SlideShare a Scribd company logo
1 of 120
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN ANH THƯ
NGUY£N T¾C HAI CÊP XÐT Xö VíI VIÖC B¶O VÖ QUYÒN CON NG¦êI
TRONG LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM
(Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh §¾k L¾k)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN ANH THƯ
NGUY£N T¾C HAI CÊP XÐT Xö VíI VIÖC B¶O VÖ QUYÒN CON NG¦êI
TRONG LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM
(Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh §¾k L¾k)
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐẶNG QUANG PHƯƠNG
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Anh Thư
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU.......................................................................................................1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC HAI
CẤP XÉT XỬ TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT
NAM ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI ...............7
1.1. Khái niệm, đặc điểm và nội dung quyền con người .......................7
1.1.1. Khái niệm quyền con người ...............................................................7
1.1.2. Các đặc điểm cơ bản của quyền con người.........................................8
1.1.3. Nội dung quyền con người.................................................................9
1.1.4. Pháp luật quốc tế về quyền con người .............................................. 13
1.2. Khái niệm và nội dung của nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố
tụng hình sự.................................................................................... 17
1.2.1. Khái niệm nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng hình sự .............. 17
1.2.2. Lịch sử hình thành của Nguyên tắc hai cấp xét xử trong luật tố
tụng hình sự Việt Nam .....................................................................17
1.2.3. Nội dung nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng hình sự................19
1.3. Sự cần thiết, vai trò và ý nghĩa của việc thực hiện nguyên tắc
hai cấp xét xử trong tố tụng hình sự đối với việc bảo vệ quyền
con người ........................................................................................20
1.3.1. Sự cần thiết, vai trò của việc thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử
trong tố tụng hình sự đối với việc bảo vệ quyền con người .............. 20
1.3.2. Ý nghĩa của nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng hình sự đối
với việc bảo vệ quyền con người...................................................... 22
Chương 2: THỰC TIỄN THI HÀNH NGUYÊN TẮC HAI CẤP
XÉT XỬ TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI TRÊN ĐỊA
BÀN TỈNH ĐĂK LĂK...................................................................25
2.1. Quy định của BLTTHS về cấp xét xử sơ thẩm và thực tiễn thi
hành đối với việc bảo vệ quyền con người trên địa bàn tỉnh
Đăk Lăk ..........................................................................................25
2.1.1. Quy định của BLTTHS về cấp xét xử sơ thẩm................................. 25
2.1.2. Thực tiễn thi hành các qui định của BLTTHS về cấp xét xử sơ
thẩm đối với việc bảo vệ quyền con người tại Tòa án cấp sơ thẩm
trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk................................................................. 28
2.2. Quy định của BLTTHS về cấp xét xử phúc thẩm và thực tiễn
thi hành đối với việc bảo vệ quyền con người trên địa bàn
tỉnh Đăk Lăk...................................................................................52
2.2.1. Quy định của BLTTHS về cấp xét xử phúc thẩm .............................52
2.2.2. Thực tiễn thi hành các qui định của BLTTHS về cấp xét xử phúc
thẩm đối với việc bảo vệ quyền con người tại Tòa án cấp phúc
thẩm trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk ........................................................56
2.3. Những vi phạm, sai lầm trong việc thực hiện nguyên tắc hai
cấp xét xử trong tố tụng hình sự đối với việc bảo vệ quyền
con người trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk............................................ 68
2.3.1. Những vi phạm, sai lầm trong thực hiện các quyền ..........................68
2.3.2. Những vi phạm, sai lầm trong thực hiện các nghĩa vụ...................... 77
2.3.3. Nguyên nhân của những vi phạm, sai lầm trong thực hiện nguyên
tắc hai cấp xét xử trong tố tụng hình sự đối với việc bảo vệ
quyền con người trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk......................................83
Chương 3: NHỮNG YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP NHẰM
THỰC THI HIỆU QUẢ NGUYÊN TẮC HAI CẤP XÉT XỬ
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ĐỐI VỚI VIỆC
BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
ĐĂK LĂK....................................................................................... 87
3.1. Những yêu cầu của việc thực thi hiệu quả nguyên tắc hai cấp
xét xử trong tố tụng hình sự đối với việc bảo vệ quyền con
người trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk...................................................87
3.2. Các giải pháp nhằm thực thi hiệu quả nguyên tắc hai cấp xét
xử trong tố tụng hình sự đối với việc bảo vệ quyền con người
trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk .............................................................89
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật......................................................... 89
3.2.2. Giải pháp tăng cường công tác giải thích, hướng dẫn áp dụng
pháp luật ..........................................................................................97
3.2.3. Giải pháp nâng cao năng lực người tiến hành tố tụng và người
bào chữa........................................................................................... 98
3.2.4. Các giải pháp khác ......................................................................... 103
KẾT LUẬN............................................................................................... 106
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................. 108
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS: Bộ luật hình sự
BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
CQĐT: Cơ quan điều tra
CQTHTT: Cơ quan tiến hành tố tụng
NN: Nhà nước
NQ: Nghị Quyết
PL: Pháp luật
TAND: Tòa án nhân dân
TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao
TTHS: Tố tụng hình sự
VAHS: Vụ án hình sự
VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng Tên bảng Trang
Bảng 2.1: Số lượng các vụ án hình sự và số bị cáo đã được Tòa
án nhân dân cấp sơ thẩm tại tỉnh Đăk Lăk giải quyết
từ năm 2009 đến 2013 30
Bảng 2.2: Số liệu các vụ án hình sự và số bị cáo đã được xét xử
sơ thẩm từ năm 2009 đến năm 2013 của TAND hai
cấp tại tỉnh Đăk Lăk 36
Bảng 2.3: Số liệu các vụ án và các bị cáo, Tóa án trả hồ sơ điều
tra bổ sung từ năm 2009 đến năm 2013 của Tòa án
nhân dân cấp sơ thẩm tại tỉnh Đăk Lăk 38
Bảng 2.4: Số liệu các vụ án hình sự và các bị cáo đã được đình
chỉ vụ án từ năm 2009 đến năm 2013 của Tòa án
nhân dân cấp sơ thẩm trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk 40
Bảng 2.5: Số lượng các vụ án hình sự và các bị cáo đã được
Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm tại tỉnh Đăk Lăk thụ
lý ­ giải quyết từ năm 2009 đến 2013 57
Bảng 2.6: Số liệu thống kê – Phân tích các vụ án hình sự và các
bị cáo đã được giải quyết ở Tòa án cấp phúc thẩm tại
tỉnh Đăk Lăk từ năm 2009 đến năm 2013 59
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người là giá trị nhân văn cao quý, là khát vọng và thành quả
đấu tranh qua các giai đoạn phát triển trở thành tài sản chung vô giá của nhân
loại và mỗi quốc gia. Bảo đảm quyền con người là bảo đảm dân chủ, hiệu
quả, hiệu lực nhà nước cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Do
vậy, bảo vệ, bảo đảm quyền con người là nghĩa vụ chung của xã hội, là sứ
mệnh cao cả của mỗi quốc gia. Cần khẳng định việc tôn trọng và bảo đảm
quyền con người là mục tiêu xuyên suốt mà Đảng và Nhà nước ta luôn hướng
tới. Việc bảo đảm các quyền con người phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: kinh
tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng,...Tuy nhiên, công cụ hiệu quả nhất cho việc
bảo vệ quyền con người chính là hệ thống pháp luật. Chỉ thông qua việc nhà
nước bảo đảm về mặt pháp lý, các cơ quan tố tụng bảo đảm thực thi pháp luật
có hiệu quả là vấn đề cực kỳ quan trọng trong việc bảo đảm quyền con người.
Việt Nam đang trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, đó là nhà nước của dân, do dân, vì dân, Nhà nước có kỷ cương, kỷ luật,
có nền pháp chế cao và nền dân chủ mở rộng, Nhà nước quản lý xã hội bằng
pháp luật và theo pháp luật... Do đó vấn đề bảo vệ quyền con người càng
được quan tâm, coi trọng.
Xét xử vụ án hình sự là hoạt động Nhà nước đặc biệt và chuyên biệt của
Tòa án nhân dân giải quyết quan hệ giữa Nhà nước và người thực hiện hành
vi nguy hiểm cho xã hội, nhằm xác định trách nhiệm hình sự đối với người
đó. Hoạt động xét xử các vụ án này có thể dẫn tới một hậu quả pháp lý bất lợi
cho người bị xét xử cũng như những người khác có liên quan. Vì vậy, bản án,
quyết định của Tòa án khi xét xử phải chính xác, công minh, đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
2
Để thực hiện được điều đó, đòi hỏi hoạt động xét xử các vụ án hình sự phải
tuân thủ nhiều nguyên tắc cơ bản, những phương châm, kim chỉ nam của luật
Tố tụng hình sự [29].
Nguyên tắc hai cấp xét xử là một nguyên tắc mới được quy định trong
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và là một trong những nguyên tắc cơ bản
của pháp luật trong tố tụng hình sự thể hiện sự thận trọng của Tòa án trong
việc xét xử, đảm bảo cho việc xét xử chính xác, công bằng thể hiện sự nghiêm
minh của pháp luật. Việc quy định nguyên tắc này trong xét xử các vụ án hình
sự là một tất yếu khách quan của thực tiễn xét xử để hoạt động này có thể
thực hiện đúng được chức năng của nó và đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp
của các chủ thể có liên quan trong từng vụ án cụ thể. Thông qua đó, nguyên
tắc này đảm bảo tính tương đối trong việc bảo vệ quyền con người. Việc quy
định hai cấp xét xử trong vụ án hình sự là cơ chế bảo vệ quyền con người
trong TTHS. Quyền đó có được bảo vệ hay không, phản ánh bản chất của Nhà
nước, bản chất của pháp luật và con người trong xã hội đó. Việc xét xử một
vụ án hình sự theo hai cấp: Xét xử lần đầu ở cấp sơ thẩm (cấp xét xử thứ nhất)
và được tiếp tục xét xử ở cấp phúc thẩm (cấp xét xử thứ hai) nếu có kháng
cáo, kháng nghị. Còn nếu không, bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật và
được thi hành sau khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị. Có như vậy thì
những vụ án được Tòa án giải quyết đã có hiệu lực pháp luật (đã qua giải
quyết xét xử ở cấp phúc thẩm) phải được thi hành, tránh khiếu nại kéo dài.
Song trên thực tế, xét xử vụ án hình sự không phải bao giờ cũng đúng
đắn đem lại sự công bằng, bảo vệ được các quyền và lợi ích bị xâm phạm
cũng như bảo vệ quyền con người. Trong bối cảnh nước ta đang xây dựng nền
Kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, bên cạnh những tác động tích cực của việc đem lại về sự tăng trưởng,
phát triển vượt bậc về kinh tế thì những tác động tiêu cực, những mâu thuẫn,
3
những mặt trái của xã hội cũng nảy sinh, những loại tội phạm mới, tệ nạn xã
hội gia tăng trong xã hội ngày càng nhiều và các vụ án hình sự Tòa án xét xử
cũng trở nên phức tạp. Dù đạt được những thành tựu đáng khích lệ, hệ thống
pháp luật Việt Nam đã gần hơn với thông lệ quốc tế, nhưng nhìn chung trình
độ và kỹ năng lập pháp vẫn còn hạn chế, nhiều quy định chưa phù hợp, còn
chồng chéo, mâu thuẫn nhau, chưa theo kịp thực tiễn. Đâu đó, việc áp dụng
pháp luật chưa tốt ảnh hưởng đến sự thụ hưởng các quyền cơ bản của con
người. Theo pháp luật TTHS hiện hành, việc xét xử vụ án hình sự được tiến
hành qua 2 cấp sơ thẩm và phúc thẩm, bên cạnh đó còn có thủ tục đặc biệt là
giám đốc thẩm và tái thẩm. Trên thực tế, có những vụ án hình sự sơ thẩm đã
xét xử 3­4 phiên tòa, có nhiều nguyên nhân đã khiến vụ án phải kéo dài và
phải xét xử nhiều lần, không những gây tốn kém cho nhân dân mà còn thiệt
hại tới quyền lợi công dân và làm xói mòn lòng tin của nhân dân vào pháp
luật và cơ quan xét xử. Thực tiễn xét xử các vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh
Đăk Lăk cũng không phải là ngoại lệ.
Xuất phát từ những nguyên nhân trên cho thấy cần nghiên cứu thêm về
nguyên tắc thực hiện hai cấp xét xử của Tòa án trong TTHS là vấn đề cần
thiết khi ưu tiên bảo đảm quyền con người trong tình hình hiện nay. Do đó,
tôi chọn đề tài: “Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam –Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn
tỉnh Đăk Lăk”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nguyên tắc hai cấp xét xử trong TTHS là một vấn đề khoa học và thực
tiễn, nó phản ánh bản chất của pháp luật cũng như tính nhân văn trong cơ chế
bảo vệ quyền con người. Vì vậy đã có nhiều công trình, nhiều đề tài nghiên
cứu, như: "Nguyên tắc hai cấp xét xử và việc áp dụng nguyên tắc đó vào việc
tổ chức Tòa án các cấp" của PGS.TS Trần Văn Độ ­ Toà án quân sự Trung
4
ương; "Một số vấn đề về phiên tòa sơ thẩm" của ThS. Nguyễn Thị Thu Hà;
Trần Văn Độ "Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân" năm
2003; Đặc biệt Luận án tiến sĩ Luật học “Nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố
tụng hình sự” của Vũ Gia Lâm 2008 Trường Đại học Luật Hà Nội; Luận văn
thạc sĩ “Thẩm quyền xét xử theo thủ tục sơ thẩm theo pháp luật Việt Nam”
của Lê Hoài Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội là những công trình nghiên
cứu trực tiếp về hai cấp xét xử trong TTHS.
Trên đây là những công trình nghiên cứu khái quát các góc độ về nguyên
tắc hai cấp xét xử trong TTHS. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu này
chưa nghiên cứu vấn đề dưới góc độ áp dụng nguyên tắc xét xử hai cấp trong
Luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành để bảo vệ quyền con người.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
­ Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ những vấn đề lý luận về
bảo vệ quyền con người thông qua nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng
hình sự, nội dung và hình thức, phạm vi bảo đảm quyền con người trong
nguyên tắc này theo quy định của pháp luật hiện hành từ thực tiễn tỉnh Đăk
Lăk, đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền con
người thông qua việc thực hiện nguyên tắc này trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk.
Để đạt được mục đích trên, việc nghiên cứu tập trung vào những nhiệm
vụ sau:
­ Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về quyền con người, phân tích
các quyền con người được bảo vệ thông qua việc thực hiện nguyên tắc hai cấp
xét xử trong Luật TTHS Việt Nam.
­ Khảo sát thực tiễn việc thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử trong Luật
TTHS Việt Nam tại địa bàn tỉnh Đăk Lăk. Từ đó đánh giá có tính khách quan,
hệ thống về quá trình thực thi về mặt pháp lý trong việc bảo đảm quyền con
người, đánh giá thực trạng hoạt động bảo đảm quyền con người thông qua
5
việc thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử trong TTHS trên địa bàn tỉnh Đăk
Lăk hiện nay.
­ Phát hiện những vướng mắc, bất cập của các quy định về nguyên tắc
hai cấp xét xử trong Luật TTHS Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đăk Lăk và đưa ra
các quan điểm, tìm các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện về mặt pháp lý, nâng
cao vai trò của nguyên tắc hai cấp xét xử trong TTHS, đảm bảo cơ quan tố
tụng thực thi pháp luật từ đó nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền con người.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: là các vấn đề lý luận và các quy định
của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về nguyên tắc hai cấp xét xử, thực
tiễn xét xử và tổ chức xét xử ở cấp sơ thẩm, phúc thẩm trong những năm gần
đây từ thực tiễn tỉnh Đăk Lăk để đánh giá tổng quan về thực trạng bảo vệ
quyền con người thông qua nguyên tắc hai cấp xét xử.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung chủ yếu vào những vấn đề sau:
­ Các quan điểm lý luận khác nhau về quyền con người, về nguyên tắc
hai cấp xét xử trong TTHS.
­ Các quy định của pháp luật hiện hành về bảo đảm quyền con người, vai
trò của nguyên tắc hai cấp xét xử trong TTHS Việt Nam trong việc bảo vệ
quyền con người như: các quy định về thẩm quyền, quyền hạn của Tòa án cấp
sơ thẩm, phúc thẩm và hiệu lực của bản án sơ thẩm, phúc thẩm từ thực tiễn
tỉnh Đăk Lăk.
­ Thực tiễn thực hiện việc bảo vệ quyền con người thông qua nguyên tắc
hai cấp xét xử trong TTHS Việt Nam những năm gần đây từ thực tiễn tỉnh
Đăk Lăk.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác – Lênin; Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của
6
Đảng về Nhà nước và pháp luật, về xây dựng Nhà nước pháp quyền, cải cách
tư pháp ở nước ta.
Quá trình nghiên cứu đề tài tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu
khoa học như phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so
sánh, phương pháp thống kê.
6. Ý nghĩa khoa học của luận văn
­ Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về quyền con người; Thông qua
việc thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử của hai cấp Tòa án tỉnh Đăk Lăk
trong Luật TTHS Việt Nam như khái niệm, ý nghĩa, cơ sở của nguyên tắc,…
­ Phân tích, đánh giá việc bảo vệ quyền con người thông qua các quy
định của pháp luật hiện hành về nguyên tắc hai cấp xét xử trong Luật TTHS
Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đăk Lăk, phát hiện được những vướng mắc, hạn
chế của các quy định về nguyên tắc hai cấp xét xử và thực tiễn thực hiện.
Đồng thời tìm ra các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quả thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử để đáp ứng được yêu cầu cải
cách tư pháp và tăng cường bảo đảm quyền con người trong nhà nước pháp
quyền trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về nguyên tắc hai cấp xét xử trong
Luật Tố tụng hình sự Việt Nam đối với việc bảo vệ quyền con người.
Chương 2: Thực tiễn thi hành nguyên tắc hai cấp xét xử trong Luật Tố tụng
hình sự Việt Nam đối với việc bảo vệ quyền con người trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk.
Chương 3: Những yêu cầu và các giải pháp nhằm thực thi hiệu quả
nguyên tắc hai cấp xét xử trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam đối với việc
bảo vệ quyền con người trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk.
7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC HAI CẤP XÉT XỬ
TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ĐỐI VỚI
VIỆC BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI
1.1. Khái niệm, đặc điểm và nội dung quyền con người
1.1.1. Khái niệm quyền con người
Quyền con người là một vấn đề khá phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh
vực như đạo đức, chính trị, pháp lý... Chính vì vậy, hiện nay có rất nhiều định
nghĩa về quyền con người, mỗi định nghĩa tiếp cận quyền con người theo
những góc độ khác nhau. Một định nghĩa rất phổ biến thường được trích dẫn
bởi các học giả theo học thuyết quyền tự nhiên là: “Quyền con người là những
quyền cơ bản, không thể tước bỏ mà một người vốn được thừa hưởng đơn giản
vì họ là con người” [53]. Ở góc độ khái quát nhất, theo khái niệm của Liên hợp
quốc có thể hiểu là: “Những gì bẩm sinh, vốn có của con người mà nếu không
được bảo đảm thì chúng ta sẽ không thể sống như một con người” [54].
Ở Việt Nam, bên cạnh thuật ngữ “Quyền con người”, còn có thuật ngữ
“Nhân quyền”. Cả hai thuật ngữ này đều bắt nguồn từ thuật ngữ tiếng Anh
“Human rights”, mà nếu dịch trực tiếp sang tiếng Việt là quyền con người;
còn nếu dịch qua Hán ­ Việt là nhân quyền. Xét về mặt ngôn ngữ học, theo
Đại Từ điển tiếng Việt, quyền con người và nhân quyền là hai từ đồng nghĩa
[52]. Một số định nghĩa về quyền con người do một số chuyên gia, cơ quan
nghiên cứu từng nêu ra cũng không hoàn toàn giống nhau, nhưng xét chung,
quyền con người thường được hiểu là: “Những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn
có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật
quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế”.
Như vậy, dù ở góc độ nào hay cấp độ nào thì quyền con người cũng
được xác định như là chuẩn mực được kết tinh từ những giá trị nhân văn của
8
toàn nhân loại, áp dụng cho tất cả mọi người. Thuật ngữ quyền con người
theo Học thuyết Mác – Lênin là một chỉnh thể thống nhất thể hiện những tư
tưởng nhân văn chân chính nhất của loài người, là sự kế thừa một cách biện
chứng những giá trị tinh hoa của con người. C.Mác đã xuất phát từ con người
là một thực thể thống nhất, một “Sinh vật – Xã hội”. Do đó, quyền con người
là sự thống nhất biện chứng giữa “Quyền tự nhiên” là một đặc quyền vốn có
và chỉ con người mới có và “Quyền xã hội” là sự chế định bằng các quy chế
pháp lý nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội [1].
1.1.2. Các đặc điểm cơ bản của quyền con người
Quyền con người có một số đặc điểm cơ bản, các đặc điểm này thể hiện
tính phổ biến của nó ở mọi quốc gia không phụ thuộc vào chế độ chính trị ­
kinh tế của họ. Trong khoa học pháp lý và các văn kiện pháp lý quốc tế về
quyền con người, người ta thường nói tới các đặc điểm cơ bản sau về quyền
con người, cụ thể như sau:
Một là, tính không thể tước đoạt. Quyền con người không thể bị tước
đoạt một cách tùy tiện trừ trường hợp sự tước đoạt đó nhằm bảo vệ các quyền
con người của người khác do hành vi vi phạm pháp luật của người bị tước đoạt.
Hai là, tính không thể phân chia của quyền con người. Quyền con
người là tổng thể các quyền và tự do của con người, gắn bó với nhau, trong đó
không có quyền nào quan trọng hơn quyền nào. Vấn đề bảo vệ quyền con
người ở đây là nếu chúng ta quan tâm thích đáng đến một nhóm đối tượng
riêng biệt (Phụ nữ, trẻ em…) vì các đối tượng này thường là nạn nhân của sự
vi phạm quyền con người vì các yếu tố khách quan như truyền thống văn hóa
hoặc các yếu tố sức khỏe.
Ba là, tính liên hệ và phụ thuộc. Tính chất này thể hiện ở chỗ các quyền
con người không tồn tại một cách biệt lập mà tồn tại trong tổng thể và trong
đó các quyền này là điều kiện để đảm bảo các quyền khác và ngược lại. Chính
9
vì vậy, việc đảm bảo các quyền con người phải được tiến hành một cách tổng
thể, không thể chỉ chú ý đến quyền này mà bỏ các quyền khác. Bởi lẽ, các
quyền con người đều rất cần thiết cho sự phát triển toàn diện của con người
và việc bảo đảm các quyền này hỗ trợ cho việc bảo đảm các quyền khác [15].
Ngoài các đặc điểm cơ bản kể trên, quyền con người còn có một số đặc
điểm khác như: Quyền con người được xây dựng trên cơ sở tôn trọng nhân
phẩm và giá trị của mỗi cá nhân; Quyền con người đặt ra nghĩa vụ của các
chủ thể khác và buộc tất cả phải tôn trọng; Quyền con người không chỉ được
bảo vệ bằng pháp luật quốc gia mà còn được bảo vệ bằng pháp luật quốc tế.
1.1.3. Nội dung quyền con người
Trong Nhà nước pháp quyền, các quyền con người được pháp luật bảo
đảm thực hiện và được bảo vệ không bị xâm phạm. Bảo đảm quyền con người
không chỉ là nội dung, bản chất mà còn trở thành mục tiêu cao nhất trong xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Với mục tiêu của sự
nghiệp cách mạng là giải phóng con người, vì vậy, quan điểm nhất quán,
xuyên suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam là bảo vệ quyền con người, giải
phóng con người khỏi áp bức, bóc lột, bất công, đem lại cuộc sống tự do, ấm
no, hạnh phúc cho mỗi người. Sau đây là một số nội dung chính thể hiện quan
điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về quyền con người.
Quyền con người là giá trị chung của toàn nhân loại. Trong Chỉ thị số
12­CT/TW ngày 12 tháng 7 năm 1992, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã
khẳng định: “Quyền con người là thành quả của cuộc đấu tranh lâu dài qua
các thời đại của nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên thế giới, và
cũng là thành quả của cuộc đấu tranh của loài người làm chủ thiên nhiên;
qua đó, quyền con người trở thành giá trị chung của nhân loại” [2].
Trong xã hội có phân chia giai cấp, quyền con người mang tính giai cấp
sâu sắc. Mặc dù xét về bản chất, quyền con người là những giá trị chung của
10
toàn nhân loại, là kết tinh của quá trình lịch sử lâu dài, nhưng trên thực tế, đây
là một vấn đề mang tính chính trị và bị chính trị hóa. Do đó, việc giải thích và
áp dụng quyền con người thường thể hiện sự khác biệt về ý thức hệ. Về vấn đề
này, Chỉ thị số 41/2004/CT­TTg ngày 02/12/2004 của Thủ tướng Chính phủ
khẳng định: “… Cuộc đấu tranh trên vấn đề quyền con người là cuộc đấu
tranh mang tính giai cấp sâu sắc, sẽ diễn ra liên tục, lâu dài và quyết liệt” [42].
Quyền con người thống nhất với quyền dân tộc cơ bản. Từ thực tiễn đấu
tranh giữ gìn độc lập đất nước, Đảng rút ra bài học kinh nghiệm rằng sự nghiệp
giải phóng con người có mối liên hệ chặt chẽ với sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Một khi đất nước bị mất độc lập thì quyền con người không bao giờ được thực
thi và bảo đảm. Trong Nghị quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ VIII (từ
ngày 10 đến ngày 19/5/1941) về tổ chức Việt Minh, Nguyễn Ái Quốc viết:
Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt
dưới sự sinh tử tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này
nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi
được độc lập tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể
quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ
phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được [40].
Quyền con người vừa có tính phổ biến, vừa có tính đặc thù,
phụ thuộc vào truyền thống, đặc điểm và trình độ phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội của mỗi quốc gia. Về vấn đề này, Các Mác từng
viết: “Quyền không bao giờ có thể ở mức cao hơn chế độ kinh tế và
sự phát triển văn hóa của xã hội do chế độ kinh tế quyết định [28].
Theo Chỉ thị số 12­CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng, quyền
con người luôn luôn gắn liền với lịch sử, truyền thống và phụ thuộc vào
trình độ phát triển kinh tế, văn hóa của đất nước. Do vậy, không thể áp đặt
hoặc sao chép máy móc các tiêu chuẩn, mô thức của nước này cho các nước
11
khác. Sách trắng Thành tựu bảo vệ và phát triển quyền con người ở Việt
Nam cũng khẳng định:
Quyền con người vừa mang tính phổ biến, thể hiện khát vọng
chung của nhân loại, được ghi trong Hiến chương của Liên hợp
quốc, vừa có tính đặc thù đối với từng xã hội và cộng đồng…”. Do
đó, “Khi tiếp cận và xử lý vấn đề quyền con người cần kết hợp hài
hòa các chuẩn mực, nguyên tắc chung của luật pháp quốc tế với
những điều kiện đặc thù về lịch sử, chính trị, kinh tế ­ xã hội, các
giá trị văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục tập quán của mỗi
quốc gia và khu vực. Không một nước nào có quyền áp đặt mô hình
chính trị, kinh tế, văn hóa của mình cho một quốc gia khác [2].
Quyền con người thể hiện trong quyền công dân và được pháp luật bảo
hộ. Quyền con người muốn được hiện thực hóa phải được quy định cụ thể
trong pháp luật, nếu không, nó chỉ mang ý nghĩa hô hào, không có ý nghĩa
thực tế. Pháp luật là phương tiện để ghi nhận và hiện thực hóa các quyền con
người. Trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ
nghĩa xã hội năm 1991, Đảng xác định: “Nhà nước định ra các đạo luật nhằm
xác định các quyền công dân và quyền con người…”. Trong Hiến pháp năm
2013, Nhà nước Việt Nam đã ghi nhận một cách một cách đầy đủ và trang
trọng các quyền con người, phù hợp với các chuẩn mực của luật pháp quốc tế.
Quyền không tách rời nghĩa vụ. Trong “Điều lệ tạm thời của Hội liên
hiệp công nhân quốc tế năm 1864”, Các Mác đã chỉ rõ mối liên hệ giữa quyền
và nghĩa vụ: “Không có quyền lợi nào mà không có nghĩa vụ, không có nghĩa
vụ nào mà không có quyền lợi”. Trong Tuyên ngôn quốc tế về quyền con
người, tại khoản 2 Điều 29 cũng nêu rõ rằng:
Khi hưởng thụ các quyền và tự do của mình, mọi người chỉ
phải tuân thủ những hạn chế do luật định, nhằm mục đích bảo đảm
12
sự công nhận và tôn trọng thích đáng đối với các quyền và tự do
của người khác cũng như nhằm đáp ứng những yêu cầu chính đáng
về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung trong một xã hội
dân chủ [25].
Về mối quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ, Đảng ta nhận định:
Quyền dân chủ, tự do của mỗi cá nhân không tách rời nghĩa vụ
và trách nhiệm công dân. Dân chủ phải đi đôi với kỷ cương, pháp
luật. Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, đồng thời thực hiện chuyên chính với mọi hành động
xâm phạm lợi ích Tổ quốc, của nhân dân [2].
Tất cả các quyền con người cần được tôn trọng và bảo đảm một cách
bình đẳng, tất cả các quyền của con người đều có ý nghĩa quan trọng như
nhau và không có quyền nào được coi là vượt trội hơn quyền nào. Việc thực
hiện hay không thực hiện một quyền sẽ có tác động tích cực hoặc tiêu cực đến
các quyền khác. Về vấn đề này, Nhà nước Việt Nam luôn xác định một
phương hướng:
… Cần tiếp cận một cách toàn diện tất cả các quyền con người
về dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa trong một tổng thể hài
hòa, không được xem nhẹ bất cứ quyền nào. Đồng thời, các quyền
và tự do của mỗi cá nhân chỉ có thể được bảo đảm và phát huy trên
cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích chung của dân tộc và cộng đồng…
Việc chỉ ưu tiên hoặc tuyệt đối hóa các quyền dân sự, chính trị và
một số quyền tự do cá nhân, không quan tâm thích đáng đến quyền
phát triển, các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa của cả cộng đồng là
cách đề cập phiến diện, không phản ánh đầy đủ bức tranh toàn cảnh
về quyền con người [16].
Mở rộng đối thoại và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quyền con người.
13
Đảng ta chủ trương thúc đẩy hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quyền con người
trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ,
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Trong Chỉ thị số 12­CT/TW,
Đảng ta khẳng định:
Quyền con người là vấn đề đang được đặt ra trong các mối
quan hệ quốc tế. Cần làm tốt công tác đối ngoại, giữ vững độc lập,
chủ quyền của nước ta, sẵn sàng tỏ thiện chí hợp tác trong quan hệ
quốc tế vì quyền con người, đồng thời đấu tranh với những âm mưu
lợi dụng vấn đề này để chống phá ta [2].
1.1.4. Pháp luật quốc tế về quyền con người
Từ góc độ pháp lý, pháp luật quốc tế có thể hiểu đây là một hệ thống các
quy tắc, tiêu chuẩn và tập quán pháp lý quốc tế xác lập, bảo vệ và thúc đẩy
các quyền và tự do cơ bản cho mọi thành viên của cộng đồng nhân loại. Mặc
dù vẫn còn những tranh cãi nhất định, song quan niệm chung của pháp luật
quốc tế về quyền con người nói chung bao gồm: Các điều ước quốc tế (Công
ước, Nghị định thư có hiệu lực toàn cầu hay khu vực) về quyền con người do
các quốc gia thành viên Liên hợp quốc và thành viên của các tổ chức liên
chính phủ khác thông qua có hiệu lực ràng buộc với các quốc gia đã tham gia;
Các Nghị quyết có liên quan đến vấn đề quyền con người do các cơ quan
chính và cơ quan giúp việc của Liên hợp quốc thông qua và chỉ có các nghị
quyết của Hội đồng Bảo an là có hiệu lực pháp lý bắt buộc; Các văn kiện
quốc tế khác về quyền con người (Các tuyên bố, tuyên ngôn, khuyến nghị,
nguyên tắc, hướng dẫn…) do Liên hợp quốc và các tổ chức liên Chính phủ
khác thông qua; Những bình luận, khuyến nghị chung (với mọi quốc gia) và
những kết luận khuyến nghị (với những quốc gia cụ thể) do Ủy ban giám sát
các công ước quốc tế về quyền con người đưa ra trong quá trình xem xét báo
cáo của các quốc gia về việc thực hiện những công ước này; Các phán quyết
của Tòa án Công lý Quốc tế và một số tòa án khu vực về quyền con người.
14
Hiến chương Liên hợp quốc là văn kiện nền tảng cho pháp luật quốc tế
về quyền con người bởi Hiến chương đã khẳng định việc thúc đẩy và bảo vệ
quyền con người là một trong những mục tiêu hoạt động của Liên hợp quốc –
tổ chức liên chính phủ lớn và có quyền lực nhất trên thế giới. Một trong
những mục tiêu cơ bản của Liên hợp quốc là hướng trực tiếp vào vấn đề
quyền con người:
Tăng cường sự hợp tác quốc tế trong giải quyết các vấn đề
quốc tế về kinh tế xã hội, văn hoá hoặc các vấn đề nhân đạo, thúc
đẩy và khuyến khích sự tôn trọng các quyền con người và tự do cơ
bản cho tất cả mọi người mà không có sự phân biệt đối xử nào về
chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ hoặc tôn giáo.
Bên cạnh đó, Bộ luật nhân quyền quốc tế (The International Bill of
Human Rights) cũng được xem là xương sống của pháp luật quốc tế về quyền
con người. Đó là thuật ngữ chỉ sự tập hợp của ba văn kiện quốc tế cơ bản trên
lĩnh vực này, đó là Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948
(UDHR) và hai Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR) và
Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa (ICESCR). Ngoài ra,
theo một số tài liệu, các Nghị định thư bổ sung của hai công ước cơ bản về
quyền con người năm 1966 cũng là những bộ phận cấu thành của Bộ luật này.
Sau Bộ luật nhân quyền quốc tế, nhiều điều ước và văn kiện quốc tế khác
về vấn đề này đã được thông qua bởi Liên hợp quốc. Hệ thống các văn kiện
này đề cập đến các quyền và tự do cơ bản (ICCPR và ICESCR) của mọi cá
nhân, các quyền đặc thù của một số nhóm xã hội dễ bị tổn thương (Phụ nữ,
trẻ em, người khuyết tật, người tị nạn, người không quốc tịch, người lao động
di trú, người thiểu số...) và một loạt vấn đề khác có liên quan như xoá bỏ sự
phân biệt đối xử về chủng tộc, xoá bỏ chế độ nô lệ và các thực trạng như nô
lệ, xóa bỏ hình phạt tử hình, xoá bỏ tra tấn, xoá bỏ lao động cưỡng bức, ngăn
chặn việc đưa đi mất tích...
15
Mối quan hệ giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia về quyền con
người: về cơ bản đây cũng là mối quan hệ giữa pháp luật quốc tế nói chung
với pháp luật quốc gia. Pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia là hai hệ thống
khác nhau nhưng không đối lập mà có mối quan hệ, tác động qua lại, thúc đẩy
lẫn nhau cùng phát triển. Pháp luật quốc tế có thể tác động, thúc đẩy sự phát
triển tiến bộ của pháp luật quốc gia trong khi pháp luật quốc gia đóng vai trò
là phương tiện truyền tải và điều kiện bảo đảm cho pháp luật quốc tế được
thực hiện trên thực tế. Sự tương tác đó thể hiện ở những điểm sau: Thứ nhất,
pháp luật quốc gia là nền tảng thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển của
pháp luật nhân quyền quốc tế. Các văn kiện quốc tế cơ bản về quyền con
người đã chịu ảnh hưởng rất nhiều từ những văn bản pháp luật quốc gia nổi
tiếng thế giới như Hiến chương Magna Carta của nước Anh, Tuyên ngôn độc
lập của nước Mỹ, Tuyên ngôn về quyền con người và dân quyền của nước
Pháp…vì bản thân nó chứa đựng những quy phạm nhân quyền rất tiến bộ,
được cộng đồng quốc tế thừa nhận như là những giá trị phổ biến, chung cho
toàn nhân loại như: Nguyên tắc về bình đẳng, tự do, suy đoán vô tội, xét xử
công bằng; quyền dân tộc tự quyết…; Thứ hai, pháp luật quốc tế về quyền
con người sẽ tác động, thúc đẩy sự phát triển tiến bộ của pháp luật quốc gia về
quyền con người. Sự hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật của hầu
hết các quốc gia trên thế giới đều đã được sửa đổi, bổ sung một cách đáng kể
theo hướng làm hài hòa với các chuẩn mực quốc tế về quyền con người; Thứ
ba, pháp luật quốc gia là phương tiện truyền tải luật nhân quyền quốc tế, là
điều kiện đảm bảo cho luật nhân quyền quốc tế được thực hiện. Thông
thường, pháp luật quốc tế không được áp dụng trực tiếp bởi tòa án của các
quốc gia. Để pháp luật quốc tế được thực thi trong phạm vi lãnh thổ quốc gia,
các nhà nước phải “Nội luật hoá” các quy phạm pháp luật quốc tế vào hệ
thống pháp luật nước mình, tức là sửa đổi hoặc bổ sung hệ thống pháp luật
16
nước mình để làm hài hòa với pháp luật quốc tế. Trong trường hợp pháp luật
quốc gia chưa hài hòa với một điều ước quốc tế về quyền con người mà nước
mình là thành viên thì hầu hết các quốc gia đặt sự ưu tiên áp dụng với điều
ước quốc tế.
Chính sách của Đảng Cộng sản và pháp luật của Nhà nước Việt Nam về
quyền con người: Việt Nam đã và đang xây dựng và thực hiện những chính
sách nhằm trực tiếp và gián tiếp bảo vệ thúc đẩy các quyền con người, có thể
khái quát như sau:
Chính sách đối nội: Tăng cường và mở rộng dân chủ phát huy hơn nữa
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; Phát huy nhân tố con người, đẩy mạnh phát
triển kinh tế, giải quyết tốt các vấn đề xã hội và ưu tiên, chăm lo các gia đình
chính sách xã hội; Bảo đảm sự bình đẳng giữa các dân tộc, hoàn thiện khuôn
khổ pháp lý về quyền con người, quyền công dân; Ngăn ngừa và trừng trị
những hành vi vi phạm quyền con người, quyền công dân, đồng thời, chống
khuynh hướng dân chủ cực đoan, quá khích, lợi dụng vấn đề quyền con người
để chống phá chế độ; Tăng cường hoạt động giáo dục, phổ biến về quyền con
người, quyền công dân cho cán bộ, nhân viên nhà nước và nhân dân.
Chính sách đối ngoại: chỉ đạo việc giải quyết các vấn đề quyền con
người cần thông qua đối thoại hòa bình và trên nguyên tắc bình đẳng, tôn
trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không áp đặt và can thiệp vào
công việc nội bộ của nhau. Phương châm hành động mà Đảng Cộng sản và
Nhà nước Việt Nam đề ra trên lĩnh vực này là chủ động, tích cực trong các
hoạt động hợp tác quốc tế và mở rộng đối thoại trong lĩnh vực quyền con
người. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã khẳng định, cần:
“Chủ động tham gia cuộc đấu tranh chung vì quyền con người. Sẵn sàng đối
thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề
nhân quyền”.
17
1.2. Khái niệm và nội dung của nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố
tụng hình sự
1.2.1. Khái niệm nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng hình sự
Nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng hình sự là tư tưởng chủ đạo, có
tính bắt buộc chung, thể hiện quan điểm có tính định hướng của Nhà nước
trong việc tổ chức tố tụng để xét xử các vụ án hình sự, được quy định trong
pháp luật tố tụng hình sự. Theo đó, việc xét xử vụ án hình sự phải được thực
hiện ở hai cấp xét xử là xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm; bản án, quyết
định sơ thẩm có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Trong
trường hợp bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì tòa án
cấp phúc thẩm phải tiến hành xét xử lại vụ án; Nếu không bị kháng cáo,
kháng nghị thì bản án, quyết định sơ thẩm sẽ có hiệu lực pháp luật [29].
Nguyên tắc hai cấp xét xử là nguyên tắc được xác định trong tố tụng hiện
đại. Nguyên tắc này được ghi nhận trong các công ước quốc tế, đặc biệt là
Công ước về quyền dân sự và chính trị của Liên hợp quốc, Quy chế về Toà án
hình sự quốc tế. Nguyên tắc này cũng được ghi nhận trong pháp luật quốc gia
của các nước thuộc các hệ thống pháp luật khác nhau…[17]. Để bảo đảm tính
chính xác, khách quan trong phán quyết của Tòa án, bảo vệ các quyền con
người, các quốc gia có nền tố tụng hiện đại đều áp dụng nguyên tắc vụ án có
thể được tổ chức xét xử nhiều lần và tổ chức hệ thống Tòa án để thực hiện
nguyên tắc đó trong thực tế.
1.2.2. Lịch sử hình thành của Nguyên tắc hai cấp xét xử trong luật tố
tụng hình sự Việt Nam
Có thể nói, một trong các nguyên tắc được thừa nhận sớm nhất khi thực
hiện chức năng xét xử của Toà án đó là nguyên tắc “Chế độ hai cấp xét xử”.
Nguyên tắc này đều được thừa nhận trong từng giai đoạn khác nhau của lịch
sử lập pháp đã định hướng và thể hiện ở tất cả các quy định của luật TTHS
18
trong quá trình giải quyết vụ án: khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án
của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hàng tố tụng tạo thành hệ
thống các quy phạm làm cơ sở cho việc bảo vệ quyền con người [11].
­ Thời kỳ 1945 – 1960: Ngay từ ngày đầu tồn tại Nhà nước dân chủ nhân
dân, Nhà nước ta đã thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử. Hiến pháp năm 1946
quy định cơ quan tư pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà gồm có Toà
án tối cao, các Toà án phúc thẩm, các Toà án đệ nhị cấp và sơ cấp. Như vậy,
từ góc độ tổ chức và tố tụng, nguyên tắc hai cấp xét xử ở nước ta thời kỳ này
được thực hiện tương đối linh hoạt.
­ Thời kỳ 1960 – 1980: Ngày 14/7/1960, Luật tổ chức Toà án nhân dân
đầu tiên được ban hành. Và cũng trong Luật này, lần đầu tiên về mặt luật định
nguyên tắc hai cấp xét xử được ghi nhận tại Điều 9: “Toà án nhân dân thực
hành chế độ hai cấp xét xử”. Đương sự có quyền chống bản án hoặc quyết
định của Toà án nhân dân xử sơ thẩm lên Toà án nhân dân trên một cấp. Viện
kiểm sát nhân dân cũng cấp và trên một cấp có quyền kháng nghị bản án hoặc
quyết định sơ thẩm của Toà án nhân dân. Nếu đương sự không chống án và
Viện kiểm sát nhân dân không kháng nghị trong thời hạn do pháp luật quy
định thì bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án nhân dân địa phương sẽ có
hiệu lực pháp luật. Bản án, quyết định phúc thẩm của các Toà án nhân dân,
bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án nhân dân tối cao là chung thẩm [17].
­ Thời kỳ từ 1980 đến nay: Mặc dù chế độ hai cấp xét xử không được ghi
nhận cụ thể trong Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1980 và Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 1988, nhưng nội dung cụ thể của nó vẫn được thể hiện đầy đủ, có
những nội dung có sự tiến bộ hơn như: về quyền hạn, Toà án cấp phúc thẩm
không có quyền làm xấu đi tình trạng của bịcáo hoặc huỷ bản án, quyết định
sơ thẩm để xét xử lại vụ án theo hướng làm nặng thêm tình trạng của đương
sự nếu không có kháng cáo, kháng nghị về vấn đề đó.
19
Đến năm 2002, nguyên tắc này lại được quy định tại Luật Tổ chức
TAND (Điều 11) và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 (Điều 20), về cơ bản
đã khắc phục những hạn chế trước đó về thủ tục tố tụng cần tuân thủ để thực
hiện nguyên tắc hai cấp xét xử như: huỷ bỏ thẩm quyền xét xử sơ thẩm đồng
thời chung thẩm của Toà án nhân dân tối cao; tính chất của phúc thẩm được
khẳng định là xét xử lại vụ án và bằng cách sửa đổi quyền hạn của Toà giám
đốc thẩm, luật khẳng định rằng đó chỉ là thủ tục đặc biệt (phá án) chứ không
phải là một cấp xét xử…
Hiến pháp năm 2013 được Quốc hội thông qua ngày 28/11/2013 đã phản
ánh một cách biện chứng những bước tiến trong nhận thức lý luận và kết quả
thực tiễn của quá trình cải cách bộ máy nhà nước nói chung và cải cách tư
pháp nói riêng. Trong đó, Hiến pháp năm 2013 đã dành 05 điều để quy định
về Tòa án nhân dân, được thể hiện từ Điều 102 đến Điều 106. Theo đó, Hiến
pháp năm 2013 bổ sung nguyên tắc mới là “Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc
thẩm được đảm bảo” [35]. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 một lần
nữa nhắc lại nguyên tắc hiến định với nội dung: “Bảo đảm chế độ xét xử sơ
thẩm, phúc thẩm”. Về bản chất thì cách thể hiện của nguyên tắc nêu trên có
kế thừa song có bao hàm những nội dung mới đó là khẳng định nguyên tắc hai
cấp xét xử là cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm. Như vậy, những vụ việc được
Tòa án giải quyết xét xử đã có hiệu lực pháp luật (Đã qua giải quyết xét xử ở
cấp phúc thẩm) phải được thi hành, tránh khiếu nại kéo dài.
1.2.3. Nội dung nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng hình sự
Nguyên tắc hai cấp xét xử được qui định tại Điều 20 BLTTHS năm 2003
có nội dung Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử. Theo đó:
Bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị
theo quy định của BLTTHS này. Xét xử sơ thẩm là cấp xét xử thứ nhất, khi
xác định Tòa án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm phải căn cứ vào những quy
20
định của pháp luật về thẩm quyền theo sự việc, thẩm quyền theo đối tượng
và thẩm quyền theo lãnh thổ. Sau khi xét xử sơ thẩm, bản án và quyết định
của Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật ngay, Viện kiểm sát có quyền kháng
nghị, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác có quyền kháng cáo theo
quy định của pháp luật để yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án
một lần nữa.
Bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị trong thời
hạn do BLTTHS năm 2003 quy định thì có hiệu lực pháp luật. Đối với bản án,
quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị vụ án phải được xét xử phúc
thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm là cấp xét xử thứ hai. Khi xét xử lại vụ án, Tòa
án cấp phúc thẩm không chỉ kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản
án và quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm mà còn xét xử lại vụ án về mặt nội
dung bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật ngay sau khi tuyên
án và được đưa ra thi hành.
Đối với bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà phát
hiện có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới thì được xem xét lại theo thủ
tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Tòa án cấp giám đốc thẩm và tái thẩm không
phải là một cấp xét xử, không xét xử lại vụ án về nội dung mà chỉ xét lại bản án
hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật, kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn
cứ của các bản án và quyết định đó. Khi giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, Tòa án
không thực hiện chức năng xét xử mà thực hiện chức năng việc giám đốc xét
xử của Tòa án cấp trên đối với hoạt động xét xử của Tòa án cấp dưới.
1.3. Sự cần thiết, vai trò và ý nghĩa của việc thực hiện nguyên tắc hai
cấp xét xử trong tố tụng hình sự đối với việc bảo vệ quyền con người
1.3.1. Sự cần thiết, vai trò của việc thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử
trong tố tụng hình sự đối với việc bảo vệ quyền con người
Cần khẳng định việc thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng
21
hình sự để bảo vệ quyền con người là cần thiết. Bởi lẽ, không phổ biến, không
rộng lớn, không diễn ra hàng ngày hàng giờ như các lĩnh vực hành chính, kinh
tế, môi trường,... Nhưng có thể nói, quyền con người trong TTHS là nhóm
quyền dễ bị xâm phạm và bị tổn thương nhất và hậu quả để lại cũng nghiêm
trọng nhất khi nó động chạm đến quyền được sống, quyền tự do và sinh mệnh
chính trị của một cá nhân. Bởi lẽ, TTHS với tư cách là quá trình Nhà nước
đưa một người ra xử lý trước pháp luật khi họ bị coi là tội phạm, quá trình này
luôn thể hiện đậm nét tính quyền lực nhà nước với sức mạnh cưỡng chế của
Nhà nước. Với sự thiếu quân bình về thế và lực của các bên khi tham gia quan
hệ TTHS mà sự yếu thế luôn thuộc về những người bị buộc tội [9]. Do đó, khi
một vụ án hình sự được đưa ra để xét xử, nếu Tòa án cấp sơ thẩm mà xét xử
sai thì khi đó quyền và lợi ích của bị cáo và những người tham gia tố tụng
khác sẽ ra sao? Khi đó họ phải làm thế nào và phải làm những gì để bảo vệ
được quyền và lợi ích chính đáng của mình?. Để trả lời câu hỏi đó, pháp luật
quy định và thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng hình sự [32].
Bản án sơ thẩm có thể bị sửa, bị hủy, quyết định ở cấp phúc thẩm sẽ kịp thời
sửa chữa những sai lầm hoặc các vi phạm pháp luật mà cấp sơ thẩm đã mắc
phải, góp phần nâng cao trách nhiệm của Hội đồng xét xử sơ thẩm giúp họ có
thái độ thận trọng và có trách nhiệm hơn trước khi đưa ra phán quyết của
mình. Việc quy định xét xử qua hai cấp để thông qua hoạt động xét xử ở cấp
phúc thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm sẽ kịp thời chỉ ra những sai lầm, thiếu sót
để Tòa án cấp sơ thẩm kịp thời rút kinh nghiệm. Đây cũng chính là một hình
thức hướng dẫn áp dụng pháp luật có hiệu quả to lớn giữa Tòa án cấp phúc
thẩm và Tòa án cấp sơ thẩm. Nhờ đó mà chất lượng xét xử tại các cấp xét xử
ngày càng được nâng cao. Việc xét xử lại vụ án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xét
xử sẽ giúp tìm ra nguyên nhân dẫn đến những sai lầm hay những vi phạm
pháp luật trong việc áp dụng pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng nói
chung và Tòa án nói riêng.
22
Nguyên tắc xét xử hai cấp đóng vai trò rất quan trọng và độc lập, cần
phải có trong hệ thống các nguyên tắc pháp luật tố tụng hình sự. Bởi lẽ:
Đối với nhà nước, nguyên tắc hai cấp xét xử thể hiện bản chất pháp
quyền của dân, do dân và vì dân. Mặt khác nguyên tắc này là công cụ hữu
hiệu giúp cho nhà nước thực hiện chức năng quản lý xã hội, công bằng xã hội
được duy trì, ý thức người dân về pháp luật được nâng cao, trật tự xã hội được
Nhà nước xác lập không bị xâm phạm.
Đối với cơ quan tiến hành tố tụng, với việc đẩy mạnh cải cách tư pháp
theo tinh thần Nghị quyết số 49­NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020. Với những điểm mới, quan trọng về quyền tư
pháp, thực hiện quyền tư pháp gắn liền với bảo vệ quyền con người trong hoạt
động tư pháp. Đặc biệt là cơ quan xét xử, nguyên tắc này nhằm bảo đảm pháp
lý vững chắc cho việc tìm ra sự thật của một vụ án, là một hình thức nâng cao
hiệu quả, chất lượng cũng như khắc phục những hạn chế trong quá trình xét xử.
Đối với người tham gia tố tụng, nguyên tắc này tạo ra căn cứ pháp lý quan
trọng, công cụ hỗ trợ để các chủ thể trong quan hệ TTHS tiếp cận công lý, thực
hiện quyền và và nghĩa vụ của mình. Từ đó, quyền con người được Nhà nước
bảo vệ thông qua quá trình xét xử của cơ quan tiến hành tố tụng [29].
1.3.2. Ý nghĩa của nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng hình sự đối
với việc bảo vệ quyền con người
1.3.2.1. Ý nghĩa pháp lý
Nguyên tắc này tạo cơ sở pháp lý quan trọng để Viện kiểm sát, bị cáo và
những người tham gia tố tụng khác có quyền và lợi ích pháp lý liên quan đến
vụ án thể hiện thái độ đồng tình với việc xét xử của Tòa án bằng việc kháng
nghị, kháng cáo đối với bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án theo qui định
của pháp luật tố tụng hình sự, để vụ án được xét xử lại ở cấp phúc thẩm [32].
Mặt khác, việc quy định một vụ án có thể được xét xử qua hai cấp là một đảm
23
bảo pháp lý cần thiết cho việc xét xử của Tòa án được chính xác và đúng đắn.
Thông qua đó, những vấn đề thuộc về nội dung vụ án sẽ một lần nữa được
xem xét, phân tích và đánh giá kỹ càng hơn, đầy đủ hơn. Trên cơ sở đó, phán
quyết của Tòa án đưa ra sẽ đảm bảo độ chính xác cao hơn. Từ đó giúp tìm ra
các giải pháp thích hợp để sửa chữa, khắc phục về lập pháp cũng như hướng
dẫn áp dụng pháp luật, tổ chức các cơ quan tiến hàng tố tụng, nhất là hoàn
thiện tổ chức Tòa án đáp ứng yêu cầu của nguyên tắc hai cấp xét xử và yêu
cầu cải cách tư pháp.
1.3.2.2. Ý nghĩa chính trị, xã hội
Một vụ án hình sự có thể được xét xử ở hai cấp xét xử khác nhau là phù
hợp với quy luật của nhận thức nhằm đảm bảo tính đúng đắn, khách quan của
hoạt động xét xử. Quy định nguyên tắc hai cấp xét xử thể hiện thái độ thận
trọng của Nhà nước trong việc đưa ra phán quyết về số phận pháp lý, sinh
mạng chính trị, quyền lợi của người đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật
hình sự và những người khác có liên quan, là sự thể hiện rõ ràng nhất bản chất
của Nhà nước pháp quyền Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân
vì nhân dân trong đó vấn đề tôn trọng và bảo vệ quyền con người là một nội
dung quan trọng của Nhà nước pháp quyền; Là sự thể hiện nhận thức khoa
học về hoạt động xét xử của Tòa án phù hợp với nguyên lý của chủ nghĩa
Mac­ Lê Nin về nhận thức thế giới. Đó là, nhận thức luôn có sự vận động và
phát triển, không phải trong mọi trường hợp nhận thức của một con người về
một sự vật, hiện tượng đã đúng đắn ngay từ lần nhận thức đầu tiên [12].
Đồng thời với việc đảm bảo quyền lợi của người tham gia tố tụng, việc
xét xử ở hai cấp giúp cho họ nhận thức rõ trách nhiệm của mình trong vụ án
để có thái độ hợp tác tích cực với cơ quan tố tụng có thẩm quyền trong việc
thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình. Do vậy sẽ là không công bằng nếu như
là tước bỏ quyền bảo vệ, quyền và lợi ích của bị cáo, người tham gia tố tụng
24
có quyền và lợi ích pháp lý liên quan đến vụ án một lần nữa tại phiên tòa xét
xử khác, nếu như chưa thể có các điều kiện thực tế để khẳng định hay đảm
bảo rằng: phán quyết của lần xét xử đầu tiên là chính xác. Mặt khác khi biết
được kết quả của hoạt động xét xử phúc thẩm, thấy được sự đánh giá về tính
đúng đắn hay không đúng đắn của xét xử sơ thẩm người dân mới thực hiện
được triệt để quyền giám sát hoạt động xét xử của Tòa án các cấp. Trên cơ sở
đó mới có thái độ chính xác nhất về tính khách quan của hoạt động này trong
việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của công dân, lợi ích
chung của xã hội và cộng đồng [20].
Việc quy định nguyên tắc hai cấp xét xử trong TTHS với nội dung cơ
bản là một vụ án hình sự có thể được xét xử và chỉ có thể được xét xử ở hai
cấp xét xử là cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm, giúp tránh tính trạng được (bị)
xét xử ở quá nhiều cấp làm cho quá trình tố tụng kéo dài, ảnh hưởng tới
hiệu lực của bản án, quyết định, nhất là những bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật.
25
Chương 2
THỰC TIỄN THI HÀNH NGUYÊN TẮC HAI CẤP XÉT XỬ TRONG
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ
QUYỀN CON NGƯỜI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐĂK LĂK
2.1. Quy định của BLTTHS về cấp xét xử sơ thẩm và thực tiễn thi
hành đối với việc bảo vệ quyền con người trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk
2.1.1. Quy định của BLTTHS về cấp xét xử sơ thẩm
Xét xử sơ thẩm là cấp xét xử thứ nhất khi xác định Tòa án có thẩm quyền
xét xử sơ thẩm phải căn cứ vào quy định của pháp luật về thẩm quyền theo vụ
án hình sự, thẩm quyền theo đối tượng và thẩm quyền theo lãnh thổ. Đây là
cấp xét xử có ý nghĩa quan trọng trong thủ tục tố tụng giải quyết các vụ án
hình sự. Sau khi xét xử sơ thẩm, bản án và quyết định của Tòa án chưa có
hiệu lực pháp luật ngay, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị, bị cáo và những
người tham gia tố tụng khác có quyền kháng cáo theo qui định của pháp luật
để yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử vụ án lại một lần nữa. Bản án,
quyết định của cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp
luật kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị quy định tại Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2003 [18].
Thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, tại khoản 1 Điều 40, khoản 1
Điều 44 Luật Tổ chức TAND 2014 qui định: Tòa chuyên trách Tòa án nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi tắt là cấp tỉnh) và Tòa án nhân
dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương (gọi tắt là cấp
huyện) [39] thực hiện theo thẩm quyền xét xử được quy định tại Điều 170
BLTTHS. Theo đó, Tòa án nhân dân cấp huyện xét xử sơ thẩm những vụ án
hình sự về những tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội
phạm rất nghiêm trọng (Trừ những tội phạm sau đây: Các tội xâm phạm an
26
ninh quốc gia; Các tội phá hoại hoà bình, chống loài người và tội phạm chiến
tranh; Các tội quy định tại các điều 93, 95, 96, 172, 216, 217, 218, 219, 221,
222, 223, 224, 225, 226, 263, 293, 294, 295, 296, 322 và 323 của Bộ luật hình
sự); Tòa án nhân dân cấp tỉnh xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những
tội phạm không thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện hoặc
những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp dưới mà mình lấy lên để xét
xử. Các phán quyết của Tòa án từ bản án, quyết định chỉ có hiệu lực khi hết
thời hạn kháng cáo, kháng nghị do pháp luật quy định mà không có kháng
cáo, kháng nghị. Tuy nhiên, không phải bao giờ trong hoạt động xét xử của
Tòa án, qua một phiên tòa sơ thẩm đã đảm bảo tính khách quan, toàn diện,
đầy đủ và tính đúng đắn của vụ án. Bởi lẽ, trách nhiệm chứng minh tội phạm
thuộc về các cơ quan tố tụng và vì nhiều lý do khác nhau, Viện kiểm sát, bị
cáo, những người tham gia tố tụng khác có thể không chấp nhận phán quyết
của Tòa án sơ thẩm, kháng nghị hoặc kháng cáo lên Tòa án cấp trên yêu cầu
xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm.
Quyền hạn của Hội đồng xét xử sơ thẩm BLTTHS không quy định
quyền hạn xét xử của Hội đồng xét xử sơ thẩm, nhưng tại các Điều 15, 16, 17
BLTTHS thì quy định: “Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số, khi
xét xử Thẩm phán và HTND độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Bên cạnh đó
khi xét xử đòi hỏi sự độc lập của hội đồng xét xử với các cơ quan nhà nước,
tổ chức xã hội và các cá nhân. “Cấp trên của quan tòa là luật pháp” (Các
Mác) có nghĩa là, khi xét xử, Tòa án không có cấp trên, cấp trên của Hội đồng
xét xử chính là pháp luật. Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân
không bị ràng buộc, không bị chi phối bởi bất kỳ ý kiến của ai. Các cơ quan,
tổ chức, cá nhân không được can thiệp hoặc tác động vào các thành viên của
Hội đồng xét xử để ép họ phải xét xử vụ án theo ý chủ quan của mình. Mọi
hành động can thiệp dưới bất kỳ hình thức nào đều làm ảnh hưởng tới tính
27
khách quan của vụ án và đều bị coi là bất hợp pháp. Tuy nhiên trong hoạt
động xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân có thể tham khảo ý kiến của
các cơ quan chuyên môn, của bất kỳ ai và phải nắm bắt dư luận xã hội, nhưng
khi quyết định, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải thể hiện bản lĩnh nghề
nghiệp của mình, xem xét mọi vấn đề một cách độc lập, không được để cho ý
kiến bên ngoài làm ảnh hưởng tới tính khách quan của vụ án. Mọi quyết định
của Hội đồng xét xử sơ thẩm phải được thảo luận và thông qua, nhân danh
Nhà nước tuyên án. Bản án của Tòa án quyết định việc bị cáo có phạm tội hay
không phạm tội, hình phạt và quyết định các biện pháp tư pháp khác. Mặt
khác, một điểm có thể thấy rằng, quyền hạn của Hội đồng xét xử sơ thẩm là
kể từ khi Tòa án thụ lý, Chánh án TAND phân công Thẩm phán chủ tọa giải
quyết và Hội thẩm nhân dân tham gia Hội đồng xét xử vụ án hình sự thì họ đã
phát sinh quyền hạn, trừ khi có quyết định thay đổi người tiến hành tố tụng là
Thẩm phán hoặc Hội thẩm nhân dân.
Hiệu lực của bản án, quyết định cấp sơ thẩm bản án, quyết định chưa có
hiệu lực pháp luật khi nó còn trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị. Tức là
trong 15 ngày kể từ ngày tuyên án (Đối với bản án) và 07 ngày (Đối với quyết
định), hoặc là kể từ khi họ nhận được bản án, quyết định, niêm yết bản án
theo qui định trong trường hợp vắng mặt. Hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị
nếu bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị thì có hiệu
lực pháp luật.
Đối với kháng cáo quá hạn của đương sự, nếu Tòa án không chấp nhận
thì đương sự mất quyền kháng cáo, hoặc quá thời hạn kháng cáo, đương sự
không kháng cáo thì họ không được kháng cáo nữa. Do vậy, bản án, quyết
định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật và các đương sự phải chấp hành.
Hiệu lực pháp luật của bản án, quyết định sơ thẩm còn căn cứ vào thời
hạn kháng nghị của Viện Kiểm sát. Quá thời hạn kháng nghị, thì Viện Kiểm
28
sát mất quyền kháng nghị và cũng không được kháng nghị quá hạn. Bản án,
quyết định sơ thẩm của Tòa án có hiệu lực pháp luật [33].
2.1.2. Thực tiễn thi hành các qui định của BLTTHS về cấp xét xử sơ
thẩm đối với việc bảo vệ quyền con người tại Tòa án cấp sơ thẩm trên địa
bàn tỉnh Đăk Lăk
Ngành Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, đã triển khai thi hành BLTTHS
năm 2003 ở tất cả các Toà án các cấp; đồng thời trang bị cơ sở vật chất, tổ
chức tập huấn bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ, đảm bảo việc tăng thẩm
quyền xét xử của TAND cấp huyện. Các phiên toà xét xử các vụ án Hình sự
được đổi mới theo hướng xác định cụ thể quyền hạn, trách nhiệm pháp lý của
những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng; đảm bảo
nguyên tắc tranh tụng công khai, dân chủ và nghiêm minh trong xét xử. Để có
cơ sở đánh giá một cách đầy đủ, khách quan về thực tiễn xét xử hình sự ở hai
cấp xét xử, chúng ta cần nghiên cứu về tình hình tội phạm trên địa bàn cả
nước qua số liệu thống kê của TANDTC; Cụ thể, từ năm 2009 đến năm 2013,
ngành Tòa án đã xét xử sơ thẩm, phúc thẩm tổng số 362.115 vụ án hình sự
với 614.558 bị cáo; Trong đó, xét xử theo thủ tục sơ thẩm năm 2009 là
60.433 vụ với 102.577 bị cáo, năm 2010 là 52.545 vụ với 88.976 bị cáo, năm
2011 là 58.277 vụ với 100.667 bị cáo, năm 2012 là 64.935 vụ với 116.907 bị
cáo và năm 2013 là 66.107 vụ với 117.502 bị cáo; Còn xét xử theo thủ tục
phúc thẩm năm 2009 là 10.735 vụ với 17.540 bị cáo, năm 2010 là 10.762 vụ
với 16.555 bị cáo, năm 2011 là 11.838 vụ với 17.053 bị cáo, năm 2012 là
11.464 vụ với 17.765 bị cáo và năm 2013 là 12.019 vụ với 19.016 bị cáo [43].
Địa bàn tỉnh Đăk Lăk với đặc thù là một tỉnh thuộc khu vực Tây
Nguyên có vị trí chiến lược rất quan trọng về chính trị, kinh tế và quốc phòng
– an ninh, có diện tích tự nhiên 13.085 km2
, đơn vị hành chính gồm 01 Thành
phố, 01 Thị xã và 13 huyện. Cộng đồng dân cư Đăk Lăk gồm 44 dân tộc.
29
Trong đó, người Kinh chiếm trên 70%; các dân tộc thiểu số như Ê Đê,
MNông, Thái, Tày, Nùng... chiếm gần 30% dân số toàn tỉnh. Các dân tộc
thiểu số sinh sống ở 125/170 xã trên địa bàn tỉnh, nhưng phần lớn tập trung ở
các xã vùng cao, vùng xa. Ngoài các dân tộc thiểu số tại chỗ còn có số đông
khác dân di cư từ các tỉnh phía Bắc và miền Trung đến tỉnh Đắk Lắk sinh cơ
lập nghiệp. Địa hình tỉnh Đăk Lăk hiểm trở, rừng núi hẻo lánh, nhiều dân tộc
thiểu số sinh sống với nhiều phong tục tập quán khác nhau. Tình hình an ninh
chính trị và di cư tự do đã và đang dễn biến phức tạp; công tác quản lý địa bàn
dân cư rất khó khăn. Do đặc thù địa hình rừng núi hiểm trở, vùng sâu, vùng xa
nên nhiều đối tượng tội phạm đã có tiền án, tiền sự hoặc có lệnh truy nã đã và
đang vào Đăk Lăk để lẫn trốn; là địa phương có nhiều đồng bào dân tộc thiểu
số sinh sống nên bọn phản động lưu vong sống ở nước ngoài luôn tìm cách
chống phá chính sách đại đoàn kết của dân tộc ta tại Tây Nguyên nói chung
và tỉnh Đăk Lăk nói riêng; Hàng năm, số lượng án phải giải quyết của ngành
Toà án nhân dân tỉnh Đăk Lăk nhiều hơn so với các tỉnh khác (khoảng 8.000
vụ, việc các loại) và án hình sự ở tỉnh Đăk Lăk có số lượng nhiều, nổi cộm
với những vụ đặc biệt nghiêm trọng, có nhiều vụ Toà tuyên tử hình nhiều bị
cáo; Loại án này lại rất đa dạng về tội danh. Từ những tội phạm về an ninh
quốc gia, chủ yếu do bọn xấu lợi dụng trình độ thấp kém của đồng bào dân
tộc Tây Nguyên mà lôi kéo, kích động, chống phá những chính sách của
Đảng, Nhà nước đến những tội phạm lừa đảo kinh tế dẫn đến vỡ huê, hụi ảnh
hưởng lớn đến an ninh trật tự trên địa bàn. Do là tỉnh rộng lớn, kinh tế phát
triển nên bọn tội phạm tập trung về đây, gây ra nhiều vụ án hình sự ảnh hưởng
nghiêm trọng đến an ninh trật tự.
Mặc dù phải đứng trước nhiều khó khăn, thách thức, nhưng trên cơ sở
quán triệt, thực hiện nghiêm túc các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước, với sự chỉ đạo của Toà án nhân dân tối cao, Thường trực Tỉnh uỷ,
30
Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh và sự hợp tác hiệu quả của các cơ quan
chức năng cùng với những cố gắng, nỗ lực của cán bộ, công chức, ngành Toà
án nhân dân tỉnh Đăk Lăk đã nêu cao tinh thần trách nhiệm và phấn đấu hoàn
thành nhiệm vụ được giao. Theo số liệu thống kê án hình sự của Tòa án nhân
dân tỉnh Đăk Lăk thì từ năm 2009 đến năm 2013 đã giải quyết theo trình tự
thủ tục sơ thẩm tổng số 7.444 vụ án với 14.064 bị cáo (tham khảo số liệu tại
bảng 2.1), cụ thể: Năm 2009 là 1.559 vụ, năm 2010 là 1.299 vụ, năm 2011 là
1.397 vụ, năm 2012 là 1.649 vụ và năm 2013 là 1.540 vụ. Có nhiều nguyên
nhân dẫn đến tình trạng này, nhưng nguyên nhân chủ yếu là do chất lượng
giải quyết các vụ án hình sự ngày một đảm bảo hơn, hầu hết các bản án, quyết
định của Tòa án đã được giải quyết đúng pháp luật. Về kết quả giải quyết án
hình sự theo trình tự thủ tục sơ thẩm từ năm 2009 đến năm 2013 được thể
hiện qua bảng thống kê sau đây:
Bảng 2.1: Số lượng các vụ án hình sự và số bị cáo đã được Tòa án nhân
dân cấp sơ thẩm tại tỉnh Đăk Lăk giải quyết từ năm 2009 đến 2013
Năm
Tổng số án hình sự đã
thụ lý sơ thẩm
Đã giải quyết theo thủ tục sơ thẩm
Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo
Năm 2009 1.605 3.073 1.559 (Chiếm 97 %) 2.951 (Chiếm 96 %)
Năm 2010 1.309 2.400 1.299 (Chiếm 99 %) 2.346 (Chiếm 97 %)
Năm 2011 1.430 2.655 1.397 (Chiếm 98 %) 2.551 (Chiếm 96 %)
Năm 2012 1.667 3.272 1.649 (Chiếm 99 %) 3.200 (Chiếm 97 %)
Năm 2013 1.569 3.107 1.540 (Chiếm 98 %) 3.016 (Chiếm 97 %)
Tổng 7.580 14.507 7.444 14.064
(Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Lăk)
Trong số các vụ án đã được giải quyết theo trình tự thủ tục sơ thẩm trên
địa bàn tỉnh Đăk Lăk về cơ bản đã áp dụng đúng và đầy đủ các quy định của
pháp luật cũng như đảm bảo được các nguyên tắc trong TTHS như: đảm bảo
31
pháp chế, đảm bảo quyền dân chủ trong hoạt động tố tụng nhằm đảm bảo cho
việc giải quyết, xét xử vụ án hình sự đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, chất
lượng xét xử đạt hiệu quả cao. Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án nhân dân
cấp huyện đã có sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tiến hành tố tụng nhằm
đưa ra xét xử sơ thẩm đúng thời hạn luật định, đảm bảo thời hạn xét xử. Việc tổ
chức xét xử lưu động đối với các vụ án trọng điểm, án đặc biệt nghiêm trọng
được sự quan tâm của dư luận tại địa phương nơi xảy ra tội phạm được chú
trọng và tổ chức tốt, thông qua đó góp phần nâng cao ý thức pháp luật, tinh
thần đấu tranh phòng, chống tội phạm trong quần chúng nhân dân. Để nghiên
cứu sâu hơn, chúng tôi xin căn cứ vào số liệu từ nguồn của TAND tỉnh Đăk
Lăk để phân tích việc thực tiễn thi hành các qui định của BLTTHS đối với việc
bảo đảm quyền con người ở Tòa án cấp sơ thẩm tại địa bàn tỉnh Đăk Lăk thông
qua việc thực hiện các nguyên tắc cơ bản của BLTTHS năm 2003 đối với việc
đảm bảo quyền con người. Với định hướng xử lý nhanh chóng, kịp thời đúng
pháp luật đối với tội phạm xâm phạm quyền con người và đảm bảo không làm
ảnh hưởng tới quyền con người khi tiến hành tố tụng. Trong công tác xét xử
Tòa án cấp sơ thẩm tại tỉnh Đăk Lăk về cơ bản đã thực hiện tốt những nguyên
tắc cơ bản được quy định ở BLTTHS năm 2003 cụ thể như: các nguyên tắc
đảm bảo cho việc phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh những tội
phạm, nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc xác định sự thật của
vụ án, nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật, nguyên tắc xét xử tập thể và quyết định theo đa số, nguyên tắc xét xử công
khai,…Bên cạnh đó, Tòa án cấp sơ thẩm tại tỉnh Đăk Lăk trong quá trình giải
quyết vụ án đã áp dụng các nguyên tắc của TTHS khi tiến hành tố tụng nhằm
đảm bảo các quyền con người. Cụ thể:
Bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật, quyền
bình đẳng trước tòa án, đây là nguyên tắc được TAND hai cấp tại tỉnh Đăk
32
Lăk đặc biệt coi trọng và được coi là tiền đề cho việc bảo đảm các quyền con
người trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, nhưng đặc biệt có ý nghĩa rất lớn trong
việc tôn trọng và bảo đảm các quyền con người trong giai đoạn và xét xử.
Trong tổng số 14.064 bị cáo đã được Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm xét xử tại
tỉnh Đăk Lăk từ năm 2009 đến năm 2013 có: 1.384 bị cáo là người đồng bào
dân tộc thiểu số, 642 bị cáo là nữ, 52 bị cáo là cán bộ công chức, 55 bị cáo là
Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam (Đã tạm đình chỉ sinh hoạt đảng),… Tuy
nhiên, khi xem xét đánh giá vụ án Thẩm phán ­ chủ tọa phiên toà là người
cầm cân, nảy mực cùng hội đồng xét xử quyết định bị cáo có tội hay vô tội và
những vấn đề khác liên quan đến trách nhiệm hình sự, trách nhiệm dân sự
cũng như các biện pháp tư pháp khác. Để đưa ra được bản án, quyết định
đúng người, đúng tội và pháp luật, Thẩm phán cùng các thành viên trong hội
đồng xét xử phải nghiên cứu toàn bộ tài liệu trong hồ sơ vụ án một cách độc
lập, xây dựng kế hoạch xét hỏi để nhằm đảm bảo cho việc xét hỏi tại phiên
tòa được đầy đủ, chính xác, phù hợp tâm lý, hoàn cảnh của từng đối tượng
được triệu tập đến tham gia tố tụng. Do đó, đảm bảo được nguyên tắc bất kỳ
ai có hành vi phạm tội đều phải chịu trách nhiệm hình sự theo các điều, khoản
của BLHS; Quá trình giải quyết, xét xử đối với bất kỳ vụ án nào cũng đều
phải theo một trình tự, thủ tục thống nhất theo quy định của pháp luật TTHS
không phân biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa
vị xã hội. Vi phạm nguyên tắc này ở giai đoạn xét xử sẽ ảnh hưởng nghiêm
trọng đến quyền lợi của bị cáo, đương sự.
Bảo đảm quyền được sử dụng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình,
từ năm 2009 đến năm 2013 Tòa án nhân dân cấp hai cấp tại tỉnh Đăk Lăk đã
xét xử đối với 1.384 bị cáo là người đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó
chiếm tỷ lệ đa số là Ê Đê, Tày, Nùng,… Thực hiện nguyên tắc này sẽ là điều
kiện tốt để mọi công dân thể hiện được yêu cầu, nguyện vọng của mình trước
33
Tòa án. Mặt khác, đối với các vụ án có bị cáo, đương sự là người dân tộc
thiểu số, cũng như người nước ngoài, không sử dụng được tiếng Việt, thì Tòa
án hai cấp tại tỉnh Đăk Lăk đã làm công văn gửi Ban Dân tộc, Trường dân tộc
nội trú khu vực Tây Nguyên, Đài phát thanh truyền hình tỉnh, các Trung tâm
ngoại ngữ cử người phiên dịch tham gia tố tụng tại phiên tòa để làm trung
gian truyển tải, trình bày các lý lẽ, căn cứ làm cơ sở để Hội đồng xét xử xem
xét các yêu cầu, nguyện vọng của bị cáo, đương sự. Người phiên dịch phải có
trình độ, thực hiện nhiệm vụ một cách thực sự vô tư, khách quan không phụ
thuộc vào ai, không bị chi phối bởi yếu tố nào tạo ra sự bình đẳng, bảo vệ
được quyền và lợi ích hợp pháp đích thực của đương sự. Tuy nhiên thực tiễn
áp dụng nguyên tắc này cho thấy còn có những vướng mắc cần được quan
tâm, hướng dẫn kịp thời: do chưa có một văn bản nào của cơ quan có thẩm
quyền hướng dẫn nên việc thực hiện còn chưa thống nhất, do người phiên
dịch không nằm trong tổ chức cơ quan tố tụng nào quản lý, đào tạo mà chỉ
yêu cầu biết tiếng dân tộc, ngoại ngữ làm phiên dịch. Việc sử dụng người
phiên dịch còn khá nhiều lúng túng, hơn nữa cũng chưa có một đội ngũ phiên
dịch giỏi, trình độ hiểu biết pháp luật của người phiên dịch còn hạn chế nên
việc dịch thuật chất lượng còn kém, chưa đảm bảo tính khách quan.
Bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự, đây là một nguyên tắc
hiến định được quy định tại khoản 4 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 và được
ghi nhận là một trong những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự tại Điều
11 BLTTHS: “Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc
nhờ người khác bào chữa. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án có nhiệm
vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa
của họ theo quy định của Bộ luật này” [38], theo đó nguyên tắc này gồm có
ba nội dung cụ thể là bảo đảm quyền bào chữa, bào đảm quyền tự bào chữa và
trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc đảm bảo quyền bào
34
chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Theo thống kê của Tòa án nhân dân
tỉnh Đắk Lắk thì số vụ án có sự tham gia của người bào chữa chỉ định cụ thể
từ: năm 2009 có 181 vụ, năm 2010 có 153 vụ, năm 2011 có 130 vụ, năm 2012
có 173 vụ, năm 2013 có 155 vụ. Như vậy tổng cộng có 792 vụ án hình sự sơ
thẩm có sự tham gia của người bào chữa trên tổng số 7.444 vụ án mà Tòa án
nhân dân cấp sơ thẩm tại tỉnh Đắk Lắk thụ lý để giải quyết theo trình tự sơ
thẩm, chiếm tỷ lệ tương đối thấp 10,63%.
Bên cạnh đó mức thu nhập của người dân còn thấp, trình độ dân trí còn
nhiều hạn chế nên việc người dân chủ động nhờ người bào chữa rất ít. Theo
thống kê, tổng số vụ án có sự tham gia của người bào chữa theo yêu cầu của
bị cáo, đại diện hợp pháp của bị cáo từ năm 2009 đến 2013 là 501 vụ, chiếm
tỷ lệ thấp so với tổng số các vụ án mà các cơ quan tiến hành tố tụng tỉnh Đắk
Lắk đã giải quyết. Thủ tục cấp giấy chứng nhận người bào chữa còn nhiều bất
cập, hướng dẫn còn chưa thống nhất dẫn đến áp dụng không giống nhau. Để
thực hiện thống nhất quy định của pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho các
bên trong quá trình tham gia tố tụng, ngày 18/11/2011, Đoàn luật sư tỉnh Đắk
Lắk và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã ký kết quy chế số
01/2011/QCPH/VKS­ĐLS về việc “Phối hợp hoạt động giữa Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Đắk Lắk và Đoàn luật sư tỉnh Đắk Lăk”.
Tuy nhiên, có thể thấy qua số liệu thống kê và báo cáo của Tòa án nhân
dân tỉnh Đắk Lắk cho thấy chất lượng xét xử vụ án hình sự ngày càng được nâng
cao, quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng ngày càng được bảo đảm,
điều đó phần nào cho thấy quyền bào chữa trong đó có quyền tự bào chữa của bị
cáo cơ bản được Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tại Đăk Lăk bảo đảm thực hiện.
Bảo đảm quyền con người thông qua việc áp dụng các qui định của
pháp luật TTHS về các biện pháp ngăn chặn, bên cạnh việc bảo vệ quyền con
người thông qua thực hiện các nguyên tắc của BLTTHS, Tòa án cấp sơ thẩm
35
tại Đăk Lăk còn bảo vệ quyền con người thông qua các biện pháp ngăn chặn.
Nhằm tránh việc lợi dụng của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến
hành tố tụng khi áp dụng những biện pháp này xâm hại đến quyền con người
luật TTHS quy định chặt chẽ mục đích, căn cứ, thẩm quyền, thủ tục áp dụng.
Theo đó, không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án, quyết định
hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát. Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ và quyền
hạn cũng như thực tiễn xét xử trong 05 năm từ 2009 đến 2013, Tòa án nhân
dân hai cấp tại tỉnh Đăk Lăk đã ra Lệnh tạm giam đối với 4.605 bị cáo; cho
bảo lĩnh đối với 108 bị cáo; Hội đồng xét xử ra quyết định bắt tạm giam đối
với 18 bị cáo; Hội đồng xét xử sơ thẩm ra quyết định tạm giam 45 ngày đối
với 4.310 bị cáo kể từ ngày tuyên án. Khi áp dụng biện pháp bắt, tạm giam
TAND hai cấp trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk đã cơ bản tuân thủ quy định của Bộ
luật TTHS về căn cứ, thẩm quyền, thủ tục trình tự của các biện pháp đó. Tuy
nhiên, vẫn còn một số trường hợp sau khi xét xử sơ thẩm Hội đồng xét xử
không ra quyết định tạm giam 45 ngày đối với bị cáo đang tạm giam (thời hạn
tạm giam dưới 40 ngày) và việc tạm giam bị cáo không có Lệnh, Quyết định
của các cơ quan tố tụng vẫn còn tồn tại; Lệnh tạm giam, Quyết định tạm giam
vẫn chưa được tống đạt cho bị cáo theo qui định.
Bảo đảm quyền con người thông qua hoạt động xét xử sơ thẩm, tại
Điều 9 BLTTHS quy định “ Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt
khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật” [38]. Do đó,
hoạt động xét xử của Tòa án được coi là hoạt động trung tâm của quá trình
giải quyết vụ án hình sự thể hiện bản chất của nền tư pháp quốc gia. Bên cạnh
việc đảm bảo việc thi hành các nguyên tắc chung của BLTTHS năm 2003 thì
Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tại tỉnh Đăk Lăk còn thực hiện các qui định về
thủ tục tố tụng chung của BLTTTHS năm 2003 về xét xử sơ thẩm nhằm đảm
bảo quyền con người, cụ thể:
36
(1). Đảm bảo về thời hạn xét xử, các vụ án được quyết định đưa ra xét
xử sơ thẩm đúng thời hạn luật định, theo số liệu thống kê các vụ án hình sự sơ
thẩm và các bị cáo đã được đưa ra xét xử từ năm 2009 đến năm 2013 tại Tòa
án nhân dân cấp trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk như sau:
Bảng 2.2: Số liệu các vụ án hình sự và số bị cáo đã được xét xử sơ thẩm từ
năm 2009 đến năm 2013 của TAND hai cấp tại tỉnh Đăk Lăk
Năm
Tổng số vụ án hình
sự đã được giải
quyết theo trình tự
thủ tục
sơ thẩm
Đã được đưa ra
xét xử sơ thẩm
Chiếm
tỷ lệ
(% - Số
vụ)
Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo
Năm 2009 1.559 2.951 1.406 2.561 90.18%
Năm 2010 1.299 2.346 1.185 2.057 91.22%
Năm 2011 1.397 2.551 1.292 2.384 92.48%
Năm 2012 1.649 3.200 1.529 2.923 92.72%
Năm 2013 1.540 3.016 1.438 2.777 93.37%
Tổng 7.444 14.064 6.850 12.702 92.02%
(Nguồn: TAND tỉnh Đăk Lăk)
Hàng năm TAND tỉnh ban hành các Kế hoạch về kiểm tra và xử lý án
quá hạn luật định của các TAND cấp huyện, qua đó kịp thời nắm bắt nguyên
nhân và có biện pháp chỉ đạo cụ thể để hạn chế đến mức thấp nhất các sai
phạm trong quá trình xét xử, hạn chế số lượng các vụ án quá hạn luật định.
Theo số liệu thống kê án hình sự sơ thẩm trong 05 năm từ 2009 đến 2013
không có án quá hạn luật định. Tuy nhiên, các loại vụ án mà ngành Tòa án
nhân dân cấp sơ thẩm tại Đăk Lăk đã thụ lý và giải quyết ngày càng tăng cả
về số lượng lẫn tính chất phức tạp, nhiều loại án mới phát sinh trên địa bàn,
kinh nghiệm điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan Công an, Viện kiểm sát,
37
Tòa án còn hạn chế. Điển hình như vụ án “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn
thông, mạng Internet hoặc thiết bị số thực hiện hành vi chiếm đọat tài sản”
[36] quy định tại điểm a, khoản 4 Điều 226b
Bộ luật hình sự do chi nhánh của
mạng lưới công ty Muaban24h đã được TAND tỉnh Đăk Lăk thụ lý vào ngày
16/08/2013. Tuy nhiên, do tính chất loại tội phạm công nghệ cao, việc đánh
giá chứng cứ phức tạp, xác định người tham gia tố tụng còn nhiều quan điểm
trái chiều, việc xác định thẩm quyền chưa được thống nhất giữa các địa
phương dẫn đến ảnh hưởng thời hạn giải quyết vụ án.
(2). Vấn đề trả hồ sơ để điều tra bổ sung và mối quan hệ phối hợp giữa
Cơ quan điều tra - Viện kiểm sát - Toà án đối với việc đảm bảo quyền con
người, trong quá trình giải quyết, xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự Tòa án
nhân dân cấp sơ thẩm đã thực hiện việc xem xét, đánh giá chứng cứ, áp dụng
pháp luật và tiến hành các hoạt động tố tụng để xác định tội danh và quyết
định mức hình phạt theo đúng quy định của pháp luật. Các vụ án Tòa án cấp
sơ thẩm trả hồ sơ điều tra bổ sung cho Viện kiểm sát yêu cầu Viện kiểm sát
điều tra, thu thập thêm những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà Toà án
không thể bổ sung được tại phiên toà và việc trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để
yêu cầu điều tra bổ sung phải đảm bảo có cơ sở và đúng các quy định của
pháp luật, cụ thể: Khi cần xem xét thêm những chứng cứ quan trọng đối với
vụ án mà Viện kiểm sát và Tòa án không thể bổ sung được; Khi có căn cứ để
cho rằng bị can, bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác; Khi phát
hiện có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Tuy nhiên, thực tiễn vẫn còn
tình trạng trả hồ sơ không đúng quy định, theo số liệu thống kê tình hình án
hình sự trả sồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tại tỉnh
Đắk Lắk thì trong khoảng thời gian từ năm 2009 đến năm 2013 như sau:
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người

More Related Content

What's hot

What's hot (17)

Luận văn: Quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án, HOT
Luận văn: Quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án, HOTLuận văn: Quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án, HOT
Luận văn: Quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án, HOT
 
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOTĐề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOT
 
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nướcĐề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
 
Đề tài: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAY
Đề tài: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAYĐề tài: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAY
Đề tài: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAY
 
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOTLuận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
 
Đề tài: Vai trò của pháp luật trong bảo đảm quyền con người, HOT
Đề tài: Vai trò của pháp luật trong bảo đảm quyền con người, HOTĐề tài: Vai trò của pháp luật trong bảo đảm quyền con người, HOT
Đề tài: Vai trò của pháp luật trong bảo đảm quyền con người, HOT
 
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt NamLuận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
Luận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nướcLuận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
Luận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
 
Luận văn: Quyền và nghĩa vụ của người chấp hành hình phạt tù
Luận văn: Quyền và nghĩa vụ của người chấp hành hình phạt tùLuận văn: Quyền và nghĩa vụ của người chấp hành hình phạt tù
Luận văn: Quyền và nghĩa vụ của người chấp hành hình phạt tù
 
Luận văn: Bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng hình sựLuận văn: Bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng hình sự
 
Bảo đảm quyền con người trong thực hành quyền công tố, HOT
Bảo đảm quyền con người trong thực hành quyền công tố, HOTBảo đảm quyền con người trong thực hành quyền công tố, HOT
Bảo đảm quyền con người trong thực hành quyền công tố, HOT
 
Tội cố ý gây gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại Nam Định
Tội cố ý gây gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại Nam ĐịnhTội cố ý gây gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại Nam Định
Tội cố ý gây gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại Nam Định
 
Trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự con người
Trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự con ngườiTrách nhiệm hình sự về tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự con người
Trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự con người
 
Luận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân tại các trại giam
Luận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân tại các trại giamLuận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân tại các trại giam
Luận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân tại các trại giam
 
Luận văn: Quy định của pháp luật về tội xâm hại tình dục trẻ em, 9đ
Luận văn: Quy định của pháp luật về tội xâm hại tình dục trẻ em, 9đLuận văn: Quy định của pháp luật về tội xâm hại tình dục trẻ em, 9đ
Luận văn: Quy định của pháp luật về tội xâm hại tình dục trẻ em, 9đ
 
Bồi thường thiệt hại do vi phạm pháp luật giao thông đường bộ, HAY
Bồi thường thiệt hại do vi phạm pháp luật giao thông đường bộ, HAYBồi thường thiệt hại do vi phạm pháp luật giao thông đường bộ, HAY
Bồi thường thiệt hại do vi phạm pháp luật giao thông đường bộ, HAY
 
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luậtNhững căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
 

Similar to Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người

Similar to Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người (20)

Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự, HOTLuận văn: Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOTLuận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự, HAYLuận văn: Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật, HOT
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật, HOTLuận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật, HOT
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật, HOT
 
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOTLuận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
 
Đề tài: Nhiệm vụ bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát, HAY
Đề tài: Nhiệm vụ bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát, HAYĐề tài: Nhiệm vụ bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát, HAY
Đề tài: Nhiệm vụ bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát, HAY
 
Đề tài: Biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra theo luật
Đề tài: Biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra theo luậtĐề tài: Biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra theo luật
Đề tài: Biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra theo luật
 
Luận án: Bảo đảm quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án
Luận án: Bảo đảm quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ ánLuận án: Bảo đảm quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án
Luận án: Bảo đảm quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án
 
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁTVAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
 
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dân
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dânLuận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dân
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dân
 
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án, HAYLuận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án, HAY
 
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
 
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777....
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777....VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777....
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777....
 
Quyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do
Quyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự doQuyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do
Quyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do
 
Luận văn: Các tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng
Luận văn: Các tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đángLuận văn: Các tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng
Luận văn: Các tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng
 
Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HAY
Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HAYĐề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HAY
Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HAY
 
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOTLuận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOT
 
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều traLuận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
 
Đề tài: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát, HAY
Đề tài: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát, HAYĐề tài: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát, HAY
Đề tài: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát, HAY
 
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOTLuận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
Xem Số Mệnh
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
dangdinhkien2k4
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
hoangtuansinh1
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
ChuThNgnFEFPLHN
 

Recently uploaded (20)

TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 

Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN ANH THƯ NGUY£N T¾C HAI CÊP XÐT Xö VíI VIÖC B¶O VÖ QUYÒN CON NG¦êI TRONG LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM (Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh §¾k L¾k) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN ANH THƯ NGUY£N T¾C HAI CÊP XÐT Xö VíI VIÖC B¶O VÖ QUYÒN CON NG¦êI TRONG LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM (Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh §¾k L¾k) Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐẶNG QUANG PHƯƠNG HÀ NỘI - 2015
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyễn Anh Thư
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU.......................................................................................................1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC HAI CẤP XÉT XỬ TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI ...............7 1.1. Khái niệm, đặc điểm và nội dung quyền con người .......................7 1.1.1. Khái niệm quyền con người ...............................................................7 1.1.2. Các đặc điểm cơ bản của quyền con người.........................................8 1.1.3. Nội dung quyền con người.................................................................9 1.1.4. Pháp luật quốc tế về quyền con người .............................................. 13 1.2. Khái niệm và nội dung của nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng hình sự.................................................................................... 17 1.2.1. Khái niệm nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng hình sự .............. 17 1.2.2. Lịch sử hình thành của Nguyên tắc hai cấp xét xử trong luật tố tụng hình sự Việt Nam .....................................................................17 1.2.3. Nội dung nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng hình sự................19 1.3. Sự cần thiết, vai trò và ý nghĩa của việc thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng hình sự đối với việc bảo vệ quyền con người ........................................................................................20 1.3.1. Sự cần thiết, vai trò của việc thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng hình sự đối với việc bảo vệ quyền con người .............. 20
  • 5. 1.3.2. Ý nghĩa của nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng hình sự đối với việc bảo vệ quyền con người...................................................... 22 Chương 2: THỰC TIỄN THI HÀNH NGUYÊN TẮC HAI CẤP XÉT XỬ TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐĂK LĂK...................................................................25 2.1. Quy định của BLTTHS về cấp xét xử sơ thẩm và thực tiễn thi hành đối với việc bảo vệ quyền con người trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk ..........................................................................................25 2.1.1. Quy định của BLTTHS về cấp xét xử sơ thẩm................................. 25 2.1.2. Thực tiễn thi hành các qui định của BLTTHS về cấp xét xử sơ thẩm đối với việc bảo vệ quyền con người tại Tòa án cấp sơ thẩm trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk................................................................. 28 2.2. Quy định của BLTTHS về cấp xét xử phúc thẩm và thực tiễn thi hành đối với việc bảo vệ quyền con người trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk...................................................................................52 2.2.1. Quy định của BLTTHS về cấp xét xử phúc thẩm .............................52 2.2.2. Thực tiễn thi hành các qui định của BLTTHS về cấp xét xử phúc thẩm đối với việc bảo vệ quyền con người tại Tòa án cấp phúc thẩm trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk ........................................................56 2.3. Những vi phạm, sai lầm trong việc thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng hình sự đối với việc bảo vệ quyền con người trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk............................................ 68 2.3.1. Những vi phạm, sai lầm trong thực hiện các quyền ..........................68 2.3.2. Những vi phạm, sai lầm trong thực hiện các nghĩa vụ...................... 77 2.3.3. Nguyên nhân của những vi phạm, sai lầm trong thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng hình sự đối với việc bảo vệ quyền con người trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk......................................83
  • 6. Chương 3: NHỮNG YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP NHẰM THỰC THI HIỆU QUẢ NGUYÊN TẮC HAI CẤP XÉT XỬ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐĂK LĂK....................................................................................... 87 3.1. Những yêu cầu của việc thực thi hiệu quả nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng hình sự đối với việc bảo vệ quyền con người trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk...................................................87 3.2. Các giải pháp nhằm thực thi hiệu quả nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng hình sự đối với việc bảo vệ quyền con người trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk .............................................................89 3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật......................................................... 89 3.2.2. Giải pháp tăng cường công tác giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật ..........................................................................................97 3.2.3. Giải pháp nâng cao năng lực người tiến hành tố tụng và người bào chữa........................................................................................... 98 3.2.4. Các giải pháp khác ......................................................................... 103 KẾT LUẬN............................................................................................... 106 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................. 108
  • 7. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự CQĐT: Cơ quan điều tra CQTHTT: Cơ quan tiến hành tố tụng NN: Nhà nước NQ: Nghị Quyết PL: Pháp luật TAND: Tòa án nhân dân TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao TTHS: Tố tụng hình sự VAHS: Vụ án hình sự VKSND: Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao XHCN: Xã hội chủ nghĩa
  • 8. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1: Số lượng các vụ án hình sự và số bị cáo đã được Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tại tỉnh Đăk Lăk giải quyết từ năm 2009 đến 2013 30 Bảng 2.2: Số liệu các vụ án hình sự và số bị cáo đã được xét xử sơ thẩm từ năm 2009 đến năm 2013 của TAND hai cấp tại tỉnh Đăk Lăk 36 Bảng 2.3: Số liệu các vụ án và các bị cáo, Tóa án trả hồ sơ điều tra bổ sung từ năm 2009 đến năm 2013 của Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tại tỉnh Đăk Lăk 38 Bảng 2.4: Số liệu các vụ án hình sự và các bị cáo đã được đình chỉ vụ án từ năm 2009 đến năm 2013 của Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk 40 Bảng 2.5: Số lượng các vụ án hình sự và các bị cáo đã được Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm tại tỉnh Đăk Lăk thụ lý ­ giải quyết từ năm 2009 đến 2013 57 Bảng 2.6: Số liệu thống kê – Phân tích các vụ án hình sự và các bị cáo đã được giải quyết ở Tòa án cấp phúc thẩm tại tỉnh Đăk Lăk từ năm 2009 đến năm 2013 59
  • 9. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quyền con người là giá trị nhân văn cao quý, là khát vọng và thành quả đấu tranh qua các giai đoạn phát triển trở thành tài sản chung vô giá của nhân loại và mỗi quốc gia. Bảo đảm quyền con người là bảo đảm dân chủ, hiệu quả, hiệu lực nhà nước cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Do vậy, bảo vệ, bảo đảm quyền con người là nghĩa vụ chung của xã hội, là sứ mệnh cao cả của mỗi quốc gia. Cần khẳng định việc tôn trọng và bảo đảm quyền con người là mục tiêu xuyên suốt mà Đảng và Nhà nước ta luôn hướng tới. Việc bảo đảm các quyền con người phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng,...Tuy nhiên, công cụ hiệu quả nhất cho việc bảo vệ quyền con người chính là hệ thống pháp luật. Chỉ thông qua việc nhà nước bảo đảm về mặt pháp lý, các cơ quan tố tụng bảo đảm thực thi pháp luật có hiệu quả là vấn đề cực kỳ quan trọng trong việc bảo đảm quyền con người. Việt Nam đang trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đó là nhà nước của dân, do dân, vì dân, Nhà nước có kỷ cương, kỷ luật, có nền pháp chế cao và nền dân chủ mở rộng, Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và theo pháp luật... Do đó vấn đề bảo vệ quyền con người càng được quan tâm, coi trọng. Xét xử vụ án hình sự là hoạt động Nhà nước đặc biệt và chuyên biệt của Tòa án nhân dân giải quyết quan hệ giữa Nhà nước và người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhằm xác định trách nhiệm hình sự đối với người đó. Hoạt động xét xử các vụ án này có thể dẫn tới một hậu quả pháp lý bất lợi cho người bị xét xử cũng như những người khác có liên quan. Vì vậy, bản án, quyết định của Tòa án khi xét xử phải chính xác, công minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
  • 10. 2 Để thực hiện được điều đó, đòi hỏi hoạt động xét xử các vụ án hình sự phải tuân thủ nhiều nguyên tắc cơ bản, những phương châm, kim chỉ nam của luật Tố tụng hình sự [29]. Nguyên tắc hai cấp xét xử là một nguyên tắc mới được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và là một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật trong tố tụng hình sự thể hiện sự thận trọng của Tòa án trong việc xét xử, đảm bảo cho việc xét xử chính xác, công bằng thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật. Việc quy định nguyên tắc này trong xét xử các vụ án hình sự là một tất yếu khách quan của thực tiễn xét xử để hoạt động này có thể thực hiện đúng được chức năng của nó và đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể có liên quan trong từng vụ án cụ thể. Thông qua đó, nguyên tắc này đảm bảo tính tương đối trong việc bảo vệ quyền con người. Việc quy định hai cấp xét xử trong vụ án hình sự là cơ chế bảo vệ quyền con người trong TTHS. Quyền đó có được bảo vệ hay không, phản ánh bản chất của Nhà nước, bản chất của pháp luật và con người trong xã hội đó. Việc xét xử một vụ án hình sự theo hai cấp: Xét xử lần đầu ở cấp sơ thẩm (cấp xét xử thứ nhất) và được tiếp tục xét xử ở cấp phúc thẩm (cấp xét xử thứ hai) nếu có kháng cáo, kháng nghị. Còn nếu không, bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật và được thi hành sau khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị. Có như vậy thì những vụ án được Tòa án giải quyết đã có hiệu lực pháp luật (đã qua giải quyết xét xử ở cấp phúc thẩm) phải được thi hành, tránh khiếu nại kéo dài. Song trên thực tế, xét xử vụ án hình sự không phải bao giờ cũng đúng đắn đem lại sự công bằng, bảo vệ được các quyền và lợi ích bị xâm phạm cũng như bảo vệ quyền con người. Trong bối cảnh nước ta đang xây dựng nền Kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, bên cạnh những tác động tích cực của việc đem lại về sự tăng trưởng, phát triển vượt bậc về kinh tế thì những tác động tiêu cực, những mâu thuẫn,
  • 11. 3 những mặt trái của xã hội cũng nảy sinh, những loại tội phạm mới, tệ nạn xã hội gia tăng trong xã hội ngày càng nhiều và các vụ án hình sự Tòa án xét xử cũng trở nên phức tạp. Dù đạt được những thành tựu đáng khích lệ, hệ thống pháp luật Việt Nam đã gần hơn với thông lệ quốc tế, nhưng nhìn chung trình độ và kỹ năng lập pháp vẫn còn hạn chế, nhiều quy định chưa phù hợp, còn chồng chéo, mâu thuẫn nhau, chưa theo kịp thực tiễn. Đâu đó, việc áp dụng pháp luật chưa tốt ảnh hưởng đến sự thụ hưởng các quyền cơ bản của con người. Theo pháp luật TTHS hiện hành, việc xét xử vụ án hình sự được tiến hành qua 2 cấp sơ thẩm và phúc thẩm, bên cạnh đó còn có thủ tục đặc biệt là giám đốc thẩm và tái thẩm. Trên thực tế, có những vụ án hình sự sơ thẩm đã xét xử 3­4 phiên tòa, có nhiều nguyên nhân đã khiến vụ án phải kéo dài và phải xét xử nhiều lần, không những gây tốn kém cho nhân dân mà còn thiệt hại tới quyền lợi công dân và làm xói mòn lòng tin của nhân dân vào pháp luật và cơ quan xét xử. Thực tiễn xét xử các vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk cũng không phải là ngoại lệ. Xuất phát từ những nguyên nhân trên cho thấy cần nghiên cứu thêm về nguyên tắc thực hiện hai cấp xét xử của Tòa án trong TTHS là vấn đề cần thiết khi ưu tiên bảo đảm quyền con người trong tình hình hiện nay. Do đó, tôi chọn đề tài: “Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam –Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đăk Lăk”. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Nguyên tắc hai cấp xét xử trong TTHS là một vấn đề khoa học và thực tiễn, nó phản ánh bản chất của pháp luật cũng như tính nhân văn trong cơ chế bảo vệ quyền con người. Vì vậy đã có nhiều công trình, nhiều đề tài nghiên cứu, như: "Nguyên tắc hai cấp xét xử và việc áp dụng nguyên tắc đó vào việc tổ chức Tòa án các cấp" của PGS.TS Trần Văn Độ ­ Toà án quân sự Trung
  • 12. 4 ương; "Một số vấn đề về phiên tòa sơ thẩm" của ThS. Nguyễn Thị Thu Hà; Trần Văn Độ "Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân" năm 2003; Đặc biệt Luận án tiến sĩ Luật học “Nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng hình sự” của Vũ Gia Lâm 2008 Trường Đại học Luật Hà Nội; Luận văn thạc sĩ “Thẩm quyền xét xử theo thủ tục sơ thẩm theo pháp luật Việt Nam” của Lê Hoài Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội là những công trình nghiên cứu trực tiếp về hai cấp xét xử trong TTHS. Trên đây là những công trình nghiên cứu khái quát các góc độ về nguyên tắc hai cấp xét xử trong TTHS. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu này chưa nghiên cứu vấn đề dưới góc độ áp dụng nguyên tắc xét xử hai cấp trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành để bảo vệ quyền con người. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ­ Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền con người thông qua nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng hình sự, nội dung và hình thức, phạm vi bảo đảm quyền con người trong nguyên tắc này theo quy định của pháp luật hiện hành từ thực tiễn tỉnh Đăk Lăk, đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền con người thông qua việc thực hiện nguyên tắc này trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk. Để đạt được mục đích trên, việc nghiên cứu tập trung vào những nhiệm vụ sau: ­ Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về quyền con người, phân tích các quyền con người được bảo vệ thông qua việc thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử trong Luật TTHS Việt Nam. ­ Khảo sát thực tiễn việc thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử trong Luật TTHS Việt Nam tại địa bàn tỉnh Đăk Lăk. Từ đó đánh giá có tính khách quan, hệ thống về quá trình thực thi về mặt pháp lý trong việc bảo đảm quyền con người, đánh giá thực trạng hoạt động bảo đảm quyền con người thông qua
  • 13. 5 việc thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử trong TTHS trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk hiện nay. ­ Phát hiện những vướng mắc, bất cập của các quy định về nguyên tắc hai cấp xét xử trong Luật TTHS Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đăk Lăk và đưa ra các quan điểm, tìm các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện về mặt pháp lý, nâng cao vai trò của nguyên tắc hai cấp xét xử trong TTHS, đảm bảo cơ quan tố tụng thực thi pháp luật từ đó nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền con người. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài: là các vấn đề lý luận và các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về nguyên tắc hai cấp xét xử, thực tiễn xét xử và tổ chức xét xử ở cấp sơ thẩm, phúc thẩm trong những năm gần đây từ thực tiễn tỉnh Đăk Lăk để đánh giá tổng quan về thực trạng bảo vệ quyền con người thông qua nguyên tắc hai cấp xét xử. Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung chủ yếu vào những vấn đề sau: ­ Các quan điểm lý luận khác nhau về quyền con người, về nguyên tắc hai cấp xét xử trong TTHS. ­ Các quy định của pháp luật hiện hành về bảo đảm quyền con người, vai trò của nguyên tắc hai cấp xét xử trong TTHS Việt Nam trong việc bảo vệ quyền con người như: các quy định về thẩm quyền, quyền hạn của Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm và hiệu lực của bản án sơ thẩm, phúc thẩm từ thực tiễn tỉnh Đăk Lăk. ­ Thực tiễn thực hiện việc bảo vệ quyền con người thông qua nguyên tắc hai cấp xét xử trong TTHS Việt Nam những năm gần đây từ thực tiễn tỉnh Đăk Lăk. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Việc nghiên cứu đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin; Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của
  • 14. 6 Đảng về Nhà nước và pháp luật, về xây dựng Nhà nước pháp quyền, cải cách tư pháp ở nước ta. Quá trình nghiên cứu đề tài tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học như phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê. 6. Ý nghĩa khoa học của luận văn ­ Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về quyền con người; Thông qua việc thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử của hai cấp Tòa án tỉnh Đăk Lăk trong Luật TTHS Việt Nam như khái niệm, ý nghĩa, cơ sở của nguyên tắc,… ­ Phân tích, đánh giá việc bảo vệ quyền con người thông qua các quy định của pháp luật hiện hành về nguyên tắc hai cấp xét xử trong Luật TTHS Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đăk Lăk, phát hiện được những vướng mắc, hạn chế của các quy định về nguyên tắc hai cấp xét xử và thực tiễn thực hiện. Đồng thời tìm ra các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử để đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp và tăng cường bảo đảm quyền con người trong nhà nước pháp quyền trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về nguyên tắc hai cấp xét xử trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam đối với việc bảo vệ quyền con người. Chương 2: Thực tiễn thi hành nguyên tắc hai cấp xét xử trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam đối với việc bảo vệ quyền con người trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk. Chương 3: Những yêu cầu và các giải pháp nhằm thực thi hiệu quả nguyên tắc hai cấp xét xử trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam đối với việc bảo vệ quyền con người trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk.
  • 15. 7 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC HAI CẤP XÉT XỬ TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI 1.1. Khái niệm, đặc điểm và nội dung quyền con người 1.1.1. Khái niệm quyền con người Quyền con người là một vấn đề khá phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực như đạo đức, chính trị, pháp lý... Chính vì vậy, hiện nay có rất nhiều định nghĩa về quyền con người, mỗi định nghĩa tiếp cận quyền con người theo những góc độ khác nhau. Một định nghĩa rất phổ biến thường được trích dẫn bởi các học giả theo học thuyết quyền tự nhiên là: “Quyền con người là những quyền cơ bản, không thể tước bỏ mà một người vốn được thừa hưởng đơn giản vì họ là con người” [53]. Ở góc độ khái quát nhất, theo khái niệm của Liên hợp quốc có thể hiểu là: “Những gì bẩm sinh, vốn có của con người mà nếu không được bảo đảm thì chúng ta sẽ không thể sống như một con người” [54]. Ở Việt Nam, bên cạnh thuật ngữ “Quyền con người”, còn có thuật ngữ “Nhân quyền”. Cả hai thuật ngữ này đều bắt nguồn từ thuật ngữ tiếng Anh “Human rights”, mà nếu dịch trực tiếp sang tiếng Việt là quyền con người; còn nếu dịch qua Hán ­ Việt là nhân quyền. Xét về mặt ngôn ngữ học, theo Đại Từ điển tiếng Việt, quyền con người và nhân quyền là hai từ đồng nghĩa [52]. Một số định nghĩa về quyền con người do một số chuyên gia, cơ quan nghiên cứu từng nêu ra cũng không hoàn toàn giống nhau, nhưng xét chung, quyền con người thường được hiểu là: “Những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế”. Như vậy, dù ở góc độ nào hay cấp độ nào thì quyền con người cũng được xác định như là chuẩn mực được kết tinh từ những giá trị nhân văn của
  • 16. 8 toàn nhân loại, áp dụng cho tất cả mọi người. Thuật ngữ quyền con người theo Học thuyết Mác – Lênin là một chỉnh thể thống nhất thể hiện những tư tưởng nhân văn chân chính nhất của loài người, là sự kế thừa một cách biện chứng những giá trị tinh hoa của con người. C.Mác đã xuất phát từ con người là một thực thể thống nhất, một “Sinh vật – Xã hội”. Do đó, quyền con người là sự thống nhất biện chứng giữa “Quyền tự nhiên” là một đặc quyền vốn có và chỉ con người mới có và “Quyền xã hội” là sự chế định bằng các quy chế pháp lý nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội [1]. 1.1.2. Các đặc điểm cơ bản của quyền con người Quyền con người có một số đặc điểm cơ bản, các đặc điểm này thể hiện tính phổ biến của nó ở mọi quốc gia không phụ thuộc vào chế độ chính trị ­ kinh tế của họ. Trong khoa học pháp lý và các văn kiện pháp lý quốc tế về quyền con người, người ta thường nói tới các đặc điểm cơ bản sau về quyền con người, cụ thể như sau: Một là, tính không thể tước đoạt. Quyền con người không thể bị tước đoạt một cách tùy tiện trừ trường hợp sự tước đoạt đó nhằm bảo vệ các quyền con người của người khác do hành vi vi phạm pháp luật của người bị tước đoạt. Hai là, tính không thể phân chia của quyền con người. Quyền con người là tổng thể các quyền và tự do của con người, gắn bó với nhau, trong đó không có quyền nào quan trọng hơn quyền nào. Vấn đề bảo vệ quyền con người ở đây là nếu chúng ta quan tâm thích đáng đến một nhóm đối tượng riêng biệt (Phụ nữ, trẻ em…) vì các đối tượng này thường là nạn nhân của sự vi phạm quyền con người vì các yếu tố khách quan như truyền thống văn hóa hoặc các yếu tố sức khỏe. Ba là, tính liên hệ và phụ thuộc. Tính chất này thể hiện ở chỗ các quyền con người không tồn tại một cách biệt lập mà tồn tại trong tổng thể và trong đó các quyền này là điều kiện để đảm bảo các quyền khác và ngược lại. Chính
  • 17. 9 vì vậy, việc đảm bảo các quyền con người phải được tiến hành một cách tổng thể, không thể chỉ chú ý đến quyền này mà bỏ các quyền khác. Bởi lẽ, các quyền con người đều rất cần thiết cho sự phát triển toàn diện của con người và việc bảo đảm các quyền này hỗ trợ cho việc bảo đảm các quyền khác [15]. Ngoài các đặc điểm cơ bản kể trên, quyền con người còn có một số đặc điểm khác như: Quyền con người được xây dựng trên cơ sở tôn trọng nhân phẩm và giá trị của mỗi cá nhân; Quyền con người đặt ra nghĩa vụ của các chủ thể khác và buộc tất cả phải tôn trọng; Quyền con người không chỉ được bảo vệ bằng pháp luật quốc gia mà còn được bảo vệ bằng pháp luật quốc tế. 1.1.3. Nội dung quyền con người Trong Nhà nước pháp quyền, các quyền con người được pháp luật bảo đảm thực hiện và được bảo vệ không bị xâm phạm. Bảo đảm quyền con người không chỉ là nội dung, bản chất mà còn trở thành mục tiêu cao nhất trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Với mục tiêu của sự nghiệp cách mạng là giải phóng con người, vì vậy, quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam là bảo vệ quyền con người, giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột, bất công, đem lại cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc cho mỗi người. Sau đây là một số nội dung chính thể hiện quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về quyền con người. Quyền con người là giá trị chung của toàn nhân loại. Trong Chỉ thị số 12­CT/TW ngày 12 tháng 7 năm 1992, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã khẳng định: “Quyền con người là thành quả của cuộc đấu tranh lâu dài qua các thời đại của nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên thế giới, và cũng là thành quả của cuộc đấu tranh của loài người làm chủ thiên nhiên; qua đó, quyền con người trở thành giá trị chung của nhân loại” [2]. Trong xã hội có phân chia giai cấp, quyền con người mang tính giai cấp sâu sắc. Mặc dù xét về bản chất, quyền con người là những giá trị chung của
  • 18. 10 toàn nhân loại, là kết tinh của quá trình lịch sử lâu dài, nhưng trên thực tế, đây là một vấn đề mang tính chính trị và bị chính trị hóa. Do đó, việc giải thích và áp dụng quyền con người thường thể hiện sự khác biệt về ý thức hệ. Về vấn đề này, Chỉ thị số 41/2004/CT­TTg ngày 02/12/2004 của Thủ tướng Chính phủ khẳng định: “… Cuộc đấu tranh trên vấn đề quyền con người là cuộc đấu tranh mang tính giai cấp sâu sắc, sẽ diễn ra liên tục, lâu dài và quyết liệt” [42]. Quyền con người thống nhất với quyền dân tộc cơ bản. Từ thực tiễn đấu tranh giữ gìn độc lập đất nước, Đảng rút ra bài học kinh nghiệm rằng sự nghiệp giải phóng con người có mối liên hệ chặt chẽ với sự nghiệp giải phóng dân tộc. Một khi đất nước bị mất độc lập thì quyền con người không bao giờ được thực thi và bảo đảm. Trong Nghị quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ VIII (từ ngày 10 đến ngày 19/5/1941) về tổ chức Việt Minh, Nguyễn Ái Quốc viết: Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được [40]. Quyền con người vừa có tính phổ biến, vừa có tính đặc thù, phụ thuộc vào truyền thống, đặc điểm và trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của mỗi quốc gia. Về vấn đề này, Các Mác từng viết: “Quyền không bao giờ có thể ở mức cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hóa của xã hội do chế độ kinh tế quyết định [28]. Theo Chỉ thị số 12­CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng, quyền con người luôn luôn gắn liền với lịch sử, truyền thống và phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, văn hóa của đất nước. Do vậy, không thể áp đặt hoặc sao chép máy móc các tiêu chuẩn, mô thức của nước này cho các nước
  • 19. 11 khác. Sách trắng Thành tựu bảo vệ và phát triển quyền con người ở Việt Nam cũng khẳng định: Quyền con người vừa mang tính phổ biến, thể hiện khát vọng chung của nhân loại, được ghi trong Hiến chương của Liên hợp quốc, vừa có tính đặc thù đối với từng xã hội và cộng đồng…”. Do đó, “Khi tiếp cận và xử lý vấn đề quyền con người cần kết hợp hài hòa các chuẩn mực, nguyên tắc chung của luật pháp quốc tế với những điều kiện đặc thù về lịch sử, chính trị, kinh tế ­ xã hội, các giá trị văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục tập quán của mỗi quốc gia và khu vực. Không một nước nào có quyền áp đặt mô hình chính trị, kinh tế, văn hóa của mình cho một quốc gia khác [2]. Quyền con người thể hiện trong quyền công dân và được pháp luật bảo hộ. Quyền con người muốn được hiện thực hóa phải được quy định cụ thể trong pháp luật, nếu không, nó chỉ mang ý nghĩa hô hào, không có ý nghĩa thực tế. Pháp luật là phương tiện để ghi nhận và hiện thực hóa các quyền con người. Trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội năm 1991, Đảng xác định: “Nhà nước định ra các đạo luật nhằm xác định các quyền công dân và quyền con người…”. Trong Hiến pháp năm 2013, Nhà nước Việt Nam đã ghi nhận một cách một cách đầy đủ và trang trọng các quyền con người, phù hợp với các chuẩn mực của luật pháp quốc tế. Quyền không tách rời nghĩa vụ. Trong “Điều lệ tạm thời của Hội liên hiệp công nhân quốc tế năm 1864”, Các Mác đã chỉ rõ mối liên hệ giữa quyền và nghĩa vụ: “Không có quyền lợi nào mà không có nghĩa vụ, không có nghĩa vụ nào mà không có quyền lợi”. Trong Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người, tại khoản 2 Điều 29 cũng nêu rõ rằng: Khi hưởng thụ các quyền và tự do của mình, mọi người chỉ phải tuân thủ những hạn chế do luật định, nhằm mục đích bảo đảm
  • 20. 12 sự công nhận và tôn trọng thích đáng đối với các quyền và tự do của người khác cũng như nhằm đáp ứng những yêu cầu chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ [25]. Về mối quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ, Đảng ta nhận định: Quyền dân chủ, tự do của mỗi cá nhân không tách rời nghĩa vụ và trách nhiệm công dân. Dân chủ phải đi đôi với kỷ cương, pháp luật. Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời thực hiện chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích Tổ quốc, của nhân dân [2]. Tất cả các quyền con người cần được tôn trọng và bảo đảm một cách bình đẳng, tất cả các quyền của con người đều có ý nghĩa quan trọng như nhau và không có quyền nào được coi là vượt trội hơn quyền nào. Việc thực hiện hay không thực hiện một quyền sẽ có tác động tích cực hoặc tiêu cực đến các quyền khác. Về vấn đề này, Nhà nước Việt Nam luôn xác định một phương hướng: … Cần tiếp cận một cách toàn diện tất cả các quyền con người về dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa trong một tổng thể hài hòa, không được xem nhẹ bất cứ quyền nào. Đồng thời, các quyền và tự do của mỗi cá nhân chỉ có thể được bảo đảm và phát huy trên cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích chung của dân tộc và cộng đồng… Việc chỉ ưu tiên hoặc tuyệt đối hóa các quyền dân sự, chính trị và một số quyền tự do cá nhân, không quan tâm thích đáng đến quyền phát triển, các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa của cả cộng đồng là cách đề cập phiến diện, không phản ánh đầy đủ bức tranh toàn cảnh về quyền con người [16]. Mở rộng đối thoại và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quyền con người.
  • 21. 13 Đảng ta chủ trương thúc đẩy hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quyền con người trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Trong Chỉ thị số 12­CT/TW, Đảng ta khẳng định: Quyền con người là vấn đề đang được đặt ra trong các mối quan hệ quốc tế. Cần làm tốt công tác đối ngoại, giữ vững độc lập, chủ quyền của nước ta, sẵn sàng tỏ thiện chí hợp tác trong quan hệ quốc tế vì quyền con người, đồng thời đấu tranh với những âm mưu lợi dụng vấn đề này để chống phá ta [2]. 1.1.4. Pháp luật quốc tế về quyền con người Từ góc độ pháp lý, pháp luật quốc tế có thể hiểu đây là một hệ thống các quy tắc, tiêu chuẩn và tập quán pháp lý quốc tế xác lập, bảo vệ và thúc đẩy các quyền và tự do cơ bản cho mọi thành viên của cộng đồng nhân loại. Mặc dù vẫn còn những tranh cãi nhất định, song quan niệm chung của pháp luật quốc tế về quyền con người nói chung bao gồm: Các điều ước quốc tế (Công ước, Nghị định thư có hiệu lực toàn cầu hay khu vực) về quyền con người do các quốc gia thành viên Liên hợp quốc và thành viên của các tổ chức liên chính phủ khác thông qua có hiệu lực ràng buộc với các quốc gia đã tham gia; Các Nghị quyết có liên quan đến vấn đề quyền con người do các cơ quan chính và cơ quan giúp việc của Liên hợp quốc thông qua và chỉ có các nghị quyết của Hội đồng Bảo an là có hiệu lực pháp lý bắt buộc; Các văn kiện quốc tế khác về quyền con người (Các tuyên bố, tuyên ngôn, khuyến nghị, nguyên tắc, hướng dẫn…) do Liên hợp quốc và các tổ chức liên Chính phủ khác thông qua; Những bình luận, khuyến nghị chung (với mọi quốc gia) và những kết luận khuyến nghị (với những quốc gia cụ thể) do Ủy ban giám sát các công ước quốc tế về quyền con người đưa ra trong quá trình xem xét báo cáo của các quốc gia về việc thực hiện những công ước này; Các phán quyết của Tòa án Công lý Quốc tế và một số tòa án khu vực về quyền con người.
  • 22. 14 Hiến chương Liên hợp quốc là văn kiện nền tảng cho pháp luật quốc tế về quyền con người bởi Hiến chương đã khẳng định việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người là một trong những mục tiêu hoạt động của Liên hợp quốc – tổ chức liên chính phủ lớn và có quyền lực nhất trên thế giới. Một trong những mục tiêu cơ bản của Liên hợp quốc là hướng trực tiếp vào vấn đề quyền con người: Tăng cường sự hợp tác quốc tế trong giải quyết các vấn đề quốc tế về kinh tế xã hội, văn hoá hoặc các vấn đề nhân đạo, thúc đẩy và khuyến khích sự tôn trọng các quyền con người và tự do cơ bản cho tất cả mọi người mà không có sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ hoặc tôn giáo. Bên cạnh đó, Bộ luật nhân quyền quốc tế (The International Bill of Human Rights) cũng được xem là xương sống của pháp luật quốc tế về quyền con người. Đó là thuật ngữ chỉ sự tập hợp của ba văn kiện quốc tế cơ bản trên lĩnh vực này, đó là Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948 (UDHR) và hai Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR) và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa (ICESCR). Ngoài ra, theo một số tài liệu, các Nghị định thư bổ sung của hai công ước cơ bản về quyền con người năm 1966 cũng là những bộ phận cấu thành của Bộ luật này. Sau Bộ luật nhân quyền quốc tế, nhiều điều ước và văn kiện quốc tế khác về vấn đề này đã được thông qua bởi Liên hợp quốc. Hệ thống các văn kiện này đề cập đến các quyền và tự do cơ bản (ICCPR và ICESCR) của mọi cá nhân, các quyền đặc thù của một số nhóm xã hội dễ bị tổn thương (Phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, người tị nạn, người không quốc tịch, người lao động di trú, người thiểu số...) và một loạt vấn đề khác có liên quan như xoá bỏ sự phân biệt đối xử về chủng tộc, xoá bỏ chế độ nô lệ và các thực trạng như nô lệ, xóa bỏ hình phạt tử hình, xoá bỏ tra tấn, xoá bỏ lao động cưỡng bức, ngăn chặn việc đưa đi mất tích...
  • 23. 15 Mối quan hệ giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia về quyền con người: về cơ bản đây cũng là mối quan hệ giữa pháp luật quốc tế nói chung với pháp luật quốc gia. Pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia là hai hệ thống khác nhau nhưng không đối lập mà có mối quan hệ, tác động qua lại, thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển. Pháp luật quốc tế có thể tác động, thúc đẩy sự phát triển tiến bộ của pháp luật quốc gia trong khi pháp luật quốc gia đóng vai trò là phương tiện truyền tải và điều kiện bảo đảm cho pháp luật quốc tế được thực hiện trên thực tế. Sự tương tác đó thể hiện ở những điểm sau: Thứ nhất, pháp luật quốc gia là nền tảng thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển của pháp luật nhân quyền quốc tế. Các văn kiện quốc tế cơ bản về quyền con người đã chịu ảnh hưởng rất nhiều từ những văn bản pháp luật quốc gia nổi tiếng thế giới như Hiến chương Magna Carta của nước Anh, Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ, Tuyên ngôn về quyền con người và dân quyền của nước Pháp…vì bản thân nó chứa đựng những quy phạm nhân quyền rất tiến bộ, được cộng đồng quốc tế thừa nhận như là những giá trị phổ biến, chung cho toàn nhân loại như: Nguyên tắc về bình đẳng, tự do, suy đoán vô tội, xét xử công bằng; quyền dân tộc tự quyết…; Thứ hai, pháp luật quốc tế về quyền con người sẽ tác động, thúc đẩy sự phát triển tiến bộ của pháp luật quốc gia về quyền con người. Sự hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới đều đã được sửa đổi, bổ sung một cách đáng kể theo hướng làm hài hòa với các chuẩn mực quốc tế về quyền con người; Thứ ba, pháp luật quốc gia là phương tiện truyền tải luật nhân quyền quốc tế, là điều kiện đảm bảo cho luật nhân quyền quốc tế được thực hiện. Thông thường, pháp luật quốc tế không được áp dụng trực tiếp bởi tòa án của các quốc gia. Để pháp luật quốc tế được thực thi trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, các nhà nước phải “Nội luật hoá” các quy phạm pháp luật quốc tế vào hệ thống pháp luật nước mình, tức là sửa đổi hoặc bổ sung hệ thống pháp luật
  • 24. 16 nước mình để làm hài hòa với pháp luật quốc tế. Trong trường hợp pháp luật quốc gia chưa hài hòa với một điều ước quốc tế về quyền con người mà nước mình là thành viên thì hầu hết các quốc gia đặt sự ưu tiên áp dụng với điều ước quốc tế. Chính sách của Đảng Cộng sản và pháp luật của Nhà nước Việt Nam về quyền con người: Việt Nam đã và đang xây dựng và thực hiện những chính sách nhằm trực tiếp và gián tiếp bảo vệ thúc đẩy các quyền con người, có thể khái quát như sau: Chính sách đối nội: Tăng cường và mở rộng dân chủ phát huy hơn nữa nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; Phát huy nhân tố con người, đẩy mạnh phát triển kinh tế, giải quyết tốt các vấn đề xã hội và ưu tiên, chăm lo các gia đình chính sách xã hội; Bảo đảm sự bình đẳng giữa các dân tộc, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về quyền con người, quyền công dân; Ngăn ngừa và trừng trị những hành vi vi phạm quyền con người, quyền công dân, đồng thời, chống khuynh hướng dân chủ cực đoan, quá khích, lợi dụng vấn đề quyền con người để chống phá chế độ; Tăng cường hoạt động giáo dục, phổ biến về quyền con người, quyền công dân cho cán bộ, nhân viên nhà nước và nhân dân. Chính sách đối ngoại: chỉ đạo việc giải quyết các vấn đề quyền con người cần thông qua đối thoại hòa bình và trên nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không áp đặt và can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Phương châm hành động mà Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam đề ra trên lĩnh vực này là chủ động, tích cực trong các hoạt động hợp tác quốc tế và mở rộng đối thoại trong lĩnh vực quyền con người. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã khẳng định, cần: “Chủ động tham gia cuộc đấu tranh chung vì quyền con người. Sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề nhân quyền”.
  • 25. 17 1.2. Khái niệm và nội dung của nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng hình sự 1.2.1. Khái niệm nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng hình sự Nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng hình sự là tư tưởng chủ đạo, có tính bắt buộc chung, thể hiện quan điểm có tính định hướng của Nhà nước trong việc tổ chức tố tụng để xét xử các vụ án hình sự, được quy định trong pháp luật tố tụng hình sự. Theo đó, việc xét xử vụ án hình sự phải được thực hiện ở hai cấp xét xử là xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm; bản án, quyết định sơ thẩm có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Trong trường hợp bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì tòa án cấp phúc thẩm phải tiến hành xét xử lại vụ án; Nếu không bị kháng cáo, kháng nghị thì bản án, quyết định sơ thẩm sẽ có hiệu lực pháp luật [29]. Nguyên tắc hai cấp xét xử là nguyên tắc được xác định trong tố tụng hiện đại. Nguyên tắc này được ghi nhận trong các công ước quốc tế, đặc biệt là Công ước về quyền dân sự và chính trị của Liên hợp quốc, Quy chế về Toà án hình sự quốc tế. Nguyên tắc này cũng được ghi nhận trong pháp luật quốc gia của các nước thuộc các hệ thống pháp luật khác nhau…[17]. Để bảo đảm tính chính xác, khách quan trong phán quyết của Tòa án, bảo vệ các quyền con người, các quốc gia có nền tố tụng hiện đại đều áp dụng nguyên tắc vụ án có thể được tổ chức xét xử nhiều lần và tổ chức hệ thống Tòa án để thực hiện nguyên tắc đó trong thực tế. 1.2.2. Lịch sử hình thành của Nguyên tắc hai cấp xét xử trong luật tố tụng hình sự Việt Nam Có thể nói, một trong các nguyên tắc được thừa nhận sớm nhất khi thực hiện chức năng xét xử của Toà án đó là nguyên tắc “Chế độ hai cấp xét xử”. Nguyên tắc này đều được thừa nhận trong từng giai đoạn khác nhau của lịch sử lập pháp đã định hướng và thể hiện ở tất cả các quy định của luật TTHS
  • 26. 18 trong quá trình giải quyết vụ án: khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hàng tố tụng tạo thành hệ thống các quy phạm làm cơ sở cho việc bảo vệ quyền con người [11]. ­ Thời kỳ 1945 – 1960: Ngay từ ngày đầu tồn tại Nhà nước dân chủ nhân dân, Nhà nước ta đã thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử. Hiến pháp năm 1946 quy định cơ quan tư pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà gồm có Toà án tối cao, các Toà án phúc thẩm, các Toà án đệ nhị cấp và sơ cấp. Như vậy, từ góc độ tổ chức và tố tụng, nguyên tắc hai cấp xét xử ở nước ta thời kỳ này được thực hiện tương đối linh hoạt. ­ Thời kỳ 1960 – 1980: Ngày 14/7/1960, Luật tổ chức Toà án nhân dân đầu tiên được ban hành. Và cũng trong Luật này, lần đầu tiên về mặt luật định nguyên tắc hai cấp xét xử được ghi nhận tại Điều 9: “Toà án nhân dân thực hành chế độ hai cấp xét xử”. Đương sự có quyền chống bản án hoặc quyết định của Toà án nhân dân xử sơ thẩm lên Toà án nhân dân trên một cấp. Viện kiểm sát nhân dân cũng cấp và trên một cấp có quyền kháng nghị bản án hoặc quyết định sơ thẩm của Toà án nhân dân. Nếu đương sự không chống án và Viện kiểm sát nhân dân không kháng nghị trong thời hạn do pháp luật quy định thì bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án nhân dân địa phương sẽ có hiệu lực pháp luật. Bản án, quyết định phúc thẩm của các Toà án nhân dân, bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án nhân dân tối cao là chung thẩm [17]. ­ Thời kỳ từ 1980 đến nay: Mặc dù chế độ hai cấp xét xử không được ghi nhận cụ thể trong Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1980 và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988, nhưng nội dung cụ thể của nó vẫn được thể hiện đầy đủ, có những nội dung có sự tiến bộ hơn như: về quyền hạn, Toà án cấp phúc thẩm không có quyền làm xấu đi tình trạng của bịcáo hoặc huỷ bản án, quyết định sơ thẩm để xét xử lại vụ án theo hướng làm nặng thêm tình trạng của đương sự nếu không có kháng cáo, kháng nghị về vấn đề đó.
  • 27. 19 Đến năm 2002, nguyên tắc này lại được quy định tại Luật Tổ chức TAND (Điều 11) và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 (Điều 20), về cơ bản đã khắc phục những hạn chế trước đó về thủ tục tố tụng cần tuân thủ để thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử như: huỷ bỏ thẩm quyền xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm của Toà án nhân dân tối cao; tính chất của phúc thẩm được khẳng định là xét xử lại vụ án và bằng cách sửa đổi quyền hạn của Toà giám đốc thẩm, luật khẳng định rằng đó chỉ là thủ tục đặc biệt (phá án) chứ không phải là một cấp xét xử… Hiến pháp năm 2013 được Quốc hội thông qua ngày 28/11/2013 đã phản ánh một cách biện chứng những bước tiến trong nhận thức lý luận và kết quả thực tiễn của quá trình cải cách bộ máy nhà nước nói chung và cải cách tư pháp nói riêng. Trong đó, Hiến pháp năm 2013 đã dành 05 điều để quy định về Tòa án nhân dân, được thể hiện từ Điều 102 đến Điều 106. Theo đó, Hiến pháp năm 2013 bổ sung nguyên tắc mới là “Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được đảm bảo” [35]. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 một lần nữa nhắc lại nguyên tắc hiến định với nội dung: “Bảo đảm chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm”. Về bản chất thì cách thể hiện của nguyên tắc nêu trên có kế thừa song có bao hàm những nội dung mới đó là khẳng định nguyên tắc hai cấp xét xử là cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm. Như vậy, những vụ việc được Tòa án giải quyết xét xử đã có hiệu lực pháp luật (Đã qua giải quyết xét xử ở cấp phúc thẩm) phải được thi hành, tránh khiếu nại kéo dài. 1.2.3. Nội dung nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng hình sự Nguyên tắc hai cấp xét xử được qui định tại Điều 20 BLTTHS năm 2003 có nội dung Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử. Theo đó: Bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của BLTTHS này. Xét xử sơ thẩm là cấp xét xử thứ nhất, khi xác định Tòa án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm phải căn cứ vào những quy
  • 28. 20 định của pháp luật về thẩm quyền theo sự việc, thẩm quyền theo đối tượng và thẩm quyền theo lãnh thổ. Sau khi xét xử sơ thẩm, bản án và quyết định của Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật ngay, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật để yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án một lần nữa. Bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn do BLTTHS năm 2003 quy định thì có hiệu lực pháp luật. Đối với bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị vụ án phải được xét xử phúc thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm là cấp xét xử thứ hai. Khi xét xử lại vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm không chỉ kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án và quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm mà còn xét xử lại vụ án về mặt nội dung bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật ngay sau khi tuyên án và được đưa ra thi hành. Đối với bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới thì được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Tòa án cấp giám đốc thẩm và tái thẩm không phải là một cấp xét xử, không xét xử lại vụ án về nội dung mà chỉ xét lại bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật, kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của các bản án và quyết định đó. Khi giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, Tòa án không thực hiện chức năng xét xử mà thực hiện chức năng việc giám đốc xét xử của Tòa án cấp trên đối với hoạt động xét xử của Tòa án cấp dưới. 1.3. Sự cần thiết, vai trò và ý nghĩa của việc thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng hình sự đối với việc bảo vệ quyền con người 1.3.1. Sự cần thiết, vai trò của việc thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng hình sự đối với việc bảo vệ quyền con người Cần khẳng định việc thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng
  • 29. 21 hình sự để bảo vệ quyền con người là cần thiết. Bởi lẽ, không phổ biến, không rộng lớn, không diễn ra hàng ngày hàng giờ như các lĩnh vực hành chính, kinh tế, môi trường,... Nhưng có thể nói, quyền con người trong TTHS là nhóm quyền dễ bị xâm phạm và bị tổn thương nhất và hậu quả để lại cũng nghiêm trọng nhất khi nó động chạm đến quyền được sống, quyền tự do và sinh mệnh chính trị của một cá nhân. Bởi lẽ, TTHS với tư cách là quá trình Nhà nước đưa một người ra xử lý trước pháp luật khi họ bị coi là tội phạm, quá trình này luôn thể hiện đậm nét tính quyền lực nhà nước với sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. Với sự thiếu quân bình về thế và lực của các bên khi tham gia quan hệ TTHS mà sự yếu thế luôn thuộc về những người bị buộc tội [9]. Do đó, khi một vụ án hình sự được đưa ra để xét xử, nếu Tòa án cấp sơ thẩm mà xét xử sai thì khi đó quyền và lợi ích của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác sẽ ra sao? Khi đó họ phải làm thế nào và phải làm những gì để bảo vệ được quyền và lợi ích chính đáng của mình?. Để trả lời câu hỏi đó, pháp luật quy định và thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng hình sự [32]. Bản án sơ thẩm có thể bị sửa, bị hủy, quyết định ở cấp phúc thẩm sẽ kịp thời sửa chữa những sai lầm hoặc các vi phạm pháp luật mà cấp sơ thẩm đã mắc phải, góp phần nâng cao trách nhiệm của Hội đồng xét xử sơ thẩm giúp họ có thái độ thận trọng và có trách nhiệm hơn trước khi đưa ra phán quyết của mình. Việc quy định xét xử qua hai cấp để thông qua hoạt động xét xử ở cấp phúc thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm sẽ kịp thời chỉ ra những sai lầm, thiếu sót để Tòa án cấp sơ thẩm kịp thời rút kinh nghiệm. Đây cũng chính là một hình thức hướng dẫn áp dụng pháp luật có hiệu quả to lớn giữa Tòa án cấp phúc thẩm và Tòa án cấp sơ thẩm. Nhờ đó mà chất lượng xét xử tại các cấp xét xử ngày càng được nâng cao. Việc xét xử lại vụ án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử sẽ giúp tìm ra nguyên nhân dẫn đến những sai lầm hay những vi phạm pháp luật trong việc áp dụng pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và Tòa án nói riêng.
  • 30. 22 Nguyên tắc xét xử hai cấp đóng vai trò rất quan trọng và độc lập, cần phải có trong hệ thống các nguyên tắc pháp luật tố tụng hình sự. Bởi lẽ: Đối với nhà nước, nguyên tắc hai cấp xét xử thể hiện bản chất pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Mặt khác nguyên tắc này là công cụ hữu hiệu giúp cho nhà nước thực hiện chức năng quản lý xã hội, công bằng xã hội được duy trì, ý thức người dân về pháp luật được nâng cao, trật tự xã hội được Nhà nước xác lập không bị xâm phạm. Đối với cơ quan tiến hành tố tụng, với việc đẩy mạnh cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 49­NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Với những điểm mới, quan trọng về quyền tư pháp, thực hiện quyền tư pháp gắn liền với bảo vệ quyền con người trong hoạt động tư pháp. Đặc biệt là cơ quan xét xử, nguyên tắc này nhằm bảo đảm pháp lý vững chắc cho việc tìm ra sự thật của một vụ án, là một hình thức nâng cao hiệu quả, chất lượng cũng như khắc phục những hạn chế trong quá trình xét xử. Đối với người tham gia tố tụng, nguyên tắc này tạo ra căn cứ pháp lý quan trọng, công cụ hỗ trợ để các chủ thể trong quan hệ TTHS tiếp cận công lý, thực hiện quyền và và nghĩa vụ của mình. Từ đó, quyền con người được Nhà nước bảo vệ thông qua quá trình xét xử của cơ quan tiến hành tố tụng [29]. 1.3.2. Ý nghĩa của nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng hình sự đối với việc bảo vệ quyền con người 1.3.2.1. Ý nghĩa pháp lý Nguyên tắc này tạo cơ sở pháp lý quan trọng để Viện kiểm sát, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác có quyền và lợi ích pháp lý liên quan đến vụ án thể hiện thái độ đồng tình với việc xét xử của Tòa án bằng việc kháng nghị, kháng cáo đối với bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án theo qui định của pháp luật tố tụng hình sự, để vụ án được xét xử lại ở cấp phúc thẩm [32]. Mặt khác, việc quy định một vụ án có thể được xét xử qua hai cấp là một đảm
  • 31. 23 bảo pháp lý cần thiết cho việc xét xử của Tòa án được chính xác và đúng đắn. Thông qua đó, những vấn đề thuộc về nội dung vụ án sẽ một lần nữa được xem xét, phân tích và đánh giá kỹ càng hơn, đầy đủ hơn. Trên cơ sở đó, phán quyết của Tòa án đưa ra sẽ đảm bảo độ chính xác cao hơn. Từ đó giúp tìm ra các giải pháp thích hợp để sửa chữa, khắc phục về lập pháp cũng như hướng dẫn áp dụng pháp luật, tổ chức các cơ quan tiến hàng tố tụng, nhất là hoàn thiện tổ chức Tòa án đáp ứng yêu cầu của nguyên tắc hai cấp xét xử và yêu cầu cải cách tư pháp. 1.3.2.2. Ý nghĩa chính trị, xã hội Một vụ án hình sự có thể được xét xử ở hai cấp xét xử khác nhau là phù hợp với quy luật của nhận thức nhằm đảm bảo tính đúng đắn, khách quan của hoạt động xét xử. Quy định nguyên tắc hai cấp xét xử thể hiện thái độ thận trọng của Nhà nước trong việc đưa ra phán quyết về số phận pháp lý, sinh mạng chính trị, quyền lợi của người đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật hình sự và những người khác có liên quan, là sự thể hiện rõ ràng nhất bản chất của Nhà nước pháp quyền Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân vì nhân dân trong đó vấn đề tôn trọng và bảo vệ quyền con người là một nội dung quan trọng của Nhà nước pháp quyền; Là sự thể hiện nhận thức khoa học về hoạt động xét xử của Tòa án phù hợp với nguyên lý của chủ nghĩa Mac­ Lê Nin về nhận thức thế giới. Đó là, nhận thức luôn có sự vận động và phát triển, không phải trong mọi trường hợp nhận thức của một con người về một sự vật, hiện tượng đã đúng đắn ngay từ lần nhận thức đầu tiên [12]. Đồng thời với việc đảm bảo quyền lợi của người tham gia tố tụng, việc xét xử ở hai cấp giúp cho họ nhận thức rõ trách nhiệm của mình trong vụ án để có thái độ hợp tác tích cực với cơ quan tố tụng có thẩm quyền trong việc thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình. Do vậy sẽ là không công bằng nếu như là tước bỏ quyền bảo vệ, quyền và lợi ích của bị cáo, người tham gia tố tụng
  • 32. 24 có quyền và lợi ích pháp lý liên quan đến vụ án một lần nữa tại phiên tòa xét xử khác, nếu như chưa thể có các điều kiện thực tế để khẳng định hay đảm bảo rằng: phán quyết của lần xét xử đầu tiên là chính xác. Mặt khác khi biết được kết quả của hoạt động xét xử phúc thẩm, thấy được sự đánh giá về tính đúng đắn hay không đúng đắn của xét xử sơ thẩm người dân mới thực hiện được triệt để quyền giám sát hoạt động xét xử của Tòa án các cấp. Trên cơ sở đó mới có thái độ chính xác nhất về tính khách quan của hoạt động này trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của công dân, lợi ích chung của xã hội và cộng đồng [20]. Việc quy định nguyên tắc hai cấp xét xử trong TTHS với nội dung cơ bản là một vụ án hình sự có thể được xét xử và chỉ có thể được xét xử ở hai cấp xét xử là cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm, giúp tránh tính trạng được (bị) xét xử ở quá nhiều cấp làm cho quá trình tố tụng kéo dài, ảnh hưởng tới hiệu lực của bản án, quyết định, nhất là những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
  • 33. 25 Chương 2 THỰC TIỄN THI HÀNH NGUYÊN TẮC HAI CẤP XÉT XỬ TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐĂK LĂK 2.1. Quy định của BLTTHS về cấp xét xử sơ thẩm và thực tiễn thi hành đối với việc bảo vệ quyền con người trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk 2.1.1. Quy định của BLTTHS về cấp xét xử sơ thẩm Xét xử sơ thẩm là cấp xét xử thứ nhất khi xác định Tòa án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm phải căn cứ vào quy định của pháp luật về thẩm quyền theo vụ án hình sự, thẩm quyền theo đối tượng và thẩm quyền theo lãnh thổ. Đây là cấp xét xử có ý nghĩa quan trọng trong thủ tục tố tụng giải quyết các vụ án hình sự. Sau khi xét xử sơ thẩm, bản án và quyết định của Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật ngay, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác có quyền kháng cáo theo qui định của pháp luật để yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử vụ án lại một lần nữa. Bản án, quyết định của cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 [18]. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, tại khoản 1 Điều 40, khoản 1 Điều 44 Luật Tổ chức TAND 2014 qui định: Tòa chuyên trách Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi tắt là cấp tỉnh) và Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương (gọi tắt là cấp huyện) [39] thực hiện theo thẩm quyền xét xử được quy định tại Điều 170 BLTTHS. Theo đó, Tòa án nhân dân cấp huyện xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng (Trừ những tội phạm sau đây: Các tội xâm phạm an
  • 34. 26 ninh quốc gia; Các tội phá hoại hoà bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh; Các tội quy định tại các điều 93, 95, 96, 172, 216, 217, 218, 219, 221, 222, 223, 224, 225, 226, 263, 293, 294, 295, 296, 322 và 323 của Bộ luật hình sự); Tòa án nhân dân cấp tỉnh xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm không thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp dưới mà mình lấy lên để xét xử. Các phán quyết của Tòa án từ bản án, quyết định chỉ có hiệu lực khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị do pháp luật quy định mà không có kháng cáo, kháng nghị. Tuy nhiên, không phải bao giờ trong hoạt động xét xử của Tòa án, qua một phiên tòa sơ thẩm đã đảm bảo tính khách quan, toàn diện, đầy đủ và tính đúng đắn của vụ án. Bởi lẽ, trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tố tụng và vì nhiều lý do khác nhau, Viện kiểm sát, bị cáo, những người tham gia tố tụng khác có thể không chấp nhận phán quyết của Tòa án sơ thẩm, kháng nghị hoặc kháng cáo lên Tòa án cấp trên yêu cầu xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm. Quyền hạn của Hội đồng xét xử sơ thẩm BLTTHS không quy định quyền hạn xét xử của Hội đồng xét xử sơ thẩm, nhưng tại các Điều 15, 16, 17 BLTTHS thì quy định: “Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số, khi xét xử Thẩm phán và HTND độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Bên cạnh đó khi xét xử đòi hỏi sự độc lập của hội đồng xét xử với các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và các cá nhân. “Cấp trên của quan tòa là luật pháp” (Các Mác) có nghĩa là, khi xét xử, Tòa án không có cấp trên, cấp trên của Hội đồng xét xử chính là pháp luật. Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân không bị ràng buộc, không bị chi phối bởi bất kỳ ý kiến của ai. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân không được can thiệp hoặc tác động vào các thành viên của Hội đồng xét xử để ép họ phải xét xử vụ án theo ý chủ quan của mình. Mọi hành động can thiệp dưới bất kỳ hình thức nào đều làm ảnh hưởng tới tính
  • 35. 27 khách quan của vụ án và đều bị coi là bất hợp pháp. Tuy nhiên trong hoạt động xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân có thể tham khảo ý kiến của các cơ quan chuyên môn, của bất kỳ ai và phải nắm bắt dư luận xã hội, nhưng khi quyết định, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải thể hiện bản lĩnh nghề nghiệp của mình, xem xét mọi vấn đề một cách độc lập, không được để cho ý kiến bên ngoài làm ảnh hưởng tới tính khách quan của vụ án. Mọi quyết định của Hội đồng xét xử sơ thẩm phải được thảo luận và thông qua, nhân danh Nhà nước tuyên án. Bản án của Tòa án quyết định việc bị cáo có phạm tội hay không phạm tội, hình phạt và quyết định các biện pháp tư pháp khác. Mặt khác, một điểm có thể thấy rằng, quyền hạn của Hội đồng xét xử sơ thẩm là kể từ khi Tòa án thụ lý, Chánh án TAND phân công Thẩm phán chủ tọa giải quyết và Hội thẩm nhân dân tham gia Hội đồng xét xử vụ án hình sự thì họ đã phát sinh quyền hạn, trừ khi có quyết định thay đổi người tiến hành tố tụng là Thẩm phán hoặc Hội thẩm nhân dân. Hiệu lực của bản án, quyết định cấp sơ thẩm bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật khi nó còn trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị. Tức là trong 15 ngày kể từ ngày tuyên án (Đối với bản án) và 07 ngày (Đối với quyết định), hoặc là kể từ khi họ nhận được bản án, quyết định, niêm yết bản án theo qui định trong trường hợp vắng mặt. Hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị nếu bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị thì có hiệu lực pháp luật. Đối với kháng cáo quá hạn của đương sự, nếu Tòa án không chấp nhận thì đương sự mất quyền kháng cáo, hoặc quá thời hạn kháng cáo, đương sự không kháng cáo thì họ không được kháng cáo nữa. Do vậy, bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật và các đương sự phải chấp hành. Hiệu lực pháp luật của bản án, quyết định sơ thẩm còn căn cứ vào thời hạn kháng nghị của Viện Kiểm sát. Quá thời hạn kháng nghị, thì Viện Kiểm
  • 36. 28 sát mất quyền kháng nghị và cũng không được kháng nghị quá hạn. Bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án có hiệu lực pháp luật [33]. 2.1.2. Thực tiễn thi hành các qui định của BLTTHS về cấp xét xử sơ thẩm đối với việc bảo vệ quyền con người tại Tòa án cấp sơ thẩm trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk Ngành Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, đã triển khai thi hành BLTTHS năm 2003 ở tất cả các Toà án các cấp; đồng thời trang bị cơ sở vật chất, tổ chức tập huấn bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ, đảm bảo việc tăng thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện. Các phiên toà xét xử các vụ án Hình sự được đổi mới theo hướng xác định cụ thể quyền hạn, trách nhiệm pháp lý của những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng; đảm bảo nguyên tắc tranh tụng công khai, dân chủ và nghiêm minh trong xét xử. Để có cơ sở đánh giá một cách đầy đủ, khách quan về thực tiễn xét xử hình sự ở hai cấp xét xử, chúng ta cần nghiên cứu về tình hình tội phạm trên địa bàn cả nước qua số liệu thống kê của TANDTC; Cụ thể, từ năm 2009 đến năm 2013, ngành Tòa án đã xét xử sơ thẩm, phúc thẩm tổng số 362.115 vụ án hình sự với 614.558 bị cáo; Trong đó, xét xử theo thủ tục sơ thẩm năm 2009 là 60.433 vụ với 102.577 bị cáo, năm 2010 là 52.545 vụ với 88.976 bị cáo, năm 2011 là 58.277 vụ với 100.667 bị cáo, năm 2012 là 64.935 vụ với 116.907 bị cáo và năm 2013 là 66.107 vụ với 117.502 bị cáo; Còn xét xử theo thủ tục phúc thẩm năm 2009 là 10.735 vụ với 17.540 bị cáo, năm 2010 là 10.762 vụ với 16.555 bị cáo, năm 2011 là 11.838 vụ với 17.053 bị cáo, năm 2012 là 11.464 vụ với 17.765 bị cáo và năm 2013 là 12.019 vụ với 19.016 bị cáo [43]. Địa bàn tỉnh Đăk Lăk với đặc thù là một tỉnh thuộc khu vực Tây Nguyên có vị trí chiến lược rất quan trọng về chính trị, kinh tế và quốc phòng – an ninh, có diện tích tự nhiên 13.085 km2 , đơn vị hành chính gồm 01 Thành phố, 01 Thị xã và 13 huyện. Cộng đồng dân cư Đăk Lăk gồm 44 dân tộc.
  • 37. 29 Trong đó, người Kinh chiếm trên 70%; các dân tộc thiểu số như Ê Đê, MNông, Thái, Tày, Nùng... chiếm gần 30% dân số toàn tỉnh. Các dân tộc thiểu số sinh sống ở 125/170 xã trên địa bàn tỉnh, nhưng phần lớn tập trung ở các xã vùng cao, vùng xa. Ngoài các dân tộc thiểu số tại chỗ còn có số đông khác dân di cư từ các tỉnh phía Bắc và miền Trung đến tỉnh Đắk Lắk sinh cơ lập nghiệp. Địa hình tỉnh Đăk Lăk hiểm trở, rừng núi hẻo lánh, nhiều dân tộc thiểu số sinh sống với nhiều phong tục tập quán khác nhau. Tình hình an ninh chính trị và di cư tự do đã và đang dễn biến phức tạp; công tác quản lý địa bàn dân cư rất khó khăn. Do đặc thù địa hình rừng núi hiểm trở, vùng sâu, vùng xa nên nhiều đối tượng tội phạm đã có tiền án, tiền sự hoặc có lệnh truy nã đã và đang vào Đăk Lăk để lẫn trốn; là địa phương có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống nên bọn phản động lưu vong sống ở nước ngoài luôn tìm cách chống phá chính sách đại đoàn kết của dân tộc ta tại Tây Nguyên nói chung và tỉnh Đăk Lăk nói riêng; Hàng năm, số lượng án phải giải quyết của ngành Toà án nhân dân tỉnh Đăk Lăk nhiều hơn so với các tỉnh khác (khoảng 8.000 vụ, việc các loại) và án hình sự ở tỉnh Đăk Lăk có số lượng nhiều, nổi cộm với những vụ đặc biệt nghiêm trọng, có nhiều vụ Toà tuyên tử hình nhiều bị cáo; Loại án này lại rất đa dạng về tội danh. Từ những tội phạm về an ninh quốc gia, chủ yếu do bọn xấu lợi dụng trình độ thấp kém của đồng bào dân tộc Tây Nguyên mà lôi kéo, kích động, chống phá những chính sách của Đảng, Nhà nước đến những tội phạm lừa đảo kinh tế dẫn đến vỡ huê, hụi ảnh hưởng lớn đến an ninh trật tự trên địa bàn. Do là tỉnh rộng lớn, kinh tế phát triển nên bọn tội phạm tập trung về đây, gây ra nhiều vụ án hình sự ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh trật tự. Mặc dù phải đứng trước nhiều khó khăn, thách thức, nhưng trên cơ sở quán triệt, thực hiện nghiêm túc các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, với sự chỉ đạo của Toà án nhân dân tối cao, Thường trực Tỉnh uỷ,
  • 38. 30 Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh và sự hợp tác hiệu quả của các cơ quan chức năng cùng với những cố gắng, nỗ lực của cán bộ, công chức, ngành Toà án nhân dân tỉnh Đăk Lăk đã nêu cao tinh thần trách nhiệm và phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ được giao. Theo số liệu thống kê án hình sự của Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Lăk thì từ năm 2009 đến năm 2013 đã giải quyết theo trình tự thủ tục sơ thẩm tổng số 7.444 vụ án với 14.064 bị cáo (tham khảo số liệu tại bảng 2.1), cụ thể: Năm 2009 là 1.559 vụ, năm 2010 là 1.299 vụ, năm 2011 là 1.397 vụ, năm 2012 là 1.649 vụ và năm 2013 là 1.540 vụ. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, nhưng nguyên nhân chủ yếu là do chất lượng giải quyết các vụ án hình sự ngày một đảm bảo hơn, hầu hết các bản án, quyết định của Tòa án đã được giải quyết đúng pháp luật. Về kết quả giải quyết án hình sự theo trình tự thủ tục sơ thẩm từ năm 2009 đến năm 2013 được thể hiện qua bảng thống kê sau đây: Bảng 2.1: Số lượng các vụ án hình sự và số bị cáo đã được Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tại tỉnh Đăk Lăk giải quyết từ năm 2009 đến 2013 Năm Tổng số án hình sự đã thụ lý sơ thẩm Đã giải quyết theo thủ tục sơ thẩm Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo Năm 2009 1.605 3.073 1.559 (Chiếm 97 %) 2.951 (Chiếm 96 %) Năm 2010 1.309 2.400 1.299 (Chiếm 99 %) 2.346 (Chiếm 97 %) Năm 2011 1.430 2.655 1.397 (Chiếm 98 %) 2.551 (Chiếm 96 %) Năm 2012 1.667 3.272 1.649 (Chiếm 99 %) 3.200 (Chiếm 97 %) Năm 2013 1.569 3.107 1.540 (Chiếm 98 %) 3.016 (Chiếm 97 %) Tổng 7.580 14.507 7.444 14.064 (Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Lăk) Trong số các vụ án đã được giải quyết theo trình tự thủ tục sơ thẩm trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk về cơ bản đã áp dụng đúng và đầy đủ các quy định của pháp luật cũng như đảm bảo được các nguyên tắc trong TTHS như: đảm bảo
  • 39. 31 pháp chế, đảm bảo quyền dân chủ trong hoạt động tố tụng nhằm đảm bảo cho việc giải quyết, xét xử vụ án hình sự đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, chất lượng xét xử đạt hiệu quả cao. Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án nhân dân cấp huyện đã có sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tiến hành tố tụng nhằm đưa ra xét xử sơ thẩm đúng thời hạn luật định, đảm bảo thời hạn xét xử. Việc tổ chức xét xử lưu động đối với các vụ án trọng điểm, án đặc biệt nghiêm trọng được sự quan tâm của dư luận tại địa phương nơi xảy ra tội phạm được chú trọng và tổ chức tốt, thông qua đó góp phần nâng cao ý thức pháp luật, tinh thần đấu tranh phòng, chống tội phạm trong quần chúng nhân dân. Để nghiên cứu sâu hơn, chúng tôi xin căn cứ vào số liệu từ nguồn của TAND tỉnh Đăk Lăk để phân tích việc thực tiễn thi hành các qui định của BLTTHS đối với việc bảo đảm quyền con người ở Tòa án cấp sơ thẩm tại địa bàn tỉnh Đăk Lăk thông qua việc thực hiện các nguyên tắc cơ bản của BLTTHS năm 2003 đối với việc đảm bảo quyền con người. Với định hướng xử lý nhanh chóng, kịp thời đúng pháp luật đối với tội phạm xâm phạm quyền con người và đảm bảo không làm ảnh hưởng tới quyền con người khi tiến hành tố tụng. Trong công tác xét xử Tòa án cấp sơ thẩm tại tỉnh Đăk Lăk về cơ bản đã thực hiện tốt những nguyên tắc cơ bản được quy định ở BLTTHS năm 2003 cụ thể như: các nguyên tắc đảm bảo cho việc phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh những tội phạm, nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc xác định sự thật của vụ án, nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, nguyên tắc xét xử tập thể và quyết định theo đa số, nguyên tắc xét xử công khai,…Bên cạnh đó, Tòa án cấp sơ thẩm tại tỉnh Đăk Lăk trong quá trình giải quyết vụ án đã áp dụng các nguyên tắc của TTHS khi tiến hành tố tụng nhằm đảm bảo các quyền con người. Cụ thể: Bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật, quyền bình đẳng trước tòa án, đây là nguyên tắc được TAND hai cấp tại tỉnh Đăk
  • 40. 32 Lăk đặc biệt coi trọng và được coi là tiền đề cho việc bảo đảm các quyền con người trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, nhưng đặc biệt có ý nghĩa rất lớn trong việc tôn trọng và bảo đảm các quyền con người trong giai đoạn và xét xử. Trong tổng số 14.064 bị cáo đã được Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm xét xử tại tỉnh Đăk Lăk từ năm 2009 đến năm 2013 có: 1.384 bị cáo là người đồng bào dân tộc thiểu số, 642 bị cáo là nữ, 52 bị cáo là cán bộ công chức, 55 bị cáo là Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam (Đã tạm đình chỉ sinh hoạt đảng),… Tuy nhiên, khi xem xét đánh giá vụ án Thẩm phán ­ chủ tọa phiên toà là người cầm cân, nảy mực cùng hội đồng xét xử quyết định bị cáo có tội hay vô tội và những vấn đề khác liên quan đến trách nhiệm hình sự, trách nhiệm dân sự cũng như các biện pháp tư pháp khác. Để đưa ra được bản án, quyết định đúng người, đúng tội và pháp luật, Thẩm phán cùng các thành viên trong hội đồng xét xử phải nghiên cứu toàn bộ tài liệu trong hồ sơ vụ án một cách độc lập, xây dựng kế hoạch xét hỏi để nhằm đảm bảo cho việc xét hỏi tại phiên tòa được đầy đủ, chính xác, phù hợp tâm lý, hoàn cảnh của từng đối tượng được triệu tập đến tham gia tố tụng. Do đó, đảm bảo được nguyên tắc bất kỳ ai có hành vi phạm tội đều phải chịu trách nhiệm hình sự theo các điều, khoản của BLHS; Quá trình giải quyết, xét xử đối với bất kỳ vụ án nào cũng đều phải theo một trình tự, thủ tục thống nhất theo quy định của pháp luật TTHS không phân biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội. Vi phạm nguyên tắc này ở giai đoạn xét xử sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của bị cáo, đương sự. Bảo đảm quyền được sử dụng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình, từ năm 2009 đến năm 2013 Tòa án nhân dân cấp hai cấp tại tỉnh Đăk Lăk đã xét xử đối với 1.384 bị cáo là người đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó chiếm tỷ lệ đa số là Ê Đê, Tày, Nùng,… Thực hiện nguyên tắc này sẽ là điều kiện tốt để mọi công dân thể hiện được yêu cầu, nguyện vọng của mình trước
  • 41. 33 Tòa án. Mặt khác, đối với các vụ án có bị cáo, đương sự là người dân tộc thiểu số, cũng như người nước ngoài, không sử dụng được tiếng Việt, thì Tòa án hai cấp tại tỉnh Đăk Lăk đã làm công văn gửi Ban Dân tộc, Trường dân tộc nội trú khu vực Tây Nguyên, Đài phát thanh truyền hình tỉnh, các Trung tâm ngoại ngữ cử người phiên dịch tham gia tố tụng tại phiên tòa để làm trung gian truyển tải, trình bày các lý lẽ, căn cứ làm cơ sở để Hội đồng xét xử xem xét các yêu cầu, nguyện vọng của bị cáo, đương sự. Người phiên dịch phải có trình độ, thực hiện nhiệm vụ một cách thực sự vô tư, khách quan không phụ thuộc vào ai, không bị chi phối bởi yếu tố nào tạo ra sự bình đẳng, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp đích thực của đương sự. Tuy nhiên thực tiễn áp dụng nguyên tắc này cho thấy còn có những vướng mắc cần được quan tâm, hướng dẫn kịp thời: do chưa có một văn bản nào của cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn nên việc thực hiện còn chưa thống nhất, do người phiên dịch không nằm trong tổ chức cơ quan tố tụng nào quản lý, đào tạo mà chỉ yêu cầu biết tiếng dân tộc, ngoại ngữ làm phiên dịch. Việc sử dụng người phiên dịch còn khá nhiều lúng túng, hơn nữa cũng chưa có một đội ngũ phiên dịch giỏi, trình độ hiểu biết pháp luật của người phiên dịch còn hạn chế nên việc dịch thuật chất lượng còn kém, chưa đảm bảo tính khách quan. Bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự, đây là một nguyên tắc hiến định được quy định tại khoản 4 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 và được ghi nhận là một trong những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự tại Điều 11 BLTTHS: “Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của Bộ luật này” [38], theo đó nguyên tắc này gồm có ba nội dung cụ thể là bảo đảm quyền bào chữa, bào đảm quyền tự bào chữa và trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc đảm bảo quyền bào
  • 42. 34 chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Theo thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk thì số vụ án có sự tham gia của người bào chữa chỉ định cụ thể từ: năm 2009 có 181 vụ, năm 2010 có 153 vụ, năm 2011 có 130 vụ, năm 2012 có 173 vụ, năm 2013 có 155 vụ. Như vậy tổng cộng có 792 vụ án hình sự sơ thẩm có sự tham gia của người bào chữa trên tổng số 7.444 vụ án mà Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tại tỉnh Đắk Lắk thụ lý để giải quyết theo trình tự sơ thẩm, chiếm tỷ lệ tương đối thấp 10,63%. Bên cạnh đó mức thu nhập của người dân còn thấp, trình độ dân trí còn nhiều hạn chế nên việc người dân chủ động nhờ người bào chữa rất ít. Theo thống kê, tổng số vụ án có sự tham gia của người bào chữa theo yêu cầu của bị cáo, đại diện hợp pháp của bị cáo từ năm 2009 đến 2013 là 501 vụ, chiếm tỷ lệ thấp so với tổng số các vụ án mà các cơ quan tiến hành tố tụng tỉnh Đắk Lắk đã giải quyết. Thủ tục cấp giấy chứng nhận người bào chữa còn nhiều bất cập, hướng dẫn còn chưa thống nhất dẫn đến áp dụng không giống nhau. Để thực hiện thống nhất quy định của pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho các bên trong quá trình tham gia tố tụng, ngày 18/11/2011, Đoàn luật sư tỉnh Đắk Lắk và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã ký kết quy chế số 01/2011/QCPH/VKS­ĐLS về việc “Phối hợp hoạt động giữa Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk và Đoàn luật sư tỉnh Đắk Lăk”. Tuy nhiên, có thể thấy qua số liệu thống kê và báo cáo của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk cho thấy chất lượng xét xử vụ án hình sự ngày càng được nâng cao, quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng ngày càng được bảo đảm, điều đó phần nào cho thấy quyền bào chữa trong đó có quyền tự bào chữa của bị cáo cơ bản được Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tại Đăk Lăk bảo đảm thực hiện. Bảo đảm quyền con người thông qua việc áp dụng các qui định của pháp luật TTHS về các biện pháp ngăn chặn, bên cạnh việc bảo vệ quyền con người thông qua thực hiện các nguyên tắc của BLTTHS, Tòa án cấp sơ thẩm
  • 43. 35 tại Đăk Lăk còn bảo vệ quyền con người thông qua các biện pháp ngăn chặn. Nhằm tránh việc lợi dụng của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng khi áp dụng những biện pháp này xâm hại đến quyền con người luật TTHS quy định chặt chẽ mục đích, căn cứ, thẩm quyền, thủ tục áp dụng. Theo đó, không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát. Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn cũng như thực tiễn xét xử trong 05 năm từ 2009 đến 2013, Tòa án nhân dân hai cấp tại tỉnh Đăk Lăk đã ra Lệnh tạm giam đối với 4.605 bị cáo; cho bảo lĩnh đối với 108 bị cáo; Hội đồng xét xử ra quyết định bắt tạm giam đối với 18 bị cáo; Hội đồng xét xử sơ thẩm ra quyết định tạm giam 45 ngày đối với 4.310 bị cáo kể từ ngày tuyên án. Khi áp dụng biện pháp bắt, tạm giam TAND hai cấp trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk đã cơ bản tuân thủ quy định của Bộ luật TTHS về căn cứ, thẩm quyền, thủ tục trình tự của các biện pháp đó. Tuy nhiên, vẫn còn một số trường hợp sau khi xét xử sơ thẩm Hội đồng xét xử không ra quyết định tạm giam 45 ngày đối với bị cáo đang tạm giam (thời hạn tạm giam dưới 40 ngày) và việc tạm giam bị cáo không có Lệnh, Quyết định của các cơ quan tố tụng vẫn còn tồn tại; Lệnh tạm giam, Quyết định tạm giam vẫn chưa được tống đạt cho bị cáo theo qui định. Bảo đảm quyền con người thông qua hoạt động xét xử sơ thẩm, tại Điều 9 BLTTHS quy định “ Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật” [38]. Do đó, hoạt động xét xử của Tòa án được coi là hoạt động trung tâm của quá trình giải quyết vụ án hình sự thể hiện bản chất của nền tư pháp quốc gia. Bên cạnh việc đảm bảo việc thi hành các nguyên tắc chung của BLTTHS năm 2003 thì Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tại tỉnh Đăk Lăk còn thực hiện các qui định về thủ tục tố tụng chung của BLTTTHS năm 2003 về xét xử sơ thẩm nhằm đảm bảo quyền con người, cụ thể:
  • 44. 36 (1). Đảm bảo về thời hạn xét xử, các vụ án được quyết định đưa ra xét xử sơ thẩm đúng thời hạn luật định, theo số liệu thống kê các vụ án hình sự sơ thẩm và các bị cáo đã được đưa ra xét xử từ năm 2009 đến năm 2013 tại Tòa án nhân dân cấp trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk như sau: Bảng 2.2: Số liệu các vụ án hình sự và số bị cáo đã được xét xử sơ thẩm từ năm 2009 đến năm 2013 của TAND hai cấp tại tỉnh Đăk Lăk Năm Tổng số vụ án hình sự đã được giải quyết theo trình tự thủ tục sơ thẩm Đã được đưa ra xét xử sơ thẩm Chiếm tỷ lệ (% - Số vụ) Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo Năm 2009 1.559 2.951 1.406 2.561 90.18% Năm 2010 1.299 2.346 1.185 2.057 91.22% Năm 2011 1.397 2.551 1.292 2.384 92.48% Năm 2012 1.649 3.200 1.529 2.923 92.72% Năm 2013 1.540 3.016 1.438 2.777 93.37% Tổng 7.444 14.064 6.850 12.702 92.02% (Nguồn: TAND tỉnh Đăk Lăk) Hàng năm TAND tỉnh ban hành các Kế hoạch về kiểm tra và xử lý án quá hạn luật định của các TAND cấp huyện, qua đó kịp thời nắm bắt nguyên nhân và có biện pháp chỉ đạo cụ thể để hạn chế đến mức thấp nhất các sai phạm trong quá trình xét xử, hạn chế số lượng các vụ án quá hạn luật định. Theo số liệu thống kê án hình sự sơ thẩm trong 05 năm từ 2009 đến 2013 không có án quá hạn luật định. Tuy nhiên, các loại vụ án mà ngành Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tại Đăk Lăk đã thụ lý và giải quyết ngày càng tăng cả về số lượng lẫn tính chất phức tạp, nhiều loại án mới phát sinh trên địa bàn, kinh nghiệm điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan Công an, Viện kiểm sát,
  • 45. 37 Tòa án còn hạn chế. Điển hình như vụ án “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet hoặc thiết bị số thực hiện hành vi chiếm đọat tài sản” [36] quy định tại điểm a, khoản 4 Điều 226b Bộ luật hình sự do chi nhánh của mạng lưới công ty Muaban24h đã được TAND tỉnh Đăk Lăk thụ lý vào ngày 16/08/2013. Tuy nhiên, do tính chất loại tội phạm công nghệ cao, việc đánh giá chứng cứ phức tạp, xác định người tham gia tố tụng còn nhiều quan điểm trái chiều, việc xác định thẩm quyền chưa được thống nhất giữa các địa phương dẫn đến ảnh hưởng thời hạn giải quyết vụ án. (2). Vấn đề trả hồ sơ để điều tra bổ sung và mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra - Viện kiểm sát - Toà án đối với việc đảm bảo quyền con người, trong quá trình giải quyết, xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm đã thực hiện việc xem xét, đánh giá chứng cứ, áp dụng pháp luật và tiến hành các hoạt động tố tụng để xác định tội danh và quyết định mức hình phạt theo đúng quy định của pháp luật. Các vụ án Tòa án cấp sơ thẩm trả hồ sơ điều tra bổ sung cho Viện kiểm sát yêu cầu Viện kiểm sát điều tra, thu thập thêm những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà Toà án không thể bổ sung được tại phiên toà và việc trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để yêu cầu điều tra bổ sung phải đảm bảo có cơ sở và đúng các quy định của pháp luật, cụ thể: Khi cần xem xét thêm những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà Viện kiểm sát và Tòa án không thể bổ sung được; Khi có căn cứ để cho rằng bị can, bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác; Khi phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Tuy nhiên, thực tiễn vẫn còn tình trạng trả hồ sơ không đúng quy định, theo số liệu thống kê tình hình án hình sự trả sồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tại tỉnh Đắk Lắk thì trong khoảng thời gian từ năm 2009 đến năm 2013 như sau: