảm xuống tù có thời hạn là 20 năm trong
trường hợp họ cải tạo tốt và qua nhiều lần giảm chấp hành hình phạt.
1.5. Thi hành án phạt tù trong pháp luật thi hành án hình sự của một số nước
trên thế giới
1.5.1. Thi hành án phạt tù tại Nga [51]
Tình hình hiện nay
Vào tháng 6-2009, số tù nhân ở Liên bang Nga là 894.855 người, tức là
635 tù nhân trên 100.000 người dân. Tù nhân được giam giữ tại 1.051 cơ sở,
bao gồm 766 khu cải tạo, 216 trại cách ly hay trại giam chờ xét xử (SIZO), 7
nhà tù và 62 khu giam giữ phạm nhân lứa tuổi vị thành niên.
Trách nhiệm quản lý hệ thống nhà tù thuộc về cơ quan thi hành án Liên
bang (FSES) được thiết lập ngày 9-3-2004 theo Nghị định số 314 của Tổng
thống. Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm soạn thảo các văn bản pháp lý liên quan
25
tới các vấn đề về nhà tù, song FSES là cơ quan phụ trách riêng về việc thực
hiện. cơ quan này chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Văn phòng Tổng thống.
Cơ quan thanh tra thi hành án hình sự, trực thuộc FSES, chịu trách
nhiệm về những đối tượng bị kết án với những chế tài thay thế và được phóng
thích. Các chế tài thay thế bao gồm lao động công ích và quản thúc tại gia.
FSES chịu trách nhiệm tiến hành giáo dục và điều trị tâm lý chẩn đoán
trong nhà tù. Về việc giúp cho phạm nhân xây dựng lại cuộc sống, cơ quan
thanh tra phối hợp chặt chẽ với các trung tâm môi giới việc làm và các địa
phương để tìm ra giải pháp cho các vấn đề xã hội mà những đối tượng bị kết
án với những chế tài thay thế hay được phóng thích phải đối mặt.
Chuyển giao trách nhiệm
Một trong những điều kiện để kết nạp Nga vào Hội đồng Châu Âu là
chuyển giao tất cả các cơ sở giam giữ và cơ quan quản lý, điều hành việc xử
phạt những đối tượng bị kết án từ Bộ Nội vụ của Nga sang Bộ Tư pháp Liên
bang Nga. Điều kiện này đã được đáp ứng vào ngày 31-8-1998 khi hệ thống
quản lý phạm nhân hình sự được sát nhập vào Bộ Tư pháp (trừ các hình thức
kỷ luật quân sự).
Kết quả của việc chuyển giao
Năm 1998, tổng số tù nhân là hơn một triệu người, tức là 688 tù nhân /
100.000 người dân. Theo Yuri Kelinin: “hệ thống quản lý phạm nhân hình sự
hà khắc đã dẫn đến việc sử dụng tùy tiện các biện pháp quản thúc, khiến cho
tù nhân lẽ ra không thuộc diện phải cách ly với xã hội cũng bị giam giữ và
sau đó bị tước đoạt quyền tự do”.
Điều đó khiến cho các cơ sở giam giữ này bị quá tải và tù nhân không
được cung cấp đủ lương thực / thực phẩm, quần áo, giày dép, thuốc thang và
26
các nhu yếu phẩm khác theo yêu cầu. Tình trạng này đặc biệt tồi tệ ở các cơ
sở tạm giam (SIZO) nơi những đối tượng nghi vấn hay cáo buộc đã phạm tội
bị giam giữ trong khi tiến hành điều tra sơ bộ hay điều tra tư pháp. Tại một số
cơ sở như vậy, mỗi tù nhân chỉ có khoản 1m2
diện tích (trong khi tiêu chuẩn
quy định là 4m2
). Tình trạng này dẫn đến kết quả là các tù nhân phải thay
nhau ngủ.
Kết quả của việc chuyển giao được chia thành năm nhóm chính:
Thứ nhất: trách nhiệm quản lý hệ thống nhà tù nhận được sự quan tâm,
ủng hộ mạnh mẽ hơn nhiều về mặt chính trị. Năm 1999, Vladimir Putin, thủ
tướng Nga lúc bấy giờ là vị lãnh tụ đầu tiên của Chính phủ đi thăm một SIZO
và hai năm sau, trên cương vị Tổng thống, ông đã đề cập tới sự cần thiết phải
cải cách nhà tù trong một bài phát biểu với toàn quốc; một năm sau, Ông
nhấn mạnh cần phải nhân đạo hóa hệ thống quản lý phạm nhân hình sự và
đặc biệt phải khuyến khích bộ máy lập pháp đưa ra những chế tài thay thế
cho hình thức tù giam.
Thứ hai: việc chuyển giao đã nâng cao nhận thức về nhiệm vụ của xã
hội phải quan tâm và tham gia trong việc xây dựng hệ thống nhà tù, cũng góp
phần cải thiện mối quan hệ với các cơ quan có thẩm quyền địa phương và các
tổ chức phi chính phủ hoạt động trong lĩnh vực này.
Thứ ba: Bộ Tư pháp giờ đây đã có khả năng giám sát chương trình cải
cách các cơ sở giam giữ và cơ quan trong hệ thống quản lý phạm nhân hình
sự. Kể từ năm 1998 đến nay, đã có những bước cải thiện về cơ sở lập pháp và
quy chuẩn cho hệ thống quản lý thi hành án. Cơ sở hạ tầng cần thiết cho hệ
thống này đã được xây dựng; một loạt các dịch vụ đã được đặt trên một nền
tảng vững chắc hơn; và các chi nhánh mới của hệ thống đã được thiết lập.
Cuộc cải cách đã được phân cấp trên cơ sở trao nhiều quyền tự chủ hơn cho
27
các cơ quan quản lý nhà tù cấp vùng. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nhà
tù được tăng cường.
Trực thuộc Bộ Tư pháp, hệ thống quản lý phạm nhân hình sự đã đảm
nhận nhiều nhiệm vụ hơn: chịu trách nhiệm áp giải tù nhân khi họ ở bên
ngoài cơ sở giam giữ, cung cấp các dịch vụ khám, chữa bệnh cho tù nhân,
tiến hành các dự án xây dựng lớn, đào tạo nhân viên tại các cơ sở đào tạo
riêng hệ thống ở cả khối trung học chuyên nghiệp và đại học cũng như trả
tiền hưu trí. Những nội dung sửa đổi trong bộ luật hình sự giờ đây cho phép
thi hành án tại các khu định cư, tức là các cơ sở bán mở.
Thứ tư, việc chuyển giao được coi là sự cam kết ở mức độ cao hơn đối
với các quyền con người. Năm 2002, một cơ quan mới trực thuộc Bộ Tư pháp
có trách nhiệm đảm bảo việc thi hành luật và tôn trọng quyền con người được
thiết lập, và cán bộ thanh tra độc lập về quyền con người được giao trách
nhiệm khuyến nghị các biện pháp của tổ chức nhằm đảm bảo tuân thủ các
chuẩn mực về quyền con người trong các nhà tù, đề xuất cách thức xử lý,
khắc phục các hành vi vi phạm những chuẩn mực này, đảm bảo việc bảo vệ
nhân viên về mặt pháp lý và xã hội cũng như phát triển quan hệ hợp tác với
các địa phương và các tổ chức phi Chính phủ. Đã bộ nhiệm các chuyên gia cố
vấn về quyền con người cho từng vùng có nhà tù ở tất cả 89 vùng.
Thứ năm, và cũng là nhân tố cốt lõi tạo thuận lợi cho công cuộc cải
cách là số tù nhân đã giảm đáng kể
Số lượng tù nhân ở Nga
Có ba yếu tố chính góp phần làm giảm số tù nhân ở Nga.
Thứ nhất, yếu tố quan trọng nhất là việc đổi mới Bộ luật Tố tụng hình
sự (có hiệu lực vào năm 2002) cho phép kiểm soát về mặt tư pháp đối với
28
hoạt động điều tra và truy tố, quy định bắt buộc phải có cố vấn cho bên bị và
áp dụng hình thức quản thúc tại gia là chế tài thay thế cho việc tạm giam chờ
xét xử. Đáng chú ý nhất trọng các điều khoản của bộ luật có điều quy định rõ
ràng quyết định tạm giam nghi phạm trong khi chờ xét xử trở thành vấn đề
đối với tòa án hơn là với công tố viên.
Thứ hai, Bộ luật sửa đổi đã giảm thời gian tạm giam chờ xét xử và một
số án phạt tù đặc biệt đối với phạm nhân là phụ nữ và lứa tuổi vị thành niên.
Ngoài ra, kể từ năm 2003, thời gian tạm giam chờ xét xử được trừ vào thời
hạn tù.
Thứ ba, Bộ Tư pháp đã đưa ra một số chế tài thay thế hình thức tù
giam như lao động công ích và hạn chế tự do đi lại. Đã tiến hành các đợt ân
xá định kỳ.
Các vấn đề nảy sinh
Quan trọng nhất là những vấn đề liên quan tới nguồn lực. Hệ thống
quản lý phạm nhân hình sự gặp rất nhiều khó khăn vào thời điểm chuyển
sang Bộ Tư pháp. Cơ sở vật chất của nhiều tòa nhà và trang thiết bị kỹ thuật
cần thiết để canh phòng tù nhân không được duy tu, bảo dưỡng đến nơi đến
chốn cũng như không được nâng cấp trong nhiều năm. Tình trạng thiếu kinh
phí triền miên càng làm cho tình hình càng trở nên tồi tệ hơn.
Trong nhiều năm, ngân sách nhà nước chỉ đáp ứng 60% nhu cầu kinh
phí thực tế của hệ thống quản lý phạm nhân hình sự. Một số khoản chi như
chăm sóc y tế cho tù nhân bị kết án chỉ được đáp ứng ở mức không quá 20%.
Trong thời gian ba tháng trước khi tiến hành bàn giao hệ thống quản lý phạm
nhân hình sự sang Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ của Nga hoàn toàn không cấp một
chút kinh phí nào cho việc duy tu, bảo dưỡng các cơ sở giam giữ và cơ quan
trong hệ thống này.
29
Năm 2002, Nga đã giải quyết vấn đề này bằng cách đưa ra mức phân
bổ ngân sách phù hợp hơn với nhu cầu thực tế (cao hơn khoảng ba lần so với
năm 1998). Chương trình cải cách trên phạm vi toàn Liên bang với thời gian
thực hiện là bốn năm đã được thông quan năm 2001. Chương trình này sẽ xây
dựng thêm 45.000 cơ sở tạm giam chờ xét xử và đề ra cơ chế để các doanh
nghiệp tạo công ăn việc làm cho 40.000 tù nhân.
Thứ hai: là vấn đề nhân sự. Vào thời gian đầu mới chuyển sang Bộ Tư
pháp, việc tuyển dụng nhân sự, chức danh / vị trí và công tác đào tao / bồi
dưỡng cán bộ tuân theo các quy định về nhân sự của Bộ Nội vụ. Nga đã tiến
hành nghiên cứu xây dựng Luật về các Cơ sở thực thi pháp luật Liên bang
cùng với Luật Cán bộ, công chức và Luật Nghĩa vụ quân sự. Các bộ luật này
góp phần tạo nên hệ thống nhân sự thống nhất tập trung với các cấp bậc và
phân loại cán bộ tương đương với quân đội, đồng thời áp dụng nguyên tắc
hợp đồng lao động và thi tuyền nhân sự. Ngoài ra, còn có chế độ đãi ngộ cho
cán bộ, nhân viên và gia đình họ như khám, chữa bệnh miễn phí, trợ cấp bảo
hiểm xã hội, nghỉ hưu sớm và mức bồi thường cao hơn trong trường hợp
thương tích. Các biện pháp này kết hợp với việc tăng lương góp phần hạn chế
tình trạng cán bộ, nhân viên bỏ việc ở các nhà tù.
1.5.2. Thi hành án phạt tù tại Thái Lan[44]
Tình hình hiện nay
Vào tháng 7-2007, Thái Lan có số tù nhân là 165.316 người, tức là 253
tù nhân trên 100.000 người dân. Hiện có 137 cơ sở giam giữ duới sự quản lý
của Cục cải tạo và Giam giữ phạm nhân mà từ tháng 10-2002 đã chuyển về
Bộ Tư pháp sau 69 năm ở Bộ Nội vụ. Trách nhiệm quản lý đối tượng phạm
tội lứa tuổi vị thành niên thuộc về Cục Theo dõi và Bảo vệ lứa tuổi vị thành
30
niên trực thuộc Bộ Tư pháp, cũng là Bộ chủ quản của Cục quản lý tù treo.
Các tòa án ở Thái Lan có quyền quyết định các hình thức phạt không giam
giữ như phạt tiền, lao động công ích thay cho phạt tiền và các án treo có hoặc
vô điều kiện. Các phạm nhân lao động công ích dưới sự giám sát của cán bộ
quản lý tù treo, cán bộ chính quyền, các tổ chức cung cấp dịch vụ xã hội hoặc
hoạt động vì mục đích từ thiện. Ngoài ra, tùy theo mức độ rủi ro và nhu cầu
của phạm nhân cũng như hoàn cảnh phạm tội của họ, Tòa án có thể tạo thêm
điều kiện để giúp họ hoàn lương hay ngăn không cho họ tiếp tục phạm tội.
Cục Quản lý tù treo có trách nhiệm giám sát mọi điều kiện đưa ra trong
khuôn khổ án treo.
Chuyển giao trách nhiệm
Việc chuyển giao trách nhiệm quản lý nhà tù sang Bộ Tư pháp là một
phần của chương trình cải tổ bộ máy Chính phủ, trong đó có việc chuyển giao
vai trò giám sát Văn phòng Ban Phòng chống ma túy từ Thủ tướng sang Bộ
Tư pháp. Ngoài ra, Thái Lan đã thiết lập các cơ quan mới trong hệ thống tư
pháp như Phòng Các vấn đề tư pháp, Cục Điều tra đặc biệt, Cục Bảo vệ các
quyền và tự do và Viện nghiên cứu khoa học pháp lý Trung ương.
Mục tiêu chính của việc tổ chức, sắp xếp lại bộ máy hành chính nhà
nước là để bộ máy này hoạt động hiệu quả và minh bạch với trách nhiệm
công cao hơn. Các cơ quan có cùng nhiệm vụ được bố trí vào một khối. Cục
Cải tạo và Giam giữ phạm nhân với vai trò là đơn vị quan trọng trong hệ
thống tư pháp hình sự thì được chuyển giao và phối hợp chặt chẽ với Cục
quản lý tù treo và cục Theo dõi và bảo vệ lứa tuổi vị thành niên, cùng chịu sự
chỉ đạo, giám sát của Bộ trưởng Tư pháp.
Các Tòa án và Cục Cảnh sát Hoàng gia Thái Lan vẫn độc lập với Bộ
Tư Pháp.
31
Theo Cục Cải tạo và Giam giữ phạm nhân của Thái Lan, từ khi chuyển
giao trách nhiệm cải tạo, giam giữ phạm nhân sang Bộ Tư pháp đến nay chưa
có vấn đề gì lớn xảy ra, song đã có tin tức phản ánh về những vấn đề nảy sinh
từ việc sắp xếp lại tổ chức nội bộ chẳng hạn như chuyển các đơn vị sự vụ
chung như Vụ Tổ chức cán bộ, vụ Tài chính và Cục Thanh tra về cải tạo,
giam giữ phạm nhân sang khối hành chính tổng hợp đóng tại Văn phòng Bộ
Tư pháp. Ngoài ra, người ta cân nhắc có nên chuyển hệ thống phóng thích /
tạm tha có điều kiện, một trong những nhiệm vụ chính của Cục này sang Cục
Quản lý tù treo hay không. “Do những sự chuyển giao này mà rất nhiều cán
bộ của Cục Cải tạo và giam giữ phạm nhân sẽ phải thuyên chuyển công tác.
Một số sẽ được chuyển tới làm việc tại Văn phòng Bộ, còn những người khác
thì được chuyển tới làm việc tại các nhà tù. Tất nhiên, điều đó càng làm trầm
trọng thêm vấn đề thiếu nhân sự.
Vấn đề quan trọng nhất mà Bộ Tư pháp đã và đang giải quyết là con số
tù nhân tăng vọt và đạt đỉnh cao vào năm 2003 với hơn ¼ triệu người. Từ đó
đến nay, Bộ Tư Pháp đã góp phần làm cho con số tù nhân liên tục giảm. Theo
Bộ Tư pháp, một trong những nguyên nhân chính dẫn đến kết quả này là việc
thực thi luật pháp mới về cải tạo, phục hồi cho các đối tượng nghiện ma túy
trên cơ sở đối xử với họ như bệnh nhân chứ không phải như tội phạm. có tới
20% số phạm nhân liên quan tới ma túy được phòng thích khỏi nhà tù mỗi
năm.
Việc chuyển giao sang Bộ Tư pháp đã dẫn đến các bước cải cách khác
nhau trên quan điểm cho rằng “giam giữ an toàn không chỉ là giữ tù nhân
trong vòng kiểm soát mà còn là đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của họ và đối
xử với họ một cách công bằng”.
32
Các điều kiện trong nhà tù đã được cải thiện nhờ việc triển khai các
hoạt động thanh tra và kiểm toán ở cấp quốc gia và địa phương; tù nhân được
quyền khiếu nại khi bị đối xử tệ và đã tiến hành các bước đổi mới về Tố tụng
Hình sự được xây dựng nhằm bảo vệ phụ nữ và trẻ em.
Cục Cải tạo và Giam giữ phạm nhân cũng đã cố gắng áp dụng trên
phạm vi toàn thể Bộ Tư pháp chính sách về tư pháp cộng đồng thông qua
sáng kiến “Ratchthan Tambol” nhằm huy động sự tham gia của các cơ quan
công và tư ở cấp địa phương trong các hoạt động giúp phạm nhân cải tạo,
phục hồi nhân phẩm và xây dựng lại cuộc sống. Hiện nay, các chương trình
tư pháp giúp phạm nhân cải tạo quy chính hiện đang được triền khai.
1.5.3. Thi hành án phạt tù tại Cộng hòa nhân dân Trung Hoa[44]
Tình hình hiện nay
Vào cuối năm 2005, Trung Quốc có 1.565.771 tù nhân đang bị giam
giữ dưới sự quản lý của Bộ Tư pháp, những tù nhân này đang thụ án tù có
thời hạn cố định, tù chung thân hay án tử hình với thời hạn tạm hoãn thi hành
2 năm. Hiện có 674 nhà tù, trong đó có 30 cơ sở giam giữ dành cho phạm
nhân ở lứa tuổi vị và 29 nhà tù dành cho phạm nhân nữ.
Bộ Tư pháp có trách nhiệm chỉ đạo và giám sát việc thi hành án và cải
tạo, giam giữ phạm nhân cũng như chỉ đạo và quản lý các vấn đề liên quan
đến nhà tù. Bộ Tư pháp tiến hành những công việc này thông qua Cục quản
lý nhà tù. Cục này có trách nhiệm giám sát và thanh tra việc thi hành các Bộ
luật, quy chế và chính sách liên quan tới việc cải tạo, giam giữ tội phạm; quy
hoạch xây dựng và phân bố nhà tù trên phạm vi toàn quốc; chỉ đạo việc thi
hành án, quản lý các vấn đề nhà tù và giáo dục, cải tạo tù nhân; cũng như chỉ
33
đạo việc chế tạo, xây dựng cơ sở hạ tầng và các trang thiết bị cho hệ thống
nhà tù.
Ngoài ra, vào năm 2005, ước tính có khoảng 100.000 người bị tạm
giam chờ xét xử tại các trại giam do Bộ công an quản lý và hơn 800.000
người bị giam giữ hành chính. Có hai loại hình giam giữ hành chính: theo con
số thống kê của chính phủ Trung Quốc, có hơn 500.000 người bị giam giữ
hành chính tại các trại cải tạo lao động và năm 2005, và Báo cáo năm 2005
của Bộ Ngoại gia Hoa Kỳ về Quyền con người cho biết năm 2004 có 350.000
người bị giam giữ hành chính theo loại hình thứ hai, là loại hình dành cho các
đối tượng nghiệm ma túy và mại dâm. Nếu đúng như vậy thì tổng số tù nhân
ở Trung Quốc vào khoảng 2.500.000 người. Số tù nhân do Cục quản lý nhà tù
thuộc Bộ Tư pháp kết án liên tục tăng từ giữa thập kỷ 90 đến nay . Bộ Tư
pháp cũng có một bộ phận chịu trách nhiệm chỉ đạo và giám sát cải tạo thông
qua lao động mặc dù Bộ Công an cũng đóng vai trò chính trong công tác này.
Bộ Tư pháp bắt đầu tham gia vào công tác quản lý cải tạo lao động
năm 1983 khi Bộ Công an và Bộ Tư pháp quyết định phân chia công việc ở
nhiều cơ quan giam giữ khác nhau. Theo nhiều quy định được ban hành trong
giai đoạn từ 1983 đến 2008, Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm chính trong việc
giám sát cải tạo lao động, về các công việc hành chính, giáo dục cảnh sát thực
hiện nhiệm vụ cải tạo lao động và đào tạo nghiệp vụ cho người bị giam giữ.
Trên thực tế, Bộ Tư pháp và Bộ Công an đã đạt được nhiều bước tiến
trong việc thiết lập cơ chế điều phối quản lý đào tạo lao động mặc dù “Ban
Kiểm tra và Phê duyệt Cải tạo lao động” chủ yếu gồm các quan chức của Vụ
Pháp lý, Bộ Công an. Phần lớn các văn bản quy phạn pháp luật liên quan đến
cải tạo lao động đều do Bộ Công an ban hành.
34
Vai trò giám sát của Bộ Tư pháp không đơn thuần chỉ mang tính hình
thức. Dường như Phòng Cải tạo Lao động khá tích cực trong quá trình đổi
mới hệ thống, và một số cán bộ hiện đề xuất tư pháp hóa hệ thống này. Phòng
Cải tạo lao động của Bộ Tư pháp là một trong những cơ quan chịu trách
nhiệm thu thập dữ liệu thống kê về số người bị giam giữ tại các trại cải tạo
lao động.
Ở các tỉnh (các thành phố trực thuộc Trung Ương và các khu tự trị),
các cơ quan tư pháp có trách nhiệm quản lý các nhà tù đóng trên địa bàn do
họ phụ trách thông qua đơn vị có chức năng này. Như vậy, hầu hết các nhà tù
đều do Sở Tư pháp các tỉnh/thành phố quản lý, điều hành và bản thân Bộ Tư
pháp trực tiếp quản lý, điều hành một nhà tù.
Từ trước đến nay, việc cải tạo, phục hồi là vấn đề trung tâm trong công
tác nhà tù ở Trung Quốc.Từ xa xưa, nhà tù ở Trung Quốc được coi là nơi cải
tạo nhân cách của người tù. Trung Quốc ngày nay rất chú ý tới công tác giáo
dục được tiến hành dưới nhiều hình thức. Việc cải tạo tù nhân về tư tưởng và
chính trị vẫn được hết sức coi trọng. Ngày nay, những khóa học tập cải tạp
mới đã được thiết kế riêng cho đối tượng bị giam giữ, trong đó có cả việc dạy
tiếng Anh hay kỹ năng nghề nghiệp.
Giám sát của xã hội là loại hình phạt về hình sự độc đáo ở Trung Quốc,
theo đó phạm nhân bị hạn chế tự do nhưng không phải ngồi tù. Như vậy, họ
có thể được cải tạo dưới sự kiểm soát của cơ quan công an và sự giám sát của
công chúng. Thời hạn giám sát của xã hội không dưới ba tháng nhưng cũng
không vượt quá hai năm.
Theo Bộ Luật hình sự, nếu hoàn cảnh phạm tội của một người không
nghiêm trọng và không cần thiết phải áp dụng hình phạt về hình sự thì người
đó có thể được miễn trừ hình phạt này; tuy nhiên, tùy theo hoàn cảnh phạm
35
tội cụ thể, người đó có thể bị cơ quan có thẩm quyền khiển trách, bắt phải nói
lời ăn năn, hổi cải, đưa ra lời xin lỗi, bồi thường tổn thất hoặc áp dụng hình
phạt hay chế tài hành chính. Bộ Tư pháp hiện đang thử nghiệm nhiều loại
hình án tù treo và biện pháp cải tạo.
Tạm đình chỉ thi hành án là cơ chế cho phép tạm đình chỉ thi hành một
hình phạt về hình sự cụ thể đối với một người đã bị kết án với những điều
kiện nhất định trong giai đoạn án treo nếu người đó đáp ứng các yêu cầu do
luật pháp quy định. Cơ chế tạm đình thi hành án được áp dụng đối với một
người đã bị kết án đáp ứng hai điều kiện sau đây: (1) người đó bị kết án giam
giữ hình sự tù giam có thời hạn cố định nhưng không vượt quá ba năm; (2)
căn cứ vào hoàn cảnh phạm tội và việc người đó thể hiện sự ăn năn, hối lỗi,
có thể khẳng định chắc chắn sau khi quyết định tạm đình chỉ thi hành án được
đưa ra, người đó sẽ không tiếp tục gây hại cho xã hội.
Để chuyên nghiệp hóa và đặt hệ thống này trong khuôn khổ pháp lý,
vào tháng 5 năm 1983, các nhà tù và các trại cải tạo lao động được chuyển từ
Bộ Công an sang Bộ Tư pháp và Sở Tư pháp các tỉnh/ thành phố. Trước khi
Luật Nhà tù năm 1994 được thông qua, hệ thống nhà tù ở CHND Trung Hoa
được gọi là hệ thống cải tạo lao động. Trong nửa đầu thập kỷ 80, một số tỉnh
bắt đầu sử dụng từ “nhà tù” mà cho đến nay vẫn ít dùng (tuy nhiên, mãi đến
giữa thập kỷ 90 thì từ “nhà tù” mới được dùng phổ biến, ví dụ lúc đó ngay cả
các cơ sở giam giữ laogai ở khu vực Tây Bắc lần đầu tiên chính thức được
gọi là nhà tù).
Không rõ liệu đã nảy sinh các vấn đề cụ thể từ việc chuyển giao trách
nhiệm hay chưa. Có ý kiến cho rằng việc chuyển giao trách nhiệm từ Bộ
Công an sang Bộ Tư pháp diễn ra một cách ngẫu nhiên. Trên thực tế, Bộ Tư
36
pháp giải thể năm 1959 và mãi đến năm 1979 mới được khôi phục lại. Sau
khi khôi phục lại, Bộ này đã được giao một loạt vai trò trách nhiệm mới.
Ngay từ đầu thập kỷ 80, việc giáo dục trong nhà tù đã trở thành một
phần của kế hoạch giáo dục quốc gia, trong đó nhà tù được coi là trường học
đặc biệt. Thách thức chính đối với hệ thống nhà tù trong thời gian qua liên
quan tới việc giải quyết vấn đề nguồn lực.Từ trước đến nay, một phần ngân
sách của nhà tù được huy động qua doanh nghiệp và thành quả lao động của
tù nhân. Trung Quốc hiện đang triển khai công cuộc cải cách về công tác xử
án nhằm tách nhà tù khỏi doanh nghiệp cũng như các chương trình nhằm
chuyển nhà tù về các trung tâm dân cư và hiện đại hóa các phương pháp cải
cách và tái xã hội hóa.
1.5.4. Thi hành án phạt tù tại các nước khác (kể cả Anh và Wales)[44]
Chức năng giám sát công tác quản lý, điều hành nhà tù ở Anh và Wales
thuộc về Bộ Nội vụ cho đến tháng 5 năm 2007. Như vậy đây là một trong hai
quốc gia duy nhất trong số 47 quốc gia thành viên của Hội đồng Châu Âu mà
ở đó trách nhiệm quản lý nhà tù không thuộc về Bộ Tư pháp. Quốc gia thứ
hai là Tây Ban Nha có hệ thống nhà tù trực thuộc Bộ Nội vụ, mặc dù trong
chính phủ tự trị Catalonia, trách nhiệm đó thuộc về Bộ Tư pháp. Vào ngày 9
tháng 5 năm 2007, Bộ Tư pháp mới được thành lập tiếp nhận trách nhiệm
quản lý hệ thống nhà tù tại Anh và Wales. (Ở Xcốtlen, Cục Tư pháp đảm
nhiệm việc quản lý nhà tù năm 1999). Sự thay đổi này đã xếp Anh và Wales
cùng hàng với hầu hết các nước trên thế giới có Bộ hay Cục Tư pháp đảm
nhiệm chức năng giám sát công tác quản lý/điều hành các nhà tù, thường
thông qua một cơ quan thừa hành.
Việc quản lý các hoạt động liên quan tới tù giam và tù treo là trách
nhiệm của Cơ quan Quản lý phạm nhân Quốc gia (NOMS) – một cơ quan
37
thừa hành của Bộ Tư pháp. Nhiệm vụ của NOMS là thực thi các bản án và
quyết định từ các tòa án của Anh và Wales thông qua việc ủy thác các dịch
vụ liên quan tới phạm nhân là người trưởng thành đang bị giam giữ trong nhà
tù hay quản thúc ở ngoài cộng đồng cho các tổ chức nhà nước, tư nhân và bên
thứ ba; cung cấp các dịch vụ công liên quan tới tù giam; và giám sát các Ban
và Cơ quan ủy thác có chức năng cung cấp các dịch vụ công liên quan tới tù
treo. Các chi tiết về cách thức hoạt động của Cơ quan này được trình bày
trong Văn kiện khung của Cơ quan.
Ở hầu hết các nước Châu Âu, có mối liên quan chặt chẽ giữa cơ quan
quản lý nhà tù và cơ quan chịu trách nhiệm giám sát phạm nhân bị quản thúc
ở cộng đồng. Có khá ít quốc gia tổ chức hoạt động liên quan tới tù treo theo
mô hình của Anh và Wales . Còn có nhiều mô hình tổ chức khác theo xu
hướng kết hợp các hoạt động chăm sóc, cải tạo phạm nhân trong nhà tù và ở
ngoài cộng đồng. Ví dụ, ở Itali, Cục Quản lý các trại cải tạo có trách nhiệm
thực hiện cả hai cả hai mảng hoạt động này thông qua cơ quan Giam giữ và
Xử lý tội phạm và Cơ quan Thi hành các hình phạt ở cộng đồng. Hầu hết các
nước Xcăng-đi-na-vi có các cục/vụ quản lý chung cả tù giam và tù treo. Trên
thực tế, điều đó thường có nghĩa là các cục/vụ này có chung cơ quan đầu não
với chức năng hoạch định chính sách và giám sát, còn các đơn vị tác nghiệp
thì tách riêng. Khi dịch sang tiếng Anh, người ta cũng sử dụng “probation”
(tù treo/ án treo) nhưng cách thức thực hiện thì khác với mô hình áp dụng ở
Anh và Wales.
1.5.5. Thi hành án phạt tù tại Bungaria
Khái quát về lịch sử phát triển nhà tù và vấn đề quản lý thi hành
án hình sự của Bun-ga-ria
Thi hành án phạt tù
38
Hình phạt tù và hệ thống tổ chức, quản lý các nhà tù, trại tạm giam.
Theo quy định của Bộ luật Hình sự Bun-ga-ria, hình phạt tù có 3 loại: tù
chung thân suốt đời, tù chung thân có khả năng giảm xuống tù có thời hạn va
tù có thời hạn. Công tác quản lý nhà tù, trại tạm giam do Tổng cục thi hành
án hình phạt, Bộ Tư pháp đảm nhiệm.
Phạm nhân được phân loại để giam giữ tại các cơ sở giam giữ phù hợp
với giới tính, mức độ nghiêm trọng của hành vi tội phạm, thái độ cải tạo của
họ cũng như yêu cầu của công tác giáo dục cải tạo đối với họ. Cụ thể: Phụ nữ,
người chưa thành niên được giam giữ riêng: phạm nhân tái phạm được giam
giữ tại nhà tù, hostel theo chế độ chặt chẽ (closed); phạm nhân phạm tội lần
đầu bị kết án từ 5 năm trở xuống được giam giữ ở phân trại “mở” (open) và
phân trại “chuyển tiếp” (transitional) giam giữ các phạm nhân có thái độ cải
tạo tốt, đã có thời gian ít nhất 6 tháng cải tạo tại phân trại “closed” và thời
gian chấp hành hình phạt còn lại không quá 5 năm.
Chế độ giam giữ được phân thành 4 loại: nhẹ, chung, nghiêm khắc và
đặc biệt nghiêm khắc. Chế độ nhẹ được áp dụng đối với người bị kết án đến 5
năm tù về tội vô ý hoặc về tội cố ý nhưng bị kết án không quá một năm tù, trừ
các tội chống nhà nước, cướp, trộm cắp, lừa đảo, …; chế độ chung được áp
dụng đối với những người bị kết án do vô ý phạm tội hoặc phạm tội cố ý
nhưng hình phạt không quá 5 năm;
Chế độ nghiêm khắc được áp dụng đối với những người lần đầu phạm
tội bị kết án phạt tù trên 5 năm về tội gây cố ý hoặc dưới năm 5 tù nhưng
phạm nhiều tội; chế độ đặc biệt nghiêm khắc được áp dụng đối với những
người tái phạm, trốn trại, nguy hiểm cho cộng đồng, những người bị kết án
phạt tù trên 15 năm.
39
Việc quản lý, giám sát chung về cơ sở giam giữ do Bộ Tư pháp đảm
nhiệm. Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định cơ cấu tổ chức các cơ sở giam giữ.
Việc quản lý trực tiếp các cơ sở giam giữ do Tổng cục thi hành hình phạt trực
thuộc Bộ Tư pháp đảm trách. Nhà tù, trại cải tạo và cơ sở tạm giam do Tổng
cục thi hành hình phạt quản lý. Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định cơ cấu tổ
chức, chức năng nhiệm vụ của Tổng cục thi hành hình phạt, các cơ sở giam
giữ cũng như chức danh công việc của công chức và người làm việc tại các
cơ sở giam giữ.
Hệ thống tổ chức của Tổng cục thi hành hình phạt bao gồm: Tổng Cục
trưởng và 3 Phó Tổng cục trưởng; 4 vụ, cục (Cục bảo vệ, Cục các hành động
xã hội và giáo dục lao động phạm nhân, Cục cải tạo và Vụ các vấn đề tổ chức
và kiểm tra hoạt động thi hành hình phạt) và hệ thống các cơ sở giam giữ,
trung tâm đào tạo cũng như các trường hoạc dành cho phạm nhân. Cho đến
thời điểm hiện tại, lực lượng công tác tại cơ sở giam giữ do Tổng cục thi
hành hình phạt quản lý 4.776 người.
Vấn đề bảo vệ an ninh
Việc bảo đảm an ninh, trật tự tại các cơ sở giam giữ do Cục Bảo vệ
thuộc Tổng cục thi hành hình phạt, Bộ Tư phát đảm trách. Cần nói thêm rằng
tại thời điểm chuyển chức năng quản lý thi hành hình phạt từ Bộ Nội vụ sang
Bộ Tư pháp (1990) thì công việc bảo vệ các cơ sở tạm giam (Invesgative
Arest) vẫn do Bộ Nội vụ đảm nhiệm. Lực lượng này được chuyển toàn bộ
cho Bộ Tư Pháp quản lý kể từ năm 1998. Kể từ 01/05/2006 Bộ trưởng Bộ Tư
pháp trực tiếp tuyển dụng, phong cấp hàm, trả lương và các chế độ khác cho
lực lượng bảo vệ theo quy định của Luật về Bộ Nội vụ.
Mặc dầu đều trực thuộc Tổng cục thi hành hình phạt, nhưng lực lượng
bảo đảm an ninh, trật tự tại các cơ sở giam giữ được tổ chức thành 2 bộ phận
40
(2 Sections) độc lập vào năm 2005 theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình
sự: Bộ phận bảo vệ nhà tù và các cơ sở giam giữ người đã thành án và bộ
phận bảo vệ các nhà tạm giam. Lực lượng làm công tác bảo vệ tại các nhà tù
và các cơ sở giam giữ kiểm soát an ninh và phục trách mọi vấn đề liên quan
đến an ninh, trật tự tại các nhà tù và cơ sở giam giữ. Việc tổ chức thành 2 bộ
phận độc lập xuất phát từ tính chất và yêu cầu bảo vệ khác nhau giữa những
người đã thành án và những người đang trong quá trình điều tra, truy tố, xét
xử.
Một vấn đề cũng rất đáng lưu ý là mặc dù Bộ Tư pháp có lực lượng
bảo vệ nhà tù và các cơ sở giam giữ riêng, nhưng luật quy định khi cần thiết,
Bộ Tư pháp có quyền yêu cầu lực lượng đặc nhiệm của Bộ Nội vụ hỗ trợ để
lập lại trật tự, bảo đảm an toàn tuyệt đối cho nhà tù và các cơ sở giam giữ.
Bảo đảm an ninh cho các cơ sở tư pháp
Việc đảm bảo an ninh cho các cơ quan tư pháp do Cục bảo vệ, Bộ Tư
pháp đảm nhiệm. Lực lượng bảo vệ các cơ quan tư pháp hoạt động độc lập
với lực lượng bảo vệ nhà tù và các cơ sở giam giữ, kể cả các trại tạm giam, có
nhiệm vụ bảo đảm an ninh cho các cơ quan tư pháp, bảo vệ nạn nhân, nhân
chứng, dẫn giải bị can, bị cáo, thực hiện công tác kiểm tra an ninh cac công
sở của cơ quan tư pháp.
Tổng quan về pháp luật và vấn đề bảo đảm tính thống nhất pháp
luật và tư pháp Châu Âu tại Bun-ga-ria
Về khung pháp lý liên quan đến tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư
pháp và công tác thi hành án hình sự phải kể đến Bộ luật hình sự 2008, Bộ
luật Tố tụng hình sự 2008, Luật tư pháp 2008 (luật này quy định cơ cấu tổ
chức, nguyên tắc hoạt động của hệ thống các cơ quan tư pháp, mối quan hệ
giữa các cơ quan này cũng như mối quan hệ giữa cơ quan tư pháp với cơ
41
quan lập pháp và hành pháp) và Luật thi hành hình phạt. Đây là những đạo
luật quan trọng nhất đã được ban hành sửa đổi bổ sung sau khi Bun-ga-ria trở
thành thành viên của Cộng đồng chung Châu Âu (EU). Phải nói rằng, để nhập
EU Bun-ga-ria đã có nhiều cải cách thiết chế và thể chế theo chuẩn mực
chung của Cộng đồng. Đặc biệt, trong chế độ đa nguyên thì những lĩnh vực
liên quan trực tiếp đến quyền tự do, dân chủ, nhân quyền luôn được quan tâm
và sử dụng như một biện pháp trong đấu tranh dành ảnh hưởng chính trí giữa
các đảng phải. Điều này có thể là một trong những nhân tố để lý giải tại sao
Luật tư pháp 2008 quy định điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán phải là
những người trung lập, không tham gia đảng phái nào và cũng lý giải tại sao
Luật thi hành hình phạt được ban hành lần đầu vào năm 1969 tính đến nay đã
qua 28 lần sửa đổi, bổ sung liên quan đến tổ chức và chế độ giam giữ, cải tạo.
42
Chương II
CÁC QUY ĐỊNH VỀ THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ TRONG PHÁP LUẬT
VIỆT NAM
2.1 Các quy định thi hánh án phạt tù từ sau các mạng tháng 8 đến Bộ luật
Tố tụng Hình sự năm 1988
Nghiên cứu lịch sử lập pháp thi hành án hình sự Việt Nam cho thấy,
ngay từ trong kháng chiến chống Pháp, Nhà nước ta ban hành một số văn
bản pháp luật quy định cụ thể về việc thi hành án phạt tù. Ngày 3/6/1946,
Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 1735, trong đó nêu rõ vai trò của thi
hành án hình sự nói chung, thi hành án phạt tù nói riêng: "Bản bộ xét việc
thi hành án hình là một việc rất cần, vì rằng nếu Tòa án đã xử phạt tù hoặc
tiền một phạm nhân nào mà nếu án không được thi hành đến triệt để thì e
rằng các Tòa án sẽ mất giá trị đối với dân chúng. Vì vậy, bản bộ đề nghị với
quý bộ ra chỉ thị cho các cơ quan hành chính khi nào nhân được trích lục án:
Nếu phạt tù người nào, thì bắt ngay người phạm pháp rồi giao cho
giám đốc đề lao [9,tr 209].
Ngày 7/11/1950, Nhà nước ta đã ban hành Sắc lệnh số 150-SL về tổ
chức trại giam, trong đó quy định tại Điều 1: "Phạm nhân phải giam giữ trong
các trại giam để trừng trị và giáo hóa" và tại Điều 2: "Bộ Nội vụ có nhiệm vụ
tổ chức và kiểm soát các trại giam trong phạm vi toàn quốc [9, tr 44].
Thi hành Sắc lệnh này, Liên bộ Nội vụ - Tư pháp đã ban hành Nghị
định số 181 ngày 12/6/1951 quy định việc thiết lập và quản trị trại giam tại
Điểu 1: "Mỗi tỉnh hoặc thành phố có một trại giam để giam giữ:
a) Những phạm nhân thành án về tội chính trị hay tội thường.
b) Những người bị quyết nghị đưa an trí.
c) Những bị cáo giam cứu về tội chính trị hay tội thường [9, tr 44].
43
Nghị định cũng đã quy định cụ thể việc sinh hoạt của phạm nhân, giáo
hóa phạm nhân tại chương 2. Điều 4 quy định: "Trong thời gian bị giam cầm,
phạm nhân được ăn đủ theo mức sống tối thiểu cần thiết, tùy theo hoàn cảnh
kinh tế của mỗi địa phương". Giáo hóa phạm nhân được quy định tại Điều 5:
"Việc giáo dục phạm nhân về phương diện tư tưởng, tư cách và nghề nghiệp
phải được tổ chức trong mỗi trại bằng công tác lao động và đời sống tập thể.
Phạm nhân ai cũng được đọc sách báo, học tập về văn hóa, chính trị, hướng
dẫn về các thủ công nghiệp, tăng gia sản xuất [ 9, tr 44].
Ban hành cùng với Nghị định số 181 là Quy tắc trại giam gồm 3 chương
với 60 điều quy định cụ thể những vấn đề: tiếp nhận, di chuyển, phóng thích
phạm nhân, cách sắp đặt phạm nhân trong trại giam, sổ sách kiểm tra, báo cáo
kiểm tra; trật tự và kỷ luật; ăn uống, áo quần, chỗ nằm, quân sự hóa, thăm hỏi
phạm nhân, vệ sinh y tế, phương pháp giáo hóa phạm nhân, thể lệ dùng phạm
nhân vào các công tác. Điều 8 của Quy tắc quy định về cách sắp đặt phạm
nhân trong trại giam như sau: "Trong trại giam nên giam riêng biệt:
- Chính trị phạm.
- Những người bị an trí.
- Những phạm nhân nguy hiểm hoặc hung dữ không chịu cải hối (có
thể giam vào một biệt lao).
- Những người bị giam cứu.
- Những phạm nhân là đàn bà [ 9, tr 47].
Quy tắc này còn hướng dẫn việc phân loại những phạm nhân thành án
tại Điều 9: "Nếu có thể được, những phạm nhân thành án nên phân loại như
sau và giam riêng:
- Sơ phạm.
44
- Phạm pháp nhiều lần.
- Phạm nhân dưới 18 tuổi.
- Phạm nhân trên 55 tuổi.
- Phạm nhân tàng tật [9, tr 47].
Phương pháp giáo hóa phạm nhân được quy định tại Điều 50: "Phạm
nhân được cải tạo tư tưởng bằng cách:
a) Làm việc lao động để ý thức lao động cải tạo con người.
b) Tập cho quen sống tập thể, có tổ chức và có kỷ luật.
c) Học hỏi về công cuộc kháng chiến và kiến quốc hiện tại và tình hình
quốc tế.
d) Học hỏi về chế độ dân chủ nhân dân.
e) Kiểm thảo việc thi hành Quy tắc trại giam [ 9, tr 50].
Việc tổ chức cho phạm nhân đời sống tập thể được quy định tại Điều
55: "Ban Giám thị sẽ hướng dẫn phạm nhân tổ chức đời sống tập thể. Có thể
thành lập những tiểu ban sau đây:
- Tiểu ban đại biểu.
- Tiểu ban cấp dưỡng.
- Tiểu ban vui sống.
- Tiểu ban tăng gia sản xuất.
- Tiểu ban trật tự vệ sinh.
- Tiểu ban học tập.
- Tiểu ban tiểu công nghệ.
45
- Quỹ tương tế v.v..[ 9, tr 50].
Nghiên cứu các văn bản quy định việc thi hành án phạt tù nói trên,
chúng ta có thể rút ra những nhận xét sau đây:
Thứ nhất, trong tình hình kháng chiến khẩn trương, việc ban hành các
văn bản về thi hành án phạt tù theo trình tự chặt chẽ từ Sắc lệnh, Nghị định
đến Quy tắc trại giam là sự kiện pháp lý quan trọng, đánh dấu sự trưởng
thành về kỹ thuật lập pháp thi hành án phạt tù ở nước ta. Đây là cơ sở pháp lý
để thực hiện việc giáo dục, cải tạo phạm nhân, góp phần vào việc đấu tranh
chống thực dân Pháp và tay sai.
Thứ hai, sự điều chỉnh pháp luật việc thi hành án phạt tù khá đầy đủ,
chi tiết, đã thể chế hóa chính sách thi hành án hình sự nhân đạo của Đảng và
Nhà nước ta. Các nguyên tắc pháp chế, dân chủ, nhân đạo, phân hóa trách
nhiệm hình sự và cá thể hóa việc thi hành hình phạt đã được quán triệt sâu
sắc trong các văn bản nói trên.
Thứ ba, trong bối cảnh công cuộc kháng chiến, các văn bản nói trên
cũng đã bộc lộ những khiếm khuyết về kỹ thuật lập pháp như chưa phân biệt
những người bị kết án tù (phạm nhân) với những người đang trong quá trình
điều tra bị áp dụng biện pháp ngăn chặn (bị giam cứu) và những người bị áp
dụng biện pháp hành chính đặc biệt (bị quyết nghị đưa đi an trí đặc biệt).
Sau khi hòa bình được lập lại ở miền Bắc, vấn đề kiểm tra việc thi
hành án phạt tù đã được Nhà nước ta quan tâm. Hội nghị cán bộ trại giam
toàn quốc lần thứ ba do Bộ Công an triệu tập đã kiểm điểm tình hình giam
giữ ở các trại giam, trại cải tạo và phát hiện một số lệch lạc, thiếu sót trong
việc thi hành án phạt tù. Để chấn chỉnh tình trạng này, ngày 23/8/1956, Liên
bộ Công an - Tư pháp đã ban hành Thông tư số 1500 về việc giam giữ và
kiểm tra trại giam. Về việc giam giữ, Thông tư quy định: "Trại giam hoặc trại
46
cải tạo chỉ nhận phạm nhân hoặc cho lấy phạm nhân đi khi có lệnh viết ký tên
và đóng dấu của cán bộ có thẩm quyền... Đối với phạm nhân đã thành án và
đã mãn hạn tù thì Công tố ủy viên tại địa hạt trại cải tạo nơi phạm nhân đang
bị giam ký phóng thích. Trại cải tạo không có quyền giữ phạm nhân quá ngày
mãn hạn tù, trừ trường hợp có lệnh của cấp trên thì không kể [9, tr 51]. Việc
kiểm tra các trại giam, trại cải tạo được quy định tại Phần 2 của Thông tư:
"Công tố ủy viên Tòa án nhân dân tỉnh và khu cần phải kiểm tra các trại giam
và trại cải tạo... Nếu trong khi kiểm tra, Tòa án thấy có những khuyết điểm
của trại về mặt thái độ đối xử với phạm nhân, chế độ ăn uống, bảo đảm sức
khỏe... Tòa án cần phải thảo luận với Công an và Ban giám trị của trại để có
kế hoạch sửa chữa".
Sau một thời gian Thực hiện Thông tư số 1500 của Liên bộ Công an -
Tư pháp cho thấy, việc giao cho Tòa án nhân dân ký lệnh thả phạm nhân hết
hạn tù đã bộc lộ những bất hợp lý: nhiều trường hợp thả không đúng thời hạn vì
công văn, giấy tờ có thể bị chậm trễ, nhất là đối với số phạm nhân bị giam
giữ ở những trại xa. Vì vậy, sau khi thống nhất ý kiến với Tòa án nhân dân tối
cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao về việc giao cho Công an ký lệnh tha
phạm nhân hết hạn tù đảm bảo cho việc thả phạm nhân đúng thời hạn, tại
Thông tư số 966 ngày 30/5/1961, Bộ Công an đã giao cho các Chánh, Phó
Giám đốc và Trưởng, Phó Ty Công an ký giấy thả phạm nhân hết hạn tù bị
giam ở các trại giam trực thuộc Khu, Sở, Ty Công an và giao cho các Chánh,
Phó Giám thị trại cải tạo ký giấy thả phạm nhân hết hạn tù bị giam ở các trại
cải tạo trực thuộc Trung ương. Thông tư số 966 còn quy định: "Ít nhất ba tháng
trước khi một phạm nhân bị giam ở trại cải tạo hết hạn tù, Ban giám thị phải
báo cho Tòa án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân nơi đã điều tra và xét xử
vụ án biết về thời hạn thả phạm nhân [28, tr 254].
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn
Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn

More Related Content

What's hot

Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hìnhLuận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hìnhDịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

What's hot (20)

Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sựLuận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sự
 
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOTLuận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
 
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hìnhLuận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
 
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOTLuận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
 
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOTLuận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật TTHS Việt Nam
Luận văn: Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật TTHS Việt NamLuận văn: Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật TTHS Việt Nam
Luận văn: Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật TTHS Việt Nam
 
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOTLuận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
 
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOTLuận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
 
Luận văn: Biện pháp tạm giam theo tố tụng hình sự Việt Nam, 9đ
Luận văn: Biện pháp tạm giam theo tố tụng hình sự Việt Nam, 9đLuận văn: Biện pháp tạm giam theo tố tụng hình sự Việt Nam, 9đ
Luận văn: Biện pháp tạm giam theo tố tụng hình sự Việt Nam, 9đ
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sựLuận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOTLuận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOT
 
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng NaiLuận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
 
Luận văn: Cơ quan Cảnh sát điều tra trong tố tụng hình sự
Luận văn: Cơ quan Cảnh sát điều tra trong tố tụng hình sự Luận văn: Cơ quan Cảnh sát điều tra trong tố tụng hình sự
Luận văn: Cơ quan Cảnh sát điều tra trong tố tụng hình sự
 
Luận văn: Vấn đề để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình, HOT
Luận văn: Vấn đề để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình, HOTLuận văn: Vấn đề để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình, HOT
Luận văn: Vấn đề để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình, HOT
 
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng
 
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sựLuận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
 
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hotluan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
 
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAYLuận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
 

Similar to Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn

BAI-NGHIEN-CUU-KHOA-HOC.pdf
BAI-NGHIEN-CUU-KHOA-HOC.pdfBAI-NGHIEN-CUU-KHOA-HOC.pdf
BAI-NGHIEN-CUU-KHOA-HOC.pdfBlueSeaNguyen1
 

Similar to Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn (20)

BAI-NGHIEN-CUU-KHOA-HOC.pdf
BAI-NGHIEN-CUU-KHOA-HOC.pdfBAI-NGHIEN-CUU-KHOA-HOC.pdf
BAI-NGHIEN-CUU-KHOA-HOC.pdf
 
Quyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do
Quyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự doQuyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do
Quyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do
 
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOTLuận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
 
Đề tài: Tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong Luật hình sự, HOT
Đề tài: Tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong Luật hình sự, HOTĐề tài: Tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong Luật hình sự, HOT
Đề tài: Tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong Luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAYLuận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự, HAYLuận văn: Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự, HAY
 
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luậtNhững căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
 
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua xét xử hình sự, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua xét xử hình sự, HAYLuận văn: Giáo dục pháp luật thông qua xét xử hình sự, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua xét xử hình sự, HAY
 
Hình phạt tù có thời hạn và tái hòa nhập đối với người mãn hạn tù
Hình phạt tù có thời hạn và tái hòa nhập đối với người mãn hạn tùHình phạt tù có thời hạn và tái hòa nhập đối với người mãn hạn tù
Hình phạt tù có thời hạn và tái hòa nhập đối với người mãn hạn tù
 
Luận văn: Tội phá hoại chính sách đoàn kết trong Luật hình sự
Luận văn: Tội phá hoại chính sách đoàn kết trong Luật hình sựLuận văn: Tội phá hoại chính sách đoàn kết trong Luật hình sự
Luận văn: Tội phá hoại chính sách đoàn kết trong Luật hình sự
 
Luận văn: Tội phá hoại chính sách đoàn kết trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội phá hoại chính sách đoàn kết trong Luật hình sự, HAYLuận văn: Tội phá hoại chính sách đoàn kết trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội phá hoại chính sách đoàn kết trong Luật hình sự, HAY
 
Đề tài: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Đề tài: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ ánĐề tài: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Đề tài: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
 
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ ánLuận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
 
Vai trò của Viện kiểm sát trong ngăn chặn giai đoạn điều tra, HOT
Vai trò của Viện kiểm sát trong ngăn chặn giai đoạn điều tra, HOTVai trò của Viện kiểm sát trong ngăn chặn giai đoạn điều tra, HOT
Vai trò của Viện kiểm sát trong ngăn chặn giai đoạn điều tra, HOT
 
Luận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân, HOTLuận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân, HOT
 
Luận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân tại các trại giam
Luận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân tại các trại giamLuận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân tại các trại giam
Luận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân tại các trại giam
 
Thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án và quyết định hình sự, HAY
Thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án và quyết định hình sự, HAYThi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án và quyết định hình sự, HAY
Thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án và quyết định hình sự, HAY
 
Luận văn: Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam, HAYLuận văn: Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Phòng, chống tra tấn trong pháp luật quốc tế và Việt Nam, HOT
Phòng, chống tra tấn trong pháp luật quốc tế và Việt Nam, HOTPhòng, chống tra tấn trong pháp luật quốc tế và Việt Nam, HOT
Phòng, chống tra tấn trong pháp luật quốc tế và Việt Nam, HOT
 
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOTQuyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...hoangtuansinh1
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanmyvh40253
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgsNmmeomeo
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhdtlnnm
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxNhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxhoangvubaongoc112011
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảohoanhv296
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxNhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 

Luận văn: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - vấn đề lý luận, thực tiễn

  • 1. 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐẶNG QUANG THẮNG MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ Ở VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật hình sự Mã số : 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS.TSHK LÊ VĂN CẢM Hà Nội - 2012
  • 2. 2 MỞ ĐẦU ......................................................................................................4 Chương I ....................................................................................................10 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TÙ Ở VIỆT NAM ...........................................................................................................10 1.1. Khái niệm thi hành án phạt tù và ý nghĩa của việc nghiên cứu nó .....10 1.1.1. Khái niệm thi hành án phạt tù.....................................................10 1.1.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu thi hành án phạt tù.........................12 1.2 Vai trò của thi hành án phạt tù...........................................................13 1.2.1 Trong công tác giáo dục những người bị kết án..........................13 1.2.2 Trong hoạt động tư pháp hình sự.............................................16 1.2.3 Trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm ..................18 1.3. Các đặc điểm cơ bản của thi hành án phạt tù .....................................20 1.3.1. Đặc điểm thứ nhất .....................................................................20 1.3.2. Đặc điểm thứ hai .......................................................................20 1.3.3. Đặc điểm thứ ba........................................................................20 1.3.4. Đặc điểm thứ tư .......................................................................21 1.4 . Phân loại thì hành án phạt tù ............................................................21 1.4.1. Thi hành án phạt tù có thời hạn ..................................................22 1.4.2. Thi hành án phạt tù chung thân...................................................23 1.5. Thi hành án phạt tù trong pháp luật thi hành án hình sự của một số nước trên thế giới.....................................................................................24 1.5.1. Thi hành án phạt tù tại Nga [51] .................................................24 1.5.2. Thi hành án phạt tù tại Thái Lan[44] ..........................................29 1.5.3. Thi hành án phạt tù tại Cộng hòa nhân dân Trung Hoa[44] ........32 1.5.4. Thi hành án phạt tù tại các nước khác (kể cả Anh và Wales)[44] 36 1.5.5. Thi hành án phạt tù tại Bungaria.................................................37 Chương II...................................................................................................42 CÁC QUY ĐỊNH VỀ THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM.................................................................................................42 2.1 Các quy định thi hánh án phạt tù từ sau các mạng tháng 8 đến Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 1988 ......................................................................42 2.2. Các quy định của pháp luật về thi hành án phạt tù từ khi có Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 đến Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 ...............48 2.3 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 ...................................................57 Chương III .................................................................................................65 THỰC TRẠNG THI HÀNH HÌNH PHẠT TÙ Ở VIỆT NAM VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ Ở VIỆT NAM.................................................................................................65 3.1. Thực trạng tình hình thi hành án phạt tù............................................65
  • 3. 3 3.1.4 Những ưu điểm, tồn tại và nguyên nhân của thực trạng thi hành án phạt tù ở Việt Nam hiện nay.................................................................75 3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành án phạt tù ở nước ta hiện nay .................................................................................................................87 3.2.1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả thi hành án phạt tù..............87 3.2.2. Hoàn thiện những quy định của pháp luật về tổ chức thi hành án phạt tù..................................................................................................94 3.2.3. Hoàn thiện những quy định của pháp luật thi hành án phạt tù cần nghiên cứu, vận dụng của các nước ngoài ............................................99 3.2.4. Giải pháp về tổ chức, bộ máy của các cơ quan có nhiệm vụ thi hành án phạt tù...................................................................................108 3.2.5. Giải pháp về tăng cường sự phối hợp giữa Tòa án, Viện Kiểm sát, Công an và các cơ quan hữu quan khác..............................................110 3.2.6. Giải pháp tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về thi hành án phạt tù ...........................................................................................110 3.2.7. Giải pháp về tăng cường hợp tác quốc tế trong thi hành án phạt tù ...........................................................................................................113 3.2.8. Giải pháp về cơ sở vật chất - kỹ thuật, trang thiết bị cho các cơ quan có nhiệm vụ thi hành án phạt tù.................................................114 3.2.9. Giúp người mãn hạn tù tái hòa nhập để giảm tỷ lệ phạm tội .....114 KẾT LUẬN ..............................................................................................117 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................120
  • 4. 4 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu: Công cuộc đổi mới của Đảng ta được khởi xướng từ Đại hội toàn quốc lần thứ VI năm 1986 cho tới nay đã 26 năm, trong tiến trình ấy bộ mặt xã hội từng bước được thay đổi. Nền kinh tế chuyển từ chế độ quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiện nay trong xã hội xảy ra rất nhiều hiện tượng tiêu cực như nạn tham nhũng , buôn lậu và các tệ nạn xã hội khác đã trở thành một trong những nguy cơ đe doạ sự ổn định xã hội, sự nghiệp đổi mới của toàn dân. Việc đấu tranh chống tội phạm đươc tiến hành bằng tổng thể các biện pháp kinh tế - xã hội và pháp lý, trong đó Thi hành án phạt tù đã phát huy tác dụng tích cực và có hiệu quả trong lĩnh vực quản lý, giam giữ, giáo dục, cải tạo phạm nhân, góp phần quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh phòng, chống tội phạm, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, phục vụ tích cực vào công cuộc đổi mới. Thi hành án hình sự nói chung, thi hành án phạt tù nói riêng là một hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước nhằm thực hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án trong thực tiễn. Bản án, quyết định của Tòa án được thi hành chính là lúc công lý được thực hiện trong cuộc sống. Nhiệm vụ của giai đoạn này nhằm mục đích cảm hoá tư tưởng, giáo dục nhân cách, văn hóa, kỹ năng lao động nhằm mục đích làm cho người thụ án trở thành một công dân tốt cho xã hội, mặt khác góp phần răn đe, ngăn ngừa chung. Đặc trưng cơ bản của thi hành án (THA) phạt tù là tính cưỡng chế nghiêm khắc. Người phải THA phạt tù bị cách ly khỏi xã hội, khỏi môi trường sống bình
  • 5. 5 thường và phải chịu sự quản lý, giáo dục trong môi trường tách biệt với những quy định chặt chẽ và nghiêm ngặt. THA phạt tù là một vấn đề quan trọng thể hiện quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước ta đối với công tác cải tạo, giáo dục những người lầm lỗi. Hoạt động THA phạt tù của chúng ta một mặt nhằm đề cao tính nghiêm minh của pháp luật, đề cao pháp chế XHCN, mặt khác, đó là quá trình giáo dục, cải tạo phạm nhân để giúp họ nhận thức một cách sâu sắc sai lầm của mình và từ đó, họ tự giác cải tạo, sửa chữa lỗi lầm, xây dựng ý thức tuân thủ pháp luật và các quy tắc của đời sống xã hội, ngăn ngừa hành vi tái phạm tội và hơn nữa là giúp họ sớm hoàn lương để trở về với cộng đồng xã hội. Việc áp dụng THA phạt tù ở nước ta phải luôn quán triệt phương châm “kết hợp giữa trừng phạt và cải tạo”, trong đó đặt công tác giáo dục, cải tạo con người lên hàng đầu nhằm giúp người THA phạt tù chuyển hóa về mặt tư tưởng, tích cực sửa chữa thói xấu trong ứng xử trái với chuẩn mực của xã hội để tìm lại chân giá trị của mình trong đời sống xã hội. THA phạt tù không chỉ là một hoạt động trực tiếp tác động đến người phải THA mà còn tác động đến gia đình của người phạm tội, đến các thành viên khác trong xã hội. Do đó, nghiên cứu việc tổ chức THA phạt tù có ý nghĩa xã hội sâu sắc. THA nói chung và THA phạt tù nói riêng là một hoạt động trong lĩnh vực công tác tư pháp. Do đó, quá trình tổ chức THA phạt tù không tách khỏi quá trình cải cách tư pháp của nước ta hiện nay. Với ý nghĩa là giai đoạn cuối cùng của quá trình giải quyết một vụ án, thi hành án có mối quan hệ hữu cơ với giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Nếu mục đích của thi hành án không đạt được thì toàn bộ hoạt động của
  • 6. 6 cơ quan điều tra, truy tố, xét xử trước đó cũng trở nên vô nghĩa. Nếu như một bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật không được thi hành hoặc thi hành không nghiêm thì trật tự kỷ cương xã hội bị vi phạm, quyền lực Nhà nước bị xem thường. Chính vì vậy, việc bảo đảm hiệu lực của các bản án, quyết định của Tòa án là một yêu cầu khách quan trong hoạt động quản lý Nhà nước. Chúng ta không thể phủ nhận những kết quả đã đạt được của thi hành án hình sự trong những năm vừa qua, hàng vạn người bị kết án đã chấp hành xong hình phạt, trở về với cuộc sống lương thiện. Thi hành án hình sự có những đóng góp quan trọng nhằm bảo đảm hiệu lực của các bản án, quyết định của Tòa án, góp phần giữ vững trật tự kỷ cương và ổn định xã hội. Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực, hệ thống tổ chức và hoạt động thi hành án cũng bộc lộ những mặt hạn chế nhất định. Vì vậy, đổi mới tổ chức và hoạt động Thi hành án hình sự nói chung và thi hành án phạt tù nói riêng là yêu cầu khách quan nhằm tạo lập một cơ chế hữu hiệu đảm bảo thực thi có hiệu quả các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật trong toàn xã hội, thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ quyền dân chủ của nhân dân, bảo đảm trật tự an toàn xã hội và môi trường pháp lý tin cậy trong mọi mặt sinh hoạt của đời sống xã hội. Tuy nhiên, trước yêu cầu của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, của cải cách tư pháp theo đường lối của Đảng. Thực tiễn thi hành án phạt tù đã bộc lộ một số mặt hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới. do vậy việc nghiên cứu đề tài : “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn thi hành án phạt tù ở Việt Nam”
  • 7. 7 để trên cơ sở đó giải quyết các vướng mắc trong lý luận và thực tiễn và góp phần hoàn thiện hơn về mặt lập pháp các quy định thi hành án phạt tù. 2. Tình hình nghiên cứu Thi hành án phạt tù là một vấn đề đã được nhiều nhà luật học trên thế giới và trong nước quan tâm nghiên cứu. Tác giả Hoàng Ngọc Nhất có công trình "Một số vấn đề cấp bách về thi hành án hình sự", trong đó có đề cập đến thi hành án tù (Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 1 năm 2001); tác giả Đỗ Văn Chỉnh có công trình " người đang chấp hành hình phạt tù bị bệnh nặng được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù- những tồn tại và vấn đề cần hướng dẫn” (Tạp chí tòa án nhân dân số 04/2006); tác giả Đỗ Văn Chỉnh với bài viết “ Bàn về thi hành án hình sự” ( Tạp chí Tòa án nhân dân số 08/2010); tác giả Nguyễn Phong Hòa công trình nghiên cứu “Thực trạng công tác thi hành án hình sự và những kiến nghị” (Tạp chí tòa án nhân dân tháng 11/2006) ; tác giả Mai Bộ với công trình “ Về việc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù” (Tạp chí tòa án nhân dân số 08/2005). Các công trình nói trên đã đề cập đến các khía cạnh khác nhau của việc thi hành án phạt tù, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu một cách tương đối toàn diện và tương đối có hệ thống về thi hành án phạt tù và các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành án phạt tù dưới cấp độ một luận văn Thạc sỹ luật học. 3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng nghiên cứu của luận văn a) Mục đích của luận văn là nghiên cứu một cách có hệ thống một số vấn đề lý luận và thực tiễn thi hành án phạt tù để đề ra các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành án phạt tù ở nước ta. b) Nhiệm vụ của luận văn Để đạt được mục đích trên, tác giả của luận văn đã đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ sau:
  • 8. 8 1- Làm sáng tỏ cơ sở lý luận - thực tiễn về thi hành án phạt tù. 2- Đánh giá thực tiễn thi hành án phạt tù, nêu ra mặt được, mặt chưa được của việc thi hành án phạt tù trong giai đoạn từ khi ban hành Pháp lệnh Thi hành án phạt tù 1993 cho đến nay. 3- Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành án phạt tù ở Việt Nam. c) Đối tượng nghiên cứu của luận văn Luận văn nghiên cứu thi hành án phạt tù ở Việt Nam. 4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của luận văn là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, về chính sách hình sự nói chung, chính sách thi hành án phạt tù nói riêng. Đề tài được thực hiện trên cơ sở quán triệt các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, các văn bản pháp luật của Nhà nước về thi hành án phạt tù. Cơ sở thực tiễn của khóa luận các báo cáo chuyên đề về thi hành án phạt tù của Tổng Cục Cảnh sát Quản lý trại giam và hỗ trợ tư pháp, Bộ Công an, Vụ Kiểm sát cải tạo và giam giữ, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao... Cơ sở phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong khi thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp sau: phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, lịch sử, lôgíc, so sánh, thống kê. 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài Kết quả nghiên cứu và những kiến nghị của luận văn có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động thi hành án phạt tù ở Việt Nam. Việc đề xuất hệ
  • 9. 9 thống các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành án phạt tù có ý nghĩa góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật về thi hành án phạt tù, hướng dẫn áp dụng thống nhất các quy định về thi hành án phạt tù, giúp các cơ quan thi hành án phạt tù có các biện pháp hữu hiệu nhằm giáo dục, cải tạo phạm nhân, tái hòa nhập họ với cộng đồng. 6. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương: - Chương I: Một số vấn đề lý luận thi hành án phạt tù ở Việt Nam. - Chương II: Các quy định về thi hành án phạt tù trong pháp luật Việt Nam. - Chương III: Thực trạng và các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành án phạt tù ở Việt Nam.
  • 10. 10 Chương I MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TÙ Ở VIỆT NAM 1.1. Khái niệm thi hành án phạt tù và ý nghĩa của việc nghiên cứu nó 1.1.1. Khái niệm thi hành án phạt tù Theo Hán - Việt từ điển của tác giả Đào Duy Anh, thi hành là: "Đem cái việc đã trù định sẵn mà làm ra cho có hiệu quả" [46, tr. 398]. Như vậy, thi hành án có thể được hiểu là đem bản án của Tòa án ra thi hành trên thực tế cho có hiệu quả; còn thi hành án hình sự là việc đưa các bản án, quyết định hình sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật ra thi hành trên thực tế. Điều này có nghĩa, chỉ các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và đang có hiệu lực pháp luật mới được đem thi hành. Đó là các bản án, quyết định hình sự được quy định tại khoản 1, Điều 255 Bộ luật tố tụng hình sự nhưng chưa quá thời hiệu thi hành theo quy định tại Điều 55 Bộ luật hình sự năm 1999: 1. Những bản án và quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm; 2.Những bản án và quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm; 3. Những quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Tòa án Theo quy định những bản án, quyết định hình sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật không được thi hành ngay mà còn phải qua một trình tự, thủ tục, tổ chức thi hành. Đó là việc Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm vụ án hoặc được ủy quyền căn cứ vào Khoản 1, Điều 256 Bộ luật tố tụng hình sự trong thời hạn bảy ngày ra quyết định thi hành án. Thi hành các bản án và quyết định có hiệu lực của Tòa án là một hoạt động phức tạp, đa dạng liên quan đến nhiều lĩnh vực từ việc thi hành các hình
  • 11. 11 phạt chính như cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình đến các hình phạt bổ sung như cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, cấm cư trú, quản chế, tước một số quyền công dân, tịch thu tài sản, phạt tiền (khi không áp dụng là hình phạt chính), trục xuất (khi không áp dụng là hình phạt chính); các biện pháp tư pháp như tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm, trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, buộc công khai xin lỗi, bắt buộc chữa bệnh; các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội như giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng. Như vậy, thi hành án hình sự và hình phạt, biện pháp tư pháp có quan hệ hữu cơ, tác động qua lại, chặt chẽ với nhau. Trong mối quan hệ này, hình phạt và biện pháp tư pháp giữ vai trò quyết định, quy định nội dung, phương pháp, hình thức, thời gian thi hành án hình sự. Có thể dễ dàng chứng minh điều này, vì thi hành hình phạt tử hình khác với thi hành hình phạt tù, khác với thi hành các hình phạt không phải là tù và tử hình và càng khác với thi hành các biện pháp tư pháp. Ngược lại, thi hành án hình sự có tác động trở lại đối với hình phạt, biện pháp tư pháp, làm cho mục đích của hình phạt, biện pháp tư pháp được thực hiện trên thực tế, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Thực chất của thi hành án hình sự là việc tổ chức thi hành các hình phạt, biện pháp tư pháp được quy định trong bản án hoặc quyết định hình sự có hiệu lực pháp luật trên thực tế. Đó chính là việc thực thi công lý trên cơ sở chân lý đã được hoạt động tố tụng hình sự chứng minh. Nội dung thi hành án hình sự rất rộng, bao gồm: thủ tục, chế độ, tổ chức thi hành án, áp dụng các biện pháp hành chính, giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội và thực hiện chế độ, chính sách đối với người bị kết án. Các quan hệ
  • 12. 12 xã hội cụ thể phát sinh trong quá trình thi hành và chấp hành hình phạt như: việc đưa bản án ra thi hành, chỉ định cơ quan tổ chức thi hành án, tổ chức lực lượng, cơ sở vật chất đảm bảo cho thi hành án; quản lý nhà nước về công tác thi hành án; quy định về quyền và nghĩa vụ của người chấp hành án; nghĩa vụ của cơ quan nhà nước hữu quan... do pháp luật thi hành án hình sự quy định. Qua nghiên cứu pháp luật thi hành án hình sự, lý luận và thực tiễn thi hành án hình sự ở một số nước trên thế giới có thể thấy, lý luận thi hành án hình sự kém phát triển hơn so với lý luận về các ngành luật khác trong hệ thống tư pháp hình sự. Điều này được lý giải bởi tình trạng pháp luật điều chỉnh lĩnh vực này còn chưa đầy đủ, lại thường bị bổ sung, sửa đổi; còn rất ít các công trình nghiên cứu khoa học, các sách chuyên khảo về lĩnh vực này. Từ sự phân tích ở trên, có thể đi đến kết luận: thi hành án phạt tù là việc cơ quan Thi hành án hình sự buộc phạm nhân phải chịu sự quản lý giam giữ, giáo dục và cải tạo để họ trở thành người có ích cho xã hội. 1.1.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu thi hành án phạt tù Việc thi hành án hình sự nói chung, thi hành án phạt tù nói riêng, lần đầu tiên được quy định trong Luật thi hành án hình sự của nước ta, có ý nghĩa về mặt lập pháp hết sức to lớn, đánh dấu sự trưởng thành về mặt kỹ thuật lập pháp thi hành án hình sự của nước ta. Trong thi hành án hình sự, thi hành án phạt tù đóng một vai trò quan trọng. Nó đảm bảo cho bản án phạt tù có thời hạn, phạt tù chung thân của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật được thực hiện trên thực tế, thể hiện sự chuyên chế của Nhà nước xã hội chủ nghĩa trong việc kiên quyết xử lý những phần tử phạm tội mà Nhà nước xét thấy cần phải cách ly khỏi xã hội có thể giáo dục, cải tạo được và trả lại cho cộng đồng. Việc quy định thi hành án phạt tù trong Luật thi hành án hình sự như vậy là nhằm góp phần tích cực vào việc bảo vệ
  • 13. 13 sự an toàn, vững mạnh của chế độ, bảo vệ tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm, danh dự của công dân. Những vi phạm về trình tự, thủ tục trong thi hành án phạt tù đều bị coi là những hành vi vi phạm pháp luật; chúng không những xâm hại hoạt động đúng đắn của các cơ quan có nhiệm vụ thi hành án phạt tù, xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của người chấp hành án, mà còn làm giảm lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Như vậy, việc quy định thi hành án phạt tù còn đảm bảo sự dân chủ, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người chấp hành án, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Việc nghiên cứu thi hành án phạt tù, ngoài ý nghĩa về mặt lý luận, còn có ý nghĩa phục vụ nâng cao nhận thức của nhân dân nói chung, cán bộ các cơ quan bảo vệ pháp luật nói chung về sự cần thiết phải thực hiện đúng, đầy đủ, chặt chẽ các quy định của pháp luật về thi hành án phạt tù, góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm; giúp công dân có cơ sở pháp lý tham gia vào hoạt động thi hành án hình sự nói chung, thi hành án phạt tù nói riêng, đồng thời tạo cơ sở pháp lý cho người phải chấp hành án phạt tù được tự bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Bên cạnh đó, nó có ý nghĩa cung cấp cứ liệu khoa học cho việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về thi hành án hình sự nói chung, thi hành án phạt tù nói riêng và phục vụ các cơ quan chức năng trong việc hướng dẫn áp dụng thống nhất các quy định về thi hành án phạt tù. Như vậy, việc nghiên cứu thi hành án phạt tù có ý nghĩa rất quan trọng trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. 1.2 Vai trò của thi hành án phạt tù 1.2.1 Trong công tác giáo dục những người bị kết án Công tác thi hành án hình sự nói chung, thi hành án phạt tù nói riêng là giai đoạn cuối cùng, bảo đảm cho bản án, quyết định của Tòa án được chấp
  • 14. 14 hành, góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa:góp phần quan trọng trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, giữ vững ổn định chính trị- xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước. Chính vì lẽ đó, vị trí vai trò đặc biệt quan trọng của thi hành án đã được quy định ngay tại điều 136 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992: “ Các bản án và quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm minh chấp hành”. Đặc trưng cơ bản của thi hành án (THA) phạt tù là tính cưỡng chế nghiêm khắc. Người phải THA phạt tù bị cách ly khỏi xã hội, khỏi môi trường sống bình thường và phải chịu sự quản lý, giáo dục trong môi trường tách biệt với những quy định chặt chẽ và nghiêm ngặt. THA phạt tù là một vấn đề quan trọng thể hiện quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước ta đối với công tác cải tạo, giáo dục những người lầm lỗi. Hoạt động THA phạt tù của chúng ta một mặt nhằm đề cao tính nghiêm minh của pháp luật, đề cao pháp chế XHCN, mặt khác, đó là quá trình giáo dục, cải tạo phạm nhân để giúp họ nhận thức một cách sâu sắc sai lầm của mình và từ đó, họ tự giác cải tạo, sửa chữa lỗi lầm, xây dựng ý thức tuân thủ pháp luật và các quy tắc của đời sống xã hội, ngăn ngừa hành vi tái phạm tội và hơn nữa là giúp họ sớm hoàn lương để trở về với cộng đồng xã hội. Việc áp dụng THA phạt tù ở nước ta phải luôn quán triệt phương châm kết hợp giữa “ trừng phạt và giáo dục”, “ cưỡng chế và thuyết phục”, trong đó đặt công tác giáo dục, cải tạo con người lên hàng đầu nhằm giúp người THA phạt tù chuyển hóa về mặt tư tưởng, tích cực sửa chữa thói xấu trong ứng xử trái với chuẩn mực của xã hội để tìm lại chân giá trị của mình trong đời sống xã hội.
  • 15. 15 THA phạt tù không chỉ là một hoạt động trực tiếp tác động đến người phải THA mà còn tác động đến gia đình của người phạm tội, đến các thành viên khác trong xã hội. Do đó, nghiên cứu việc tổ chức THA phạt tù có ý nghĩa xã hội sâu sắc. Quá trình giam giữ đối với người bị kết án cũng là quá trình giáo dục, cải tạo họ nhằm giúp họ sửa chữa lỗi lầm để trở về với xã hội. Chính vì vậy, việc nghiên cứu và áp dụng các biện pháp quản lý giáo dục đối với người phạm tội trong các trại giam cũng như việc thực hiện các chế độ, chính sách đối với họ có ý nghĩa hết sức to lớn. Nó không chỉ nhằm bảo đảm sự chặt chẽ trong quản lý, giáo dục người phạm tội mà còn động viên, khơi dậy và phát huy ý thức tự giác, lòng tự trọng của người phạm tội trong quá trình tự rèn luyện, cải tạo mình, giúp họ sớm tìm lại chân giá trị của mình trong đời sống xã hội. Đồng thời, việc sử dụng các biện pháp quản lý, giáo dục và thực hiện tốt các chế độ chính sách đối với người phạm tội trong các trại giam chính là sự phản ánh về trình độ, năng lực quản lý của nhà nước; sự quan tâm của nhà nước, xã hội đối với những người bị lầm lỗi; sự thể hiện thái độ của nhà nước về các quyền của con người. Có thể nói, về vấn đề này nhiều nước đã có nhiều sáng tạo và kinh nghiệm tốt trong quản lý, giáo dục cũng như thực hiện các chính sách mang tính nhân đạo đối với người bị áp dụng hình phạt tù. Các nhà tâm lý học, tội phạm học Việt Nam từ trước đến nay đều thống nhất quan điểm cho rằng, việc giáo dục, cải tạo người phạm tội trở thành người lương thiện là điều hoàn toàn có thể làm được. Quan điểm này hoàn toàn phù hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh: "Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng" [50, tr. 558].
  • 16. 16 Giáo dục người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội trong giáo dục học được gọi là giáo dục lại người phạm tội. Đây là quá trình nhằm làm thay đổi những quan điểm, nhận thức không đúng đắn của người phạm tội, cải tạo các thói quen, hành động sai trái đã hình thành ở người phạm tội. Những nhận thức, hành động sai trái của người phạm tội không phải là bản tính vốn có của họ, mà là do ảnh hưởng của những yếu tố không lành mạnh trong môi trường gia đình, nhà trường, xã hội, của những điều kiện thuận lợi cho tội phạm phát sinh, phát triển, những thiếu sót trong quản lý xã hội của các cơ quan chức năng... Những nhận thức, thói quen xấu ở người phạm tội hoàn toàn có thể cải tạo được, nếu tổ chức đúng đắn việc giáo dục lại người bị kết án trong thi hành án hình sự. 1.2.2 Trong hoạt động tư pháp hình sự Thi hành án hình sự nói chung, thi hành án phạt tù nói riêng có vai trò quan trọng trong hoạt động tư pháp hình sự nói chung và quá trình giải quyết vụ án nói riêng. Hoạt động thi hành hình sự là công đoạn cuối cùng, bảo đảm cho các bản án, quyết định hình sự của Tòa án được chấp hành. Hoạt động thi hành án hình sự nói chung, thi hành án phạt tù nói riêng có thể được hiểu là hình thức các thẩm quyền tương ứng do luật định của hệ thống các cơ quan chuyên trách thuộc nhánh quyền hành pháp mà thông qua đó các bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của tòa án được bảo đảm thi hành trong thực tiễn, cụ thể: Là việc cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền theo quy định của Luật thi hành án hình sự buộc phạm nhân phải chịu quản lý giam giữ, giáo dục, cải tạo để họ trở thành người có ích cho xã hội THA phạt tù là một hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước nhằm thực hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án trong thực tiễn. Bản án, quyết định của Tòa án được thi hành chính là lúc công lý được thực hiện
  • 17. 17 trong cuộc sống. Nhiệm vụ của giai đoạn này nhằm mục đích cảm hoá tư tưởng, giáo dục nhân cách, văn hóa, kỹ năng lao động nhằm mục đích làm cho người thụ án trở thành một công dân tốt cho xã hội, mặt khác góp phần răn đe, ngăn ngừa chung. Với ý nghĩa là giai đoạn cuối cùng của quá trình giải quyết một vụ án, thi hành án có mối quan hệ hữu cơ với giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Nếu mục đích của thi hành án không đạt được thì toàn bộ hoạt động của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử trước đó cũng trở nên vô nghĩa. Nếu như một bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật không được thi hành hoặc thi hành không nghiêm thì trật tự kỷ cương xã hội bị vi phạm, quyền lực Nhà nước bị xem thường. Chính vì vậy, việc bảo đảm hiệu lực của các bản án, quyết định của Tòa án là một yêu cầu khách quan trong hoạt động quản lý Nhà nước. Với tư cách là bộ phận cấu thành của hệ thống tư pháp hình sự, chúng ta có thể thấy được cơ quan thi hành án hình sự nói chung, thi hành án phạt tù nói riêng với việc thực hiện tốt những nhiệm vụ được triển khai cụ thể trên cơ sở các chức năng của mình, Thi hành án phạt tù sẽ góp phần cùng với các cơ quan tiến hành tố tụng củng cố niềm tin của nhân dân vào hiệu lực của bộ máy Nhà nước, vào hiệu quả và sức mạnh của pháp luật và pháp chế, vào một loạt các tư tưởng pháp lý cao cả và tiến bộ được thừa nhận chung của nền văn minh nhân loại (như: công bằng, nhân đạo, dân chủ và pháp chế), cũng như vào thắng lợi huy hoàng của chính nghĩa đối với tàn bạo, của công lý đối với bất công, của cái thiện đối với cái ác, vào các giá trị quí báu của xã hội dân sự và các nguyên tắc được thừa nhận chung của nhà nước pháp quyền với bảy nguyên tắc cơ bản: 1. Nhà nước pháp quyền là tổ chức công quyền (quyền lực công khai) trong hệ thống chính trị của xã hội dân sự.
  • 18. 18 2. Nhà nước pháp quyền là Nhà nước được xây dựng trên các tư tưởng pháp lý tiến bộ của nhân loại như công bằng, nhân đạo, dân chủ, pháp chế. 3. Nhà nước pháp quyền là Nhà nước đảm bảo thực sự việc tôn trọng và bảo vệ các quyền và tự do của con người. 4. Nhà nước pháp quyền là Nhà nước đảm bảo thực sự điạ vị ngự trị của pháp luật trong các lĩnh vực sinh hoạt của đời sống xã hội. 5. Nhà nước pháp quyền là Nhà nước đảm bảo thực sự tính tối thượng của luật trong các lĩnh vực hoạt động của Nhà nước. 6. Nhà nước pháp quyền là Nhà nước đảm bảo thực sự nguyên tắc phân công quyền lực thành ba nhánh – lập pháp, hành pháp và tư pháp. 7. Nhà nước pháp quyền đảm bảo thực sự chủ quyền của nhân dân . 1.2.3 Trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm Hệ thống pháp luật đấu tranh phòng chống tội phạm là tổng thể những văn bản pháp luật thống nhất có chứa các chế định và các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành trong lĩnh vực tư pháp hình sự bao gồm các văn bản pháp luật tố tụng hình sự, pháp luật thi hành án hình sự cũng như một số văn bản pháp luật khác có liên quan đến tổ chức hoạt động tư pháp hình sự với tư cách là những căn cứ pháp lý điều chỉnh các nhóm quan hệ xã hội phát sinh trong toàn quá trình xử lý tội phạm và giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự của người phạm tội nhằm bảo đảm cho việc triển khai hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm của hệ thống tư pháp hình sự được tuân thủ đúng pháp luật, đạt hiệu quả và các mục đích của nó.
  • 19. 19 Với tư cách là “đầu ra cuối cùng” trong toàn bộ toàn bộ hoạt động thực tiễn của hệ thống tư pháp hình sự của đất nước, Thi hành án hình sự là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật về đấu tranh phòng, chống tội phạm. Thi hành án hình sự là giai đoạn cuối cùng của một vụ án hình sự. Công tác điều tra, truy tố và xét xử là rất quan trọng. Quyết định hình phạt của Toà án chính là sự đánh giá, sự lên án của Nhà nước đối với hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện. Nếu chỉ dừng ở mức đánh giá, lên án mà không thực hiện bằng các biện pháp mang tính cưỡng chế đặc trưng của quyền lực nhà nước thì tác dụng giáo dục, răn đe, phòng ngừa và tính chịu hình phạt hạn chế, thậm chí là không có tác dụng. Chính vì vậy, Luật thi hành àn hình sự đã có những quy định cụ thể về thi hành án hình sự nói chung , thi hành án phạt tù nói riêng, các quy định về thi hành án phạt tù nhằm đảm bảo việc thi hành nghiêm túc các bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật hoặc chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay.
  • 20. 20 1.3. Các đặc điểm cơ bản của thi hành án phạt tù 1.3.1. Đặc điểm thứ nhất – Thi hành án phạt tù là một hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước, là hình thức thực hiện các thẩm quyền tương ứng của hệ thống các cơ quan chuyên trách thuộc nhánh quyền hành pháp nhằm thực hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án trong thực tiễn. Bản án, quyết định của Tòa án được thi hành chính là lúc công lý được thực hiện trong cuộc sống. Nhiệm vụ của giai đoạn này nhằm mục đích cảm hoá tư tưởng, giáo dục nhân cách, văn hóa, kỹ năng lao động và làm cho người thụ án trở thành một công dân tốt cho xã hội, mặt khác góp phần răn đe, ngăn ngừa chung. Với ý nghĩa là giai đoạn cuối cùng của quá trình giải quyết một vụ án, thi hành án có mối quan hệ hữu cơ với giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Nếu mục đích của thi hành án không đạt được thì toàn bộ hoạt động của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử trước đó cũng trở nên vô nghĩa. Nếu như một bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật không được thi hành hoặc thi hành không nghiêm thì trật tự kỷ cương xã hội bị vi phạm, quyền lực Nhà nước bị xem thường. Chính vì vậy, việc bảo đảm hiệu lực của các bản án, quyết định của Tòa án là một yêu cầu khách quan trong hoạt động quản lý Nhà nước. 1.3.2. Đặc điểm thứ hai – là tính cưỡng chế nghiêm khắc của thi hành án phạt tù. Người phải THA phạt tù bị cách ly khỏi xã hội, khỏi môi trường sống bình thường và phải chịu sự quản lý, giáo dục trong môi trường tách biệt với những quy định chặt chẽ và nghiêm ngặt. Bằng hoạt động thi hành án phạt tù, các bản án kết tội có hiệu lực pháp luật (tù có thời hạn, tù chung thân) được đảm bảo thi hành trong thực tiễn bằng sức mạnh cưỡng chế nghiêm khắc nhất. 1.3.3. Đặc điểm thứ ba- THA phạt tù là một vấn đề quan trọng thể hiện quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước ta đối với công tác cải tạo, giáo dục những người lầm lỗi. Giáo dục người phạm tội là một trong những mục đích của hình phạt được quy định tại Điều 27 Bộ luật Hình sự năm 1999: "Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới". Mục đích của hình phạt là thành tố có tính chất quyết định, quy định nội dung, phương pháp, hình thức, tiêu chí, biện pháp kiểm tra, đánh giá kết quả của thi hành án hình sự. Mục đích của hình phạt có đạt được hay không phụ thuộc vào Cơ quan thi hành án hình sự và người bị kết án, đặc biệt là phụ
  • 21. 21 thuộc vào việc cán bộ, nhân viên Cơ quan thi hành án hình sự có ý thức được đầy đủ ý nghĩa của mục đích của hình phạt hay không? Do đó, quán triệt mục đích của hình phạt trong hoạt động thi hành án hình sự nói chung, mục đích giáo dục người phạm tội nói riêng là nhiệm vụ thường xuyên của các Cơ quan thi hành án hình sự. Giáo dục người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội trong giáo dục học được gọi là giáo dục lại người phạm tội. Đây là quá trình nhằm làm thay đổi những quan điểm, nhận thức không đúng đắn của người phạm tội, cải tạo các thói quen, hành động sai trái đã hình thành ở người phạm tội. Những nhận thức, hành động sai trái của người phạm tội không phải là bản tính vốn có của họ, mà là do ảnh hưởng của những yếu tố không lành mạnh trong môi trường gia đình, nhà trường, xã hội, của những điều kiện thuận lợi cho tội phạm phát sinh, phát triển, những thiếu sót trong quản lý xã hội của các cơ quan chức năng... Những nhận thức, thói quen xấu ở người phạm tội hoàn toàn có thể cải tạo được, nếu tổ chức đúng đắn việc giáo dục lại người bị kết án trong thi hành án hình sự. 1.3.4. Đặc điểm thứ tư – Để đảm bảo tính truyền thống và sự nghiêm minh, tính khả thi và hiệu quả cao nên hoạt động thi hành án phạt tù của nước ta luôn và cần phải do hệ thống các cơ quan chuyên trách của Bộ Công an thuộc nhánh quyền hành pháp với tư cách là một trong nhưng dạng lực lượng cũ trang nhân dân của Nhà nước đảm nhiệm. 1.4 . Phân loại thì hành án phạt tù Thi hành án hình sự nói chung, thi hành án phạt tù nói riêng là là giai đoạn cuối cùng của một vụ án hình sự. Thi hành án phạt tù là thi hành quyết
  • 22. 22 định phạt tù gồm có tù chung thân và tù có thời hạn của các bản án hình sự theo quyết định của Tòa án nhân dân 1.4.1. Thi hành án phạt tù có thời hạn Hình phạt tù có thời hạn là buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại trại giam trong một thời hạn nhất định. áp dụng hình phạt tù không chỉ nhằm trực tiếp trừng trị, giáo dục người phạm tội mà còn nhằm giáo dục người khác về ý thức tôn trọng pháp luật và tham gia vào quá trình phòng ngừa, đấu tranh chống mọi hành vi vi phạm pháp luật. Đặc trưng cơ bản của thi hành án phạt tù là tính cưỡng chế nghiêm khắc. Người phải thi hành án phạt tù bị cách ly khỏi xã hội, khỏi môi trường sống bình thường và phải chịu sự quản lý, giáo dục trong môi trường tách biệt với những quy định chặt chẽ và nghiêm ngặt. Tù có thời hạn là hình phạt buộc người bị kết án phải cách ly khỏi xã hội trong một thời gian nhất định. Tù có thời hạn là hình thức phạt phổ biến được quy định trong hầu hết các điều luật thuộc Phần các tội phạm riêng. So với hình phạt cải tạo không giam giữ thì tù có thời hạn có nội dung cưỡng chế nghiêm khắc nhiều hơn. Nếu như cải tạo không giam giữ tác động đến người bị kết án mà không cần phải cách ly khỏi xã hội, khỏi môi trường sống và hoạt động bình thường của họ trước khi phạm tội thì đối với tù có thời hạn người bị kết án bị tước tự do bị giam giữ trong một môi trường chịu sự chi phối ngặt nghèo. Hạn chế sự tự do của người bị kết án tù có thời hạn là nội dung pháp lý chủ yếu của hình phạt này. Nói cách khác tù có thời hạn tác động đến quyền lợi thiết thân trong những quyền cơ bản của con người đó là quyền tự do. Theo điều 33 Bộ luật Hình sự quy định: “tù có thời hạn là việc buộc người bị kết án phải chấp hành
  • 23. 23 hình phạt tại trại giam trong một thời hạn nhất định. Tù có thời hạn đối với người phạm một tội có mức tối thiểu là 3 tháng, mức tối đa là hai mười năm. Thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù, cứ mỗi ngày tạm giữ, tạm giam bằng một ngày tù”. Hình phạt tù có thời hạn nó bao hàm kết hợp giữa trừng trị và cải tạo giáo dục, giữa cưỡng chế và thuyết phục cũng như phòng ngừa đấu tranh chống tội phạm, tuy nhiên khi nghiên cứu tìm hiểu giữa hình phạt tù và các hình phạt khác còn có một khoảng cách quá xa về nội dung cưỡng chế cũng như chế độ chấp hành nên hạn chế sự lựa chọn của tòa án khi xét xử. 1.4.2. Thi hành án phạt tù chung thân Theo điều 34 Bộ luật hình sự quy định: “Tù chung thân hành hình phạt tù không có thời hạn được áp dụng đối với người phạm tội trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, nhưng chưa đến mức phạt tử hình. Không áp dụng tù chung thân đối với người chưa thành niên phạm tội”. Tù chung thân là loại hình phạt có tính chất nghiêm khắc hơn hình phạt tù có thời hạn và nhẹ hơn hình phạt tử hình. Tù chung thân giống tù có thời hạn ở chỗ các hình phạt này đều tước tự do của người bị kết án cách ly khỏi xã hội để giáo dục cải tạo và phòng ngừ tội phạm. Nhưng điểm khác của nó là ở chỗ nó có khả năng tước tự do của một người bị kết án hết đời. Trong hệ thống hình phạt luật hình sự nước ta thì tù chung thân là loại hình phạt được áp dụng hình phạt tù có thời hạn mặc dù ở mức cao nhất của khung là 20 năm tù vẫn còn chưa tương xứng với tính chất và hình vi phạm tội nghĩa là việc áp dụng nó vẫn còn nhẹ, nhưng nếu áp dụng hình phạt tử hình thì chưa thật cần thiết.
  • 24. 24 Nhìn từ từ góc độ lý luận cũng như thực tiễn hình phạt tù chung thân đóng một vai trò quan trọng trong việc áp dụng hình phạt cũng như trong đấu tranh phòng và chống tội phạm. Tuy nhiên, về mặt luật định giữa hình phạt tù chung thân và tử hình không có danh giới rõ ràng về điều kiện áp dụng. Trong điều 34 Bộ luật hình sự quy định điều kiện áp dụng tù chung thân dưới dạng là: “được áp dụng đối với người phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng nhưng chưa đến mức tử hình”. Như vậy với người phạt tù chung thân có nghĩa là họ vẫn còn có khả năng cải tạo giáo dục. Theo pháp luật hình sự Việt Nam thì một người bị tù chung thân có khả năng được giảm xuống tù có thời hạn là 20 năm trong trường hợp họ cải tạo tốt và qua nhiều lần giảm chấp hành hình phạt. 1.5. Thi hành án phạt tù trong pháp luật thi hành án hình sự của một số nước trên thế giới 1.5.1. Thi hành án phạt tù tại Nga [51] Tình hình hiện nay Vào tháng 6-2009, số tù nhân ở Liên bang Nga là 894.855 người, tức là 635 tù nhân trên 100.000 người dân. Tù nhân được giam giữ tại 1.051 cơ sở, bao gồm 766 khu cải tạo, 216 trại cách ly hay trại giam chờ xét xử (SIZO), 7 nhà tù và 62 khu giam giữ phạm nhân lứa tuổi vị thành niên. Trách nhiệm quản lý hệ thống nhà tù thuộc về cơ quan thi hành án Liên bang (FSES) được thiết lập ngày 9-3-2004 theo Nghị định số 314 của Tổng thống. Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm soạn thảo các văn bản pháp lý liên quan
  • 25. 25 tới các vấn đề về nhà tù, song FSES là cơ quan phụ trách riêng về việc thực hiện. cơ quan này chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Văn phòng Tổng thống. Cơ quan thanh tra thi hành án hình sự, trực thuộc FSES, chịu trách nhiệm về những đối tượng bị kết án với những chế tài thay thế và được phóng thích. Các chế tài thay thế bao gồm lao động công ích và quản thúc tại gia. FSES chịu trách nhiệm tiến hành giáo dục và điều trị tâm lý chẩn đoán trong nhà tù. Về việc giúp cho phạm nhân xây dựng lại cuộc sống, cơ quan thanh tra phối hợp chặt chẽ với các trung tâm môi giới việc làm và các địa phương để tìm ra giải pháp cho các vấn đề xã hội mà những đối tượng bị kết án với những chế tài thay thế hay được phóng thích phải đối mặt. Chuyển giao trách nhiệm Một trong những điều kiện để kết nạp Nga vào Hội đồng Châu Âu là chuyển giao tất cả các cơ sở giam giữ và cơ quan quản lý, điều hành việc xử phạt những đối tượng bị kết án từ Bộ Nội vụ của Nga sang Bộ Tư pháp Liên bang Nga. Điều kiện này đã được đáp ứng vào ngày 31-8-1998 khi hệ thống quản lý phạm nhân hình sự được sát nhập vào Bộ Tư pháp (trừ các hình thức kỷ luật quân sự). Kết quả của việc chuyển giao Năm 1998, tổng số tù nhân là hơn một triệu người, tức là 688 tù nhân / 100.000 người dân. Theo Yuri Kelinin: “hệ thống quản lý phạm nhân hình sự hà khắc đã dẫn đến việc sử dụng tùy tiện các biện pháp quản thúc, khiến cho tù nhân lẽ ra không thuộc diện phải cách ly với xã hội cũng bị giam giữ và sau đó bị tước đoạt quyền tự do”. Điều đó khiến cho các cơ sở giam giữ này bị quá tải và tù nhân không được cung cấp đủ lương thực / thực phẩm, quần áo, giày dép, thuốc thang và
  • 26. 26 các nhu yếu phẩm khác theo yêu cầu. Tình trạng này đặc biệt tồi tệ ở các cơ sở tạm giam (SIZO) nơi những đối tượng nghi vấn hay cáo buộc đã phạm tội bị giam giữ trong khi tiến hành điều tra sơ bộ hay điều tra tư pháp. Tại một số cơ sở như vậy, mỗi tù nhân chỉ có khoản 1m2 diện tích (trong khi tiêu chuẩn quy định là 4m2 ). Tình trạng này dẫn đến kết quả là các tù nhân phải thay nhau ngủ. Kết quả của việc chuyển giao được chia thành năm nhóm chính: Thứ nhất: trách nhiệm quản lý hệ thống nhà tù nhận được sự quan tâm, ủng hộ mạnh mẽ hơn nhiều về mặt chính trị. Năm 1999, Vladimir Putin, thủ tướng Nga lúc bấy giờ là vị lãnh tụ đầu tiên của Chính phủ đi thăm một SIZO và hai năm sau, trên cương vị Tổng thống, ông đã đề cập tới sự cần thiết phải cải cách nhà tù trong một bài phát biểu với toàn quốc; một năm sau, Ông nhấn mạnh cần phải nhân đạo hóa hệ thống quản lý phạm nhân hình sự và đặc biệt phải khuyến khích bộ máy lập pháp đưa ra những chế tài thay thế cho hình thức tù giam. Thứ hai: việc chuyển giao đã nâng cao nhận thức về nhiệm vụ của xã hội phải quan tâm và tham gia trong việc xây dựng hệ thống nhà tù, cũng góp phần cải thiện mối quan hệ với các cơ quan có thẩm quyền địa phương và các tổ chức phi chính phủ hoạt động trong lĩnh vực này. Thứ ba: Bộ Tư pháp giờ đây đã có khả năng giám sát chương trình cải cách các cơ sở giam giữ và cơ quan trong hệ thống quản lý phạm nhân hình sự. Kể từ năm 1998 đến nay, đã có những bước cải thiện về cơ sở lập pháp và quy chuẩn cho hệ thống quản lý thi hành án. Cơ sở hạ tầng cần thiết cho hệ thống này đã được xây dựng; một loạt các dịch vụ đã được đặt trên một nền tảng vững chắc hơn; và các chi nhánh mới của hệ thống đã được thiết lập. Cuộc cải cách đã được phân cấp trên cơ sở trao nhiều quyền tự chủ hơn cho
  • 27. 27 các cơ quan quản lý nhà tù cấp vùng. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nhà tù được tăng cường. Trực thuộc Bộ Tư pháp, hệ thống quản lý phạm nhân hình sự đã đảm nhận nhiều nhiệm vụ hơn: chịu trách nhiệm áp giải tù nhân khi họ ở bên ngoài cơ sở giam giữ, cung cấp các dịch vụ khám, chữa bệnh cho tù nhân, tiến hành các dự án xây dựng lớn, đào tạo nhân viên tại các cơ sở đào tạo riêng hệ thống ở cả khối trung học chuyên nghiệp và đại học cũng như trả tiền hưu trí. Những nội dung sửa đổi trong bộ luật hình sự giờ đây cho phép thi hành án tại các khu định cư, tức là các cơ sở bán mở. Thứ tư, việc chuyển giao được coi là sự cam kết ở mức độ cao hơn đối với các quyền con người. Năm 2002, một cơ quan mới trực thuộc Bộ Tư pháp có trách nhiệm đảm bảo việc thi hành luật và tôn trọng quyền con người được thiết lập, và cán bộ thanh tra độc lập về quyền con người được giao trách nhiệm khuyến nghị các biện pháp của tổ chức nhằm đảm bảo tuân thủ các chuẩn mực về quyền con người trong các nhà tù, đề xuất cách thức xử lý, khắc phục các hành vi vi phạm những chuẩn mực này, đảm bảo việc bảo vệ nhân viên về mặt pháp lý và xã hội cũng như phát triển quan hệ hợp tác với các địa phương và các tổ chức phi Chính phủ. Đã bộ nhiệm các chuyên gia cố vấn về quyền con người cho từng vùng có nhà tù ở tất cả 89 vùng. Thứ năm, và cũng là nhân tố cốt lõi tạo thuận lợi cho công cuộc cải cách là số tù nhân đã giảm đáng kể Số lượng tù nhân ở Nga Có ba yếu tố chính góp phần làm giảm số tù nhân ở Nga. Thứ nhất, yếu tố quan trọng nhất là việc đổi mới Bộ luật Tố tụng hình sự (có hiệu lực vào năm 2002) cho phép kiểm soát về mặt tư pháp đối với
  • 28. 28 hoạt động điều tra và truy tố, quy định bắt buộc phải có cố vấn cho bên bị và áp dụng hình thức quản thúc tại gia là chế tài thay thế cho việc tạm giam chờ xét xử. Đáng chú ý nhất trọng các điều khoản của bộ luật có điều quy định rõ ràng quyết định tạm giam nghi phạm trong khi chờ xét xử trở thành vấn đề đối với tòa án hơn là với công tố viên. Thứ hai, Bộ luật sửa đổi đã giảm thời gian tạm giam chờ xét xử và một số án phạt tù đặc biệt đối với phạm nhân là phụ nữ và lứa tuổi vị thành niên. Ngoài ra, kể từ năm 2003, thời gian tạm giam chờ xét xử được trừ vào thời hạn tù. Thứ ba, Bộ Tư pháp đã đưa ra một số chế tài thay thế hình thức tù giam như lao động công ích và hạn chế tự do đi lại. Đã tiến hành các đợt ân xá định kỳ. Các vấn đề nảy sinh Quan trọng nhất là những vấn đề liên quan tới nguồn lực. Hệ thống quản lý phạm nhân hình sự gặp rất nhiều khó khăn vào thời điểm chuyển sang Bộ Tư pháp. Cơ sở vật chất của nhiều tòa nhà và trang thiết bị kỹ thuật cần thiết để canh phòng tù nhân không được duy tu, bảo dưỡng đến nơi đến chốn cũng như không được nâng cấp trong nhiều năm. Tình trạng thiếu kinh phí triền miên càng làm cho tình hình càng trở nên tồi tệ hơn. Trong nhiều năm, ngân sách nhà nước chỉ đáp ứng 60% nhu cầu kinh phí thực tế của hệ thống quản lý phạm nhân hình sự. Một số khoản chi như chăm sóc y tế cho tù nhân bị kết án chỉ được đáp ứng ở mức không quá 20%. Trong thời gian ba tháng trước khi tiến hành bàn giao hệ thống quản lý phạm nhân hình sự sang Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ của Nga hoàn toàn không cấp một chút kinh phí nào cho việc duy tu, bảo dưỡng các cơ sở giam giữ và cơ quan trong hệ thống này.
  • 29. 29 Năm 2002, Nga đã giải quyết vấn đề này bằng cách đưa ra mức phân bổ ngân sách phù hợp hơn với nhu cầu thực tế (cao hơn khoảng ba lần so với năm 1998). Chương trình cải cách trên phạm vi toàn Liên bang với thời gian thực hiện là bốn năm đã được thông quan năm 2001. Chương trình này sẽ xây dựng thêm 45.000 cơ sở tạm giam chờ xét xử và đề ra cơ chế để các doanh nghiệp tạo công ăn việc làm cho 40.000 tù nhân. Thứ hai: là vấn đề nhân sự. Vào thời gian đầu mới chuyển sang Bộ Tư pháp, việc tuyển dụng nhân sự, chức danh / vị trí và công tác đào tao / bồi dưỡng cán bộ tuân theo các quy định về nhân sự của Bộ Nội vụ. Nga đã tiến hành nghiên cứu xây dựng Luật về các Cơ sở thực thi pháp luật Liên bang cùng với Luật Cán bộ, công chức và Luật Nghĩa vụ quân sự. Các bộ luật này góp phần tạo nên hệ thống nhân sự thống nhất tập trung với các cấp bậc và phân loại cán bộ tương đương với quân đội, đồng thời áp dụng nguyên tắc hợp đồng lao động và thi tuyền nhân sự. Ngoài ra, còn có chế độ đãi ngộ cho cán bộ, nhân viên và gia đình họ như khám, chữa bệnh miễn phí, trợ cấp bảo hiểm xã hội, nghỉ hưu sớm và mức bồi thường cao hơn trong trường hợp thương tích. Các biện pháp này kết hợp với việc tăng lương góp phần hạn chế tình trạng cán bộ, nhân viên bỏ việc ở các nhà tù. 1.5.2. Thi hành án phạt tù tại Thái Lan[44] Tình hình hiện nay Vào tháng 7-2007, Thái Lan có số tù nhân là 165.316 người, tức là 253 tù nhân trên 100.000 người dân. Hiện có 137 cơ sở giam giữ duới sự quản lý của Cục cải tạo và Giam giữ phạm nhân mà từ tháng 10-2002 đã chuyển về Bộ Tư pháp sau 69 năm ở Bộ Nội vụ. Trách nhiệm quản lý đối tượng phạm tội lứa tuổi vị thành niên thuộc về Cục Theo dõi và Bảo vệ lứa tuổi vị thành
  • 30. 30 niên trực thuộc Bộ Tư pháp, cũng là Bộ chủ quản của Cục quản lý tù treo. Các tòa án ở Thái Lan có quyền quyết định các hình thức phạt không giam giữ như phạt tiền, lao động công ích thay cho phạt tiền và các án treo có hoặc vô điều kiện. Các phạm nhân lao động công ích dưới sự giám sát của cán bộ quản lý tù treo, cán bộ chính quyền, các tổ chức cung cấp dịch vụ xã hội hoặc hoạt động vì mục đích từ thiện. Ngoài ra, tùy theo mức độ rủi ro và nhu cầu của phạm nhân cũng như hoàn cảnh phạm tội của họ, Tòa án có thể tạo thêm điều kiện để giúp họ hoàn lương hay ngăn không cho họ tiếp tục phạm tội. Cục Quản lý tù treo có trách nhiệm giám sát mọi điều kiện đưa ra trong khuôn khổ án treo. Chuyển giao trách nhiệm Việc chuyển giao trách nhiệm quản lý nhà tù sang Bộ Tư pháp là một phần của chương trình cải tổ bộ máy Chính phủ, trong đó có việc chuyển giao vai trò giám sát Văn phòng Ban Phòng chống ma túy từ Thủ tướng sang Bộ Tư pháp. Ngoài ra, Thái Lan đã thiết lập các cơ quan mới trong hệ thống tư pháp như Phòng Các vấn đề tư pháp, Cục Điều tra đặc biệt, Cục Bảo vệ các quyền và tự do và Viện nghiên cứu khoa học pháp lý Trung ương. Mục tiêu chính của việc tổ chức, sắp xếp lại bộ máy hành chính nhà nước là để bộ máy này hoạt động hiệu quả và minh bạch với trách nhiệm công cao hơn. Các cơ quan có cùng nhiệm vụ được bố trí vào một khối. Cục Cải tạo và Giam giữ phạm nhân với vai trò là đơn vị quan trọng trong hệ thống tư pháp hình sự thì được chuyển giao và phối hợp chặt chẽ với Cục quản lý tù treo và cục Theo dõi và bảo vệ lứa tuổi vị thành niên, cùng chịu sự chỉ đạo, giám sát của Bộ trưởng Tư pháp. Các Tòa án và Cục Cảnh sát Hoàng gia Thái Lan vẫn độc lập với Bộ Tư Pháp.
  • 31. 31 Theo Cục Cải tạo và Giam giữ phạm nhân của Thái Lan, từ khi chuyển giao trách nhiệm cải tạo, giam giữ phạm nhân sang Bộ Tư pháp đến nay chưa có vấn đề gì lớn xảy ra, song đã có tin tức phản ánh về những vấn đề nảy sinh từ việc sắp xếp lại tổ chức nội bộ chẳng hạn như chuyển các đơn vị sự vụ chung như Vụ Tổ chức cán bộ, vụ Tài chính và Cục Thanh tra về cải tạo, giam giữ phạm nhân sang khối hành chính tổng hợp đóng tại Văn phòng Bộ Tư pháp. Ngoài ra, người ta cân nhắc có nên chuyển hệ thống phóng thích / tạm tha có điều kiện, một trong những nhiệm vụ chính của Cục này sang Cục Quản lý tù treo hay không. “Do những sự chuyển giao này mà rất nhiều cán bộ của Cục Cải tạo và giam giữ phạm nhân sẽ phải thuyên chuyển công tác. Một số sẽ được chuyển tới làm việc tại Văn phòng Bộ, còn những người khác thì được chuyển tới làm việc tại các nhà tù. Tất nhiên, điều đó càng làm trầm trọng thêm vấn đề thiếu nhân sự. Vấn đề quan trọng nhất mà Bộ Tư pháp đã và đang giải quyết là con số tù nhân tăng vọt và đạt đỉnh cao vào năm 2003 với hơn ¼ triệu người. Từ đó đến nay, Bộ Tư Pháp đã góp phần làm cho con số tù nhân liên tục giảm. Theo Bộ Tư pháp, một trong những nguyên nhân chính dẫn đến kết quả này là việc thực thi luật pháp mới về cải tạo, phục hồi cho các đối tượng nghiện ma túy trên cơ sở đối xử với họ như bệnh nhân chứ không phải như tội phạm. có tới 20% số phạm nhân liên quan tới ma túy được phòng thích khỏi nhà tù mỗi năm. Việc chuyển giao sang Bộ Tư pháp đã dẫn đến các bước cải cách khác nhau trên quan điểm cho rằng “giam giữ an toàn không chỉ là giữ tù nhân trong vòng kiểm soát mà còn là đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của họ và đối xử với họ một cách công bằng”.
  • 32. 32 Các điều kiện trong nhà tù đã được cải thiện nhờ việc triển khai các hoạt động thanh tra và kiểm toán ở cấp quốc gia và địa phương; tù nhân được quyền khiếu nại khi bị đối xử tệ và đã tiến hành các bước đổi mới về Tố tụng Hình sự được xây dựng nhằm bảo vệ phụ nữ và trẻ em. Cục Cải tạo và Giam giữ phạm nhân cũng đã cố gắng áp dụng trên phạm vi toàn thể Bộ Tư pháp chính sách về tư pháp cộng đồng thông qua sáng kiến “Ratchthan Tambol” nhằm huy động sự tham gia của các cơ quan công và tư ở cấp địa phương trong các hoạt động giúp phạm nhân cải tạo, phục hồi nhân phẩm và xây dựng lại cuộc sống. Hiện nay, các chương trình tư pháp giúp phạm nhân cải tạo quy chính hiện đang được triền khai. 1.5.3. Thi hành án phạt tù tại Cộng hòa nhân dân Trung Hoa[44] Tình hình hiện nay Vào cuối năm 2005, Trung Quốc có 1.565.771 tù nhân đang bị giam giữ dưới sự quản lý của Bộ Tư pháp, những tù nhân này đang thụ án tù có thời hạn cố định, tù chung thân hay án tử hình với thời hạn tạm hoãn thi hành 2 năm. Hiện có 674 nhà tù, trong đó có 30 cơ sở giam giữ dành cho phạm nhân ở lứa tuổi vị và 29 nhà tù dành cho phạm nhân nữ. Bộ Tư pháp có trách nhiệm chỉ đạo và giám sát việc thi hành án và cải tạo, giam giữ phạm nhân cũng như chỉ đạo và quản lý các vấn đề liên quan đến nhà tù. Bộ Tư pháp tiến hành những công việc này thông qua Cục quản lý nhà tù. Cục này có trách nhiệm giám sát và thanh tra việc thi hành các Bộ luật, quy chế và chính sách liên quan tới việc cải tạo, giam giữ tội phạm; quy hoạch xây dựng và phân bố nhà tù trên phạm vi toàn quốc; chỉ đạo việc thi hành án, quản lý các vấn đề nhà tù và giáo dục, cải tạo tù nhân; cũng như chỉ
  • 33. 33 đạo việc chế tạo, xây dựng cơ sở hạ tầng và các trang thiết bị cho hệ thống nhà tù. Ngoài ra, vào năm 2005, ước tính có khoảng 100.000 người bị tạm giam chờ xét xử tại các trại giam do Bộ công an quản lý và hơn 800.000 người bị giam giữ hành chính. Có hai loại hình giam giữ hành chính: theo con số thống kê của chính phủ Trung Quốc, có hơn 500.000 người bị giam giữ hành chính tại các trại cải tạo lao động và năm 2005, và Báo cáo năm 2005 của Bộ Ngoại gia Hoa Kỳ về Quyền con người cho biết năm 2004 có 350.000 người bị giam giữ hành chính theo loại hình thứ hai, là loại hình dành cho các đối tượng nghiệm ma túy và mại dâm. Nếu đúng như vậy thì tổng số tù nhân ở Trung Quốc vào khoảng 2.500.000 người. Số tù nhân do Cục quản lý nhà tù thuộc Bộ Tư pháp kết án liên tục tăng từ giữa thập kỷ 90 đến nay . Bộ Tư pháp cũng có một bộ phận chịu trách nhiệm chỉ đạo và giám sát cải tạo thông qua lao động mặc dù Bộ Công an cũng đóng vai trò chính trong công tác này. Bộ Tư pháp bắt đầu tham gia vào công tác quản lý cải tạo lao động năm 1983 khi Bộ Công an và Bộ Tư pháp quyết định phân chia công việc ở nhiều cơ quan giam giữ khác nhau. Theo nhiều quy định được ban hành trong giai đoạn từ 1983 đến 2008, Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm chính trong việc giám sát cải tạo lao động, về các công việc hành chính, giáo dục cảnh sát thực hiện nhiệm vụ cải tạo lao động và đào tạo nghiệp vụ cho người bị giam giữ. Trên thực tế, Bộ Tư pháp và Bộ Công an đã đạt được nhiều bước tiến trong việc thiết lập cơ chế điều phối quản lý đào tạo lao động mặc dù “Ban Kiểm tra và Phê duyệt Cải tạo lao động” chủ yếu gồm các quan chức của Vụ Pháp lý, Bộ Công an. Phần lớn các văn bản quy phạn pháp luật liên quan đến cải tạo lao động đều do Bộ Công an ban hành.
  • 34. 34 Vai trò giám sát của Bộ Tư pháp không đơn thuần chỉ mang tính hình thức. Dường như Phòng Cải tạo Lao động khá tích cực trong quá trình đổi mới hệ thống, và một số cán bộ hiện đề xuất tư pháp hóa hệ thống này. Phòng Cải tạo lao động của Bộ Tư pháp là một trong những cơ quan chịu trách nhiệm thu thập dữ liệu thống kê về số người bị giam giữ tại các trại cải tạo lao động. Ở các tỉnh (các thành phố trực thuộc Trung Ương và các khu tự trị), các cơ quan tư pháp có trách nhiệm quản lý các nhà tù đóng trên địa bàn do họ phụ trách thông qua đơn vị có chức năng này. Như vậy, hầu hết các nhà tù đều do Sở Tư pháp các tỉnh/thành phố quản lý, điều hành và bản thân Bộ Tư pháp trực tiếp quản lý, điều hành một nhà tù. Từ trước đến nay, việc cải tạo, phục hồi là vấn đề trung tâm trong công tác nhà tù ở Trung Quốc.Từ xa xưa, nhà tù ở Trung Quốc được coi là nơi cải tạo nhân cách của người tù. Trung Quốc ngày nay rất chú ý tới công tác giáo dục được tiến hành dưới nhiều hình thức. Việc cải tạo tù nhân về tư tưởng và chính trị vẫn được hết sức coi trọng. Ngày nay, những khóa học tập cải tạp mới đã được thiết kế riêng cho đối tượng bị giam giữ, trong đó có cả việc dạy tiếng Anh hay kỹ năng nghề nghiệp. Giám sát của xã hội là loại hình phạt về hình sự độc đáo ở Trung Quốc, theo đó phạm nhân bị hạn chế tự do nhưng không phải ngồi tù. Như vậy, họ có thể được cải tạo dưới sự kiểm soát của cơ quan công an và sự giám sát của công chúng. Thời hạn giám sát của xã hội không dưới ba tháng nhưng cũng không vượt quá hai năm. Theo Bộ Luật hình sự, nếu hoàn cảnh phạm tội của một người không nghiêm trọng và không cần thiết phải áp dụng hình phạt về hình sự thì người đó có thể được miễn trừ hình phạt này; tuy nhiên, tùy theo hoàn cảnh phạm
  • 35. 35 tội cụ thể, người đó có thể bị cơ quan có thẩm quyền khiển trách, bắt phải nói lời ăn năn, hổi cải, đưa ra lời xin lỗi, bồi thường tổn thất hoặc áp dụng hình phạt hay chế tài hành chính. Bộ Tư pháp hiện đang thử nghiệm nhiều loại hình án tù treo và biện pháp cải tạo. Tạm đình chỉ thi hành án là cơ chế cho phép tạm đình chỉ thi hành một hình phạt về hình sự cụ thể đối với một người đã bị kết án với những điều kiện nhất định trong giai đoạn án treo nếu người đó đáp ứng các yêu cầu do luật pháp quy định. Cơ chế tạm đình thi hành án được áp dụng đối với một người đã bị kết án đáp ứng hai điều kiện sau đây: (1) người đó bị kết án giam giữ hình sự tù giam có thời hạn cố định nhưng không vượt quá ba năm; (2) căn cứ vào hoàn cảnh phạm tội và việc người đó thể hiện sự ăn năn, hối lỗi, có thể khẳng định chắc chắn sau khi quyết định tạm đình chỉ thi hành án được đưa ra, người đó sẽ không tiếp tục gây hại cho xã hội. Để chuyên nghiệp hóa và đặt hệ thống này trong khuôn khổ pháp lý, vào tháng 5 năm 1983, các nhà tù và các trại cải tạo lao động được chuyển từ Bộ Công an sang Bộ Tư pháp và Sở Tư pháp các tỉnh/ thành phố. Trước khi Luật Nhà tù năm 1994 được thông qua, hệ thống nhà tù ở CHND Trung Hoa được gọi là hệ thống cải tạo lao động. Trong nửa đầu thập kỷ 80, một số tỉnh bắt đầu sử dụng từ “nhà tù” mà cho đến nay vẫn ít dùng (tuy nhiên, mãi đến giữa thập kỷ 90 thì từ “nhà tù” mới được dùng phổ biến, ví dụ lúc đó ngay cả các cơ sở giam giữ laogai ở khu vực Tây Bắc lần đầu tiên chính thức được gọi là nhà tù). Không rõ liệu đã nảy sinh các vấn đề cụ thể từ việc chuyển giao trách nhiệm hay chưa. Có ý kiến cho rằng việc chuyển giao trách nhiệm từ Bộ Công an sang Bộ Tư pháp diễn ra một cách ngẫu nhiên. Trên thực tế, Bộ Tư
  • 36. 36 pháp giải thể năm 1959 và mãi đến năm 1979 mới được khôi phục lại. Sau khi khôi phục lại, Bộ này đã được giao một loạt vai trò trách nhiệm mới. Ngay từ đầu thập kỷ 80, việc giáo dục trong nhà tù đã trở thành một phần của kế hoạch giáo dục quốc gia, trong đó nhà tù được coi là trường học đặc biệt. Thách thức chính đối với hệ thống nhà tù trong thời gian qua liên quan tới việc giải quyết vấn đề nguồn lực.Từ trước đến nay, một phần ngân sách của nhà tù được huy động qua doanh nghiệp và thành quả lao động của tù nhân. Trung Quốc hiện đang triển khai công cuộc cải cách về công tác xử án nhằm tách nhà tù khỏi doanh nghiệp cũng như các chương trình nhằm chuyển nhà tù về các trung tâm dân cư và hiện đại hóa các phương pháp cải cách và tái xã hội hóa. 1.5.4. Thi hành án phạt tù tại các nước khác (kể cả Anh và Wales)[44] Chức năng giám sát công tác quản lý, điều hành nhà tù ở Anh và Wales thuộc về Bộ Nội vụ cho đến tháng 5 năm 2007. Như vậy đây là một trong hai quốc gia duy nhất trong số 47 quốc gia thành viên của Hội đồng Châu Âu mà ở đó trách nhiệm quản lý nhà tù không thuộc về Bộ Tư pháp. Quốc gia thứ hai là Tây Ban Nha có hệ thống nhà tù trực thuộc Bộ Nội vụ, mặc dù trong chính phủ tự trị Catalonia, trách nhiệm đó thuộc về Bộ Tư pháp. Vào ngày 9 tháng 5 năm 2007, Bộ Tư pháp mới được thành lập tiếp nhận trách nhiệm quản lý hệ thống nhà tù tại Anh và Wales. (Ở Xcốtlen, Cục Tư pháp đảm nhiệm việc quản lý nhà tù năm 1999). Sự thay đổi này đã xếp Anh và Wales cùng hàng với hầu hết các nước trên thế giới có Bộ hay Cục Tư pháp đảm nhiệm chức năng giám sát công tác quản lý/điều hành các nhà tù, thường thông qua một cơ quan thừa hành. Việc quản lý các hoạt động liên quan tới tù giam và tù treo là trách nhiệm của Cơ quan Quản lý phạm nhân Quốc gia (NOMS) – một cơ quan
  • 37. 37 thừa hành của Bộ Tư pháp. Nhiệm vụ của NOMS là thực thi các bản án và quyết định từ các tòa án của Anh và Wales thông qua việc ủy thác các dịch vụ liên quan tới phạm nhân là người trưởng thành đang bị giam giữ trong nhà tù hay quản thúc ở ngoài cộng đồng cho các tổ chức nhà nước, tư nhân và bên thứ ba; cung cấp các dịch vụ công liên quan tới tù giam; và giám sát các Ban và Cơ quan ủy thác có chức năng cung cấp các dịch vụ công liên quan tới tù treo. Các chi tiết về cách thức hoạt động của Cơ quan này được trình bày trong Văn kiện khung của Cơ quan. Ở hầu hết các nước Châu Âu, có mối liên quan chặt chẽ giữa cơ quan quản lý nhà tù và cơ quan chịu trách nhiệm giám sát phạm nhân bị quản thúc ở cộng đồng. Có khá ít quốc gia tổ chức hoạt động liên quan tới tù treo theo mô hình của Anh và Wales . Còn có nhiều mô hình tổ chức khác theo xu hướng kết hợp các hoạt động chăm sóc, cải tạo phạm nhân trong nhà tù và ở ngoài cộng đồng. Ví dụ, ở Itali, Cục Quản lý các trại cải tạo có trách nhiệm thực hiện cả hai cả hai mảng hoạt động này thông qua cơ quan Giam giữ và Xử lý tội phạm và Cơ quan Thi hành các hình phạt ở cộng đồng. Hầu hết các nước Xcăng-đi-na-vi có các cục/vụ quản lý chung cả tù giam và tù treo. Trên thực tế, điều đó thường có nghĩa là các cục/vụ này có chung cơ quan đầu não với chức năng hoạch định chính sách và giám sát, còn các đơn vị tác nghiệp thì tách riêng. Khi dịch sang tiếng Anh, người ta cũng sử dụng “probation” (tù treo/ án treo) nhưng cách thức thực hiện thì khác với mô hình áp dụng ở Anh và Wales. 1.5.5. Thi hành án phạt tù tại Bungaria Khái quát về lịch sử phát triển nhà tù và vấn đề quản lý thi hành án hình sự của Bun-ga-ria Thi hành án phạt tù
  • 38. 38 Hình phạt tù và hệ thống tổ chức, quản lý các nhà tù, trại tạm giam. Theo quy định của Bộ luật Hình sự Bun-ga-ria, hình phạt tù có 3 loại: tù chung thân suốt đời, tù chung thân có khả năng giảm xuống tù có thời hạn va tù có thời hạn. Công tác quản lý nhà tù, trại tạm giam do Tổng cục thi hành án hình phạt, Bộ Tư pháp đảm nhiệm. Phạm nhân được phân loại để giam giữ tại các cơ sở giam giữ phù hợp với giới tính, mức độ nghiêm trọng của hành vi tội phạm, thái độ cải tạo của họ cũng như yêu cầu của công tác giáo dục cải tạo đối với họ. Cụ thể: Phụ nữ, người chưa thành niên được giam giữ riêng: phạm nhân tái phạm được giam giữ tại nhà tù, hostel theo chế độ chặt chẽ (closed); phạm nhân phạm tội lần đầu bị kết án từ 5 năm trở xuống được giam giữ ở phân trại “mở” (open) và phân trại “chuyển tiếp” (transitional) giam giữ các phạm nhân có thái độ cải tạo tốt, đã có thời gian ít nhất 6 tháng cải tạo tại phân trại “closed” và thời gian chấp hành hình phạt còn lại không quá 5 năm. Chế độ giam giữ được phân thành 4 loại: nhẹ, chung, nghiêm khắc và đặc biệt nghiêm khắc. Chế độ nhẹ được áp dụng đối với người bị kết án đến 5 năm tù về tội vô ý hoặc về tội cố ý nhưng bị kết án không quá một năm tù, trừ các tội chống nhà nước, cướp, trộm cắp, lừa đảo, …; chế độ chung được áp dụng đối với những người bị kết án do vô ý phạm tội hoặc phạm tội cố ý nhưng hình phạt không quá 5 năm; Chế độ nghiêm khắc được áp dụng đối với những người lần đầu phạm tội bị kết án phạt tù trên 5 năm về tội gây cố ý hoặc dưới năm 5 tù nhưng phạm nhiều tội; chế độ đặc biệt nghiêm khắc được áp dụng đối với những người tái phạm, trốn trại, nguy hiểm cho cộng đồng, những người bị kết án phạt tù trên 15 năm.
  • 39. 39 Việc quản lý, giám sát chung về cơ sở giam giữ do Bộ Tư pháp đảm nhiệm. Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định cơ cấu tổ chức các cơ sở giam giữ. Việc quản lý trực tiếp các cơ sở giam giữ do Tổng cục thi hành hình phạt trực thuộc Bộ Tư pháp đảm trách. Nhà tù, trại cải tạo và cơ sở tạm giam do Tổng cục thi hành hình phạt quản lý. Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định cơ cấu tổ chức, chức năng nhiệm vụ của Tổng cục thi hành hình phạt, các cơ sở giam giữ cũng như chức danh công việc của công chức và người làm việc tại các cơ sở giam giữ. Hệ thống tổ chức của Tổng cục thi hành hình phạt bao gồm: Tổng Cục trưởng và 3 Phó Tổng cục trưởng; 4 vụ, cục (Cục bảo vệ, Cục các hành động xã hội và giáo dục lao động phạm nhân, Cục cải tạo và Vụ các vấn đề tổ chức và kiểm tra hoạt động thi hành hình phạt) và hệ thống các cơ sở giam giữ, trung tâm đào tạo cũng như các trường hoạc dành cho phạm nhân. Cho đến thời điểm hiện tại, lực lượng công tác tại cơ sở giam giữ do Tổng cục thi hành hình phạt quản lý 4.776 người. Vấn đề bảo vệ an ninh Việc bảo đảm an ninh, trật tự tại các cơ sở giam giữ do Cục Bảo vệ thuộc Tổng cục thi hành hình phạt, Bộ Tư phát đảm trách. Cần nói thêm rằng tại thời điểm chuyển chức năng quản lý thi hành hình phạt từ Bộ Nội vụ sang Bộ Tư pháp (1990) thì công việc bảo vệ các cơ sở tạm giam (Invesgative Arest) vẫn do Bộ Nội vụ đảm nhiệm. Lực lượng này được chuyển toàn bộ cho Bộ Tư Pháp quản lý kể từ năm 1998. Kể từ 01/05/2006 Bộ trưởng Bộ Tư pháp trực tiếp tuyển dụng, phong cấp hàm, trả lương và các chế độ khác cho lực lượng bảo vệ theo quy định của Luật về Bộ Nội vụ. Mặc dầu đều trực thuộc Tổng cục thi hành hình phạt, nhưng lực lượng bảo đảm an ninh, trật tự tại các cơ sở giam giữ được tổ chức thành 2 bộ phận
  • 40. 40 (2 Sections) độc lập vào năm 2005 theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự: Bộ phận bảo vệ nhà tù và các cơ sở giam giữ người đã thành án và bộ phận bảo vệ các nhà tạm giam. Lực lượng làm công tác bảo vệ tại các nhà tù và các cơ sở giam giữ kiểm soát an ninh và phục trách mọi vấn đề liên quan đến an ninh, trật tự tại các nhà tù và cơ sở giam giữ. Việc tổ chức thành 2 bộ phận độc lập xuất phát từ tính chất và yêu cầu bảo vệ khác nhau giữa những người đã thành án và những người đang trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Một vấn đề cũng rất đáng lưu ý là mặc dù Bộ Tư pháp có lực lượng bảo vệ nhà tù và các cơ sở giam giữ riêng, nhưng luật quy định khi cần thiết, Bộ Tư pháp có quyền yêu cầu lực lượng đặc nhiệm của Bộ Nội vụ hỗ trợ để lập lại trật tự, bảo đảm an toàn tuyệt đối cho nhà tù và các cơ sở giam giữ. Bảo đảm an ninh cho các cơ sở tư pháp Việc đảm bảo an ninh cho các cơ quan tư pháp do Cục bảo vệ, Bộ Tư pháp đảm nhiệm. Lực lượng bảo vệ các cơ quan tư pháp hoạt động độc lập với lực lượng bảo vệ nhà tù và các cơ sở giam giữ, kể cả các trại tạm giam, có nhiệm vụ bảo đảm an ninh cho các cơ quan tư pháp, bảo vệ nạn nhân, nhân chứng, dẫn giải bị can, bị cáo, thực hiện công tác kiểm tra an ninh cac công sở của cơ quan tư pháp. Tổng quan về pháp luật và vấn đề bảo đảm tính thống nhất pháp luật và tư pháp Châu Âu tại Bun-ga-ria Về khung pháp lý liên quan đến tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp và công tác thi hành án hình sự phải kể đến Bộ luật hình sự 2008, Bộ luật Tố tụng hình sự 2008, Luật tư pháp 2008 (luật này quy định cơ cấu tổ chức, nguyên tắc hoạt động của hệ thống các cơ quan tư pháp, mối quan hệ giữa các cơ quan này cũng như mối quan hệ giữa cơ quan tư pháp với cơ
  • 41. 41 quan lập pháp và hành pháp) và Luật thi hành hình phạt. Đây là những đạo luật quan trọng nhất đã được ban hành sửa đổi bổ sung sau khi Bun-ga-ria trở thành thành viên của Cộng đồng chung Châu Âu (EU). Phải nói rằng, để nhập EU Bun-ga-ria đã có nhiều cải cách thiết chế và thể chế theo chuẩn mực chung của Cộng đồng. Đặc biệt, trong chế độ đa nguyên thì những lĩnh vực liên quan trực tiếp đến quyền tự do, dân chủ, nhân quyền luôn được quan tâm và sử dụng như một biện pháp trong đấu tranh dành ảnh hưởng chính trí giữa các đảng phải. Điều này có thể là một trong những nhân tố để lý giải tại sao Luật tư pháp 2008 quy định điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán phải là những người trung lập, không tham gia đảng phái nào và cũng lý giải tại sao Luật thi hành hình phạt được ban hành lần đầu vào năm 1969 tính đến nay đã qua 28 lần sửa đổi, bổ sung liên quan đến tổ chức và chế độ giam giữ, cải tạo.
  • 42. 42 Chương II CÁC QUY ĐỊNH VỀ THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM 2.1 Các quy định thi hánh án phạt tù từ sau các mạng tháng 8 đến Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 1988 Nghiên cứu lịch sử lập pháp thi hành án hình sự Việt Nam cho thấy, ngay từ trong kháng chiến chống Pháp, Nhà nước ta ban hành một số văn bản pháp luật quy định cụ thể về việc thi hành án phạt tù. Ngày 3/6/1946, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 1735, trong đó nêu rõ vai trò của thi hành án hình sự nói chung, thi hành án phạt tù nói riêng: "Bản bộ xét việc thi hành án hình là một việc rất cần, vì rằng nếu Tòa án đã xử phạt tù hoặc tiền một phạm nhân nào mà nếu án không được thi hành đến triệt để thì e rằng các Tòa án sẽ mất giá trị đối với dân chúng. Vì vậy, bản bộ đề nghị với quý bộ ra chỉ thị cho các cơ quan hành chính khi nào nhân được trích lục án: Nếu phạt tù người nào, thì bắt ngay người phạm pháp rồi giao cho giám đốc đề lao [9,tr 209]. Ngày 7/11/1950, Nhà nước ta đã ban hành Sắc lệnh số 150-SL về tổ chức trại giam, trong đó quy định tại Điều 1: "Phạm nhân phải giam giữ trong các trại giam để trừng trị và giáo hóa" và tại Điều 2: "Bộ Nội vụ có nhiệm vụ tổ chức và kiểm soát các trại giam trong phạm vi toàn quốc [9, tr 44]. Thi hành Sắc lệnh này, Liên bộ Nội vụ - Tư pháp đã ban hành Nghị định số 181 ngày 12/6/1951 quy định việc thiết lập và quản trị trại giam tại Điểu 1: "Mỗi tỉnh hoặc thành phố có một trại giam để giam giữ: a) Những phạm nhân thành án về tội chính trị hay tội thường. b) Những người bị quyết nghị đưa an trí. c) Những bị cáo giam cứu về tội chính trị hay tội thường [9, tr 44].
  • 43. 43 Nghị định cũng đã quy định cụ thể việc sinh hoạt của phạm nhân, giáo hóa phạm nhân tại chương 2. Điều 4 quy định: "Trong thời gian bị giam cầm, phạm nhân được ăn đủ theo mức sống tối thiểu cần thiết, tùy theo hoàn cảnh kinh tế của mỗi địa phương". Giáo hóa phạm nhân được quy định tại Điều 5: "Việc giáo dục phạm nhân về phương diện tư tưởng, tư cách và nghề nghiệp phải được tổ chức trong mỗi trại bằng công tác lao động và đời sống tập thể. Phạm nhân ai cũng được đọc sách báo, học tập về văn hóa, chính trị, hướng dẫn về các thủ công nghiệp, tăng gia sản xuất [ 9, tr 44]. Ban hành cùng với Nghị định số 181 là Quy tắc trại giam gồm 3 chương với 60 điều quy định cụ thể những vấn đề: tiếp nhận, di chuyển, phóng thích phạm nhân, cách sắp đặt phạm nhân trong trại giam, sổ sách kiểm tra, báo cáo kiểm tra; trật tự và kỷ luật; ăn uống, áo quần, chỗ nằm, quân sự hóa, thăm hỏi phạm nhân, vệ sinh y tế, phương pháp giáo hóa phạm nhân, thể lệ dùng phạm nhân vào các công tác. Điều 8 của Quy tắc quy định về cách sắp đặt phạm nhân trong trại giam như sau: "Trong trại giam nên giam riêng biệt: - Chính trị phạm. - Những người bị an trí. - Những phạm nhân nguy hiểm hoặc hung dữ không chịu cải hối (có thể giam vào một biệt lao). - Những người bị giam cứu. - Những phạm nhân là đàn bà [ 9, tr 47]. Quy tắc này còn hướng dẫn việc phân loại những phạm nhân thành án tại Điều 9: "Nếu có thể được, những phạm nhân thành án nên phân loại như sau và giam riêng: - Sơ phạm.
  • 44. 44 - Phạm pháp nhiều lần. - Phạm nhân dưới 18 tuổi. - Phạm nhân trên 55 tuổi. - Phạm nhân tàng tật [9, tr 47]. Phương pháp giáo hóa phạm nhân được quy định tại Điều 50: "Phạm nhân được cải tạo tư tưởng bằng cách: a) Làm việc lao động để ý thức lao động cải tạo con người. b) Tập cho quen sống tập thể, có tổ chức và có kỷ luật. c) Học hỏi về công cuộc kháng chiến và kiến quốc hiện tại và tình hình quốc tế. d) Học hỏi về chế độ dân chủ nhân dân. e) Kiểm thảo việc thi hành Quy tắc trại giam [ 9, tr 50]. Việc tổ chức cho phạm nhân đời sống tập thể được quy định tại Điều 55: "Ban Giám thị sẽ hướng dẫn phạm nhân tổ chức đời sống tập thể. Có thể thành lập những tiểu ban sau đây: - Tiểu ban đại biểu. - Tiểu ban cấp dưỡng. - Tiểu ban vui sống. - Tiểu ban tăng gia sản xuất. - Tiểu ban trật tự vệ sinh. - Tiểu ban học tập. - Tiểu ban tiểu công nghệ.
  • 45. 45 - Quỹ tương tế v.v..[ 9, tr 50]. Nghiên cứu các văn bản quy định việc thi hành án phạt tù nói trên, chúng ta có thể rút ra những nhận xét sau đây: Thứ nhất, trong tình hình kháng chiến khẩn trương, việc ban hành các văn bản về thi hành án phạt tù theo trình tự chặt chẽ từ Sắc lệnh, Nghị định đến Quy tắc trại giam là sự kiện pháp lý quan trọng, đánh dấu sự trưởng thành về kỹ thuật lập pháp thi hành án phạt tù ở nước ta. Đây là cơ sở pháp lý để thực hiện việc giáo dục, cải tạo phạm nhân, góp phần vào việc đấu tranh chống thực dân Pháp và tay sai. Thứ hai, sự điều chỉnh pháp luật việc thi hành án phạt tù khá đầy đủ, chi tiết, đã thể chế hóa chính sách thi hành án hình sự nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta. Các nguyên tắc pháp chế, dân chủ, nhân đạo, phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa việc thi hành hình phạt đã được quán triệt sâu sắc trong các văn bản nói trên. Thứ ba, trong bối cảnh công cuộc kháng chiến, các văn bản nói trên cũng đã bộc lộ những khiếm khuyết về kỹ thuật lập pháp như chưa phân biệt những người bị kết án tù (phạm nhân) với những người đang trong quá trình điều tra bị áp dụng biện pháp ngăn chặn (bị giam cứu) và những người bị áp dụng biện pháp hành chính đặc biệt (bị quyết nghị đưa đi an trí đặc biệt). Sau khi hòa bình được lập lại ở miền Bắc, vấn đề kiểm tra việc thi hành án phạt tù đã được Nhà nước ta quan tâm. Hội nghị cán bộ trại giam toàn quốc lần thứ ba do Bộ Công an triệu tập đã kiểm điểm tình hình giam giữ ở các trại giam, trại cải tạo và phát hiện một số lệch lạc, thiếu sót trong việc thi hành án phạt tù. Để chấn chỉnh tình trạng này, ngày 23/8/1956, Liên bộ Công an - Tư pháp đã ban hành Thông tư số 1500 về việc giam giữ và kiểm tra trại giam. Về việc giam giữ, Thông tư quy định: "Trại giam hoặc trại
  • 46. 46 cải tạo chỉ nhận phạm nhân hoặc cho lấy phạm nhân đi khi có lệnh viết ký tên và đóng dấu của cán bộ có thẩm quyền... Đối với phạm nhân đã thành án và đã mãn hạn tù thì Công tố ủy viên tại địa hạt trại cải tạo nơi phạm nhân đang bị giam ký phóng thích. Trại cải tạo không có quyền giữ phạm nhân quá ngày mãn hạn tù, trừ trường hợp có lệnh của cấp trên thì không kể [9, tr 51]. Việc kiểm tra các trại giam, trại cải tạo được quy định tại Phần 2 của Thông tư: "Công tố ủy viên Tòa án nhân dân tỉnh và khu cần phải kiểm tra các trại giam và trại cải tạo... Nếu trong khi kiểm tra, Tòa án thấy có những khuyết điểm của trại về mặt thái độ đối xử với phạm nhân, chế độ ăn uống, bảo đảm sức khỏe... Tòa án cần phải thảo luận với Công an và Ban giám trị của trại để có kế hoạch sửa chữa". Sau một thời gian Thực hiện Thông tư số 1500 của Liên bộ Công an - Tư pháp cho thấy, việc giao cho Tòa án nhân dân ký lệnh thả phạm nhân hết hạn tù đã bộc lộ những bất hợp lý: nhiều trường hợp thả không đúng thời hạn vì công văn, giấy tờ có thể bị chậm trễ, nhất là đối với số phạm nhân bị giam giữ ở những trại xa. Vì vậy, sau khi thống nhất ý kiến với Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao về việc giao cho Công an ký lệnh tha phạm nhân hết hạn tù đảm bảo cho việc thả phạm nhân đúng thời hạn, tại Thông tư số 966 ngày 30/5/1961, Bộ Công an đã giao cho các Chánh, Phó Giám đốc và Trưởng, Phó Ty Công an ký giấy thả phạm nhân hết hạn tù bị giam ở các trại giam trực thuộc Khu, Sở, Ty Công an và giao cho các Chánh, Phó Giám thị trại cải tạo ký giấy thả phạm nhân hết hạn tù bị giam ở các trại cải tạo trực thuộc Trung ương. Thông tư số 966 còn quy định: "Ít nhất ba tháng trước khi một phạm nhân bị giam ở trại cải tạo hết hạn tù, Ban giám thị phải báo cho Tòa án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân nơi đã điều tra và xét xử vụ án biết về thời hạn thả phạm nhân [28, tr 254].