SlideShare a Scribd company logo
1 of 106
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NHIẾP THỊ LIÊN
Toµ ¸n víi vai trß b¶o vÖ quyÒn con ng-êi
th«ng qua ho¹t ®éng xÐt xö c¸c vô ¸n h×nh sù
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NHIẾP THỊ LIÊN
Toµ ¸n víi vai trß b¶o vÖ quyÒn con ng-êi
th«ng qua ho¹t ®éng xÐt xö c¸c vô ¸n h×nh sù
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN NGỌC CHÍ
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nhiếp Thị Liên
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CON NGƯỜI
VÀ VAI TRÒ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI CỦA TÒA ÁN..........9
1.1. Khái quát về Quyền con người............................................................. 9
1.1.1. Khái niệm Quyền con người ................................................................ 9
1.1.2. Nguồn gốc Quyền con người .............................................................12
1.1.3. Quá trình phát triển Quyền con người ...............................................13
1.1.4. Cơ chế đảm bảo Quyền con người.....................................................14
1.1.5. Quyền con người được ghi nhận trong pháp luật quốc tế và
pháp luật của mỗi quốc gia.................................................................15
1.2. Vị trí, vai trò, các tiêu chí Quốc tế về Quyền con người và bảo
vệ Quyền con người trong hoạt động xét xử của Tòa án...................16
1.2.1. Vị trí, vai trò của Tòa án trong Nhà nước pháp quyền ......................16
1.2.2. Khái niệm, nội dung vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ
Quyền con người................................................................................22
1.2.3. Các tiêu chí quốc tế về Quyền con người và bảo vệ quyền con
người trong hoạt động xét xử của Tòa án ..........................................27
Chương 2: VAI TRÒ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI CỦA TÒA ÁN
TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM................32
2.1. Vai trò bảo vệ Quyền con người của Tòa án trong pháp luật Tố
tụng hình sự Việt Nam giai đoạn trước năm 1945.............................32
2.2. Vai trò bảo vệ Quyền con người của Tòa án trong pháp luật Tố
tụng hình sự Việt Nam giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1988...............34
2.3. Vai trò bảo vệ Quyền con người của Tòa án trong pháp luật Tố
tụng hình sự Việt Nam theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 .............37
2.4. Vai trò bảo vệ Quyền con người của Tòa án trong pháp luật Tố
tụng hình sự Việt Nam theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 .............38
2.4.1. Quyền được coi là vô tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật ...............................................................................60
2.4.2. Quyền được đưa ra xét xử theo đúng trình tự, thủ tục được pháp luật
qui định...............................................................................................60
2.4.3. Quyền được giao nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử .....................61
2.4.4. Quyền được tham gia phiên tòa .........................................................61
2.4.5. Quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng................................62
2.4.6. Quyền đưa ra tài liệu, chứng cứ, yêu cầu, đề nghị và quyền bào chữa.......62
2.4.7. Quyền được nói lời sau cùng..............................................................63
2.4.8. Quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm............................64
Chương 3: THỰC TIỄN VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI
TRÒ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI CỦA TÒA ÁN ................66
3.1. Thực tiễn công tác bảo vệ quyền con người của Tòa án trong
những năm qua...................................................................................66
3.1.1. Tình hình xét xử các vụ án của Tòa án trong năm năm qua ..............66
3.1.2. Những thành tựu và hạn chế trong công tác bảo vệ quyền con
người của Tòa án trong những năm qua ............................................67
3.1.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong công tác bảo vệ Quyền
con người của Tòa án .........................................................................71
3.2. Các giải pháp nâng cao vai trò bảo vệ quyền con người của Tòa
án trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự......................................80
3.2.1. Cơ sở của các giải pháp......................................................................80
3.2.2. Các giải pháp nâng cao vai trò bảo vệ quyền con người của Tòa
án trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự......................................83
KẾT LUẬN....................................................................................................94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................96
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLTTHS: Bộ luật Tố tụng hình sự
CHXHCN: Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
HP: Hiến pháp
NNPQ: Nhà nước Pháp quyền
QCD: Quyền công dân
QCN: Quyền con người
QHP: Quyền Hành pháp
QLP: Quyền Lập pháp
QTP: Quyền Tư pháp
TTHS: Tố tụng hình sự
XHCN: Xã hội Chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng Tên bảng Trang
Bảng 3.1: Tỷ lệ giải quyết các loại án từ năm 2010 đến năm 2014 67
Bảng 3.2: Tỷ lệ giải quyết án hình sự từ năm 2010 đến năm 2014 68
Bảng 3.3: Tỷ lệ xét xử bị cáo từ năm 2010 đến năm 2014 68
Bảng 3.4: Tỷ lệ án bị hủy, sửa từ năm 2010 đến năm 2014 69
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu
Quyền con người là một giá trị thiêng liêng, bất khả tước đoạt, nó được
ghi nhận ở nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực
Tố tụng hình sự. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội có thể nói quyền con
người trong lĩnh vực Tố tụng hình sự dễ bị xâm phạm, dễ bị tổn thương nhất
và hậu quả để lại cũng nghiêm trọng nhất. Bởi lẽ nó ảnh hưởng trực tiếp tới
quyền được sống, quyền tự do và sinh mệnh chính trị của một cá nhân. Do đó
vấn đề bảo vệ quyền con người bằng pháp luật Tố tụng hình sự và bởi một cơ
quan Nhà nước - một cơ quan pháp luật là một vấn đề được thế giới và các
quốc gia đặc biệt quan tâm. Tại Điều 10 Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân
quyền đã khẳng định: “Mọi người đều có bằng nhau quyền được phân xử
công khai và công bằng, trước một toà án độc lập và vô tư, để được phán
quyết về các quyền lợi và nhiệm vụ của mình, hay về những tội phạm mà mình
bị cáo buộc” [25]. Đây có thể được coi là tiêu chuẩn chung cho mọi quốc gia,
dân tộc cần đạt tới khi xây dựng hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật Hình
sự và Tố tụng hình sự nói riêng cũng như khi xây dựng hệ thống các cơ quan
bảo vệ pháp luật. Ở nước CHXHCN Việt Nam, quyền con người không chỉ
được ghi nhận trong Hiến pháp, hệ thống pháp luật mà còn được bảo vệ trên
thực tế thông qua các cơ quan bảo vệ pháp luật trong đó có Tòa án. Toà án là
cơ quan duy nhất có chức năng xét xử của nước CHXHCN Việt Nam đã đóng
vai trò không nhỏ vào việc bảo vệ các quyền công dân, quyền con người.
Trong công cuộc xây dựng Nhà nước Pháp quyền XHCN ở nước ta
hiện nay vấn đề quyền con người và bảo vệ quyền con người ngày càng được
Đảng và Nhà nước quan tâm, đề cao. Tại Nghị quyết số 49 - NQ/TW ngày 02
2
tháng 6 năm 2005 của Bộ chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020” khẳng định:
Đòi hỏi của công dân và xã hội đối với các cơ quan Tư pháp
ngày càng cao; các cơ quan Tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của
nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời
phải là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ
nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm [1].
Tại Văn kiện Đại hội X của Đảng cũng đặt ra nhiệm vụ “Xây dựng nền
Tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý,
quyền con người”. Trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI của
Đảng mới đây cũng tiếp tục đặt ra nhiệm vụ: “Đẩy mạnh xây dựng Nhà nước
Pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trong đó đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020, xây dựng hệ thống Tư pháp trong sạch vững
mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người” .
Tuy nhiên thực tiễn hoạt động điều tra, truy tố, xét xử trong những năm
qua cho thấy rằng cũng còn nhiều trường hợp vi phạm quyền con người trong
quá trình tiến hành tố tụng. Còn có những vụ án oan sai, vi phạm nghiêm
trọng thủ tục tố tụng dẫn đến quyền và lợi ích hợp pháp của người dân bị xâm
phạm. Những vi phạm đó xảy ra là do nhiều nguyên nhân, trong đó có bất
cập, hạn chế của các quy phạm pháp luật, nhận thức, thái độ của người tiến
hành tố tụng, trách nhiệm của Nhà nước, trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng đối với công dân. Vì vậy, việc nghiên cứu về vai
trò bảo vệ quyền con người của các cơ quan tiến hành tố tụng đặc biệt là Toà
án - Cơ quan xét xử của Nhà nước là cần thiết và có vai trò rất quan trọng
trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN nói
chung, trong công cuộc cải cách Tư pháp nói riêng ở nước ta hiện nay.
Mặt khác ở một góc độ nhất định có những quan điểm cho rằng Toà
3
án là “công cụ” để Nhà Nước “trừng trị” người phạm tội và cũng là “công
cụ” để bảo vệ những người bị hại, hiểu như vậy là phiến diện và chưa chính
xác. Bởi lẽ Toà án với chức năng là cơ quan xét xử nhưng không thể tự ý
phán quyết một người có tội hay không có tội và từ đó bắt họ phải chịu hình
phạt mà để phán quyết một người có tội hay không thì Toà án phải dựa trên
những căn cứ do pháp luật quy định và phải tuân theo trình tự, thủ tục do
pháp luật quy định. Do đó, để có cách hiểu và nhìn nhận chính xác, thống
nhất vấn đề này thì việc nghiên cứu vai trò bảo vệ quyền con người của Toà
án là cần thiết và cấp bách.
Vì vậy với vị trí là một người làm việc trong lĩnh vực áp dụng pháp luật tôi
chọn đề tài "Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người thông qua hoạt động xét
xử các vụ án hình sự" làm đề tài cho Luận văn thạc sĩ luật học của mình.
Tôi hy vọng rằng với Luận văn của mình sẽ góp phần nhỏ bé vào việc
làm sáng tỏ vai trò bảo vệ quyền con người của Toà án thông qua hoạt động
xét xử các vụ án hình sự, từ đó hoàn thiện các quy phạm pháp luật về quyền
con người trong Tố tụng hình sự nói chung và trong giai đoạn xét xử tại Toà
án nói riêng cũng như các quy phạm khác có liên quan. Ngoài ra, việc đưa ra
các kiến nghị để hoàn thiện các quy phạm pháp luật, các giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả công tác bảo vệ quyền con người của Toà án, từ đó đảm bảo hơn
nữa các quyền con người đáp ứng với yêu cầu của công cuộc cải cách Tư
pháp của Nhà nước ta trong thời gian tới cũng là một trong những mục đích
mà luận văn mong muốn đạt được.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Vấn đề quyền con người và bảo vệ quyền con người đã được quan tâm
nghiên cứu ở nhiều lĩnh vực khác nhau: Chính trị, Kinh tế, Văn hoá, Xã hội,
Pháp luật... đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học ở những mức độ khác
nhau, những khía cạnh, phương diện khác nhau nghiên cứu về vấn đề quyền
con người và bảo vệ quyền con người.
4
- Trong lĩnh vực lý luận về Nhà nước và Pháp luật có các công trình
"Quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam” của GS.TS. Trần Ngọc Đường, NXB Chính trị Quốc gia Hà
Nội, năm 2011; bài báo "Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với
việc bảo đảm quyền con người" của TS. Tường Duy Kiên; các công trình của
Lê Văn Cảm (2004), “Những vấn đề lý luận cơ bản về chế định các nguyên tắc của
Luật TTHS”, Tạp chí Kiểm sát, số 3, tr.12. Tuy nhiên, các công trình nêu trên thực
hiện việc nghiên cứu bảo vệ đảm quyền con người từ góc độ lý luận chung về
Nhà nước và Pháp luật mà chưa đề cập cụ thể đến các quyền con người trong
trong lĩnh vực pháp luật nói chung và pháp luật Tố tụng hình sự nói riêng.
- Trong lĩnh vực Tư pháp và Tư pháp hình sự có Luận án tiến sĩ luật
học 2005 "Bảo đảm quyền con người trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam
hiện nay” của tác giả Nguyễn Huy Hoàn, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội; bài báo "Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận cơ bản”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật
(7/2010) của GS.TSKH Lê Văn Cảm; Đề tài khoa học cấp Đại học quốc gia
Hà Nội - Khoa Luật năm 2006“Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật tố
tụng hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam” do
GS.TSKH. Lê Văn Cảm, PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí, PGS.TS. Trịnh Quốc
Toản đồng chủ trì; Luận án tiến sĩ luật học năm 2008 "Bảo vệ quyền con
người trong tố tụng hình sự Việt Nam" của tác giả Nguyễn Quang Hiền, Viện
Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội. Bài viết “Bảo vệ quyền con người bằng pháp
luật tố tụng hình sự” (Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, kinh tế - Luật, số
23/2007) của PGS. TS. Nguyễn Ngọc Chí: ThS. Đinh Thế Hưng: “Bảo vệ
quyền con người trong tố tụng hình sự” (tham luận tại hội thảo: Các điều kiện
đảm bảo quyền con người ở Việt Nam). Trong các công trình này, các tác giả
nghiên cứu việc bảo vệ quyền con người trong hoạt động Tư pháp nói chung
5
và trong lĩnh vực tố tụng hình sự nói riêng. Tuy nhiên vai trò bảo vệ quyền
con người của các cơ quan Tư pháp lại chưa được quan tâm nghiên cứu.
- Trong một số công trình khoa học khác, các tác giả đã nghiên cứu về
vấn đề bảo đảm quyền con người trong lĩnh vực tố tụng hoặc đối với người
tham gia tố tụng nhất định như: công trình “Bảo đảm quyền con người trong
áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự” của TS. Nguyễn
Văn Điệp, Luận án tiến sĩ luật học năm 2010 “Bảo đảm quyền con người của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả
Lại Văn Trình, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.... Ở các công trình
nghiên cứu trên các tác giả nghiên cứu vấn đề bảo vệ quyền con người đối với
những người tham gia tố tụng nhất định. Nhưng vấn đề về chủ thể thực hiện
vai trò bảo vệ thì lại chưa được nghiên cứu.
- Ở nước ngoài cũng đã nhiều tác giả nghiên cứu vấn đề bảo đảm quyền
con người cụ thể: Bảo đảm quyền con người trong các nguyên tắc tố tụng
hình sự (Principle of Criminal procedure của Neil Andrews); bảo đảm quyền
con người trong xét xử vụ án hình sự (Human rights in the English criminal
trial - Human rights in criminal procedure của K.W. Lidstone) v.v.
Tuy nhiên, vấn đề bảo vệ quyền con người bằng các quy phạm pháp
luật Tố tụng cụ thể và bởi một thiết chế của Nhà nước - một cơ quan bảo vệ
pháp luật là Toà án thì chưa có công trình nào đề cập tới.
Như vậy, tình hình nghiên cứu trên đây cho phép khẳng định việc
nghiên cứu đề tài: "Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người thông qua
hoạt động xét xử các vụ án hình sự" là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa
mang tính lý luận vừa mang tính thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn.
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nước ta đang trong tiến trình hội nhập Kinh tế - Quốc tế, cải cách Tư
6
pháp và xây dựng Nhà nước Pháp quyền XHCN thì vấn đề bảo vệ quyền con
người bằng pháp luật Tố tụng hình sự và bởi các cơ quan tiến hành tố tụng
trong đó có Toà án đang là vấn đề được Đảng và Nhà nước quan tâm. Vì vậy,
Luận văn hướng tới việc làm rõ những vấn đề lý luận về vai trò của Tòa án
trong việc bảo vệ quyền con người thông qua hoạt động xét xử, đồng thời
kiến nghị các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Tòa án trong việc
bảo vệ quyền con người.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về quyền con người và vai trò bảo
vệ quyền con người của Tòa án.
- Nghiên cứu quyền con người trong Tố tụng hình sự và quyền con
người trong giai đoạn xét xử tại Toà án theo pháp luật tố tụng hình sự ở nước
ta hiện nay.
- Nghiên cứu về vị trí, vai trò của Toà án trong hệ thống Chính trị nước
ta hiện nay và những đổi mới theo tinh thần cải cách Tư pháp.
- Nghiên cứu thực trạng công tác bảo vệ quyền con người của Toà án
thông qua hoạt động xét xử các vụ án hình sự ở nước ta hiện nay.
- Nghiên cứu nguyên nhân của những hạn chế trong công tác bảo vệ
quyền con người của Tòa án nước ta hiện nay.
- Một số giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác bảo vệ quyền con
người của Toà án thông qua hoạt động xét xử ở nước ta hiện nay.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: “Tòa án với vai trò bảo vệ quyền con
người thông qua hoạt động xét xử các vụ án hình sự”. Cụ thể là:
- Nghiên cứu văn kiện, công trình nghiên cứu khoa học, văn bản pháp
luật thực định liên quan đến vấn đề quyền con người, quyền con người trong
lĩnh vực tố tụng hình sự.
7
- Nghiên cứu các đối tượng được Tòa án bảo vệ trong hoạt động xét xử.
- Nghiên cứu cơ chế bảo vệ quyền con người và thực tiễn công tác bảo
vệ quyền con người Toà án.
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật Tố tụng hình về quyền con
người trong vụ án hình sự.
- Số liệu thực tiễn được xác định trên địa bàn toàn quốc, trong thời hạn
5 năm năm (2010 - 2014).
4. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Đây là đề tài nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng kể cả về phương diện lý
luận lẫn thực tiễn, Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên nghiên cứu về
vấn đề vai trò bảo vệ quyền con người của Toà án thông qua hoạt động xét xử
vụ án hình sự. Luận văn có những điểm mới sau:
- Luận văn đã góp phần làm rõ thêm các vấn đề lý luận về quyền con
người và bảo vệ quyền con người.
- Luận văn đã góp phần làm rõ vấn đề quyền con người và bảo vệ
quyền con người thông qua hoạt động Tố tụng nói chung và hoạt động xét xử
của Toà án nói riêng.
- Luận văn đã phân tích các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và
đánh giá tương đối đầy đủ và tương đối toàn diện thực tiễn vấn đề bảo vệ
quyền con người của Toà án ở nước ta hiện nay, từ đó tìm ra được những
hạn chế, bất cập và nguyên nhân của những bất cập, hạn chế trong vai trò
bảo vệ quyền con người của Toà án.
Từ đó kiến nghị, đề xuất nhiều giải pháp quan trọng nhằm nâng cao
hiệu quả vai trò bảo vệ quyền con người của Toà án thông qua hoạt động xét
xử vụ án hình sự ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Do đó, ở một chừng mực nhất định có thể khẳng định rằng, Luận văn là
tài liệu tham khảo cần thiết cho những người làm công tác nghiên cứu, học
8
tập và các cán bộ đang công tác thực tiễn tại các cơ quan pháp luật đặc biệt là
các cán bộ đang công tác tại Toà án.
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay nước ta đang trong tiến trình xây
dựng Nhà nước Pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Một nhà nước mà
ở đó, quyền con người được tôn trọng và bảo vệ không chỉ dừng lại ở các
tuyên bố chính trị, ghi nhận trong Hiến pháp, pháp luật mà còn được bảo vệ
trong thực tế. Như vậy Luận văn sẽ góp phần làm cơ sở lý luận cho vấn đề
quyền con người và bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực Tố tụng.
5. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
- Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật. Quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN hiện nay và vấn đề cải
cách Tư pháp theo tinh thần Nghị quyết 49 - NQ/TW ngày 26 tháng 5 năm
2005 về “Chiến lược cải cách Tư pháp đến năm 2020” của Bộ chính trị.
Quan điểm của Đảng và Nhà nước về chính sách hình sự.
- Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng là: phân tích, tổng hợp,
lịch sử, so sánh, thống kê... Ngoài ra tác giả cũng tham khảo các tư liệu và ý
kiến của các chuyên gia để làm rõ các vấn đề nghiên cứu.
9
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CON NGƯỜI
VÀ VAI TRÒ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI CỦA TÒA ÁN
1.1. Khái quát về Quyền con người
1.1.1. Khái niệm Quyền con người
Quyền con người (Human rights) là một phạm trù đa diện, nó được
xem xét ở nhiều góc độ khác nhau như: Triết học, Chính trị học, Kinh tế học,
Luật học… do đó có nhiều quan niệm khác nhau về QCN. Trong lịch sử nhân
loại đã hình thành hai quan niệm chủ yếu, khác nhau về QCN:
Quan niệm thứ nhất: Cho rằng mỗi con người là một thực thể tự nhiên
cho nên QCN cũng là quyền tự nhiên, bẩm sinh và vốn có. Các quyền này gắn
với cá nhân từ khi sinh ra không phụ thuộc vào luật pháp. Mặt tích cực của
quan niệm này là ở chỗ nó có giá trị nhân đạo, bảo vệ con người trước quyền
lực, nó có ý nghĩa tích cực trong nhận thức về QCN. Nhưng quan điểm này
cũng thể hiện mặt tiêu cực là nó tuyệt đối hóa QCN, quyền cá nhân, đề cao
các quyền cá nhân trong mối quan hệ với cộng đồng xã hội. Do vậy nếu coi
QCN là quyền tự nhiên thì vẫn là phiến diện và chưa đầy đủ.
Quan niệm thứ hai: Cho rằng con người là thực thể xã hội cho nên
QCN cũng mang tính xã hội, nó phụ thuộc vào chế độ Kinh tế, Chính trị và
Xã hội. Mặt tích cực của quan niệm này là ở chỗ coi QCN là một khái niệm
có tính lịch sử, đặt con người trong tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Tuy
nhiên quan điểm này cũng thể hiện mặt tiêu cực đó là phủ nhận hoàn toàn
quyền tự nhiên của con người, coi QCN hoàn toàn phụ thuộc và được định
đoạt bởi Nhà nước.
Quan niệm biện chứng của Học thuyết Mác - Lênin đã khắc phục được
tính phiến diện trong nhận thức về con người và QCN ở các quan niệm nêu
10
trên. Theo học thuyết Mác - Lênin thì con người vừa là sản phẩm tự nhiên vừa
là sản phẩm của xã hội. Con người là một thực thể tự nhiên nhưng là một thực
thể tự nhiên trong cộng đồng xã hội. Trong cái tự nhiên của con người có mặt
xã hội và trong cái xã hội của con người có mặt tự nhiên, vì vậy QCN về bản
chất bao hàm cả hai mặt tự nhiên và xã hội. QCN có những thuộc tính sau:
- QCN là những giá trị gắn với mỗi con người vừa với tư cách là cá
nhân, vừa với tư cách là thành viên xã hội. Vì vậy, QCN vừa mang thuộc tính
cá nhân, vừa thể hiện lợi ích quốc gia, dân tộc, cộng đồng.
- QCN vừa là những giá trị vĩnh hằng vừa là những đại lượng biến đổi
gắn với quá trình phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế xã hội của
mỗi thời đại, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc.
- QCN mang tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau: Thể hiện ở chỗ các
QCN nằm trong mối liên hệ phụ thuộc và có sự tác động qua lại lẫn nhau.
Việc vi phạm một quyền sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực đến các quyền khác.
Ngược lại việc đảm bảo một quyền sẽ có gây ảnh hưởng tích cực đến những
quyền khác.
- QCN vừa có tính phổ biến vừa có tính riêng biệt, đặc thù. Tính phổ
biến thể hiện ở chỗ QCN là những giá trị chung, phổ biến cho tất cả mọi
người không phân biệt quốc tịch, dân tộc, giới tính, giai cấp, địa vị xã hội.
Điều đó có nghĩa là dù ở bất cứ quốc gia nào, giới tính nào, dân tộc nào và
xuất thân từ tầng lớp nào thì mọi người đều có các quyền như nhau. Tính
riêng biệt, đặc thù thể hiện ở chỗ QCN là những giá trị đặc thù, riêng có ở mỗi
quốc gia, dân tộc do điều kiện kinh tế - xã hội, truyền thống văn hóa, đạo đức
của quốc gia đó quy định và bị hạn chế bởi các quy định của pháp luật.
- QCN không thể phân chia: Thể hiện ở chỗ mỗi QCN đều có tầm quan
trọng như nhau, không có quyền nào được coi là có giá trị cao hơn quyền nào.
Việc tước bỏ hay hạn chế bất kỳ QCN nào đều tác động tiêu cực đến nhân
phẩm, giá trị và sự phát triển của con người.
11
- QCN vừa là quyền bình đẳng đối với mọi người, vừa là quyền ưu tiên
đối với nhóm người, giới, bộ phận nhất định trong xã hội. Trong xã hội không
thể có sự bình quân về quyền như nhau bởi mỗi con người có khả năng khác
nhau về trí tuệ, thể chất, khả năng… Do vậy, họ không thể có khả năng ngang
nhau trong việc thực hiện quyền.
- QCN là một phạm trù pháp lý vì vậy nó gắn liền với một hệ thống
pháp luật cụ thể, các quyền phải được thể hiện trong pháp luật, được pháp luật
ghi nhận và bảo vệ. Tuy nhiên, QCN là những quyền không thể bị tước bỏ:
Thể hiện ở chỗ QCN không thể bị tước bỏ hay hạn chế một cách tùy tiện bởi
bất cứ một chủ thể nào kể cả Nhà nước. Tuy nhiên trong một số trường hợp
các QCN có thể bị hạn chế hoặc tước bỏ trong một thời gian nhất định. Các
trường hợp này do luật pháp của mỗi quốc gia quy định, ví dụ: ở Việt Nam
hiện nay vẫn quy định tử hình là một hình phạt nghiêm khắc nhất được áp
dụng đối với những tội đặc biệt nghiêm trọng, hình phạt này nhằm loại bỏ
người phạm tội khỏi đời sống xã hội. Như vậy đã xâm phạm tới một QCN đó
là “Quyền được sống”, tuy nhiên cũng cần phải hiểu rằng chính họ đã thực
hiện hành vi đặc biệt nguy hiểm và gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng cho
người khác cho xã hội và việc bị áp dụng hình phạt này là do chính bản thân
họ tự lựa chọn và tự tước bỏ quyền được sống của mình.
Từ những thuộc tính của QCN đã có rất nhiều khái niệm về QCN được
đưa, những định nghĩa này đều không hoàn toàn giống nhau cụ thể:
Theo Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về QCN (Offiice of High
Commissioner for Human Rights - OHCHR) đã đưa ra định nghĩa:
Quyền con người là những đảm bảo pháp lý toàn cầu (Universal
legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống
lại những hành động (Actions) hoặc sự bỏ mặc (Omissons) mà làm
tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép (Entitlements) và tự do
cơ bản (Fundamental freedoms) của con người.
12
Ngoài ra cũng có quan điểm cho rằng:
Quyền con người là sự được phép mà tất cả thành viên của
công đồng nhân loại, không phân biệt giới tính, chủng tộc, tôn
giáo, địa vị xã hội…; đều có ngay từ khi sinh ra, đơn giản chỉ vì
họ là con người [24].
Ở Việt Nam cũng có nhiều định nghĩa về QCN được đưa ra, những
định nghĩa này không hoàn toàn giống nhau, nhưng nhìn chung thì QCN đều
được hiểu là: Những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người được ghi
nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế.
Tóm lại, dù được nhìn nhận ở những góc độ và cấp độ khác nhau thì
quyền con người cũng được hiểu là những giá trị cao cả cần được tôn trọng và
bảo vệ trong mọi xã hội và trong mọi giai đoạn lịch sử. Nó được coi là chuẩn
mực được cộng đồng quốc tế thừa nhận và tuân thủ.
1.1.2. Nguồn gốc Quyền con người
Về nguồn gốc QCN có hai trường phái khác nhau đưa ra hai quan điểm
trái ngược nhau về nguồn gốc QCN đó là trường phái theo học thuyết “Quyền
tự nhiên” - Natural rights và trường phái theo học thuyết “Quyền pháp lý” -
Legal rights. Theo những người theo học thuyết “Quyền tự nhiên” cho rằng:
QCN là những gì bẩm sinh, vốn có mà mọi cá nhân sinh ra đều được hưởng.
Nó không phụ thuộc vào phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa hay ý chí
của bất cứ cá nhân, giai cấp, tầng lớp, tổ chức, cộng đồng hay Nhà nước nào.
Vì vậy không một chủ thể nào, kể cả Nhà nước có thể ban phát hay tước bỏ
chúng. Với quan điểm trên thì những người theo trường “Quyền tự nhiên” đã
đề cao quá mức các quyền cá nhân và xem nhẹ các quyền tập thể, các lợi ích
xã hội. Ngược lại những người theo học thuyết về “Quyền pháp lý” thì cho
rằng: QCN không phải là những gì bẩm sinh, vốn có một cách tự nhiên mà
phải do các Nhà nước xác định và pháp điển hóa thành các quy phạm pháp
13
luật hoặc xuất phát từ truyền thống văn hóa. Như vậy phạm vi, giới hạn và
thời hạn hiệu lực của QCN phụ thuộc vào ý chí của tầng lớp thống trị và các
yếu tố như phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa…. của các xã hội. Với
quan điểm trên những người theo trường phái “Quyền pháp lý” lại xem nhẹ
các quyền cá nhân và lại đề cao các quyền và lợi ích tập thể, xã hội. Do trong
quan điểm của cả hai trường phái đều vẫn còn có những hạn chế nhất định,
nên cho đến nay cuộc đấu tranh giữa hai trường phái này vẫn chưa có sự phân
định đúng, sai, hợp lý và không hợp lý. Trong khi pháp luật của nhiều quốc
gia trên thế giới đều thể hiện quyền con người là các quyền pháp lý thì trong
tuyên ngôn nhân quyền thế giới năm 1948 và pháp luật của một số quốc gia là
khẳng định quyền con người là các quyền tự nhiên vốn có và không thể bị
tước bỏ của mọi cá nhân. Cụ thể trong tuyên ngôn nhân quyền thế giới năm
1948 ghi nhận: “Mọi người sinh ra đều bình đẳng về phẩm giá và các quyền”
còn trong Tuyên ngôn Độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ năm 1776 đã
khẳng định “Mọi người sinh ra đều bình đẳng và Đấng tạo hóa đã dành cho
họ một số quyền không thể bị tước đoạt, trong các quyền đó có quyền sống,
quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” hay trong Tuyên ngôn Nhân
quyền và Dân quyền của Pháp năm 1789 cũng khắng định “Mọi người sinh ra
và sống tự do và bình đẳng về các quyền”. Như vậy, việc quá coi trọng một
học thuyết đều là không phù hợp và mang tính phiến diện.
1.1.3. Quá trình phát triển Quyền con người
QCN xuất hiện và tồn tại gắn liền với quá trình phát triển của xã hội
loài người. Những tư tưởng về QCN đã xuất hiện từ thời tiền sử, thể hiện
trong các luật lệ của chiến tranh, tuy nhiên những tư tưởng này mới chỉ dừng
lại ở những ý niệm sơ khai. Những tư tưởng về QCN chỉ chính thức xuất hiện
cùng với sự phát triển của nền văn minh cổ đại. Ở giai đoạn này tư tưởng về
QCN được phán ánh trong các học thuyết hoặc các ấn phẩm tôn giáo, chính
14
trị và pháp lý. Đến thời kỳ Phục Hưng các tư tưởng về QCN phát triển một
cách rực rỡ nhất, trong thời kỳ này đã xuất hiện nhiều học giả vĩ đại như:
Thomas Hobber, John Locke, Thomas Paine, Georg Wilhelm Friedrich
Hegel…. Những tác phẩm của các học giải này không chỉ đưa ra nhiều vấn đề
lý luận cơ bản về QCN mà còn đề cập tới việc bảo vệ và thúc đẩy QCN.
Những tác phẩm này có ý nghĩa quan trọng nó đã thúc đẩy sự ra đời của nhiều
văn bản pháp luật về QCN, trong đó phải kể đến hai bản Tuyên ngôn nổi tiếng
đó là: Tuyên ngôn Độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ năm 1776 và Tuyên
ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1789. Tuy nhiên, vấn đề QCN
chỉ thực sự nổi lên và trở thành vấn đề được quan tâm ở tầm quốc tế kể từ đầu
thế kỷ XIX. Đặc biệt là từ khi tổ chức Liên hợp quốc gia đời vào năm 1945
thì những tư tưởng về QCN của nhân loại mới được thể chế hóa một cách
mạnh mẽ, toàn diện và có tính hệ thống vào pháp luật và đời sống chính trị
quốc tế và được ghi nhận trong luật pháp của nhiều quốc gia. Sau khi ra đời
không lâu Liên hợp quốc đã thông qua Tuyên ngôn toàn thế giới về Nhân
quyền vào năm 1948, đã chính thức khai sinh ra ngành luật quốc tế về QCN.
Hiện nay vấn đề QCN ngày càng được quốc tế quan tâm và bảo đảm, nó đề
cập thường xuyên ở các sự kiện Văn hóa, Chính trị, Pháp luật và ở nhiều cấp
độ khác nhau từ quốc gia, khu vực đến các sự kiện quốc tế. Và đã được thể
chế trong nhiều ngành luật của các quốc gia như; Luật hình sự, Luật Tố tụng
hình sự, Luật dân sự, Luật Tố tụng dân sự….
1.1.4. Cơ chế đảm bảo Quyền con người
- Khái niệm cơ chế: cơ chế là khái niệm dùng để chỉ trình tự, thủ tục,
cách thức để thực hiện một quá trình, theo một mục đích nhất định, do vậy
cơ chế được hiểu là sự vận hành của nhiều yếu tố theo những hướng nhất
định, có liên hệ chặt chẽ với nhau trong một chỉnh thể. Ví dụ ở nước ta vẫn
thường nói đến cơ chế thị trường, vậy cơ chế thị trường là gì? Cơ chế thị
trường là toàn bộ cách thức và phương pháp điều tiết nền kinh tế, chủ yếu
15
bằng tác động của quy luật sản xuất lưu thông hàng hóa và quan hệ thị
trường như quy luật giá trị, lưu thông tiền tệ, quy luật cung cầu. Như vậy,
để vận hành cơ chế thị trường ta có thể thấy có nhiều yếu tố tham gia vận
động, các quan hệ và các quy luật này được gắn bó chặt chẽ với nhau nhằm
thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
- Cơ chế quốc tế: là những nguyên tắc, thủ tục được thiết lập theo
những trình tự nhất định nhằm thực hiện những vấn đề mang tính quốc tế.
Những vấn đề mang tính quốc tế có thể kể đến như: Vấn đề về hòa bình và an
ninh quốc tế, vấn đề khuyến khích phát triển sự tôn trọng các QCN, vấn đề về
an ninh lương thực. Các cơ chế quốc tế được thực hiện thông qua các cơ quan
chuyên môn hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ của mình. Các cơ quan này
hoạt động trên cơ sở những trình tự, thủ tục quốc tế, trong khi thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của mình các cơ quan này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau.
- Cơ chế đảm bảo QCN: QCN và bảo vệ QCN vừa là vấn đề quốc tế vừa
là vấn đề của mỗi quốc gia. Việc bảo vệ QCN được quy định trong Hiến chương
Liên hợp quốc, hệ thống các công ước Quốc tế, nghị định thư, các nghị quyết
của các cơ quan của Liên hợp quốc. Mặt khác Hiến chương Liên hợp quốc còn
quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan của Liên hợp
quốc trong việc bảo vệ QCN. Khi thực hiện nhiệm vụ, chức năng của mình các
cơ quan này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Như vậy, cơ chế quốc tế đảm bảo
QCN chính là hoạt động bảo vệ QCN, do các cơ quan của Liên hợp quốc tiến
hành, trên cơ sở những quy định của luật quốc tế về QCN, nhằm bảo vệ QCN
khi có vi phạm và giám sát việc bảo vệ QCN theo các công ước Quốc tế.
1.1.5. Quyền con người được ghi nhận trong pháp luật quốc tế và
pháp luật của mỗi quốc gia
Những ý niệm về QCN đã được hình thành từ rất sớm trong lịch sử loài
người tuy nhiên ở những giai đoạn đầu thì QCN mới chỉ dừng lại ở những
khái niệm sơ khai và việc bảo vệ QCN mới chỉ là tự phát mà chưa theo một
16
trình tự nào. QCN chỉ được ghi nhận và trở thành một hệ thống các quyền
được ghi nhận trong các văn bản pháp lý mang tính Quốc tế và có Luật quốc
tế bảo vệ kể từ sau chiến tranh thế giới lần II. Đặc biệt là sau khi Liên hợp
quốc ra đời vào ngày 24/10/1945 và bản Tuyên ngôn nhân quyền được Đại
hội đồng Liên hợp quốc thông qua vào ngày 10/12/1948, thì QCN đã được
khẳng định trên nhiều phương diện khác nhau. Đến nay QCN đã được ghi
nhận trong luật pháp Quốc tế thông qua các công ước, các điều ước quốc tế và
các cơ chế để đảm bảo và thúc đẩy QCN cũng được luật pháp quốc tế quan
tâm, thúc đẩy. Ngoài việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về QCN và đảm bảo
QCN thì luật Quốc tế còn thành lập các cơ quan, tổ chức bảo vệ QCN, mỗi cơ
quan có một lĩnh vực hoạt động riêng nhằm đảm bảo quyền cho một giới, một
lứa tuổi hoặc một lĩnh vực nhất định, ví dụ: cơ quan về quyền trẻ em, cơ quan
về quyền bình đẳng giới…. Đối với pháp luật của mỗi quốc gia thì các QCN,
QCD thường là một phần không thể thiếu trong các bản Hiến pháp. Điển hình
là Bộ luật về Quyền của Mỹ (Bill of Rights - năm 1791), đây là một phần
trong bản Hiến pháp đầu tiên của Mỹ; Bộ luật về Quyền của Anh (Bill of
Rights - năm 1689) là nguồn của Hiến pháp Anh; Tuyên ngôn Nhân quyền và
Dân quyền năm 1789 của Pháp là một phần của Hiến pháp Pháp. Các bản
Hiến pháp này chủ yếu quy định các quyền về Dân sự và Chính trị. Ngày nay,
các bản Hiến pháp hiện đại đã mở rộng phạm vi các QCN, nó không chỉ mở
rộng các QCN về Dân sự và Chính trị mà nó còn ghi nhận thêm các quyền về
Kinh tế, Văn hóa, Xã hội và các quyền đặc thù đối với từng đối tượng khác
nhau như: Trẻ em, phụ nữ, người khuyết tật,…
1.2. Vị trí, vai trò, các tiêu chí Quốc tế về Quyền con người và bảo
vệ Quyền con người trong hoạt động xét xử của Tòa án
1.2.1. Vị trí, vai trò của Tòa án trong Nhà nước pháp quyền
1.2.1.1. Vị trí của Tòa án trong Nhà nước pháp quyền
NNPQ là kiểu Nhà nước mà ở đó quyền lực Nhà nước không tập trung
17
vào một người hoặc một cơ quan mà quyền lực Nhà nước được phân chia và
được giao cho những cơ quan nhất định nhằm mục đích kiềm chế, kiểm soát
và đối trọng nhau trong quá trình thực hiện quyền lực Nhà nước. Trong lịch
sử đã có nhiều học thuyết phân quyền ra đời gắn liền với tên tuổi nhiều nhà
triết học nổi tiếng và với nhiều cách phân chia quyền lực nhà nước khác nhau.
Tuy nhiên, thuyết tam quyền phân lập của học giả Mông - te - ski- ơ (1689 -
1775) được xem là học thuyết mẫu mực của tư tưởng phân quyền. Nó đã được
áp dụng vào thể chế Nhà nước ở đa số các quốc gia trên thế giới, trong đó nhà
nước Hoa Kỳ được coi là mẫu hình tiêu biểu của thuyết tam quyền phân lập.
Nội dung thuyết tam quyền phân lập đã đưa ra những luận điểm cơ bản sau:
- Trong mỗi nhà nước bao giờ cũng có ba thứ quyền lực: Quyền Lập
pháp, quyền Hành pháp và quyền Tư pháp;
- Mục đích của sự phân chia quyền lực là để chống lại chế độ độc
quyền, sự lạm quyền, hạn chế quyền tự do của công dân;
- Mỗi nhánh quyền lực được giao cho một cơ quan Nhà nước đảm
nhiệm: Quyền Lập pháp được giao cho cơ quan dân cử - Nghị viện (Quốc hội);
Quyền Hành pháp được giao cho một cá nhân đại diện là tổng thống hoặc một
cơ quan là Chính phủ, tùy thuộc vào thể chế chính trị của từng quốc gia; Quyền
Tư pháp được trao cho Tòa án;
- Các quyền Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp độc lập, kiềm chế và đối
trọng lẫn nhau;
- Mặc dù quyền lực Nhà nước được phân chia rõ ràng và được giao cho
những cơ quan cụ thể, nhưng quyền lực Nhà nước vẫn là thống nhất trong
một chính thể.
Trong NNPQ, quyền Tư pháp tuy là một nhánh quyền lực độc lập,
nhưng có mối quan hệ mật thiết với quyền Lập pháp và quyền Hành pháp
trong một chỉnh thể thống nhất. Nếu quyền Lập pháp là ban hành các văn bản
18
pháp luật, quyền Hành pháp là tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật do cơ
quan Lập pháp ban hành, thì quyền Tư pháp là phát hiện và xử lý những hành
vi trái với các quy định trong các văn bản do cơ quan Lập pháp ban hành. Khi
nói đến quyền Tư pháp trong NNPQ là nói đến quyền xét xử đối với các hành
vi phạm tội và quyền phán xử đối với các tranh chấp trong xã hội. Như vậy
trong NNPQ, Tòa án có vị trí đặc biệt so với các cơ quan Nhà nước nói chung
và các cơ quan Tư pháp khác nói riêng. Vị trí của Tòa án trong NNPQ thể
hiện qua những khía cạnh sau:
Thứ nhất, Tòa án nhân danh Nhà nước, căn cứ vào các quy định của
pháp luật để giải quyết các tranh chấp trong xã hội, các tranh chấp đó có thể là
tranh chấp giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với cơ quan, tổ chức, giữa
cá nhân với Nhà nước.
Thứ hai, Tòa án thực hiện chức năng kiểm tra tính đúng đắn trong hoạt
động của cơ quan Nhà nước, cá nhân, từ đó đảm bảo QCD, QCN. Góp phần
bảo đảm trật tự xã hội.
Vị trí của Tòa án trong NNPQ được thể hiện thông qua mối quan hệ
giữa Tòa án với cơ quan giữ quyền Lập pháp và cơ quan giữ quyền Hành
pháp và các cơ quan Tư pháp khác.
Mối quan hệ giữa Tòa án với cơ quan Lập pháp - Quốc hội thể hiện ở
chỗ Quốc hội có thẩm quyền ban hành các loại văn bản pháp luật trong đó
có cả những văn bản pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động của Tòa
án, các nguyên tắc tố tụng của Tòa án. Đồng thời Quốc hội có thẩm quyền
bãi bỏ các văn bản áp dụng pháp luật của Tòa án trái với Hiến pháp và pháp
luật. Quốc hội có quyền bầu và bãi nhiệm đối với chức danh Chánh án Tòa
án nhân dân tối cao. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao hàng năm phải báo
cáo công tác trước Quốc hội và trả lời chất vấn của Đại biểu Quốc hội.
Ngược lại trong quá trình xét xử vụ án, Tòa án phát hiện và kiến nghị với
19
các cơ quan có thẩm quyền xem xét, sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ văn bản
pháp luật trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc
hội để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức; cơ
quan có thẩm quyền có trách nhiệm trả lời Tòa án kết quả xử lý văn bản bị
kiến nghị theo quy định của pháp luật làm cơ sở để Tòa án giải quyết vụ án.
Tòa án cũng có quyền xét xử đối với những hành vi vi phạm pháp luật trong
hoạt động lập pháp
Mối quan hệ giữa Tòa án với cơ quan Hành pháp - Chính phủ: Chính
phủ là cơ quan tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật do cơ quan Lập pháp
ban hành bằng việc ban hành các văn bản dưới luật để hướng dẫn thi hành và
áp dụng pháp luật. Do vậy quyền Hành pháp và quyền Tư pháp mặc dù độc
lập và không phụ thuộc nhau, nhưng trong quá trình áp dụng luật, Tòa án vẫn
áp dụng các văn bản hướng dẫn thi hành của Chính phủ do đó Tòa án vẫn có
sự phụ thuộc nhất định vào Chính phủ. Ngược lại Tòa án cũng có quyền xét
xử đối với những hành vi phạm pháp luật trong quá trình thi hành pháp luật
của cơ quan Hành pháp.
Mối quan hệ giữa Tòa án với các cơ quan Tư pháp khác: trong hệ thống
các cơ quan Tư pháp, Tòa án có vị trí trung tâm. Thông qua hoạt động xét xử
Tòa án một mặt đánh giá tính đúng đắn của các hành vi pháp lý của cơ quan
Điều tra, cơ quan Viện kiểm sát. Mặt khác trên cơ sở hồ sơ, tài liệu, chứng cứ
do cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát xây dựng và các quy định của pháp luật để
xét xử vụ án. Tuy nhiên trong hoạt động của mình Tòa án vẫn phải chịu sự
giám sát của cơ quan Viện kiểm sát.
Mối quan hệ giữa Tòa án với cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa
phương: Tòa án hiện nay được tổ chức theo đơn vị hành chính và chịu sự
giám sát của cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương. Chánh án Tòa án
nhân dân các cấp ở địa phương phải chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước
Hội đồng nhân dân và chịu sự giám sát của Hội đồng nhân dân cùng cấp.
20
Như vậy, có thể khẳng định trong NNPQ, quyền Tư pháp mà trọng tâm
là quyền xét xử là một nhánh quyền lực độc lập. Do đó quyền Tư pháp vừa có
sự độc lập, vừa có sự phối hợp với các nhánh quyền lực khác tạo thành một
chỉnh thể thống nhất - Quyền lực Nhà nước. Như vậy khi nói đến NNPQ thì
không thể thiếu một trong các nhánh quyền lực trên.
1.2.1.2. Vai trò của Tòa án trong Nhà nước pháp quyền
- Nhân danh Nhà nước xét xử các hành vi vi phạm pháp luật và giải
quyết các tranh chấp trong xã hội: Trong NNPQ, Tòa án là cơ quan duy nhất
có chức năng xét xử, Tòa án có quyền kết tội và áp dụng hình phạt đối với
một con người. Điều đó được thể hiện rõ thông qua “Nguyên tắc suy đoán vô
tội” - trong đó đã khẳng định rõ “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình
phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Khi
thực hiện chức năng xét xử, Tòa án nhân danh Nhà nước để ra các phán
quyết, do đó hoạt động xét xử của Tòa án mang tính quyền lực Nhà nước và
được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. Mặt khác,
Hoạt động xét xử của Tòa án cũng chính là việc áp dụng pháp luật kể cả pháp
luật nội dung và pháp luật Tố tụng để giải quyết các vụ việc. Mà pháp luật do
Nhà nước ban hành, do đó Tòa án không chỉ nhân danh Nhà nước đưa ra các
phán quyết để giải quyết vụ án mà còn là cơ quan áp dụng pháp luật, đưa các
quy định của pháp luật vào giải quyết các vụ việc.
- Tòa án có vai trò bảo vệ pháp luật, bảo đảm công lý và công bằng xã
hội: Pháp luật trong NNPQ là hệ thống những chuẩn mực để đánh giá hành vi
của con người có phù hợp hay không phù hợp với yêu cầu của xã hội. Đồng
thời pháp luật còn là hệ thống những giá trị cao đẹp của xã hội dân chủ, nó
mang trong mình những nguyện vọng, quyền và lợi ích của mọi tầng lớp nhân
dân trong xã hội. Do đó, bảo vệ pháp luật trong NNPQ chính là bảo vệ những
giá trị công bằng, bình đẳng và dân chủ xã hội. Vai trò bảo vệ pháp luật của
Tòa án được thể hiện ở các khía cạnh sau:
21
Tòa án áp dụng pháp luật: Khi thực hiện chức năng xét xử, Tòa án phải
căn cứ vào các quy định của pháp kể cả về pháp luật nội dung và pháp luật Tố
tụng để đưa ra các phán quyết. Như vậy để giải quyết một vụ việc cụ thể Tòa
án không thể tự mình đưa ra các phán quyết mà để đưa ra được các phán
quyết Tòa án phải căn cứ vào các quy định của pháp luật và phải theo những
trình tự, thủ tục nhất định thì những phán quyết đó mới có giá trị và có thể thi
hành trên thực tế. Do đó việc áp dụng pháp luật của Tòa án vừa là một nhiệm
vụ vừa là một đòi hỏi khách quan.
Tòa án tuân thủ pháp luật: Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ
sở Hiến pháp và pháp luật, Tòa án là một bộ phận cấu thành bộ máy Nhà
nước do đó chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án cũng được quy định
trong Hiến pháp và pháp luật. Vì vậy, Tòa án phải tuân thủ Hiến pháp và pháp
luật về tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án. Mặt khác trong quá trình
thực hiện chức năng xét xử, Tòa án cũng phải tuân thủ những trình tự, thủ tục
do pháp luật quy định.
- Tòa án bảo vệ QCD, QCN: QCD, QCN là những giá trị cao quý nhất
được thừa nhận chung của nền văn minh nhân loại. Trong lịch sử loài người
đã có rất nhiều các cuộc đấu tranh chống lại chế độ bất công, tàn bạo để bảo
vệ các QCD, QCN. Ngày nay, trong xã hội hiện đại thì các QCD, QCN ngày
càng được đề cao và việc bảo vệ các QCD, QCN là nhiệm vụ của các cơ quan
Nhà nước, các tổ chức và cá nhân. Trong lĩnh vực Tố tụng hình sự các QCD,
QCN được bảo vệ bởi các cơ quan bảo vệ pháp luật trong đó có Tòa án. Tòa
án không chỉ bảo vệ QCD, QCN đối với người bị hại, người tham gia tố tụng
khác mà ngày cả đối với bị can, bị cáo là người bị tình nghi đã thực hiện hành
vi phạm tội thì Tòa án cũng phải bảo vệ QCN của họ, bởi họ cũng là một con
người, một thực thể xã hội.
- Tòa án đảm bảo an ninh, an toàn xã hội: Thông qua hoạt động xét xử,
22
Tòa án trừng trị những người có hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm các
quan hệ xã hội do pháp luật bảo vệ, xâm phạm quyền, lợi ích của công dân và
cũng thông qua hoạt động xét xử, Tòa án tuyên truyền, giáo dục pháp luật. Từ
đó góp phần vào công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, đảm bảo an
ninh, an toàn xã hội.
1.2.2. Khái niệm, nội dung vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ
Quyền con người
1.2.2.1. Khái niệm vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ Quyền con người
Khái niệm vai trò bảo vệ QCN của Tòa án được thể hiện trên những
phương diện sau:
- Bảo vệ QCN là một nhiệm vụ của Tòa án: Tòa án với chức năng là cơ
quan xét xử của Nhà nước có quyền tuyên bố một người là có tội hay không
có tội. Vì thế hoạt động của Tòa án có liên quan trực tiếp đến sinh mệnh,
quyền tự do của con người. Do đó bảo vệ QCN phải được coi là một trong
những nhiệm vụ của Tòa án. Tòa án với chức năng xét xử một mặt nhằm
trừng trị kẻ phạm tội, giáo dục, cải tạo họ trở thành những người có ích cho xã
hội. Mặt khác hoạt động xét xử của Tòa án còn góp phần ngăn chặn, phòng
ngừa tội phạm và những hành vi xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, qua đó bảo vệ chế độ xã hội và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ
tài sản của Nhà nước, của tập thể và đảm bảo an toàn cho tính mạng, sức
khỏe, tài sản và các quyền tự do khác của công dân, bảo đảm QCN. Trong
hoạt động xét xử của mình Tòa án không chỉ bảo vệ QCN đối với người bị
hại, người tham gia tố tụng khác mà ngay cả đối với bị cáo Tòa án cũng phải
có trách nhiệm bảo vệ QCN đối với họ. Bị cáo mặc dù là người đã thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội, là người phạm tội và phải chịu hình phạt,
nhưng Tòa án vẫn phải đảm bảo QCN đối với chính họ bởi lẽ họ cũng là một
con người - một thành viên trong xã hội. Tòa án bảo vệ các quyền của họ
23
thông qua việc bảo đảm các quyền tố tụng của họ, ví dụ: Quyền được tự mình
bào chữa hay nhờ luật sư bào chữa, quyền được tranh tụng, quyền được suy
đoán vô tội và quyền được nhận các quyết định của Tòa án như: quyền được
nhận Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Bản án và quyền được kháng cáo bản
án, quyết định của Tòa án…, chính vì vậy có thể nói rằng Tòa án càng đảm
bảo tốt các quyền trên thì nhiệm vụ bảo vệ QCN của Tòa án càng đạt hiệu quả
cao và ngược lại nếu Tòa án không đảm bảo thực hiện tốt các quyền trên thì
không những nhiệm vụ bảo vệ QCN của Tòa án không đạt hiệu quả, mà
ngược lại đã xâm phạm nghiêm trọng đến QCN.
- Tòa án bảo vệ quyền con người thông qua hoạt động xét xử: Chức
năng của Tòa án là xét xử các vụ án Hình sự, Dân sự, Hành chính, Lao động,
Kinh doanh Thương mại, do đó Tòa án bảo vệ QCN chủ yếu thông qua hoạt
động xét xử các vụ án đặc biệt là các vụ án hình sự. Chính vì vậy hoạt động
xét xử của Tòa án có đúng đắn hay không đúng đắn có ảnh hưởng trực tiếp
đến quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi người, từ đó xác định QCN có được
đảm bảo không?. Tức là trong hoạt động xét xử một vụ án, nếu Tòa án xét xử
công bằng, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật thì quyền và
lợi ích hợp pháp của bị cáo, người bị hại và những người tham gia tố tụng
khác được bảo đảm và từ đó bảo vệ được QCN. Ngược lại nếu Tòa án xét xử
oan sai hoặc quyết định hình phạt không tương xứng với hành vi… thì quyền
và lợi ích hợp pháp của bị cáo, người bị hại và những người tham gia tố tụng
không được bảo đảm, từ đó đã xâm phạm đến quyền của mỗi cá nhân hay nói
khác là QCN không được bảo đảm. Do vậy để bảo vệ được QCN trong quá
trình xét xử các vụ án hình sự được tốt yêu cầu đặt ra đối với hoạt động xét xử
của Tòa án là: Tuyệt đối tuân thủ các quy định của luật nội dung và luật tố
tụng; xét xử đúng pháp luật của Nhà nước; đảm bảo sự công bằng, bình đẳng
của mọi công dân khi tham gia tố tụng, ra bản án đúng người, đúng tội, thấu
24
tình, đạt lý. Mặt khác, QCN còn được đảm bảo thông qua hành vi tố tụng của
người tiến hành tố tụng, mỗi hành vi tố tụng của người tiến hành tố tụng khi
xét xử các vụ án đều ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo,
người bị hại và những người tham gia tố tụng khác. Do đó để đảm bảo tốt
QCN trong hoạt động xét xử của Tòa án cũng đòi hỏi mọi hành vi tố tụng của
người tiến hành tố tụng phải tuyệt đối tuân thủ các quy định của pháp luật tố
tụng và pháp luật nội dung.
- Vai trò bảo vệ QCN của Tòa án nhằm đảm bảo công lý, công bằng xã
hội: Công lý, công bằng xã hội được hiểu là mọi hành vi vi phạm pháp luật,
xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tập thể, cá nhân đều phải
gánh chịu hậu quả tùy thuộc vào mức độ vi phạm. Công lý, công bằng xã hội
còn được hiểu là mọi hành vi vi phạm pháp luật đều phải được phát hiện và
xử lý. Xét về bản chất thì hoạt động xét xử của Tòa án chính là việc buộc một
người đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp
pháp của Nhà nước, tập thể, cá nhân phải chịu hậu quả bất lợi tương ứng với
mức độ nguy hiểm của hành vi đã thực hiện, hành vi càng nguy hiểm thì hình
phạt càng nặng. Tuy nhiên Tòa án cũng không thể kết tội và áp dụng hình
phạt đối với một người một cách tùy tiện mà việc kết tội và áp dụng hình phạt
đó phải theo một trình tự nhất định và phải tuân thủ chặt chẽ các quy định của
pháp luật. Hoạt động xét xử của Tòa án một mặt trừng trị đối với người phạm
tội và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại và những người tham
gia tố tụng khác. Mặt khác, hoạt động xét xử của Tòa án cũng nhằm bảo vệ
chính bản thân người phạm tội. Bởi lẽ, dù là bị cáo - người phạm tội, nhưng
bản thân họ cũng là một con người và họ cũng có những QCN nhất định, cho
nên trong hoạt động xét xử của Tòa án cũng cần bảo vệ những QCN của họ.
Chẳng hạn đối với người phạm tội thì Tòa án phải đảm bảo quyền có người
bào chữa cho họ, hay các bị cáo đều phải được xét xử công bằng mà không
25
phân biệt tôn giáo, giới tính, trình độ học vấn,…. Tóm lại, hoạt động xét xử
của Tòa án nhằm bảo vệ công lý, công bằng xã hội thể hiện ở chỗ mọi hành vi
vi phạm pháp luật đều phải bị trừng trị tùy theo mức độ vi phạm. Không có
hành vi vi phạm pháp luật nào không bị trừng phạt. Thông qua đó bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đảm bảo QCN, đảm bảo công lý,
công bằng xã hội.
1.2.2.2. Nội dung vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người
- Tòa án xét xử và áp dụng hình phạt đối với những chủ thể xâm hại
đến QCN, khôi phục quyền và lợi ích của chủ thể bị xâm hại: Tòa án là cơ
quan duy nhất có chức năng xét xử, có quyền được kết tội và áp dụng hình
phạt đối với một người. Khi tội phạm xảy ra xâm phạm đến quyền và lợi ích
hợp pháp của con người thì các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền phải
có trách nhiệm phát hiện, ngăn chặn, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật,
đồng thời phải áp dụng chế tài thích đáng, phù hợp với quy định của pháp luật
trừng trị người phạm tội. Việc trừng trị người phạm tội của các cơ quan tiến
hành tố tụng đã góp phần bảo vệ QCN. Đấu tranh chống và phòng ngừa tội
phạm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân khỏi sự xâm hại của
hành vi phạm tội là một trong những chức năng của Nhà nước và trách nhiệm
quan trọng của các cơ quan tiến hành tố tụng trong đó có Tòa án. Tòa án
không những xét xử và áp dụng hình phạt đối với những chủ thể xâm hại đến
quyền con người mà còn khôi phục những thiệt hại do hành vi phạm tội gây
ra. Hành vi phạm tội xảy ra bao giờ cũng xâm phạm và gây thiệt hại đối với
một hoặc một số quyền lợi nhất định của một chủ thể nhất định. Hoạt động
xét xử của Tòa án không chỉ đưa ra các chế tài, hậu quả pháp lý bất lợi đối với
người đã thực hiện hành vi phạm tội mà còn khôi phục quyền và lợi ích của
các chủ thể đã bị hành vi phạm tội xâm phạm.
- Trong hoạt động xét xử Tòa án phát hiện việc xâm phạm QCN từ các
26
cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan hành chính khác: QCD, QCN
không chỉ bị xâm hại từ các thành viên khác trong xã hội, mà nó còn có thể
bị xâm hại từ phía các cơ quan Nhà nước, các cán bộ Nhà nước trong khi thi
hành công vụ và việc xâm hại từ phía các cơ quan Nhà nước, cán bộ Nhà
nước là phổ biến và hậu quả của nó cũng rất nghiêm trọng. Bởi lẽ, trong
quan hệ với Nhà nước công dân luôn là đối tượng bị “quản lý” của Nhà
nước, do đó quyền và lợi ích hợp pháp của họ dễ có nguy cơ bị xâm hại. Đặc
biệt trong quá trình Tố tụng các cơ quan tiến hành tố tụng gồm có: Cơ quan
Điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và cơ quan Thi hành án có vai trò phát hiện
và xử lý những hành vi phạm tội. Tuy nhiên trên thực tế, việc xâm phạm
QCN trong lĩnh vực Tố tụng hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng lại
tương đối phổ biến. Bởi lẽ các phán quyết của các cơ quan tiến hành tố tụng
đều trực tiếp động chạm đến quyền, lợi ích của công dân, hơn nữa trong
quan hệ với các cơ quan này với tư cách là người bị quản lý và chịu sự phán
quyết, công dân luôn ở vào vị trí bất lợi hơn. Nguyên nhân của những sự
xâm phạm này chủ yếu là do thiếu cơ chế kiểm soát hữu hiệu dẫn đến sự lạm
quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng từ đó xâm phạm đến các QCN. Do
đó cần có một cơ chế nhằm hạn chế sự lạm quyền của các cơ quan tiến hành
tố tụng, người tiến hành tố tụng. Một cơ chế hữu hiệu nhằm hạn chế sự lạm
quyền đó chính là thông qua hoạt động xét xử của Tòa án. Bởi lẽ thông qua
hoạt động xét xử của Tòa án, Tòa án kiểm tra tính đúng đắn trong hoạt động
của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Kiểm tra tính
hợp pháp của các tài liệu, chứng cứ do cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát thu
thập. Đồng thời kiểm tra tính đúng đắn trong hành vi tố tụng của những
người tiến hành tố tụng. Từ đó phát hiện việc vi phạm thủ tục tố tụng, xâm
phạm quyền con người của các cơ quan tiến hành tố tụng.
- Trong quá trình tiến hành tố tụng, Tòa án có trách nhiệm tôn trọng
27
QCN: Khi tham gia vào các hoạt động Tố tụng hình sự, dù với tư cách là
người bị buộc tội hay là người bị hại, người tham gia tố tụng trong các vụ án
hình sự thì họ vẫn được pháp luật bảo vệ và tôn trọng những quyền cơ bản
thiết thân của con người. Trong lĩnh vực Tố tụng hình sự, các QCD, QCN
được bảo vệ bởi Tòa án, điều đó thể hiện ở chỗ khi thực hiện chức năng của
mình Tòa án không những chỉ bảo vệ những quan hệ xã hội được pháp luật
bảo vệ, từ đó bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, mà ngay cả
đối với bị can, bị cáo mặc dù họ là những đối tượng bị hoặc có khả năng bị áp
dụng trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất là trách nhiệm hình sự nhưng
những quyền cơ bản, thiết thân nhất như: quyền được tôn trọng về nhân
phẩm, quyền được xét xử công bằng, quyền được bào chữa… vẫn phải được
tôn trọng, bảo đảm.
- Tòa án bảo vệ các quyền tự do và an toàn của cá nhân, cơ quan, tổ
chức: Điều đó thể hiện ở chỗ mọi hành vi xâm phạm đến các quyền tự do, an
toàn của cá nhân, cơ quan tổ chức đều phải được Tòa án xét xử bằng bản án
và phải chịu hậu quả pháp lý bất lợi đó là hình phạt tương ứng với tính chất
và mức độ của hành vi phạm tội.
1.2.3. Các tiêu chí quốc tế về Quyền con người và bảo vệ quyền con
người trong hoạt động xét xử của Tòa án
1.2.3.1. Các tiêu chí quốc tế về quyền con người
QCN nói chung và QCN trong tố tụng hình sự nói riêng được ghi nhận
trong các văn bản pháp luật là tiền đề để QCN được bảo đảm thực thi trong
đời sống. QCN được ghi nhận trong các văn bản pháp luật của Nhà nước tạo
thành hệ thống các qui phạm pháp luật một mặt, phản ánh nội dung các QCN
và thủ tục thực hiện các quyền đó, đồng thời cũng là cơ chế pháp lý bảo đảm
QCN trong hoạt động Tố tụng hình sự. Những QCN trong Tố tụng hình sự
được ghi nhận trong pháp luật quốc gia nhưng phải trên các tiêu chí về nhân
28
quyền được ghi nhận trong pháp luật quốc tế mà trọng tâm là các Bộ luật về
nhân quyền. Theo tiêu chí quốc tế thì những QCN trong Tố tụng hình sự được
thể hiện ở những tiêu chí sau:
Thứ nhất, quyền an toàn thân thể, danh dự, nhân phẩm của cá nhân
trong Tố tụng hình sự
Đây là quyền đối với những người bị tình nghi phạm tội bị áp dụng
những biện pháp ngăn chặn như: bắt, tạm giữ, tạm giam; người bị kết án
phải chấp hành hình phạt tù trong các trại cải tạo và còn được mở rộng đến
những đối tượng bị tạm giữ hành chính. Mặc dù là những người này ít nhiều
đã gây nguy hại cho xã hội hoặc bị tình nghi có hành vi gây nguy hại cho xã
hội và hạn chế tự do nhưng quyền của họ vẫn được ghi nhận và bảo đảm thi
hành bằng biện pháp pháp luật. Quyền của những người này chiếm một vị trí
quan trọng trong luật Nhân quyền Quốc tế và luật Nhân quyền quốc gia. Các
quyền cơ bản của người bị tước tự do được bảo vệ tại Tuyên ngôn quốc tế
nhân quyền (1948), Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị
(1966) (ICCPR) và nhiều văn kiện khác như “Tập hợp các nguyên tắc bảo vệ
tất cả những người bị giam hay cầm tù dưới bất kỳ hình thức nào” được Đại
hội đồng Liên hợp quốc thông qua bằng Nghị quyết 43/173 ngày 9/12/1988
(bao gồm 39 nguyên tắc cụ thể); “Các quy tắc của Liên hợp quốc về bảo vệ
người chưa thành niên bị tước tự do” được Đại hội đồng Liên hợp quốc
thông qua bằng Nghị quyết 45/113 ngày 14/12/1990... Về cơ bản, những
người bị tước tự do được bảo đảm các quyền sau đây: Quyền được bảo vệ
không bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục;
Quyền được bảo vệ để khỏi bị bắt, giam giữ tùy tiện; Quyền được đối xử
nhân đạo và tôn trọng nhân phẩm của những người bị tước tự do; Quyền
thông tin, liên lạc với bên ngoài; Quyền có cơ chế khiếu nại, tố cáo hữu
hiệu; Quyền đối với người chưa thành niên.
29
Thứ hai, quyền được xét xử công bằng
“Quyền được xét xử công bằng” là một quyền cơ bản và có tính phổ
quát cao, tồn tại trong cả các vụ án hình sự và phi hình sự. Pháp luật nhiều
quốc gia quy định quyền này với quan niệm rằng nó là quyền thiết yếu trong
mọi quốc gia pháp trị. Việc đối xử với một người khi họ bị buộc tội phản ánh
rõ nhà nước tôn trọng nhân quyền đến mức nào, bởi vậy, quyền được xét xử
công bằng đã được coi là một cơ bản và đặc thù của các xã hội dân chủ.
Giống như đặc tính của mọi nhân quyền là phụ thuộc lẫn nhau, quyền được
xét xử công bằng với các quyền khác có mối quan hệ hai chiều. Một phiên toà
công bằng là yếu tố thiết yếu để bảo đảm các quyền cơ bản khác của con
người như quyền sống, quyền được an toàn về thân thể, tự do ngôn luận...
Ngược lại, trong một xã hội không dân chủ, các quyền cơ bản của con người
không được tôn trọng thì khó có thể có chuyện mọi người đều được xét xử
công bằng. Quan hệ chặt chẽ giữa quyền được xét xử công bằng với pháp trị
và dân chủ cũng đã được khẳng định chính thức trong Tuyên ngôn Dakar về
quyền được xét xử công bằng tại châu Phi. Từ các văn bản pháp luật đã nêu
thì quyền được xét xử công bằng được hiểu như sau: Quyền được xét xử công
bằng là quyền cơ bản của người bị buộc tội trong vụ án hình sự và của các
bên trong vụ việc phi hình sự trước cơ quan tư pháp (công an, công tố và toà
án), được pháp luật quốc gia và quốc tế ghi nhận và bảo vệ, bao gồm nhiều
quyền cụ thể (như được bảo đảm quyền bào chữa, được xét xử nhanh chóng,
công khai bởi toà án độc lập, không thiên vị...) nhằm bảo đảm cho việc xét xử
được công bằng, cũng như các quyền và lợi ích hợp pháp của mọi cá nhân.
Quyền được xét xử công bằng bao gồm những quyền cụ thể sau: Quyền
bình đẳng trước tòa án và được xét xử bởi tòa án độc lập, không thiên vị, công
khai; Quyền bào chữa; Quyền được xét xử theo thủ tục riêng của người chưa
thành niên; Quyền kháng cáo; Quyền được bồi thường khi bị kết án oan;
30
Quyền không bị xét xử hai lần về cùng một tội danh; Không bị truy cứu hình
sự vì lý do không thực hiện được nghĩa vụ hợp đồng; Không bị coi là có tội
nếu hành vi không cấu thành tội phạm theo pháp luật vào thời điểm thực hiện
hành vi; Không áp dụng hồi tố cũng được nghiên cứu khi đề cập đến quyền
được xét xử công bằng.
1.2.3.2. Nội dung bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự
Bảo vệ QCN trong Tố tụng hình sự không chỉ đơn thuần là việc ghi
nhận các QCN trong pháp luật Tố tụng hình sự mà còn ở chỗ hiện thực nó
trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự, cũng như bảo đảm sự
giám sát có hiệu quả đối với QCN trong Tố tụng hình sự. Các quy định về
quyền tố tụng của các chủ thể tham gia Tố tụng hình sự tự thân chúng chưa
giải quyết được vấn đề bảo đảm các quyền, tự do của các chủ thể khi tham gia
vào hoạt động Tố tụng hình sự. Bảo đảm QCN trong Tố tụng hình sự chính là
cách thức nhằm làm cho các quyền Tố tụng hình sự của các chủ thể tham gia
hoạt động Tố tụng hình sự được thực thi trong thực tiễn. Đó chính là cơ chế
bảo đảm QCN trong Tố tụng hình sự, được xác định là hệ thống các biện
pháp, cách thức pháp lý nhằm bảo vệ QCN và làm cho việc thực thi các quyền
đó trong thực tiễn giải quyết vụ án hình sự. Mặt khác, hệ thống pháp luật Tố
tụng hình sự được xây dựng trên cơ sở các tiêu chí Quốc tế về QCN. Một
trong các yêu cầu của Luật Quốc tế về Nhân quyền là các quốc gia thành viên
của Công ước phải nội luật hóa các tiêu chí Quốc tế về Nhân quyền. Do đó,
Luật Tố tụng hình sự của mỗi quốc gia cần đưa ra các quy định phù hợp với
Công ước Quốc tế về QCN. Vì vậy, nội dung bảo đảm quyền con người trong
Tố tụng hình sự được thể hiện qua các nội dung sau:
- Mục đích của Tố tụng hình sự: Bảo đảm QCN cần được xác định là
một trong các mục đích của Tố tụng hình sự. Trong Tố tụng hình sự việc phát
hiện, làm rõ tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội
31
bảo đảm cho công lý được thực thi thường được các Bộ luật Tố tụng hình sự
coi là mục đích quan trọng có tính chất hàng đầu. Quan niệm này không sai,
nhưng không được coi đó là mục đích duy nhất, mà bên cạnh đó Tố tụng hình
sự còn phải có mục đích tôn trọng bảo đảm QCN, hướng hoạt động của các cơ
quan tiến hành tố tụng trong khi chứng minh tội phạm, giải quyết vụ án còn
có trách nhiệm bảo vệ QCN. Chỉ có như vậy, tinh thần của Công ước quốc tế
về QCN mới được thể hiện đầy đủ trong luật Tố tụng hình sự.
- Các nguyên tắc cơ bản của Tố tụng hình sự: Nguyên tắc cơ bản của
Luật Tố tụng hình sự là phương châm, định hướng cốt lõi cho hoạt động tố
tụng hình sự nên nó phản ánh quy luật khách quan, đồng thời thể hiện đầy
đủ nhất chính sách Tố tụng hình sự đối với việc giải quyết vụ án hình sự.
Với quan niệm này thì các nguyên tắc cơ bản của luật Tố tụng hình sự chi
phối không những đến quá trình xây dựng pháp luật Tố tụng hình sự mà còn
chi phối toàn bộ hoạt động tố tụng của các chủ thể quan hệ Tố tụng hình sự.
Vì vậy, việc tôn trọng và bảo đảm QCN được ghi nhận trong mục đích của
Tố tụng hình sự phải được thể hiện ở các nguyên tắc cơ bản của Luật Tố
tụng hình sự. Theo đó, trong Bộ luật tố tụng hình sự cần phải có những
nguyên tắc sau: Nguyên tắc bảo đảm tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân
phẩm con người trong Tố tụng hình sự; Nguyên tắc bảo đảm quyền bình
đằng trong Tố tụng hình sự; Nguyên tắc được xét xử trong thời hạn nhanh
nhất nếu có thể của người bị nghi là phạm tội bằng một tòa án; Nguyên tắc
xét xử công bằng; Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành
tố tụng; Nguyên tắc tranh tụng; Nguyên tắc suy đoán vô tội; Nguyên tắc
được quyền khiếu nại, tố cáo đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng; Nguyên tắc được bồi thường của những người
bị oan trong Tố tụng hình sự…
32
Chương 2
VAI TRÒ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI CỦA TÒA ÁN
TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
2.1. Vai trò bảo vệ Quyền con người của Tòa án trong pháp luật Tố
tụng hình sự Việt Nam giai đoạn trước năm 1945
Trong giai đoạn này do đặc điểm chính trị, xã hội nước ta vẫn là một
Nhà nước Phong kiến nửa thuộc địa nên luật Tố tụng hình sự chưa phát triển
với tư cách là một ngành luật độc lập, mà các quy định của luật Tố tụng hình
sự được ban hành lẫn vào các quy định của luật Hình sự, Tố tụng Dân sự, Dân
sự, luật Đất đai, Hôn nhân và gia đình… Đến thời kỳ Pháp thuộc, với chính
sách chia để trị, thực dân Pháp đã chia nước ta thành ba miền với ba chế độ
pháp luật khác nhau. Ở Nam Bộ được coi là thuộc địa nên thực dân Pháp áp
dụng Luật tố Tụng hình sự của Pháp. Ở Bắc Bộ và Trung Bộ là sứ được bảo
hộ, nên trong thời kỳ đầu tiếp tục áp dụng luật lệ của Nhà nước Phong kiến,
sau đó được thay thế bằng Bộ luật Tố tụng hình sự Trung kỳ vào năm 1921 và
Bộ luật Tố tụng hình sự Bắc kỳ năm 1935.
Hệ thống Tòa án ở mỗi kỳ đều có ba cấp: Tòa án sơ thẩm, Tòa án đệ
nhị cấp và Tòa án thượng thẩm; Tòa án Pháp để xét xử người Pháp và người
ngoại quốc phạm tội.
Trong giai đoạn này pháp luật nói chung và pháp luật Tố tụng hình sự
nói riêng vẫn còn mang đậm bản chất pháp luật Phong kiến: Pháp luật thể
hiện ý chí của giai cấp địa chủ Phong kiến, pháp luật Phong kiến là công cụ
chuyên chính của giai cấp địa chủ Phong kiến. Nó ghi nhận sự bất bình đẳng
giữa các đẳng cấp khác nhau trong xã hội. Nó bảo vệ các hình thức áp bức,
bóc lột của địa chủ Phong kiến đối với nông dân và những người lao động
khác. Có thể nói, pháp luật Phong kiến nói chung và pháp luật Tố tụng hình
33
sự thời kỳ Phong kiến nói riêng chính là công cụ bảo đảm sự thống trị về
Kinh tế, Chính trị và tinh thần của giai cấp địa chủ, Phong kiến trong xã hội.
Về bản chất, tất cả các luật pháp đó chung quy chỉ nhằm mục đích duy nhất là
duy trì chính quyền của chúa phong kiến đối với nông nô. Với bản chất như
trên pháp luật Phong kiến có những đặc điểm như sau:
- Pháp luật phong kiến phân chia xã hội Phong kiến thành những đẳng
cấp khác nhau và quy định cho mỗi đẳng cấp những đặc quyền khác nhau.
Mỗi đẳng cấp, mỗi thứ bậc có địa vị xã hội khác nhau và có địa vị pháp lý
khác nhau. Pháp luật Phong kiến thừa nhận mỗi đẳng cấp có những đặc
quyền riêng. Đặc quyền của các đẳng cấp phụ thuộc vào chức tước, danh vị,
xuất thân…. Trong xã hội Phong kiến vua có toàn quyền như: quyền xét xử
nông dân, quyền đặt ra luật lệ, quyền thu thuế, quyền tịch thu tài sản của
nông dân. Thậm trí lãnh chúa còn có quyền định đoạt một cách tùy tiện đối
với thân thể của người nông dân và thân thể của cả vợ con họ nữa. Tính chất
đặc quyền của pháp luật Phong kiến còn thể hiện ở việc quy định sự trừng
phạt khác nhau căn cứ vào đẳng cấp, thứ bậc của người phạm tội và người bị
hại trong xã hội.
- Pháp luật Phong kiến dung túng việc sử dụng bạo lực và sự tùy tiện
của địa chủ Phong kiến đối với nông dân và những người lao động khác
trong xã hội.
- Pháp luật Phong kiến rất hà khắc, dã man: Mục đích hình phạt trong
pháp luật Phong kiến chủ yếu là gây đau đớn về thể xác và tinh thần cho con
người, làm nhục và hạ thấp con người. Trong pháp luật Phong kiến đã ghi
nhận và áp dụng rộng rãi các hình phạt hết sức dã man như: chắt đầu, treo cổ,
chôn sống, thiêu sống, ném vào vạc dầu…
- Pháp luật Phong kiến có nhiều quy định mang tính chất tôn giáo và
đạo đức Phong kiến.
34
Tuy bản chất của pháp luật Phong kiến là ý chí của giai cấp thống trị và
là công cụ để giai cấp thống trị duy trì và củng cố địa vị của mình. Nhưng nó
cũng mang tính xã hội tích cực, nó góp phần xóa bỏ chế độ chiếm hữu nô lệ,
xây dựng một xã hội mới phát triển hơn, tiến bộ hơn so với chế độ chiếm hữu
nô lệ. Mặc dù có những đóng góp tích cực như vậy nhưng Pháp luật Phong
kiến nói chung và pháp luật Tố tụng hình sự Phong kiến nói riêng vẫn còn có
những hạn chế rất lớn cụ thể: trong pháp luật Phong kiến hầu như không có
quy định nào đề cập tới việc bảo vệ quyền lợi của người nông dân và những
người lao động khác trong xã hội. Mặt khác trong thời kỳ nay hệ thống Tòa
án của nước ta vẫn còn mang đậm dấu ấn của chế độ Phong kiến và Đế quốc,
do đó Tòa án cũng là một công cụ để đảm bảo quyền thống trị của chế độ
Phong kiến, Đế quốc. Vì vậy, trong giai đoạn này vai trò bảo vệ QCN của Tòa
án chưa được thể hiện một cách rõ ràng.
2.2. Vai trò bảo vệ Quyền con người của Tòa án trong pháp luật Tố
tụng hình sự Việt Nam giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1988
Sau khi cách mạng tháng 8 thành công, bản Tuyên ngôn độc lập của
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khai sinh ra Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa,
sau đó là bản Hiến pháp năm 1946 - bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta. Việc
ra đời của bản Tuyên ngôn độc lập và bản Hiến pháp năm 1946 đã đánh dấu
mốc quan trọng thể hiện sự tiến bộ trong lịch sử lập pháp cũng như nội dung
pháp luật của nước ta. Bản tuyên ngôn độc lập bên cạnh việc khẳng định độc
lập, chủ quyền của nước ta còn ghi nhận các quyền cơ bản của con người như:
Quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc…. Các quyền đó tiếp tục
được khẳng định tại Hiến pháp năm 1946. Tuy nhiên trong thời kỳ đầu do
chính quyền Nhà nước còn non trẻ, lại phải đương đầu với nhiều thế lực phản
động trong và ngoài nước nên Nhà nước ta chưa kịp ban hành đầy đủ những
quy định trong lĩnh vực Tố tụng hình sự, mà chỉ ban hành được một số văn
35
bản pháp luật để đảm bảo trật tự xã hội lúc bấy giờ, ngoài ra Nhà nước cho
phép sử dụng tạm thời một số quy định của pháp luật chế độ cũ với điều kiện
là không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể Dân chủ
Công hòa. Pháp luật Tố tụng hình sự thời kỳ này không được ban hành dưới
hình thức luật hoặc bộ luật mà các quy định về Tố tụng hình sự được ban
hành dưới hình thức các sắc lệnh. Cụ thể: Ngay sau khi cách mạng tháng Tám
thành công chính quyền cách mạng đã ban hành sắc lệnh về việc thành lập
Tòa án quân sự vào ngày 13/9/1945 và Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946
quy định thành lập Tòa án thường với sự tham gia của phụ thẩm nhân dân.
Sau này sắc lệnh ngày 13/9/1945 được bổ sung bằng sắc lệnh số 21/SL ngày
14/02/1946 quy định về thẩm quyền của Tòa án quân sự trong đó đã quy định
“Tòa án quân sự có thẩm quyền xét xử các tội phạm phương hại đến độc lập
của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”. Tiếp theo đó hàng loạt các văn bản
pháp luật khác được ban hành như: Sắc lệnh số 40/SL ngày 29/3/1946 quy
định về quyền tự do thân thể; sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946 quy định về
nhiệm vụ của dự thẩm, biện lý, chánh án…; sắc lệnh 131/SL ngày 20/7/1946
quy định về trách nhiệm của Tư pháp Công an trong việc giải quyết vụ án;
Sắc lệnh 190/SL ngày 01/10/1946 quy định về thẩm quyền xét xử của Tòa án
nhân dân, sắc lệnh số 163/SL ngày 23/8/1946 quy định thẩm quyền xét xử của
Tòa án quân sự. Ngày 09/11/1946 Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã
thông qua Hiến pháp 1946 - bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta, trong đó có
quy định về hệ thống cơ quan tư pháp trong đó có Tòa án. Trong thời gian này
hệ thống Tòa án được chia thành ba cấp: Tòa án sơ cấp có thẩm phán làm cả
việc xét xử và công tố; Tòa án đệ nhị cấp có hai loại Thẩm phán: Thẩm phán
xét xử và Thẩm phán làm nhiệm vụ công tố dưới sự lãnh đạo của công tố
viên: Tòa án thượng thẩm có Thẩm phán xét xử, chưởng lý, biện lý, phó biện
lý. Đến năm 1950 theo sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 đã đổi tên các Tòa
36
án cho phù hợp theo đó: Tòa án sơ cấp được đổi tên thành Tòa án nhân dân
huyện, Tòa án đệ nhị cấp được đổi thành Tòa án nhân dân tỉnh, Hội đồng
phúc thẩm đổi thành Tòa án nhân dân phúc thẩm khu hoặc thành phố, Phụ
thẩm nhân dân được đổi thành Hội thẩm nhân dân và Hội thẩm nhân dân
ngang quyền với Thẩm phán.
Sau khi giải phóng miền Bắc, Nhà nước ta đã thông qua nhiều văn bản
pháp luật quan trọng như: Luật số 103/SL-L005 ngày 20/5/1957 quy định về
đảm bảo quyền tự do thân thể và bất khả xâm phạm về nhà ở, đồ vật, thư tín
của công dân; Sắc luật 002/SL ngày 18/6/1957 quy định các trường hợp phạm
tội quả tang và khẩn cấp. Năm 1958 Quốc hội đã quyết định thành lập Tòa án
nhân dân Tối cao và hệ thống các Tòa án địa phương; năm 1959 thành lập
Viện công tố Trung ương và Viện công tố các cấp. Trên cơ sở Hiến pháp
1959, Quốc hội đã ban hành Luật tổ chức Tòa án nhân dân và Luật tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân vào năm 1960 và sau Hiến pháp 1980 thì Quốc hội
ban hành Luật tổ chức Tòa án nhân dân và Luật tổ chức Viện kiểm sát vào
năm 1981 cho phù hợp với tình hình mới.
Tóm lại, trong thời kỳ này pháp luật nói chung và pháp luật Tố tụng
hình sự nói riêng này còn nhiều hạn chế kể cả về hình thức lẫn nội dung. Về
hình thức các văn bản pháp luật chủ yếu được ban hành dưới hình thức sắc
lệnh, sắc luật chưa được ban hành thành các luật, Bộ luật, vì vậy nên hiệu lực
pháp lý của các văn bản này thường không cao. Các quy định về Tố tụng hình
sự nằm rải rác ở nhiều các văn bản pháp luật khác nhau, đôi khi có sự chồng
chéo gây khó khăn cho việc áp dụng. Về nội dung pháp luật nói chung và
pháp luật Tố tụng hình sự nói riêng còn nhiều hạn chế, điều đó thể hiện pháp
luật thời kỳ này còn chịu ảnh hưởng nhiều của pháp luật chế độ cũ. Các quyền
về tố tụng của công dân chưa được quy định cụ thể, các trình tự, thủ tục tố
tụng cũng không được quy định chặt chẽ. Vấn đề QCD, QCN cũng như vấn
37
đề đảm bảo QCD, QCN chưa được đề cập nhiều trong pháp luật nói chung và
pháp luật Tố tụng hình sự nói riêng. Nguyên nhân của những hạn chế trên là
do hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ đất nước mới giành được độc lập, chính
quyền còn non trẻ, xong đất nước lại bị phân chia hai miền Nam, Bắc, với chế
độ chính trị và pháp luật khác nhau.
2.3. Vai trò bảo vệ Quyền con người của Tòa án trong pháp luật Tố
tụng hình sự Việt Nam theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988
Ngày 28/6/1988 Quốc hội đã thông qua Bộ luật Tố tụng hình sự và Bộ
luật này có hiệu lực từ ngày 01/01/1989. Đây là Bộ luật Tố tụng hình sự đầu
tiên của Việt Nam, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 được ban hành đánh
dấu một bước cải cách, đổi mới pháp luật Tố tụng hình sự nước ta theo hướng
dân chủ hóa Tố tụng hình sự, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của những
người tham gia tố tụng, tăng cường tính công khai, đưa ra và thực hiện
nguyên tắc suy đoán vô tội, khắc phục những định kiến theo hướng buộc tội,
bảo đảm sự độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của hội đồng xét xử. Quyền và
trách nhiệm của Viện kiểm sát được đề cao trong việc đấu tranh tội phạm.
Nâng cao trách nhiệm của các Điều tra viên, tăng cường các bảo đảm pháp
chế trong hoạt động Tố tụng hình sự. Vị trí, vai trò của người bào chữa ngày
càng được nâng cao trong hoạt động tố tụng theo hướng mở rộng quyền của
họ ở giai đoạn điều tra và các giai đoạn tố tụng khác. Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 1988 đã có nhiều quy định nhằm đảm bảo QCD, QCN đối với bị can, bị
cáo và những người tham gia tố tụng, cụ thể Bộ luật tố tụng năm 1988 đã ghi
nhận nhiều nguyên tắc tiến bộ nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của bị can, bị
cáo và những người tham gia tố tụng khác như nguyên tắc: Tôn trọng và bảo
vệ các quyền cơ bản của công dân, nguyên tắc đảm bảo quyền bình đẳng của
mọi công dân trước pháp luật, nguyên tắc đảm bảo quyền bình đẳng trước Tòa
án, nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa, nguyên tắc đảm bảo sự vô tư của
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT

More Related Content

What's hot

BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
 BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777... BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...OnTimeVitThu
 

What's hot (20)

Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng
 
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụngLuận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOTLuận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAYLuận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh tài sản, HOT
Biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh tài sản, HOTBiện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh tài sản, HOT
Biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh tài sản, HOT
 
Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 
Luận văn: Cơ quan Cảnh sát điều tra trong tố tụng hình sự
Luận văn: Cơ quan Cảnh sát điều tra trong tố tụng hình sự Luận văn: Cơ quan Cảnh sát điều tra trong tố tụng hình sự
Luận văn: Cơ quan Cảnh sát điều tra trong tố tụng hình sự
 
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
 BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777... BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
 
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng NaiLuận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
 
Luận văn: Hoạt động chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân
Luận văn: Hoạt động chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dânLuận văn: Hoạt động chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân
Luận văn: Hoạt động chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân
 
Luận văn: Hoàn thiện các quy định về quyền dân sự, HOT
Luận văn: Hoàn thiện các quy định về quyền dân sự, HOTLuận văn: Hoàn thiện các quy định về quyền dân sự, HOT
Luận văn: Hoàn thiện các quy định về quyền dân sự, HOT
 
Luận án: Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, HAY
Luận án: Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, HAYLuận án: Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, HAY
Luận án: Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đLuận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
 
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAYLuận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
Luận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nướcLuận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
Luận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
 
Đề tài: Biện pháp điều tra khám xét theo luật tố tụng hình sự
Đề tài: Biện pháp điều tra khám xét theo luật tố tụng hình sựĐề tài: Biện pháp điều tra khám xét theo luật tố tụng hình sự
Đề tài: Biện pháp điều tra khám xét theo luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAYLuận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
 
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho phạm nhân ở các trại giam, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho phạm nhân ở các trại giam, HOTLuận văn: Giáo dục pháp luật cho phạm nhân ở các trại giam, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho phạm nhân ở các trại giam, HOT
 

Similar to Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT

vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay
vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nayvai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay
vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nayhieu anh
 
vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay
vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nayvai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay
vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nayhieu anh
 
Vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam
Vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt NamVai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam
Vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Namhieu anh
 
Luận văn: Vai trò người bào chữa trong điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Vai trò người bào chữa trong điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn phí ...Luận văn: Vai trò người bào chữa trong điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Vai trò người bào chữa trong điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn phí ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

Similar to Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT (20)

Luận văn: Vấn đề về quyền xét xử công bằng ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề về quyền xét xử công bằng ở Việt Nam, HOTLuận văn: Vấn đề về quyền xét xử công bằng ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề về quyền xét xử công bằng ở Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Quyền con người trong hoạt động xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Quyền con người trong hoạt động xét xử sơ thẩm, HAYLuận văn: Quyền con người trong hoạt động xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Quyền con người trong hoạt động xét xử sơ thẩm, HAY
 
vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay
vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nayvai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay
vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay
 
Luận văn: Vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp, HAY
Luận văn: Vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp, HAYLuận văn: Vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp, HAY
Luận văn: Vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp, HAY
 
vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay
vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nayvai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay
vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay
 
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOTLuận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
 
Vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam
Vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt NamVai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam
Vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam
 
Quyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do
Quyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự doQuyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do
Quyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do
 
Bảo đảm quyền con người trong thực hành quyền công tố, HOT
Bảo đảm quyền con người trong thực hành quyền công tố, HOTBảo đảm quyền con người trong thực hành quyền công tố, HOT
Bảo đảm quyền con người trong thực hành quyền công tố, HOT
 
Đề tài: Vai trò của pháp luật trong bảo đảm quyền con người, HOT
Đề tài: Vai trò của pháp luật trong bảo đảm quyền con người, HOTĐề tài: Vai trò của pháp luật trong bảo đảm quyền con người, HOT
Đề tài: Vai trò của pháp luật trong bảo đảm quyền con người, HOT
 
Đề tài: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự, HAY
Đề tài: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự, HAYĐề tài: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự, HAY
Đề tài: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sựLuận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
 
Luận văn: Vai trò người bào chữa trong điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Vai trò người bào chữa trong điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn phí ...Luận văn: Vai trò người bào chữa trong điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Vai trò người bào chữa trong điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn phí ...
 
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOTLuận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOT
 
Bảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạt
Bảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạtBảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạt
Bảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạt
 
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyềnCung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
 
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOTQuyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
 
Vai trò của Quốc hội về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, HAY
Vai trò của Quốc hội về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, HAYVai trò của Quốc hội về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, HAY
Vai trò của Quốc hội về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, HAY
 
Luận văn: Vai trò của Quốc hội trong bảo vệ quyền con người, HAY
Luận văn: Vai trò của Quốc hội trong bảo vệ quyền con người, HAYLuận văn: Vai trò của Quốc hội trong bảo vệ quyền con người, HAY
Luận văn: Vai trò của Quốc hội trong bảo vệ quyền con người, HAY
 
Vai trò của Quốc hội trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người
Vai trò của Quốc hội trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con ngườiVai trò của Quốc hội trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người
Vai trò của Quốc hội trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxAnAn97022
 

Recently uploaded (20)

Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
 

Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NHIẾP THỊ LIÊN Toµ ¸n víi vai trß b¶o vÖ quyÒn con ng-êi th«ng qua ho¹t ®éng xÐt xö c¸c vô ¸n h×nh sù LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NHIẾP THỊ LIÊN Toµ ¸n víi vai trß b¶o vÖ quyÒn con ng-êi th«ng qua ho¹t ®éng xÐt xö c¸c vô ¸n h×nh sù Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN NGỌC CHÍ HÀ NỘI - 2015
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Nhiếp Thị Liên
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CON NGƯỜI VÀ VAI TRÒ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI CỦA TÒA ÁN..........9 1.1. Khái quát về Quyền con người............................................................. 9 1.1.1. Khái niệm Quyền con người ................................................................ 9 1.1.2. Nguồn gốc Quyền con người .............................................................12 1.1.3. Quá trình phát triển Quyền con người ...............................................13 1.1.4. Cơ chế đảm bảo Quyền con người.....................................................14 1.1.5. Quyền con người được ghi nhận trong pháp luật quốc tế và pháp luật của mỗi quốc gia.................................................................15 1.2. Vị trí, vai trò, các tiêu chí Quốc tế về Quyền con người và bảo vệ Quyền con người trong hoạt động xét xử của Tòa án...................16 1.2.1. Vị trí, vai trò của Tòa án trong Nhà nước pháp quyền ......................16 1.2.2. Khái niệm, nội dung vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ Quyền con người................................................................................22 1.2.3. Các tiêu chí quốc tế về Quyền con người và bảo vệ quyền con người trong hoạt động xét xử của Tòa án ..........................................27 Chương 2: VAI TRÒ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI CỦA TÒA ÁN TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM................32
  • 5. 2.1. Vai trò bảo vệ Quyền con người của Tòa án trong pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam giai đoạn trước năm 1945.............................32 2.2. Vai trò bảo vệ Quyền con người của Tòa án trong pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1988...............34 2.3. Vai trò bảo vệ Quyền con người của Tòa án trong pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 .............37 2.4. Vai trò bảo vệ Quyền con người của Tòa án trong pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 .............38 2.4.1. Quyền được coi là vô tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật ...............................................................................60 2.4.2. Quyền được đưa ra xét xử theo đúng trình tự, thủ tục được pháp luật qui định...............................................................................................60 2.4.3. Quyền được giao nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử .....................61 2.4.4. Quyền được tham gia phiên tòa .........................................................61 2.4.5. Quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng................................62 2.4.6. Quyền đưa ra tài liệu, chứng cứ, yêu cầu, đề nghị và quyền bào chữa.......62 2.4.7. Quyền được nói lời sau cùng..............................................................63 2.4.8. Quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm............................64 Chương 3: THỰC TIỄN VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI CỦA TÒA ÁN ................66 3.1. Thực tiễn công tác bảo vệ quyền con người của Tòa án trong những năm qua...................................................................................66 3.1.1. Tình hình xét xử các vụ án của Tòa án trong năm năm qua ..............66 3.1.2. Những thành tựu và hạn chế trong công tác bảo vệ quyền con người của Tòa án trong những năm qua ............................................67 3.1.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong công tác bảo vệ Quyền con người của Tòa án .........................................................................71
  • 6. 3.2. Các giải pháp nâng cao vai trò bảo vệ quyền con người của Tòa án trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự......................................80 3.2.1. Cơ sở của các giải pháp......................................................................80 3.2.2. Các giải pháp nâng cao vai trò bảo vệ quyền con người của Tòa án trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự......................................83 KẾT LUẬN....................................................................................................94 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................96
  • 7. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLTTHS: Bộ luật Tố tụng hình sự CHXHCN: Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa HP: Hiến pháp NNPQ: Nhà nước Pháp quyền QCD: Quyền công dân QCN: Quyền con người QHP: Quyền Hành pháp QLP: Quyền Lập pháp QTP: Quyền Tư pháp TTHS: Tố tụng hình sự XHCN: Xã hội Chủ nghĩa
  • 8. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 3.1: Tỷ lệ giải quyết các loại án từ năm 2010 đến năm 2014 67 Bảng 3.2: Tỷ lệ giải quyết án hình sự từ năm 2010 đến năm 2014 68 Bảng 3.3: Tỷ lệ xét xử bị cáo từ năm 2010 đến năm 2014 68 Bảng 3.4: Tỷ lệ án bị hủy, sửa từ năm 2010 đến năm 2014 69
  • 9. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu Quyền con người là một giá trị thiêng liêng, bất khả tước đoạt, nó được ghi nhận ở nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực Tố tụng hình sự. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội có thể nói quyền con người trong lĩnh vực Tố tụng hình sự dễ bị xâm phạm, dễ bị tổn thương nhất và hậu quả để lại cũng nghiêm trọng nhất. Bởi lẽ nó ảnh hưởng trực tiếp tới quyền được sống, quyền tự do và sinh mệnh chính trị của một cá nhân. Do đó vấn đề bảo vệ quyền con người bằng pháp luật Tố tụng hình sự và bởi một cơ quan Nhà nước - một cơ quan pháp luật là một vấn đề được thế giới và các quốc gia đặc biệt quan tâm. Tại Điều 10 Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền đã khẳng định: “Mọi người đều có bằng nhau quyền được phân xử công khai và công bằng, trước một toà án độc lập và vô tư, để được phán quyết về các quyền lợi và nhiệm vụ của mình, hay về những tội phạm mà mình bị cáo buộc” [25]. Đây có thể được coi là tiêu chuẩn chung cho mọi quốc gia, dân tộc cần đạt tới khi xây dựng hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật Hình sự và Tố tụng hình sự nói riêng cũng như khi xây dựng hệ thống các cơ quan bảo vệ pháp luật. Ở nước CHXHCN Việt Nam, quyền con người không chỉ được ghi nhận trong Hiến pháp, hệ thống pháp luật mà còn được bảo vệ trên thực tế thông qua các cơ quan bảo vệ pháp luật trong đó có Tòa án. Toà án là cơ quan duy nhất có chức năng xét xử của nước CHXHCN Việt Nam đã đóng vai trò không nhỏ vào việc bảo vệ các quyền công dân, quyền con người. Trong công cuộc xây dựng Nhà nước Pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay vấn đề quyền con người và bảo vệ quyền con người ngày càng được Đảng và Nhà nước quan tâm, đề cao. Tại Nghị quyết số 49 - NQ/TW ngày 02
  • 10. 2 tháng 6 năm 2005 của Bộ chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” khẳng định: Đòi hỏi của công dân và xã hội đối với các cơ quan Tư pháp ngày càng cao; các cơ quan Tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời phải là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm [1]. Tại Văn kiện Đại hội X của Đảng cũng đặt ra nhiệm vụ “Xây dựng nền Tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người”. Trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI của Đảng mới đây cũng tiếp tục đặt ra nhiệm vụ: “Đẩy mạnh xây dựng Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trong đó đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xây dựng hệ thống Tư pháp trong sạch vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người” . Tuy nhiên thực tiễn hoạt động điều tra, truy tố, xét xử trong những năm qua cho thấy rằng cũng còn nhiều trường hợp vi phạm quyền con người trong quá trình tiến hành tố tụng. Còn có những vụ án oan sai, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng dẫn đến quyền và lợi ích hợp pháp của người dân bị xâm phạm. Những vi phạm đó xảy ra là do nhiều nguyên nhân, trong đó có bất cập, hạn chế của các quy phạm pháp luật, nhận thức, thái độ của người tiến hành tố tụng, trách nhiệm của Nhà nước, trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đối với công dân. Vì vậy, việc nghiên cứu về vai trò bảo vệ quyền con người của các cơ quan tiến hành tố tụng đặc biệt là Toà án - Cơ quan xét xử của Nhà nước là cần thiết và có vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN nói chung, trong công cuộc cải cách Tư pháp nói riêng ở nước ta hiện nay. Mặt khác ở một góc độ nhất định có những quan điểm cho rằng Toà
  • 11. 3 án là “công cụ” để Nhà Nước “trừng trị” người phạm tội và cũng là “công cụ” để bảo vệ những người bị hại, hiểu như vậy là phiến diện và chưa chính xác. Bởi lẽ Toà án với chức năng là cơ quan xét xử nhưng không thể tự ý phán quyết một người có tội hay không có tội và từ đó bắt họ phải chịu hình phạt mà để phán quyết một người có tội hay không thì Toà án phải dựa trên những căn cứ do pháp luật quy định và phải tuân theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Do đó, để có cách hiểu và nhìn nhận chính xác, thống nhất vấn đề này thì việc nghiên cứu vai trò bảo vệ quyền con người của Toà án là cần thiết và cấp bách. Vì vậy với vị trí là một người làm việc trong lĩnh vực áp dụng pháp luật tôi chọn đề tài "Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người thông qua hoạt động xét xử các vụ án hình sự" làm đề tài cho Luận văn thạc sĩ luật học của mình. Tôi hy vọng rằng với Luận văn của mình sẽ góp phần nhỏ bé vào việc làm sáng tỏ vai trò bảo vệ quyền con người của Toà án thông qua hoạt động xét xử các vụ án hình sự, từ đó hoàn thiện các quy phạm pháp luật về quyền con người trong Tố tụng hình sự nói chung và trong giai đoạn xét xử tại Toà án nói riêng cũng như các quy phạm khác có liên quan. Ngoài ra, việc đưa ra các kiến nghị để hoàn thiện các quy phạm pháp luật, các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ quyền con người của Toà án, từ đó đảm bảo hơn nữa các quyền con người đáp ứng với yêu cầu của công cuộc cải cách Tư pháp của Nhà nước ta trong thời gian tới cũng là một trong những mục đích mà luận văn mong muốn đạt được. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Vấn đề quyền con người và bảo vệ quyền con người đã được quan tâm nghiên cứu ở nhiều lĩnh vực khác nhau: Chính trị, Kinh tế, Văn hoá, Xã hội, Pháp luật... đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học ở những mức độ khác nhau, những khía cạnh, phương diện khác nhau nghiên cứu về vấn đề quyền con người và bảo vệ quyền con người.
  • 12. 4 - Trong lĩnh vực lý luận về Nhà nước và Pháp luật có các công trình "Quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” của GS.TS. Trần Ngọc Đường, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, năm 2011; bài báo "Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với việc bảo đảm quyền con người" của TS. Tường Duy Kiên; các công trình của Lê Văn Cảm (2004), “Những vấn đề lý luận cơ bản về chế định các nguyên tắc của Luật TTHS”, Tạp chí Kiểm sát, số 3, tr.12. Tuy nhiên, các công trình nêu trên thực hiện việc nghiên cứu bảo vệ đảm quyền con người từ góc độ lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật mà chưa đề cập cụ thể đến các quyền con người trong trong lĩnh vực pháp luật nói chung và pháp luật Tố tụng hình sự nói riêng. - Trong lĩnh vực Tư pháp và Tư pháp hình sự có Luận án tiến sĩ luật học 2005 "Bảo đảm quyền con người trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Huy Hoàn, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội; bài báo "Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận cơ bản”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (7/2010) của GS.TSKH Lê Văn Cảm; Đề tài khoa học cấp Đại học quốc gia Hà Nội - Khoa Luật năm 2006“Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật tố tụng hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam” do GS.TSKH. Lê Văn Cảm, PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí, PGS.TS. Trịnh Quốc Toản đồng chủ trì; Luận án tiến sĩ luật học năm 2008 "Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự Việt Nam" của tác giả Nguyễn Quang Hiền, Viện Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội. Bài viết “Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật tố tụng hình sự” (Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, kinh tế - Luật, số 23/2007) của PGS. TS. Nguyễn Ngọc Chí: ThS. Đinh Thế Hưng: “Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự” (tham luận tại hội thảo: Các điều kiện đảm bảo quyền con người ở Việt Nam). Trong các công trình này, các tác giả nghiên cứu việc bảo vệ quyền con người trong hoạt động Tư pháp nói chung
  • 13. 5 và trong lĩnh vực tố tụng hình sự nói riêng. Tuy nhiên vai trò bảo vệ quyền con người của các cơ quan Tư pháp lại chưa được quan tâm nghiên cứu. - Trong một số công trình khoa học khác, các tác giả đã nghiên cứu về vấn đề bảo đảm quyền con người trong lĩnh vực tố tụng hoặc đối với người tham gia tố tụng nhất định như: công trình “Bảo đảm quyền con người trong áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự” của TS. Nguyễn Văn Điệp, Luận án tiến sĩ luật học năm 2010 “Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Lại Văn Trình, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.... Ở các công trình nghiên cứu trên các tác giả nghiên cứu vấn đề bảo vệ quyền con người đối với những người tham gia tố tụng nhất định. Nhưng vấn đề về chủ thể thực hiện vai trò bảo vệ thì lại chưa được nghiên cứu. - Ở nước ngoài cũng đã nhiều tác giả nghiên cứu vấn đề bảo đảm quyền con người cụ thể: Bảo đảm quyền con người trong các nguyên tắc tố tụng hình sự (Principle of Criminal procedure của Neil Andrews); bảo đảm quyền con người trong xét xử vụ án hình sự (Human rights in the English criminal trial - Human rights in criminal procedure của K.W. Lidstone) v.v. Tuy nhiên, vấn đề bảo vệ quyền con người bằng các quy phạm pháp luật Tố tụng cụ thể và bởi một thiết chế của Nhà nước - một cơ quan bảo vệ pháp luật là Toà án thì chưa có công trình nào đề cập tới. Như vậy, tình hình nghiên cứu trên đây cho phép khẳng định việc nghiên cứu đề tài: "Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người thông qua hoạt động xét xử các vụ án hình sự" là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa mang tính lý luận vừa mang tính thực tiễn. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn. 3.1. Mục đích nghiên cứu Nước ta đang trong tiến trình hội nhập Kinh tế - Quốc tế, cải cách Tư
  • 14. 6 pháp và xây dựng Nhà nước Pháp quyền XHCN thì vấn đề bảo vệ quyền con người bằng pháp luật Tố tụng hình sự và bởi các cơ quan tiến hành tố tụng trong đó có Toà án đang là vấn đề được Đảng và Nhà nước quan tâm. Vì vậy, Luận văn hướng tới việc làm rõ những vấn đề lý luận về vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người thông qua hoạt động xét xử, đồng thời kiến nghị các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là: - Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về quyền con người và vai trò bảo vệ quyền con người của Tòa án. - Nghiên cứu quyền con người trong Tố tụng hình sự và quyền con người trong giai đoạn xét xử tại Toà án theo pháp luật tố tụng hình sự ở nước ta hiện nay. - Nghiên cứu về vị trí, vai trò của Toà án trong hệ thống Chính trị nước ta hiện nay và những đổi mới theo tinh thần cải cách Tư pháp. - Nghiên cứu thực trạng công tác bảo vệ quyền con người của Toà án thông qua hoạt động xét xử các vụ án hình sự ở nước ta hiện nay. - Nghiên cứu nguyên nhân của những hạn chế trong công tác bảo vệ quyền con người của Tòa án nước ta hiện nay. - Một số giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác bảo vệ quyền con người của Toà án thông qua hoạt động xét xử ở nước ta hiện nay. 3.3. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của đề tài: “Tòa án với vai trò bảo vệ quyền con người thông qua hoạt động xét xử các vụ án hình sự”. Cụ thể là: - Nghiên cứu văn kiện, công trình nghiên cứu khoa học, văn bản pháp luật thực định liên quan đến vấn đề quyền con người, quyền con người trong lĩnh vực tố tụng hình sự.
  • 15. 7 - Nghiên cứu các đối tượng được Tòa án bảo vệ trong hoạt động xét xử. - Nghiên cứu cơ chế bảo vệ quyền con người và thực tiễn công tác bảo vệ quyền con người Toà án. - Nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật Tố tụng hình về quyền con người trong vụ án hình sự. - Số liệu thực tiễn được xác định trên địa bàn toàn quốc, trong thời hạn 5 năm năm (2010 - 2014). 4. Tính mới và những đóng góp của đề tài Đây là đề tài nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng kể cả về phương diện lý luận lẫn thực tiễn, Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên nghiên cứu về vấn đề vai trò bảo vệ quyền con người của Toà án thông qua hoạt động xét xử vụ án hình sự. Luận văn có những điểm mới sau: - Luận văn đã góp phần làm rõ thêm các vấn đề lý luận về quyền con người và bảo vệ quyền con người. - Luận văn đã góp phần làm rõ vấn đề quyền con người và bảo vệ quyền con người thông qua hoạt động Tố tụng nói chung và hoạt động xét xử của Toà án nói riêng. - Luận văn đã phân tích các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và đánh giá tương đối đầy đủ và tương đối toàn diện thực tiễn vấn đề bảo vệ quyền con người của Toà án ở nước ta hiện nay, từ đó tìm ra được những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của những bất cập, hạn chế trong vai trò bảo vệ quyền con người của Toà án. Từ đó kiến nghị, đề xuất nhiều giải pháp quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả vai trò bảo vệ quyền con người của Toà án thông qua hoạt động xét xử vụ án hình sự ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Do đó, ở một chừng mực nhất định có thể khẳng định rằng, Luận văn là tài liệu tham khảo cần thiết cho những người làm công tác nghiên cứu, học
  • 16. 8 tập và các cán bộ đang công tác thực tiễn tại các cơ quan pháp luật đặc biệt là các cán bộ đang công tác tại Toà án. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay nước ta đang trong tiến trình xây dựng Nhà nước Pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Một nhà nước mà ở đó, quyền con người được tôn trọng và bảo vệ không chỉ dừng lại ở các tuyên bố chính trị, ghi nhận trong Hiến pháp, pháp luật mà còn được bảo vệ trong thực tế. Như vậy Luận văn sẽ góp phần làm cơ sở lý luận cho vấn đề quyền con người và bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực Tố tụng. 5. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu - Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN hiện nay và vấn đề cải cách Tư pháp theo tinh thần Nghị quyết 49 - NQ/TW ngày 26 tháng 5 năm 2005 về “Chiến lược cải cách Tư pháp đến năm 2020” của Bộ chính trị. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về chính sách hình sự. - Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng là: phân tích, tổng hợp, lịch sử, so sánh, thống kê... Ngoài ra tác giả cũng tham khảo các tư liệu và ý kiến của các chuyên gia để làm rõ các vấn đề nghiên cứu.
  • 17. 9 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CON NGƯỜI VÀ VAI TRÒ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI CỦA TÒA ÁN 1.1. Khái quát về Quyền con người 1.1.1. Khái niệm Quyền con người Quyền con người (Human rights) là một phạm trù đa diện, nó được xem xét ở nhiều góc độ khác nhau như: Triết học, Chính trị học, Kinh tế học, Luật học… do đó có nhiều quan niệm khác nhau về QCN. Trong lịch sử nhân loại đã hình thành hai quan niệm chủ yếu, khác nhau về QCN: Quan niệm thứ nhất: Cho rằng mỗi con người là một thực thể tự nhiên cho nên QCN cũng là quyền tự nhiên, bẩm sinh và vốn có. Các quyền này gắn với cá nhân từ khi sinh ra không phụ thuộc vào luật pháp. Mặt tích cực của quan niệm này là ở chỗ nó có giá trị nhân đạo, bảo vệ con người trước quyền lực, nó có ý nghĩa tích cực trong nhận thức về QCN. Nhưng quan điểm này cũng thể hiện mặt tiêu cực là nó tuyệt đối hóa QCN, quyền cá nhân, đề cao các quyền cá nhân trong mối quan hệ với cộng đồng xã hội. Do vậy nếu coi QCN là quyền tự nhiên thì vẫn là phiến diện và chưa đầy đủ. Quan niệm thứ hai: Cho rằng con người là thực thể xã hội cho nên QCN cũng mang tính xã hội, nó phụ thuộc vào chế độ Kinh tế, Chính trị và Xã hội. Mặt tích cực của quan niệm này là ở chỗ coi QCN là một khái niệm có tính lịch sử, đặt con người trong tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Tuy nhiên quan điểm này cũng thể hiện mặt tiêu cực đó là phủ nhận hoàn toàn quyền tự nhiên của con người, coi QCN hoàn toàn phụ thuộc và được định đoạt bởi Nhà nước. Quan niệm biện chứng của Học thuyết Mác - Lênin đã khắc phục được tính phiến diện trong nhận thức về con người và QCN ở các quan niệm nêu
  • 18. 10 trên. Theo học thuyết Mác - Lênin thì con người vừa là sản phẩm tự nhiên vừa là sản phẩm của xã hội. Con người là một thực thể tự nhiên nhưng là một thực thể tự nhiên trong cộng đồng xã hội. Trong cái tự nhiên của con người có mặt xã hội và trong cái xã hội của con người có mặt tự nhiên, vì vậy QCN về bản chất bao hàm cả hai mặt tự nhiên và xã hội. QCN có những thuộc tính sau: - QCN là những giá trị gắn với mỗi con người vừa với tư cách là cá nhân, vừa với tư cách là thành viên xã hội. Vì vậy, QCN vừa mang thuộc tính cá nhân, vừa thể hiện lợi ích quốc gia, dân tộc, cộng đồng. - QCN vừa là những giá trị vĩnh hằng vừa là những đại lượng biến đổi gắn với quá trình phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế xã hội của mỗi thời đại, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. - QCN mang tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau: Thể hiện ở chỗ các QCN nằm trong mối liên hệ phụ thuộc và có sự tác động qua lại lẫn nhau. Việc vi phạm một quyền sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực đến các quyền khác. Ngược lại việc đảm bảo một quyền sẽ có gây ảnh hưởng tích cực đến những quyền khác. - QCN vừa có tính phổ biến vừa có tính riêng biệt, đặc thù. Tính phổ biến thể hiện ở chỗ QCN là những giá trị chung, phổ biến cho tất cả mọi người không phân biệt quốc tịch, dân tộc, giới tính, giai cấp, địa vị xã hội. Điều đó có nghĩa là dù ở bất cứ quốc gia nào, giới tính nào, dân tộc nào và xuất thân từ tầng lớp nào thì mọi người đều có các quyền như nhau. Tính riêng biệt, đặc thù thể hiện ở chỗ QCN là những giá trị đặc thù, riêng có ở mỗi quốc gia, dân tộc do điều kiện kinh tế - xã hội, truyền thống văn hóa, đạo đức của quốc gia đó quy định và bị hạn chế bởi các quy định của pháp luật. - QCN không thể phân chia: Thể hiện ở chỗ mỗi QCN đều có tầm quan trọng như nhau, không có quyền nào được coi là có giá trị cao hơn quyền nào. Việc tước bỏ hay hạn chế bất kỳ QCN nào đều tác động tiêu cực đến nhân phẩm, giá trị và sự phát triển của con người.
  • 19. 11 - QCN vừa là quyền bình đẳng đối với mọi người, vừa là quyền ưu tiên đối với nhóm người, giới, bộ phận nhất định trong xã hội. Trong xã hội không thể có sự bình quân về quyền như nhau bởi mỗi con người có khả năng khác nhau về trí tuệ, thể chất, khả năng… Do vậy, họ không thể có khả năng ngang nhau trong việc thực hiện quyền. - QCN là một phạm trù pháp lý vì vậy nó gắn liền với một hệ thống pháp luật cụ thể, các quyền phải được thể hiện trong pháp luật, được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Tuy nhiên, QCN là những quyền không thể bị tước bỏ: Thể hiện ở chỗ QCN không thể bị tước bỏ hay hạn chế một cách tùy tiện bởi bất cứ một chủ thể nào kể cả Nhà nước. Tuy nhiên trong một số trường hợp các QCN có thể bị hạn chế hoặc tước bỏ trong một thời gian nhất định. Các trường hợp này do luật pháp của mỗi quốc gia quy định, ví dụ: ở Việt Nam hiện nay vẫn quy định tử hình là một hình phạt nghiêm khắc nhất được áp dụng đối với những tội đặc biệt nghiêm trọng, hình phạt này nhằm loại bỏ người phạm tội khỏi đời sống xã hội. Như vậy đã xâm phạm tới một QCN đó là “Quyền được sống”, tuy nhiên cũng cần phải hiểu rằng chính họ đã thực hiện hành vi đặc biệt nguy hiểm và gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng cho người khác cho xã hội và việc bị áp dụng hình phạt này là do chính bản thân họ tự lựa chọn và tự tước bỏ quyền được sống của mình. Từ những thuộc tính của QCN đã có rất nhiều khái niệm về QCN được đưa, những định nghĩa này đều không hoàn toàn giống nhau cụ thể: Theo Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về QCN (Offiice of High Commissioner for Human Rights - OHCHR) đã đưa ra định nghĩa: Quyền con người là những đảm bảo pháp lý toàn cầu (Universal legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động (Actions) hoặc sự bỏ mặc (Omissons) mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép (Entitlements) và tự do cơ bản (Fundamental freedoms) của con người.
  • 20. 12 Ngoài ra cũng có quan điểm cho rằng: Quyền con người là sự được phép mà tất cả thành viên của công đồng nhân loại, không phân biệt giới tính, chủng tộc, tôn giáo, địa vị xã hội…; đều có ngay từ khi sinh ra, đơn giản chỉ vì họ là con người [24]. Ở Việt Nam cũng có nhiều định nghĩa về QCN được đưa ra, những định nghĩa này không hoàn toàn giống nhau, nhưng nhìn chung thì QCN đều được hiểu là: Những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế. Tóm lại, dù được nhìn nhận ở những góc độ và cấp độ khác nhau thì quyền con người cũng được hiểu là những giá trị cao cả cần được tôn trọng và bảo vệ trong mọi xã hội và trong mọi giai đoạn lịch sử. Nó được coi là chuẩn mực được cộng đồng quốc tế thừa nhận và tuân thủ. 1.1.2. Nguồn gốc Quyền con người Về nguồn gốc QCN có hai trường phái khác nhau đưa ra hai quan điểm trái ngược nhau về nguồn gốc QCN đó là trường phái theo học thuyết “Quyền tự nhiên” - Natural rights và trường phái theo học thuyết “Quyền pháp lý” - Legal rights. Theo những người theo học thuyết “Quyền tự nhiên” cho rằng: QCN là những gì bẩm sinh, vốn có mà mọi cá nhân sinh ra đều được hưởng. Nó không phụ thuộc vào phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa hay ý chí của bất cứ cá nhân, giai cấp, tầng lớp, tổ chức, cộng đồng hay Nhà nước nào. Vì vậy không một chủ thể nào, kể cả Nhà nước có thể ban phát hay tước bỏ chúng. Với quan điểm trên thì những người theo trường “Quyền tự nhiên” đã đề cao quá mức các quyền cá nhân và xem nhẹ các quyền tập thể, các lợi ích xã hội. Ngược lại những người theo học thuyết về “Quyền pháp lý” thì cho rằng: QCN không phải là những gì bẩm sinh, vốn có một cách tự nhiên mà phải do các Nhà nước xác định và pháp điển hóa thành các quy phạm pháp
  • 21. 13 luật hoặc xuất phát từ truyền thống văn hóa. Như vậy phạm vi, giới hạn và thời hạn hiệu lực của QCN phụ thuộc vào ý chí của tầng lớp thống trị và các yếu tố như phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa…. của các xã hội. Với quan điểm trên những người theo trường phái “Quyền pháp lý” lại xem nhẹ các quyền cá nhân và lại đề cao các quyền và lợi ích tập thể, xã hội. Do trong quan điểm của cả hai trường phái đều vẫn còn có những hạn chế nhất định, nên cho đến nay cuộc đấu tranh giữa hai trường phái này vẫn chưa có sự phân định đúng, sai, hợp lý và không hợp lý. Trong khi pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới đều thể hiện quyền con người là các quyền pháp lý thì trong tuyên ngôn nhân quyền thế giới năm 1948 và pháp luật của một số quốc gia là khẳng định quyền con người là các quyền tự nhiên vốn có và không thể bị tước bỏ của mọi cá nhân. Cụ thể trong tuyên ngôn nhân quyền thế giới năm 1948 ghi nhận: “Mọi người sinh ra đều bình đẳng về phẩm giá và các quyền” còn trong Tuyên ngôn Độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ năm 1776 đã khẳng định “Mọi người sinh ra đều bình đẳng và Đấng tạo hóa đã dành cho họ một số quyền không thể bị tước đoạt, trong các quyền đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” hay trong Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1789 cũng khắng định “Mọi người sinh ra và sống tự do và bình đẳng về các quyền”. Như vậy, việc quá coi trọng một học thuyết đều là không phù hợp và mang tính phiến diện. 1.1.3. Quá trình phát triển Quyền con người QCN xuất hiện và tồn tại gắn liền với quá trình phát triển của xã hội loài người. Những tư tưởng về QCN đã xuất hiện từ thời tiền sử, thể hiện trong các luật lệ của chiến tranh, tuy nhiên những tư tưởng này mới chỉ dừng lại ở những ý niệm sơ khai. Những tư tưởng về QCN chỉ chính thức xuất hiện cùng với sự phát triển của nền văn minh cổ đại. Ở giai đoạn này tư tưởng về QCN được phán ánh trong các học thuyết hoặc các ấn phẩm tôn giáo, chính
  • 22. 14 trị và pháp lý. Đến thời kỳ Phục Hưng các tư tưởng về QCN phát triển một cách rực rỡ nhất, trong thời kỳ này đã xuất hiện nhiều học giả vĩ đại như: Thomas Hobber, John Locke, Thomas Paine, Georg Wilhelm Friedrich Hegel…. Những tác phẩm của các học giải này không chỉ đưa ra nhiều vấn đề lý luận cơ bản về QCN mà còn đề cập tới việc bảo vệ và thúc đẩy QCN. Những tác phẩm này có ý nghĩa quan trọng nó đã thúc đẩy sự ra đời của nhiều văn bản pháp luật về QCN, trong đó phải kể đến hai bản Tuyên ngôn nổi tiếng đó là: Tuyên ngôn Độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1789. Tuy nhiên, vấn đề QCN chỉ thực sự nổi lên và trở thành vấn đề được quan tâm ở tầm quốc tế kể từ đầu thế kỷ XIX. Đặc biệt là từ khi tổ chức Liên hợp quốc gia đời vào năm 1945 thì những tư tưởng về QCN của nhân loại mới được thể chế hóa một cách mạnh mẽ, toàn diện và có tính hệ thống vào pháp luật và đời sống chính trị quốc tế và được ghi nhận trong luật pháp của nhiều quốc gia. Sau khi ra đời không lâu Liên hợp quốc đã thông qua Tuyên ngôn toàn thế giới về Nhân quyền vào năm 1948, đã chính thức khai sinh ra ngành luật quốc tế về QCN. Hiện nay vấn đề QCN ngày càng được quốc tế quan tâm và bảo đảm, nó đề cập thường xuyên ở các sự kiện Văn hóa, Chính trị, Pháp luật và ở nhiều cấp độ khác nhau từ quốc gia, khu vực đến các sự kiện quốc tế. Và đã được thể chế trong nhiều ngành luật của các quốc gia như; Luật hình sự, Luật Tố tụng hình sự, Luật dân sự, Luật Tố tụng dân sự…. 1.1.4. Cơ chế đảm bảo Quyền con người - Khái niệm cơ chế: cơ chế là khái niệm dùng để chỉ trình tự, thủ tục, cách thức để thực hiện một quá trình, theo một mục đích nhất định, do vậy cơ chế được hiểu là sự vận hành của nhiều yếu tố theo những hướng nhất định, có liên hệ chặt chẽ với nhau trong một chỉnh thể. Ví dụ ở nước ta vẫn thường nói đến cơ chế thị trường, vậy cơ chế thị trường là gì? Cơ chế thị trường là toàn bộ cách thức và phương pháp điều tiết nền kinh tế, chủ yếu
  • 23. 15 bằng tác động của quy luật sản xuất lưu thông hàng hóa và quan hệ thị trường như quy luật giá trị, lưu thông tiền tệ, quy luật cung cầu. Như vậy, để vận hành cơ chế thị trường ta có thể thấy có nhiều yếu tố tham gia vận động, các quan hệ và các quy luật này được gắn bó chặt chẽ với nhau nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển. - Cơ chế quốc tế: là những nguyên tắc, thủ tục được thiết lập theo những trình tự nhất định nhằm thực hiện những vấn đề mang tính quốc tế. Những vấn đề mang tính quốc tế có thể kể đến như: Vấn đề về hòa bình và an ninh quốc tế, vấn đề khuyến khích phát triển sự tôn trọng các QCN, vấn đề về an ninh lương thực. Các cơ chế quốc tế được thực hiện thông qua các cơ quan chuyên môn hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ của mình. Các cơ quan này hoạt động trên cơ sở những trình tự, thủ tục quốc tế, trong khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình các cơ quan này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. - Cơ chế đảm bảo QCN: QCN và bảo vệ QCN vừa là vấn đề quốc tế vừa là vấn đề của mỗi quốc gia. Việc bảo vệ QCN được quy định trong Hiến chương Liên hợp quốc, hệ thống các công ước Quốc tế, nghị định thư, các nghị quyết của các cơ quan của Liên hợp quốc. Mặt khác Hiến chương Liên hợp quốc còn quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan của Liên hợp quốc trong việc bảo vệ QCN. Khi thực hiện nhiệm vụ, chức năng của mình các cơ quan này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Như vậy, cơ chế quốc tế đảm bảo QCN chính là hoạt động bảo vệ QCN, do các cơ quan của Liên hợp quốc tiến hành, trên cơ sở những quy định của luật quốc tế về QCN, nhằm bảo vệ QCN khi có vi phạm và giám sát việc bảo vệ QCN theo các công ước Quốc tế. 1.1.5. Quyền con người được ghi nhận trong pháp luật quốc tế và pháp luật của mỗi quốc gia Những ý niệm về QCN đã được hình thành từ rất sớm trong lịch sử loài người tuy nhiên ở những giai đoạn đầu thì QCN mới chỉ dừng lại ở những khái niệm sơ khai và việc bảo vệ QCN mới chỉ là tự phát mà chưa theo một
  • 24. 16 trình tự nào. QCN chỉ được ghi nhận và trở thành một hệ thống các quyền được ghi nhận trong các văn bản pháp lý mang tính Quốc tế và có Luật quốc tế bảo vệ kể từ sau chiến tranh thế giới lần II. Đặc biệt là sau khi Liên hợp quốc ra đời vào ngày 24/10/1945 và bản Tuyên ngôn nhân quyền được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua vào ngày 10/12/1948, thì QCN đã được khẳng định trên nhiều phương diện khác nhau. Đến nay QCN đã được ghi nhận trong luật pháp Quốc tế thông qua các công ước, các điều ước quốc tế và các cơ chế để đảm bảo và thúc đẩy QCN cũng được luật pháp quốc tế quan tâm, thúc đẩy. Ngoài việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về QCN và đảm bảo QCN thì luật Quốc tế còn thành lập các cơ quan, tổ chức bảo vệ QCN, mỗi cơ quan có một lĩnh vực hoạt động riêng nhằm đảm bảo quyền cho một giới, một lứa tuổi hoặc một lĩnh vực nhất định, ví dụ: cơ quan về quyền trẻ em, cơ quan về quyền bình đẳng giới…. Đối với pháp luật của mỗi quốc gia thì các QCN, QCD thường là một phần không thể thiếu trong các bản Hiến pháp. Điển hình là Bộ luật về Quyền của Mỹ (Bill of Rights - năm 1791), đây là một phần trong bản Hiến pháp đầu tiên của Mỹ; Bộ luật về Quyền của Anh (Bill of Rights - năm 1689) là nguồn của Hiến pháp Anh; Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm 1789 của Pháp là một phần của Hiến pháp Pháp. Các bản Hiến pháp này chủ yếu quy định các quyền về Dân sự và Chính trị. Ngày nay, các bản Hiến pháp hiện đại đã mở rộng phạm vi các QCN, nó không chỉ mở rộng các QCN về Dân sự và Chính trị mà nó còn ghi nhận thêm các quyền về Kinh tế, Văn hóa, Xã hội và các quyền đặc thù đối với từng đối tượng khác nhau như: Trẻ em, phụ nữ, người khuyết tật,… 1.2. Vị trí, vai trò, các tiêu chí Quốc tế về Quyền con người và bảo vệ Quyền con người trong hoạt động xét xử của Tòa án 1.2.1. Vị trí, vai trò của Tòa án trong Nhà nước pháp quyền 1.2.1.1. Vị trí của Tòa án trong Nhà nước pháp quyền NNPQ là kiểu Nhà nước mà ở đó quyền lực Nhà nước không tập trung
  • 25. 17 vào một người hoặc một cơ quan mà quyền lực Nhà nước được phân chia và được giao cho những cơ quan nhất định nhằm mục đích kiềm chế, kiểm soát và đối trọng nhau trong quá trình thực hiện quyền lực Nhà nước. Trong lịch sử đã có nhiều học thuyết phân quyền ra đời gắn liền với tên tuổi nhiều nhà triết học nổi tiếng và với nhiều cách phân chia quyền lực nhà nước khác nhau. Tuy nhiên, thuyết tam quyền phân lập của học giả Mông - te - ski- ơ (1689 - 1775) được xem là học thuyết mẫu mực của tư tưởng phân quyền. Nó đã được áp dụng vào thể chế Nhà nước ở đa số các quốc gia trên thế giới, trong đó nhà nước Hoa Kỳ được coi là mẫu hình tiêu biểu của thuyết tam quyền phân lập. Nội dung thuyết tam quyền phân lập đã đưa ra những luận điểm cơ bản sau: - Trong mỗi nhà nước bao giờ cũng có ba thứ quyền lực: Quyền Lập pháp, quyền Hành pháp và quyền Tư pháp; - Mục đích của sự phân chia quyền lực là để chống lại chế độ độc quyền, sự lạm quyền, hạn chế quyền tự do của công dân; - Mỗi nhánh quyền lực được giao cho một cơ quan Nhà nước đảm nhiệm: Quyền Lập pháp được giao cho cơ quan dân cử - Nghị viện (Quốc hội); Quyền Hành pháp được giao cho một cá nhân đại diện là tổng thống hoặc một cơ quan là Chính phủ, tùy thuộc vào thể chế chính trị của từng quốc gia; Quyền Tư pháp được trao cho Tòa án; - Các quyền Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp độc lập, kiềm chế và đối trọng lẫn nhau; - Mặc dù quyền lực Nhà nước được phân chia rõ ràng và được giao cho những cơ quan cụ thể, nhưng quyền lực Nhà nước vẫn là thống nhất trong một chính thể. Trong NNPQ, quyền Tư pháp tuy là một nhánh quyền lực độc lập, nhưng có mối quan hệ mật thiết với quyền Lập pháp và quyền Hành pháp trong một chỉnh thể thống nhất. Nếu quyền Lập pháp là ban hành các văn bản
  • 26. 18 pháp luật, quyền Hành pháp là tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật do cơ quan Lập pháp ban hành, thì quyền Tư pháp là phát hiện và xử lý những hành vi trái với các quy định trong các văn bản do cơ quan Lập pháp ban hành. Khi nói đến quyền Tư pháp trong NNPQ là nói đến quyền xét xử đối với các hành vi phạm tội và quyền phán xử đối với các tranh chấp trong xã hội. Như vậy trong NNPQ, Tòa án có vị trí đặc biệt so với các cơ quan Nhà nước nói chung và các cơ quan Tư pháp khác nói riêng. Vị trí của Tòa án trong NNPQ thể hiện qua những khía cạnh sau: Thứ nhất, Tòa án nhân danh Nhà nước, căn cứ vào các quy định của pháp luật để giải quyết các tranh chấp trong xã hội, các tranh chấp đó có thể là tranh chấp giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với cơ quan, tổ chức, giữa cá nhân với Nhà nước. Thứ hai, Tòa án thực hiện chức năng kiểm tra tính đúng đắn trong hoạt động của cơ quan Nhà nước, cá nhân, từ đó đảm bảo QCD, QCN. Góp phần bảo đảm trật tự xã hội. Vị trí của Tòa án trong NNPQ được thể hiện thông qua mối quan hệ giữa Tòa án với cơ quan giữ quyền Lập pháp và cơ quan giữ quyền Hành pháp và các cơ quan Tư pháp khác. Mối quan hệ giữa Tòa án với cơ quan Lập pháp - Quốc hội thể hiện ở chỗ Quốc hội có thẩm quyền ban hành các loại văn bản pháp luật trong đó có cả những văn bản pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động của Tòa án, các nguyên tắc tố tụng của Tòa án. Đồng thời Quốc hội có thẩm quyền bãi bỏ các văn bản áp dụng pháp luật của Tòa án trái với Hiến pháp và pháp luật. Quốc hội có quyền bầu và bãi nhiệm đối với chức danh Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao hàng năm phải báo cáo công tác trước Quốc hội và trả lời chất vấn của Đại biểu Quốc hội. Ngược lại trong quá trình xét xử vụ án, Tòa án phát hiện và kiến nghị với
  • 27. 19 các cơ quan có thẩm quyền xem xét, sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ văn bản pháp luật trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức; cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm trả lời Tòa án kết quả xử lý văn bản bị kiến nghị theo quy định của pháp luật làm cơ sở để Tòa án giải quyết vụ án. Tòa án cũng có quyền xét xử đối với những hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động lập pháp Mối quan hệ giữa Tòa án với cơ quan Hành pháp - Chính phủ: Chính phủ là cơ quan tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật do cơ quan Lập pháp ban hành bằng việc ban hành các văn bản dưới luật để hướng dẫn thi hành và áp dụng pháp luật. Do vậy quyền Hành pháp và quyền Tư pháp mặc dù độc lập và không phụ thuộc nhau, nhưng trong quá trình áp dụng luật, Tòa án vẫn áp dụng các văn bản hướng dẫn thi hành của Chính phủ do đó Tòa án vẫn có sự phụ thuộc nhất định vào Chính phủ. Ngược lại Tòa án cũng có quyền xét xử đối với những hành vi phạm pháp luật trong quá trình thi hành pháp luật của cơ quan Hành pháp. Mối quan hệ giữa Tòa án với các cơ quan Tư pháp khác: trong hệ thống các cơ quan Tư pháp, Tòa án có vị trí trung tâm. Thông qua hoạt động xét xử Tòa án một mặt đánh giá tính đúng đắn của các hành vi pháp lý của cơ quan Điều tra, cơ quan Viện kiểm sát. Mặt khác trên cơ sở hồ sơ, tài liệu, chứng cứ do cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát xây dựng và các quy định của pháp luật để xét xử vụ án. Tuy nhiên trong hoạt động của mình Tòa án vẫn phải chịu sự giám sát của cơ quan Viện kiểm sát. Mối quan hệ giữa Tòa án với cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương: Tòa án hiện nay được tổ chức theo đơn vị hành chính và chịu sự giám sát của cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương. Chánh án Tòa án nhân dân các cấp ở địa phương phải chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân và chịu sự giám sát của Hội đồng nhân dân cùng cấp.
  • 28. 20 Như vậy, có thể khẳng định trong NNPQ, quyền Tư pháp mà trọng tâm là quyền xét xử là một nhánh quyền lực độc lập. Do đó quyền Tư pháp vừa có sự độc lập, vừa có sự phối hợp với các nhánh quyền lực khác tạo thành một chỉnh thể thống nhất - Quyền lực Nhà nước. Như vậy khi nói đến NNPQ thì không thể thiếu một trong các nhánh quyền lực trên. 1.2.1.2. Vai trò của Tòa án trong Nhà nước pháp quyền - Nhân danh Nhà nước xét xử các hành vi vi phạm pháp luật và giải quyết các tranh chấp trong xã hội: Trong NNPQ, Tòa án là cơ quan duy nhất có chức năng xét xử, Tòa án có quyền kết tội và áp dụng hình phạt đối với một con người. Điều đó được thể hiện rõ thông qua “Nguyên tắc suy đoán vô tội” - trong đó đã khẳng định rõ “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Khi thực hiện chức năng xét xử, Tòa án nhân danh Nhà nước để ra các phán quyết, do đó hoạt động xét xử của Tòa án mang tính quyền lực Nhà nước và được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. Mặt khác, Hoạt động xét xử của Tòa án cũng chính là việc áp dụng pháp luật kể cả pháp luật nội dung và pháp luật Tố tụng để giải quyết các vụ việc. Mà pháp luật do Nhà nước ban hành, do đó Tòa án không chỉ nhân danh Nhà nước đưa ra các phán quyết để giải quyết vụ án mà còn là cơ quan áp dụng pháp luật, đưa các quy định của pháp luật vào giải quyết các vụ việc. - Tòa án có vai trò bảo vệ pháp luật, bảo đảm công lý và công bằng xã hội: Pháp luật trong NNPQ là hệ thống những chuẩn mực để đánh giá hành vi của con người có phù hợp hay không phù hợp với yêu cầu của xã hội. Đồng thời pháp luật còn là hệ thống những giá trị cao đẹp của xã hội dân chủ, nó mang trong mình những nguyện vọng, quyền và lợi ích của mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội. Do đó, bảo vệ pháp luật trong NNPQ chính là bảo vệ những giá trị công bằng, bình đẳng và dân chủ xã hội. Vai trò bảo vệ pháp luật của Tòa án được thể hiện ở các khía cạnh sau:
  • 29. 21 Tòa án áp dụng pháp luật: Khi thực hiện chức năng xét xử, Tòa án phải căn cứ vào các quy định của pháp kể cả về pháp luật nội dung và pháp luật Tố tụng để đưa ra các phán quyết. Như vậy để giải quyết một vụ việc cụ thể Tòa án không thể tự mình đưa ra các phán quyết mà để đưa ra được các phán quyết Tòa án phải căn cứ vào các quy định của pháp luật và phải theo những trình tự, thủ tục nhất định thì những phán quyết đó mới có giá trị và có thể thi hành trên thực tế. Do đó việc áp dụng pháp luật của Tòa án vừa là một nhiệm vụ vừa là một đòi hỏi khách quan. Tòa án tuân thủ pháp luật: Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật, Tòa án là một bộ phận cấu thành bộ máy Nhà nước do đó chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án cũng được quy định trong Hiến pháp và pháp luật. Vì vậy, Tòa án phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật về tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án. Mặt khác trong quá trình thực hiện chức năng xét xử, Tòa án cũng phải tuân thủ những trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. - Tòa án bảo vệ QCD, QCN: QCD, QCN là những giá trị cao quý nhất được thừa nhận chung của nền văn minh nhân loại. Trong lịch sử loài người đã có rất nhiều các cuộc đấu tranh chống lại chế độ bất công, tàn bạo để bảo vệ các QCD, QCN. Ngày nay, trong xã hội hiện đại thì các QCD, QCN ngày càng được đề cao và việc bảo vệ các QCD, QCN là nhiệm vụ của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức và cá nhân. Trong lĩnh vực Tố tụng hình sự các QCD, QCN được bảo vệ bởi các cơ quan bảo vệ pháp luật trong đó có Tòa án. Tòa án không chỉ bảo vệ QCD, QCN đối với người bị hại, người tham gia tố tụng khác mà ngày cả đối với bị can, bị cáo là người bị tình nghi đã thực hiện hành vi phạm tội thì Tòa án cũng phải bảo vệ QCN của họ, bởi họ cũng là một con người, một thực thể xã hội. - Tòa án đảm bảo an ninh, an toàn xã hội: Thông qua hoạt động xét xử,
  • 30. 22 Tòa án trừng trị những người có hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm các quan hệ xã hội do pháp luật bảo vệ, xâm phạm quyền, lợi ích của công dân và cũng thông qua hoạt động xét xử, Tòa án tuyên truyền, giáo dục pháp luật. Từ đó góp phần vào công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, đảm bảo an ninh, an toàn xã hội. 1.2.2. Khái niệm, nội dung vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ Quyền con người 1.2.2.1. Khái niệm vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ Quyền con người Khái niệm vai trò bảo vệ QCN của Tòa án được thể hiện trên những phương diện sau: - Bảo vệ QCN là một nhiệm vụ của Tòa án: Tòa án với chức năng là cơ quan xét xử của Nhà nước có quyền tuyên bố một người là có tội hay không có tội. Vì thế hoạt động của Tòa án có liên quan trực tiếp đến sinh mệnh, quyền tự do của con người. Do đó bảo vệ QCN phải được coi là một trong những nhiệm vụ của Tòa án. Tòa án với chức năng xét xử một mặt nhằm trừng trị kẻ phạm tội, giáo dục, cải tạo họ trở thành những người có ích cho xã hội. Mặt khác hoạt động xét xử của Tòa án còn góp phần ngăn chặn, phòng ngừa tội phạm và những hành vi xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, qua đó bảo vệ chế độ xã hội và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể và đảm bảo an toàn cho tính mạng, sức khỏe, tài sản và các quyền tự do khác của công dân, bảo đảm QCN. Trong hoạt động xét xử của mình Tòa án không chỉ bảo vệ QCN đối với người bị hại, người tham gia tố tụng khác mà ngay cả đối với bị cáo Tòa án cũng phải có trách nhiệm bảo vệ QCN đối với họ. Bị cáo mặc dù là người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, là người phạm tội và phải chịu hình phạt, nhưng Tòa án vẫn phải đảm bảo QCN đối với chính họ bởi lẽ họ cũng là một con người - một thành viên trong xã hội. Tòa án bảo vệ các quyền của họ
  • 31. 23 thông qua việc bảo đảm các quyền tố tụng của họ, ví dụ: Quyền được tự mình bào chữa hay nhờ luật sư bào chữa, quyền được tranh tụng, quyền được suy đoán vô tội và quyền được nhận các quyết định của Tòa án như: quyền được nhận Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Bản án và quyền được kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án…, chính vì vậy có thể nói rằng Tòa án càng đảm bảo tốt các quyền trên thì nhiệm vụ bảo vệ QCN của Tòa án càng đạt hiệu quả cao và ngược lại nếu Tòa án không đảm bảo thực hiện tốt các quyền trên thì không những nhiệm vụ bảo vệ QCN của Tòa án không đạt hiệu quả, mà ngược lại đã xâm phạm nghiêm trọng đến QCN. - Tòa án bảo vệ quyền con người thông qua hoạt động xét xử: Chức năng của Tòa án là xét xử các vụ án Hình sự, Dân sự, Hành chính, Lao động, Kinh doanh Thương mại, do đó Tòa án bảo vệ QCN chủ yếu thông qua hoạt động xét xử các vụ án đặc biệt là các vụ án hình sự. Chính vì vậy hoạt động xét xử của Tòa án có đúng đắn hay không đúng đắn có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi người, từ đó xác định QCN có được đảm bảo không?. Tức là trong hoạt động xét xử một vụ án, nếu Tòa án xét xử công bằng, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật thì quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác được bảo đảm và từ đó bảo vệ được QCN. Ngược lại nếu Tòa án xét xử oan sai hoặc quyết định hình phạt không tương xứng với hành vi… thì quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo, người bị hại và những người tham gia tố tụng không được bảo đảm, từ đó đã xâm phạm đến quyền của mỗi cá nhân hay nói khác là QCN không được bảo đảm. Do vậy để bảo vệ được QCN trong quá trình xét xử các vụ án hình sự được tốt yêu cầu đặt ra đối với hoạt động xét xử của Tòa án là: Tuyệt đối tuân thủ các quy định của luật nội dung và luật tố tụng; xét xử đúng pháp luật của Nhà nước; đảm bảo sự công bằng, bình đẳng của mọi công dân khi tham gia tố tụng, ra bản án đúng người, đúng tội, thấu
  • 32. 24 tình, đạt lý. Mặt khác, QCN còn được đảm bảo thông qua hành vi tố tụng của người tiến hành tố tụng, mỗi hành vi tố tụng của người tiến hành tố tụng khi xét xử các vụ án đều ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác. Do đó để đảm bảo tốt QCN trong hoạt động xét xử của Tòa án cũng đòi hỏi mọi hành vi tố tụng của người tiến hành tố tụng phải tuyệt đối tuân thủ các quy định của pháp luật tố tụng và pháp luật nội dung. - Vai trò bảo vệ QCN của Tòa án nhằm đảm bảo công lý, công bằng xã hội: Công lý, công bằng xã hội được hiểu là mọi hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tập thể, cá nhân đều phải gánh chịu hậu quả tùy thuộc vào mức độ vi phạm. Công lý, công bằng xã hội còn được hiểu là mọi hành vi vi phạm pháp luật đều phải được phát hiện và xử lý. Xét về bản chất thì hoạt động xét xử của Tòa án chính là việc buộc một người đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tập thể, cá nhân phải chịu hậu quả bất lợi tương ứng với mức độ nguy hiểm của hành vi đã thực hiện, hành vi càng nguy hiểm thì hình phạt càng nặng. Tuy nhiên Tòa án cũng không thể kết tội và áp dụng hình phạt đối với một người một cách tùy tiện mà việc kết tội và áp dụng hình phạt đó phải theo một trình tự nhất định và phải tuân thủ chặt chẽ các quy định của pháp luật. Hoạt động xét xử của Tòa án một mặt trừng trị đối với người phạm tội và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại và những người tham gia tố tụng khác. Mặt khác, hoạt động xét xử của Tòa án cũng nhằm bảo vệ chính bản thân người phạm tội. Bởi lẽ, dù là bị cáo - người phạm tội, nhưng bản thân họ cũng là một con người và họ cũng có những QCN nhất định, cho nên trong hoạt động xét xử của Tòa án cũng cần bảo vệ những QCN của họ. Chẳng hạn đối với người phạm tội thì Tòa án phải đảm bảo quyền có người bào chữa cho họ, hay các bị cáo đều phải được xét xử công bằng mà không
  • 33. 25 phân biệt tôn giáo, giới tính, trình độ học vấn,…. Tóm lại, hoạt động xét xử của Tòa án nhằm bảo vệ công lý, công bằng xã hội thể hiện ở chỗ mọi hành vi vi phạm pháp luật đều phải bị trừng trị tùy theo mức độ vi phạm. Không có hành vi vi phạm pháp luật nào không bị trừng phạt. Thông qua đó bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đảm bảo QCN, đảm bảo công lý, công bằng xã hội. 1.2.2.2. Nội dung vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người - Tòa án xét xử và áp dụng hình phạt đối với những chủ thể xâm hại đến QCN, khôi phục quyền và lợi ích của chủ thể bị xâm hại: Tòa án là cơ quan duy nhất có chức năng xét xử, có quyền được kết tội và áp dụng hình phạt đối với một người. Khi tội phạm xảy ra xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của con người thì các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền phải có trách nhiệm phát hiện, ngăn chặn, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, đồng thời phải áp dụng chế tài thích đáng, phù hợp với quy định của pháp luật trừng trị người phạm tội. Việc trừng trị người phạm tội của các cơ quan tiến hành tố tụng đã góp phần bảo vệ QCN. Đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân khỏi sự xâm hại của hành vi phạm tội là một trong những chức năng của Nhà nước và trách nhiệm quan trọng của các cơ quan tiến hành tố tụng trong đó có Tòa án. Tòa án không những xét xử và áp dụng hình phạt đối với những chủ thể xâm hại đến quyền con người mà còn khôi phục những thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra. Hành vi phạm tội xảy ra bao giờ cũng xâm phạm và gây thiệt hại đối với một hoặc một số quyền lợi nhất định của một chủ thể nhất định. Hoạt động xét xử của Tòa án không chỉ đưa ra các chế tài, hậu quả pháp lý bất lợi đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội mà còn khôi phục quyền và lợi ích của các chủ thể đã bị hành vi phạm tội xâm phạm. - Trong hoạt động xét xử Tòa án phát hiện việc xâm phạm QCN từ các
  • 34. 26 cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan hành chính khác: QCD, QCN không chỉ bị xâm hại từ các thành viên khác trong xã hội, mà nó còn có thể bị xâm hại từ phía các cơ quan Nhà nước, các cán bộ Nhà nước trong khi thi hành công vụ và việc xâm hại từ phía các cơ quan Nhà nước, cán bộ Nhà nước là phổ biến và hậu quả của nó cũng rất nghiêm trọng. Bởi lẽ, trong quan hệ với Nhà nước công dân luôn là đối tượng bị “quản lý” của Nhà nước, do đó quyền và lợi ích hợp pháp của họ dễ có nguy cơ bị xâm hại. Đặc biệt trong quá trình Tố tụng các cơ quan tiến hành tố tụng gồm có: Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và cơ quan Thi hành án có vai trò phát hiện và xử lý những hành vi phạm tội. Tuy nhiên trên thực tế, việc xâm phạm QCN trong lĩnh vực Tố tụng hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng lại tương đối phổ biến. Bởi lẽ các phán quyết của các cơ quan tiến hành tố tụng đều trực tiếp động chạm đến quyền, lợi ích của công dân, hơn nữa trong quan hệ với các cơ quan này với tư cách là người bị quản lý và chịu sự phán quyết, công dân luôn ở vào vị trí bất lợi hơn. Nguyên nhân của những sự xâm phạm này chủ yếu là do thiếu cơ chế kiểm soát hữu hiệu dẫn đến sự lạm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng từ đó xâm phạm đến các QCN. Do đó cần có một cơ chế nhằm hạn chế sự lạm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Một cơ chế hữu hiệu nhằm hạn chế sự lạm quyền đó chính là thông qua hoạt động xét xử của Tòa án. Bởi lẽ thông qua hoạt động xét xử của Tòa án, Tòa án kiểm tra tính đúng đắn trong hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Kiểm tra tính hợp pháp của các tài liệu, chứng cứ do cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát thu thập. Đồng thời kiểm tra tính đúng đắn trong hành vi tố tụng của những người tiến hành tố tụng. Từ đó phát hiện việc vi phạm thủ tục tố tụng, xâm phạm quyền con người của các cơ quan tiến hành tố tụng. - Trong quá trình tiến hành tố tụng, Tòa án có trách nhiệm tôn trọng
  • 35. 27 QCN: Khi tham gia vào các hoạt động Tố tụng hình sự, dù với tư cách là người bị buộc tội hay là người bị hại, người tham gia tố tụng trong các vụ án hình sự thì họ vẫn được pháp luật bảo vệ và tôn trọng những quyền cơ bản thiết thân của con người. Trong lĩnh vực Tố tụng hình sự, các QCD, QCN được bảo vệ bởi Tòa án, điều đó thể hiện ở chỗ khi thực hiện chức năng của mình Tòa án không những chỉ bảo vệ những quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ, từ đó bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, mà ngay cả đối với bị can, bị cáo mặc dù họ là những đối tượng bị hoặc có khả năng bị áp dụng trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất là trách nhiệm hình sự nhưng những quyền cơ bản, thiết thân nhất như: quyền được tôn trọng về nhân phẩm, quyền được xét xử công bằng, quyền được bào chữa… vẫn phải được tôn trọng, bảo đảm. - Tòa án bảo vệ các quyền tự do và an toàn của cá nhân, cơ quan, tổ chức: Điều đó thể hiện ở chỗ mọi hành vi xâm phạm đến các quyền tự do, an toàn của cá nhân, cơ quan tổ chức đều phải được Tòa án xét xử bằng bản án và phải chịu hậu quả pháp lý bất lợi đó là hình phạt tương ứng với tính chất và mức độ của hành vi phạm tội. 1.2.3. Các tiêu chí quốc tế về Quyền con người và bảo vệ quyền con người trong hoạt động xét xử của Tòa án 1.2.3.1. Các tiêu chí quốc tế về quyền con người QCN nói chung và QCN trong tố tụng hình sự nói riêng được ghi nhận trong các văn bản pháp luật là tiền đề để QCN được bảo đảm thực thi trong đời sống. QCN được ghi nhận trong các văn bản pháp luật của Nhà nước tạo thành hệ thống các qui phạm pháp luật một mặt, phản ánh nội dung các QCN và thủ tục thực hiện các quyền đó, đồng thời cũng là cơ chế pháp lý bảo đảm QCN trong hoạt động Tố tụng hình sự. Những QCN trong Tố tụng hình sự được ghi nhận trong pháp luật quốc gia nhưng phải trên các tiêu chí về nhân
  • 36. 28 quyền được ghi nhận trong pháp luật quốc tế mà trọng tâm là các Bộ luật về nhân quyền. Theo tiêu chí quốc tế thì những QCN trong Tố tụng hình sự được thể hiện ở những tiêu chí sau: Thứ nhất, quyền an toàn thân thể, danh dự, nhân phẩm của cá nhân trong Tố tụng hình sự Đây là quyền đối với những người bị tình nghi phạm tội bị áp dụng những biện pháp ngăn chặn như: bắt, tạm giữ, tạm giam; người bị kết án phải chấp hành hình phạt tù trong các trại cải tạo và còn được mở rộng đến những đối tượng bị tạm giữ hành chính. Mặc dù là những người này ít nhiều đã gây nguy hại cho xã hội hoặc bị tình nghi có hành vi gây nguy hại cho xã hội và hạn chế tự do nhưng quyền của họ vẫn được ghi nhận và bảo đảm thi hành bằng biện pháp pháp luật. Quyền của những người này chiếm một vị trí quan trọng trong luật Nhân quyền Quốc tế và luật Nhân quyền quốc gia. Các quyền cơ bản của người bị tước tự do được bảo vệ tại Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền (1948), Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (1966) (ICCPR) và nhiều văn kiện khác như “Tập hợp các nguyên tắc bảo vệ tất cả những người bị giam hay cầm tù dưới bất kỳ hình thức nào” được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua bằng Nghị quyết 43/173 ngày 9/12/1988 (bao gồm 39 nguyên tắc cụ thể); “Các quy tắc của Liên hợp quốc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước tự do” được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua bằng Nghị quyết 45/113 ngày 14/12/1990... Về cơ bản, những người bị tước tự do được bảo đảm các quyền sau đây: Quyền được bảo vệ không bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục; Quyền được bảo vệ để khỏi bị bắt, giam giữ tùy tiện; Quyền được đối xử nhân đạo và tôn trọng nhân phẩm của những người bị tước tự do; Quyền thông tin, liên lạc với bên ngoài; Quyền có cơ chế khiếu nại, tố cáo hữu hiệu; Quyền đối với người chưa thành niên.
  • 37. 29 Thứ hai, quyền được xét xử công bằng “Quyền được xét xử công bằng” là một quyền cơ bản và có tính phổ quát cao, tồn tại trong cả các vụ án hình sự và phi hình sự. Pháp luật nhiều quốc gia quy định quyền này với quan niệm rằng nó là quyền thiết yếu trong mọi quốc gia pháp trị. Việc đối xử với một người khi họ bị buộc tội phản ánh rõ nhà nước tôn trọng nhân quyền đến mức nào, bởi vậy, quyền được xét xử công bằng đã được coi là một cơ bản và đặc thù của các xã hội dân chủ. Giống như đặc tính của mọi nhân quyền là phụ thuộc lẫn nhau, quyền được xét xử công bằng với các quyền khác có mối quan hệ hai chiều. Một phiên toà công bằng là yếu tố thiết yếu để bảo đảm các quyền cơ bản khác của con người như quyền sống, quyền được an toàn về thân thể, tự do ngôn luận... Ngược lại, trong một xã hội không dân chủ, các quyền cơ bản của con người không được tôn trọng thì khó có thể có chuyện mọi người đều được xét xử công bằng. Quan hệ chặt chẽ giữa quyền được xét xử công bằng với pháp trị và dân chủ cũng đã được khẳng định chính thức trong Tuyên ngôn Dakar về quyền được xét xử công bằng tại châu Phi. Từ các văn bản pháp luật đã nêu thì quyền được xét xử công bằng được hiểu như sau: Quyền được xét xử công bằng là quyền cơ bản của người bị buộc tội trong vụ án hình sự và của các bên trong vụ việc phi hình sự trước cơ quan tư pháp (công an, công tố và toà án), được pháp luật quốc gia và quốc tế ghi nhận và bảo vệ, bao gồm nhiều quyền cụ thể (như được bảo đảm quyền bào chữa, được xét xử nhanh chóng, công khai bởi toà án độc lập, không thiên vị...) nhằm bảo đảm cho việc xét xử được công bằng, cũng như các quyền và lợi ích hợp pháp của mọi cá nhân. Quyền được xét xử công bằng bao gồm những quyền cụ thể sau: Quyền bình đẳng trước tòa án và được xét xử bởi tòa án độc lập, không thiên vị, công khai; Quyền bào chữa; Quyền được xét xử theo thủ tục riêng của người chưa thành niên; Quyền kháng cáo; Quyền được bồi thường khi bị kết án oan;
  • 38. 30 Quyền không bị xét xử hai lần về cùng một tội danh; Không bị truy cứu hình sự vì lý do không thực hiện được nghĩa vụ hợp đồng; Không bị coi là có tội nếu hành vi không cấu thành tội phạm theo pháp luật vào thời điểm thực hiện hành vi; Không áp dụng hồi tố cũng được nghiên cứu khi đề cập đến quyền được xét xử công bằng. 1.2.3.2. Nội dung bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự Bảo vệ QCN trong Tố tụng hình sự không chỉ đơn thuần là việc ghi nhận các QCN trong pháp luật Tố tụng hình sự mà còn ở chỗ hiện thực nó trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự, cũng như bảo đảm sự giám sát có hiệu quả đối với QCN trong Tố tụng hình sự. Các quy định về quyền tố tụng của các chủ thể tham gia Tố tụng hình sự tự thân chúng chưa giải quyết được vấn đề bảo đảm các quyền, tự do của các chủ thể khi tham gia vào hoạt động Tố tụng hình sự. Bảo đảm QCN trong Tố tụng hình sự chính là cách thức nhằm làm cho các quyền Tố tụng hình sự của các chủ thể tham gia hoạt động Tố tụng hình sự được thực thi trong thực tiễn. Đó chính là cơ chế bảo đảm QCN trong Tố tụng hình sự, được xác định là hệ thống các biện pháp, cách thức pháp lý nhằm bảo vệ QCN và làm cho việc thực thi các quyền đó trong thực tiễn giải quyết vụ án hình sự. Mặt khác, hệ thống pháp luật Tố tụng hình sự được xây dựng trên cơ sở các tiêu chí Quốc tế về QCN. Một trong các yêu cầu của Luật Quốc tế về Nhân quyền là các quốc gia thành viên của Công ước phải nội luật hóa các tiêu chí Quốc tế về Nhân quyền. Do đó, Luật Tố tụng hình sự của mỗi quốc gia cần đưa ra các quy định phù hợp với Công ước Quốc tế về QCN. Vì vậy, nội dung bảo đảm quyền con người trong Tố tụng hình sự được thể hiện qua các nội dung sau: - Mục đích của Tố tụng hình sự: Bảo đảm QCN cần được xác định là một trong các mục đích của Tố tụng hình sự. Trong Tố tụng hình sự việc phát hiện, làm rõ tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội
  • 39. 31 bảo đảm cho công lý được thực thi thường được các Bộ luật Tố tụng hình sự coi là mục đích quan trọng có tính chất hàng đầu. Quan niệm này không sai, nhưng không được coi đó là mục đích duy nhất, mà bên cạnh đó Tố tụng hình sự còn phải có mục đích tôn trọng bảo đảm QCN, hướng hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng trong khi chứng minh tội phạm, giải quyết vụ án còn có trách nhiệm bảo vệ QCN. Chỉ có như vậy, tinh thần của Công ước quốc tế về QCN mới được thể hiện đầy đủ trong luật Tố tụng hình sự. - Các nguyên tắc cơ bản của Tố tụng hình sự: Nguyên tắc cơ bản của Luật Tố tụng hình sự là phương châm, định hướng cốt lõi cho hoạt động tố tụng hình sự nên nó phản ánh quy luật khách quan, đồng thời thể hiện đầy đủ nhất chính sách Tố tụng hình sự đối với việc giải quyết vụ án hình sự. Với quan niệm này thì các nguyên tắc cơ bản của luật Tố tụng hình sự chi phối không những đến quá trình xây dựng pháp luật Tố tụng hình sự mà còn chi phối toàn bộ hoạt động tố tụng của các chủ thể quan hệ Tố tụng hình sự. Vì vậy, việc tôn trọng và bảo đảm QCN được ghi nhận trong mục đích của Tố tụng hình sự phải được thể hiện ở các nguyên tắc cơ bản của Luật Tố tụng hình sự. Theo đó, trong Bộ luật tố tụng hình sự cần phải có những nguyên tắc sau: Nguyên tắc bảo đảm tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm con người trong Tố tụng hình sự; Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đằng trong Tố tụng hình sự; Nguyên tắc được xét xử trong thời hạn nhanh nhất nếu có thể của người bị nghi là phạm tội bằng một tòa án; Nguyên tắc xét xử công bằng; Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng; Nguyên tắc tranh tụng; Nguyên tắc suy đoán vô tội; Nguyên tắc được quyền khiếu nại, tố cáo đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; Nguyên tắc được bồi thường của những người bị oan trong Tố tụng hình sự…
  • 40. 32 Chương 2 VAI TRÒ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI CỦA TÒA ÁN TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 2.1. Vai trò bảo vệ Quyền con người của Tòa án trong pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam giai đoạn trước năm 1945 Trong giai đoạn này do đặc điểm chính trị, xã hội nước ta vẫn là một Nhà nước Phong kiến nửa thuộc địa nên luật Tố tụng hình sự chưa phát triển với tư cách là một ngành luật độc lập, mà các quy định của luật Tố tụng hình sự được ban hành lẫn vào các quy định của luật Hình sự, Tố tụng Dân sự, Dân sự, luật Đất đai, Hôn nhân và gia đình… Đến thời kỳ Pháp thuộc, với chính sách chia để trị, thực dân Pháp đã chia nước ta thành ba miền với ba chế độ pháp luật khác nhau. Ở Nam Bộ được coi là thuộc địa nên thực dân Pháp áp dụng Luật tố Tụng hình sự của Pháp. Ở Bắc Bộ và Trung Bộ là sứ được bảo hộ, nên trong thời kỳ đầu tiếp tục áp dụng luật lệ của Nhà nước Phong kiến, sau đó được thay thế bằng Bộ luật Tố tụng hình sự Trung kỳ vào năm 1921 và Bộ luật Tố tụng hình sự Bắc kỳ năm 1935. Hệ thống Tòa án ở mỗi kỳ đều có ba cấp: Tòa án sơ thẩm, Tòa án đệ nhị cấp và Tòa án thượng thẩm; Tòa án Pháp để xét xử người Pháp và người ngoại quốc phạm tội. Trong giai đoạn này pháp luật nói chung và pháp luật Tố tụng hình sự nói riêng vẫn còn mang đậm bản chất pháp luật Phong kiến: Pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp địa chủ Phong kiến, pháp luật Phong kiến là công cụ chuyên chính của giai cấp địa chủ Phong kiến. Nó ghi nhận sự bất bình đẳng giữa các đẳng cấp khác nhau trong xã hội. Nó bảo vệ các hình thức áp bức, bóc lột của địa chủ Phong kiến đối với nông dân và những người lao động khác. Có thể nói, pháp luật Phong kiến nói chung và pháp luật Tố tụng hình
  • 41. 33 sự thời kỳ Phong kiến nói riêng chính là công cụ bảo đảm sự thống trị về Kinh tế, Chính trị và tinh thần của giai cấp địa chủ, Phong kiến trong xã hội. Về bản chất, tất cả các luật pháp đó chung quy chỉ nhằm mục đích duy nhất là duy trì chính quyền của chúa phong kiến đối với nông nô. Với bản chất như trên pháp luật Phong kiến có những đặc điểm như sau: - Pháp luật phong kiến phân chia xã hội Phong kiến thành những đẳng cấp khác nhau và quy định cho mỗi đẳng cấp những đặc quyền khác nhau. Mỗi đẳng cấp, mỗi thứ bậc có địa vị xã hội khác nhau và có địa vị pháp lý khác nhau. Pháp luật Phong kiến thừa nhận mỗi đẳng cấp có những đặc quyền riêng. Đặc quyền của các đẳng cấp phụ thuộc vào chức tước, danh vị, xuất thân…. Trong xã hội Phong kiến vua có toàn quyền như: quyền xét xử nông dân, quyền đặt ra luật lệ, quyền thu thuế, quyền tịch thu tài sản của nông dân. Thậm trí lãnh chúa còn có quyền định đoạt một cách tùy tiện đối với thân thể của người nông dân và thân thể của cả vợ con họ nữa. Tính chất đặc quyền của pháp luật Phong kiến còn thể hiện ở việc quy định sự trừng phạt khác nhau căn cứ vào đẳng cấp, thứ bậc của người phạm tội và người bị hại trong xã hội. - Pháp luật Phong kiến dung túng việc sử dụng bạo lực và sự tùy tiện của địa chủ Phong kiến đối với nông dân và những người lao động khác trong xã hội. - Pháp luật Phong kiến rất hà khắc, dã man: Mục đích hình phạt trong pháp luật Phong kiến chủ yếu là gây đau đớn về thể xác và tinh thần cho con người, làm nhục và hạ thấp con người. Trong pháp luật Phong kiến đã ghi nhận và áp dụng rộng rãi các hình phạt hết sức dã man như: chắt đầu, treo cổ, chôn sống, thiêu sống, ném vào vạc dầu… - Pháp luật Phong kiến có nhiều quy định mang tính chất tôn giáo và đạo đức Phong kiến.
  • 42. 34 Tuy bản chất của pháp luật Phong kiến là ý chí của giai cấp thống trị và là công cụ để giai cấp thống trị duy trì và củng cố địa vị của mình. Nhưng nó cũng mang tính xã hội tích cực, nó góp phần xóa bỏ chế độ chiếm hữu nô lệ, xây dựng một xã hội mới phát triển hơn, tiến bộ hơn so với chế độ chiếm hữu nô lệ. Mặc dù có những đóng góp tích cực như vậy nhưng Pháp luật Phong kiến nói chung và pháp luật Tố tụng hình sự Phong kiến nói riêng vẫn còn có những hạn chế rất lớn cụ thể: trong pháp luật Phong kiến hầu như không có quy định nào đề cập tới việc bảo vệ quyền lợi của người nông dân và những người lao động khác trong xã hội. Mặt khác trong thời kỳ nay hệ thống Tòa án của nước ta vẫn còn mang đậm dấu ấn của chế độ Phong kiến và Đế quốc, do đó Tòa án cũng là một công cụ để đảm bảo quyền thống trị của chế độ Phong kiến, Đế quốc. Vì vậy, trong giai đoạn này vai trò bảo vệ QCN của Tòa án chưa được thể hiện một cách rõ ràng. 2.2. Vai trò bảo vệ Quyền con người của Tòa án trong pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1988 Sau khi cách mạng tháng 8 thành công, bản Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khai sinh ra Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, sau đó là bản Hiến pháp năm 1946 - bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta. Việc ra đời của bản Tuyên ngôn độc lập và bản Hiến pháp năm 1946 đã đánh dấu mốc quan trọng thể hiện sự tiến bộ trong lịch sử lập pháp cũng như nội dung pháp luật của nước ta. Bản tuyên ngôn độc lập bên cạnh việc khẳng định độc lập, chủ quyền của nước ta còn ghi nhận các quyền cơ bản của con người như: Quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc…. Các quyền đó tiếp tục được khẳng định tại Hiến pháp năm 1946. Tuy nhiên trong thời kỳ đầu do chính quyền Nhà nước còn non trẻ, lại phải đương đầu với nhiều thế lực phản động trong và ngoài nước nên Nhà nước ta chưa kịp ban hành đầy đủ những quy định trong lĩnh vực Tố tụng hình sự, mà chỉ ban hành được một số văn
  • 43. 35 bản pháp luật để đảm bảo trật tự xã hội lúc bấy giờ, ngoài ra Nhà nước cho phép sử dụng tạm thời một số quy định của pháp luật chế độ cũ với điều kiện là không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể Dân chủ Công hòa. Pháp luật Tố tụng hình sự thời kỳ này không được ban hành dưới hình thức luật hoặc bộ luật mà các quy định về Tố tụng hình sự được ban hành dưới hình thức các sắc lệnh. Cụ thể: Ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công chính quyền cách mạng đã ban hành sắc lệnh về việc thành lập Tòa án quân sự vào ngày 13/9/1945 và Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 quy định thành lập Tòa án thường với sự tham gia của phụ thẩm nhân dân. Sau này sắc lệnh ngày 13/9/1945 được bổ sung bằng sắc lệnh số 21/SL ngày 14/02/1946 quy định về thẩm quyền của Tòa án quân sự trong đó đã quy định “Tòa án quân sự có thẩm quyền xét xử các tội phạm phương hại đến độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”. Tiếp theo đó hàng loạt các văn bản pháp luật khác được ban hành như: Sắc lệnh số 40/SL ngày 29/3/1946 quy định về quyền tự do thân thể; sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946 quy định về nhiệm vụ của dự thẩm, biện lý, chánh án…; sắc lệnh 131/SL ngày 20/7/1946 quy định về trách nhiệm của Tư pháp Công an trong việc giải quyết vụ án; Sắc lệnh 190/SL ngày 01/10/1946 quy định về thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân, sắc lệnh số 163/SL ngày 23/8/1946 quy định thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự. Ngày 09/11/1946 Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thông qua Hiến pháp 1946 - bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta, trong đó có quy định về hệ thống cơ quan tư pháp trong đó có Tòa án. Trong thời gian này hệ thống Tòa án được chia thành ba cấp: Tòa án sơ cấp có thẩm phán làm cả việc xét xử và công tố; Tòa án đệ nhị cấp có hai loại Thẩm phán: Thẩm phán xét xử và Thẩm phán làm nhiệm vụ công tố dưới sự lãnh đạo của công tố viên: Tòa án thượng thẩm có Thẩm phán xét xử, chưởng lý, biện lý, phó biện lý. Đến năm 1950 theo sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 đã đổi tên các Tòa
  • 44. 36 án cho phù hợp theo đó: Tòa án sơ cấp được đổi tên thành Tòa án nhân dân huyện, Tòa án đệ nhị cấp được đổi thành Tòa án nhân dân tỉnh, Hội đồng phúc thẩm đổi thành Tòa án nhân dân phúc thẩm khu hoặc thành phố, Phụ thẩm nhân dân được đổi thành Hội thẩm nhân dân và Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán. Sau khi giải phóng miền Bắc, Nhà nước ta đã thông qua nhiều văn bản pháp luật quan trọng như: Luật số 103/SL-L005 ngày 20/5/1957 quy định về đảm bảo quyền tự do thân thể và bất khả xâm phạm về nhà ở, đồ vật, thư tín của công dân; Sắc luật 002/SL ngày 18/6/1957 quy định các trường hợp phạm tội quả tang và khẩn cấp. Năm 1958 Quốc hội đã quyết định thành lập Tòa án nhân dân Tối cao và hệ thống các Tòa án địa phương; năm 1959 thành lập Viện công tố Trung ương và Viện công tố các cấp. Trên cơ sở Hiến pháp 1959, Quốc hội đã ban hành Luật tổ chức Tòa án nhân dân và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân vào năm 1960 và sau Hiến pháp 1980 thì Quốc hội ban hành Luật tổ chức Tòa án nhân dân và Luật tổ chức Viện kiểm sát vào năm 1981 cho phù hợp với tình hình mới. Tóm lại, trong thời kỳ này pháp luật nói chung và pháp luật Tố tụng hình sự nói riêng này còn nhiều hạn chế kể cả về hình thức lẫn nội dung. Về hình thức các văn bản pháp luật chủ yếu được ban hành dưới hình thức sắc lệnh, sắc luật chưa được ban hành thành các luật, Bộ luật, vì vậy nên hiệu lực pháp lý của các văn bản này thường không cao. Các quy định về Tố tụng hình sự nằm rải rác ở nhiều các văn bản pháp luật khác nhau, đôi khi có sự chồng chéo gây khó khăn cho việc áp dụng. Về nội dung pháp luật nói chung và pháp luật Tố tụng hình sự nói riêng còn nhiều hạn chế, điều đó thể hiện pháp luật thời kỳ này còn chịu ảnh hưởng nhiều của pháp luật chế độ cũ. Các quyền về tố tụng của công dân chưa được quy định cụ thể, các trình tự, thủ tục tố tụng cũng không được quy định chặt chẽ. Vấn đề QCD, QCN cũng như vấn
  • 45. 37 đề đảm bảo QCD, QCN chưa được đề cập nhiều trong pháp luật nói chung và pháp luật Tố tụng hình sự nói riêng. Nguyên nhân của những hạn chế trên là do hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ đất nước mới giành được độc lập, chính quyền còn non trẻ, xong đất nước lại bị phân chia hai miền Nam, Bắc, với chế độ chính trị và pháp luật khác nhau. 2.3. Vai trò bảo vệ Quyền con người của Tòa án trong pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 Ngày 28/6/1988 Quốc hội đã thông qua Bộ luật Tố tụng hình sự và Bộ luật này có hiệu lực từ ngày 01/01/1989. Đây là Bộ luật Tố tụng hình sự đầu tiên của Việt Nam, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 được ban hành đánh dấu một bước cải cách, đổi mới pháp luật Tố tụng hình sự nước ta theo hướng dân chủ hóa Tố tụng hình sự, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng, tăng cường tính công khai, đưa ra và thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội, khắc phục những định kiến theo hướng buộc tội, bảo đảm sự độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của hội đồng xét xử. Quyền và trách nhiệm của Viện kiểm sát được đề cao trong việc đấu tranh tội phạm. Nâng cao trách nhiệm của các Điều tra viên, tăng cường các bảo đảm pháp chế trong hoạt động Tố tụng hình sự. Vị trí, vai trò của người bào chữa ngày càng được nâng cao trong hoạt động tố tụng theo hướng mở rộng quyền của họ ở giai đoạn điều tra và các giai đoạn tố tụng khác. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 đã có nhiều quy định nhằm đảm bảo QCD, QCN đối với bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng, cụ thể Bộ luật tố tụng năm 1988 đã ghi nhận nhiều nguyên tắc tiến bộ nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác như nguyên tắc: Tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân, nguyên tắc đảm bảo quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật, nguyên tắc đảm bảo quyền bình đẳng trước Tòa án, nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa, nguyên tắc đảm bảo sự vô tư của