SlideShare a Scribd company logo
1 of 54
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LƢƠNG XUÂN TRƢỜNG
B¶O VÖ QUYÒN CON NG¦êI B»NG
C¸C CHÕ §ÞNH VÒ CHÊP HµNH H×NH PH¹T
TRONG LUËT H×NH Sù VIÖT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2017
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LƢƠNG XUÂN TRƢỜNG
B¶O VÖ QUYÒN CON NG¦êI B»NG
C¸C CHÕ §ÞNH VÒ CHÊP HµNH H×NH PH¹T
TRONG LUËT H×NH Sù VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: GS.TSKH LÊ VĂN CẢM
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Lƣơng Xuân Trƣờng
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON
NGƢỜI BẰNG CÁC CHẾ ĐỊNH VỀ CHẤP HÀNH HÌNH
PHẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ...................................8
1.1. Khái niệm, đặc điểm cơ bản của quyền con ngƣời ........................ 8
1.1.1. Khái niệm quyền con người ................................................................ 8
1.1.2. Các đặc điểm cơ bản của quyền con người....................................... 16
1.2. Nội dung bảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp
hành hình phạt ................................................................................... 20
1.2.1. Bảo vệ quyền con người bằng chế định miễn chấp hành hình phạt....... 20
1.2.2. Bảo vệ quyền con người bằng chế định giảm mức hình phạt đã tuyên ..... 22
1.2.3. Bảo vệ quyền con người bằng chế định giảm thời hạn chấp hành
hình phạt trong trường hợp đặc biệt.................................................. 26
1.2.4. Bảo vệ quyền con người bằng chế định hoãn chấp hành hình
phạt tù................................................................................................ 29
1.2.5. Bảo vệ quyền con người bằng chế định tạm đình chỉ chấp hành
hình phạt tù........................................................................................ 32
1.2.6. Bảo vệ quyền con người bằng chế định tha tù trước thời hạn có
điều kiện ............................................................................................ 34
1.3. Vai trò của các chế định về chấp hành hình phạt đối với việc
bảo vệ các quyền con ngƣời............................................................ 39
Kết luận chƣơng 1.......................................................................................... 42
Chƣơng 2: CÁC VĂN BẢN QUỐC TẾ VỀ NHÂN QUYỀN VÀ
THỰC TRẠNG CÁC QUY PHẠM PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM LIÊN QUAN ĐẾN CÁC CHẾ ĐỊNH VỀ CHẤP
HÀNH HÌNH PHẠT ........................ Error! Bookmark not defined.
2.1. Các văn bản quốc tế về nhân quyền trong lĩnh vực tƣ pháp
hình sự.............................................. Error! Bookmark not defined.
2.1.1. Khái quát các văn bản quốc tế về nhân quyền trong lĩnh vực tư
pháp hình sự ...................................... Error! Bookmark not defined.
2.1.2. Phân tích một số văn bản quốc tế cơ bản về quyền con người
trong lĩnh vực tư pháp hình sự .......... Error! Bookmark not defined.
2.2. Thực trạng các quy phạm pháp luật hình sự Việt Nam liên
quan đến các chế định về chấp hành hình phạtError! Bookmark not defined
2.2.1. Các chế định về chấp hành hình phạt trong Bộ Luật hình sự 1985Error! Bookmark
2.2.2. Các chế định về chấp hành hình phạt trong Bộ Luật hình sự 1999Error! Bookmark
2.2.3. Các chế định về chấp hành hình phạt trong Bộ luật hình sự
năm 2015........................................... Error! Bookmark not defined.
Kết luận chƣơng 2 ......................................... Error! Bookmark not defined.
Chƣơng 3: ĐỊNH HƢỚNG TIẾP TỤC HOÀN THIỆN CÁC QUY
PHẠM LIÊN QUAN ĐẾN MỘT SỐ CHẾ ĐỊNH VỀ CHẤP
HÀNH HÌNH PHẠT TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM THEO HƢỚNG TĂNG CƢỜNG HƠN NỮA
VIỆC BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜIError! Bookmark not defined.
3.1. Sự cần thiết hoàn thiện các quy phạm liên quan đến các chế
định về chấp hành hình phạt trong pháp luật hình sự Việt
Nam theo hƣớng tăng cƣờng việc bảo vệ quyền con ngƣờiError! Bookmark
3.1.1. Về mặt chính trị - xã hội.................... Error! Bookmark not defined.
3.1.2. Về mặt thực tiễn ................................ Error! Bookmark not defined.
3.1.3. Về mặt lý luận và lập pháp hình sự... Error! Bookmark not defined.
3.2. Nội dung hoàn thiện........................ Error! Bookmark not defined.
3.2.1. Chế định miễn chấp hành hình phạt.. Error! Bookmark not defined.
3.2.2. Chế định giảm mức hình phạt đã tuyênError! Bookmark not defined.
3.2.3. Chế định giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp
đặc biệt .............................................. Error! Bookmark not defined.
Kết luận chƣơng 3 ......................................... Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN.................................................... Error! Bookmark not defined.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................... 43
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Một nhà nước tiến bộ là nhà nước tồn tại trên cơ sở hướng tới việc bảo
đảm các quyền và lợi ích của con người, hạnh phúc của con người là thước đo
mọi giá trị của cuộc sống. Một nhà nước dân chủ, tiến bộ luôn là cái đích mà
tất cả các nhà nước trên thế giới đều mong muốn có được.
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã xác
định rõ và quy định ngay tại Điều 3 về Nhà nước có trách nhiệm “công nhận,
tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân” và đưa “Quyền
con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” thành một chương, đặt
ngay sau Chương I về chế độ chính trị. Nội dung của các quyền con người,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được quy định trong các điều khác
của Hiến pháp năm 2013 phù hợp với các điều ước quốc tế về quyền con người
mà Việt Nam là thành viên, nhất là Công ước quyền con người về chính trị, dân
sự và Công ước quyền con người về kinh tế, văn hóa và xã hội năm 1966 của
Liên hợp quốc. Đây cũng chính là sự khẳng định cam kết mang tính hiến định
của Nhà nước ta trước Nhân dân và trước cộng đồng quốc tế về trách nhiệm tôn
trọng, bảo đảm, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, quyền công dân ở Việt
Nam, điều đó thể hiện vị trí của con người ngày càng được nâng cao.
Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay cùng với sự phát triển của xã hội, tình
hình tội phạm ngày càng gia tăng với mức độ ngày càng tinh vi, diễn biến
phức tạp, nguy hiểm cho xã hội. Ngoài việc thực hiện đồng loạt các giải pháp
phòng ngừa, ngăn chặn thì pháp luật là công cụ hữu hiệu để hạn chế sự phát
triển của tội phạm. Việc xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật vừa góp
phần bảo đảm yêu cầu của công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm, vừa tạo
lòng tin của nhân dân vào pháp luật.
2
Bên cạnh việc nghiêm trị đối với người phạm tội, pháp luật hình sự còn
thể hiện tính nhân đạo, khoan hồng, được thể hiện thông qua nguyên tắc nhân
đạo của chính sách hình sự nói chung và Bộ luật hình sự, Luật thi hành án hình
sự Việt Nam nói riêng. Tuy nhiên trên thực tiễn công tác điều tra, truy tố, xét xử
và thi hành án hình sự, vấn đề tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người có
nơi, có lúc còn chưa được đề cao. Xuất phát từ những trăn trở, băn khoăn đó đã
thôi thúc tôi bắt tay vào nghiên cứu đề tài “Bảo vệ quyền con người bằng các
chế định về chấp hành hình phạt trong luật hình sự Việt Nam”.
2. Tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu về vấn đề quyền con người không phải là mới nhưng luôn có
tính thời sự. Gần 70 năm trước đây đã có Tuyên ngôn Toàn thế giới về quyền
con người năm 1948 (Tuyên ngôn) của Liên hợp quốc nhưng không phải quốc
gia nào cũng tham gia, công nhận và thực hiện. Việt Nam là một trong những
quốc gia đã ghi nhận và từng bước thực hiện có hiệu quả Tuyên ngôn trên mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là lĩnh vực tư pháp hình sự.
Việc nghiên cứu và hoàn thiện chế định bảo vệ quyền con người đã
được nhiều tác giả trong nước cũng như nước ngoài nghiên cứu dưới nhiều
hình thức, cụ thể như sau:
Một là, sách chuyên khảo về quyền con ngƣời nói chung
1) GS. TS. Nguyễn Đăng Dung, TS. Vũ Công Giao, ThS. Lã Khánh
Tùng (đồng chủ biên), Lý luận và pháp luật về quyền con người, NXB Chính
trị quốc gia Hà Nội 2009; 2) PGS. TS. Nguyễn Văn Động, Quyền con người,
quyền công dân trong Hiến pháp, NXB Khoa học xã hội Hà Nội 2005; 3) GS.
TS. Trần Ngọc Đường, Bàn về quyền con người, quyền công dân, NXB Chính
trị quốc gia Hà Nội 2004; 4) Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội - Trung
tâm nghiên cứu quyền con người và quyền công dân, Luật Nhân quyền quốc
tế những vấn đề liên quan, NXB Lao động xã hội Hà Nội 2011; 5) GS. TS.
3
Võ Khánh Vinh (chủ biên), Giáo dục quyền con người -Những vấn đề lý luận
và thực tiễn, NXB Khoa học xã hội Hà Nội 2010;....
Hai là, sách chuyên khảo về quyền con ngƣời trong lĩnh vực tƣ
pháp hình sự:
1) GS. TSKH. Lê Cảm, Hệ thống tư pháp hình sự trong giai đoạn xây
dựng nhà nước pháp quyền, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội 2009; 2) PGS.TS
Nguyễn Ngọc Chí (Chủ biên), Sách chuyên khảo: Quyền con người trong lĩnh
vực tư pháp hình sự, NXB Hồng Đức 2015; 3) Tòa án nhân dân tối cao - Vụ
hợp tác Quốc tế, Quyền con người trong thi hành công lý, NXB Lao động -Xã
hội Hà Nội 2010; 4) Trần Quang Tiệp, Bảo vệ quyền con người trong Luật
hình sự, Luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, 2004; ...
Ba là, các bài báo khoa học về lĩnh vực bảo vệ quyền con ngƣời
1) GS. TSKH. Lê Văn Cảm, Hoàn thiện các quy định về trách nhiệm
hình sự - Một yếu tố cơ bản và quan trọng nhất trong việc bảo vệ con người
bằng pháp luật hình sự, Tạp chí Toà án nhân dân, số 2/1990; 2) GS. TSKH.
Lê Cảm, Những vấn đề lý luận về bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật
trong lĩnh vực tư pháp hình sự, Tạp chí Tòa án nhân dân (Số 12/2006, tr.7-13;
Số 13/2006, tr.8-17; Số 14/2006, tr.4-12); 3) PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí, Bảo
vệ quyền con người bằng pháp luật tố tụng hình sự, Tạp chí Khoa học, Đại
học Quốc gia Hà Nội, số 23/2007, tr.64-80; 4) TS. Nguyễn Quang Hiền, Bảo
vệ quyền con người của người bị hại trong pháp luật tố tụng hình sự, Tạp chí
Tòa án nhân dân, số 13/2011, tr.4-11; 5) TS. Nguyễn Quang Hiền, Bảo vệ
quyền con người của người bị buộc tội, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Viện
Nhà nước và Pháp luật, Số 1/2010, tr.75-81; 6) Nguyễn Hữu Hậu, Bảo đảm
quyền con người của người bị buộc tội trong hoạt động chứng minh buộc tội
của Viện kiểm sát, Tạp chí Kiểm sát số 12/2015, tr.40-48; 7) Trần Văn Hội,
Kháng nghị của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự với vai trò bảo đảm
quyền con người, Tạp chí Kiểm sát số 19/2015, tr.24-30; …
4
Bốn là, nghiên cứu dƣới hình thức luận văn:
1) Giáp Mạnh Huy, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo vệ các
quyền con người bằng pháp luật hình sự Việt Nam, Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội 2014; 2) Nguyễn Văn Luận, Việt Nam và vấn đề bảo vệ quyền con
người, Trường Đại học Luật Hà Nội 2001; 3) Phùng Thanh Mai, Bảo vệ
quyền con người bằng các quy định về biện pháp tha miễn trong pháp luật
hình sự, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội 2014; 4) Tống Đức Thảo, Hoàn
thiện pháp luật về bảo vệ quyền con người ở nước ta hiện nay, Trường đại
học Luật Hà Nội 2001; ...
Thực tế cho thấy, các kết quả nghiên cứu về quyền con người dưới các
hình thức nêu trên, chủ yếu tập trung vào những vấn đề chung về quyền con
người (quyền dân sự, chính trị, văn hóa xã hội…) hoặc nghiên cứu trong một
lĩnh vực rộng (quyền con người trong pháp luật tố tụng hình sự, trong đấu
tranh chống tội phạm…). Trên thực tế dưới góc độ luận văn thạc sỹ luật học
cho tới thời điểm hiện tại chưa có công trình nào nghiên cứu sâu về Bảo vệ
quyền con ngƣời bằng các chế định về chấp hành hình phạt trong luật
hình sự Việt Nam. Vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài này để nghiên cứu làm
luận văn thạc sĩ luật học.
3. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ khái niệm, các đặc điểm quyền cơ bản của con người được bảo
vệ thông qua các chế định về chấp hành hình phạt trong luật hình sự. Đồng
thời, đi sâu phân tích bản chất nhân đạo của pháp luật hình sự Việt Nam được
thể hiện thông qua các chế định về chấp hành hình phạt trong luật hình sự
Việt Nam cũng như việc bảo vệ quyền con người thông qua các chế định sau:
1) Miễn chấp hành hình phạt; 2) Giảm mức hình phạt đã tuyên; 3) Giảm thời
hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt; 4) Hoãn chấp hành hình
phạt tù; 5) Tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù; 6) Tha tù trước thời hạn có
điều kiện. Qua đó, căn cứ vào Hiến pháp Việt Nam năm 2013, xu thế hội
5
nhập quốc tế và thực tiễn bảo vệ pháp luật ở nước ta để đưa ra những đề xuất,
giải pháp bảo đảm thực hiện, góp phần hoàn thiện các chế định về chấp hành
hình phạt trong luật hình sự Việt Nam theo hướng tăng cường hơn nữa việc
bảo vệ quyền con người.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn xoay quanh vấn đề bảo vệ các
quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạt trong luật hình
sự Việt Nam, cụ thể là: 1) Chế định miễn chấp hành hình phạt; 2) Chế định
giảm mức hình phạt đã tuyên; 3) Chế định giảm thời hạn chấp hành hình
phạt trong trường hợp đặc biệt; 4) Chế định hoãn chấp hành hình phạt tù;
5) Chế định tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù; 6) Chế định tha tù trước
thời hạn có điều kiện.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về bảo vệ quyền con
người trong pháp luật hình sự nói chung và các quy phạm của pháp luật hình sự
Việt Nam qua 06 chế định về chấp hành hình phạt trong luật hình sự Việt Nam,
bao gồm: 1) Chế định miễn chấp hành hình phạt; 2) Chế định giảm mức hình
phạt đã tuyên; 3) Chế định giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp
đặc biệt; 4) Chế định hoãn chấp hành hình phạt tù; 5) Chế định tạm đình chỉ
chấp hành hình phạt tù; 6) Chế định tha tù trước thời hạn có điều kiện. Luận văn
đi sâu nghiên cứu sự bảo vệ quyền con người thể hiện qua các chế định về chấp
hành hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự Việt Nam. Riêng đối với chế
định án treo, do mức độ rộng lớn, đa dạng và phức tạp của chế định này, nên
trong khuôn khổ của Đề tài này tác giả xin phép không đề cập đến.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu nói trên, việc nghiên cứu được
6
tiến hành dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ
Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta
về quản lý Nhà nước, quản lý xã hội cũng như chủ trương, quan điểm về việc
xây dựng Bộ luật hình sự.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, sử dụng tổng hợp các
phương pháp nghiên cứu như: Phân tích, tổng hợp, logic, lịch sử, quy nạp, đối
chiếu, so sánh, ... nhằm làm sáng tỏ các vấn đề trong nội dung luận văn.
6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
6.1. Ý nghĩa khoa học
Việc nghiên cứu, làm sáng tổ các vấn đề về bảo vệ quyền con người nói
chung và bảo vệ quyền con người thông qua các chế định về chấp hành hình
phạt trong luật hình sự Việt Nam nói riêng là một vấn đề hết sức cần thiết,
qua đó bổ sung vào kho tàng lý luận về bảo vệ quyền con bằng các chế định
về chấp hành hình phạt, góp phần cụ thể hóa nội dung bảo vê ̣và bảo đảm
quyền con người quy định tại Hiến pháp Việt Nam năm 2013.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo về mặt lý luận cho việc
nghiên cứu về vấn đề bảo vệ quyền con bằng các chế định về chấp hành hình
phạt. Ngoài ra, luận văn còn là cơ sở để đưa ra những kiến nghị hoàn thiện
pháp luật hình sự Việt Nam liên quan đến các chế định về chấp hành hình
phạt, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác bảo vê ̣và bảo đảm quyền
con người trong quá trình thi hành án hình sự.
7. Những điểm mới về mặt khoa học của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu vấn đề bảo vệ quyền con người thông
qua các chế định về chấp hành hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, đi sâu
7
nghiên cứu việc bảo vệ quyền con người thông qua chế định: miễn chấp hành
hình phạt; giảm mức hình phạt đã tuyên; giảm thời hạn chấp hành hình phạt
trong trường hợp đặc biệt; hoãn chấp hành hình phạt tù; tạm đình chỉ chấp hành
hình phạt tù; và chế định tha tù trước thời hạn có điều kiện, trong pháp luật
hình sự Việt Nam. Những điểm mới cơ bản của luận văn như sau:
- Trên cơ sở kế thừa, phát huy kết quả nghiên cứu của các học giả, tác
giả đã đưa ra được các khái niệm về: Miễn chấp hành hình phạt; giảm mức
hình phạt đã tuyên; giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc
biệt; hoãn chấp hành hình phạt tù; tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù; tha tù
trước thời hạn có điều kiện.
- Phân tích, làm rõ được một số nội dung bảo vệ quyền con người bằng
các chế định về chấp hành hình phạt trong luật hình sự Việt Nam.
- Phân tích, làm rõ thực trạng các quy phạm pháp luật hình sự Việt
Nam liên quan đến các chế định về chấp hành hình phạt.
- Đưa ra được một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của Bộ luật
hình sự Việt Nam liên quan đến chế định về chấp hành hình phạt.
8. Bố cục của luận văn
Ngoài Phần Mở đầu, Phần Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung của luận văn được bố cục như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo vệ quyền con người bằng các
chế định về chấp hành hình phạt trong luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Các văn bản quốc tế về nhân quyền và thực trạng các quy
phạm pháp luật hình sự Việt Nam liên quan đến các chế định về chấp hành
hình phạt.
Chương 3: Định hướng tiếp tục hoàn thiện các quy phạm liên quan đến
một số chế định về chấp hành hình phạt trong pháp luật hình sự Việt Nam
theo hướng tăng cường hơn nữa việc bảo vệ quyền con người.
8
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI
BẰNG CÁC CHẾ ĐỊNH VỀ CHẤP HÀNH HÌNH PHẠT
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, đặc điểm cơ bản của quyền con ngƣời
1.1.1. Khái niệm quyền con người
Trên thế giới, vấn đề quyền con người đã được đề cập đến từ rất sớm,
trong Lời nói đầu của bản Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948, Liên
hợp quốc đã khẳng định: "điều cốt yếu là các quyền con người phải được bảo
vệ bằng pháp luật" [40, tr.62], cũng theo Lời nói đầu trong bản Tuyên ngôn
thế giới về nhân quyền năm 1948, thì quyền con người đối với các quốc gia
thành viên Liên hợp quốc phải [40, tr.63]: 1) Là mục tiêu chung cho tất cả các
dân tộc và các quốc gia phấn đấu đạt tới; 2) Tôn trọng các quyền và tự do cơ
bản của con người, đồng thời tôn trọng và bảo đảm việc tuân thủ một cách
nghiêm chỉnh và hữu hiệu chúng.
Hiến chương Liên hợp quốc đã khẳng định giá trị quyền con người:
Mọi thành viên trong gia đình, nhân loại đều có quyền bình đẳng và đó là
những quyền không ai có thể xâm phạm được. Các quyền này được thực hiện
không phân biệt chủng tộc, tôn giáo, ngôn ngữ hay giới tính, đồng thời được
ghi nhận chính thức trong Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm
1948. Tuyên ngôn này đã được hầu hết các quốc gia trên thế giới thừa nhận,
tuy nhiên việc thực thi Tuyên ngôn này cũng như các công ước về quyền con
người tại các quốc gia khác nhau là hết sức linh hoạt, phù hợp với điều kiện
và hoàn cảnh thực tế của mỗi quốc gia.
Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948 là văn kiện
pháp lý xác lập các tiêu chuẩn quốc tế cho việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con
9
người trên toàn thế giới nói chung và tại Việt Nam nói riêng. Thông qua việc
thừa nhận Công ước, các quốc gia chấp nhận và tự cam kết đảm bảo thực hiện
quyền con người tại quốc gia mình.
Tiếp đó năm 1968, Tuyên bố Tê-hê-ran tại Hội nghị thế giới về quyền
con người được tổ chức tại Iran đã khẳng định:
Tuyên ngôn thế giới về quyền con người đã xác nhận một
nhận thức chung của các dân tộc trên thế giới về các quyền bất di,
bất dịch và không thể bị xâm phạm của mọi thành viên trong gia
đình, nhân loại và thiết lập một nghĩa vụ cho các thành viên của
cộng đồng quốc tế.
Hội nghị cũng khẳng định sự tin tưởng với các nguyên tắc được đề cập
trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người và kêu gọi các dân tộc và các
Chính phủ: "phấn đấu cho những nguyên tắc ghi nhận trong Tuyên ngôn và
tăng cường hơn nữa những nỗ lực nhằm bảo đảm cho mọi người có một cuộc
sống phù hợp với tự do và nhân phẩm cũng như sự hạnh phúc về thể chất, tinh
thần, xã hội và văn hóa".
Việt Nam là một quốc gia tích cực trong việc tôn trọng và bảo vệ quyền
con người, ngoài việc gia nhập Công ước quốc tế Giơ-ne-vơ về bảo hộ nạn
nhân chiến tranh, đối xử nhân đạo với tù nhân chiến tranh (năm 1957), từ năm
1977, sau khi trở thành thành viên Liên hợp quốc, Việt Nam đã từng bước
tham gia hầu hết các Công ước quốc tế về quyền con người, như: Công ước
quốc tế về xóa bỏ các hình thức phân biệt chủng tộc (tham gia năm 1981);
Công ước về xóa bỏ mọi hình thức về phân biệt đối xử với phụ nữ (tham gia
năm 1982); Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (tham gia năm
1982); Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội (tham gia
năm 1982); Công ước quốc tế về quyền trẻ em (tham gia năm 1990); Công
ước quốc tế về quyền của người khuyết tật (tham gia năm 2007); Công ước
10
quốc tế về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô
nhân đạo hoặc hạ nhục con người (tham gia năm 2014).
Ngoài các điều ước quốc tế cơ bản về quyền con người trên, Việt Nam
còn tham gia các công ước quốc tế khác có liên quan đến lĩnh vực bảo vệ
quyền con người và luật nhân đạo quốc tế như Nghị định thư bổ sung Công
ước Giơ-ne-vơ về bảo hộ nạn nhân trong các cuộc xung đột quốc tế (tham gia
năm 1981), Công ước về ngăn ngừa và trừng trị tội ác diệt chủng và Công ước
về ngăn chặn và trừng trị tội ác A-pác-thai (tham gia năm 1981).
Sau khi trở thành thành viên Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), năm
1994, Việt Nam đã gia nhập nhiều công ước của tổ chức này như Công ước số
5 về tuổi tối thiểu của trẻ em được tham gia lao động công nghiệp, Công ước
số 6 về làm việc ban đêm của trẻ em trong công nghiệp, Công ước số 14 về
quy định nghỉ hằng tuần cho lao động công nghiệp…
Việt Nam cũng tích cực tham gia Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc,
hợp tác nhân quyền trong khuôn khổ Cộng đồng các nước nói tiếng Pháp. Bên
cạnh đó, với tư cách là thành viên ASEAN, Việt Nam cũng tích cực tham gia
vào các khuôn khổ hợp tác khu vực về nhân quyền, trong đó có Ủy ban Liên
Chính phủ về nhân quyền ASEAN. Ngoài ra, Việt Nam còn thường xuyên tham
gia đối thoại nhân quyền với các nước như: Mỹ, Australia, Thụy Sỹ và EU.
Để thực hiện tốt các vấn đề liên quan đến bảo vệ quyền con người,
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
năm 1991 đã khẳng định: “Nhà nước định ra các đạo luật nhằm xác định
các quyền công dân và quyền con người, quyền đi đôi với nghĩa vụ và trách
nhiệm” [19, tr.422]. Trên tinh thần của Cương lĩnh xây dựng đất nước năm
1991, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số 12-CT/TW ngày
12/7/1992, Chỉ thị này đã ghi nhận những quan điểm quan trọng về vấn đề
quyền con người và bảo vệ quyền con người:
11
Quyền tự do, dân chủ của mỗi cá nhân không tách rời nghĩa
vụ và trách nhiệm công dân. Dân chủ phải đi đôi với kỷ cương,
pháp luật. Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm
chủ của nhân dân, đồng thời thực hiện chuyên chính với mọi hành
động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân.... [59, tr.484].
Tiếp theo, vào tháng 1/2011, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã
chính thức đưa ra luận điểm mang tính chỉ đạo về sửa đổi Hiến pháp năm
1992, trong đó Đảng ta đã khẳng định sự cần thiết của các nguyên tắc tiến bộ
và dân chủ, cụ thể như: Chủ quyền của nhân dân cao hơn chủ quyền của Nhà
nước, nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước và kiểm soát quyền
lực nhà nước trong hoạt động của bộ máy công quyền [20, tr.247].
Trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong
việc bảo đảm quyền con người trong tất cả các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội, được cộng đồng quốc tế ghi nhận.
Từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, Việt Nam đã trở thành một
nước độc lập có chủ quyền, có quyền dân tộc tự quyết, quyền lựa chọn quyết
định thể chế chính trị của mình. Người dân có quyền tham gia vào việc xây
dựng và quyết định các quyết sách của đất nước. Quyền bầu cử, ứng cử, ngày
càng được phát huy.
Ngoài tổ chức chính trị là Đảng Cộng sản Việt Nam, còn có các tổ chức
chính trị - xã hội và nhiều tổ chức xã hội - nghề nghiệp theo lứa tuổi, giới
tính, lĩnh vực nghề nghiệp hoạt động thu hút hàng chục triệu hội viên tham
gia. Mọi tư tưởng và chính kiến khác nhau được tự do đề đạt có tổ chức.
Quyền tự do báo chí, tự do hội họp theo quy định của pháp luật được
tôn trọng. Với số đầu báo, tạp chí tăng nhanh, thông tin đa dạng, phong phú
đáp ứng nhu cầu tiếp cận thông tin của người dân. Hệ thống phát thanh,
truyền hình phát triển nhanh, tất cả các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
12
có đài phát thanh, truyền hình, người dân dễ dàng tiếp nhận thông tin thông
qua các phương tiện thông tin đại chúng.
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng, tôn giáo
được đảm bảo. Mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo theo quy định của
pháp luật. Các tổ chức tôn giáo được nhà nước thừa nhận được hoạt động theo
pháp luật và được pháp luật bảo hộ. Các dân tộc được đảm bảo bình đẳng về
quyền lợi và nghĩa vụ, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ nhau cùng phát triển;
được tạo cơ hội phát triển như nhau, được duy trì tiếng nói và chữ viết riêng,
bảo tồn văn hoá truyền thống. Đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số không
ngừng được nâng cao.
Quyền khiếu nại, tố cáo được đảm bảo; quyền bất khả xâm phạm thân
thể và quyền được bảo vệ tính mạng sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm của
người dân luôn được tôn trọng.
Về kinh tế, GDP bình quân đầu người liên tục tăng, tỷ lệ đói nghèo
giảm. Việt Nam đã đạt được mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ do Liên hợp
quốc đặt ra là giảm một nửa tỷ lệ đói nghèo giai đoạn 1990 – 2015; hoàn
thành phổ cập giáo dục tiểu học và xoá mù chữ; các chương trình chăm sóc y
tế đã thu được kết quả khá. Việc khám chữa bệnh cho người nghèo, vùng sâu,
vùng xa, được quan tâm; chỉ số phát triển con người (HDI) đạt được những
kết quả đáng khích lệ, tuổi thọ trung bình của người dân tăng lên từng năm.
Sự nghiệp phát triển văn hoá, giáo dục-đào tạo tăng nhanh, hình thức
giáo dục-đào tạo được đa dạng hoá, đã đảm bảo công bằng xã hội trong văn
hoá, giáo dục. Lượng thông tin được cung cấp phong phú hơn về số lượng, đa
dạng về chủng loại, hấp dẫn hơn về nội dung và hình thức. Người dân được
tiếp cận tốt hơn với công nghệ thông tin hiện đại.
Các quyền con người về mặt xã hội, đảm bảo công bằng về quyền lợi
và nghĩa vụ công dân ngày càng được phát huy. Đã kết hợp tốt giữa tăng
13
trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội. Quyền bình đẳng nam, nữ
được tôn trọng. Phụ nữ tham gia công tác xã hội và chính trị ngày càng nhiều,
có mặt ở các vị trí lãnh đạo các cấp Trung ương và địa phương.
Có thể khẳng định, Quyền con người ở Việt Nam không ngừng được
phát huy và sự tham gia tích cực của người dân vào mọi mặt đời sống kinh tế
xã hội của đất nước là nhân tố quan trọng của thành công của công cuộc đổi
mới ở Việt Nam. Quyền con người luôn luôn gắn liền với lịch sử, truyền
thống và phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, văn hoá của đất nước. Do
vậy không thể áp đặt hoặc sao chép máy móc các tiêu chuẩn, mô thức của
nước này cho nước khác.
Hiện nay, Việt Nam vẫn đang tiếp tục từng bước hoàn thiện các văn
bản pháp luật về bảo vệ quyền con người, cũng như “chăm lo cho con người,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người” [18, tr.134]. Đặc biệt, với
sự ra đời của Hiến pháp Việt Nam năm 2013, vấn đề tôn trọng, bảo vệ quyền
con người tại Việt Nam ngày càng được khẳng định, thay vì lồng ghép các nội
dung về quyền con người vào quyền công dân như các bản Hiến pháp trước
đây, Hiến pháp Việt Nam 2013 đã có một chương riêng (Chương II) quy định
rõ về "Quyền con người, Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân". Trong đó,
có sự kế thừa, bổ sung, phát triển các bản hiến pháp trước đây của nước ta.
Chương này gồm 36 điều (từ Điều 14 đến Điều 49) đề cập toàn diện về quyền
con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Việt Nam trên các mặt:
dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa. Điều đó đã thể hiện sự quan tâm
của Đảng, Nhà nước ta đối với vấn đề quan trọng này.
Hiến pháp Việt Nam 2013 khẳng định:
1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền
con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã
hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiếp pháp và
14
pháp luật. 2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn
chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc
phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức
khỏe cộng đồng [45, Điều 14].
Điều đó đã thể hiện tất cả những vấn đề về quyền con người, quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân hoàn toàn phù hợp với thực tiễn đất nước và
thống nhất với những quy định của quốc tế. “Tuyên ngôn toàn thế giới về
Nhân quyền” của Liên hợp quốc (năm 1948), được coi là bản “Tuyên ngôn
đầu tiên của toàn nhân loại” và là “lý tưởng chung nhất mà tất cả các dân
tộc, quốc gia phải đạt tới” [6, tr.144], đã công nhận con người có 26 quyền cơ
bản, gồm ba nhóm sau:
Các quyền dân sự, là những quyền tự do cơ bản của cá nhân, như:
quyền sống, quyền tự do thân thể; quyền không bị xâm phạm cá nhân; quyền
bảo vệ danh dự, bí mật cá nhân và gia đình, bí mật về thư tín, trao đổi thông
tin, tự do di chuyển chỗ ở; quyền tự do đi lại và cư trú; quyền có quốc tịch và
thay đổi quốc tịch; quyền kết hôn và lập gia đình; quyền sở hữu; quyền được
xét xử công khai, độc lập và công bằng khi bị ra tòa.
Các quyền về chính trị, là quyền tự do khẳng định nhân cách của mình
trong đời sống chính trị; quyền tham gia công việc quản lý của nhà nước và
đời sống xã hội; quyền được bầu cử, ứng cử; quyền được lập hội, gia nhập
hội; quyền tự do ngôn luận thể hiện chính kiến của mình; quyền được thông
tin và xuất bản, quyền tự do tín ngưỡng.
Các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa, là các quyền về sở hữu tài sản;
quyền trao đổi; quyền lao động và tự do thể hiện năng lực của mình trong lao
động; quyền được bảo vệ về mặt xã hội, được sống đầy đủ, được chăm sóc
sức khỏe, được học tập và sử dụng các giá trị văn hóa.
Quyền con người là một phạm trù lịch sử - cụ thể nên nó luôn đi cùng
15
với sự phát triển của nhân loại, đặc biệt trong những năm gần đây vấn đề bảo
vệ quyền con người luôn là vấn đề nóng được cả thế giới quan tâm, GS.TSKH
Lê Văn Cảm cho rằng:
Việc bảo vệ các quyền con người đã và vẫn đang là vấn đề
trung tâm có ý nghĩa thời đại của hành tinh chúng ta,... vì nó không
chỉ là vấn đề "muôn thuở" mang tính lịch sử từ bao đời nay mà còn
mang tính thời sự quốc tế, không những là mục tiêu cơ bản trong
cuộc đấu tranh của các dân tộc vì hòa bình, tự do, dân chủ và công
lý, mà còn là mối quan tâm thường xuyên của nhân loại tiến bộ trên
toàn trái đất [8, tr.10].
Cho đến nay các nhà khoa học, luật gia vẫn còn có nhiều cách hiểu
khác nhau về khái niệm quyền con người, cụ thể như:
GS.TSKH Lê Văn Cảm đưa ra khái niệm quyền con người như sau:
Quyền con người là một phạm trù lịch sử - cụ thể là giá trị xã
hội cao quý nhất được thừa nhận chung của nền văn minh nhân loại
và là đặc trưng tự nhiên vốn có cần được tôn trọng và không thể bị
tước đoạt của bất kỳ cá nhân con người nào sinh ra trên trái đất,
đồng thời phải được bảo vệ bằng pháp luật bởi các quốc gia - thành
viên LHQ, cũng như bởi cộng đồng quốc tế [13, tr.224].
GS.TS Trần Ngọc Đường cho rằng: "Quan niệm nhân quyền vừa khẳng
định cơ sở tự nhiên và giá trị nhân loại của quyền, đồng thời cũng thừa nhận
thuộc tính xã hội - chính trị và lịch sử cụ thể của quyền con người thuộc một
quốc gia, một dân tộc" [24, tr.21].
PGS.TS Nguyễn Văn Động đã đưa ra một số quan điểm về quyền con
người như sau [23, tr.52-53]:
- Là những giá trị quý báu được thừa nhận chung bời toàn thế giới,
đồng thời gắn bó chặt chẽ với sự tồn tại và phát triển của mỗi cá nhân, mỗi
quốc gia, mỗi dân tộc và cả cộng đồng quốc tế;
16
- Trực tiếp liên quan tới các lĩnh vực sinh hoạt vật chất và tinh thần của
con người (từ ăn, ở, nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí...) và góp phần quan trọng vào sự
hình thành và phát triển nhân cách, tính nhân đạo và nhân văn của con người;
- Các quyền con người tạo thành một hệ thống thống nhất, quan hệ tác
động lẫn nhau, phụ thuộc vào nhau, đồng thời vừa là tiền đề, điều kiện của
nhau, vừa là hệ quả của nhau, ...
TS. Trần Quang Tiệp đưa ra định nghĩa: "Quyền con người là những
đặc lợi vốn có tự nhiên mà chỉ con người mới được hưởng trong những điều
kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhất định" [50, tr.14].
Trên cơ sở phân tích các quan điểm quốc tế về nhân quyền cũng như
những quan điểm của các học giả tại Việt Nam, tác giả đưa ra khái niệm
quyền con người như sau: Quyền con người là những quyền tự nhiên, vốn có
của con người, những nhu cầu, lợi ích tự nhiên của con người cần được tôn
trọng và bảo vệ bằng pháp luật của các quốc gia và pháp luật quốc tế.
1.1.2. Các đặc điểm cơ bản của quyền con người
- Quyền con người có tính chất tự nhiên, vốn có của con người
Hiến pháp năm 2013 khẳng định "Nhà nước bảo đảm và phát huy
quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền
con người, quyền công dân" [45].
Vì vậy, khi quy định quyền con người, quyền công dân, hầu hết các
điều của Hiến pháp năm 2013 quy định trực tiếp "mọi người có quyền...",
"công dân có quyền" để khẳng định rõ đây là những quyền đương nhiên của
con người, của công dân được Hiến pháp ghi nhận và Nhà nước có trách
nhiệm tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ các quyền này.
Đây chính là nguyên tắc hiến định rất quan trọng về quyền con người,
quyền công dân và theo nguyên tắc này, từ nay không chủ thể nào, kể cả các
cơ quan nhà nước được tùy tiện cắt xén, hạn chế các quyền con người, quyền
17
công dân đã được quy định trong Hiến pháp. Cũng từ nguyên tắc này, các quy
định liên quan đến các quyền bất khả xâm phạm của con người, của công dân
(như quyền được sống, quyền không bị tra tấn, quyền bình đẳng trước pháp
luật v.v.) là các quy định có hiệu lực trực tiếp; chủ thể của các quyền này
được viện dẫn các quy định của Hiến pháp để bảo vệ các quyền của mình khi
bị xâm phạm. Các quyền, tự do cơ bản khác của con người, của công dân và
quyền được bảo vệ về mặt tư pháp cần phải được cụ thể hóa nhưng phải bằng
luật do Quốc hội ban hành, chứ không phải quy định chung chung “theo quy
định pháp luật” như rất nhiều điều của Hiến pháp năm 1992 quy định.
Quyền con người có tính chất tự nhiên, vốn có của con người. Có thể
nói đây chính là đặc điểm chung của quyền con người mà bất kỳ cá nhân nào
được sinh ra đều mặc nhiên thụ hưởng quyền này và bình đẳng không phân
biệt chủng tộc, giới tính, tôn giáo hay vị thế xã hội [Xem: 41, tr. 41].
- Quyền con người có tính pháp định
Quyền con người là những quyền tự nhiên, vốn có của con người, tuy
nhiên trên thực tế để các quyền con người được tôn trọng, bảo vệ thì cần phải
được Nhà nước công nhận bằng văn bản pháp luật cụ thể. Tại Việt Nam, Hiến
pháp năm 2013 đã quy định Nhà nước "công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo
đảm quyền con người". Đồng thời Hiến pháp năm 2013 cũng quy định:
Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo
quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng,
an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe
của cộng đồng [45].
Quyền con người nói chung và và trong lĩnh vực tư pháp hình
sự nói riêng được ghi nhận trong các văn bản pháp luật là tiền đề để
quyền con người được bảo đảm thực thi trong đời sống [17, tr. 46].
Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền cũng đã khẳng định việc thực hiện
18
các quyền và tự do cơ bản của con người có thể phải chịu những giới hạn nhất
định, những giới hạn đó quy định trong pháp luật, với mục đích bảo đảm sự
thừa nhận các quyền và tự do của người khác, hoặc để bảo đảm các yêu cầu
về đạo đức, trật tự công cộng và sự thịnh vượng nói chung trong một xã hội
dân chủ. Đồng thời, các quyền được ghi nhận trong các công ước có thể hạn
chế bởi pháp luật của quốc gia nhưng chỉ trong một chừng mực tương thích
với bản chất những quyền đó, với mục đích chính là để bảo vệ quyền con
người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Tuy nhiên có một số quyền nhất định trong các công ước không
bao giờ bị hạn chế hoặc tạm dừng việc thực hiện, thậm chí trong
những trường hợp khẩn cấp, đó là quyền: sống, tự do không bị tra tấn,
tự do không bị nô lệ hoặc nô dịch, thừa nhận tư cách con người trước
pháp luật và tự do tín ngưỡng, tư tưởng, tôn giáo [40, tr.40].
- Quyền con người gắn liền với mỗi con người kể từ khi sinh ra
Quyền công dân gắn liền với quốc tịch của mỗi con người, do vậy công
dân mang quốc tịch của quốc gia nào thì sẽ được quốc gia đó bảo hộ. Quyền
con người thì lại khác, quyền con người không gắn với quốc tịch và với mỗi
quốc gia mà quyền con người thì gắn liền với cá nhân người đó, không kể là
người có quốc tịch hay người không có quốc tịch. Ngay khi sinh ra con người
đã có sẵn những quyền đó, tùy thuộc vào hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia
mà quyền con người sẽ được thừa nhận và bảo vệ ở các mức độ khác nhau.
- Quyền con người được bảo vệ bằng pháp luật
Hiến pháp năm 2013 quy định rõ quyền nào là quyền con người, quyền
nào là quyền công dân và quy định theo thứ tự: đầu tiên là các nguyên tắc
hiến định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; tiếp
đến là các quyền dân sự, chính trị rồi đến các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội
và cuối cùng là các nghĩa vụ của cá nhân, của công dân. Hiến pháp năm 2013
19
thay vì quy định “công dân” như Hiến pháp năm 1992 đã quy định “mọi
người”, “không ai”. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng, đánh dấu bước phát
triển mới về nhận thức lý luận và giá trị thực tiễn khi không đồng nhất quyền
con người với quyền công dân. Đặc biệt Hiến pháp 2013 đã khẳng định "Nhà
nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân ; công nhận, tôn
trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân".
Hiến pháp năm 2013 quy định cụ thể một số quyền của con người như:
Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp
luật bảo hộ. Không ai bi ̣tước đoạt tính mạng trái luật; Mọi người có
quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí
mật gia đình...; Mọi người có quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá
trị văn hoá, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn
hóa; Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành và
có nghĩa vụ bảo vệ môi trường; v.v... [45].
Điều này thể hiện bước tiến mới trong việc mở rộng và phát triển các
quyền con người. Nội dung của các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân được quy định trong các điều khác của Hiến pháp năm
2013 phù hợp với các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là
thành viên, nhất là Công ước quyền con người về chính trị, dân sự và Công
ước quyền con người về kinh tế, văn hóa và xã hội năm 1966 của Liên hợp
quốc. Đây cũng chính là sự khẳng định cam kết mang tính hiến định của Nhà
nước ta trước Nhân dân và trước cộng đồng quốc tế về trách nhiệm tôn trọng,
bảo đảm, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam,
điều đó thể hiện vị trí của con người ngày càng được nâng cao.
PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí cho rằng:
Quyền con người nói chung và trong lĩnh vực tư pháp hình sự
nói riêng được ghi nhận trong các văn bản pháp luật là tiền đề để
20
quyền con người được bảo đảm thực thi trong đời sống. Thông qua
các quy định của luật hình sự, luật tố tụng hình sự, luật thi hành án
hình sự, Nhà nước trao cho con người những phương tiện cần thiết
để bảo vệ các quyền của mình và thiết lập các cơ chế để giải quyết
cũng như đảm bảo các quyền của các chủ thể [17, tr.46].
1.2. Nội dung bảo vệ quyền con ngƣời bằng các chế định về chấp
hành hình phạt
1.2.1. Bảo vệ quyền con người bằng chế định miễn chấp hành hình phạt
Miễn chấp hành hình phạt là một biện pháp tha miễn mang tính nhân
đạo, nhằm bảo vệ quyền con người. Để tăng cường việc bảo vệ quyền con
người hiện nay miễn chấp hành hình phạt được áp dụng trên phạm vi rộng, có
thể đặt ra với những người phạm tội chưa chấp hành hình phạt, cũng có thể
đặt ra với những hình phạt đang được chấp hành và đặt ra với cả những hình
phạt đã được hoãn hoặc được tạm đình chỉ chấp hành mà hệ quả là người đó
không phải chấp hành hình phạt đó nữa khi người phạm tội thỏa mãn một số
điều kiện nhất định về nhân thân và ý thức tuân thủ pháp luật... được Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân đề nghị thì Tòa án xem xét việc miễn chấp
hành hình phạt cho họ.
Hiện nay, xoay quanh khái niệm miễn chấp hành hình phạt vẫn còn
nhiều quan điểm khác nhau, GS.TSKH Lê Văn Cảm cho rằng: "Miễn chấp
hành hình phạt là hủy bỏ việc chấp hành biện pháp cưỡng chế về hình sự
nghiêm khắc nhất mà Tòa án đã tuyên trong bản án kết tội có hiệu lực
pháp luật đối với người bị kết án" [11, tr.790]; TS. Phạm Văn Beo viết
trong Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam: "Miễn chấp hành hình phạt là
không buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt mà Tòa án đã tuyên
đối với họ" [3, tr.464]; Còn theo TS. Trịnh Tiến Việt:
21
Miễn chấp hành hình phạt là không buộc người bị kết án
phải chấp hành hình phạt (toàn bộ hình phạt hoặc một phần hình
phạt còn lại) mà Tòa án đã tuyên đối với họ khi đáp ứng những
điều kiện nhất định và thuộc một trong các trường hợp do Bộ luật
hình sự quy định [59, tr.401].
Qua phân tích các quan điểm của các nhà khoa học - luật gia, tác giả
cho rằng, về cơ bản các quan điểm đều thống nhất chung về bản chất pháp lý
của miễn chấp hành hình phạt là một nội dung phản ánh chính sách nhân đạo,
khoan hồng của Nhà nước, được thể hiện thông qua việc không buộc người bị
kết án phải chấp hành hình phạt đã tuyên nếu thuộc một trong các trường hợp
được Bộ luật hình sự quy định.
Do đó, theo tác giả thì, miễn chấp hành hình phạt là không buộc người
bị kết án phải chấp hành toàn bộ hình phạt hoặc một phần hình phạt còn lại
mà Tòa án đã tuyên đối với người phạm tội khi họ đáp ứng những điều kiện
do Bộ luật hình sự quy định.
Từ định nghĩa trên có thể thấy miễn chấp hành hình phạt có bản chất
pháp lý của là một chế định nhân đạo của luật hình sự Việt Nam và được thể
hiện ở chỗ Tòa án vẫn quyết định hình phạt nhất định trong bản án kết tội đã
có hiệu lực pháp luật đối với người phạm tội, nhưng không buộc người này
phải chấp hành toàn bộ hình phạt đó khi có đầy đủ căn cứ và những điều kiện
do pháp luật hình sự quy định.
Ví dụ, anh Nông Văn Tài, bị Tòa án phạt 30 tháng tù giam về tội cố ý
gây thương tích, trong khi chờ thi hành án, anh Tài đã có công cứu được 2 trẻ
em bị nước lũ cuốn trôi, được chính quyền địa phương xác nhận, Tài là người
có nhân thân tốt, chăm chỉ làm ăn, trong quá trình chờ thi hành án, anh luôn
chấp hành tốt các quy định của pháp luật. Anh Tài có có Đơn đề nghị Viện
Trưởng viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp đề nghị Toàn án nhân dân cùng cấp
22
miễn chấp hành hình phạt đối với anh và đã được Tòa án chấp thuận, quyết
định miễn chấp hành toàn bộ hình phạt đã tuyên đối với Nông Văn Tài.
Qua khái niệm về miễn chấp hành hình phạt, có thể thấy được tư tưởng
bảo vệ quyền con người thông qua chế định này, đây là một chế định nhân
đạo của Luật hình sự Việt Nam, với chế định này có thể một người bị Tòa án
kết tội bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật, nhưng không buộc người này
phải chấp hành toàn bộ hình phạt hoặc một phần hình phạt còn lại, khi có đầy
đủ căn cứ đáp ứng những điều kiện do pháp luật hình sự quy định. Khi được
miễn chấp hành hình phạt, người phạm tội không phải chịu hậu quả pháp lý
hình sự bất lợi của việc phạm tội do bản thân thực hiện. Họ không phải chấp
hành hình phạt do Tòa án đã tuyên đối với họ.
Điều kiện để được miễn chấp hành hình phạt không phụ thuộc vào thời
gian chấp hành hình phạt mà phụ thuộc vào nhiều điều kiện khác nhau như:
thái độ, sự hợp tác, ý thức của người bị kết án; tình trạng bệnh tật của người bị
kết án; khả năng gây nguy hiểm cho xã hội của người bị kết án; chính sách
nhân đạo, khoan hồng của Nhà nước,... trên cơ sở các quy định của pháp luật
hình sự, căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của từng đối tượng, Tòa án
xem xét quyết định miễn chấp hành toàn bộ hình phạt đối với người chưa chấp
hành hoặc miễn chấp hành phần còn lại đối với người đã chấp hành được một
phần của hình phạt, qua đó giúp người bị kết án nhanh chóng trở lại với xã hội,
hòa nhập cộng đồng, trở thành người có ích cho gia đình và xã hội. Điều đó thể
hiện việc cụ thể hóa nội dung bảo vệ quyền con người trong Hiến pháp thông
quan các quy định cụ thể trong Bộ luật hình sự, trong trường hợp này đó là nội
dung bảo vệ quyền "được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ” [45, Điều 20] (với
quy định về tình trạng bệnh tật của người bị kết án).
1.2.2. Bảo vệ quyền con người bằng chế định giảm mức hình phạt đã tuyên
Trong chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mục đích của hình phạt là
23
nghiêm trị kết hợp với khoan hồng, trừng trị kết hợp với giáo dục, cải tạo,
thuyết phục. Do đó, việc giáo dục, cải tạo người bị kết án chủ yếu được thực
hiện bằng phương pháp cải tạo lao động, học tập để khuyến khích, động viên
người bị kết án nỗ lực cải tạo, rèn luyện sớm trở thành người lao động lương
thiện, có ích cho gia đình và xã hội. Vì vậy, Bộ luật hình sự đã cụ thể hoá
chính sách hình sự và tư tưởng nhân đạo trong pháp luật, giảm mức hình phạt
đã tuyên là một trong các chế định thể hiện chính sách khoan hồng của nhà
nước Việt Nam đối với người phạm tội.
Chế định giảm mức hình phạt đã tuyên đã được đề cập từ Bộ Luật hình
sự năm 1985, Bộ Luật hình sự năm 1999, mới đây nhất Bộ Luật hình sự năm
2015 tiếp tục kế thừa, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện chế định này. Tuy nhiên, các
bộ luật này đều chưa đưa ra được khái niệm về giảm mức hình phạt đã tuyên.
Giảm mức hình phạt đã tuyên gắn liền với hình phạt. Khi thực hiện tội
phạm thì hậu quả pháp lý của người phạm tội phải gánh chịu đó là hình phạt
(trừ các trường hợp đặc biệt). Khi tội phạm được thực hiện, tùy thuộc vào tính
chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, hậu quả để lại cho xã hội
(nếu có) và các yếu tố thuộc về nhân thân người phạm tội,... các cơ quan có
thẩm quyền có thể xem xét miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt cho
người phạm tội, khi chưa đủ cơ sở pháp lý để miễn trách nhiệm hình sự, miễn
hình phạt, Tòa án còn có thể xem xét để giảm mức hình phạt đã tuyên đối với
người phạm tội. Đây là một chế định có tính nhân đạo của nhà nước ta nhằm
khuyến khích, động viên những người phạm tội ăn năn, hối cải, hướng thiện
để nhận được sự khoan hồng, cụ thể ở đây là hình thức giảm mức hình phạt
đối với người phạm tội đã bị Tòa án tuyên.
Dưới góc độ khoa học luật hình sự, có nhiều quan điểm khác nhau về
khái niệm giảm mức hình phạt đã tuyên, nhưng về bản chất vẫn cơ bản thống
nhất về nội hàm khái niệm, cụ thể như sau:
24
Theo GS.TSKH Lê Văn Cảm, "Giảm mức hình phạt đã được tuyên là
rút ngắn thời hạn của việc chấp hành phần còn lại của loại hình phạt có thời
hạn hoặc miễn việc tiếp tục chấp hành phần còn lại của loại hình phạt không
có thời hạn đối với người bị kết án" [11, tr.792].
Với một góc độc khác về giảm mức hình phạt đã tuyên, TS. Cao Thị
Oanh cho rằng: "Giảm thời hạn chấp hành hình phạt là giảm một phần thời
hạn chấp hành hình phạt đã tuyên cho người bị kết án" [41, tr.232];
TS. Trịnh Tiến Việt có quan điểm về giảm thời hạn chấp hành hình
phạt như sau:
Giảm thời hạn chấp hành hình phạt là việc Toà án rút ngắn
thời hạn của việc chấp hành hình phạt còn lại của loại hình phạt có
thời hạn hoặc miễn tiếp tục chấp hành phần còn lại của loại hình
phạt khác đối với người bị kết án khi có thành tích, tiến bộ trong
việc lao động, cải tạo và có đề nghị của cơ quan, tổ chức (cơ quan,
tổ chức hữu quan, cơ quan thi hành hình phạt tù, Viện kiểm sát)
hoặc chính quyền địa phương được giao trách nhiệm trực tiếp giám
sát, giáo dục [59, tr.424-425].
Qua phân tích các quan điểm của các tác giả nêu trên và dựa vào nội
hàm của mối liên hệ của chế định này với hình phạt, tác giả đưa ra khái niệm
giảm mức hình phạt đã tuyên như sau: Giảm mức hình phạt đã tuyên là việc
rút ngắn thời gian phải chấp hành phần hình phạt còn lại hoặc miễn toàn bộ
thời gian còn lại của hình phạt mà Toà án đã tuyên với người bị kết án.
Có thể nói, giảm mức hình phạt đã tuyên là sự rút ngắn hoặc miễn toàn
bộ thời gian phải chấp hành hình phạt còn lại mà Tòa án đã tuyên đối với
người phạm tội. Người bị kết án cải tạo không giam giữ, phạt tù có thời hạn
hoặc phạt tù chung thân, nếu đã chấp hành hình phạt được một thời gian nhất
định (phụ thuộc vào từng loại hình phạt), có nhiều tiến bộ và đã bồi thường
25
được một phần nghĩa vụ dân sự, thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình
sự có thẩm quyền, Tòa án có thể xem xét quyết định giảm bớt thời gian hoặc
miễn toàn bộ thời gian còn lại của việc chấp hành hình phạt mà Tòa án đã
tuyên đối với người bị kết án. Qua đó thời gian chấp hành hình phạt còn lại
của người bị kết án được rút ngắn hoặc chấm dứt.
Giảm mức hình phạt đã tuyên là một chế định nhân đạo của pháp luật
Việt Nam. Tuy nhiên, người phạm tội chỉ có thể được giảm hình phạt đã
tuyên khi họ đã chấp hành hình phạt được một thời gian nhất định (đảm bảo
thời gian tối thiểu theo quy định của Bộ Luật hình sự), đồng thời phải đáp ứng
được các điều kiện theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam. Chế định
này tạo cơ hội cho người đang chấp hành hình phạt tù có cơ hội được giảm
mức hình phạt, nhanh chóng được tái hòa nhập cộng đồng.
Bộ Luật hình sự Việt Nam 2015 quy định:
Người bị kết án cải tạo không giam giữ, phạt tù có thời hạn
hoặc phạt tù chung thân, nếu đã chấp hành hình phạt được một
thời gian nhất định, có nhiều tiến bộ và đã bồi thường được một
phần nghĩa vụ dân sự, thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án
hình sự có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định giảm thời hạn
chấp hành hình phạt.
Thời gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là
một phần ba thời hạn đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, hình
phạt tù có thời hạn, 12 năm đối với tù chung thân [46, Điều 63].
Giảm mức hình phạt đã tuyên là chế định thể hiện sự khoan hồng của
pháp luật với những người đã thực hiện tội phạm. Khi đã thực hiện tội phạm
thì hậu quả pháp lý mà người thực hiện tội phạm phải gánh chịu đó là hình
phạt. Đối với mỗi loại tội phạm, tùy thuộc vào tính chất, mức độ nguy hiểm
của hành vi phạm tội đối với xã hội mà người phạm tội sẽ phải gánh chịu hình
26
phạt tương ứng. Nhà nước ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa, với hệ thống pháp
luật xã hội chủ nghĩa mang bản chất nhân đạo, luôn khoan hồng với những
người biết ăn năn, hối cải, tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh và sự tiến bộ
trong trong quá trình cải tạo mà người phạm tội có thể được giảm thời hạn
chấp hành hình phạt, để sớm trở lại với cuộc sống bình thường.
1.2.3. Bảo vệ quyền con người bằng chế định giảm thời hạn chấp
hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt
Giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt là chế
định thể hiện sự khoan hồng của pháp luật với những người đã thực hiện tội
phạm. Đây là sự cụ thể hoá quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong việc
khoan hồng với những người biết ăn năn, hối cải, tùy thuộc vào điều kiện,
hoàn cảnh và sự tiến bộ trong trong quá trình cải tạo, đặc biệt là đối với những
người đã lập công, đã quá già yếu hoặc mắc bệnh hiểm nghèo, mà người
phạm tội có thể được giảm thời hạn chấp hành hình phạt vào thời gian sớm
hơn hoặc với mức cao hơn so với thời gian và mức quy định đối với trường
hợp giảm mức hình phạt đã tuyên (quy định tại Điều 63 Bộ luật hình sự
2015), để sớm được trở lại với cuộc sống bình thường.
Chế định giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt
đã được đề cập ngay từ Bộ Luật hình sự năm 1985, tiếp đó là Bộ Luật hình sự
năm 1999, mới đây nhất Bộ Luật hình sự năm 2015 tiếp tục kế thừa chế định
này. Tuy nhiên, các bộ luật này đều chưa đưa ra khái niệm về giảm thời hạn
chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt.
Bộ Luật hình sự năm 1999 quy định về giảm thời hạn chấp hành hình
phạt trong trường hợp đặc biệt, với nội dung "Người bị kết án có lý do đáng
được khoan hồng thêm như đã lập công, đã quá già yếu hoặc mắc bệnh hiểm
nghèo, thì Tòa án có thể xét giảm vào thời gian sớm hơn hoặc với mức cao hơn
so với thời gian và mức quy định tại Điều 58 của Bộ luật này" [44, Điều 59].
27
Bộ Luật hình sự Việt Nam 2015 cơ bản giữ nguyên các nội dung quy
định về giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt như quy
định tại Bộ Luật hình sự Việt Nam 1999, cụ thể như sau: "Người bị kết án có
lý do đáng được khoan hồng thêm như đã lập công, đã quá già yếu hoặc mắc
bệnh hiểm nghèo, thì Tòa án có thể xét giảm vào thời gian sớm hơn hoặc với
mức cao hơn so với thời gian và mức quy định tại Điều 63 của Bộ luật này".
Qua phân tích nội dung quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về giảm
thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt, tác giả cho rằng:
Giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt là việc rút
ngắn thời gian phải chấp hành phần hình phạt còn lại hoặc miễn toàn bộ thời
gian còn lại của hình phạt mà Toà án đã tuyên với người bị kết án khi người
đó đã lập công, quá già yếu hoặc mắc bệnh hiểm nghèo.
Từ định nghĩa khoa học nói trên cho thấy, giảm thời hạn chấp hành
hình phạt trong trường hợp đặc biệt là sự rút ngắn thời gian phải chấp hành
hình phạt còn lại hoặc miễn toàn bộ thời gian phải chấp hành hình phạt còn lại
mà Tòa án đã tuyên đối với người phạm tội khi người đó đã lập công, quá già
yếu hoặc mắc bệnh hiểm nghèo.
Điều 8, Thông tư liên tịch số 02/2013/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-
VKSNDTC ngày 15/5/2013 quy định về giảm thời hạn chấp hành án phạt tù
trong trường hợp đặc biệt, theo đó phạm nhân đã chấp hành được ít nhất một
phần tư mức hình phạt đã tuyên đối với án phạt tù từ ba mươi năm trở xuống
hoặc mười năm đối với tù chung thân và có đủ điều kiện về xếp loại chấp
hành án phạt tù, có thể được xét, đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù,
nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Phạm nhân đã lập công, cụ thể như: có hành động giúp trại giam, trại
tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan nhà nước
có thẩm quyền phát hiện, truy bắt, điều tra và xử lý tội phạm; cứu được tính
28
mạng của người khác trong tình thế hiểm nghèo hoặc đã cứu được tài sản có
giá trị từ 30.000.000đ (ba mươi triệu đồng trở lên) của Nhà nước, của tập thể,
của công dân trong thiên tai, hỏa hoạn; có những phát minh, sáng kiến có giá
trị lớn hoặc có thành tích đặc biệt xuất sắc khác được trại giam, trại tạm giam,
cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện hoặc cơ quan nhà nước có
thẩm quyền xác nhận. Mỗi lần lập công, phạm nhân chỉ được xem xét, đề
nghị giảm thời hạn một lần;
- Phạm nhân là người từ 70 tuổi trở lên hoặc từ 60 tuổi trở lên nhưng
thường xuyên bị bệnh, phải nằm điều trị tại bệnh xá, bệnh viện nhiều lần trong
thời gian dài (từ ba tháng trở lên) và không có khả năng tự phục vụ bản thân;
- Phạm nhân là người đang bị mắc một trong các bệnh như: Ung thư
giai đoạn cuối, liệt, lao nặng kháng thuốc, xơ gan cổ chướng, suy tim độ III
trở lên, suy thận độ IV trở lên, nhiễm HIV đã chuyển giai đoạn AIDS đang có
nhiễm trùng cơ hội, không có khả năng tự phục vụ bản thân và có tiên lượng
xấu, nguy cơ tử vong cao hoặc mắc một trong các bệnh khác được Hội đồng
giám định y khoa, bệnh viện cấp tỉnh hoặc cấp quân khu trở lên kết luận là
bệnh hiểm nghèo, nguy hiểm đến tính mạng.
Nội dung này thể hiện quyền được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, tính
mạng đã được quy định tại Điều 19, Điều 20, Hiếp pháp Việt Nam năm 2013.
Thông tư 02/2013/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC cũng quy
định mức giảm mỗi lần cao nhất cho các trường hợp đặc biệt này là bốn năm,
nhưng phải bảo đảm thời gian thực tế chấp hành án phạt tù ít nhất là hai phần
năm mức hình phạt đã tuyên hoặc mười lăm năm đối với hình phạt tù chung
thân. Trong trường hợp đặc biệt, khi có đề nghị của Bộ trưởng Bộ Công an
hoặc Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và được sự đồng ý của Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, phạm nhân có thể
được xét giảm vào thời gian sớm hơn hoặc mức giảm có thể lên tới trên 4 năm.
29
Giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt là một chế
định nhân đạo của pháp luật Việt Nam, tạo cơ hội cho những người phạm tội
đã lập công, đã quá già yếu hoặc mắc bệnh hiểm nghèo khi họ đã chấp hành
hình phạt được một thời gian nhất định, sớm được tái hoà nhập cộng đồng.
1.2.4. Bảo vệ quyền con người bằng chế định hoãn chấp hành hình
phạt tù
Khi bản án có hiệu lực pháp luật thì các cá nhân, tổ chức có liên quan
phải tôn trọng, người bị kết án phải chấp hành nghiêm chỉnh theo đúng các
quy định của pháp luật về hình phạt. Đây là một nguyên tắc đã được ghi nhận
trong Hiến pháp, điều này thể hiện tầm quan trọng của việc thi hành án. Tuy
nhiên, vì những lý do đặc biệt nhất định thuộc về nhân thân người bị kết án
như hoàn cảnh, điều kiện gia đình hoặc nhu cầu công vụ mà người bị kết án
phạt tù chưa thể đi thi hành án ngay được, khi đó người bị kết án phạt tù có
thể được xem xét hoãn chấp hành hình phạt tù.
Chấp hành hình phạt tù là việc người phạm tội phải chấp hành phán
quyết của Tòa án dành cho họ, đây là hình thức tước bỏ hoặc hạn chế quyền
tự do của người bị kết án với mục đích để giáo dục, cải tạo, cách li họ khỏi
đời sống xã hội, hạn chế, ngăn chặn các hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ
có thể gây ra. Tuy nhiên, pháp luật của nhà nước ta mang bản chất nhân đạo,
vì vậy trong những trường hợp đặc biệt có liên quan đến nhân thân, điều kiện,
hoàn cảnh của người bị kết án, nhà nước ta có thể xem xét hoãn chấp hành
hình phạt tù trong một khoảng thời gian nhất định để người phạm tội có thời
gian, điều kiện khắc phục, giải quyết khó khăn, để sau đó toàn tâm, toàn ý cho
việc chấp hành hình phạt, giúp cho việc cải tạo của người phạm tội được tốt
hơn, thể hiện tính nhân đạo của nhà nước ta, nâng cao tính giáo dục, giúp
người phạm tội thêm tin tưởng vào chính sách, pháp luật của nhà nước ta,
giúp họ sớm tái hòa nhập cộng đồng và trở thành những công dân tốt sau khi
chấp hành xong hình phạt.
30
Ngược lại, nếu trong điều kiện, hoàn cảnh nhân thân đặc biệt của người
phạm tội như bị bệnh nặng, phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng
tuổi,... nếu họ không được hoãn chấp hành hình phạt tù thì người phạm tội sẽ
không thể chấp hành hình phạt hoặc không toàn tâm, toàn ý cho việc chấp
hành hình phạt, dẫn đến hiệu quả chấp hành hình phạt sẽ không cao, mục đích
cải tạo, giáo dục người phạm tội khó có thể đạt được. Vì vậy, việc hoãn chấp
hành hình phạt tù trong một thời gian nhất định đối với những trường hợp có
hoàn cảnh, điều kiện đặc biệt là hết sức cần thiết, giúp tạo điều kiện cho người
phạm tội có điều kiện chấp hành hình phạt được tốt hơn, nâng cao hiệu quả
công tác giáo dục, cải tạo người phạm tội, thể hiện đúng chính sách nhân đạo
trong pháp luật hình sự của Nhà nước ta.
Chế định hoãn chấp hành hình phạt tù là sự ghi nhận của pháp luật Việt
Nam nhằm bảo vệ quyền con người, chế định này được thể hiện qua việc
ngừng chấp hành hình phạt tù trong một thời gian nhất định (có điều kiện),
chế định này chỉ có thể được áp dụng đối với người đã bị kết án và họ chưa
chấp hành hình phạt tù. Pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành chỉ quy định
điều kiện được hoãn chấp hành hình phạt tù chứ không quy định cụ thể hình
phạt tù đó là tù có thời hạn hay không có thời hạn, chế định này không những
thể hiện tính nhân đạo của pháp luật Việt Nam mà còn cho thấy tính công
bằng, khách quan trong việc bảo vệ quyền con người của pháp luật Việt Nam.
Lần đầu tiên, vấn đề hoãn chấp hành hình phạt tù được quy định tại
Điều 69 Bộ luật hình sự năm 1985, điều luật này đã quy định điều kiện để
hoãn chấp hành hình phạt tù. Vấn đề hoãn chấp hành hình phạt tù được quy
định tại Điều 61 Bộ luật hình sự năm 1999 và tiếp tục được ghi nhận đầy đủ
hơn tại Điều 67 Bộ luật hình sự năm 2015. Tuy nhiên, cũng giống như Bộ luật
hình sự năm 1985 và Bộ luật hình sự năm 1999, Bộ luật hình sự năm 2015
cũng không đưa ra được khái niệm hoãn chấp hành hình phạt tù mà chỉ quy
định về các điều kiện để được hoãn chấp hành hình phạt tù.
31
Trước tiên, như đã nói ở trên, "Hình phạt là biện pháp cưỡng chế
nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật này, do Tòa án
quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm
tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó".
Đối với khái niệm "chấp hành", theo Từ điển Tiếng Việt thì chấp hành
dùng để chỉ việc "thi hành, thực hiện những điều quy định trong chính sách,
pháp luật, kế hoạch, mệnh lệnh, phán quyết" [60, Chấp_hành]. Tuy nhiên,
dưới góc độ luật hình sự thì chấp hành là việc thi hành những quyết định có
hiệu lực của cơ quan có thẩm quyền.
Khái niệm "hoãn" theo Từ điển Tiếng Việt có nghĩa là "chuyển thời
điểm định làm việc gì đó sang thời điểm khác, muộn hơn" [60, Hoãn]. Dưới
góc độ luật hình sự thì "hoãn" là tạm dừng, chưa phải chấp hành một quyết
định nào đó của cơ quan có thẩm quyền mà lẽ ra mình phải bị chấp hành.
Xoay quanh vấn đề khái niệm về miễn chấp hành hình phạt tù, các nhà
khoa học cũng chưa đưa ra được một khái niệm thống nhất, theo GS. TSKH
Lê Văn Cảm,“Hoãn chấp hành hình phạt tù là việc tạm dừng lại trong một
thời hạn nhất định việc chấp hành hình phạt tù của người bị kết án nếu
người này chưa chấp hành hình phạt tù đó” [11, tr.794]; GS.TS Nguyễn
Ngọc Hòa cho rằng: "Hoãn chấp hành hình phạt tù là chuyển việc thi hành
hình phạt tù sang thời điểm muộn hơn" [28, tr.310]; còn với TS. Trịnh Tiến
Việt: "Hoãn chấp hành hình phạt tù là việc Tòa án cho phép người bị kết án
chuyển việc thi hành án phạt tù sang thời điểm muộn hơn. Nói một cách khác, đó
là việc cho phép người bị kết án tiếp tục sống và làm việc ngoài xã hội, chưa
buộc người này phải vào trại giam để chấp hành hình phạt tù" [59, tr.435].
Qua nghiên cứu, phân tích, tác giả đưa ra khái niệm hoãn chấp hành
hình phạt như sau: Hoãn chấp hành hình phạt tù là chuyển việc chấp hành
hình phạt tù đối với người bị kết án nhưng chưa chấp hành hình phạt tù sang
32
thời điểm muộn hơn so với thời điểm được quy định tại bản án kết tội đã có
hiệu lực pháp luật đối với người bị kết án.
Từ khái niệm khoa học về hoãn chấp hành hình phạt tù nên trên, có thể
khẳng định bản chất pháp lý của chế định này như sau: Hoãn chấp hành hình
phạt tù là một chế định nhân đạo của Luật hình sự Việt Nam, được thể hiện
thông qua việc Tòa án quyết định chuyển việc chấp hành hình phạt tù đối với
người bị kết án (nhưng chưa chấp hành hình phạt đó) sang thời điểm muộn
hơn so với thời điểm đã được quy định tại bản án đã có hiệu lực pháp luật của
Tòa án đối với người phạm tội, trong một thời gian nhất định khi có đầy đủ
căn cứ và những điều kiện do pháp luật hình sự quy định.
Ví dụ: Tháng 6 năm 2015, Nguyễn Văn Hậu, 25 tuổi (có đủ năng lực
trách nhiệm hình sự) thường trú tại xã Phú Xuyên, huyện Đại Từ tỉnh Thái
Nguyên có mâu thuẫn với Dương Văn Hùng 27 tuổi, ở cùng xã với Hậu. Hai
bên xô sát, Hậu dùng ống tuýp kẽm đánh Hùng gẫy xương bả vai và đa chấn
thương nhiều vùng trên cơ thể. Kết quả giám định, Hùng bị thương tật 12%.
Căn cứ hồ sơ vụ án và Điểm a, Khoản 1, Điều 104 Bộ Luật hình sự năm 1999,
sửa đổi bổ sung năm 2009, Tòa án nhân dân huyện Đại Từ tuyên phạt Nguyễn
Văn Hậu 24 tháng tù. Trước khi chấp hành hình phạt tù, Nguyễn Văn Hậu đã
có Đơn đề nghị Tòa án cho hoãn chấp hành hình phạt tù với lý do Hậu là
người lao động duy nhất trong gia đình, nếu phải chấp hành hình phạt tù thì
gia đình sẽ gặp khó khăn đặc biệt. Sau khi xác minh, Tòa án đã ra quyết định
hoãn chấp hành hình phạt tù đối với Nguyễn Văn Hậu, thời gian được hoãn
chấp hành hình phạt là 12 tháng.
1.2.5. Bảo vệ quyền con người bằng chế định tạm đình chỉ chấp hành
hình phạt tù
Tương tự như hoãn chấp hành hình phạt tù, khái niệm tạm đình chỉ
chấp hành hình phạt tù cũng chưa được ghi nhận trong Luật hình sự Việt
Nam. Nếu như chế định hoãn chấp hành hình phạt tù lần đầu tiên được pháp
33
luật ghi nhận tại Bộ luật hình sự 1985 thì tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù
lần đầu tiên được quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự 1988. Theo Từ điển
Tiếng việt, "tạm" có nghĩa là "làm việc gì chỉ trong một thời gian nào đó, khi
có điều kiện thì sẽ có thay đổi" [60, Tạm]; "Đình chỉ" có nghĩa là "ngừng lại
hoặc làm cho phải ngừng lại trong một thời gian hay vĩnh viễn" [60, Đình_chỉ].
Dưới góc độ luật hình sự thì "tạm đình chỉ" là tạm dừng lại việc thực hiện một
quyết định nào đó của cơ quan có thẩm quyền mà người đó đang phải chấp
hành. Tại Bộ luật tố tụng hình sự 1988, nhà làm luật sử dụng thuật ngữ là
"tạm đình chỉ thi hành án hình phạt tù". Tuy nhiên, tại Bộ luật hình sự 1999
và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thuật ngữ này đã được sửa đổi thành
"tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù". Việc sửa đổi thuật ngữ trên là có cơ sở
bởi lẽ, đối với tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù, người bị kết án đã có
quyết định thi hành án và đang chấp hành hình phạt. Khi có đủ các điều kiện
theo luật định thì có thể được tạm dừng việc chấp hành hình phạt đó, đây
cũng là điểm khác biệt căn bản so với chế định hoãn chấp hành hình phạt tù.
Dưới góc độ khoa học, đã có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này.
Theo TS. Phạm Văn Beo:
Tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù là việc tạm dừng trong
một thời gian nhất định việc chấp hành hình phạt tù của người bị
kết án khi người này đang chấp hành hình phạt đó [3, tr.470];
Quan điểm của GS.TSKH Lê Văn Cảm:
Tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù là việc tạm dừng trong
một thời gian nhất định việc chấp hành hình phạt tù của người bị
kết án đang chấp hành hình phạt đó [11, tr.796];
Theo quan điểm của TS. Trịnh Tiến Việt:
Tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù là việc Tòa án cho phép
người bị kết án đang chấp hành hình phạt tù tại trại giam được tạm
34
dừng việc ở lại trại giam để chấp hành hình phạt, đồng thời họ được
trả tự do nếu không bị giam giữ về một tội phạm khác khi có những
điều kiện cụ thể do Bộ luật hình sự quy định [59, tr.444].
Qua phân tích, tiếp thu có chọn lọc những điểm hợp lý trong các khái
niệm "tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù" của các tác giả đã nêu trên, tác giả
đưa ra định nghĩa khoa học về tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù như sau: Tạm
đình chỉ chấp hành hình phạt tù là việc Toà án cho phép người đang chấp hành
hình phạt tù được tạm dừng chấp hành hình phạt tù đó trong một thời gian nhất
định, khi người đó đáp ứng những điều kiện do Bộ luật hình sự quy định.
Về bản chất pháp lý, có thể hiểu chế định tạm đình chỉ chấp hành hình
phạt tù là một chế định nhân đạo của Luật hình sự Việt Nam, được thể hiện
qua việc Tòa án quyết định cho phép người bị kết án đang chấp hành hình
phạt tù được tạm dừng việc chấp hành hình phạt tù đó trong một thời hạn nhất
định khi người đó có đầy đủ căn cứ và những điều kiện theo quy định của
pháp luật hình sự.
1.2.6. Bảo vệ quyền con người bằng chế định tha tù trước thời hạn có
điều kiện
Tha tù trước kỳ hạn là một chế định nhân đạo đã được Nhà nước ta
quan tâm, cụ thể hoá bằng văn bản pháp luật từ rất sớm. Năm 1958 Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành Thông tư số 566/TTg ngày 24 tháng 12 năm 1958 quy
định về vấn đề này, cụ thể như sau: "...Khi xử xong thì phải tổ chức ngay cho
phạm nhân lao động sản xuất một cách thiết thực. Kẻ nào lao động tốt, biểu
hiện tốt về mặt cải tạo thì công an đề nghị công tố xét và đưa toà án xử tha tù
cho họ trước kỳ hạn" [6, tr.1]. Để hướng dẫn thi hành quy định của Thủ tướng
Chính phủ về nội dung tha tù trước kỳ hạn, Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Viện
Công tố Trung ương, Toàn án nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư liên bộ
số 73-TT/LB ngày 11 tháng 08 năm 1959 về việc quy định điều kiện và thủ
tục xử tha tù trước kỳ hạn.
35
Thuật ngữ tha tù trước kỳ hạn đã được đề cập đến từ rất sớm, nhưng trong
Bộ Luật hình sự năm 1985 và Bộ Luật hình sự năm 1999 lại không sử dụng
thuật ngữ này. Bộ luật hình sự năm 2015 đã quy định cụ thể nội dung này tại một
Điều riêng (Điều 66) với tên gọi "Tha tù trước thời hạn có điều kiện". Chế định
này cho phép sớm đưa người phạm tội bị xử phạt tù quay trở về với cộng đồng
để phục thiện, sửa chữa lỗi lầm. Chế định này được ghi nhận là sự cụ thể hoá
quan điểm, đường lối của Đảng ta về vấn đề này, theo đúng tinh thần của Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020, cụ thể là “đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện
trong việc xử lý người phạm tội” [4, phần các nhiệm vụ giải pháp].
Bộ luật Hình sự năm 1985, năm 1999 cũng đã quy định một số giải
pháp rút ngắn thời hạn chấp hành hình phạt đối với người chưa chấp hành
hình phạt tù trong trại giam, đó là những quy định về miễn, giảm hình phạt.
Điều kiện về miễn chấp hành hình phạt tù đối với người phạm tội nhìn chung
dựa trên ba tiêu chí là thời gian thực sự chấp hành hình phạt, thái độ cải tạo
phục hồi (như lập công, có nhiều tiến bộ, chấp hành tốt nội quy, quy chế trại
giam, xếp loại cải tạo) và lý do nhân đạo (như mắc bệnh hiểm nghèo).
Cụ thể, việc miễn chấp hành toàn bộ hình phạt tù đối với người phạm
tội được quy định tại Điều 57 Bộ luật hình sự năm 1999. Riêng đối với người
chưa thành niên phạm tội thì vấn đề này còn được quy định tại Điều 76 Bộ
luật hình sự năm 1999. Theo quy định này, người phạm tội có thể được miễn
chấp hành toàn bộ hình phạt tù có thời hạn trong hai trường hợp:
Thứ nhất, người phạm tội bị kết án tù có thời hạn, chưa chấp hành hình
phạt mà lập công lớn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo và người đó không còn nguy
hiểm cho xã hội nữa thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án
có thể quyết định miễn chấp hành toàn bộ hình phạt cho người đó.
Thứ hai, người bị kết án về tội ít nghiêm trọng đang được hoãn chấp
36
hành hình phạt mà lập công thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát,
Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành hình phạt.
Việc miễn chấp hành phần hình phạt còn lại có thể được tiến hành đối
với người phạm tội trong thời gian tạm đình chỉ chấp hành hình phạt mà lập
công hoặc trong trường hợp được đặc xá. Theo quy định tại Khoản 4 Điều 57
Bộ luật hình sự năm 1999, người bị kết án về tội ít nghiêm trọng đang trong
thời gian được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt mà lập công thì có thể được
miễn chấp hành phần hình phạt còn lại.
Ngoài ra, theo quy định của Luật Đặc xá, người đang chấp hành hình
phạt tù có thời hạn mà thỏa mãn các điều kiện về ý thức chấp hành nội quy,
quy chế trại giam, thái độ lao động, học tập, xếp loại cải tạo cũng như điều
kiện về thời gian đã thực tế chấp hành hình phạt tù thì được đề nghị Chủ tịch
nước quyết định đặc xá.
Việc áp dụng những quy định này trong thực tiễn đã góp phần đáng kể
vào việc động viên người bị kết án yên tâm cải tạo, tích cực sửa chữa lỗi lầm
để trở thành công dân có ích cho xã hội. Tuy nhiên, những quy định trên vẫn
còn có một số khiếm khuyết nhất định như: Chưa thực sự chú trọng đến việc
phòng ngừa tái phạm; Không có ràng buộc đối với người phạm tội được trả tự
do; Đối tượng được miễn chấp hành toàn bộ hoặc phần còn lại của hình phạt
tù còn khá hạn chế;...
Chế định tha tù trước thời hạn có điều kiện được ghi nhận giúp giải
quyết các vấn đề tồn tại đã nêu trên, cụ thể như sau:
Chế định tha tù trước thời hạn có điều kiện đã chú trọng đến việc phòng
ngừa tái phạm thông qua các quy định, ràng buộc cụ thể đối với người phạm
tội được tha tù trước thời hạn; Đối tượng được xem xét tha tù trước thời hạn
có điều kiện là tương đối rộng so với các quy định trước đây. Cụ thể như sau:
Là người phạm tội lần đầu có nơi cư trú rõ ràng; đang chấp hành án
phạt tù; có nhiều tiến bộ, có ý thức cải tạo tốt (đối với người bị kết án về tội
37
phạm nghiêm trọng trở lên thì phải là người đã được giảm thời hạn chấp hành
hình phạt tù); Đã chấp hành xong hình phạt bổ sung là hình phạt tiền, án phí
và các nghĩa vụ bồi thường dân sự; Đã chấp hành được ít nhất là một phần hai
mức thời hạn tù đối với hình phạt tù có thời hạn hoặc ít nhất 15 năm đối với
tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn.
Trường hợp người phạm tội là thương binh, bệnh binh, thân nhân gia
đình liệt sỹ, gia đình có công với cách mạng, người đủ 70 tuổi trở lên,
người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, phụ nữ đang nuôi con
dưới 36 tháng tuổi, thì thời gian đã chấp hành ít nhất là một phần ba
hình phạt tù có thời hạn hoặc ít nhất 12 năm đối với tù chung thân đã được
giảm xuống tù có thời hạn.
Người có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật hình sự về tha tù
trước thời hạn có điều kiện, theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự có
thẩm quyền, Tòa án quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện đối với người
bị kết án. Người được tha tù trước thời hạn có điều kiện phải thực hiện các
nghĩa vụ trong thời gian thử thách. Thời gian thử thách bằng thời gian còn lại
của hình phạt tù. Nếu trong thời gian thử thách, người được tha tù trước thời
hạn có điều kiện cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên hoặc bị xử phạt vi phạm
hành chính 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể hủy bỏ quyết định tha tù trước thời
hạn có điều kiện đối với người đó và buộc họ phải chấp hành phần hình phạt tù
còn lại chưa chấp hành. Nếu trong thời gian thử thách, người đó lại thực hiện
hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó chấp hành hình phạt của bản án
mới và tổng hợp với phần hình phạt tù chưa chấp hành của bản án trước đó.
Người được tha tù trước thời hạn có điều kiện đã chấp hành được ít
nhất là một phần hai thời gian thử thách và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị
của cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định rút
ngắn thời gian thử thách đối với người đó.
38
Bên cạnh việc đảm bảo các quyền cơ bản của con người, chế định tha
tù trước thời hạn có điều kiện đã đưa ra các điều kiện ràng buộc cụ thể đối với
người được tha tù, đồng thời đã hạn chế các đối tượng tiềm ẩn cao khả năng
tái phạm, đặc biệt là các tội có liên quan đến an ninh quốc gia, chống lại loài
người, tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm của con người, cụ
thể chế định tha tù trước thời hạn có điều kiện không áp dụng đối với:
- Người bị kết án về tội xâm phạm an ninh quốc gia; tội khủng bố; tội
phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh hoặc người bị
kết án từ 10 năm tù trở lên đối với tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
nhân phẩm của con người; 07 năm tù trở lên đối với các tội cướp tài sản, bắt
cóc nhằm chiếm đoạt tài sản và sản xuất trái phép, mua bán trái phép, chiếm
đoạt chất ma túy;
- Người bị kết án tử hình được ân giảm hoặc những người thuộc diện
không thi hành án tử hình đối với người bị kết án quy định tại Khoản 3, Điều
40 Bộ luật hình sự năm 2015 (người bị kết án tử hình nhưng thuộc một trong
các trường hợp sau đây: Phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36
tháng tuổi; Người đủ 75 tuổi trở lên; Người bị kết án tử hình về tội tham ô tài
sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư
tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong
việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn).
Từ các phân tích trên đây, tác giả đưa ra khái niệm tha tù trước thời hạn
có điều kiện như sau:
Tha tù trước thời hạn có điều kiện là việc Toà án cho phép người chưa
chấp hành xong án phạt tù được trở về với cuộc sống bình thường, khi người
đó đáp ứng những điều kiện do pháp luật hình sự quy định. Người được tha tù
trước thời hạn phải thực hiện thời gian thử thách bằng thời gian còn lại của
hình phạt tù.
Bảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạt
Bảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạt
Bảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạt
Bảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạt
Bảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạt
Bảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạt
Bảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạt
Bảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạt
Bảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạt
Bảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạt

More Related Content

What's hot

What's hot (17)

Đề tài: Vai trò của pháp luật trong bảo đảm quyền con người, HOT
Đề tài: Vai trò của pháp luật trong bảo đảm quyền con người, HOTĐề tài: Vai trò của pháp luật trong bảo đảm quyền con người, HOT
Đề tài: Vai trò của pháp luật trong bảo đảm quyền con người, HOT
 
Luận văn: Quyền và nghĩa vụ của người chấp hành hình phạt tù
Luận văn: Quyền và nghĩa vụ của người chấp hành hình phạt tùLuận văn: Quyền và nghĩa vụ của người chấp hành hình phạt tù
Luận văn: Quyền và nghĩa vụ của người chấp hành hình phạt tù
 
Đề tài: Bảo vệ quyền con người bằng quy phạm về biện pháp tha miễn
Đề tài: Bảo vệ quyền con người bằng quy phạm về biện pháp tha miễnĐề tài: Bảo vệ quyền con người bằng quy phạm về biện pháp tha miễn
Đề tài: Bảo vệ quyền con người bằng quy phạm về biện pháp tha miễn
 
Bảo đảm quyền con người trong thực hành quyền công tố, HOT
Bảo đảm quyền con người trong thực hành quyền công tố, HOTBảo đảm quyền con người trong thực hành quyền công tố, HOT
Bảo đảm quyền con người trong thực hành quyền công tố, HOT
 
Luận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân tại các trại giam
Luận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân tại các trại giamLuận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân tại các trại giam
Luận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân tại các trại giam
 
Bảo vệ quyền con người thông qua chế định người bào chữa, HOT
Bảo vệ quyền con người thông qua chế định người bào chữa, HOTBảo vệ quyền con người thông qua chế định người bào chữa, HOT
Bảo vệ quyền con người thông qua chế định người bào chữa, HOT
 
Luận án: Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội, HAY
Luận án: Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội, HAYLuận án: Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội, HAY
Luận án: Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội, HAY
 
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAYĐề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
 
Đề tài: Địa vị pháp lý của người chưa thành niên theo luật, HOT
Đề tài: Địa vị pháp lý của người chưa thành niên theo luật, HOTĐề tài: Địa vị pháp lý của người chưa thành niên theo luật, HOT
Đề tài: Địa vị pháp lý của người chưa thành niên theo luật, HOT
 
Đề tài: Tội không cứu giúp người đang trong tình trạng nguy hiểm
Đề tài: Tội không cứu giúp người đang trong tình trạng nguy hiểmĐề tài: Tội không cứu giúp người đang trong tình trạng nguy hiểm
Đề tài: Tội không cứu giúp người đang trong tình trạng nguy hiểm
 
Quyền con người của người chưa thành niên trong điều tra, HOT
Quyền con người của người chưa thành niên trong điều tra, HOTQuyền con người của người chưa thành niên trong điều tra, HOT
Quyền con người của người chưa thành niên trong điều tra, HOT
 
Luận văn: Vấn đề quyền con người và can thiệp nhân đạo, HAY
Luận văn: Vấn đề quyền con người và can thiệp nhân đạo, HAYLuận văn: Vấn đề quyền con người và can thiệp nhân đạo, HAY
Luận văn: Vấn đề quyền con người và can thiệp nhân đạo, HAY
 
Phòng, chống tra tấn trong pháp luật quốc tế và Việt Nam, HOT
Phòng, chống tra tấn trong pháp luật quốc tế và Việt Nam, HOTPhòng, chống tra tấn trong pháp luật quốc tế và Việt Nam, HOT
Phòng, chống tra tấn trong pháp luật quốc tế và Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự
Luận văn: Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sựLuận văn: Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự
Luận văn: Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự
 
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khácĐề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
 
Luận văn: Nguyên tắc hai cấp xét xử về bảo vệ quyền con người
Luận văn: Nguyên tắc hai cấp xét xử về bảo vệ quyền con ngườiLuận văn: Nguyên tắc hai cấp xét xử về bảo vệ quyền con người
Luận văn: Nguyên tắc hai cấp xét xử về bảo vệ quyền con người
 
Luận văn: Quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án, HOT
Luận văn: Quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án, HOTLuận văn: Quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án, HOT
Luận văn: Quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án, HOT
 

Similar to Bảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạt

Vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền con người ở giai đoạn khởi tố điều tra...
Vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền con người ở giai đoạn khởi tố điều tra...Vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền con người ở giai đoạn khởi tố điều tra...
Vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền con người ở giai đoạn khởi tố điều tra...nataliej4
 
Khóa luận Quyền an tử và vấn đề hợp pháp hóa na tử ở Việt Nam
Khóa luận Quyền an tử và vấn đề hợp pháp hóa na tử ở Việt NamKhóa luận Quyền an tử và vấn đề hợp pháp hóa na tử ở Việt Nam
Khóa luận Quyền an tử và vấn đề hợp pháp hóa na tử ở Việt NamDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hìnhLuận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hìnhDịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hì...
Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hì...Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hì...
Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hì...jackjohn45
 

Similar to Bảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạt (20)

Quyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do
Quyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự doQuyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do
Quyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do
 
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOTToà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
 
Luận văn: Bảo vệ quyền con người thông qua xét xử vụ án hình sự
Luận văn: Bảo vệ quyền con người thông qua xét xử vụ án hình sựLuận văn: Bảo vệ quyền con người thông qua xét xử vụ án hình sự
Luận văn: Bảo vệ quyền con người thông qua xét xử vụ án hình sự
 
Đề tài: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của công dân, HAY
Đề tài: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của công dân, HAYĐề tài: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của công dân, HAY
Đề tài: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của công dân, HAY
 
Đề tài: Bảo vệ quyền con người bằng các quy phạm về tội phạm, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền con người bằng các quy phạm về tội phạm, HAYĐề tài: Bảo vệ quyền con người bằng các quy phạm về tội phạm, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền con người bằng các quy phạm về tội phạm, HAY
 
Đề tài: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự, HAY
Đề tài: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự, HAYĐề tài: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự, HAY
Đề tài: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sựLuận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
 
Vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền con người ở giai đoạn khởi tố điều tra...
Vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền con người ở giai đoạn khởi tố điều tra...Vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền con người ở giai đoạn khởi tố điều tra...
Vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền con người ở giai đoạn khởi tố điều tra...
 
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sựBảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
 
Quyền của người bị tạm giữ, tạm giam và chấp hành hình phạt tù
Quyền của người bị tạm giữ, tạm giam và chấp hành hình phạt tùQuyền của người bị tạm giữ, tạm giam và chấp hành hình phạt tù
Quyền của người bị tạm giữ, tạm giam và chấp hành hình phạt tù
 
Bảo vệ quyền con người thông qua chế định người bào chữa, HAY
Bảo vệ quyền con người thông qua chế định người bào chữa, HAYBảo vệ quyền con người thông qua chế định người bào chữa, HAY
Bảo vệ quyền con người thông qua chế định người bào chữa, HAY
 
Luận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân, HOTLuận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân, HOT
 
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự, HOTLuận văn: Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự, HOT
 
Khóa luận Quyền an tử và vấn đề hợp pháp hóa na tử ở Việt Nam
Khóa luận Quyền an tử và vấn đề hợp pháp hóa na tử ở Việt NamKhóa luận Quyền an tử và vấn đề hợp pháp hóa na tử ở Việt Nam
Khóa luận Quyền an tử và vấn đề hợp pháp hóa na tử ở Việt Nam
 
Luận văn: Vấn đề về quyền xét xử công bằng ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề về quyền xét xử công bằng ở Việt Nam, HOTLuận văn: Vấn đề về quyền xét xử công bằng ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề về quyền xét xử công bằng ở Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Vấn đề để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình, HOT
Luận văn: Vấn đề để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình, HOTLuận văn: Vấn đề để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình, HOT
Luận văn: Vấn đề để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình, HOT
 
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hìnhLuận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
 
Bảo Đảm Quyền Bào Chữa Trong Luật Tố Tụng Hình Sự.doc
Bảo Đảm Quyền Bào Chữa Trong Luật Tố Tụng Hình Sự.docBảo Đảm Quyền Bào Chữa Trong Luật Tố Tụng Hình Sự.doc
Bảo Đảm Quyền Bào Chữa Trong Luật Tố Tụng Hình Sự.doc
 
Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hì...
Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hì...Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hì...
Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hì...
 
Luan an bao dam quyen con nguoi cua bi can bi cao trong to tung
Luan an bao dam quyen con nguoi cua bi can bi cao trong to tungLuan an bao dam quyen con nguoi cua bi can bi cao trong to tung
Luan an bao dam quyen con nguoi cua bi can bi cao trong to tung
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Recently uploaded

3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh choCD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh chonamc250
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảohoanhv296
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngYhoccongdong.com
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfNguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxNhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxhoangvubaongoc112011
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 

Recently uploaded (20)

3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh choCD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxNhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 

Bảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạt

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LƢƠNG XUÂN TRƢỜNG B¶O VÖ QUYÒN CON NG¦êI B»NG C¸C CHÕ §ÞNH VÒ CHÊP HµNH H×NH PH¹T TRONG LUËT H×NH Sù VIÖT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2017
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LƢƠNG XUÂN TRƢỜNG B¶O VÖ QUYÒN CON NG¦êI B»NG C¸C CHÕ §ÞNH VÒ CHÊP HµNH H×NH PH¹T TRONG LUËT H×NH Sù VIÖT NAM Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: GS.TSKH LÊ VĂN CẢM HÀ NỘI - 2017
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Lƣơng Xuân Trƣờng
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI BẰNG CÁC CHẾ ĐỊNH VỀ CHẤP HÀNH HÌNH PHẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ...................................8 1.1. Khái niệm, đặc điểm cơ bản của quyền con ngƣời ........................ 8 1.1.1. Khái niệm quyền con người ................................................................ 8 1.1.2. Các đặc điểm cơ bản của quyền con người....................................... 16 1.2. Nội dung bảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạt ................................................................................... 20 1.2.1. Bảo vệ quyền con người bằng chế định miễn chấp hành hình phạt....... 20 1.2.2. Bảo vệ quyền con người bằng chế định giảm mức hình phạt đã tuyên ..... 22 1.2.3. Bảo vệ quyền con người bằng chế định giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt.................................................. 26 1.2.4. Bảo vệ quyền con người bằng chế định hoãn chấp hành hình phạt tù................................................................................................ 29 1.2.5. Bảo vệ quyền con người bằng chế định tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù........................................................................................ 32 1.2.6. Bảo vệ quyền con người bằng chế định tha tù trước thời hạn có điều kiện ............................................................................................ 34 1.3. Vai trò của các chế định về chấp hành hình phạt đối với việc bảo vệ các quyền con ngƣời............................................................ 39 Kết luận chƣơng 1.......................................................................................... 42
  • 5. Chƣơng 2: CÁC VĂN BẢN QUỐC TẾ VỀ NHÂN QUYỀN VÀ THỰC TRẠNG CÁC QUY PHẠM PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM LIÊN QUAN ĐẾN CÁC CHẾ ĐỊNH VỀ CHẤP HÀNH HÌNH PHẠT ........................ Error! Bookmark not defined. 2.1. Các văn bản quốc tế về nhân quyền trong lĩnh vực tƣ pháp hình sự.............................................. Error! Bookmark not defined. 2.1.1. Khái quát các văn bản quốc tế về nhân quyền trong lĩnh vực tư pháp hình sự ...................................... Error! Bookmark not defined. 2.1.2. Phân tích một số văn bản quốc tế cơ bản về quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự .......... Error! Bookmark not defined. 2.2. Thực trạng các quy phạm pháp luật hình sự Việt Nam liên quan đến các chế định về chấp hành hình phạtError! Bookmark not defined 2.2.1. Các chế định về chấp hành hình phạt trong Bộ Luật hình sự 1985Error! Bookmark 2.2.2. Các chế định về chấp hành hình phạt trong Bộ Luật hình sự 1999Error! Bookmark 2.2.3. Các chế định về chấp hành hình phạt trong Bộ luật hình sự năm 2015........................................... Error! Bookmark not defined. Kết luận chƣơng 2 ......................................... Error! Bookmark not defined. Chƣơng 3: ĐỊNH HƢỚNG TIẾP TỤC HOÀN THIỆN CÁC QUY PHẠM LIÊN QUAN ĐẾN MỘT SỐ CHẾ ĐỊNH VỀ CHẤP HÀNH HÌNH PHẠT TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM THEO HƢỚNG TĂNG CƢỜNG HƠN NỮA VIỆC BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜIError! Bookmark not defined. 3.1. Sự cần thiết hoàn thiện các quy phạm liên quan đến các chế định về chấp hành hình phạt trong pháp luật hình sự Việt Nam theo hƣớng tăng cƣờng việc bảo vệ quyền con ngƣờiError! Bookmark 3.1.1. Về mặt chính trị - xã hội.................... Error! Bookmark not defined. 3.1.2. Về mặt thực tiễn ................................ Error! Bookmark not defined.
  • 6. 3.1.3. Về mặt lý luận và lập pháp hình sự... Error! Bookmark not defined. 3.2. Nội dung hoàn thiện........................ Error! Bookmark not defined. 3.2.1. Chế định miễn chấp hành hình phạt.. Error! Bookmark not defined. 3.2.2. Chế định giảm mức hình phạt đã tuyênError! Bookmark not defined. 3.2.3. Chế định giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt .............................................. Error! Bookmark not defined. Kết luận chƣơng 3 ......................................... Error! Bookmark not defined. KẾT LUẬN.................................................... Error! Bookmark not defined. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................... 43
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Một nhà nước tiến bộ là nhà nước tồn tại trên cơ sở hướng tới việc bảo đảm các quyền và lợi ích của con người, hạnh phúc của con người là thước đo mọi giá trị của cuộc sống. Một nhà nước dân chủ, tiến bộ luôn là cái đích mà tất cả các nhà nước trên thế giới đều mong muốn có được. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã xác định rõ và quy định ngay tại Điều 3 về Nhà nước có trách nhiệm “công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân” và đưa “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” thành một chương, đặt ngay sau Chương I về chế độ chính trị. Nội dung của các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được quy định trong các điều khác của Hiến pháp năm 2013 phù hợp với các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên, nhất là Công ước quyền con người về chính trị, dân sự và Công ước quyền con người về kinh tế, văn hóa và xã hội năm 1966 của Liên hợp quốc. Đây cũng chính là sự khẳng định cam kết mang tính hiến định của Nhà nước ta trước Nhân dân và trước cộng đồng quốc tế về trách nhiệm tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam, điều đó thể hiện vị trí của con người ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay cùng với sự phát triển của xã hội, tình hình tội phạm ngày càng gia tăng với mức độ ngày càng tinh vi, diễn biến phức tạp, nguy hiểm cho xã hội. Ngoài việc thực hiện đồng loạt các giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn thì pháp luật là công cụ hữu hiệu để hạn chế sự phát triển của tội phạm. Việc xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật vừa góp phần bảo đảm yêu cầu của công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm, vừa tạo lòng tin của nhân dân vào pháp luật.
  • 8. 2 Bên cạnh việc nghiêm trị đối với người phạm tội, pháp luật hình sự còn thể hiện tính nhân đạo, khoan hồng, được thể hiện thông qua nguyên tắc nhân đạo của chính sách hình sự nói chung và Bộ luật hình sự, Luật thi hành án hình sự Việt Nam nói riêng. Tuy nhiên trên thực tiễn công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, vấn đề tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người có nơi, có lúc còn chưa được đề cao. Xuất phát từ những trăn trở, băn khoăn đó đã thôi thúc tôi bắt tay vào nghiên cứu đề tài “Bảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạt trong luật hình sự Việt Nam”. 2. Tình hình nghiên cứu Nghiên cứu về vấn đề quyền con người không phải là mới nhưng luôn có tính thời sự. Gần 70 năm trước đây đã có Tuyên ngôn Toàn thế giới về quyền con người năm 1948 (Tuyên ngôn) của Liên hợp quốc nhưng không phải quốc gia nào cũng tham gia, công nhận và thực hiện. Việt Nam là một trong những quốc gia đã ghi nhận và từng bước thực hiện có hiệu quả Tuyên ngôn trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là lĩnh vực tư pháp hình sự. Việc nghiên cứu và hoàn thiện chế định bảo vệ quyền con người đã được nhiều tác giả trong nước cũng như nước ngoài nghiên cứu dưới nhiều hình thức, cụ thể như sau: Một là, sách chuyên khảo về quyền con ngƣời nói chung 1) GS. TS. Nguyễn Đăng Dung, TS. Vũ Công Giao, ThS. Lã Khánh Tùng (đồng chủ biên), Lý luận và pháp luật về quyền con người, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội 2009; 2) PGS. TS. Nguyễn Văn Động, Quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp, NXB Khoa học xã hội Hà Nội 2005; 3) GS. TS. Trần Ngọc Đường, Bàn về quyền con người, quyền công dân, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội 2004; 4) Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội - Trung tâm nghiên cứu quyền con người và quyền công dân, Luật Nhân quyền quốc tế những vấn đề liên quan, NXB Lao động xã hội Hà Nội 2011; 5) GS. TS.
  • 9. 3 Võ Khánh Vinh (chủ biên), Giáo dục quyền con người -Những vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Khoa học xã hội Hà Nội 2010;.... Hai là, sách chuyên khảo về quyền con ngƣời trong lĩnh vực tƣ pháp hình sự: 1) GS. TSKH. Lê Cảm, Hệ thống tư pháp hình sự trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội 2009; 2) PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí (Chủ biên), Sách chuyên khảo: Quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự, NXB Hồng Đức 2015; 3) Tòa án nhân dân tối cao - Vụ hợp tác Quốc tế, Quyền con người trong thi hành công lý, NXB Lao động -Xã hội Hà Nội 2010; 4) Trần Quang Tiệp, Bảo vệ quyền con người trong Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, 2004; ... Ba là, các bài báo khoa học về lĩnh vực bảo vệ quyền con ngƣời 1) GS. TSKH. Lê Văn Cảm, Hoàn thiện các quy định về trách nhiệm hình sự - Một yếu tố cơ bản và quan trọng nhất trong việc bảo vệ con người bằng pháp luật hình sự, Tạp chí Toà án nhân dân, số 2/1990; 2) GS. TSKH. Lê Cảm, Những vấn đề lý luận về bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự, Tạp chí Tòa án nhân dân (Số 12/2006, tr.7-13; Số 13/2006, tr.8-17; Số 14/2006, tr.4-12); 3) PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí, Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật tố tụng hình sự, Tạp chí Khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội, số 23/2007, tr.64-80; 4) TS. Nguyễn Quang Hiền, Bảo vệ quyền con người của người bị hại trong pháp luật tố tụng hình sự, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 13/2011, tr.4-11; 5) TS. Nguyễn Quang Hiền, Bảo vệ quyền con người của người bị buộc tội, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Viện Nhà nước và Pháp luật, Số 1/2010, tr.75-81; 6) Nguyễn Hữu Hậu, Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội trong hoạt động chứng minh buộc tội của Viện kiểm sát, Tạp chí Kiểm sát số 12/2015, tr.40-48; 7) Trần Văn Hội, Kháng nghị của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự với vai trò bảo đảm quyền con người, Tạp chí Kiểm sát số 19/2015, tr.24-30; …
  • 10. 4 Bốn là, nghiên cứu dƣới hình thức luận văn: 1) Giáp Mạnh Huy, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự Việt Nam, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội 2014; 2) Nguyễn Văn Luận, Việt Nam và vấn đề bảo vệ quyền con người, Trường Đại học Luật Hà Nội 2001; 3) Phùng Thanh Mai, Bảo vệ quyền con người bằng các quy định về biện pháp tha miễn trong pháp luật hình sự, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội 2014; 4) Tống Đức Thảo, Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền con người ở nước ta hiện nay, Trường đại học Luật Hà Nội 2001; ... Thực tế cho thấy, các kết quả nghiên cứu về quyền con người dưới các hình thức nêu trên, chủ yếu tập trung vào những vấn đề chung về quyền con người (quyền dân sự, chính trị, văn hóa xã hội…) hoặc nghiên cứu trong một lĩnh vực rộng (quyền con người trong pháp luật tố tụng hình sự, trong đấu tranh chống tội phạm…). Trên thực tế dưới góc độ luận văn thạc sỹ luật học cho tới thời điểm hiện tại chưa có công trình nào nghiên cứu sâu về Bảo vệ quyền con ngƣời bằng các chế định về chấp hành hình phạt trong luật hình sự Việt Nam. Vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài này để nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ luật học. 3. Mục đích nghiên cứu Làm rõ khái niệm, các đặc điểm quyền cơ bản của con người được bảo vệ thông qua các chế định về chấp hành hình phạt trong luật hình sự. Đồng thời, đi sâu phân tích bản chất nhân đạo của pháp luật hình sự Việt Nam được thể hiện thông qua các chế định về chấp hành hình phạt trong luật hình sự Việt Nam cũng như việc bảo vệ quyền con người thông qua các chế định sau: 1) Miễn chấp hành hình phạt; 2) Giảm mức hình phạt đã tuyên; 3) Giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt; 4) Hoãn chấp hành hình phạt tù; 5) Tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù; 6) Tha tù trước thời hạn có điều kiện. Qua đó, căn cứ vào Hiến pháp Việt Nam năm 2013, xu thế hội
  • 11. 5 nhập quốc tế và thực tiễn bảo vệ pháp luật ở nước ta để đưa ra những đề xuất, giải pháp bảo đảm thực hiện, góp phần hoàn thiện các chế định về chấp hành hình phạt trong luật hình sự Việt Nam theo hướng tăng cường hơn nữa việc bảo vệ quyền con người. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn xoay quanh vấn đề bảo vệ các quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, cụ thể là: 1) Chế định miễn chấp hành hình phạt; 2) Chế định giảm mức hình phạt đã tuyên; 3) Chế định giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt; 4) Chế định hoãn chấp hành hình phạt tù; 5) Chế định tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù; 6) Chế định tha tù trước thời hạn có điều kiện. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về bảo vệ quyền con người trong pháp luật hình sự nói chung và các quy phạm của pháp luật hình sự Việt Nam qua 06 chế định về chấp hành hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, bao gồm: 1) Chế định miễn chấp hành hình phạt; 2) Chế định giảm mức hình phạt đã tuyên; 3) Chế định giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt; 4) Chế định hoãn chấp hành hình phạt tù; 5) Chế định tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù; 6) Chế định tha tù trước thời hạn có điều kiện. Luận văn đi sâu nghiên cứu sự bảo vệ quyền con người thể hiện qua các chế định về chấp hành hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự Việt Nam. Riêng đối với chế định án treo, do mức độ rộng lớn, đa dạng và phức tạp của chế định này, nên trong khuôn khổ của Đề tài này tác giả xin phép không đề cập đến. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu nói trên, việc nghiên cứu được
  • 12. 6 tiến hành dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về quản lý Nhà nước, quản lý xã hội cũng như chủ trương, quan điểm về việc xây dựng Bộ luật hình sự. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như: Phân tích, tổng hợp, logic, lịch sử, quy nạp, đối chiếu, so sánh, ... nhằm làm sáng tỏ các vấn đề trong nội dung luận văn. 6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn 6.1. Ý nghĩa khoa học Việc nghiên cứu, làm sáng tổ các vấn đề về bảo vệ quyền con người nói chung và bảo vệ quyền con người thông qua các chế định về chấp hành hình phạt trong luật hình sự Việt Nam nói riêng là một vấn đề hết sức cần thiết, qua đó bổ sung vào kho tàng lý luận về bảo vệ quyền con bằng các chế định về chấp hành hình phạt, góp phần cụ thể hóa nội dung bảo vê ̣và bảo đảm quyền con người quy định tại Hiến pháp Việt Nam năm 2013. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận văn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo về mặt lý luận cho việc nghiên cứu về vấn đề bảo vệ quyền con bằng các chế định về chấp hành hình phạt. Ngoài ra, luận văn còn là cơ sở để đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam liên quan đến các chế định về chấp hành hình phạt, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác bảo vê ̣và bảo đảm quyền con người trong quá trình thi hành án hình sự. 7. Những điểm mới về mặt khoa học của luận văn Luận văn là công trình nghiên cứu vấn đề bảo vệ quyền con người thông qua các chế định về chấp hành hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, đi sâu
  • 13. 7 nghiên cứu việc bảo vệ quyền con người thông qua chế định: miễn chấp hành hình phạt; giảm mức hình phạt đã tuyên; giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt; hoãn chấp hành hình phạt tù; tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù; và chế định tha tù trước thời hạn có điều kiện, trong pháp luật hình sự Việt Nam. Những điểm mới cơ bản của luận văn như sau: - Trên cơ sở kế thừa, phát huy kết quả nghiên cứu của các học giả, tác giả đã đưa ra được các khái niệm về: Miễn chấp hành hình phạt; giảm mức hình phạt đã tuyên; giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt; hoãn chấp hành hình phạt tù; tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù; tha tù trước thời hạn có điều kiện. - Phân tích, làm rõ được một số nội dung bảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạt trong luật hình sự Việt Nam. - Phân tích, làm rõ thực trạng các quy phạm pháp luật hình sự Việt Nam liên quan đến các chế định về chấp hành hình phạt. - Đưa ra được một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam liên quan đến chế định về chấp hành hình phạt. 8. Bố cục của luận văn Ngoài Phần Mở đầu, Phần Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được bố cục như sau: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạt trong luật hình sự Việt Nam. Chương 2: Các văn bản quốc tế về nhân quyền và thực trạng các quy phạm pháp luật hình sự Việt Nam liên quan đến các chế định về chấp hành hình phạt. Chương 3: Định hướng tiếp tục hoàn thiện các quy phạm liên quan đến một số chế định về chấp hành hình phạt trong pháp luật hình sự Việt Nam theo hướng tăng cường hơn nữa việc bảo vệ quyền con người.
  • 14. 8 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI BẰNG CÁC CHẾ ĐỊNH VỀ CHẤP HÀNH HÌNH PHẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm, đặc điểm cơ bản của quyền con ngƣời 1.1.1. Khái niệm quyền con người Trên thế giới, vấn đề quyền con người đã được đề cập đến từ rất sớm, trong Lời nói đầu của bản Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948, Liên hợp quốc đã khẳng định: "điều cốt yếu là các quyền con người phải được bảo vệ bằng pháp luật" [40, tr.62], cũng theo Lời nói đầu trong bản Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948, thì quyền con người đối với các quốc gia thành viên Liên hợp quốc phải [40, tr.63]: 1) Là mục tiêu chung cho tất cả các dân tộc và các quốc gia phấn đấu đạt tới; 2) Tôn trọng các quyền và tự do cơ bản của con người, đồng thời tôn trọng và bảo đảm việc tuân thủ một cách nghiêm chỉnh và hữu hiệu chúng. Hiến chương Liên hợp quốc đã khẳng định giá trị quyền con người: Mọi thành viên trong gia đình, nhân loại đều có quyền bình đẳng và đó là những quyền không ai có thể xâm phạm được. Các quyền này được thực hiện không phân biệt chủng tộc, tôn giáo, ngôn ngữ hay giới tính, đồng thời được ghi nhận chính thức trong Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948. Tuyên ngôn này đã được hầu hết các quốc gia trên thế giới thừa nhận, tuy nhiên việc thực thi Tuyên ngôn này cũng như các công ước về quyền con người tại các quốc gia khác nhau là hết sức linh hoạt, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh thực tế của mỗi quốc gia. Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948 là văn kiện pháp lý xác lập các tiêu chuẩn quốc tế cho việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con
  • 15. 9 người trên toàn thế giới nói chung và tại Việt Nam nói riêng. Thông qua việc thừa nhận Công ước, các quốc gia chấp nhận và tự cam kết đảm bảo thực hiện quyền con người tại quốc gia mình. Tiếp đó năm 1968, Tuyên bố Tê-hê-ran tại Hội nghị thế giới về quyền con người được tổ chức tại Iran đã khẳng định: Tuyên ngôn thế giới về quyền con người đã xác nhận một nhận thức chung của các dân tộc trên thế giới về các quyền bất di, bất dịch và không thể bị xâm phạm của mọi thành viên trong gia đình, nhân loại và thiết lập một nghĩa vụ cho các thành viên của cộng đồng quốc tế. Hội nghị cũng khẳng định sự tin tưởng với các nguyên tắc được đề cập trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người và kêu gọi các dân tộc và các Chính phủ: "phấn đấu cho những nguyên tắc ghi nhận trong Tuyên ngôn và tăng cường hơn nữa những nỗ lực nhằm bảo đảm cho mọi người có một cuộc sống phù hợp với tự do và nhân phẩm cũng như sự hạnh phúc về thể chất, tinh thần, xã hội và văn hóa". Việt Nam là một quốc gia tích cực trong việc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, ngoài việc gia nhập Công ước quốc tế Giơ-ne-vơ về bảo hộ nạn nhân chiến tranh, đối xử nhân đạo với tù nhân chiến tranh (năm 1957), từ năm 1977, sau khi trở thành thành viên Liên hợp quốc, Việt Nam đã từng bước tham gia hầu hết các Công ước quốc tế về quyền con người, như: Công ước quốc tế về xóa bỏ các hình thức phân biệt chủng tộc (tham gia năm 1981); Công ước về xóa bỏ mọi hình thức về phân biệt đối xử với phụ nữ (tham gia năm 1982); Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (tham gia năm 1982); Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội (tham gia năm 1982); Công ước quốc tế về quyền trẻ em (tham gia năm 1990); Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật (tham gia năm 2007); Công ước
  • 16. 10 quốc tế về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (tham gia năm 2014). Ngoài các điều ước quốc tế cơ bản về quyền con người trên, Việt Nam còn tham gia các công ước quốc tế khác có liên quan đến lĩnh vực bảo vệ quyền con người và luật nhân đạo quốc tế như Nghị định thư bổ sung Công ước Giơ-ne-vơ về bảo hộ nạn nhân trong các cuộc xung đột quốc tế (tham gia năm 1981), Công ước về ngăn ngừa và trừng trị tội ác diệt chủng và Công ước về ngăn chặn và trừng trị tội ác A-pác-thai (tham gia năm 1981). Sau khi trở thành thành viên Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), năm 1994, Việt Nam đã gia nhập nhiều công ước của tổ chức này như Công ước số 5 về tuổi tối thiểu của trẻ em được tham gia lao động công nghiệp, Công ước số 6 về làm việc ban đêm của trẻ em trong công nghiệp, Công ước số 14 về quy định nghỉ hằng tuần cho lao động công nghiệp… Việt Nam cũng tích cực tham gia Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, hợp tác nhân quyền trong khuôn khổ Cộng đồng các nước nói tiếng Pháp. Bên cạnh đó, với tư cách là thành viên ASEAN, Việt Nam cũng tích cực tham gia vào các khuôn khổ hợp tác khu vực về nhân quyền, trong đó có Ủy ban Liên Chính phủ về nhân quyền ASEAN. Ngoài ra, Việt Nam còn thường xuyên tham gia đối thoại nhân quyền với các nước như: Mỹ, Australia, Thụy Sỹ và EU. Để thực hiện tốt các vấn đề liên quan đến bảo vệ quyền con người, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 đã khẳng định: “Nhà nước định ra các đạo luật nhằm xác định các quyền công dân và quyền con người, quyền đi đôi với nghĩa vụ và trách nhiệm” [19, tr.422]. Trên tinh thần của Cương lĩnh xây dựng đất nước năm 1991, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số 12-CT/TW ngày 12/7/1992, Chỉ thị này đã ghi nhận những quan điểm quan trọng về vấn đề quyền con người và bảo vệ quyền con người:
  • 17. 11 Quyền tự do, dân chủ của mỗi cá nhân không tách rời nghĩa vụ và trách nhiệm công dân. Dân chủ phải đi đôi với kỷ cương, pháp luật. Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời thực hiện chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân.... [59, tr.484]. Tiếp theo, vào tháng 1/2011, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã chính thức đưa ra luận điểm mang tính chỉ đạo về sửa đổi Hiến pháp năm 1992, trong đó Đảng ta đã khẳng định sự cần thiết của các nguyên tắc tiến bộ và dân chủ, cụ thể như: Chủ quyền của nhân dân cao hơn chủ quyền của Nhà nước, nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước và kiểm soát quyền lực nhà nước trong hoạt động của bộ máy công quyền [20, tr.247]. Trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong việc bảo đảm quyền con người trong tất cả các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, Việt Nam đã trở thành một nước độc lập có chủ quyền, có quyền dân tộc tự quyết, quyền lựa chọn quyết định thể chế chính trị của mình. Người dân có quyền tham gia vào việc xây dựng và quyết định các quyết sách của đất nước. Quyền bầu cử, ứng cử, ngày càng được phát huy. Ngoài tổ chức chính trị là Đảng Cộng sản Việt Nam, còn có các tổ chức chính trị - xã hội và nhiều tổ chức xã hội - nghề nghiệp theo lứa tuổi, giới tính, lĩnh vực nghề nghiệp hoạt động thu hút hàng chục triệu hội viên tham gia. Mọi tư tưởng và chính kiến khác nhau được tự do đề đạt có tổ chức. Quyền tự do báo chí, tự do hội họp theo quy định của pháp luật được tôn trọng. Với số đầu báo, tạp chí tăng nhanh, thông tin đa dạng, phong phú đáp ứng nhu cầu tiếp cận thông tin của người dân. Hệ thống phát thanh, truyền hình phát triển nhanh, tất cả các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
  • 18. 12 có đài phát thanh, truyền hình, người dân dễ dàng tiếp nhận thông tin thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng, tôn giáo được đảm bảo. Mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo theo quy định của pháp luật. Các tổ chức tôn giáo được nhà nước thừa nhận được hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ. Các dân tộc được đảm bảo bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ nhau cùng phát triển; được tạo cơ hội phát triển như nhau, được duy trì tiếng nói và chữ viết riêng, bảo tồn văn hoá truyền thống. Đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số không ngừng được nâng cao. Quyền khiếu nại, tố cáo được đảm bảo; quyền bất khả xâm phạm thân thể và quyền được bảo vệ tính mạng sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm của người dân luôn được tôn trọng. Về kinh tế, GDP bình quân đầu người liên tục tăng, tỷ lệ đói nghèo giảm. Việt Nam đã đạt được mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ do Liên hợp quốc đặt ra là giảm một nửa tỷ lệ đói nghèo giai đoạn 1990 – 2015; hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học và xoá mù chữ; các chương trình chăm sóc y tế đã thu được kết quả khá. Việc khám chữa bệnh cho người nghèo, vùng sâu, vùng xa, được quan tâm; chỉ số phát triển con người (HDI) đạt được những kết quả đáng khích lệ, tuổi thọ trung bình của người dân tăng lên từng năm. Sự nghiệp phát triển văn hoá, giáo dục-đào tạo tăng nhanh, hình thức giáo dục-đào tạo được đa dạng hoá, đã đảm bảo công bằng xã hội trong văn hoá, giáo dục. Lượng thông tin được cung cấp phong phú hơn về số lượng, đa dạng về chủng loại, hấp dẫn hơn về nội dung và hình thức. Người dân được tiếp cận tốt hơn với công nghệ thông tin hiện đại. Các quyền con người về mặt xã hội, đảm bảo công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân ngày càng được phát huy. Đã kết hợp tốt giữa tăng
  • 19. 13 trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội. Quyền bình đẳng nam, nữ được tôn trọng. Phụ nữ tham gia công tác xã hội và chính trị ngày càng nhiều, có mặt ở các vị trí lãnh đạo các cấp Trung ương và địa phương. Có thể khẳng định, Quyền con người ở Việt Nam không ngừng được phát huy và sự tham gia tích cực của người dân vào mọi mặt đời sống kinh tế xã hội của đất nước là nhân tố quan trọng của thành công của công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Quyền con người luôn luôn gắn liền với lịch sử, truyền thống và phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, văn hoá của đất nước. Do vậy không thể áp đặt hoặc sao chép máy móc các tiêu chuẩn, mô thức của nước này cho nước khác. Hiện nay, Việt Nam vẫn đang tiếp tục từng bước hoàn thiện các văn bản pháp luật về bảo vệ quyền con người, cũng như “chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người” [18, tr.134]. Đặc biệt, với sự ra đời của Hiến pháp Việt Nam năm 2013, vấn đề tôn trọng, bảo vệ quyền con người tại Việt Nam ngày càng được khẳng định, thay vì lồng ghép các nội dung về quyền con người vào quyền công dân như các bản Hiến pháp trước đây, Hiến pháp Việt Nam 2013 đã có một chương riêng (Chương II) quy định rõ về "Quyền con người, Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân". Trong đó, có sự kế thừa, bổ sung, phát triển các bản hiến pháp trước đây của nước ta. Chương này gồm 36 điều (từ Điều 14 đến Điều 49) đề cập toàn diện về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Việt Nam trên các mặt: dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa. Điều đó đã thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước ta đối với vấn đề quan trọng này. Hiến pháp Việt Nam 2013 khẳng định: 1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiếp pháp và
  • 20. 14 pháp luật. 2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng [45, Điều 14]. Điều đó đã thể hiện tất cả những vấn đề về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân hoàn toàn phù hợp với thực tiễn đất nước và thống nhất với những quy định của quốc tế. “Tuyên ngôn toàn thế giới về Nhân quyền” của Liên hợp quốc (năm 1948), được coi là bản “Tuyên ngôn đầu tiên của toàn nhân loại” và là “lý tưởng chung nhất mà tất cả các dân tộc, quốc gia phải đạt tới” [6, tr.144], đã công nhận con người có 26 quyền cơ bản, gồm ba nhóm sau: Các quyền dân sự, là những quyền tự do cơ bản của cá nhân, như: quyền sống, quyền tự do thân thể; quyền không bị xâm phạm cá nhân; quyền bảo vệ danh dự, bí mật cá nhân và gia đình, bí mật về thư tín, trao đổi thông tin, tự do di chuyển chỗ ở; quyền tự do đi lại và cư trú; quyền có quốc tịch và thay đổi quốc tịch; quyền kết hôn và lập gia đình; quyền sở hữu; quyền được xét xử công khai, độc lập và công bằng khi bị ra tòa. Các quyền về chính trị, là quyền tự do khẳng định nhân cách của mình trong đời sống chính trị; quyền tham gia công việc quản lý của nhà nước và đời sống xã hội; quyền được bầu cử, ứng cử; quyền được lập hội, gia nhập hội; quyền tự do ngôn luận thể hiện chính kiến của mình; quyền được thông tin và xuất bản, quyền tự do tín ngưỡng. Các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa, là các quyền về sở hữu tài sản; quyền trao đổi; quyền lao động và tự do thể hiện năng lực của mình trong lao động; quyền được bảo vệ về mặt xã hội, được sống đầy đủ, được chăm sóc sức khỏe, được học tập và sử dụng các giá trị văn hóa. Quyền con người là một phạm trù lịch sử - cụ thể nên nó luôn đi cùng
  • 21. 15 với sự phát triển của nhân loại, đặc biệt trong những năm gần đây vấn đề bảo vệ quyền con người luôn là vấn đề nóng được cả thế giới quan tâm, GS.TSKH Lê Văn Cảm cho rằng: Việc bảo vệ các quyền con người đã và vẫn đang là vấn đề trung tâm có ý nghĩa thời đại của hành tinh chúng ta,... vì nó không chỉ là vấn đề "muôn thuở" mang tính lịch sử từ bao đời nay mà còn mang tính thời sự quốc tế, không những là mục tiêu cơ bản trong cuộc đấu tranh của các dân tộc vì hòa bình, tự do, dân chủ và công lý, mà còn là mối quan tâm thường xuyên của nhân loại tiến bộ trên toàn trái đất [8, tr.10]. Cho đến nay các nhà khoa học, luật gia vẫn còn có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm quyền con người, cụ thể như: GS.TSKH Lê Văn Cảm đưa ra khái niệm quyền con người như sau: Quyền con người là một phạm trù lịch sử - cụ thể là giá trị xã hội cao quý nhất được thừa nhận chung của nền văn minh nhân loại và là đặc trưng tự nhiên vốn có cần được tôn trọng và không thể bị tước đoạt của bất kỳ cá nhân con người nào sinh ra trên trái đất, đồng thời phải được bảo vệ bằng pháp luật bởi các quốc gia - thành viên LHQ, cũng như bởi cộng đồng quốc tế [13, tr.224]. GS.TS Trần Ngọc Đường cho rằng: "Quan niệm nhân quyền vừa khẳng định cơ sở tự nhiên và giá trị nhân loại của quyền, đồng thời cũng thừa nhận thuộc tính xã hội - chính trị và lịch sử cụ thể của quyền con người thuộc một quốc gia, một dân tộc" [24, tr.21]. PGS.TS Nguyễn Văn Động đã đưa ra một số quan điểm về quyền con người như sau [23, tr.52-53]: - Là những giá trị quý báu được thừa nhận chung bời toàn thế giới, đồng thời gắn bó chặt chẽ với sự tồn tại và phát triển của mỗi cá nhân, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc và cả cộng đồng quốc tế;
  • 22. 16 - Trực tiếp liên quan tới các lĩnh vực sinh hoạt vật chất và tinh thần của con người (từ ăn, ở, nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí...) và góp phần quan trọng vào sự hình thành và phát triển nhân cách, tính nhân đạo và nhân văn của con người; - Các quyền con người tạo thành một hệ thống thống nhất, quan hệ tác động lẫn nhau, phụ thuộc vào nhau, đồng thời vừa là tiền đề, điều kiện của nhau, vừa là hệ quả của nhau, ... TS. Trần Quang Tiệp đưa ra định nghĩa: "Quyền con người là những đặc lợi vốn có tự nhiên mà chỉ con người mới được hưởng trong những điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhất định" [50, tr.14]. Trên cơ sở phân tích các quan điểm quốc tế về nhân quyền cũng như những quan điểm của các học giả tại Việt Nam, tác giả đưa ra khái niệm quyền con người như sau: Quyền con người là những quyền tự nhiên, vốn có của con người, những nhu cầu, lợi ích tự nhiên của con người cần được tôn trọng và bảo vệ bằng pháp luật của các quốc gia và pháp luật quốc tế. 1.1.2. Các đặc điểm cơ bản của quyền con người - Quyền con người có tính chất tự nhiên, vốn có của con người Hiến pháp năm 2013 khẳng định "Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân" [45]. Vì vậy, khi quy định quyền con người, quyền công dân, hầu hết các điều của Hiến pháp năm 2013 quy định trực tiếp "mọi người có quyền...", "công dân có quyền" để khẳng định rõ đây là những quyền đương nhiên của con người, của công dân được Hiến pháp ghi nhận và Nhà nước có trách nhiệm tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ các quyền này. Đây chính là nguyên tắc hiến định rất quan trọng về quyền con người, quyền công dân và theo nguyên tắc này, từ nay không chủ thể nào, kể cả các cơ quan nhà nước được tùy tiện cắt xén, hạn chế các quyền con người, quyền
  • 23. 17 công dân đã được quy định trong Hiến pháp. Cũng từ nguyên tắc này, các quy định liên quan đến các quyền bất khả xâm phạm của con người, của công dân (như quyền được sống, quyền không bị tra tấn, quyền bình đẳng trước pháp luật v.v.) là các quy định có hiệu lực trực tiếp; chủ thể của các quyền này được viện dẫn các quy định của Hiến pháp để bảo vệ các quyền của mình khi bị xâm phạm. Các quyền, tự do cơ bản khác của con người, của công dân và quyền được bảo vệ về mặt tư pháp cần phải được cụ thể hóa nhưng phải bằng luật do Quốc hội ban hành, chứ không phải quy định chung chung “theo quy định pháp luật” như rất nhiều điều của Hiến pháp năm 1992 quy định. Quyền con người có tính chất tự nhiên, vốn có của con người. Có thể nói đây chính là đặc điểm chung của quyền con người mà bất kỳ cá nhân nào được sinh ra đều mặc nhiên thụ hưởng quyền này và bình đẳng không phân biệt chủng tộc, giới tính, tôn giáo hay vị thế xã hội [Xem: 41, tr. 41]. - Quyền con người có tính pháp định Quyền con người là những quyền tự nhiên, vốn có của con người, tuy nhiên trên thực tế để các quyền con người được tôn trọng, bảo vệ thì cần phải được Nhà nước công nhận bằng văn bản pháp luật cụ thể. Tại Việt Nam, Hiến pháp năm 2013 đã quy định Nhà nước "công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người". Đồng thời Hiến pháp năm 2013 cũng quy định: Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng [45]. Quyền con người nói chung và và trong lĩnh vực tư pháp hình sự nói riêng được ghi nhận trong các văn bản pháp luật là tiền đề để quyền con người được bảo đảm thực thi trong đời sống [17, tr. 46]. Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền cũng đã khẳng định việc thực hiện
  • 24. 18 các quyền và tự do cơ bản của con người có thể phải chịu những giới hạn nhất định, những giới hạn đó quy định trong pháp luật, với mục đích bảo đảm sự thừa nhận các quyền và tự do của người khác, hoặc để bảo đảm các yêu cầu về đạo đức, trật tự công cộng và sự thịnh vượng nói chung trong một xã hội dân chủ. Đồng thời, các quyền được ghi nhận trong các công ước có thể hạn chế bởi pháp luật của quốc gia nhưng chỉ trong một chừng mực tương thích với bản chất những quyền đó, với mục đích chính là để bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tuy nhiên có một số quyền nhất định trong các công ước không bao giờ bị hạn chế hoặc tạm dừng việc thực hiện, thậm chí trong những trường hợp khẩn cấp, đó là quyền: sống, tự do không bị tra tấn, tự do không bị nô lệ hoặc nô dịch, thừa nhận tư cách con người trước pháp luật và tự do tín ngưỡng, tư tưởng, tôn giáo [40, tr.40]. - Quyền con người gắn liền với mỗi con người kể từ khi sinh ra Quyền công dân gắn liền với quốc tịch của mỗi con người, do vậy công dân mang quốc tịch của quốc gia nào thì sẽ được quốc gia đó bảo hộ. Quyền con người thì lại khác, quyền con người không gắn với quốc tịch và với mỗi quốc gia mà quyền con người thì gắn liền với cá nhân người đó, không kể là người có quốc tịch hay người không có quốc tịch. Ngay khi sinh ra con người đã có sẵn những quyền đó, tùy thuộc vào hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia mà quyền con người sẽ được thừa nhận và bảo vệ ở các mức độ khác nhau. - Quyền con người được bảo vệ bằng pháp luật Hiến pháp năm 2013 quy định rõ quyền nào là quyền con người, quyền nào là quyền công dân và quy định theo thứ tự: đầu tiên là các nguyên tắc hiến định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; tiếp đến là các quyền dân sự, chính trị rồi đến các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội và cuối cùng là các nghĩa vụ của cá nhân, của công dân. Hiến pháp năm 2013
  • 25. 19 thay vì quy định “công dân” như Hiến pháp năm 1992 đã quy định “mọi người”, “không ai”. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng, đánh dấu bước phát triển mới về nhận thức lý luận và giá trị thực tiễn khi không đồng nhất quyền con người với quyền công dân. Đặc biệt Hiến pháp 2013 đã khẳng định "Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân ; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân". Hiến pháp năm 2013 quy định cụ thể một số quyền của con người như: Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bi ̣tước đoạt tính mạng trái luật; Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình...; Mọi người có quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hoá, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa; Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường; v.v... [45]. Điều này thể hiện bước tiến mới trong việc mở rộng và phát triển các quyền con người. Nội dung của các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được quy định trong các điều khác của Hiến pháp năm 2013 phù hợp với các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên, nhất là Công ước quyền con người về chính trị, dân sự và Công ước quyền con người về kinh tế, văn hóa và xã hội năm 1966 của Liên hợp quốc. Đây cũng chính là sự khẳng định cam kết mang tính hiến định của Nhà nước ta trước Nhân dân và trước cộng đồng quốc tế về trách nhiệm tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam, điều đó thể hiện vị trí của con người ngày càng được nâng cao. PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí cho rằng: Quyền con người nói chung và trong lĩnh vực tư pháp hình sự nói riêng được ghi nhận trong các văn bản pháp luật là tiền đề để
  • 26. 20 quyền con người được bảo đảm thực thi trong đời sống. Thông qua các quy định của luật hình sự, luật tố tụng hình sự, luật thi hành án hình sự, Nhà nước trao cho con người những phương tiện cần thiết để bảo vệ các quyền của mình và thiết lập các cơ chế để giải quyết cũng như đảm bảo các quyền của các chủ thể [17, tr.46]. 1.2. Nội dung bảo vệ quyền con ngƣời bằng các chế định về chấp hành hình phạt 1.2.1. Bảo vệ quyền con người bằng chế định miễn chấp hành hình phạt Miễn chấp hành hình phạt là một biện pháp tha miễn mang tính nhân đạo, nhằm bảo vệ quyền con người. Để tăng cường việc bảo vệ quyền con người hiện nay miễn chấp hành hình phạt được áp dụng trên phạm vi rộng, có thể đặt ra với những người phạm tội chưa chấp hành hình phạt, cũng có thể đặt ra với những hình phạt đang được chấp hành và đặt ra với cả những hình phạt đã được hoãn hoặc được tạm đình chỉ chấp hành mà hệ quả là người đó không phải chấp hành hình phạt đó nữa khi người phạm tội thỏa mãn một số điều kiện nhất định về nhân thân và ý thức tuân thủ pháp luật... được Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân đề nghị thì Tòa án xem xét việc miễn chấp hành hình phạt cho họ. Hiện nay, xoay quanh khái niệm miễn chấp hành hình phạt vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau, GS.TSKH Lê Văn Cảm cho rằng: "Miễn chấp hành hình phạt là hủy bỏ việc chấp hành biện pháp cưỡng chế về hình sự nghiêm khắc nhất mà Tòa án đã tuyên trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật đối với người bị kết án" [11, tr.790]; TS. Phạm Văn Beo viết trong Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam: "Miễn chấp hành hình phạt là không buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt mà Tòa án đã tuyên đối với họ" [3, tr.464]; Còn theo TS. Trịnh Tiến Việt:
  • 27. 21 Miễn chấp hành hình phạt là không buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt (toàn bộ hình phạt hoặc một phần hình phạt còn lại) mà Tòa án đã tuyên đối với họ khi đáp ứng những điều kiện nhất định và thuộc một trong các trường hợp do Bộ luật hình sự quy định [59, tr.401]. Qua phân tích các quan điểm của các nhà khoa học - luật gia, tác giả cho rằng, về cơ bản các quan điểm đều thống nhất chung về bản chất pháp lý của miễn chấp hành hình phạt là một nội dung phản ánh chính sách nhân đạo, khoan hồng của Nhà nước, được thể hiện thông qua việc không buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt đã tuyên nếu thuộc một trong các trường hợp được Bộ luật hình sự quy định. Do đó, theo tác giả thì, miễn chấp hành hình phạt là không buộc người bị kết án phải chấp hành toàn bộ hình phạt hoặc một phần hình phạt còn lại mà Tòa án đã tuyên đối với người phạm tội khi họ đáp ứng những điều kiện do Bộ luật hình sự quy định. Từ định nghĩa trên có thể thấy miễn chấp hành hình phạt có bản chất pháp lý của là một chế định nhân đạo của luật hình sự Việt Nam và được thể hiện ở chỗ Tòa án vẫn quyết định hình phạt nhất định trong bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật đối với người phạm tội, nhưng không buộc người này phải chấp hành toàn bộ hình phạt đó khi có đầy đủ căn cứ và những điều kiện do pháp luật hình sự quy định. Ví dụ, anh Nông Văn Tài, bị Tòa án phạt 30 tháng tù giam về tội cố ý gây thương tích, trong khi chờ thi hành án, anh Tài đã có công cứu được 2 trẻ em bị nước lũ cuốn trôi, được chính quyền địa phương xác nhận, Tài là người có nhân thân tốt, chăm chỉ làm ăn, trong quá trình chờ thi hành án, anh luôn chấp hành tốt các quy định của pháp luật. Anh Tài có có Đơn đề nghị Viện Trưởng viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp đề nghị Toàn án nhân dân cùng cấp
  • 28. 22 miễn chấp hành hình phạt đối với anh và đã được Tòa án chấp thuận, quyết định miễn chấp hành toàn bộ hình phạt đã tuyên đối với Nông Văn Tài. Qua khái niệm về miễn chấp hành hình phạt, có thể thấy được tư tưởng bảo vệ quyền con người thông qua chế định này, đây là một chế định nhân đạo của Luật hình sự Việt Nam, với chế định này có thể một người bị Tòa án kết tội bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật, nhưng không buộc người này phải chấp hành toàn bộ hình phạt hoặc một phần hình phạt còn lại, khi có đầy đủ căn cứ đáp ứng những điều kiện do pháp luật hình sự quy định. Khi được miễn chấp hành hình phạt, người phạm tội không phải chịu hậu quả pháp lý hình sự bất lợi của việc phạm tội do bản thân thực hiện. Họ không phải chấp hành hình phạt do Tòa án đã tuyên đối với họ. Điều kiện để được miễn chấp hành hình phạt không phụ thuộc vào thời gian chấp hành hình phạt mà phụ thuộc vào nhiều điều kiện khác nhau như: thái độ, sự hợp tác, ý thức của người bị kết án; tình trạng bệnh tật của người bị kết án; khả năng gây nguy hiểm cho xã hội của người bị kết án; chính sách nhân đạo, khoan hồng của Nhà nước,... trên cơ sở các quy định của pháp luật hình sự, căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của từng đối tượng, Tòa án xem xét quyết định miễn chấp hành toàn bộ hình phạt đối với người chưa chấp hành hoặc miễn chấp hành phần còn lại đối với người đã chấp hành được một phần của hình phạt, qua đó giúp người bị kết án nhanh chóng trở lại với xã hội, hòa nhập cộng đồng, trở thành người có ích cho gia đình và xã hội. Điều đó thể hiện việc cụ thể hóa nội dung bảo vệ quyền con người trong Hiến pháp thông quan các quy định cụ thể trong Bộ luật hình sự, trong trường hợp này đó là nội dung bảo vệ quyền "được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ” [45, Điều 20] (với quy định về tình trạng bệnh tật của người bị kết án). 1.2.2. Bảo vệ quyền con người bằng chế định giảm mức hình phạt đã tuyên Trong chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mục đích của hình phạt là
  • 29. 23 nghiêm trị kết hợp với khoan hồng, trừng trị kết hợp với giáo dục, cải tạo, thuyết phục. Do đó, việc giáo dục, cải tạo người bị kết án chủ yếu được thực hiện bằng phương pháp cải tạo lao động, học tập để khuyến khích, động viên người bị kết án nỗ lực cải tạo, rèn luyện sớm trở thành người lao động lương thiện, có ích cho gia đình và xã hội. Vì vậy, Bộ luật hình sự đã cụ thể hoá chính sách hình sự và tư tưởng nhân đạo trong pháp luật, giảm mức hình phạt đã tuyên là một trong các chế định thể hiện chính sách khoan hồng của nhà nước Việt Nam đối với người phạm tội. Chế định giảm mức hình phạt đã tuyên đã được đề cập từ Bộ Luật hình sự năm 1985, Bộ Luật hình sự năm 1999, mới đây nhất Bộ Luật hình sự năm 2015 tiếp tục kế thừa, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện chế định này. Tuy nhiên, các bộ luật này đều chưa đưa ra được khái niệm về giảm mức hình phạt đã tuyên. Giảm mức hình phạt đã tuyên gắn liền với hình phạt. Khi thực hiện tội phạm thì hậu quả pháp lý của người phạm tội phải gánh chịu đó là hình phạt (trừ các trường hợp đặc biệt). Khi tội phạm được thực hiện, tùy thuộc vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, hậu quả để lại cho xã hội (nếu có) và các yếu tố thuộc về nhân thân người phạm tội,... các cơ quan có thẩm quyền có thể xem xét miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt cho người phạm tội, khi chưa đủ cơ sở pháp lý để miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, Tòa án còn có thể xem xét để giảm mức hình phạt đã tuyên đối với người phạm tội. Đây là một chế định có tính nhân đạo của nhà nước ta nhằm khuyến khích, động viên những người phạm tội ăn năn, hối cải, hướng thiện để nhận được sự khoan hồng, cụ thể ở đây là hình thức giảm mức hình phạt đối với người phạm tội đã bị Tòa án tuyên. Dưới góc độ khoa học luật hình sự, có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm giảm mức hình phạt đã tuyên, nhưng về bản chất vẫn cơ bản thống nhất về nội hàm khái niệm, cụ thể như sau:
  • 30. 24 Theo GS.TSKH Lê Văn Cảm, "Giảm mức hình phạt đã được tuyên là rút ngắn thời hạn của việc chấp hành phần còn lại của loại hình phạt có thời hạn hoặc miễn việc tiếp tục chấp hành phần còn lại của loại hình phạt không có thời hạn đối với người bị kết án" [11, tr.792]. Với một góc độc khác về giảm mức hình phạt đã tuyên, TS. Cao Thị Oanh cho rằng: "Giảm thời hạn chấp hành hình phạt là giảm một phần thời hạn chấp hành hình phạt đã tuyên cho người bị kết án" [41, tr.232]; TS. Trịnh Tiến Việt có quan điểm về giảm thời hạn chấp hành hình phạt như sau: Giảm thời hạn chấp hành hình phạt là việc Toà án rút ngắn thời hạn của việc chấp hành hình phạt còn lại của loại hình phạt có thời hạn hoặc miễn tiếp tục chấp hành phần còn lại của loại hình phạt khác đối với người bị kết án khi có thành tích, tiến bộ trong việc lao động, cải tạo và có đề nghị của cơ quan, tổ chức (cơ quan, tổ chức hữu quan, cơ quan thi hành hình phạt tù, Viện kiểm sát) hoặc chính quyền địa phương được giao trách nhiệm trực tiếp giám sát, giáo dục [59, tr.424-425]. Qua phân tích các quan điểm của các tác giả nêu trên và dựa vào nội hàm của mối liên hệ của chế định này với hình phạt, tác giả đưa ra khái niệm giảm mức hình phạt đã tuyên như sau: Giảm mức hình phạt đã tuyên là việc rút ngắn thời gian phải chấp hành phần hình phạt còn lại hoặc miễn toàn bộ thời gian còn lại của hình phạt mà Toà án đã tuyên với người bị kết án. Có thể nói, giảm mức hình phạt đã tuyên là sự rút ngắn hoặc miễn toàn bộ thời gian phải chấp hành hình phạt còn lại mà Tòa án đã tuyên đối với người phạm tội. Người bị kết án cải tạo không giam giữ, phạt tù có thời hạn hoặc phạt tù chung thân, nếu đã chấp hành hình phạt được một thời gian nhất định (phụ thuộc vào từng loại hình phạt), có nhiều tiến bộ và đã bồi thường
  • 31. 25 được một phần nghĩa vụ dân sự, thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền, Tòa án có thể xem xét quyết định giảm bớt thời gian hoặc miễn toàn bộ thời gian còn lại của việc chấp hành hình phạt mà Tòa án đã tuyên đối với người bị kết án. Qua đó thời gian chấp hành hình phạt còn lại của người bị kết án được rút ngắn hoặc chấm dứt. Giảm mức hình phạt đã tuyên là một chế định nhân đạo của pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, người phạm tội chỉ có thể được giảm hình phạt đã tuyên khi họ đã chấp hành hình phạt được một thời gian nhất định (đảm bảo thời gian tối thiểu theo quy định của Bộ Luật hình sự), đồng thời phải đáp ứng được các điều kiện theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam. Chế định này tạo cơ hội cho người đang chấp hành hình phạt tù có cơ hội được giảm mức hình phạt, nhanh chóng được tái hòa nhập cộng đồng. Bộ Luật hình sự Việt Nam 2015 quy định: Người bị kết án cải tạo không giam giữ, phạt tù có thời hạn hoặc phạt tù chung thân, nếu đã chấp hành hình phạt được một thời gian nhất định, có nhiều tiến bộ và đã bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự, thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt. Thời gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là một phần ba thời hạn đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, hình phạt tù có thời hạn, 12 năm đối với tù chung thân [46, Điều 63]. Giảm mức hình phạt đã tuyên là chế định thể hiện sự khoan hồng của pháp luật với những người đã thực hiện tội phạm. Khi đã thực hiện tội phạm thì hậu quả pháp lý mà người thực hiện tội phạm phải gánh chịu đó là hình phạt. Đối với mỗi loại tội phạm, tùy thuộc vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội đối với xã hội mà người phạm tội sẽ phải gánh chịu hình
  • 32. 26 phạt tương ứng. Nhà nước ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa, với hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa mang bản chất nhân đạo, luôn khoan hồng với những người biết ăn năn, hối cải, tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh và sự tiến bộ trong trong quá trình cải tạo mà người phạm tội có thể được giảm thời hạn chấp hành hình phạt, để sớm trở lại với cuộc sống bình thường. 1.2.3. Bảo vệ quyền con người bằng chế định giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt Giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt là chế định thể hiện sự khoan hồng của pháp luật với những người đã thực hiện tội phạm. Đây là sự cụ thể hoá quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong việc khoan hồng với những người biết ăn năn, hối cải, tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh và sự tiến bộ trong trong quá trình cải tạo, đặc biệt là đối với những người đã lập công, đã quá già yếu hoặc mắc bệnh hiểm nghèo, mà người phạm tội có thể được giảm thời hạn chấp hành hình phạt vào thời gian sớm hơn hoặc với mức cao hơn so với thời gian và mức quy định đối với trường hợp giảm mức hình phạt đã tuyên (quy định tại Điều 63 Bộ luật hình sự 2015), để sớm được trở lại với cuộc sống bình thường. Chế định giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt đã được đề cập ngay từ Bộ Luật hình sự năm 1985, tiếp đó là Bộ Luật hình sự năm 1999, mới đây nhất Bộ Luật hình sự năm 2015 tiếp tục kế thừa chế định này. Tuy nhiên, các bộ luật này đều chưa đưa ra khái niệm về giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt. Bộ Luật hình sự năm 1999 quy định về giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt, với nội dung "Người bị kết án có lý do đáng được khoan hồng thêm như đã lập công, đã quá già yếu hoặc mắc bệnh hiểm nghèo, thì Tòa án có thể xét giảm vào thời gian sớm hơn hoặc với mức cao hơn so với thời gian và mức quy định tại Điều 58 của Bộ luật này" [44, Điều 59].
  • 33. 27 Bộ Luật hình sự Việt Nam 2015 cơ bản giữ nguyên các nội dung quy định về giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt như quy định tại Bộ Luật hình sự Việt Nam 1999, cụ thể như sau: "Người bị kết án có lý do đáng được khoan hồng thêm như đã lập công, đã quá già yếu hoặc mắc bệnh hiểm nghèo, thì Tòa án có thể xét giảm vào thời gian sớm hơn hoặc với mức cao hơn so với thời gian và mức quy định tại Điều 63 của Bộ luật này". Qua phân tích nội dung quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt, tác giả cho rằng: Giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt là việc rút ngắn thời gian phải chấp hành phần hình phạt còn lại hoặc miễn toàn bộ thời gian còn lại của hình phạt mà Toà án đã tuyên với người bị kết án khi người đó đã lập công, quá già yếu hoặc mắc bệnh hiểm nghèo. Từ định nghĩa khoa học nói trên cho thấy, giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt là sự rút ngắn thời gian phải chấp hành hình phạt còn lại hoặc miễn toàn bộ thời gian phải chấp hành hình phạt còn lại mà Tòa án đã tuyên đối với người phạm tội khi người đó đã lập công, quá già yếu hoặc mắc bệnh hiểm nghèo. Điều 8, Thông tư liên tịch số 02/2013/TTLT-BCA-BQP-TANDTC- VKSNDTC ngày 15/5/2013 quy định về giảm thời hạn chấp hành án phạt tù trong trường hợp đặc biệt, theo đó phạm nhân đã chấp hành được ít nhất một phần tư mức hình phạt đã tuyên đối với án phạt tù từ ba mươi năm trở xuống hoặc mười năm đối với tù chung thân và có đủ điều kiện về xếp loại chấp hành án phạt tù, có thể được xét, đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù, nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: - Phạm nhân đã lập công, cụ thể như: có hành động giúp trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan nhà nước có thẩm quyền phát hiện, truy bắt, điều tra và xử lý tội phạm; cứu được tính
  • 34. 28 mạng của người khác trong tình thế hiểm nghèo hoặc đã cứu được tài sản có giá trị từ 30.000.000đ (ba mươi triệu đồng trở lên) của Nhà nước, của tập thể, của công dân trong thiên tai, hỏa hoạn; có những phát minh, sáng kiến có giá trị lớn hoặc có thành tích đặc biệt xuất sắc khác được trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận. Mỗi lần lập công, phạm nhân chỉ được xem xét, đề nghị giảm thời hạn một lần; - Phạm nhân là người từ 70 tuổi trở lên hoặc từ 60 tuổi trở lên nhưng thường xuyên bị bệnh, phải nằm điều trị tại bệnh xá, bệnh viện nhiều lần trong thời gian dài (từ ba tháng trở lên) và không có khả năng tự phục vụ bản thân; - Phạm nhân là người đang bị mắc một trong các bệnh như: Ung thư giai đoạn cuối, liệt, lao nặng kháng thuốc, xơ gan cổ chướng, suy tim độ III trở lên, suy thận độ IV trở lên, nhiễm HIV đã chuyển giai đoạn AIDS đang có nhiễm trùng cơ hội, không có khả năng tự phục vụ bản thân và có tiên lượng xấu, nguy cơ tử vong cao hoặc mắc một trong các bệnh khác được Hội đồng giám định y khoa, bệnh viện cấp tỉnh hoặc cấp quân khu trở lên kết luận là bệnh hiểm nghèo, nguy hiểm đến tính mạng. Nội dung này thể hiện quyền được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, tính mạng đã được quy định tại Điều 19, Điều 20, Hiếp pháp Việt Nam năm 2013. Thông tư 02/2013/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC cũng quy định mức giảm mỗi lần cao nhất cho các trường hợp đặc biệt này là bốn năm, nhưng phải bảo đảm thời gian thực tế chấp hành án phạt tù ít nhất là hai phần năm mức hình phạt đã tuyên hoặc mười lăm năm đối với hình phạt tù chung thân. Trong trường hợp đặc biệt, khi có đề nghị của Bộ trưởng Bộ Công an hoặc Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và được sự đồng ý của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, phạm nhân có thể được xét giảm vào thời gian sớm hơn hoặc mức giảm có thể lên tới trên 4 năm.
  • 35. 29 Giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt là một chế định nhân đạo của pháp luật Việt Nam, tạo cơ hội cho những người phạm tội đã lập công, đã quá già yếu hoặc mắc bệnh hiểm nghèo khi họ đã chấp hành hình phạt được một thời gian nhất định, sớm được tái hoà nhập cộng đồng. 1.2.4. Bảo vệ quyền con người bằng chế định hoãn chấp hành hình phạt tù Khi bản án có hiệu lực pháp luật thì các cá nhân, tổ chức có liên quan phải tôn trọng, người bị kết án phải chấp hành nghiêm chỉnh theo đúng các quy định của pháp luật về hình phạt. Đây là một nguyên tắc đã được ghi nhận trong Hiến pháp, điều này thể hiện tầm quan trọng của việc thi hành án. Tuy nhiên, vì những lý do đặc biệt nhất định thuộc về nhân thân người bị kết án như hoàn cảnh, điều kiện gia đình hoặc nhu cầu công vụ mà người bị kết án phạt tù chưa thể đi thi hành án ngay được, khi đó người bị kết án phạt tù có thể được xem xét hoãn chấp hành hình phạt tù. Chấp hành hình phạt tù là việc người phạm tội phải chấp hành phán quyết của Tòa án dành cho họ, đây là hình thức tước bỏ hoặc hạn chế quyền tự do của người bị kết án với mục đích để giáo dục, cải tạo, cách li họ khỏi đời sống xã hội, hạn chế, ngăn chặn các hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ có thể gây ra. Tuy nhiên, pháp luật của nhà nước ta mang bản chất nhân đạo, vì vậy trong những trường hợp đặc biệt có liên quan đến nhân thân, điều kiện, hoàn cảnh của người bị kết án, nhà nước ta có thể xem xét hoãn chấp hành hình phạt tù trong một khoảng thời gian nhất định để người phạm tội có thời gian, điều kiện khắc phục, giải quyết khó khăn, để sau đó toàn tâm, toàn ý cho việc chấp hành hình phạt, giúp cho việc cải tạo của người phạm tội được tốt hơn, thể hiện tính nhân đạo của nhà nước ta, nâng cao tính giáo dục, giúp người phạm tội thêm tin tưởng vào chính sách, pháp luật của nhà nước ta, giúp họ sớm tái hòa nhập cộng đồng và trở thành những công dân tốt sau khi chấp hành xong hình phạt.
  • 36. 30 Ngược lại, nếu trong điều kiện, hoàn cảnh nhân thân đặc biệt của người phạm tội như bị bệnh nặng, phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi,... nếu họ không được hoãn chấp hành hình phạt tù thì người phạm tội sẽ không thể chấp hành hình phạt hoặc không toàn tâm, toàn ý cho việc chấp hành hình phạt, dẫn đến hiệu quả chấp hành hình phạt sẽ không cao, mục đích cải tạo, giáo dục người phạm tội khó có thể đạt được. Vì vậy, việc hoãn chấp hành hình phạt tù trong một thời gian nhất định đối với những trường hợp có hoàn cảnh, điều kiện đặc biệt là hết sức cần thiết, giúp tạo điều kiện cho người phạm tội có điều kiện chấp hành hình phạt được tốt hơn, nâng cao hiệu quả công tác giáo dục, cải tạo người phạm tội, thể hiện đúng chính sách nhân đạo trong pháp luật hình sự của Nhà nước ta. Chế định hoãn chấp hành hình phạt tù là sự ghi nhận của pháp luật Việt Nam nhằm bảo vệ quyền con người, chế định này được thể hiện qua việc ngừng chấp hành hình phạt tù trong một thời gian nhất định (có điều kiện), chế định này chỉ có thể được áp dụng đối với người đã bị kết án và họ chưa chấp hành hình phạt tù. Pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành chỉ quy định điều kiện được hoãn chấp hành hình phạt tù chứ không quy định cụ thể hình phạt tù đó là tù có thời hạn hay không có thời hạn, chế định này không những thể hiện tính nhân đạo của pháp luật Việt Nam mà còn cho thấy tính công bằng, khách quan trong việc bảo vệ quyền con người của pháp luật Việt Nam. Lần đầu tiên, vấn đề hoãn chấp hành hình phạt tù được quy định tại Điều 69 Bộ luật hình sự năm 1985, điều luật này đã quy định điều kiện để hoãn chấp hành hình phạt tù. Vấn đề hoãn chấp hành hình phạt tù được quy định tại Điều 61 Bộ luật hình sự năm 1999 và tiếp tục được ghi nhận đầy đủ hơn tại Điều 67 Bộ luật hình sự năm 2015. Tuy nhiên, cũng giống như Bộ luật hình sự năm 1985 và Bộ luật hình sự năm 1999, Bộ luật hình sự năm 2015 cũng không đưa ra được khái niệm hoãn chấp hành hình phạt tù mà chỉ quy định về các điều kiện để được hoãn chấp hành hình phạt tù.
  • 37. 31 Trước tiên, như đã nói ở trên, "Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó". Đối với khái niệm "chấp hành", theo Từ điển Tiếng Việt thì chấp hành dùng để chỉ việc "thi hành, thực hiện những điều quy định trong chính sách, pháp luật, kế hoạch, mệnh lệnh, phán quyết" [60, Chấp_hành]. Tuy nhiên, dưới góc độ luật hình sự thì chấp hành là việc thi hành những quyết định có hiệu lực của cơ quan có thẩm quyền. Khái niệm "hoãn" theo Từ điển Tiếng Việt có nghĩa là "chuyển thời điểm định làm việc gì đó sang thời điểm khác, muộn hơn" [60, Hoãn]. Dưới góc độ luật hình sự thì "hoãn" là tạm dừng, chưa phải chấp hành một quyết định nào đó của cơ quan có thẩm quyền mà lẽ ra mình phải bị chấp hành. Xoay quanh vấn đề khái niệm về miễn chấp hành hình phạt tù, các nhà khoa học cũng chưa đưa ra được một khái niệm thống nhất, theo GS. TSKH Lê Văn Cảm,“Hoãn chấp hành hình phạt tù là việc tạm dừng lại trong một thời hạn nhất định việc chấp hành hình phạt tù của người bị kết án nếu người này chưa chấp hành hình phạt tù đó” [11, tr.794]; GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa cho rằng: "Hoãn chấp hành hình phạt tù là chuyển việc thi hành hình phạt tù sang thời điểm muộn hơn" [28, tr.310]; còn với TS. Trịnh Tiến Việt: "Hoãn chấp hành hình phạt tù là việc Tòa án cho phép người bị kết án chuyển việc thi hành án phạt tù sang thời điểm muộn hơn. Nói một cách khác, đó là việc cho phép người bị kết án tiếp tục sống và làm việc ngoài xã hội, chưa buộc người này phải vào trại giam để chấp hành hình phạt tù" [59, tr.435]. Qua nghiên cứu, phân tích, tác giả đưa ra khái niệm hoãn chấp hành hình phạt như sau: Hoãn chấp hành hình phạt tù là chuyển việc chấp hành hình phạt tù đối với người bị kết án nhưng chưa chấp hành hình phạt tù sang
  • 38. 32 thời điểm muộn hơn so với thời điểm được quy định tại bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật đối với người bị kết án. Từ khái niệm khoa học về hoãn chấp hành hình phạt tù nên trên, có thể khẳng định bản chất pháp lý của chế định này như sau: Hoãn chấp hành hình phạt tù là một chế định nhân đạo của Luật hình sự Việt Nam, được thể hiện thông qua việc Tòa án quyết định chuyển việc chấp hành hình phạt tù đối với người bị kết án (nhưng chưa chấp hành hình phạt đó) sang thời điểm muộn hơn so với thời điểm đã được quy định tại bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án đối với người phạm tội, trong một thời gian nhất định khi có đầy đủ căn cứ và những điều kiện do pháp luật hình sự quy định. Ví dụ: Tháng 6 năm 2015, Nguyễn Văn Hậu, 25 tuổi (có đủ năng lực trách nhiệm hình sự) thường trú tại xã Phú Xuyên, huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên có mâu thuẫn với Dương Văn Hùng 27 tuổi, ở cùng xã với Hậu. Hai bên xô sát, Hậu dùng ống tuýp kẽm đánh Hùng gẫy xương bả vai và đa chấn thương nhiều vùng trên cơ thể. Kết quả giám định, Hùng bị thương tật 12%. Căn cứ hồ sơ vụ án và Điểm a, Khoản 1, Điều 104 Bộ Luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009, Tòa án nhân dân huyện Đại Từ tuyên phạt Nguyễn Văn Hậu 24 tháng tù. Trước khi chấp hành hình phạt tù, Nguyễn Văn Hậu đã có Đơn đề nghị Tòa án cho hoãn chấp hành hình phạt tù với lý do Hậu là người lao động duy nhất trong gia đình, nếu phải chấp hành hình phạt tù thì gia đình sẽ gặp khó khăn đặc biệt. Sau khi xác minh, Tòa án đã ra quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù đối với Nguyễn Văn Hậu, thời gian được hoãn chấp hành hình phạt là 12 tháng. 1.2.5. Bảo vệ quyền con người bằng chế định tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù Tương tự như hoãn chấp hành hình phạt tù, khái niệm tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù cũng chưa được ghi nhận trong Luật hình sự Việt Nam. Nếu như chế định hoãn chấp hành hình phạt tù lần đầu tiên được pháp
  • 39. 33 luật ghi nhận tại Bộ luật hình sự 1985 thì tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù lần đầu tiên được quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự 1988. Theo Từ điển Tiếng việt, "tạm" có nghĩa là "làm việc gì chỉ trong một thời gian nào đó, khi có điều kiện thì sẽ có thay đổi" [60, Tạm]; "Đình chỉ" có nghĩa là "ngừng lại hoặc làm cho phải ngừng lại trong một thời gian hay vĩnh viễn" [60, Đình_chỉ]. Dưới góc độ luật hình sự thì "tạm đình chỉ" là tạm dừng lại việc thực hiện một quyết định nào đó của cơ quan có thẩm quyền mà người đó đang phải chấp hành. Tại Bộ luật tố tụng hình sự 1988, nhà làm luật sử dụng thuật ngữ là "tạm đình chỉ thi hành án hình phạt tù". Tuy nhiên, tại Bộ luật hình sự 1999 và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thuật ngữ này đã được sửa đổi thành "tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù". Việc sửa đổi thuật ngữ trên là có cơ sở bởi lẽ, đối với tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù, người bị kết án đã có quyết định thi hành án và đang chấp hành hình phạt. Khi có đủ các điều kiện theo luật định thì có thể được tạm dừng việc chấp hành hình phạt đó, đây cũng là điểm khác biệt căn bản so với chế định hoãn chấp hành hình phạt tù. Dưới góc độ khoa học, đã có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này. Theo TS. Phạm Văn Beo: Tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù là việc tạm dừng trong một thời gian nhất định việc chấp hành hình phạt tù của người bị kết án khi người này đang chấp hành hình phạt đó [3, tr.470]; Quan điểm của GS.TSKH Lê Văn Cảm: Tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù là việc tạm dừng trong một thời gian nhất định việc chấp hành hình phạt tù của người bị kết án đang chấp hành hình phạt đó [11, tr.796]; Theo quan điểm của TS. Trịnh Tiến Việt: Tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù là việc Tòa án cho phép người bị kết án đang chấp hành hình phạt tù tại trại giam được tạm
  • 40. 34 dừng việc ở lại trại giam để chấp hành hình phạt, đồng thời họ được trả tự do nếu không bị giam giữ về một tội phạm khác khi có những điều kiện cụ thể do Bộ luật hình sự quy định [59, tr.444]. Qua phân tích, tiếp thu có chọn lọc những điểm hợp lý trong các khái niệm "tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù" của các tác giả đã nêu trên, tác giả đưa ra định nghĩa khoa học về tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù như sau: Tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù là việc Toà án cho phép người đang chấp hành hình phạt tù được tạm dừng chấp hành hình phạt tù đó trong một thời gian nhất định, khi người đó đáp ứng những điều kiện do Bộ luật hình sự quy định. Về bản chất pháp lý, có thể hiểu chế định tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù là một chế định nhân đạo của Luật hình sự Việt Nam, được thể hiện qua việc Tòa án quyết định cho phép người bị kết án đang chấp hành hình phạt tù được tạm dừng việc chấp hành hình phạt tù đó trong một thời hạn nhất định khi người đó có đầy đủ căn cứ và những điều kiện theo quy định của pháp luật hình sự. 1.2.6. Bảo vệ quyền con người bằng chế định tha tù trước thời hạn có điều kiện Tha tù trước kỳ hạn là một chế định nhân đạo đã được Nhà nước ta quan tâm, cụ thể hoá bằng văn bản pháp luật từ rất sớm. Năm 1958 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Thông tư số 566/TTg ngày 24 tháng 12 năm 1958 quy định về vấn đề này, cụ thể như sau: "...Khi xử xong thì phải tổ chức ngay cho phạm nhân lao động sản xuất một cách thiết thực. Kẻ nào lao động tốt, biểu hiện tốt về mặt cải tạo thì công an đề nghị công tố xét và đưa toà án xử tha tù cho họ trước kỳ hạn" [6, tr.1]. Để hướng dẫn thi hành quy định của Thủ tướng Chính phủ về nội dung tha tù trước kỳ hạn, Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Viện Công tố Trung ương, Toàn án nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư liên bộ số 73-TT/LB ngày 11 tháng 08 năm 1959 về việc quy định điều kiện và thủ tục xử tha tù trước kỳ hạn.
  • 41. 35 Thuật ngữ tha tù trước kỳ hạn đã được đề cập đến từ rất sớm, nhưng trong Bộ Luật hình sự năm 1985 và Bộ Luật hình sự năm 1999 lại không sử dụng thuật ngữ này. Bộ luật hình sự năm 2015 đã quy định cụ thể nội dung này tại một Điều riêng (Điều 66) với tên gọi "Tha tù trước thời hạn có điều kiện". Chế định này cho phép sớm đưa người phạm tội bị xử phạt tù quay trở về với cộng đồng để phục thiện, sửa chữa lỗi lầm. Chế định này được ghi nhận là sự cụ thể hoá quan điểm, đường lối của Đảng ta về vấn đề này, theo đúng tinh thần của Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, cụ thể là “đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội” [4, phần các nhiệm vụ giải pháp]. Bộ luật Hình sự năm 1985, năm 1999 cũng đã quy định một số giải pháp rút ngắn thời hạn chấp hành hình phạt đối với người chưa chấp hành hình phạt tù trong trại giam, đó là những quy định về miễn, giảm hình phạt. Điều kiện về miễn chấp hành hình phạt tù đối với người phạm tội nhìn chung dựa trên ba tiêu chí là thời gian thực sự chấp hành hình phạt, thái độ cải tạo phục hồi (như lập công, có nhiều tiến bộ, chấp hành tốt nội quy, quy chế trại giam, xếp loại cải tạo) và lý do nhân đạo (như mắc bệnh hiểm nghèo). Cụ thể, việc miễn chấp hành toàn bộ hình phạt tù đối với người phạm tội được quy định tại Điều 57 Bộ luật hình sự năm 1999. Riêng đối với người chưa thành niên phạm tội thì vấn đề này còn được quy định tại Điều 76 Bộ luật hình sự năm 1999. Theo quy định này, người phạm tội có thể được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt tù có thời hạn trong hai trường hợp: Thứ nhất, người phạm tội bị kết án tù có thời hạn, chưa chấp hành hình phạt mà lập công lớn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo và người đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành toàn bộ hình phạt cho người đó. Thứ hai, người bị kết án về tội ít nghiêm trọng đang được hoãn chấp
  • 42. 36 hành hình phạt mà lập công thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành hình phạt. Việc miễn chấp hành phần hình phạt còn lại có thể được tiến hành đối với người phạm tội trong thời gian tạm đình chỉ chấp hành hình phạt mà lập công hoặc trong trường hợp được đặc xá. Theo quy định tại Khoản 4 Điều 57 Bộ luật hình sự năm 1999, người bị kết án về tội ít nghiêm trọng đang trong thời gian được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt mà lập công thì có thể được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại. Ngoài ra, theo quy định của Luật Đặc xá, người đang chấp hành hình phạt tù có thời hạn mà thỏa mãn các điều kiện về ý thức chấp hành nội quy, quy chế trại giam, thái độ lao động, học tập, xếp loại cải tạo cũng như điều kiện về thời gian đã thực tế chấp hành hình phạt tù thì được đề nghị Chủ tịch nước quyết định đặc xá. Việc áp dụng những quy định này trong thực tiễn đã góp phần đáng kể vào việc động viên người bị kết án yên tâm cải tạo, tích cực sửa chữa lỗi lầm để trở thành công dân có ích cho xã hội. Tuy nhiên, những quy định trên vẫn còn có một số khiếm khuyết nhất định như: Chưa thực sự chú trọng đến việc phòng ngừa tái phạm; Không có ràng buộc đối với người phạm tội được trả tự do; Đối tượng được miễn chấp hành toàn bộ hoặc phần còn lại của hình phạt tù còn khá hạn chế;... Chế định tha tù trước thời hạn có điều kiện được ghi nhận giúp giải quyết các vấn đề tồn tại đã nêu trên, cụ thể như sau: Chế định tha tù trước thời hạn có điều kiện đã chú trọng đến việc phòng ngừa tái phạm thông qua các quy định, ràng buộc cụ thể đối với người phạm tội được tha tù trước thời hạn; Đối tượng được xem xét tha tù trước thời hạn có điều kiện là tương đối rộng so với các quy định trước đây. Cụ thể như sau: Là người phạm tội lần đầu có nơi cư trú rõ ràng; đang chấp hành án phạt tù; có nhiều tiến bộ, có ý thức cải tạo tốt (đối với người bị kết án về tội
  • 43. 37 phạm nghiêm trọng trở lên thì phải là người đã được giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù); Đã chấp hành xong hình phạt bổ sung là hình phạt tiền, án phí và các nghĩa vụ bồi thường dân sự; Đã chấp hành được ít nhất là một phần hai mức thời hạn tù đối với hình phạt tù có thời hạn hoặc ít nhất 15 năm đối với tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn. Trường hợp người phạm tội là thương binh, bệnh binh, thân nhân gia đình liệt sỹ, gia đình có công với cách mạng, người đủ 70 tuổi trở lên, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, thì thời gian đã chấp hành ít nhất là một phần ba hình phạt tù có thời hạn hoặc ít nhất 12 năm đối với tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn. Người có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật hình sự về tha tù trước thời hạn có điều kiện, theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền, Tòa án quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện đối với người bị kết án. Người được tha tù trước thời hạn có điều kiện phải thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách. Thời gian thử thách bằng thời gian còn lại của hình phạt tù. Nếu trong thời gian thử thách, người được tha tù trước thời hạn có điều kiện cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên hoặc bị xử phạt vi phạm hành chính 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể hủy bỏ quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện đối với người đó và buộc họ phải chấp hành phần hình phạt tù còn lại chưa chấp hành. Nếu trong thời gian thử thách, người đó lại thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó chấp hành hình phạt của bản án mới và tổng hợp với phần hình phạt tù chưa chấp hành của bản án trước đó. Người được tha tù trước thời hạn có điều kiện đã chấp hành được ít nhất là một phần hai thời gian thử thách và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định rút ngắn thời gian thử thách đối với người đó.
  • 44. 38 Bên cạnh việc đảm bảo các quyền cơ bản của con người, chế định tha tù trước thời hạn có điều kiện đã đưa ra các điều kiện ràng buộc cụ thể đối với người được tha tù, đồng thời đã hạn chế các đối tượng tiềm ẩn cao khả năng tái phạm, đặc biệt là các tội có liên quan đến an ninh quốc gia, chống lại loài người, tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm của con người, cụ thể chế định tha tù trước thời hạn có điều kiện không áp dụng đối với: - Người bị kết án về tội xâm phạm an ninh quốc gia; tội khủng bố; tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh hoặc người bị kết án từ 10 năm tù trở lên đối với tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm của con người; 07 năm tù trở lên đối với các tội cướp tài sản, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản và sản xuất trái phép, mua bán trái phép, chiếm đoạt chất ma túy; - Người bị kết án tử hình được ân giảm hoặc những người thuộc diện không thi hành án tử hình đối với người bị kết án quy định tại Khoản 3, Điều 40 Bộ luật hình sự năm 2015 (người bị kết án tử hình nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây: Phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi; Người đủ 75 tuổi trở lên; Người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn). Từ các phân tích trên đây, tác giả đưa ra khái niệm tha tù trước thời hạn có điều kiện như sau: Tha tù trước thời hạn có điều kiện là việc Toà án cho phép người chưa chấp hành xong án phạt tù được trở về với cuộc sống bình thường, khi người đó đáp ứng những điều kiện do pháp luật hình sự quy định. Người được tha tù trước thời hạn phải thực hiện thời gian thử thách bằng thời gian còn lại của hình phạt tù.