Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Luận văn thạc sĩ ngành luật: Bảo đảm quyền con người của người chưa thành niên trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, cho các bạn tham khảo
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
Quyền con người của người chưa thành niên trong điều tra, HOT
1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ BÍCH VÂN
B¶O §¶M QUYÒN CON NG¦êI CñA NG¦êI CH¦A THµNH NI£N
TRONG GIAI §O¹N §IÒU TRA vô ¸N H×NH Sù
(trªn c¬ së thùc tiÔn t¹i ®Þa bµn tØnh Hµ Giang)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2016
2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ BÍCH VÂN
B¶O §¶M QUYÒN CON NG¦êI CñA NG¦êI CH¦A THµNH NI£N
TRONG GIAI §O¹N §IÒU TRA Vô ¸N H×NH Sù
(trªn c¬ së thùc tiÔn t¹i ®Þa bµn tØnh Hµ Giang)
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN THU HẠNH
HÀ NỘI - 2016
3. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn
thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Thị Bích Vân
4. MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN
CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG
GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ.................................... 7
1.1. Nhận thức chung về người chưa thành niên...................................... 7
1.2. Nhận thức chung về bảo đảm quyền con người của người
chưa thành niên trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ................ 9
1.2.1. Nhận thức chung về giai đoạn điều tra vụ án hình sự.......................... 9
1.2.2. Khái niệm bảo đảm quyền con người của người chưa thành niên
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự................................................11
1.2.3. Sự cần thiết và ý nghĩa của việc bảo đảm quyền con người của
người chưa thành niên trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự...........14
1.3. Pháp luật quốc tế về bảo đảm quyền con người của người
chưa thành niên trong tố tụng hình sự...........................................17
1.3.1. Bảo đảm quyền của người chưa thành niên trong một số điều ước
Quốc tế ...............................................................................................17
1.3.2. Bảo đảm quyền con người của người chưa thành niên trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự một số
nước trên thế giới ...............................................................................26
5. 1.4. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển các quy định pháp
luật tố tụng hình sự Việt Nam về bảo đảm quyền con người
của người chưa thành niên trong giai đoạn điều tra các vụ án
hình sự ...............................................................................................33
1.4.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1988 ...............................................33
1.4.2. Giai đoa ̣n từ năm 1988 đến năm 2003 ...............................................36
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI
CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU
TRAVỤÁNHÌNHSỰTRÊNĐỊABÀNTỈNHHÀGIANG..................40
2.1. Quy định của Luật tố tụng hình sự về bảo đảm quyền con
người của người chưa thành niên trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự................................................................................................40
2.1.1. Bảo đảm quyền con người của người chưa thành niên bị tạm giữ,
bị khởi tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ...............................40
2.1.2. Bảo đảm quyền con người của bị hại, người làm chứng là người
chưa thành niên trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự .....................52
2.2. Thực tiễn bảo đảm quyền con người của người chưa thành
niên trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh
Hà Giang ...........................................................................................56
2.2.1. Khái quát tình hình tội phạm..............................................................56
2.2.2. Thực tiễn bảo đảm quyền con người của người chưa thành niên
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Hà Giang........59
2.2.3. Những tồn tại, vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật để bảo đảm
quyền con người của người chưa thành niên trong giai đoạn điều
tra vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Hà Giang .....................................65
6. Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VÀ MỘT
SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG BẢO ĐẢM QUYỀN CON
NGƯỜI CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG GIAI
ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY....69
3.1. Cơ sở của việc hoàn thiện pháp luật nhằm bảo đảm quyền
con người của người chưa thành niên trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự.....................................................................................69
3.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự nhằm bảo
đảm quyền con người của người chưa thành niên trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự.............................................................73
3.3. Một số giải pháp tăng cường bảo đảm quyền con người của
người chưa thành niên trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ...79
3.3.1. Tăng cường hướng dẫn đầy đủ và kịp thời về bảo đảm quyền con
người của người chưa thành niên trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự ................................................................................................80
3.3.2. Nâng cao năng lực nghiệp vụ, ý thức trách nhiệm và đạo đức nghề
nghiệp của điều tra viên trong giải quyết vụ án hình sự có liên quan
đến người chưa thành niên...................................................................81
3.3.3. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức
cho người dân về các quyền con người của người chưa thành niên
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự................................................83
3.3.4. Một số giải pháp khác ........................................................................85
KẾT LUẬN....................................................................................................90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................93
7. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS: Bộ Luật Hình sự
BLTTHS: Bộ Luật Tố tụng hình sự
CQĐT: Cơ quan điều tra
CQTHTT: Cơ quan tiến hành tố tụng
ĐTV: Điều tra viên
NCTN: Người chưa thành niên
NTHTT: Người tiến hành tố tụng
TTHS: Tố tụng hình sự
VAHS: Vụ án hình sự
8. DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng Tên bảng Trang
Bảng 2.1: Tình hình điều tra vụ án có bị can là người chưa
thành niên từ năm 2010 đến năm 2014 58
Bảng 2.2: Tình hình người bị hại, người làm chứng là người
chưa thành niên trong vụ án hình sự từ năm 2010 đến
năm 2014 63
9. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người là thành quả phát triển của lịch sử lâu dài sự nghiệp
đấu tranh giải phóng, cải tạo xã hội và cải tạo thiên nhiên của cả nhân loại.
Nhà nước ta với mục tiêu phấn đấu là Nhà nước của dân, do dân và vì
dân do vậy bảo đảm quyền con người được ghi nhận và thể hiện trong việc
Nhà nước không ngừng hoàn thiện hệ thống Pháp luật, chăm lo đến quyền, lợi
ích hợp pháp của người dân, không ngừng cải cách tư pháp, tạo môi trường
lành mạnh, cải thiện đời sống văn hóa, đời sống vật chất, tinh thần, nâng cao
nhận thức của người dân về pháp luật. Hiến pháp 2013 vừa được sửa đổi, ban
hành càng khẳng định quyết tâm của Nhà nước trong việc công nhận, tôn
trọng, bảo đảm các quyền cơ bản của con người: “các quyền con người,
quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận,
tôn trọng và bảo vệ theo Hiến pháp và pháp luật” [48, tr. 4]. Việc làm đó
nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của toàn xã hội đối với việc bảo đảm
công lý, bảo đảm quyền con người.
Trong những năm gần đây, tình trạng tội phạm do người chưa thành
niên ở nước ta có chiều hướng ngày càng gia tăng cả về số lượng, tính chất
nguy hiểm và mức độ phạm tội. Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện
nay, NCTN được hiểu là người chưa đủ 18 tuổi – đây là những người chưa
phát triển đầy đủ về thể chất, nhận thức và tâm sinh lý và là đối tượng cần
được quan tâm, giáo dục, giúp đỡ của gia đình, nhà trường và xã hội.
Hoạt động điều tra trong TTHS là một hoạt động của Nhà nước liên
quan rất chặt chẽ với quyền con người. CQĐT nằm ở vị trí đầu đầu tiên trong
hệ thống CQTHTT, thực hiện giai đoạn đầu của quá trình TTHS. Hoạt động
của CQĐT thực hiện nhiệm vụ chung của quá trình tố tụng đó là phát hiện
10. 2
chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội,
không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Hoạt động điều tra được
áp dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để xác định tội phạm và người
thực hiện hành vi tội phạm, là giai đoạn các biện pháp cưỡng chế Nhà nước
được áp dụng phổ biến nhất; và vì vậy là giai đoạn quyền con người nói
chung và của NCTN nói riêng có nguy cơ dễ bị xâm hại nhất.
Thực tiễn viê ̣c giải quyết vụán hình sự trong nh ững năm qua cho
thấy rằng vẫn xảy ra các trường hợp vi phạm quyền con người của NCTN,
những vi phạm đó xảy ra là do nhiều nguyên nhân, do hạn chế của Pháp luật,
do nhận thức của người tiến hành tố tụng, quy định về chế độ trách nhiệm
của Nhà nước, CQTHTT, NTHTT đối với NCTN chưa rõ ràng. Vì vậy, có
thể nói nghiên cứu việc bảo đảm quyền con người của NCTN nói chung và
trong giai đoạn điều tra VAHS nói riêng trong TTHS từ góc độ lập pháp
cũng như áp dụng Pháp luật đóng vai trò quan trọng.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề bảo đảm quyền con người nói chung và bảo đảm quyền con
người của NCTN nói riêng là vấn đề được Đảng, Nhà nước cùng các nhà khoa
học xã hội hết sức quan tâm nghiên cứu. Các trung tâm nghiên cứu quan trọng
được thành lập, ví dụ như: Trung tâm nghiên cứu quyền con người trực thuộc
Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Trung tâm nghiên cứu Quyền con
người trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội. Tuy nhiên các công trình nghiên
cứu liên quan đến đề tài: “Bảo đảm quyền con người của người chưa thành
niên trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự” chưa được công bố nhiều.
Các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo, bài viết đề cập đến quyền
con người nói chung và NCTN nói riêng trong TTHS có thể kể đến như sau:
Nguyễn Quang Hiền (2008) Bảo vệ quyền con người trong TTHS Việt
Nam, luận án tiến sỹ luật học Viện Nhà nước và Pháp luật Hà Nội.
11. 3
Trường đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2010), Bảo đảm quyền
con người trong tư pháp hình sự Việt Nam (sách chuyên khảo), Nhà xuất bản
Đại học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh.
Vũ Ngọc Bình (2000), Quyền con người trong quản lý tư pháp, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Lê Cảm - Đỗ Thị Phượng (2004), “Tư pháp hình sự đối với người chưa
thành niên: Những khía cạnh pháp lý, hình sự, tố tụng hình sự, tội phạm học
và so sánh luật học”, Phần 1, phần 2, phần 3 Tạp chí tòa án nhân dân.
Đỗ Thị Phượng (2008) Những vấn đề lý luận và thực tiễn về thủ tục tố
tụng đối với người chưa thành niên trong luật Tố tụng hình sự Việt Nam, luận
án tiến sỹ Luật học, Hà Nội.
Vũ Thị Thu Quyên (2012) “Quyền của người chưa thành niên phạm tội
trong pháp luật Quốc tế và pháp luật Việt Nam”, tạp chí dân chủ và Pháp
luật, số chuyên đề 05/2012.
Đề tài khoa học cấp Đại học Quốc gia “Bảo vệ quyền con người bằng
Pháp luật hình sự và Pháp luật tố tụng hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà
nước Pháp quyền Việt Nam” của GS.TSKH. Lê Văn Cảm, TS Nguyễn Ngọc
Chí, Ths. Trịnh Quốc Toản đồng chủ trì.
“Bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương trong tố tụng hình sự” của Đồng
tác giả Nguyễn Đăng Dung, Phạm Hồng Thái, Lê Văn Cảm, Vũ Công Giao,
Lã Khánh Tùng.
Trong các công trình này, các tác giả nghiên cứu việc bảo đảm quyền
con người nói chung và NCTN nói riêng trong TTHS. Do phạm vi rộng nên
các tác giả chưa đi sâu vào nghiên cứu thật đầy đủ, toàn diện trong từng giai
đoạn TTHS với các đối tượng khác nhau.
Đánh giá chung về các công trình đã được công bố có nội dung đề cập
đến vấn đề bảo đảm quyền con người nói chung, NCTN nói riêng chưa có
12. 4
công trình nào tiếp cận một cách trực tiếp về vấn đề bảo đảm quyền con người
của NCTN trong giai đoạn điều tra VAHS. Với quan điểm bảo đảm quyền
con người của NCTN, xuất phát từ cơ sở lý luận của chính sách hình sự được
ghi nhận trong pháp luật quốc tế và quốc gia. Giai đoạn điều tra – giai đoạn
quan trọng của tiến trình TTHS nhằm phục vụ chức năng buộc tội – là giai
đoạn bắt đầu đưa một người vào vòng tố tụng có vai trò rất quan trọng đối với
việc xử lý đúng đắn khách quan, toàn diện VAHS cũng như bảo đảm quyền
con người của NCTN. Nhận thấy đây là vấn đề khó nhưng rất quan trọng cả
về lý luận và thực tiễn vì vậy học viên quy ết định chọn đề tài “Bảo đảm
quyền con người của người chưa thành niên trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự” cho luận văn thạc sĩ của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ khái niệm bảo đảm quyền con người của NCTN
trong giai đoạn điều tra VAHS, đồng thời nghiên cứu thực trạng quy định
pháp luật cũng như thực tiễn hoạt động điều tra tại tỉnh Hà Giang, làm sáng tỏ
những bất cập, hạn chế, để đưa ra những kiến nghị và giải pháp tăng cường
bảo đảm quyền con người của NCTN trong giai đoạn điều tra VAHS theo
TTHS Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là:
- Làm rõ nhận thức chung về khái niệm NCTN và bảo đảm quyền con
người của NCTN trong giai đoạn điều tra VAHS;
- Nghiên cứu quy định luật pháp Quốc tế và pháp luật một số nước trên
thế giới về bảo đảm quyền con người của NCTN trong giai đoạn điều tra VAHS.
- Phân tích các quy định của BLTTHS liên quan đến bảo đảm quyền
con người của NCTN trong giai đoạn điều tra VAHS; tìm ra những hạn chế
13. 5
và bất cập về bảo đảm quyền con người của NCTN trong thực tiễn điều tra
VAHS trên địa bàn tỉnh Hà Giang.
- Kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và biện pháp tăng
cường bảo đảm quyền con người của NCTN trong giai đoạn điều tra VAHS.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu về quyền và lợi ích của NCTN trong phạm vi quy định
của pháp luật Việt Nam, tập trung chủ yếu vào nội dung bảo đảm quyền con
người của NCTN trong giai đoạn điều tra VAHS.
- Thực tiễn bảo đảm quyền con người của NCTN trong giai đoạn điều tra
VAHS từ năm 2010 đến năm 2014 (trên địa bàn tỉnh Hà Giang). Những vướng
mắc, tồn tại về vấn đề bảo đảm quyền con người khi giải quyết VAHS liên quan
đến NCTN.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác-
Lênin (duy vật biện chứng và duy vật lịch sử), tư tưởng Hồ Chí Minh và các
quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về cải cách Pháp luật.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng là phân tích, tổng hợp,
so sánh, thống kê…
5. Nhiệm vụ của luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ vấn đề bảo đảm quyền con người của
NCTN trong giai đoạn điều tra VAHS.
- Phân tích làm rõ tình hình thực trạng bảo đảm quyền con người của
NCTN trong giai đoạn điều tra VAHS trên địa bàn tỉnh Hà Giang và nguyên
nhân của thực trạng đó.
- Luận văn góp phần xác định đòi hỏi sự cần thiết của đề tài: Bảo đảm
quyền con người của NCTN trong giai đoạn điều tra VAHS.
- Xác định phương hướng, quan điểm của Đảng và Nhà nước trong lĩnh
vực Bảo đảm quyền con người của NCTN.
14. 6
- Luận văn đưa ra những giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật và
giải pháp nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền con người của NCTN trong giai
đoạn điều tra VAHS.
- Luận văn so sánh TTHS Việt Nam trong lĩnh vực bảo đảm quyền con
người của NCTN trong giai đoạn điều tra giai đoạn từ 1945 đến nay và sự phù
hợp với Luật pháp Quốc tế về bảo đảm quyền con người của NCTN trong giai
đoạn điều tra VAHS.
6. Những đóng góp mới của đề tài
- Được thực hiện và nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Hà Giang.
- Luận văn đã đưa ra được một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn
thiện các quy định của Pháp luật TTHS Việt Nam về bảo đảm quyền con người
của NCTN trong giai đoạn điều tra VAHS.
7. Cơ cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo đảm quyền con người của
người chưa thành niên trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
Chương 2: Bảo đảm quyền con người của người chưa thanh niên trong
giai đoạn điều tra của Luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành và thực tiễn
áp dụng trên địa bàn tỉnh Hà Giang.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự và một số giải pháp
nâng cao việc bảo đảm quyền con người của người chưa thành niên trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay.
15. 7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI
CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG GIAI ĐOẠN
ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Nhận thức chung về người chưa thành niên
Quá trình phát triển của một đứa trẻ từ khi sinh ra đến khi trưởng thành
được các nhà khoa học phân chia thành các giai đoạn khác nhau, trong đó có
giai đoạn chưa thành niên, nhưng việc xác định cụ thể thời điểm bắt đầu, kết
thúc tuổi chưa thành niên còn có nhiều ý kiến khác nhau (tuổi chưa thành niên
từ 14 -17 tuổi; 11 - 15 tuổi; 12 - 15 tuổi; hoặc nam là từ 14 - 16 tuổi, nữ là từ
11 - 13 tuổi; hoặc nam từ 12 - 17 tuổi, nữ là từ 12 - 15 tuổi) [15, tr. 17].
NCTN là những người đang trong giai đoạn phát triển, chưa hoàn thiện
về thể chất, tâm sinh lý. Trong độ tuổi chưa thành niên, con người chưa phát
triển đầy đủ cả về mặt thể lực, trí tuệ, tinh thần và nhân cách. Là những người
chưa có kinh nghiệm sống, thiếu kiến thức về pháp luật, dễ dàng thay đổi do
điều kiện sống tác động; Khả năng tự kiềm chế chưa tốt, chưa phân biệt về
hành vi khi mình thực hiện có nguy hiểm cho xã hội hay không. Nhận thức về
khái niệm NCTN được sử dụng trong các ngành như tâm lý học, giáo dục
học, xã hội học, luật học… Từ những góc độ khác nhau, cách hiểu khác nhau.
NCTN theo luật pháp Quốc tế và pháp luật Việt Nam chưa có một khái
niệm cụ thể nào, chủ yếu xác định NCTN qua độ tuổi, cụ thể:
Công ước quốc tế về quyền trẻ em ghi nhận: “Trong phạm vi của công
ước này, Trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp
dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn” [32, Điều 1] Theo
công ước này trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật
quốc gia có quy định khác.
16. 8
Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của LHQ về việc áp dụng pháp luật đối với
NCTN (hay còn được gọi là Quy tắc Bắc Kinh), được Đại hội đồng LHQ
thông qua ngày 29-11-1985 nêu rõ: "Người chưa thành niên là trẻ em hay
người ít tuổi tuỳ theo từng hệ thống pháp luật có thể bị xét xử vì phạm pháp
theo một phương thức khác với việc xét xử người lớn" [29, số 2.2 mục a].
Quy tắc tối thiểu phổ biến của LHQ về bảo vệ NCTN bị tước quyền tự
do thông qua ngày 14-12-1990 quy định: "Người chưa thành niên là người
dưới 18 tuổi. Giới hạn tuổi dưới mức này cần phải được pháp luật xác định và
không được tước quyền tự do của người chưa thành niên" [29, số 2.1, mục a].
Qua các quy định của Luật pháp Quốc tế cho thấy việc xác định một
người là NCTN không căn cứ vào đặc điểm tâm, sinh lý và sự phát triển về
thể chất hay tinh thần... mà thông qua căn cứ xác định một người là NCTN
chính là xác định độ tuổi. Độ tuổi được xác định chung là dưới 18 tuổi, và mở
ra một khả năng là tùy điều kiện mỗi nước có thể đưa ra độ tuổi chưa thành
niên thấp hơn 18 tuổi.
Trong hệ thống pháp luật của Việt Nam việc quy định độ tuổi chưa
thành niên được ghi nhận trong Hiến Pháp năm 2013, Bộ luật Hình sự năm
1999, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật Lao động, Bộ luật Dân sự,
và một số văn bản quy phạm Pháp luật khác. Trong các văn bản Pháp luật này
đều quy định tuổi của NCTN là dưới 18 tuổi và quy định riêng những chế
định Pháp luật đối với NCTN trong từng lĩnh vực cụ thể.
Không giống như pháp luật Quốc tế xác định trẻ em là NCTN dưới 18
tuổi, pháp luật Việt Nam có những quy định khác về NCTN và trẻ em. Theo
Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 2004: “Trẻ em là công dân Việt
Nam dưới 16 tuổi” [46, Điều 1]. Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005 ghi nhận:
“…Người chưa đủ mười tám tuổi là người chưa thành niên” [47, Điều 18]. Bộ
luật hình sự 1999 quy định:
17. 9
1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự
về mọi tội phạm. 2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16
tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do
cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng [44, Điều 12]. BLHS
cũng quy định: Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18
tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự... [44, Điều 68].
Có thể thấy rằng nhận thức chung của các nước về NCTN, được xây
dựng dựa trên sự phát triển về mặt thể chất, tinh thần và được xác định về mặt
thực tế bằng giới hạn độ tuổi quy định trong các văn bản Pháp luật của từng
quốc gia. Căn cứ vào đó, người ta mới có những quy định cụ thể về quyền và
nghĩa vụ của NCTN.
Trong khoa học luật hình sự Việt Nam, có không nhiều các định nghĩa
về NCTN phạm tội. Theo GS.TSKH Lê Cảm và TS.Đỗ Thị Phượng thì
“Người chưa thành niên phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi, có
năng lực trách nhiệm hình sự chưa đầy đủ do sự hạn chế bởi các đặc điểm về
tâm, sinh lý và đã có lỗi (cố ý hoặc vô ý) trong việc thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm” [7, tr.20 - 22]. TS Trịnh Tiến Việt định
nghĩa như sau: "Người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ về
thể chất và tâm - sinh lí, chưa có khả năng nhận thức đầy đủ tính chất nguy
hiểm cho xã hội của hành vi mà mình thực hiện" [64].
Từ những nhận thức chung nhất có thể hiểu rằng: người chưa thành
niên là người đang trong giai đoạn chuyển từ độ tuổi trẻ em trở thành người
lớn và là giai đoạn có những xung đột, xáo trộn tâm sinh lý, chưa nhận thức
đầy đủ tính chất nguy hiểm của hành vi do mình thực hiện.
1.2. Nhận thức chung về bảo đảm quyền con người của người chưa
thành niên trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
1.2.1. Nhận thức chung về giai đoạn điều tra vụ án hình sự
Điều tra là hoạt động của CQĐT và những cơ quan được giao nhiệm vụ
18. 10
tiến hành một số hoạt động điều tra theo luật định, được tiến hành theo trình
tự TTHS, nhằm chứng minh sự thật của VAHS theo yêu cầu của Pháp luật.
Điều tra VAHS là một giai đoạn độc lập của quá trình tố tụng, phục vụ
việc thực hiện mục đích chung của quá trình tố tụng đó là: Phát hiện chính
xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không
để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Trong giai đoạn điều tra VAHS, CQĐT chỉ được áp dụng những biện
pháp, những phương tiện theo quy định để làm rõ vụ án. Hoạt động điều tra
phải bảo đảm tuân thủ tất cả các văn bản Pháp luật của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam có liên quan đến hoạt động điều tra. CQĐT, các cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra và ĐTV có quyền và
nghĩa vụ áp dụng có hiệu quả tất cả các biện pháp và phương tiện theo quy
định của Pháp luật để điều tra khám phá tội phạm, đồng thời phải bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, lợi ích của cơ quan, tổ chức và công dân, tôn trọng và bảo
đảm các quyền cơ bản của công dân.
Điều tra VAHS là một giai đoạn của quá trình tiến hành TTHS, được
bắt đầu từ khi có quyết đi ̣nh khởi tố vụ án đến khi CQĐT ra bản kết luận điều
tra, chuyển hồ sơ sang Viện kiểm sát nhân dân đề nghị truy tố bị can trước
Pháp luật nếu có đầy đủ tài liệu, chứng cứ chứng minh hành vi tội phạm của
bị can hoặc đình chỉ điều tra nếu có một trong những căn cứ được quy định tại
khoản 2 Điều 105 và Điều 107 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 19, Điều 25 và
khoản 2, Điều 69 Bộ luật Hình sự.
Giai đoạn điều tra từ khi có quyết định khởi tố vụ án chia thành nhiều
giai đoạn nhỏ. Giai đoạn điều tra ban đầu nhằm xác định tội phạm và người
thực hiện hành vi tội phạm. Giai đoạn tiếp theo là giai đoạn nhằm chứng minh
tội phạm và người thực hiện hành vi tội phạm. Trong giai đoạn này CQĐT
được áp dụng các biện pháp như hỏi cung bị can, truy bắt các đối tượng gây
19. 11
án, khám xét, thực nghiệm điều tra, lấy lời khai của người làm chứng, áp dụng
các biện pháp ngăn chặn… để chứng minh tội phạm và người thực hiện hành
vi tội phạm. Trong giai đoạn điều tra, CQĐT được áp dụng mọi biện pháp
theo quy định để xác định sự thật của vụ án. Có nghĩa là việc áp dụng các
biện pháp để nhằm mục đích khám phá vụ án phải bảo đảm yếu tố tuân thủ
Pháp luật, phù hợp với quy định của Pháp luật, bảo đảm yếu tố khách quan,
đầy đủ, toàn diện của giai đoạn điều tra.
1.2.2. Khái niệm bảo đảm quyền con người của người chưa thành
niên trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
Mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm và nhân
quyền [16, Điều 1] “Mọi người đều có quyền sống, quyền tự do và an toàn cá
nhân” [16, Điều 3].
Từ nhận thức chung nhất về quyền con người có thể hiểu rằng: Quyền
con người là những quyền vốn có tự nhiên mà con người trong điều kiện xã
hội tiến bộ nhất định mới được hưởng.
Theo Từ điển Tiếng Việt, khái niệm “bảo đảm” được cho là: “Làm cho
chắc chắn thực hiện được, hoặc có đầy đủ những gì cần thiết” [62.tr38]. Như
vậy “bảo đảm” có thể hiểu là sự cam kết, bảo vệ tuyệt đối về những gì cần
thiết. Bảo đảm quyền con người của NCTN trong giai đoạn điều tra VAHS là
sự cam kết, bảo vệ của CQTHTT chống lại sự xâm hại những đặc lợi vốn có
của NCTN được hưởng.
Chủ thể được bảo đảm của quyền con người và chủ thể có nghĩa vụ bảo
đảm quyền con người theo nhận thức chung có thể hiểu rằng: Chủ thể được
bảo đảm của quyền con người của NCTN là NCTN tham gia với các tư cách
khác nhau trong giai đoạn điều tra VAHS. Chủ thể có nghĩa vụ bảo đảm
quyền con người của NCTN là Nhà nước. Mà cụ thể đại diện cho Nhà nước là
CQTHTT. Nhà nước dùng sức mạnh và quyền lực của mình để bảo đảm các
20. 12
quyền con người của NCTN không bị xâm phạm và được thực thi trên thực tế
trong giai đoạn điều tra. Thông qua CQTHTT Nhà nước giúp cho các quyền
cơ bản và quyền riêng của NCTN được thực hiện và loại bỏ những gì cản trở
hoặc làm cho các quyền đó không được thực thi. Hiến pháp năm 2013 ghi
nhận: “Quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn
hóa xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và
Pháp luật” [48, Điều 14]. Như vậy chủ thể trách nhiệm bảo đảm quyền của
NCTN trước hết là Nhà nước. Để thực hiện trách nhiệm của mình Nhà nước
tiến hành trên hai phương diện là xây dựng Pháp luật và áp dụng Pháp luật.
CQĐT là Cơ quan áp dụng Pháp luật và đại diện cho chủ thể bảo đảm quyền
con người của NCTN trong giai đoạn điều tra VAHS.
Trong khoa học pháp lý tồn tại những quan điểm khác nhau về chủ thể
mà quyền con người cần được bảo đảm. Ví dụ như có quan điểm cho rằng
“Bảo vệ quyền con người là bảo vệ quyền của những người tham gia tố tụng”
hay một số nhà luật học cho rằng bảo đảm quyền con người trong TTHS là
bảo đảm quyền của những người bị buộc tội.
Bảo đảm quyền con người của NCTN trong giai đoạn điều tra VAHS là
một bộ phận của bảo đảm quyền con người nói chung được ghi nhận trong
các văn bản pháp luật Việt Nam.
Trước hết, quan điểm của học viên cho rằng bảo đảm quyền con người
của NCTN trong giai đoạn điều tra VAHS chính là bảo đảm quyền của chủ thể
là NCTN. Có thể chia chủ thể là NCTN thành 2 nhóm: Nhóm NCTN là người bị
tạm giữ, bị khởi tố và nhóm NCTN là người bị hại, người làm chứng.
Nội dung đối tượng bảo đảm là các quyền của NCTN được quy định cụ
thể trong BLHS và BLTTHS. Bao gồm các quyền cơ bản các quyền đặc thù
cho đối tượng là NCTN được quy định ở các mức độ, tính chất khác nhau tùy
thuộc vào tư cách tham gia tố tụng là người bị tạm giữ, bị khởi tố hay người
bị hại, người làm chứng.
21. 13
Phương thức bảo đảm của Nhà nước thể hiện trong việc quy định trách
nhiệm của chủ thể là CQĐT phải bảo đảm các quyền của NCTN được ghi
nhận trực tiếp trong quyền cơ bản, quyền đặc thù trong BLHS và BLTTHS và
được ghi nhận gián tiếp thông qua quy định trách nhiệm của CQĐT, ĐTV khi
tiến hành điều tra VAHS liên quan đến NCTN. Quy định vai trò quan trọng
của người bào chữa, người đại diện gia đình, nhà trường, các tổ chức chính trị
xã hội trong suốt quá trình điều tra VAHS.
Giai đoạn điều tra VAHS có liên quan đến NCTN là hoạt động khá
phức tạp. Bởi quy định của pháp luật nước ta về trình tự tố tụng đối với
NCTN thực hiện theo trình tự đặc biệt, có những điểm khác biệt so với thủ tục
thông thường. Nhóm chủ thể bị tạm giữ, bị khởi tố ngoài các quyền cơ bản,
họ còn có các quyền khác vì đặc thù lứa tuổi cần được Pháp luật bảo vệ. Để
có thể tạm giữ, khởi tố bị can là NCTN phạm tội, ngoài việc xem xét kỹ lưỡng
các yếu tố thuộc về tuổi, tội phạm, lỗi, năng lực trách nhiệm hình sự, CQĐT
phải xác định khả năng nhận thức về tính nguy hiểm của hành vi, nhân thân,
hoàn cảnh sống, môi trường sống, điều kiện giáo dục, gia đình, nguyên nhân,
điều kiện gây ra tội phạm. Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ,
tạm giam NCTN chỉ được thực hiện trong trường hợp thật cần thiết. Chính
sách hình sự đối với truy cứu trách nhiệm hình sự NCTN nhằm giúp đỡ, cải
tạo, giáo dục để NCTN nhận ra lỗi lầm của mình, tạo điều kiện để các em có
khả năng tái hòa nhập cộng đồng và cuộc sống bình thường. Vì thế, trong giai
đoạn điều tra, phải luôn tuân thủ nguyên tắc đặc biệt quan trọng quy định tại
Điều 9, Bộ luật TTHS “Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội
của Tòa án đã có hiệu lực Pháp luật”. Mặt khác, khi chưa làm rõ sự thật khách
quan của vụ án, họ vẫn chưa bị truy tố, có thể không trở thành bị cáo để bị xét
xử, trong nhiều trường hợp, những người này có thể còn được miễn truy tố,
miễn hình phạt, thậm chí còn được tòa án tuyên vô tội.
22. 14
Đối với NCTN trong giai đoạn điều tra VAHS, nhận thức pháp luật, xã
hội, chuẩn mực quy tắc sinh hoạt của họ chưa ổn định và đúng đắn, việc tôn
trọng các quyền của họ là rất quan trọng, giải thích cho họ hiểu có ý nghĩa lớn
trong việc bảo đảm quyền con người nói chung, quyền trẻ em nói riêng và
giúp họ tuân thủ nghĩa vụ và thực hiện quyền tố tụng nhằm tự bảo vệ mình.
Đối với nhóm chủ thể NCTN là người bị hại, người làm chứng việc bảo
đảm quyền con người của họ cũng hết sức quan trọng. Họ cũng có những đặc
điểm tâm lý chung của NCTN, hơn thế nữa họ còn là người cần được Pháp
luật bảo vệ hơn cả vì họ là đối tượng bị xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp,
là người đứng ra tố cáo tội phạm, hoặc là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đến vụ án.
Tóm lại học viên cho rằng: Bảo đảm quyền của NCTN trong giai đoạn
điều tra VAHS là sự cam kết của chủ thể Nhà nước mà đại diện là CQĐT đối
với chủ thể là NCTN khi họ tham gia vào giai đoạn điều tra, nhằm bảo đảm
các quyền cơ bản và đặc thù được thực thi hoặc loại bỏ những cản trở quyền
đó không được thực thi đối với họ.
1.2.3. Sự cần thiết và ý nghĩa của việc bảo đảm quyền con người của
người chưa thành niên trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
Nhiệm vụ của giai đoạn điều tra các VAHS là xác định sự thật khách
quan, trong giai đoạn này CQTHTT được phép tiến hành thực hiện các biện
pháp công khai mà Pháp luật cho phép nhằm trực tiếp giải quyết các vấn đề
liên quan đến hành vi vi phạm Pháp luật và các quyền lợi nghĩa vụ liên quan
của người tham gia tố tụng.
Sự cần thiết và ý nghĩa của việc bảo đảm quyền con người của
CQTHTT trong giai đoạn điều tra thể hiện:
Thứ nhất: Những NTHTT thực hiện trách nhiệm mà Nhà nước giao cho
là thực hiện các hoạt động tố tụng mà Pháp luật cho phép. Quá trình thực hiện
23. 15
nhiệm vụ đó họ chỉ tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật và
được pháp luật bảo đảm. Họ là những người giữ vai trò chủ đạo tiến hành các
hoạt động TTHS. Họ hoạt động nguyên tắc độc lập trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ, không có ai, người nào, tổ chức nào được phép can thiệp vào công
việc của họ. Không có cá nhân hoặc tổ chức, cơ quan nào được tác động dẫn đến
buộc họ phải thực hiện không đúng quy định của pháp luật. Không cá nhân nào,
tổ chức nào được lấy danh nghĩa thẩm quyền hành chính cấp trên, cấp dưới để
chỉ đạo họ làm theo ý muốn của mình và vi phạm Pháp luật. Đó là những hành
vi mà Pháp luật không cho phép. Việc làm của những NTHTT là áp dụng Pháp
luật, sử dụng quyền lực của Nhà nước để xem xét xử lý hành vi phạm tội. Thẩm
quyền của những NTHTT là quan trọng, liên quan mật thiết đến tính mạng, sức
khỏe, danh dự… của mọi công dân trong đó đặc biệt là NCTN.
NCTN khi tham gia tố tụng trong giai đoạn điều tra VAHS là đối tượng
chịu tác động trực tiếp liên quan đến NTHTT. Do đó việc bảo đảm quyền con
người của NCTN trong giai đoạn điều tra VAHS là thật sự cần thiết.
Thứ hai: Trong giai đoạn điều tra, để làm rõ sự thật khách quan và sáng
tỏ những tình tiết quan trọng xác định người thực hiện hành vi phạm tội và dấu
hiệu tội phạm, Cơ quan điều tra xét thấy cần thiết phải áp dụng các biện pháp
cưỡng chế tố tụng khác nhau theo quy định của Pháp luật. Các biện pháp đó có
thể là bắt, tạm giam, tạm giữ để phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm. Việc áp
dụng các biện pháp ngăn chặn đối với NCTN là vấn đề có liên quan trực tiếp
đến sức khỏe, tâm lý, tính mạng, danh dự, nhân phẩm… của họ, dễ dẫn đến tổn
thương về tinh thần, sức khỏe vì NCTN là những người chưa phát triển toàn
diện, nhận thức chưa đầy đủ. Vì vậy đòi hỏi CQĐT phải hết sức thận trọng, tỷ
mỉ, khách quan, đúng Pháp luật. Khi áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với
NCTN, CQĐT phải cân nhắc kỹ lưỡng, chuẩn bị đầy đủ điều kiện con người,
phương tiện, cơ sở vật chất và chỉ tiến hành khi thấy thật sự cần thiết.
24. 16
Thứ ba: Nhà nước đưa ra quy định về hạn chế một số quyền công dân,
quyền con người với mục đích là để phục vụ cho việc phát hiện, điều tra, xử
lý chính xác và khách quan tội phạm và người phạm tội. Các hạn chế và quy
định cưỡng chế của Nhà nước chỉ ở mức độ cần thiết để xử lý đúng người,
đúng tội và không vi phạm nghiêm trọng đến quyền con người. Trong giai
đoạn điều tra, quyền con người của NCTN gắn bó mật thiết với quy định về
các biện pháp áp dụng đối với NCTN. Do các nguyên nhân như: Sự thiếu hợp
tác của NCTN trong giai đoạn điều tra, do sự tác động chi phối từ bên ngoài
của công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp trên, do các mối quan hệ công tác, mối
quan hệ thân quen, do trình độ năng lực hạn chế của ĐTV, do vi phạm đạo
đức nghề nghiệp… nên dễ dẫn đến các quyết định trong giai đoạn điều tra
chưa thực sự được khách quan, trung thực, đầy đủ.
Vì vậy, nguyên tắc trong giai đoạn điều tra đối với NCTN của CQĐT
được đặt lên hàng đầu là phải bảo đảm không bỏ lọt tội phạm nhưng cũng
không được làm oan người vô tội. Việc xem xét, xử lý hành vi phạm tội của
NCTN phải gắn chặt với việc bảo đảm quyền con người của họ. Trong giai
đoạn điều tra phải bảo đ ảm đầy đủ các nguyên tắc đó, không thể thiếu một
trong hai nguyên tắc đó vì nếu thiếu một trong hai nguyên tắc thì sẽ không đạt
được mục đích tố tụng là xử lý đúng người, đúng tội, khách quan, trung thực.
Nếu thiên về mục đích không bỏ lọt tội phạm thì sẽ dễ dẫn đến vi phạm yếu tố
quyền con người của NCTN, nếu thiên về bảo đảm quyền con người thì sẽ dễ
dẫn đến không đạt được kết quả điều tra tốt nhất, xử lý không kịp thời hoặc có
thể bỏ lọt tội phạm.
Các hoạt động trong giai đoạn điều tra có ý nghĩa xác lập cơ sở để truy
cứu trách nhiệm hình sự, thực hiện quyền công tố. Nếu hoạt động điều tra
đúng Pháp luật, sẽ bảo đảm được quyền con người, quyền điều tra quá lớn mà
không bị hạn chế thì sẽ xâm hại đến quyền con người, mà trong giai đoạn điều
25. 17
tra quá coi trọng sự bảo đảm quyền con người thì không đạt được mục đích
điều tra [22, tr. 44]. Trong giai đoạn điều tra VAHS có liên quan đến NCTN
một mặt phải đáp ứng được yêu cầu điều tra, làm sáng tỏ các tình tiết trong vụ
án, mặt khác phải thấy được yêu cầu bảo đ ảm quyền con người của NCTN
với đặc tính riêng biệt tâm, sinh lý của lứa tuổi chưa phát triển toàn diện này.
Do đó trong giai đoạn điều tra VAHS có liên quan đến NCTN, nguyên
tắc thượng tôn Pháp luật được CQĐT đặt lên hàng đầu. Chỉ có tuân thủ Pháp
luật một cách tuyệt đối, hạn chế vi phạm Pháp luật đến mức thấp nhất mới bảo
đảm được yêu cầu điều tra và bảo đảm được quyền con người của NCTN.
Thứ tư, mục đích của giai đoạn điều tra là làm rõ sự thật khách quan
của vụ án, bảo đảm sự nghiêm minh của Pháp luật, giữ gìn trật tự kỷ cương,
trật tự an toàn xã hội, xây dựng Nhà nước Pháp quyền. Thông qua thực tiễn
Nhà nước dần tiếp thu, chỉnh sửa, hoàn thiện hệ thống Pháp luật có liên quan
đến giai đoạn điều tra với hướng khắc phục hạn chế, thiếu sót làm sao để việc
điều tra giải quyết vụ án có liên quan đến NCTN được khách quan, đúng quy
định của Pháp luật, đạt được yêu cầu điều tra là xử lý đúng người, đúng tội
cũng như tôn trọng, bảo đảm quyền con người của NCTN.
1.3. Pháp luật quốc tế về bảo đảm quyền con người của người chưa
thành niên trong tố tụng hình sự
1.3.1. Bảo đảm quyền của người chưa thành niên trong một số điều
ước Quốc tế
Mọi hoạt động điều tra của CQTHTT và NTHTT là để làm sáng tỏ vụ
án, phát hiện kịp thời, xử lý chính xác người phạm tội, đồng thời không để lọt
tội phạm và làm oan người vô tội. Đó là hoạt động Nhà nước trao cho một số
cơ quan và cá nhân có thẩm quyền, nhân danh Nhà nước để áp dụng các biện
pháp theo luật định đạt được mục đích đề ra. NCTN khi tham gia vào giai
đoạn điều tra tức là đang là đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật, các quyền
26. 18
của họ đang ở trong tư thế bất lợi, có thể bị xâm hại. Vì vậy Nhà nước đã trao
cho họ những quyền nhất định được quy định trong Hiến pháp và Luật để họ
có thể tự bảo vệ mình. Đối với NCTN là những người dưới 18 tuổi, bản thân
họ do còn hạn chế về nhận thức pháp luật và một số hạn chế khác như chưa
phát triển đầy đủ, hoàn thiện về thể chất nên chưa thể tự bảo vệ mình trước
những biến cố liên quan đến pháp luật hình sự.
Việc bảo đảm quyền con người của NCTN trong hoạt động TTHS được
pháp luật quốc tế đặc biệt quan tâm. Pháp luật quốc tế đưa ra những quy định
cụ thể đối với việc bảo đảm các quyền con người nói chung và của NCTN nói
riêng trong TTHS được áp dụng trên phạm vi toàn cầu, không phân biệt hệ
thống chính trị, kinh tế, xã hội. Các quy định về quyền con người và bảo đảm
quyền con người của NCTN được quy định trong nhiều văn kiện, trong đó
tiêu biểu có các văn kiện mang tính chất ràng buộc, pháp lý Tuyên ngôn nhân
quyền thế giới năm 1948; Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị
năm 1966. Công ước quốc tế về quyền trẻ em. Một số văn kiện không mang
tính ràng buộc, pháp lý như quy tắc chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về tư
pháp NCTN quy tắc Bắc Kinh (1985); Quy tắc của Liên hợp quốc về bảo vệ
NCTN bị tước tự do (1990)… Tuy những quy tắc này không mang tính ràng
buộc pháp lý nhưng rõ ràng những quy tắc này đã cho thấy sự thống nhất cao
của cộng đồng quốc tế về vấn đề bảo đảm quyền của NCTN khi tham gia tố
tụng nói chung và trong giai đoạn điều tra VAHS nói riêng.
Các quy định trong các văn kiện quốc tế liên quan đến bảo đảm quyền
của NCTN trong giai đoạn điều tra VAHS đóng góp, bổ sung lẫn nhau tạo nên
một hệ thống chung về quy tắc xử sự. Góp phần quan trọng trong bảo đảm
quyền con người của NCTN trong giai đoạn điều tra VAHS, giảm các nguy
cơ quyền của họ bị xâm hại bất hợp pháp.
Các nguyên tắc bảo đảm quyền con người của NCTN trong giai đoạn
27. 19
điều tra VAHS được thể hiện trong các văn kiện quốc tế dựa trên quy định cụ
thể về các biện pháp bảo đảm mang tính thủ tục cơ bản, như giả định vô tội,
quyền được thông báo về các lời buộc tội, quyền được giữ yên lặng, quyền
được có luật sư bào chữa, quyền được sự có mặt của cha, mẹ hay người giám
hộ, quyền đối chất và thẩm vấn chéo các nhân chứng, quyền kháng cáo lên
một cơ quan có thẩm quyền cao hơn. Bảo đảm quyền được phục hồi, bồi
thường, trợ giúp nếu là nạn nhân (bị hại) của tội phạm.
Quyền con người của NCTN được bảo đảm khi tham gia tố tụng, bắt
đầu từ giai đoạn điều tra. Bởi trong giai đoạn điều tra, CQTHTT và NTHTT
được Nhà nước cho phép sử dụng biện pháp ngăn chặn để phục vụ việc làm
sáng tỏ vụ án. Trong giai đoạn này nếu NCTN bị bắt, bị khởi tố thì CQTHTT
chưa khẳng định được họ có tội hay không, vì họ chưa bị xét xử tại Tòa án.
Các CQTHTT cần phải tuân thủ các nguyên tắc và tôn trọng các quyền sau
đây của NCTN:
1.3.1.1. Giả định vô tội
Là nguyên tắc pháp lý tối quan trọng trong giai đoạn điều tra, truy
tố, xét xử. Nguyên tắc giả định vô tội hay suy đoán vô tội trong giai đoạn
điều tra VAHS có liên quan đến NCTN có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Mọi người, nếu bị cáo buộc về hình sự, đều có quyền được coi là vô tội
cho đến khi chứng minh là phạm tội theo Pháp luật, tại một phiên tòa xét
xử công khai, nơi người đó được bảo đảm những điều kiện cần thiết để
bào chữa [16, Điều 11] Người bị cáo buộc là phạm tội hình sự có quyền được
coi là vô tội cho tới khi hành vi phạm tội của người đó được chứng minh theo
Pháp luật [27, Điều 11].
Mọi trẻ em bị tình nghi hay cáo buộc là đã vi phạm Luật hình sự:
Được coi là vô tội cho tới khi chứng minh rằng đã phạm tội theo Pháp
luật [32, Điều 40].
28. 20
Như vậy có thể thấy rằng mọi người, trong đó có NCTN đều được coi
là chưa có tội một khi chưa có bản án của tòa án, được xét xử công khai,
chứng minh họ phạm tội. Nguyên tắc này cho thấy việc đối xử với NCTN
trong giai đoạn điều tra, kể cả khi họ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt, tạm
giữ, tạm giam đều phải luôn luôn ghi nhớ nguyên tắc họ là những người chưa
bị cáo buộc phạm tội, và phải bảo đảm rằng các quyền con người của họ đang
được Pháp luật bảo vệ, tuân thủ theo nguyên tắc chung của Pháp luật Quốc tế.
1.3.1.2. Trong quy định được thông báo về các lời buộc tội
Bất cứ người nào bị bắt giữ đều phải được thông báo vào lúc bị bắt về
những lý do họ bị bắt và phải được thông báo không chậm trễ về sự buộc tội
đối với họ [32, Điều 9].
Mọi trẻ em bị tình nghi hay cáo buộc là đã vi phạm luật hình sự:
được thông báo nhanh chóng và trực tiếp về lời buộc tội và nếu thích
hợp, được thông báo qua cha mẹ hay người giám hộ hợp pháp của mình,
được trợ giúp thích hợp khác để chuẩn bị và trình bày lời bào chữa của
mình [32, Điều 40]. Trong trường hợp bắt giam NCTN, cha mẹ hay
người giám hộ NCTN đó phải được thông báo ngay về sự bắt giữ đó.
Trong trường hợp không thể thông báo ngay thì cha, mẹ người giám hộ
NCTN đó phải được thông báo trong thời gian sớm nhất có thể sau khi bị
bắt giữ [29, Điều 10].
Theo các quy định trên bất cứ người nào, trong đó có NCTN khi bị bắt
đều phải được biết chính xác lý do khiến mình bị bắt. NCTN ngoài việc được
biết lý do mình bị bắt, những người giám hộ hay cha, mẹ của NCTN phải
được thông báo trong thời gian sớm nhất nhanh nhất sau khi bị bắt. Quy định
này cho thấy việc bắt giữ NCTN bắt buộc phải thông tin kịp thời cho cha, mẹ
hoặc người giám hộ để những người này biết về việc bắt giữ và có những hỗ
trợ, giúp đỡ cần thiết, kịp thời để bảo đảm quyền con người của NCTN. Hơn
29. 21
nữa việc thông báo cho cha, mẹ hoặc người giám hộ là quy định bắt buộc thực
hiện thể hiện pháp luật tôn trọng và bảo đảm quyền con người của người bị
bắt và quy định đó hạn chế khả năng vi phạm nhân quyền ở mức độ thấp nhất.
Công ước Quốc tế về quyền trẻ em quy định trẻ em “được trợ giúp
phiên dịch miễn phí nếu trẻ không hiểu hay không nói được ngôn ngữ được
ngôn ngữ sử dụng trong quá trình tố tụng”. Quy định này có ý nghĩa quan
trọng bởi đối với người nước ngoài hoặc người dân tộc thiểu số không hiểu
ngôn ngữ của nước sở tại hoặc ngôn ngữ phổ thông họ sẽ được phiên dịch sang
thứ ngôn ngữ mà họ có thể hiểu. Quy định này thể hiện rõ mong muốn và loại
trừ những trường hợp không được thông tin đầy đủ khi không hiểu ngôn ngữ
và việc đó có ý nghĩa bảo đảm tuyệt đối quyền được thông tin đầy đủ, chính
xác và kịp thời cho người bị bắt là NCTN hoặc cha, mẹ, người giám hộ.
1.3.1.3. Trong quy định được giữ yên lặng và thẩm vấn chéo các nhân chứng
Công ước về quyền trẻ em, 1989 ghi nhận: Mọi trẻ em bị tình nghi
hay bị cáo buộc là đã vi phạm hình sự có quyền: Không bị ép buộc đưa ra lời
khai hoặc nhận tội; được thẩm vấn những người làm chứng chống lại mình,
được tham gia và thẩm vấn những người làm chứng cho mình theo những
điều kiện bình đẳng.
Theo quy định trên, tất cả trẻ em, NCTN khi bị bắt đều có quyền giữ
yên lặng. NCTN có quyền không bị bắt buộc đưa ra lời khai hoặc nhận tội.
Quy định này khẳng định một lần nữa quyền quan trọng của NCTN rằng họ
có quyền khai hoặc không khai. Việc chứng minh việc phạm tội của họ là
trách nhiệm của CQTHTT. Điều này để bảo đảm rằng không có sự can thiệp
gián tiếp hay trực tiếp hoặc áp lực từ Cơ quan điều tra đối với NCTN để buộc
họ nhận tội. Quy định cũng hạn chế mức thấp việc sử dụng các hình thức để
ép cung, buộc NCTN phải đưa ra lời khai hoặc nhận tội. Trách nhiệm của
CQĐT phải chứng minh rằng lời khai, lời nhận tội của NCTN là hoàn toàn tự
30. 22
nguyện mới có giá trị sử dụng. Ngược lại nếu có chứng cứ cho thấy việc khai
nhận là do bị ép buộc thì chúng sẽ được sử dụng làm chứng cứ chống lại
CQĐT và NTHTT.
Ngoài việc giữ yên lặng, NCTN còn có quyền tham gia thẩm vấn những
người làm chứng chống lại mình, thẩm vấn những người làm chứng cho mình
theo những điều kiện bình đẳng. Việc NCTN được tham gia thẩm vấn những
người làm chứng chống lại mình hoặc tham gia thẩm vấn những người làm
chứng cho mình nhằm bảo đảm khách quan, bình đẳng, bảo đảm sự chính xác
của tình tiết trong vụ án, tránh tiêu cực trong việc làm chứng dẫn đến kết quả
sai lệch của vụ án, vi phạm quyền, lợi ích hợp pháp của NCTN.
1.3.1.4. Trong quy định được có luật sư bào chữa và xét xử công bằng
Công ước về quyền trẻ em quy định: Mọi trẻ em bị tước tự do có
quyền được nhanh chóng tiếp cận sự trợ giúp pháp lý và những trợ giúp
thích hợp khác, cũng như quyền được chất vấn tính chất hợp pháp của việc
tước tự do đó trước một cơ quan có thẩm quyền, độc lập, vô tư khác và có
quyền đòi hỏi một quyết định nhanh chóng liên quan đến bất kỳ hành động
nào như vậy [32, Điều 37].
Công ước quốc tế về quyền trẻ em 1986 quy định mọi trẻ em bị tình
nghi hay cáo buộc là đã vi phạm luật hình sự có quyền: Được một nhà
chức trách, hoặc cơ quan tư pháp có thẩm quyền, độc lập và vô tư xem xét
vụ việc một cách khẩn trương tại một phiên tòa công bằng theo pháp luật,
có sự trợ giúp về mặt pháp lý hay trợ giúp thích hợp khác, trừ trường hợp
không nên làm như vậy vì lợi ích tốt nhất của trẻ em, đặc biệt xét đến độ
tuổi và tình trạng của trẻ em, của cha mẹ hay những người giám hộ hợp
pháp [32, Điều 40].
Trong suốt quá trình tố tụng, NCTN có quyền được đại diện bởi một cố
vấn pháp lý hoặc có quyền yêu cầu sự trợ giúp pháp lý miễn phí, trong điều
kiện có dịch vụ trợ giúp pháp lý như vậy ở quốc gia đó [29, Điều 15].
31. 23
Theo các quy định trên, trong mọi trường hợp NCTN khi bị tình nghi
phạm tội hoặc đã vi phạm luật hình sự có quyền được hỗ trợ bởi luật sư hoặc
một sự trợ giúp thích hợp khác từ giai đoạn đầu cho đến giai đoạn kết thúc tố
tụng. Ngoài ra họ có quyền yêu cầu trợ giúp pháp lý miễn phí từ nhà chức
trách. Họ có quyền nhanh chóng được xét xử công khai, công bằng bởi một
phiên tòa độc lập.
1.3.1.5. Trong quy định được tự do
Không trẻ em nào bị tước quyền tự do một cách bất hợp pháp hoặc tùy
tiện. Việc bắt, giam giữ hoặc bỏ tù trẻ em phải được tiến hành phù hợp với
Pháp luật và chỉ được coi là biện pháp cuối cùng và áp dụng trong thời hạn
thích hợp ngắn nhất [32, Điều 37].
Việc tước quyền tự do của trẻ em chỉ được coi là biện pháp cuối cùng,
khi không còn có biện pháp thay thế. Điều luật trên không xác định quyền bất
khả xâm phạm tự do đối với NCTN nhưng nhấn mạnh việc tước đoạt tự do là
biện pháp cuối cùng và việc tước tự do phải thực hiện một cách hợp pháp, cân
nhắc kỹ lưỡng, tránh việc bắt người tùy tiện. Như vậy theo điều luật này lựa
chọn biện pháp khác thay thế biện pháp bắt, giam giữ hoặc bỏ tù trẻ em phải
luôn được ưu tiên lựa chọn. Và nếu trong trường hợp bắt, giam giữ trước khi
xét xử được áp dụng để phòng ngừa, điều tra và bảo vệ xã hội và các nạn nhân
thì thời gian áp dụng lệnh giam giữ phải thích hợp ngắn nhất, tránh kéo dài.
1.3.1.6. Trong quy định bảo vệ sự riêng tư
Mọi điều riêng tư của trẻ em phải được hoàn toàn tôn trọng trong mọi
giai đoạn tố tụng [32, Điều 40].
Quyền riêng tư của NCTN phải được tôn trọng trong tất cả các giai đoạn
tố tụng, nhằm tránh những tổn hại gây ra do sự công khai hóa quá mức hay do sự
quy chụp.Về nguyên tắc, không được công bố những thông tin có thể dẫn đến
việc nhận dạng người phạm tội chưa thành niên [29, Điều 8, khoản 1, 2].
32. 24
Hồ sơ vụ án liên quan đến NCTN phạm tội phải được giữ kín và bí mật
đối với người thứ ba. Quyền được xem xét các hồ sơ này chỉ giới hạn trong
những người liên quan trực tiếp tới việc xét xử vụ án hay những nhà chức
trách có liên quan. Hồ sơ của NCTN phạm tội không được sử dụng trong
những thủ tục tố tụng với người lớn trong những vụ án sau này có liên quan
đến cùng một đối tượng phạm tội [29, Điều 21].
Các quy tắc trên nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ quyền
riêng tư của NCTN. NCTN là đối tượng đặc biệt dễ bị tổn thương khi bị công
khai những thông tin là bí mật cá nhân của họ. Những ảnh hưởng của việc tổn
thương sẽ theo họ suốt cuộc đời, đặc biệt có ảnh hưởng xấu khi một NCTN bị
coi là tội phạm hoặc đã từng bị điều tra, bắt, giam giữ.
Các quy định, quy tắc trên nhằm bảo đảm NCTN tránh được những tác
động không tốt của việc công khai thông tin cá nhân trên các phương tiện
thông tin đại chúng dẫn đến việc có thể nhận dạng họ. Đặc biệt là hồ sơ liên
quan đến NCTN cũng phải được giữ bí mật, trừ những người có liên quan
trực tiếp và cơ quan chức năng mới được tiếp cận thông tin.
1.3.1.7. Trong quy định được sự có mặt của cha, mẹ hay người giám hộ
NCTN không bị tách khỏi cha mẹ trái ý muốn [32, Điều 9] trừ trường
hợp do các cơ quan có thẩm quyền quyết định.
Cha, mẹ hoặc người giám hộ có quyền tham dự vào quá trình tố tụng và
có thể được cơ quan có thẩm quyền yêu cầu tham dự vào quá trình tố tụng vì
lợi ích của NCTN. Tuy nhiên, họ có thể bị cơ quan có thẩm quyền từ chối
không cho tham dự nếu có những lý do cho rằng sự từ chối đó là cần thiết vì
lợi ích của NCTN [29, Điều 15].
Vì bảo đảm những lợi ích, quyền con người của NCTN trong giai đoạn
điều tra cha, mẹ, người giám hộ có quyền tham dự vào quá trình tố tụng như
xét hỏi, điều tra. Sự có mặt của cha, mẹ hay người giám hộ trong giai đoạn điều
tra nếu xét thấy không có lợi cho NCTN thì họ có thể bị cơ quan điều tra từ
33. 25
chối. Quy định về sự có mặt của cha, mẹ hay người giám hộ trong quá trình tố
tụng vẫn đặt mục tiêu bảo đảm quyền con người của NCTN trong giai đoạn
điều tra, sự có mặt của cha, mẹ hoặc người giám hộ để chứng kiến và xác định
chắc chắn quá trình điều tra không vi phạm quyền, lợi ích hợp pháp của NCTN.
1.3.1.8. Trong quy định được kháng cáo lên một cơ quan có thẩm
quyền cao hơn
Nếu bị coi là đã vi phạm luật hình sự; thì có quyền yêu cầu một nhà
chức trách hoặc cơ quan tư pháp có thẩm quyền cao hơn, độc lập và vô tư
xem xét lại quyết định và những biện pháp thi hành theo quyết định đó theo
Pháp luật [29, Điều 40].
Kể cả khi có quyết định của cơ quan có thẩm quyền về hành vi phạm
Pháp luật của NCTN thì họ vẫn có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền cao
hơn xem xét vụ việc cuả họ để bảo đảm các quyết định tố tụng đó là hoàn
toàn khách quan, vô tư, đúng Pháp luật.
1.3.1.9. Trong quy định được đối xử nhân đạo và không bị áp dụng
hình phạt tử hình hoặc chung thân mà không có khả năng được phóng thích
Mọi trẻ em bị tước tự do phải được đối xử nhân đạo với sự tôn trọng
phẩm giá vốn có của con người, theo cách thức có tính đến các nhu cầu của
những người ở lứa tuổi các em. Đặc biệt, mọi trẻ em bị tước quyền tự do phải
được cách ly với người lớn, trừ trường hợp vì lợi ích tốt nhất của trẻ mà không
nên làm như vậy, và các em phải có quyền duy trì sự tiếp xúc với gia đình qua
thư từ và các cuộc viếng thăm, trừ trường hợp ngoại lệ [32, Điều 37].
Không trẻ em nào bị tra tấn hay bị đối xử hoặc trừng phạt tàn ác, vô
nhân đạo hay hạ thấp nhân phẩm. Những người dưới 18 tuổi nếu gây ra
những hành động phạm pháp sẽ không bị áp dụng hình phạt tử hình hoặc tù
chung thân mà không có khả năng được phóng thích [32, Điều 37].
Xuất phát từ tính nhân đạo của xã hội đối với NCTN, bảo vệ quyền
được sống, không bị tước đoạt sinh mạng vì bất cứ lý do gì NCTN được miễn
34. 26
hình phạt tử hình hoặc tù chung thân không có khả năng bị phóng thích khi họ
phạm tội. Đây là quy định có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với NCTN khi
phạm pháp, loại trừ trường hợp tử hình và hình phạt tù không thời hạn áp
dụng đối với NCTN. Để bảo đảm quyền con người của NCTN trong giai đoạn
điều tra, quy định trên xác định họ phải được đối xử nhân đạo, không bị tra
tấn, bức cung, nhục hình và được tách riêng, không giam chung với người lớn
bởi lo sợ những ảnh hưởng tiêu cực ở những phạm nhân đã thành niên.
1.3.1.10. Trong trường hợp là nạn nhân (bị hại) và nhân chứng của tội phạm
Theo Tuyên ngôn về các nguyên tắc công lý cơ bản cho các nạn nhân
của tội phạm và lạm dụng quyền lực, 1985 được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc
thông qua theo Nghị quyết 40/34 ngày 29/11/1985. Các quy định này được áp
dụng với tất cả mọi người không có sự phân biệt về độ tuổi. Theo đó nạn nhân
(bị hại) được “đối xử với tình thương và tôn trọng nhân phẩm của họ” có
“quyền tiếp cận với các cơ chế của công lý và được đền bù nhanh chóng theo
quy định của pháp luật quốc gia vì sự thiệt hại mà họ phải chịu đựng”. Quá
trình tư pháp phải đáp ứng nhu cầu và tạo điều kiện thuận lợi cho nạn nhân
bằng cách “thông báo cho các nạn nhân về vai trò, phạm vi, thời gian và tiến
triển của các thủ tục và về cách xử lý vụ việc của họ…” “cho phép trình bày
và cân nhắc quan điểm” “Cung cấp trợ giúp đầy đủ cho các nạn nhân suốt quá
trình pháp lý” “giảm thiểu khó khăn cho nạn nhân, bảo vệ sự riêng tư bất cứ
khi nào cần thiết và bảo đảm sự an toàn của họ cũng như của đại diện gia đình
và nhân chứng đại diện cho họ, không bị đe dọa và trả thù” [30, mục 4, 6].
1.3.2. Bảo đảm quyền con người của người chưa thành niên trong
giai đoạn điều tra vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự một số nước
trên thế giới
1.3.2.1. Trong Luật tố tụng hình sự của Nhật Bản
Theo quy định Luật tố tụng hình sự của Nhật Bản, NCTN là người
chưa đủ 20 tuổi. Trong xây dựng Pháp luật Nhật Bản đã xây dựng Bộ luật
35. 27
riêng dành cho NCTN đó là Luật NCTN. Cũng như Pháp luật hình sự Việt
Nam, mục đích Luật NCTN của Nhật Bản là không mang tính trừng phạt mà
mục đích là giúp đỡ cho họ phát triển tốt, tiến hành những biện pháp bảo đảm
để thay đổi tính cách của NCTN phạm tội và tạo ra môi trường giáo dục để
điều chỉnh NCTN đã chót mắc sai lầm.
Bảo đảm quyền con người của NCTN thông qua quy định về thẩm
quyền giải quyết vụ án NCTN phạm tội thông qua Tòa án Gia đình: Theo quy
định tại Điều 41 của Luật về NCTN thì sau khi CQĐT điều tra về một NCTN
bị tình nghi phạm tội mà cảnh sát cho rằng người đó đã phạm một tội có thể bị
xử phạt tiền hoặc hình phạt nhẹ hơn thì phải chuyển vụ án cho Tòa án gia đình.
Bảo đảm quyền con người của NCTN thông qua quy định về quyền
điều tra trong môi trường thân thiện: ĐTV được phân công tiến hành điều tra
vụ án có NCTN bị nghi ngờ phạm tội thì cần sử dụng những kiến thức về y
học, tâm lý, sư phạm, xã hội và các kỹ năng khác. Cần phải căn cứ vào kết
quả phân loại mà Cơ quan phân loại NCTN cung cấp về hành vi, nghề nghiệp,
tính tình, môi trường xã hội xung quanh NCTN, của người giám hộ hoặc của
những người có liên quan. Mục đích là để làm rõ về tính cách, tiểu sử bản
thân, gia đình, môi trường xã hội tác động đến NCTN … Trừ những vụ án
quá nhẹ, thẩm phán tòa án gia đình khi thụ lý vụ án thiếu niên chỉ thị cho
ĐTV tòa án gia đình tiến hành điều tra về tính cách, thói quen, hành động
hàng ngày, quá trình sinh trưởng và môi trường của thiếu niên để làm rõ
nguyên nhân phạm tội và những vấn đề của thiếu niên [36, Điều 8].
Bảo đảm quyền con người của NCTN thông qua quy định về quyền
được giữ bí mật thông tin: Theo quy định của Luật về NCTN Nhật bản thì khi
một NCTN bị đưa ra xét xử tại Tòa án gia đình hoặc bị truy cứu trách nhiệm
hình sự thì các thông tin hoặc hình ảnh liên quan đến vụ án sẽ không được
công khai trên bất kỳ báo hay tạp chí nào. Không được phép đăng bài viết
36. 28
hoặc ảnh trên báo chí để từ đó người ta có thể suy đoán được người đó chính
là người trong vụ việc [36, Điều 61].
Bảo đảm quyền con người của NCTN thông qua quy định về quyền có
người đại diện: Luật NCTN của Nhật Bản cho phép NCTN khi bị đưa ra xét
xử tại Tòa án gia đình được có một hoặc hai người đại diện. Luật không quy
định chi tiết các bước tiếp theo cần tiến hành như thế nào mà chỉ đưa ra chung
rằng Tòa án gia đình phải tiến hành xét xử trên cơ sở "chân tình, có lợi" cho
NCTN và "cần có mọi cố gắng để bảo vệ cho được những thuộc tính cao đẹp
nhất của người chưa thành niên và để cho người chưa thành niên có niềm tin"
và việc xét xử cần tiến hành công khai.
Bảo đảm quyền con người của NCTN thông qua quy định về người làm
chứng và bị hại: Điều 146, 147 - Luật TTHS Nhật bản quy định đối với nhân
chứng có quyền từ chối khai báo và có quyền từ chối khai báo đối với người
thân “bất kỳ ai cũng có thể từ chối khai báo nếu lo sợ là có thể bị truy tố hoặc
kết án”. Điều 230 Luật TTHS Nhật Bản quy định người nào bị tổn hại do
hành vi phạm tội gây ra có thể phát đơn khởi kiện. Pháp luật bảo đảm việc
người bị hại có thể tự mình phát đơn kiện hoặc người đại diện pháp lý của
người bị hại có thể phát đơn kiện một cách độc lập.
1.3.2.2. Trong luật tố tụng hình sự của Liên bang Nga
Luật tố tụng hình sự của Liên bang Nga quy định một mục riêng áp
dụng đối với vụ án do những NCTN thực hiện hành vi phạm tội. Độ tuổi chịu
trách nhiệm hình sự NCTN là từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi
Nội dung bảo đảm thông quan những quy định đối với CQTHTT, ĐTV
khi điều tra, giải quyết những vụ án có NCTN có trách nhiệm chứng minh và
giải quyết những vấn đề sau:
- CQĐT phải xác định chính xác ngày tháng năm sinh của họ, xác định
những vấn đề có liên quan đến họ như điều kiện sống và giáo dục của NCTN,
37. 29
mức độ phát triển về tâm sinh lý và những đặc điểm nhân thân khác của họ.
Xác định ảnh hưởng của người lớn đối với NCTN. Nếu có tài liệu chứng minh
về sự chậm phát triển tâm sinh lý không liên quan đến rối loạn tâm thần thì cần
phải xác định xem NCTN có nhận thức đầy đủ về tính chất, mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi và điều khiển được hành vi của mình hay không.
- Khi tiến hành điều tra, CQĐT cần xác định xem NCTN có những
bệnh tật có thể cản trở việc họ sống và học tập tại cơ quan chuyên trách về
NCTN hay không nhằm mục đích để Tòa án giải quyết vấn đề miễn chấp
hành hình phạt cho NCTN và chuyển họ đến cơ quan chuyên trách đó phù
hợp với quy định tại khoản 2, điều 92 Bộ luật hình sự Liên bang Nga.
- Trong trường hợp cần thiết ĐTV có thể yêu cầu Giám định y tế đối
với NCTN và kết luận giám định y tế này được chuyển đến Tòa án cùng hồ sơ
vụ án phục vụ cho việc xét xử NCTN.
- CQĐT tiến hành tách vụ án có NCTN phạm tội cùng với người lớn
theo quy định tại điều 154 – BLTTHS. Nếu không thể tách vụ án thì NCTN
vẫn được áp dụng các quy định tại Mục 50 Chương XVI.
- Biện pháp tạm giam NCTN được áp dụng theo các quy định chung.
Nhưng khi quyết định vấn đề áp dụng biện pháp tạm giam CQĐT cần thảo
luận về khả năng tiến hành theo dõi theo thủ tục quy định tại điều 105 về quản
lý người bị tình nghi hoặc bị can là NCTN.
- Việc triệu tập người bị tình nghi, bị can là NCTN không bị tạm giam
đến gặp Dự thẩm viên, ĐTV được tiến hành thông qua người đại diện hợp
pháp của họ. Luật cũng quy định việc lấy lời khai NCTN không được tiến
hành quá 2 giờ, và tổng thời gian không được quá 4 giờ một ngày. Trong quá
trình lấy lời khai NCTN người bào chữa có quyền tham gia và có quyền đặt
câu hỏi cho NCTN đồng thời được đọc biên bản ghi lời khai, được đưa ra
nhận xét về tính đúng đắn và toàn diện của nội dung làm việc và được ghi vào
38. 30
trong biên bản. Nếu NCTN dưới 16 tuổi hoặc đủ 16 tuổi nhưng bị rối loạn về
tâm thần hoặc chậm phát triển về mặt tâm sinh lý thì bắt buộc phải có sự tham
gia của nhà sư phạm hoặc nhà tâm lý học.
ĐTV cũng được trao các quyền và trách nhiệm cụ thể:
- ĐTV quyết định việc người đại diện hợp pháp của người bị tình nghi,
bị can là NCTN tham gia vào vụ án. Nếu được tham gia vào vụ án người đại
diện hợp pháp có các quyền như: được biết NCTN bị tình nghi hoặc buộc tội
về việc gì, đưa ra các chứng cứ, tham gia vào việc lấy lời khai, xem các biên
bản của hoạt động điều tra, đề nghị thay đổi ĐTV, khiếu nại đối với quyết
định của ĐTV…
- ĐTV sau khi kết thúc điều tra có quyền ra quyết định về việc không
đưa ra lời buộc tội đối với bị can là NCTN để xem xét, những tài liệu có thể
tác động tiêu cực đối với họ.
- Điều 427 –BLTTHS Liên bang Nga quy định: ĐTV nếu được kiểm
sát viên đồng ý, có quyền ra quyết định đình chỉ điều tra trong quá trình điều
tra vụ án về tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng mà xác
định bị can là NCTN phạm tội đó lần đầu và có thể cải tạo được mà không
cần áp dụng hình phạt. Sau đó chuyển quyết định cùng hồ sơ vụ án đến Tòa
án để giải quyết. Tòa án có quyền đình chỉ vụ án và áp dụng biện pháp giáo
dục bắt buộc đối với bị can là NCTN.
CQTHTT phải bảo đảm các quyền chung, các quyền riêng trong việc
lấy lời khai NCTN là bị hại, người làm chứng:
- Việc lấy lời khai người bị hại hoặc người làm chứng là người
chưa đủ 14 tuổi và việc lấy lời khai người bị hại hoặc người làm chứng
là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi theo ý kiến của Dự thẩm viên,
được tiến hành với sự tham gia của nhà sư phạm. Khi lấy lời khai người
bị hại hoặc người làm chứng là người chưa thành niên thì đại diện hợp
pháp của họ được quyền có mặt [26, Điều 191];
39. 31
- Người bị hại hoặc người làm chứng là người chưa đủ 16
tuổi thì không bị cảnh báo về trách nhiệm do từ chối khai báo hoặc
khai báo gian dối. Khi giải thích cho những người này về các quyền
tố tụng của họ quy định tại Điều 42 và Điều 56 Bộ luật này thì họ
được chỉ dẫn là cần thiết phải nói sự thật [26, Điều 191].
1.3.2.3. Trong Luật tố tụng hình sự của Cộng hoà Pháp
Pháp luật TTHS của Cộng hòa Pháp có sự chuyên biệt hóa về các vụ án
NCTN phạm tội: Trợ giúp tư pháp vị thành niên, Tòa án vị thành niên, Thẩm
phán vị thành niên và Tòa đại hình chuyên xét xử vụ án cho NCTN. Thẩm
quyền điều tra VAHS tại Pháp cơ bản thuộc về Thẩm phán điều tra. Nội dung
bảo đảm quyền con người của NCTN thông qua các quy định sau:
- Quy định trong việc tạm giữ: cũng giống pháp luật TTHS Việt Nam
biện pháp tạm giữ là một trong những biện pháp ngăn chặn được áp dụng
trong khoảng thời gian theo quy định trong giai đoạn điều tra. Tại Cộng hòa
Pháp quy định về việc tạm giữ một NCTN được áp dụng theo nguyên tắc
không được áp dụng biện pháp tạm giữ đối với NCTN ở độ tuổi 13. Tuy
nhiên trong những trường hợp đặc biệt như: có đủ điều kiện để khẳng định họ
đang chuẩn bị thực hiện một trọng tội hoặc khinh tội mà mức hình phạt ít nhất
là năm năm tù giam; hoặc do yêu cầu điều tra mà những người từ đủ 10 tuổi
đến 16 tuổi có thể bị tạm giữ tại cơ quan cảnh sát (officier de police
judiciaire). Khi áp dụng biện pháp này, người ra lệnh phải báo cáo trước và
dưới sự kiểm tra giám sát của công tố viên hoặc của Thẩm phán điều tra. Thời
hạn tạm giữ không quá 12 giờ. Khi áp dụng biện pháp này, cảnh sát tư pháp
phải thông báo cho cha mẹ, người đại diện của người bị tạm giữ biết trong
thời gian sớm nhất.
- Quy định về thông tin, “Công tố viên trưởng phải được thông báo
ngay khi bắt đầu việc tạm giữ người chưa thành niên chưa đủ 18 tuổi. Người
40. 32
chưa thành niên phải được sự trợ giúp của đại diện pháp lý trừ khi điều này
là không thể thực hiện được” [13, Điều 78]. Vào lúc bắt đầu cuộc điều tra,
thẩm phán điều tra phải thông báo cho nạn nhân của tội phạm bị khởi tố là
người này có quyền thực hiện các quyền của bên dân sự, và cách thức có thể
thực hiện các quyền này. Nếu nạn nhân là NCTN, thông tin này được đưa cho
những người đại diện của họ [13, Điều 80].
- Quy định người bào chữa: việc yêu cầu đoàn luật sư cử luật sư bảo vệ
cho người bị tạm giữ phải được thực hiện ngay khi biết được thông tin cha mẹ
hoặc người đỡ đầu cho người bị tạm giữ không mời luật sư. Ngay từ khi bị
tạm giữ, NCTN bị tạm giữ có quyền được thông tin ngay lập tức về việc mời
luật sư và quyền yêu cầu được tiếp xúc với luật sư.
- Quy định về kiểm tra về tình trạng sức khỏe: đối với NCTN bị tạm
giữ có độ tuổi 16, công tố viên có quyền yêu cầu kiểm tra về tình trạng sức
khoẻ của người bị tạm giữ.
Bảo đảm quyền con người của NCTN là nạn nhân (bị hại), nhân chứng
(người làm chứng):
- Cơ quan tư pháp bảo đảm là các nạn nhân được thông báo và các
quyền của họ được tôn trọng trong toàn bộ bất kì tiến trình tố tụng nào [13].
- Vào lúc bắt đầu cuộc điều tra, thẩm phán điều tra phải thông báo cho
nạn nhân của tội phạm bị khởi tố là người này có quyền thực hiện các quyền
của bên dân sự, và cách thức có thể thực hiện các quyền này. Nếu nạn nhân
là người chưa thành niên, thông tin này được đưa cho những người đại diện
của họ [13, Điều 80].
- BLTTHS Pháp quy định thủ tục đặc biệt áp dụng cho các tội phạm
xâm phạm tình dục và bảo vệ nạn nhân vị thành niên tại Thiên XIX. - Theo
quy định tại điều 109 – BLTTHS cộng hòa Pháp bất kì ai được triệu tập với tư
cách nhân chứng có nghĩa vụ phải trình diện, tuyên thệ, và đưa ra tuyên bố, theo
41. 33
quy định của các điều 226-13 và 226-14 của Bộ luật Hình sự. Nhưng riêng đối với
nhân chứng là trẻ em dưới 16 thì luật quy định: “Đối với nhân chứng là trẻ em
dưới 16 tuổi không phải tuyên thệ khi xét hỏi” [13, Điều 108].
1.4. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển các quy định pháp
luật tố tụng hình sự Việt Nam về bảo đảm quyền con người của người
chưa thành niên trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự
1.4.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1988
Từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật tố
tụng hình sự năm 1988 là giai đoạn mà Nhà nước ta lúc bấy giờ là Nhà nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa đang phải tiến hành 2 cuộc kháng chiến bảo vệ
nền độc lập dân tộc và thống nhất toàn vẹn lãnh thổ. Trong hoàn cảnh đất
nước chiến tranh bị tàn phá nặng nề, Nhà nước ta vẫn phải vừa bảo vệ vừa
xây dựng tổ quốc, kiến thiết đất nước, và xây dựng hệ thống Pháp luật nước
nhà. Tuy chưa có những quy định cụ thể về bảo đảm quyền con người của
NCTN nhưng Nhà nước vẫn rất quan tâm đến việc bảo đảm quyền con người
nói chung. Trong bản hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa khẳng định mọi công dân đều bình đẳng trước Pháp luật và bình đẳng về
quyền lợi chính trị, kinh tế, văn hóa. Trong tư pháp hình sự quy định “tư pháp
chưa quyết định thì chưa được bắt bớ và giam cầm công dân Việt Nam” Nhà
nước ban hành Sắc lệnh 69/SL ngày 18/6/1949, Sắc lệnh số 103-SL/005 ngày
20/5/1957, Sắc luật số 002/SLT ngày 18/6/1957 quy định những trường hợp
phạm pháp quả tang và những trường hợp khẩn cấp, bổ sung Sắc lệnh số 103-
SL/005 ngày 20/5/2057; Sắc luật số 02/SL năm 1976 quy định về việc bắt,
giam khám người, khám nhà ở, đồ vật.
Trong các sắc luật được ban hành đã khẳng định quan điểm nhất quán
về bảo đảm quyền con người, tôn trọng quyền tự do cá nhân. Ví dụ như Điều
1 - Sắc luật 10-SL/005 ngày 20-05-1957 quy định: Quyền tự do thân thể và
42. 34
quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật và thư tín của nhân dân được
tôn trọng và bảo đảm. Không ai được xâm phạm các quyền ấy. Trong quy
định về việc bắt người cũng quy định rõ việc bắt người phải có lệnh viết của
cơ quan tư pháp nếu như không phải là phạm tội quả tang và trường hợp khẩn
cấp, hoặc việc khám xét người, nhà ở, đồ vật, thư tín của tư nhân thì phải có
lệnh của cơ quan tư pháp. Đối với những can phạm già yếu, có bệnh nặng
hoặc phụ nữ có thai nghén, hoặc trong thời kỳ cho con bú thì có thể tạm tha
hoặc giám thị tại chỗ ở. Trong Điều 14 quy định: Nghiêm cấm tra tấn hoặc
dùng nhục hình đối với người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam.
Trong Sắc lệnh số 69/SL ngày 18/6/1949 quy định việc bị can có thể
mời một công dân không phải là luật sư bào chữa cho nếu được ông Chánh án
chấp nhận. Nếu không có ai bênh vực ông Chánh án có thể cử một người ra
bào chữa cho bị can. Có thể nói đây là những quy định rất tiến bộ, bảo đảm
quyền con người cho bị can trong quá trình xét xử tại tòa án.
Khi Hiến pháp 1959 ra đời, một lần nữa tiếp tục khẳng định các nguyên
tắc bảo đảm quyền cơ bản của con người trước pháp luật. Trong thời điểm
lịch sử đất nước đang bị chia cắt thành 2 miền Nam, Bắc vì vậy mục tiêu lúc
này của Nhà nước ta là giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước. Pháp luật
thời kỳ này đặt nhiệm vụ thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược và đồng
thời vẫn bảo đảm quyền con người. Nhà nước bảo đảm quyền bất khả xâm
phạm về thân thể của công dân, không ai bị bắt nếu không có quyết định của
Tòa án nhân dân hoặc sự phê chuẩn của Viện kiểm sát. Nhà nước công nhận
quyền bất khả xâm phạm về nhà ở, thư tín của công dân. Nhà nước bảo đảm
việc xét xử được tiến hành công khai và bị cáo có quyền bào chữa cho mình.
Bản Hiến pháp năm 1980 là bản hiến pháp lần thứ 3 ra đời trong hoàn
cảnh đất nước đã hoàn toàn được giải phóng, Bắc, Nam xum họp một nhà.
Là bản hiến pháp quy định tương đối hoàn chỉnh và thống nhất về quyền con
43. 35
người. Các quyền công dân được Pháp luật bảo đảm như quyền bất khả xâm
phạm về thân thể, không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án nhân
dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân. Việc bắt người
phải thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, nghiêm cấm mọi hình thức
truy bức, nhục hình, công dân được pháp luật bảo hộ về tính mạng, tài sản,
danh dự và nhân phẩm. Công dân có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở.
Được giữ bí mật về thư tín, điện thoại, điện tín. Có quyền tự do đi lại và cư
trú theo quy định.
Trong giai đoạn này, pháp luật đã đưa ra được khái niệm về NCTN. Theo
quy định thì NCTN được hiểu là “con trai hay con gái đủ 18 tuổi” [12, Điều 7].
Chỉ thị số 46-TH ngày 14-01-1969 của Tòa án nhân dân tối cao quy
định: “Đối với trẻ em hư dưới 14 tuổi thì không đưa ra tòa án xét xử, từ 14
tuổi đến 18 tuổi, nếu trường hợp phạm pháp cần thiết phải đưa ra xét xử thì
có châm trước đến tuổi còn non trẻ của chúng, riêng đối với loại từ 14 tuổi
đến 16 tuổi, chỉ nên xét xử trong trường hợp phạm tội nghiêm trọng”
Theo quy định tại văn bản trên về NCTN cho thấy sự phù hợp về xác
định độ tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự của NCTN là từ 14 tuổi đến 18
tuổi trong điều kiện Pháp luật chưa có quy định hướng dẫn về độ tuổi phải
chịu trách nhiệm hình sự. Hơn nữa không phải tất cả những người từ đủ 14
tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm về mọi tội phạm, mà những người từ 14 tuổi
đến 16 tuổi chỉ chịu trách nhiệm đối với loại tội nghiêm trọng.
Tuy nhiên các quy định trên vẫn còn một số hạn chế vì chưa chỉ ra
được những trường hợp cụ thể phải chịu trách nhiệm hình sự trong từng độ
tuổi. Cũng như chưa có những quy định cụ thể để bảo đảm quyền con người
của NCTN trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử.
Việc quy định về bảo đảm quyền con người của NCTN trong Pháp luật ở
giai đoạn này còn chưa rõ nét, chủ yếu các quy định chỉ đưa ra khái niệm
44. 36
chung về bảo đảm quyền công dân. Đối với NCTN trong các văn bản hướng
dẫn dưới luật chủ yếu các quy định về đường lối xem xét xử lý hình sự và là
biện pháp bổ trợ cho việc Pháp luật còn thiếu quy định. Và do đó mặc dù có ý
nghĩa rất quan trọng trong quá trình áp dụng Pháp luật nhưng vẫn chưa đáp ứng
được yêu cầu bảo đảm quyền con người của NCTN cũng như yêu cầu của tình
hình chung. Nguyên nhân chủ yếu là do trong hoàn cảnh đất nước còn nhiều
khó khăn về điều kiện kinh tế, xã hội đang trong giai đoạn chiến tranh, thù
trong, giặc ngoài nên việc xây dựng được một hệ thống Pháp luật đầy đủ, đồng
bộ về quyền con người của NCTN trong giai đoạn điều tra là một đòi hỏi khó
có thể thực hiện trong thời điểm đó. Nhận thức Pháp luật của xã hội về vấn đề
bảo đảm quyền con người của NCTN trong điều tra giai đoạn nói riêng và
quyền con người nói chung còn hạn chế. Mặc dù vậy Nhà nước đã rất quan tâm
đến bảo đảm quyền của con người nói chung và bảo đảm tính mạng, nhân
phẩm của những người bị áp dụng các biện pháp tạm giam, tạm giữ nói riêng.
1.4.2. Giai đoạn từ năm 1988 đến năm 2003
BLTTHS năm 1988 là BLTTHS đầu tiên của Nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Bộ luật là sự kế thừa và phát triển những quy định
của pháp luật hình sự trước đây đồng thời có sự học tập, tham khảo kinh
nghiệm xây dựng Pháp luật hình sự của một số nước trên thế giới, đặc biệt là
của Liên Xô (cũ). Bộ luật quy định về trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy
tố xét xử và thi hành án. Quy định về bảo đảm quyền con người của NCTN
trong giai đoạn điều tra quy định trong BLTTHS 1988 tương đối đầy đủ, toàn
diện và có hệ thống. Bộ luật có hẳn một chương riêng quy định về thủ tục đặc
biệt: Thủ tục về những vụ án mà bị can, bị cáo là NCTN. Với tinh thần,
nguyên tắc xử lý đối với NCTN là giúp đỡ, giáo dục là chính giúp cho họ có
cơ hội sửa chữa sai lầm, trở thành công dân có ích cho xã hội.
Các quy định BLTTHS 1988 về bảo đảm quyền con người của NCTN
trong giai đoạn điều tra như sau:
45. 37
Thứ nhất: ĐTV trong những vụ án NCTN phải là người có hiểu biết
cần thiết về tâm lý học, về khoa học giáo dục cũng như về hoạt động đấu
tranh phòng chống tội phạm của NCTN.
Đây là quy định hết sức mới về điều tra viên được phân công giải quyết
vụ án có NCTN. Yêu cầu đòi hỏi đặt ra và được luật hóa là ĐTV đó phải có
hiểu biết cần thiết về tâm lý học, về khoa học giáo dục cũng như có kinh
nghiệm về hoạt động đấu tranh chống tội phạm của NCTN. Đây là quy định
hết sức quan trọng đối với việc bảo đảm các quyền con người của NCTN. Chỉ
có những ĐTV có những hiểu biết về tâm lý lứa tuổi NCTN, hiểu biết về khoa
học giáo dục đối với lứa tuổi này mới được phân công giải quyết vụ án. Quy
định này cho thấy Nhà nước có sự quan tâm đặc biệt đối với việc bảo đảm
quyền con NCTN từ phía những người trực tiếp tham gia hoạt động tố tụng.
Nếu họ là người có hiểu biết họ sẽ hành động theo đúng chuẩn mực cho phép
trong giai đoạn điều tra, tránh trường hợp những người không có hiểu biết,
kinh nghiệm về lứa tuổi này được phân công giải quyết vụ án sẽ có những bất
lợi cho NCTN.
Thứ hai: Khi tiến hành điều tra cần phải xác định rõ:
- Tuổi, trình độ phát triển về thể chất, tinh thần, mức độ nhận thức về
hành vi phạm tội của NCTN
- Điều kiện sinh sống và giáo dục
- Có hay không có những người lớn tuổi xúi giục
- Nguyên nhân và điều kiện phạm tội
Yêu cầu CQĐT phải xác định rõ những yếu tố trên trong giai đoạn điều
tra với mục đích để xác định tính chất, mức độ phạm tội và những tình tiết
giảm nhẹ. Ví dụ như xác định chính xác độ tuổi khi thực hiện hành vi phạm
tội là để xác định xem NCTN có bị xử lý về hình sự hay không? Trẻ có được
giáo dục nuôi dưỡng đầy đủ không hay là trẻ không được giáo dục trong môi
46. 38
trường lành mạnh? Nếu có người lớn xúi giục thì xác định vai trò phạm tội là
như thế nào? Ngoài ra điều tra viên còn phải tìm hiểu rõ nguyên nhân và điều
kiện phạm tội của NCTN là gì để phục vụ cho việc điều tra, giải quyết vụ án
được đúng đắn, khách quan, bảo đảm quyền lợi cho NCTN.
Bộ luật cũng quy định các trường hợp bắt, tạm giữ, tạm giam NCTN
nhưng chỉ trong những trường hợp phạm tội nghiêm trọng và theo quy định
tại điều 58 Bộ luật hình sự. Theo đó thì người từ 14 đến 16 tuổi phải chịu
trách nhiệm hình sự về những tội phạm nghiêm trọng do cố ý, người từ đủ 16
tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.
Ngoài ra luật cũng quy định CQĐT có thể áp dụng biện pháp giám sát
bị can là NCTN thay cho biện pháp tạm giữ, tạm giam bằng cách quyết định
giao bị can cho cha, mẹ hoặc người đỡ đầu của họ giám sát để bảo đảm sự có
mặt của bị can khi được CQĐT triệu tập làm việc. Quy định này cho thấy sự
thông thoáng, bảo đảm quyền lợi và tạo điều kiện cho bị can là NCTN có thể
được giám sát tại chỗ thay vì phải chịu hình thức tạm giam, tạm giữ.
NCTN được bảo đảm quyền có luật sư bào chữa cho mình theo chỉ
định của CQĐT trong trường hợp họ không lựa chọn được người bào chữa.
Người đại diện hợp pháp của họ cũng có quyền mời luật sư bào chữa hoặc tự
mình đứng ra bào chữa cho NCTN trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử.
NCTN được bảo đảm quyền có sự tham gia của đại diện gia đình, nhà
trường và tổ chức xã hội như Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh… tham
gia tố tụng theo quyết định của CQĐT. Thành phần hội đồng xét xử phải có
một hội thẩm nhân dân là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh.
Bộ luật cũng quy định không được giam chung NCTN với NTN khác
mà phải theo chế độ giam giữ riêng để bảo đảm quyền con người của NCTN
trong giai đoạn điều tra VAHS.