Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Với mong muốn tìm hiểu sâu hơn nữa cũng như muốn đưa ra những quan điểm của bản thân về vấn đề này dựa trên cơ sở những kiến thức đã được tích lũy trong quá trình học tập và công tác trên thực tiễn, tác giả mạnh dạn lựa chọn đề tài "Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn theo Luật hôn nhân gia đình năm 2000" để làm đề tài viết luận văn của mình.
Đề tài: Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn
1. 1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGÔ THỊ HẬU
HẬU QUẢ PHÁP LÝ VỀ QUAN HỆ TÀI SẢN
GIỮA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN
THEO LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH NĂM 2000
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2014
2. 2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGÔ THỊ HẬU
HẬU QUẢ PHÁP LÝ VỀ QUAN HỆ TÀI SẢN
GIỮA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN
THEO LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH NĂM 2000
Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số : 60 38 30
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Cừ
HÀ NỘI - 2014
4. 4
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG HẬU QUẢ PHÁP LÝ VỀ QUAN HỆ
TÀI SẢN GIỮA VỢ VÀ CHỒNG KHI LY HÔN
8
1.1. Một số khái niệm chung 8
1.1.1. Khái niệm ly hôn 8
1.1.2. Khái niệm hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng
khi ly hôn
10
1.2. Đặc điểm của hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ
chồng khi ly hôn
10
1.3. Ý nghĩa của các quy định về hậu quả pháp lý về quan hệ tài
sản giữa vợ chồng khi ly hôn
11
1.4. Khái quát hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng
khi ly hôn trong pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử
13
1.4.1. Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn
trong cổ luật Việt Nam
13
1.4.2. Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn
thời kì Pháp thuộc (trước Cách mạng tháng Tám năm 1945)
15
1.4.3. Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn ở
miền Nam nước ta giai đoạn 1954 - 1975
16
1.4.4. Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn
theo Luật Hôn nhân và gia đình của Nhà nước ta từ năm 1945
đến nay
18
5. 5
1.4.5. Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn
theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
23
Chương 2: NỘI DUNG HẬU QUẢ PHÁP LÝ VỀ QUAN HỆ TÀI SẢN
GIỮA VỢ VÀ CHỒNG KHI LY HÔN
25
2.1. Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn 25
2.1.1. Nguyên tắc chung khi chia tài sản chung của vợ chồng 25
2.1.2. Căn cứ xác định tài sản chung vợ chồng 29
2.1.3. Chia tài sản chung vợ chồng trong một số trường hợp cụ thể 36
2.2. Cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn 49
2.2.1. Cơ sở pháp lý của việc quy định nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ
chồng khi ly hôn
50
2.2.2. Điều kiện phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn 51
2.2.3. Mức cấp dưỡng, phương thức cấp dưỡng, thời gian cấp dưỡng 54
2.3. Quyền thừa kế tài sản của nhau giữa vợ và chồng khi ly hôn 56
2.3.1. Quyền thừa kế tài sản của nhau giữa vợ và chồng khi ly hôn
trong trường hợp bản án, quyết định ly hôn chưa có hiệu lực
pháp luật
56
2.3.2. Quyền thừa kế tài sản của nhau giữa vợ và chồng khi ly hôn
trong trường hợp bản án, quyết định ly hôn đã có hiệu lực
pháp luật
61
Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
QUY ĐỊNH HẬU QUẢ PHÁP LÝ VỀ QUAN HỆ TÀI SẢN
GIỮA VỢ VÀ CHỒNG KHI LY HÔN THEO LUẬT HÔN
NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2000
64
3.1. Những kết quả đã đạt được trong quá trình thực thi những quy
định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 về hậu quả
pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn
64
3.2. Bất cập trong công tác thi hành các quy định của Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2000 về hậu quả pháp lý về quan hệ tài
sản giữa vợ chồng khi ly hôn
71
6. 6
3.2.1. Bất cập, hạn chế trong công tác triển khai thi hành Luật 71
3.2.2. Bất cập, hạn chế trong các quy định của Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2000 về vấn đề hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản
giữa vợ chồng khi ly hôn
73
3.3. Nguyên nhân của bất cập, hạn chế 83
3.3.1. Nguyên nhân khách quan 83
3.3.2. Nguyên nhân chủ quan 85
3.4. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện và áp dụng các
quy định về hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng
khi ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000
86
3.4.1. Giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật 86
3.4.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật 88
KẾT LUẬN 90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 92
7. 7
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS : Bộ luật dân sự
HN&GĐ : Hôn nhân và gia đình
TAND : Tòa án nhân dân
TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao
8. 8
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
3.1 Số vụ việc HN &GĐ đã thụ lý và giải quyết cấp sơ thẩm 67
3.2 Số vụ việc HN &GĐ đã thụ lý và giải quyết cấp phúc thẩm 68
3.3 Số vụ việc HN &GĐ đã thụ lý và giải quyết theo thủ tục
giám đốc thẩm và tái thẩm
68
3.4 Số vụ việc HN &GĐ bị hủy và sửa 69
3.5 Tỉ lệ án hôn nhân gia đình về tranh chấp tài sản chung so
với tổng số án hôn nhân gia đình một số năm gần đây
70
3.6 Số liệu về án hôn nhân gia đình có tranh chấp tài sản
chung theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm
70
9. 9
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hôn nhân và gia đình (HN&GĐ) là những hiện tượng xã hội luôn
được các nhà triết học, xã hội học, sử học và các nhà luật học quan tâm
nghiên cứu. Gia đình là tế bào của xã hội và hôn nhân là cơ sở của gia đình,
nơi lợi ích của công dân, nhà nước và xã hội kết hợp một cách chặt chẽ, mật
thiết và gắn bó. Theo C. Mác và Ph. Ăngghen, HN&GĐ là những phạm trù
phát triển theo lịch sử và phụ thuộc vào quan hệ sở hữu thống trị trong xã hội,
bị quyết định bởi những thay đổi của điều kiện vật chất trong xã hội [53, tr. 5].
Nếu như trong quan hệ HN&GĐ, kết hôn là cơ sở, là tiền đề để xác lập
quan hệ vợ chồng và quan hệ gia đình trước pháp luật thì ngược lại, ly hôn là lại
là sự kiện làm chấm dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật. Việc giải quyết ly
hôn là tất yếu đối với quan hệ hôn nhân đã thực sự tan vỡ. Theo V.I Lênin:
"Thực ra, tự do ly hôn không có nghĩa là làm tan rã những mối liên hệ gia đình
mà ngược lại, nó củng cố những mối liên hệ đó trên cơ sở dân chủ, những cơ
sở duy nhất có thể có và vững chắc trong một xã hội văn minh" [53, tr. 252].
Khi ly hôn, quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng chấm dứt đồng thời cũng đặt
ra các vấn đề về quan hệ tài sản giữa vợ chồng cần được giải quyết.
Thực tế cũng cho thấy, trong những năm gần đây, số vụ việc ly hôn
gia tăng đáng kể. Khi ly hôn, các tranh chấp về quan hệ tài sản là tranh chấp
diễn ra nhiều nhất và ngày càng có xu hướng gia tăng.
Với mong muốn tìm hiểu sâu hơn nữa cũng như muốn đưa ra những
quan điểm của bản thân về vấn đề này dựa trên cơ sở những kiến thức đã được
tích lũy trong quá trình học tập và công tác trên thực tiễn, tác giả mạnh dạn lựa
chọn đề tài "Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn theo
Luật hôn nhân gia đình năm 2000" để làm đề tài viết luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề hậu quả pháp lý về tài sản giữa vợ và chồng khi ly hôn đã được
nhiều tác giả nghiên cứu, dưới nhiều góc độ khác nhau. Có tác giả nghiên cứu
10. 10
về chế độ tài sản của vợ chồng, có tác giả nghiên cứu về vấn đề chia tài sản
trong thời kỳ hôn nhân, có tác giả lại nghiên cứu vấn đề chế định cấp dưỡng,
có tác giả nghiên cứu về vấn đề chia tài sản khi vợ chồng ly hôn …
Một số giáo trình, công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo điển hình
như: "Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000" do
TS. Đinh Thị Mai Phương chủ biên; "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000" của TS. Nguyễn Văn Cừ và ThS. Ngô
Thị Hường biên soạn; "Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật hôn nhân và
gia đình Việt Nam" của TS. Nguyễn Văn Cừ; "Chế định cấp dưỡng trong Luật
Hôn nhân và gia đình - Vấn đề lý luận và thực tiễn" của TS. Ngô Thị Hường...
Vấn đề hậu quả pháp lý về tài sản của vợ chồng khi ly hôn cũng đã
được nhiều tác giả nghiên cứu, có thể kể đến một số luận án, luận văn như:
"Quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia đình theo Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2000" của Lê Thị Thu Hà, "Nguyên tắc vợ chồng bình đẳng
trong chế định tài sản vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam"
của Đặng Thị Hồng Hoa, "Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân
và gia đình Việt Nam" của Hoàng Ngọc Huyên, "Một số vấn đề cần sửa đổi,
bổ sung Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000" của Nguyễn Quỳnh Anh,…
Một số bài viết trên các tạp chí chuyên ngành luật như: bài "Tặng cho
quyền sử dụng đất thực tiễn và tồn tại" đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân
(TAND) số 3, năm 2008; bài "Xác định quyền sử dụng đất là tài sản chung
hay tài sản riêng" đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 1, năm 2010; bài
"Bình đẳng giới trong gia đình" đăng trên Tạp chí Luật học, số 5, năm 2012...
Tuy nhiên, các tác giả chỉ tập trung vào nghiên cứu từng khía cạnh
riêng lẻ về quan hệ tài sản của vợ chồng, hoặc nghiên cứu cả chế độ tài sản
giữa vợ chồng nói chung, còn vấn đề nghiên cứu về hậu quả pháp lý về quan
hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn bao gồm cả vấn đề chia tài sản khi ly hôn,
vấn đề cấp dưỡng và vấn đề quyền thừa kế của vợ, chồng khi ly hôn thì chưa
có một đề tài nào nghiên cứu đầy đủ và hệ thống hoàn thiện.
11. 11
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Mục đích nghiên cứu đề tài là nhằm làm sáng tỏ một cách có hệ thống
về mặt lý luận những nội dung cơ bản các quy định về hậu quả pháp lý về quan
hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn theo quy định của pháp luật hiện hành mà
chủ yếu là Luật HN&GĐ năm 2000. Bên cạnh đó xác định những bất cập trong
thực tiễn và đề xuất những giải pháp tiếp tục hoàn thiện quy định pháp luật
trong thời gian tới và nâng cao hiệu quả việc thực hiện, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của vợ, chồng về quan hệ tài sản khi ly hôn ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, cần phải thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu một số vấn đề lý luận chung ly hôn và về hậu quả pháp lý
về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn.
- Làm sáng tỏ bản chất pháp lý của các quy định về hậu quả pháp lý
về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn theo quy định pháp luật Việt
Nam, tập trung nhất là theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2000.
- Tìm hiểu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật nước ta hiện
nay khi xử lý các vấn đề liên quan đến hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản
giữa vợ chồng khi ly hôn.
- Phân tích được những hạn chế và những vướng mắc của việc áp
dụng pháp luật liên quan đến hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ
chồng khi ly hôn.
- Đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm góp phần hoàn thiện các quy
định của pháp luật về vấn đề hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ
chồng khi ly hôn; tạo sự nhận thức và áp dụng pháp luật được đồng bộ, thống
nhất trong cả nước.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu về vấn đề hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản
giữa vợ chồng khi ly hôn theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2000. Cụ thể
12. 12
là nghiên cứu các vấn đề: Khái niệm ly hôn, khái niệm hậu quả pháp lý về
quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn; đặc điểm, ý nghĩa của quy định về
hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn, vấn đề chia tài
sản chung của vợ chồng, vấn đề cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn và
vấn đề quyền thừa kế của vợ, chồng khi một trong hai chết trong khi tiến hành
thủ tục ly hôn mà bản án hoặc quyết định công nhận ly hôn của đương sự
chưa có hiệu lực pháp luật;...
Luận văn nghiên cứu chủ yếu các quy định về hậu quả pháp lý về
quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2000 và các
văn bản khác liên quan trong hệ thống pháp luật của Nhà nước ta.
Ngoài ra, cùng với sự ra đời của Luật HN&GĐ năm 2014, luận văn
cũng có những đánh giá cơ bản đối sánh giữa Luật HN&GĐ năm 2000 và
Luật HN&GĐ năm 2014, trên cơ sở đó đề ra những phương hướng, giải pháp
nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật phù hợp với thực tế pháp luật hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu vấn đề hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa
vợ chồng khi ly hôn theo quy định của Luật HN&GĐ và các văn bản pháp
luật khác có liên quan. Luận văn nghiên cứu quy định pháp luật từ khi Luật
HN&GĐ năm 2000 được ban hành cho đến nay, việc áp dụng các quy định
của pháp luật về hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn,
những vấn đề liên quan chưa được đề cập trong Luật HN&GĐ năm 2000.
Đồng thời, luận văn nêu một số vấn đề còn bất cập, hạn chế trong thực tiễn áp
dụng các quy định của Luật HN&GĐ năm 2000 về hậu quả pháp lý về quan
hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn.
Bên cạnh đó, luận văn cũng có sự hệ thống sơ lược những quy định về
hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn theo pháp luật
của Nhà nước ta từ năm 1945 đến khi Luật HN&GĐ năm 2000 được ban hành.
Tuy nhiên, trong phạm vi giới hạn của đề tài, luận văn chỉ giới hạn ở
việc phân tích, đánh giá quan hệ tài sản đối với hôn nhân trong nước mà không
đề cập đến các quan hệ tài sản của vợ chồng khi ly hôn có yếu tố nước ngoài.
13. 13
5. Cơ sở khoa học và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở khoa học
Cơ sở lý luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nước
về HN&GĐ. Đồng thời luận văn còn kế thừa các công trình nghiên cứu của tập
thể và các cá nhân liên quan đến đề tài trên cơ sở kế thừa có chọn lọc và học hỏi.
Cơ sở pháp lý: Luận văn được nghiên cứu dựa trên các văn bản luật
hiện hành có liên quan đến quy định về hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản
giữa vợ chồng khi ly hôn: Luật HN&GĐ năm 2000 và các văn bản pháp luật
khác có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành luận văn này tác giả đã sử dụng nhiều phương pháp
nghiên cứu khác nhau, trong đó đặc biệt coi trọng các phương pháp sau:
+ Phương pháp lịch sử được sử dụng khi nghiên cứu, tìm hiểu hậu quả
pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng qua pháp luật các thời kỳ ở Việt Nam;
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng khi phân tích các
vấn đề liên quan đến hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly
hôn và khái quát những nội dung cơ bản của từng vấn đề được nghiên cứu
trong luận văn;
+ Phương pháp so sánh được thực hiện nhằm tìm hiểu quy định của
pháp luật hiện hành với hệ thống pháp luật trước đây ở Việt Nam. Qua đó,
giúp thấy được sự kế thừa cũng như phát triển của pháp luật HN&GĐ về vấn
đề quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn qua các thời kỳ;
+ Phương pháp thống kê được thực hiện trong quá trình khảo sát thực
tiễn hoạt động xét xử của ngành Tòa án, qua số liệu thống kê của một số cơ
quan khác trong quá trình triển khai các quy định của Luật HN&GĐ nói
chung và các quy định về hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng
khi ly hôn nói riêng. Trên cơ sở các số liệu đó, giúp tìm ra mối liên hệ giữa
các quy định của pháp luật với thực tiễn áp dụng đã thực sự đi vào đời sống
và phát huy tác dụng hay chưa? Nguyên nhân và giải pháp? Từ đó xem xét
14. 14
nội dung quy định của pháp luật về hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa
vợ chồng khi ly hôn với thực tiễn của đời sống xã hội nhằm nâng cao hiệu quả
điều chỉnh của pháp luật về vấn đề này.
6. Những điểm mới của luận văn
Luận văn là công trình khoa học nghiên cứu và phân tích một cách
toàn diện, đầy đủ và có hệ thống về hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa
vợ chồng khi ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2000 có đối sánh với quy định
của các luật về vấn đề HN&GĐ trong lịch sự lập pháp của nước ta.
Ngoài những điểm mới nêu trên, với đề tài này, luận văn còn trình bày
một số điểm mới sau đây:
- Xây dựng và phân tích khái niệm ly hôn, khái niệm hậu quả pháp lý
về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn, đặc điểm, ý nghĩa của quy định
hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn.
- So sánh hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn
theo luật HN&GĐ qua các giai đoạn để thấy rõ sự kế thừa và phát triển của
luật qua các giai đoạn lịch sử.
- Luận văn làm rõ việc xác định vấn đề "hậu quả pháp lý về quan hệ
tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn" trong các trường hợp cụ thể:
+ Vấn đề vợ chồng chia tài sản khi ly hôn;
+ Vấn đề cấp dưỡng giữa vợ, chồng khi ly hôn;
+ Vấn đề quyền thừa kế giữa vợ và chồng khi ly hôn.
- Qua việc phân tích thực tiễn áp dụng luật về hậu quả pháp lý về
quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn, luận văn chỉ rõ những vấn đề bất
cập, chưa hợp lý, chưa bảo đảm được tính khoa học của quy định của luật
thực định khi điều chỉnh các vấn đề liên quan đến hậu quả pháp lý về quan hệ
tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn. Từ đó, nêu các kiến nghị hoàn thiện các quy
định của pháp luật về hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly
hôn theo pháp luật hiện hành.
- Với những kết quả nghiên cứu như trên, luận văn đã là căn cứ khoa
học, đáp ứng được những yêu cầu về mặt lý luận và thực tiễn để giúp cơ quan
15. 15
lập pháp sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật quy định về hậu quả pháp lý
về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Hoàn thành luận văn này, tác giả hy vọng rằng, những kiến thức khoa
học trong luận văn được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên
cứu, giảng dạy luật học tại các cơ sở đào tạo luật ở nước ta; đặc biệt, đối với
chuyên ngành luật HN&GĐ và pháp luật dân sự.
Nội dung của luận văn có ý nghĩa thiết thực cho mọi cá nhân, đặc biệt
là cho các cặp vợ chồng tìm hiểu các quy định về hậu quả pháp lý về quan hệ
tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn; biết được cơ sở pháp lý liên quan đến vấn đề
hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn; quyền và nghĩa vụ
cụ thể của vợ, chồng liên quan đến quan hệ tài sản giữa vợ, chồng khi ly hôn.
Từ đó, góp phần thực hiện pháp luật, xây dựng gia đình dân chủ, hòa thuận,
hạnh phúc, bền vững, hạn chế những tranh chấp không đáng có trong thực tế.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa
vợ chồng khi ly hôn.
Chương 2: Nội dung hậu quả pháp lý về hậu quả pháp lý về quan hệ
tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng và kiến nghị hoàn thiện quy định hậu
quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn theo Luật Hôn nhân
và gia đình Việt Nam.
16. 16
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG HẬU QUẢ PHÁP LÝ
VỀ QUAN HỆ TÀI SẢN GIỮA VỢ VÀ CHỒNG KHI LY HÔN
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CHUNG
1.1.1. Khái niệm ly hôn
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, ly hôn là một hiện tượng
xã hội, mang tính giai cấp sâu sắc, và bị quyết định bởi chế độ xã hội. Ly hôn
là một mặt của quan hệ hôn nhân. Nếu như kết hôn làm xác lập quan hệ vợ
chồng thì ly hôn làm chấm dứt quan hệ vợ chồng đó. Ly hôn là mặt trái của
hôn nhân nhưng lại là mặt không thể thiếu của quan hệ hôn nhân khi quan hệ
này đã thực sự tan vỡ. Khi quan hệ hôn nhân đã thực sự tan vỡ, ly hôn là cần
thiết, có lợi cho vợ, chồng, cho thành viên gia đình và toàn thể xã hội. Theo
V.I. Lênin: "Thực ra, tự do ly hôn không có nghĩa là làm tan rã những mối
liên hệ gia đình mà ngược lại, nó củng cố những mối liên hệ đó trên cơ sở
dân chủ, những cơ sở duy nhất có thể có và vững chắc trong một xã hội văn
minh" [53, tr. 252]. Thực chất, ly hôn giúp giải phóng gia đình khỏi những
xung đột, mâu thuẫn và bế tắc trong cuộc sống chung, giúp những thành viên
trong gia đình không còn phải tiếp tục duy trì một cuộc sống chung khi tình
cảm yêu thương gắn bó giữa họ đã hết và mục đích hôn nhân đã không thể đạt
được. Do đó, theo quan điểm trên, tự do ly hôn cũng góp phần thúc đẩy sự
bền chắc của gia đình và xã hội.
Tuy vậy, tự do ly hôn không có nghĩa là ly hôn một cách tùy tiện.
Trong C. Mác - Ph. Ăngghen toàn tập, C. Mác phê phán mạnh mẽ quan điểm vợ
chồng chỉ nghĩ đến hạnh phúc cá nhân và xin ly hôn một cách tùy tiện, không
chú ý đến lợi ích chung của gia đình, của Nhà nước và xã hội [53, tr. 253].
Trái với quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, pháp luật nhà nước
phong kiến, tư sản thường quy định việc cấm vợ chồng ly hôn hoặc vợ chồng
17. 17
muốn ly hôn phải có rất nhiều điều kiện nhằm hạn chế quyền ly hôn của vợ,
chồng hoặc đặt ra quy định giải quyết ly hôn dựa trên yếu tố lỗi của vợ,
chồng. Ở nước ta, hệ thống pháp luật HN&GĐ dưới thời phong kiến cũng thể
hiện cụ thể luận điểm trên. Dưới chế độ cũ, quyền yêu cầu ly hôn và các
duyên cớ ly hôn theo luật định thường dựa trên quan hệ "bất bình đẳng" giữa
vợ và chồng. Hệ thống pháp luật nước ta về HN&GĐ từ năm 1945 đến nay
quy định vấn đề ly hôn với quan điểm tôn trọng, bảo vệ quyền tự do ly hôn
theo quan điểm chủ nghĩa Mác- Lê nin nhưng trên cơ sở lợi ích của gia đình
và xã hội.
Theo Luật HN&GĐ năm 2000, "Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ hôn
nhân do Tòa án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc chồng
hoặc của cả hai vợ chồng" [32, Khoản 8 Điều 8]. Như vậy, ly hôn là kết quả
của hành vi có ý chí của hai vợ chồng và được công nhận bằng bản án, quyết
định của Tòa án. Đảm bảo quyền tự do ly hôn cho các bên vợ chồng chính là nội
dung quan trọng của nguyên tắc hôn nhân tiến bộ được ghi nhận trong Hiến pháp
1992 và được cụ thể hóa tại Điều 2 Luật HN&GĐ năm 2000. Pháp luật của Nhà
nước ta công nhận quyền tự do ly hôn chính đáng của vợ chồng, không cấm
hoặc đặt ra những điều kiện nhằm hạn chế quyền tự do ly hôn. Ly hôn là quyền
chính đáng của vợ, chồng. Nhà nước bằng pháp luật, không thể cưỡng ép nam
nữ phải yêu nhau và kết hôn với nhau thì cũng không thể bắt buộc họ phải chung
sống với nhau, phải duy trì quan hệ hôn nhân khi tình cảm yêu thương đã hết
và mục đích hôn nhân không đạt được. Nhưng tự do ly hôn không có nghĩa là
ly hôn một cách tùy tiện, chỉ theo ý chí, nguyện vọng của vợ, chồng mà phải dựa
trên những căn cứ luật định và trên cơ sở sự công nhận của Tòa. Theo quy định
tại khoản 1 Điều 89 Luật HN&GĐ năm 2000, căn cứ để vợ chồng được xem xét
ly hôn là khi quan hệ vợ chồng đã ở vào "tình trạng trầm trọng, đời sống chung
không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được" [32, Khoản 1 Điều 89].
Ngoài ra, trong trường hợp đặc biệt, "vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên
18. 18
bố mất tích xin ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn" [32, khoản 2 Điều 89].
Tuy nhiên, ly hôn trong trường hợp này chỉ là quyết định của một bên vợ,
chồng trong hoàn cảnh đặc biệt mà không phát sinh từ mâu thuẫn của vợ
chồng trong đời sống thực tế. Như vậy, căn cứ ly hôn theo quy định của Luật
HN&GĐ năm 2000 vừa đảm bảo quyền tự do ly hôn của công dân vừa thể
hiện tư tưởng phản đối việc ly hôn tùy tiện của các nhà làm luật.
Nói tóm lại, có thể hiểu, ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng
theo một bản án hoặc quyết định có hiệu lực của Tòa án. Trên cơ sở bản án
hoặc quyết định có hiệu lực của Tòa án đó, làm phát sinh các quyền và nghĩa
vụ giữa những người đã từng là vợ và chồng. Và một trong quan hệ phát sinh
đó là quan hệ về tài sản giữa vợ và chồng khi ly hôn. Đây là một trong những
quan hệ chủ chốt, có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tế khi vợ chồng
ly hôn.
1.1.2. Khái niệm hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng
khi ly hôn
Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn: Là tổng
hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi
ly hôn bao gồm: vấn đề chia tài sản chung giữa vợ chồng khi ly hôn, vấn đề
cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn và vấn đề quyền thừa kế tài sản của nhau
giữa vợ chồng khi ly hôn.
1.2. ĐẶC ĐIỂM CỦA HẬU QUẢ PHÁP LÝ VỀ QUAN HỆ TÀI SẢN GIỮA
VỢ CHỒNG KHI LY HÔN
Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn thực chất
là đề cập đến quan hệ sở hữu của vợ chồng đối với tài sản khi ly hôn. Xuất
phát từ tính chất và mục đích đặc biệt của quan hệ hôn nhân khi vợ chồng vừa
là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự nói chung, vừa là chủ thể của quan hệ
pháp luật HN&GĐ nói riêng khi thực hiện quyền sở hữu của mình và tham
gia vào các quan hệ xã hội, vấn đề "hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa
vợ chồng khi ly hôn" có thể xem xét dưới những đặc điểm riêng biệt sau:
19. 19
Thứ nhất, xét về chủ thể: các bên chủ thể trong quan hệ phải có quan
hệ hôn nhân được pháp luật công nhận là vợ chồng của nhau bao gồm hôn
nhân hợp pháp (có Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn) và hôn nhân tuy không
có đăng ký nhưng vẫn được pháp luật công nhận (hay còn gọi là "hôn nhân
thực tế").
Thứ hai, căn cứ xác lập hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ
chồng khi ly hôn là sự kiện ly hôn. Chế độ tài sản giữa vợ và chồng là một đề
tài rất lớn với nhiều khía cạnh khác nhau, trong phạm vi đề tài này, tác giả chỉ
đề cập đến vấn đề hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản vợ chồng khi ly hôn,
vậy nên, căn cứ xác lập các quan hệ tài sản này là sự kiện ly hôn.
Thứ ba, về khách thể quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn: Mục
đích của việc quy định hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi
ly hôn nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ, chồng hoặc bên thứ ba
liên quan khi vợ chồng ly hôn.
Thứ tư, nội dung hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi
ly hôn sẽ bao gồm quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng về quan hệ tài sản khi ly
hôn. Quan hệ này đặc biệt ở chỗ, khi ly hôn, các chủ thể không còn là vợ
chồng, nhưng pháp luật quy định họ vẫn có những quyền và nghĩa vụ với
nhau xuất phát từ việc họ đã từng là vợ chồng của nhau (như nghĩa vụ cấp
dưỡng). Đây là nét rất riêng của quan hệ tài sản giữa vợ chồng, thể hiện đúng
tinh thần của nhà làm luật khi đề cao vấn đề tình cảm trong quan hệ HN&GĐ.
1.3. Ý NGHĨA CỦA CÁC QUY ĐỊNH VỀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ VỀ QUAN
HỆ TÀI SẢN GIỮA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN
Khi vợ chồng ly hôn, bên cạnh đời sống tình cảm, vấn đề vật chất, tài
sản luôn được quan tâm. Các quy định về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly
hôn góp phần đảm bảo quyền và lợi ích của vợ, chồng. Bên cạnh đó, các quy
định về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn cùng góp phần nâng cao tinh
thần trách nhiệm vì nhau giữa những người đã từng là vợ và chồng. Việc quy
định về hậu quả tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn cũng thể hiện trình độ phát
20. 20
triển của xã hội, thể hiện bản chất giai cấp, bản chất chế độ khi xác định được
tài sản mà người vợ, người chồng được quyền sở hữu sau khi ly hôn, giúp
đảm bảo đời sống riêng của từng người. Ngoài ra, các quy định này cùng là
cơ sở pháp lý để giải quyết các tranh chấp về tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn.
Sở dĩ, các nhà làm luật phải dự liệu về quan hệ tài sản giữa vợ chồng
khi ly hôn là vì những lý do sau:
Thứ nhất, tài sản có vai trò quan trọng trong cuộc sống của mỗi con
người. Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng cùng chung sống, cùng tạo lập tài
sản chung của vợ chồng; nay ly hôn, cần thiết tái xác định lại cụ thể đâu là tài
sản của vợ, đâu là tài sản của chồng. Bởi lẽ, khi vợ chồng ly hôn thì giữa họ
không còn ràng buộc gì về nghĩa vụ chung nữa, việc dự liệu vấn đề quan hệ
tài sản giữa vợ chồng giúp vợ chồng có thể đảm bảo được cuộc sống của
riêng mình, đảm bảo được quyền lợi của cá nhân sau khi ly hôn. Mặt khác,
khi đang còn trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng yêu thương nhau, họ có thể
sống tốt với sự chu cấp, giúp đỡ, chăm lo từ người bạn đời ngay cả khi bản
thân không có tài sản. Tuy nhiên, khi ly hôn, tình cảm vợ chồng không còn
nữa, vợ hoặc chồng phải tự lo cho mình. Lúc này, tài sản là vấn đề được cả vợ
và chồng quan tâm hàng đầu. Pháp luật HN&GĐ dự liệu điều này là hoàn
toàn phù hợp và đáp ứng được yêu cầu của thực tế!
Thứ hai, việc dự liệu các quy định về hậu quả pháp lý về quan hệ tài
sản giữa vợ chồng khi ly hôn là cơ sở để vợ chồng thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của mình, giúp định hướng cách xử sự của vợ chồng về tài sản khi
tiến hành ly hôn. Như trên đã nói, khi tình nghĩa vợ chồng không còn nữa thì
ngoài vấn đề con cái, vấn đề tài sản là vấn đề được các bên vợ chồng quan
tâm hàng đầu và thường xảy ra tranh chấp nhiều nhất. Vì vậy, việc pháp luật
HN&GĐ quy định cách xử sự của vợ chồng liên quan đến tài sản khi ly hôn
sẽ góp phần giảm thiểu tranh chấp xảy ra giữa vợ chồng.
Thứ ba, việc dự liệu các quy định về hậu quả pháp lý về quan hệ tài
sản giữa vợ chồng khi ly hôn giúp đảm bảo quyền lợi của người thứ ba khi
21. 21
giao dịch với vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Trong thời kỳ hôn nhân, nghĩa
vụ của một trong hai vợ chồng đối với người thứ ba nhằm mục đích phục vụ
nhu cầu và lợi ích của gia đình thì được coi là nghĩa vụ chung của cả hai vợ
chồng. Tuy nhiên, khi ly hôn, nghĩa vụ đó thuộc về ai? Ai là người có trách
nhiệm tiếp nhận những nghĩa vụ với người thứ ba mà đã hình thành trong thời
kỳ hôn nhân? Đây là một vấn đề mà pháp luật HN&GĐ cũng cần quy định
nhằm đảm bảo quyền lợi của các bên liên quan.
Thứ tư, việc dự liệu các quy định về hậu quả pháp lý về quan hệ tài
sản giữa vợ chồng khi ly hôn tạo ra hành lang pháp lý làm cơ sở cho các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về quan hệ tài sản
giữa vợ chồng, hoặc giữa vợ chồng với bên thứ ba có liên quan. Tòa án sẽ có
những căn cứ cụ thể để đưa ra phán quyết khi Tòa được yêu cầu giải quyết
các vấn đề về hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản của vợ chồng khi ly hôn.
1.4. KHÁI QUÁT HẬU QUẢ PHÁP LÝ VỀ QUAN HỆ TÀI SẢN GIỮA VỢ
CHỒNG KHI LY HÔN TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KỲ
LỊCH SỬ
1.4.1. Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn
trong cổ luật Việt Nam
Tính đến giữa thế kỉ XIX, Việt Nam vẫn là một nước phong kiến với
nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu. Trải qua hơn một nghìn năm Bắc thuộc, hệ
tư tưởng của giai cấp thống trị Việt Nam ít nhiều chịu ảnh hưởng của văn hóa
phương Bắc. Theo Vũ Văn Mẫu, cổ luật Việt Nam được giới hạn từ thời kỳ
pháp thuộc trở về trước [20, tr. 65]. Pháp luật về HN&GĐ chiếm số lượng
quy định lớn trong các văn bản pháp luật thời bấy giờ. Quốc triều hình luật
được ban hành dưới triều Lê trong khoảng niên hiệu Hồng Đức (1470-1497)
(hay còn gọi là Bộ luật Hồng Đức) và Hoàng Việt Luật Lệ ban hành dưới triều
Nguyễn (1815) (hay còn gọi là Bộ luật Gia Long) đều thể hiện rõ điều này.
Dười triều Lê, Bộ luật Hồng Đức được coi là thành tựu to lớn trong sự
nghiệp lập pháp Việt Nam, các quan hệ về HN&GĐ được thiết lập trên nguyên
22. 22
tắc: Bảo đảm tôn ti, trật tự, đẳng cấp trong mối quan hệ giữa các thành viên
trong gia đình, trọng nam khinh nữ, xác lập quyền tối cao của người gia trưởng.
Đến triều Nguyễn, do ảnh hưởng của hệ tư tưởng Nho giáo, Bộ luật Gia Long ra
đời được coi là sự sao chép nguyên bản của bộ luật nhà Thanh, các quan hệ
HN&GĐ xây dựng theo mô hình gia đình phụ quyền Trung Quốc. Theo đó,
vai trò của người đàn ông trong gia đình được tôn vinh, hạ thấp vai trò và vị trí
của người phụ nữ. Pháp luật thời kỳ này cũng có những quy phạm nhất định
điều chỉnh các quan hệ giữa vợ chồng khi ly hôn. Bên cạnh những quy định
về quan hệ nhân thân và con cái thì cổ luật Việt Nam cũng có những quy
phạm quy định về hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly
hôn. Nhìn chung, pháp luật thời kỳ này quy định "khi ly hôn, tài sản riêng của
ai vẫn thuộc sở hữu của người đó và họ có quyền mang theo" [39, Điều 401].
Tuy nhiên, cũng loại trừ một số trường hợp dựa trên yếu tố lỗi của người vợ
dẫn đến việc ly hôn như: do lỗi của người vợ hoặc khi người vợ có hành vi
đánh chồng dẫn đến việc người chồng phải thưa kiện xin ly hôn thì khi ly hôn,
người vợ sẽ mất quyền tài sản.
Nhìn chung, cổ luật Việt Nam vẫn được xây dựng trên tinh thần hôn
nhân không tự do, đa thê và xác lập chế độ gia đình gia trưởng. Nó thể hiện lễ
nghĩa Nho giáo, trật tự xã hội - gia đình phong kiến, tuy nhiên vẫn có một số
điểm tiến bộ. Một trong những điểm tiến bộ của pháp luật thời kỳ này chính là
khi quy định về quan hệ tài sản của vợ chồng khi ly hôn. Một phần nào đó
trong các quy định trên vẫn hướng tới yếu tố bình đẳng hơn giữa vợ và chồng,
vẫn dành cho người vợ những quyền lợi nhất định về tài sản khi không may
"đường ai nấy đi". Tuy nhiên, do hoàn cảnh lịch sử, bộ luật không thể tránh
khỏi những quy định đề cao vai trò người đàn ông trong gia đình, nhiều quy
định có lợi cho người gia trưởng, dẫn đến người phụ nữ trong các quan hệ gia
đình nói chung và trong quan hệ về tài sản khi ly hôn nói riêng vẫn có sự thiệt
thòi nhất định.
23. 23
1.4.2. Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn
thời kì Pháp thuộc (trước Cách mạng tháng Tám năm 1945)
Thời kì Pháp thuộc, chính quyền thực dân đã lần lượt ban hành các văn
bản pháp luật mới: Dân luật Bắc Kỳ năm 1931, Dân luật Trung Kỳ năm 1936,
Dân lược giản yếu Nam Kỳ năm 1883. Các quan hệ HN&GĐ thời kì này cũng
có sự thay đổi đáng kể. Nhìn chung, những quy định về HN&GĐ trong các bộ
luật này vẫn duy trì sự bất bình đẳng nam - nữ với việc thừa nhận quyền gia
trưởng của người đàn ông, tước đi nhiều quyền lợi cơ bản của người phụ nữ.
Vì vậy, các quy định về quan hệ tài sản vợ chồng khi ly hôn cũng tuân thủ
triệt để nguyên tắc củng cố địa vị của người gia trưởng, khá chú trọng tới việc
giải quyết hậu quả về quan hệ tài sản khi vợ chồng ly hôn, trong đó người vợ
được bảo đảm một phần về tài sản ngay cả khi ly hôn do lỗi của vợ, …
Cụ thể, khi ly hôn, vấn đề thanh toán tài sản giữa vợ chồng được đặt
ra nhưng lại thiên về lỗi của người vợ để xem xét và quyết định phần dành
cho người vợ [2, Điều 112], [3, Điều 110]. Trường hợp người vợ thứ ly
hôn thì "không bao giờ được dự phần chung, chỉ được lấy lại tài sản riêng
của mình" [2, Điều 148]. Ngoài ra, theo quy định tại Điều 149 Dân luật
Bắc Kỳ năm 1931, Điều 147 Dân luật Trung Kỳ năm 1936, nếu ly hôn do
lỗi của người vợ thì người vợ phải bồi thường lại những đồ vật, sính lễ
trước kia nhà chồng đã làm lễ đính ước, trừ khi đồ vật đó đã tiêu dùng cho
lễ cưới [2, Điều 149], [3, Điều 147].
Như vậy, các quy định của pháp luật thời kì này chủ yếu dựa vào các
phong tục tập quán lạc hậu và Bộ luật Dân sự (BLDS) Pháp năm 1804 với
những quy định thuần túy coi hôn nhân là chế định do dân luật điều chỉnh và
là công cụ pháp lý bảo vệ quyền lợi cho giai cấp thống trị. Chế định HN&GĐ
trong các bộ luật này có sự tiến bộ quan trọng, bước đầu chú ý tới việc bảo
đảm quyền lợi của người vợ và các con khi ly hôn như: việc chia tài sản vợ
chồng, nghĩa vụ cấp dưỡng của người chồng đối với người vợ, nuôi dưỡng
con,... Nhưng vẫn duy trì sự bất bình đẳng giữa vợ, chồng, củng cố quyền của
24. 24
người gia trưởng làm ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống của gia đình và xã
hội. Dù chưa thật rõ ràng và công bằng, song các quy định về hậu quả của ly
hôn thời kì này ít nhiều có những điểm tiến bộ mà khi xây dựng chế định ly
hôn, các đạo luật HN&GĐ ở nước ta sau này đều ghi nhận và phát triển thêm
như: vấn đề cấp dưỡng nuôi con, sau khi ly hôn vợ chồng muốn quay trở về
chung sống với nhau thì phải đăng kí kết hôn, vấn đề cấp dưỡng giữa vợ
chồng khi ly hôn.
1.4.3. Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn
ở miền Nam nước ta giai đoạn 1954 - 1975
Sau năm 1954, đế quốc Mỹ thay chân Pháp vào xâm lược nước ta, tiến
hành chính sách thực dân kiểu mới. Chế độ HN&GĐ được áp dụng ở miền
Nam trong giai đoạn này thể hiện qua 3 văn bản: Bộ luật gia đình (Luật số
1/59), Sắc luật số 15/64, BLDS Sài Gòn năm 1972. Mặc dù, ra đời vào các
thời điểm khác nhau, hình thức quy định cũng có nét riêng, song nhìn chung
các văn bản này đều quy định về vấn đề ly thân và ly hôn. Trong đó, việc giải
quyết hậu quả về quan hệ tài sản vợ chồng khi ly hôn chủ yếu dựa trên yếu tố
lỗi của các bên vợ chồng như người có lỗi phải cấp dưỡng cho người kia hay
người không có lỗi đương nhiên được nuôi con dưới 16 tuổi,…
Dưới thời Ngô Đình Diệm, Luật số 1/59 có những quy định về quyền
bình đẳng của người phụ nữ, người vợ trong gia đình, bãi bỏ chế độ đa thê
nhưng đạo luật này chỉ quy định về ly thân còn vấn đề ly hôn: "Cấm chỉ vợ
chồng ruồng bỏ nhau và sự ly hôn" [4, Điều 55], trừ trường hợp đặc biệt do
tổng thống quyết định. Do đó, không đặt ra vấn đề hậu quả của ly hôn nói
chung và vấn đề giải quyết quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn nói riêng.
Sau khi chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm bị lật đổ, Luật số 1/59
được thay thế bằng Sắc luật số 15/64. Sắc luật số 15/64 có quy định về vấn đề
ly hôn giữa vợ và chồng cũng như đường lối giải quyết ly hôn và hậu quả của
nó. Theo quy định của Sắc luật số 15/64, quan hệ vợ chồng chấm dứt bằng ly
hôn, vấn đề cấp dưỡng giữa vợ và chồng sau khi ly hôn được đặt ra nhưng
25. 25
người có lỗi phải cấp dưỡng cho người hôn phối không có lỗi. Ngoài ra, việc
giải quyết tài sản của vợ chồng sau khi ly hôn còn căn cứ vào lỗi của các bên,
nếu người hôn phối có lỗi thì họ "mất hết quyền tài sản do hôn ước" ngược
lại, "người hôn phối vô tội sẽ được giữ những quyền lợi này đã được ưng
thuận với điều kiện hỗ tương". Nhìn chung, Sắc luật số 15/64 đã xóa bỏ
những quy định không hợp lý của Luật số 1/59 nhưng cũng chưa quy định
một cách rõ ràng việc bảo vệ quyền và nghĩa vụ của các bên hôn phối và của
con cái.
Ngay sau khi lên cầm quyền, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã soạn
thảo, sửa đổi và ban hành các văn bản pháp luật sao cho phù hợp với nhu cầu
phát triển của xã hội nhằm phục vụ cho sự cầm quyền của mình. BLDS năm
1972 ra đời đã thay thế Sắc luật số 15/64. BLDS năm 1972 coi ly hôn là một
chế định do dân luật điều chỉnh nhưng về cơ bản vẫn dựa trên các quy định
của Sắc luật 15/64. Theo đó, ly hôn là chấm dứt mối liên hệ nhân thân giữa vợ
chồng, chế độ hôn sản bị giải tán và được thanh toán, mỗi người hôn phối sẽ
lấy quyền quản trị và hưởng dụng đối với tài sản riêng của mình, tài sản
chung sẽ chia đôi, kỷ phần của người hôn phối có lỗi sẽ bị khấu trừ số tiền
cấp dưỡng… [4, Điều 201]; hay việc mất quyền lợi về tài sản của vợ chồng
khi ly hôn [4, Điều 200]. Vấn đề cấp dưỡng giữa vợ chồng cũng được đặt ra
nhưng có sự phân biệt giữa tiền cấp dưỡng mà người có lỗi phải trả cho người
vô tội với tiền cấp dưỡng được ấn định trong thời gian làm thủ tục ly hôn:
"tiền này là phần tiền cho người vợ hay người chồng biệt cư, không phân biệt
người này có lỗi hay không có lỗi" [4, Điều 178], còn "Tòa án có thể buộc
người hôn phối có lỗi trong việc ly hôn phải cấp dưỡng cho người kia tuy theo
tư lực của mình…" [4, Điều 197].
Tựu chung lại, pháp luật HN&GĐ áp dụng ở miền Nam thời kỳ này,
ra đời trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, các phong tục tập quán lạc
hậu vẫn còn tồn tại, các phong tục này lại là công cụ để bảo vệ chính quyền
phản động tay sai. Vì vậy, các văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ HN&GĐ
26. 26
do chính quyền ngụy Sài Gòn ban hành thời kỳ này đều bảo vệ quyền lợi của
người gia trưởng, thực hiện nguyên tắc bất bình đẳng giữa vợ chồng, có sự
phân biệt giữa các con nhằm bảo vệ nhà nước phản động mị dân, đi ngược lại
với lợi ích của nhân dân ta.
1.4.4. Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn
theo Luật Hôn nhân và gia đình của Nhà nước ta từ năm 1945 đến nay
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra
đời, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc: kỷ nguyên độc lập, tự chủ. Nhà nước
mới ra đời đòi hỏi phải có hệ thống pháp luật mới phù hợp với bản chất của nhà
nước và là công cụ để nhà nước thực hiện tốt chức năng kinh tế - xã hội của
mình. Vì vậy, ngay từ khi ra đời, Nhà nước ta đã chú trọng xây dựng một hệ
thống pháp luật hoàn chỉnh, trong đó có Luật HN&GĐ. Sự phát triển của Luật
HN&GĐ sau cách mạng tháng Tám đến nay trải qua các thời kỳ chính sau:
- Thời kì từ 1945 đến 1954
Năm 1946, bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
ra đời, đánh dấu một bước ngoặt lớn trong lịch sử lập hiến ở nước ta. Hiến pháp
năm 1946 đã ghi nhận quyền bình đẳng giữa nam, nữ về mọi mặt [25, Điều 9]
tạo cơ sở pháp lý để nhà nước ta ban hành các sắc lệnh đầu tiên điều chỉnh
các quan hệ HN&GĐ, từng bước xóa bỏ các hủ tục lạc hậu của chế độ cũ. Sự
ra đời của Sắc lệnh số 97/SL và Sắc lệnh số 159/SL đánh dấu bước khởi điểm
của Luật HN&GĐ trong chế độ xã hội mới. Sắc lệnh số 97/SL được ban hành
ngày 22/05/1950 gồm 15 điều, rất ngắn gọn, quy định khái quát về vấn đề
HN&GĐ. Sắc lệnh số 97/SL quy định thực hiện nam nữ bình đẳng trong giai
đoạn xã hội mới: "Chồng và vợ có địa vị bình đẳng trong gia đình" [7, Điều 5],
"Người đàn bà có chồng có toàn năng lực về mặt hộ" [7, Điều 6] và ghi nhận:
"Người đàn bà ly dị chồng có thể lấy chồng khác ngay sau khi có án tuyên ly
dị nếu dẫn chứng rằng mình không có thai hoặc đương có thai" [7, Điều 4].
Có thể nói, việc thừa nhận quyền bình đẳng của người phụ nữ trong gia đình
và xã hội là điểm tiến bộ của Luật HN&GĐ Việt Nam.
27. 27
Tuy nhiên, Sắc lệnh số 97/SL mới chỉ dừng lại ở việc ghi nhận sự bình
đẳng trong quan hệ vợ chồng mà chưa đề cập tới vấn đề ly hôn và hậu quả pháp
lý về tài sản của vợ chồng khi ly hôn. Những hạn chế này đã từng bước được
khắc phục ở Sắc lệnh số 159/SL. Sắc lệnh số 159/SL ban hành ngày 17/11/1950
với những quy định cụ thể thừa nhận nguyên tắc tự do hôn nhân. Trong đó, có
tự do giá thú và tự do ly hôn, xóa bỏ sự bất bình đẳng về duyên cớ ly hôn, bảo vệ
người phụ nữ có thai và thai nhi khi ly hôn, cũng như quyền lợi của con chưa
thành niên khi cha mẹ ly hôn. Theo đó, vợ chồng có thể xin thuận tình ly hôn
hoặc có thể được Tòa án cho phép ly hôn nếu thuộc một trong các trường hợp:
ngoại tình, một bên can án phạt giam, một bên mắc bệnh điên hoặc một bệnh
khó chữa khỏi, một bên bỏ nhà đi quá hai năm không có duyên cớ chính đáng,
vợ chồng tính tình không hợp,… [8, Điều 2, Điều 3]; hay để bảo vệ quyền lợi
của con chưa thành niên: "Tòa án sẽ căn cứ vào quyền lợi của các con vị thành
niên để ấn định việc trông nom, nuôi nấng và dạy dỗ chúng" [8, Điều 6]. Các
quy định này, đánh dấu thêm một điểm mới của pháp luật HN&GĐ đối với
vấn đề ly hôn và hậu quả của ly hôn. Qua đó, thể hiện sự quan tâm của nhà
làm luật về bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và con chưa thành niên khi ly hôn.
Tuy nhiên, một vấn đề hết sức quan trọng là vấn đề hậu quả pháp lý về quan
hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn lại không được đề cập đến. Đó là điểm
hạn chế của pháp luật hôn nhân thời kỳ này.
Có thể nói, các quy định về ly hôn và hậu quả pháp lý về quan hệ tài
sản giữa vợ chồng khi ly hôn giai đoạn này đã góp phần xóa bỏ chế độ
HN&GĐ phong kiến lạc hậu, giải phóng phụ nữ thoát khỏi sự ràng buộc
khắt khe, không tôn trọng quyền lợi chính đáng của họ; bước đầu quyền bình
đẳng nam nữ trong gia đình và ngoài xã hội được thực hiện; quyền lợi của
người phụ nữ và con chưa thành niên khi cha mẹ ly hôn được bảo vệ. Tuy nhiên,
do ra đời trong hoàn cảnh xã hội và điều kiện lịch sử lúc bấy giờ, Sắc lệnh số
97/SL và Sắc lệnh số 159/SL vẫn còn những hạn chế nhất định như: chưa xóa
bỏ tận gốc chế độ HN&GĐ phong kiến, chưa ghi nhận chế độ hôn nhân một vợ
28. 28
một chồng, duyên cớ ly hôn vẫn chưa dựa trên bản chất quan hệ hôn nhân nên
các quan hệ HN&GĐ phong kiến vẫn còn tồn tại. Vấn đề ly hôn được đề cập
mờ nhạt, quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn không được đề cập đến.
Điều này được lý giải bởi hoàn cảnh lịch sử ra đời của các văn bản.
Tại thời điểm đó, yếu tố gắn kết gia đình được đề cao, việc ly hôn và tranh
chấp về tài sản, cấp dưỡng rất ít được đặt ra. Trong khi đó, nhiệm vụ của pháp
luật là điều chỉnh các quan hệ pháp luật phát sinh trong xã hội. Vậy nên, giai
đoạn này hạn chế về các quy định ly hôn và cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly
hôn là điều dễ hiểu.
- Thời kỳ từ 1954 đến 1975
Năm 1954, cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, đất nước ta tạm
thời bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị khác biệt: miền Bắc
bước vào thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội và là hậu phương lớn chi
viện cho miền Nam, miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, đầu
tranh giải phóng dân tộc thống nhất đất nước.
Nhân dân miền Bắc bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội,
xóa bỏ chế độ HN&GĐ phong kiến, Sắc lệnh số 97/SL và Sắc lệnh số 159/SL
đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Mặc dù có những đóng góp lớn
nhưng hai sắc lệnh này đã không đáp ứng được nhu cầu phát triển của đất
nước trong thời kỳ mới. Vì vậy, việc ban hành một đạo luật mới về hôn nhân
và gia đình đã trở thành đòi hỏi cấp bách của toàn xã hội. Đó là tất yếu khách
quan thúc đẩy sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta.
Hiến pháp năm 1959 ra đời, ghi nhận quyền bình đẳng nam nữ về mọi
mặt: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và gia đình [26, Điều 24] tạo cơ sở
pháp lý cho việc ban hành một đạo luật mới về HN&GĐ. Luật HN&GĐ năm
1959 ban hành ngày 29/12/1959 trên nguyên tắc hôn nhân tiến bộ, một vợ
một chồng; nguyên tắc nam nữ bình đẳng, bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ
trong gia đình và quyền lợi của con cái nhằm xây dựng chế độ HN&GĐ mới
theo tinh thần Hiến pháp năm 1959 và yêu cầu của thực tiễn khách quan. Luật
29. 29
HN&GĐ năm 1959 gồm 35 điều, 6 chương, dành riêng một chương (Chương V)
quy định về ly hôn và hậu quả pháp lý của ly hôn với những quy định khác
hẳn với pháp luật trước kia.
Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn theo Luật
HN&GĐ năm 1959 được đề cập khá bao quát bao gồm cả vấn đề chia tài sản
giữa vợ chồng khi ly hôn, vấn đề cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi một bên
gặp túng thiếu, khó khăn… tuy nhiên, các vấn đề này đều mới chỉ dừng lại ở
mức khái quát, chung chung chưa thật sự cụ thể.
Về quan hệ nhân thân: Sau khi phán quyết ly hôn của Tòa án có hiệu lực
pháp luật, quan hệ vợ chồng sẽ chấm dứt trước pháp luật [27, Điều 25, Điều 26].
Về quan hệ tài sản: Xuất phát từ nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của phụ
nữ và trẻ em, Điều 29 Luật HN&GĐ năm 2000 ghi nhận:
Khi ly hôn việc chia tài sản sẽ căn cứ vào công sức đóng
góp của mỗi bên, vào tình hình tài sản và tình trạng cụ thể của gia
đình. Lao động trong gia đình được kể như lao động sản xuất. Khi
chia phải bảo vệ quyền lợi của người vợ, của con và lợi ích của việc
sản xuất [32].
Đây được coi là quy định có tính tiến bộ vượt bậc của Luật HN&GĐ
năm 1959 so với các quy định của Dân luật Bắc Kỳ năm 1931, Dân luật Trung
Kỳ năm 1936 trước đó. Trước đó, Dân luật Bắc Kỳ 1931 và Dân luật Trung Kỳ
năm 1936 đề cao việc bảo vệ quyền lợi của người đàn ông trong gia đình, nếu
ly hôn do lỗi của người vợ thì người vợ hết sức thiệt thòi khi phân chia tài sản
thì khi Luật HN&GĐ năm 1959 ra đời, lần đầu tiên Luật HN&GĐ hướng đến
sự công bằng giúp bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ ngay cả khi họ có lỗi.
Theo đó, việc chia tài sản khi ly hôn chỉ căn cứ vào "công sức đóng góp của
mỗi bên, vào tình hình tài sản và tình trạng cụ thể của gia đình" [27, Điều 29]
để làm căn cứ chia tài sản, yếu tố lỗi dẫn đến ly hôn không được coi là căn cứ
để chia tài sản vợ chồng khi ly hôn.
30. 30
Giải quyết mối quan hệ giữa cha mẹ và con: Ghi nhận nguyên tắc bảo
vệ quyền lợi của con cái sau khi cha mẹ ly hôn, như: vợ chồng khi ly hôn vẫn có
mọi nghĩa vụ và quyền lợi đối với con chung; việc giao con cho ai trông nom,
nuôi dưỡng và giáo dục con cái chưa thành niên phải căn cứ vào quyền lợi
mọi mặt của con hay việc đóng góp phí tổn nuôi con,… [27, Điều 31, 32, 33].
Về cấp dưỡng giữa vợ, chồng: Pháp luật ghi nhận nghĩa vụ cấp dưỡng
giữa vợ và chồng khi ly hôn "nếu một bên gặp khó khăn túng thiếu, yêu cầu cấp
dưỡng thì bên kia phải cấp dưỡng tùy theo khả năng của mình" [27, Điều 30].
Như vậy, so với Sắc lệnh số 97/SL và Sắc lệnh số 159/SL, những quy
định về hậu quả pháp lý của ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 1959 đầy đủ và
cụ thể hơn, thể hiện bước tiến rõ rệt hơn về vấn đề quan hệ tài sản giữa vợ
chồng khi ly hôn nhưng còn mang tính khái quát, chưa quy định cụ thể, chưa
có sự phân biệt giữa tài sản chung và tài sản riêng vợ chồng. Tuy nhiên, có
thể nói, Luật HN&GĐ năm 1959 là bước phát triển quan trọng của pháp luật
HN&GĐ, là cơ sở để từng bước xây dựng và phát triển ngành luật HN&GĐ
trong hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa của Nhà nước ta.
- Giai đoạn từ 1975 đến nay:
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước giành thắng lợi, giải phóng
hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước, cách mạng nước ta chuyển sang
giai đoạn mới - giai đoạn cả nước giành độc lập, thống nhất và tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Việc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước đòi hỏi
phải có hệ thống pháp luật áp dụng thống nhất trong cả nước. Trước yêu cầu
đó, Hiến pháp năm 1980 được ban hành ghi nhận các nguyên tắc về chế độ
HN&GĐ [28, Điều 38, 47, 63 và Điều 64], trên cơ sở đó, Nhà nước ta ban
hành Luật HN&GĐ năm 1986.
Các quy định về hậu quả pháp lý của ly hôn của Luật HN&GĐ 1986
về cơ bản vẫn dựa trên những quy định của Luật HN&GĐ năm 1959 như bảo
vệ quyền lợi của phụ nữ và con chưa thành niên, cấp dưỡng giữa vợ chồng …
nhưng có bổ sung thêm nhiều quy định mới như: "việc chia tài sản khi ly hôn
31. 31
do các bên thỏa thuận và phải được Tòa án công nhận… nhưng có xem xét
một cách hợp lý tình hình tài sản và tình trạng cụ thể của gia đình, công sức
đóng góp của mỗi bên" [29, Điều 42], về cấp dưỡng giữa vợ chồng "khi hoàn
cảnh thay đổi người được cấp dưỡng hoặc người phải cấp dưỡng có thể yêu
cầu sửa đổi mức cấp dưỡng, thời gian cấp dưỡng" [4, Điều 43],…
Với những quy định này, Luật HN&GĐ năm 1986 đã góp phần vào
việc xây dựng và củng cố quan hệ gia đình xã hội chủ nghĩa, giữ gìn và phát
huy các phong tục tập quán, truyền thống tốt đẹp về HN&GĐ của dân tộc
nhưng còn mang tính định hướng, khái quát. Do vậy, việc áp dụng các quy
định này vào giải quyết các tranh chấp phát sinh trên thực tế gặp nhiều khó
khăn, vướng mắc đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung. Trước những thay đổi về điều
kiện kinh tế - xã hội, sau hơn mười năm thực hiện Luật HN&GĐ năm 1986,
kì họp thứ VII Quốc hội khóa X đã thông qua Luật HN&GĐ năm 2000. Kế
thừa các quy định, nguyên tắc dân chủ, tiến bộ về HN&GĐ trong lịch sử, Luật
HN&GĐ năm 2000 đã khắc phục những hạn chế của luật HN&GĐ năm 1986.
Các quy định về hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn
trong Luật này đã thể hiện một bước phát triển cả về kỹ thuật lập pháp và nội
dung tư tưởng góp phần vào việc xây dựng, củng cố chế độ HN&GĐ xã hội
chủ nghĩa, giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nâng cao
nhận thức của nhân dân, tạo cơ sở pháp lý cần thiết cho công tác xét xử của
Tòa án.
1.4.5. Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn
theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
Ngày 19/06/2014, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật HN&GĐ
năm 2014. Luật có hiệu lực kể từ ngày 1/1/2015. Luật HN&GĐ năm 2014 là
một bước nâng cao hơn nữa trình độ lập pháp của nước ta trong nền kinh tế
mới. Luật HN&GĐ năm 2014 gồm 10 chương, 133 điều, quy định về chế độ
HN&GĐ, chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử giữa các thành viên trong gia
32. 32
đình, trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức, nhà nước và xã hội trong việc xây
dựng và củng cố chế độ HN&GĐ.
So với Luật HN&GĐ năm 2000, Luật HN&GĐ năm 2014 có nhiều
sửa đổi bổ sung về vấn đề hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng
khi ly hôn. Cụ thể, về vấn đề tài sản chung vợ chồng, Luật HN&GĐ năm
2014 quy định chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận. Luật HN&GĐ
2000 quy định chưa rõ ràng về chế độ sở hữu của vợ chồng, thiếu cơ chế công
khai minh bạch về tài sản chung, tài sản riêng; chủ yếu đề cập đến vấn đề đất
đai, còn các tài sản khác như chứng khoán, tài sản trong doanh nghiệp thì
chưa được đề cập tới, gây khó khăn trong quá trình giải quyết tranh chấp.
Luật HN&GĐ sửa đổi năm 2014 quy định cụ thể: Vợ chồng có quyền thỏa
thuận về chế độ tài sản. Việc thỏa thuận phải được lập bằng văn bản có công
chứng hoặc chứng thực trước khi kết hôn. Thỏa thuận này vẫn có thể được
thay đổi sau khi kết hôn. Quy định này cho phép vợ chồng được công khai,
minh bạch tất cả các tài sản trước khi kết hôn, là cơ sở để xác định tài sản
chung hay riêng của vợ chồng với sự chứng nhận của một bên thứ ba độc lập.
Quy định này sẽ làm giảm thiểu sự tranh chấp tài sản sau ly hôn của các cặp
vợ chồng trong tình hình hiện nay.
Một trong những điểm mới của Luật HN&GĐ năm 2014 là nguyên
tắc chia tài sản chung vợ chồng khi ly hôn có tính đến yếu tố "lỗi của mỗi
bên" trong vi phạm quyền và nghĩa vụ vợ, chồng. Điều này giúp nâng cao hơn
nữa trách nhiệm của vợ, chồng trong gia đình, giúp đảm bảo công bằng cho
các bên vợ, chồng khi ly hôn.
Quy định của Luật HN&GĐ năm 2014 về vấn đề cấp dưỡng giữa vợ
và chồng và vấn đề quyền thừa kế giữa vợ chồng về cơ bản không có gì thay
đổi so với Luật HN&GĐ năm 2000.
33. 33
Chương 2
NỘI DUNG HẬU QUẢ PHÁP LÝ
VỀ QUAN HỆ TÀI SẢN GIỮA VỢ VÀ CHỒNG KHI LY HÔN
2.1. CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN
2.1.1. Nguyên tắc chung khi chia tài sản chung của vợ chồng
Nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận giữa các bên
Theo quy định tại Điều 95 Luật HN&GĐ năm 2000, việc chia tài sản
của vợ chồng khi ly hôn trước hết "do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa
thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết" [32]. Như vậy, pháp luật tôn trọng
và thừa nhận sự thỏa thuận của vợ chồng về việc giải quyết các tranh chấp về
tài sản khi ly hôn, tạo cơ sở pháp lý đảm bảo quyền bình đẳng và quyền tự
định đoạt của vợ chồng về tài sản khi ly hôn. Quy định này thể hiện sự tôn
trọng nguyên tắc tự nguyện và quyền tự định đoạt của vợ chồng, đề cao ý chí
của các bên, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thi hành án cũng như việc ổn
định đời sống của các bên, phát huy sự đoàn kết trong nội bộ gia đình và toàn
xã hội nói chung.
Quay lại với quy định của Luật HN&GĐ năm 1986, Điều 42 Luật
HN&GĐ năm 1986 quy định: "việc chia tài sản do hai bên thỏa thuận nhưng
phải được Tòa án nhân dân công nhận" [29]. Như vậy, ở Luật HN&GĐ 1986,
pháp luật cũng cho phép các bên vợ chồng được phép thỏa thuận về tài sản
khi ly hôn. Tuy nhiên, luật lại hạn chế giá trị của sự thỏa thuận, sự thỏa thuận
này chỉ có giá trị pháp lý khi các bên được Tòa án công nhận bên cạnh việc
đáp ứng các yêu cầu khác như: có sự tự nguyện, nội dung thỏa thuận không
trái với các nguyên tắc cơ bản của Luật HN&GĐ và các quy định khác của
pháp luật, không trái với đạo đức xã hội. Ví dụ: Tòa án sẽ không công nhận
sự thỏa thuận về tài sản của các bên nếu việc thỏa thuận đạt được do một bên
bị cưỡng ép, lừa dối hoặc xâm phạm tới lợi ích của vợ và các con hoặc thỏa
34. 34
thuận đạt được nhằm tẩu tán tài sản,… Quy định nguyên tắc về sự thỏa thuận
này được coi là điểm mới so với quy định của pháp luật trước đó, thể hiện sự
tôn trọng và đề cao quyền tự định đoạt của vợ chồng đối với tài sản chung.
Tuy vậy, pháp luật cũng quy định một trong hai bên vợ chồng không được
lạm dụng quyền này nhằm "trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ về tài sản" gây
hậu quả xấu, xâm phạm lợi ích hợp pháp khác được pháp luật bảo vệ.
Nguyên tắc "chia đôi" tài sản chung vợ chồng khi ly hôn
Theo quy định tại Điều 219 BLDS 2005 và khoản 1 Điều 27 Luật
HN&GĐ năm 2000 thì "tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp
nhất" [32]. Do vậy, tài sản chung của vợ chồng không nhất thiết phải do hai bên
cùng tạo ra một cách trực tiếp, không phụ thuộc vào công sức đóng góp giữa
vợ chồng nhiều hay ít… mà do tính chất đặc biệt của quan hệ hôn nhân nên
pháp luật ghi nhận công sức đóng góp để xác định tài sản chung của vợ chồng
là "như nhau", vợ chồng có toàn quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài
sản một cách bình đẳng. Vì vậy, khi ly hôn về nguyên tắc pháp luật tôn trọng
sự thỏa thuận của các bên, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải
quyết [32, Điều 95] và tòa án sẽ giải quyết theo hướng chia đôi tài sản chung.
Quy định về nguyên tắc chia đôi tài sản chung vợ chồng khi ly hôn
cho thấy quan niệm của nhà làm luật HN&GĐ về vấn đề gia đình là khá rõ
nét. Gia đình là một chỉnh thể do cả vợ và chồng cùng có công sức đóng góp
và xây dựng không chỉ về mặt tình cảm mà còn về tinh thần vật chất, tài sản;
lao động của người nội trợ trong gia đình cũng góp phần tạo ra năng suất lao
động của người lao động ngoài xã hội. Vậy nên, nguyên tắc chia đôi tài sản
chung của vợ, chồng khi ly hôn ở một khía cạnh nào đó giúp bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của một trong hai bên vợ chồng khi hi sinh thời gian, công
sức cho người còn lại phát triển.
Như vậy, về nguyên tắc phần của vợ chồng trong khối tài sản chung là
bằng nhau, không phân biệt công sức đóng góp nhiều hay ít của mỗi bên. Do
35. 35
đó, khi có tranh chấp về tài sản khi ly hôn, tài sản chung sẽ được chia đôi.
Tuy nhiên, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên và lợi ích khác,
trong từng trường hợp cụ thể, Tòa án cần xem xét đến "tình trạng tài sản, hoàn
cảnh của vợ chồng, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc duy trì, phát
triển khối tài sản này. Lao động trong gia đình coi như là lao động có thu
nhập" [32, Khoản 2 Điều 95]. Điều này được hiểu là khi chia tài sản chung vợ
chồng, ngoài việc áp dụng nguyên tắc chia đôi tài sản chung của vợ chồng,
Tòa án cũng cần phải xem xét tài sản chung của vợ chồng bao gồm những tài
sản gì, nguồn gốc phát sinh tài sản, tài sản có thể chia được bằng hiện vật hay
không? Vợ chồng kết hôn và chung sống với nhau trong thời gian bao lâu?
Vợ chồng cùng cư trú hay cư trú ở những nơi khác nhau? Ai là người có công
sức đóng góp nhiều hơn, ai là lao động chủ yếu trong gia đình, tài sản có công
sức đóng góp của người thứ ba không? Xác định rõ các khoản nợ mà vợ
chồng nợ người khác hoặc người khác nợ vợ chồng, các nghĩa vụ tài sản
chung mà vợ chồng cần phải thanh toán trước khi ly hôn,…
Khi chia tài sản chung phải chú ý đến "bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của vợ, con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực
hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi
mình" [32, Khoản 2 Điều 95]. Luật quy định ưu tiên bảo vệ quyền lợi của phụ
nữ và con cái chưa thành niên hoặc mất năng lực hành vi dân sự; tuy vậy, điều
này không có nghĩa là khi ly hôn, tòa án sẽ chia cho người phụ nữ phần tài
sản nhiều hơn. Mà quy định này cần được hiểu là trong quá trình chia tài sản,
cần áp dụng phương thức chia tài sản làm sao giúp tạo điều kiện để vợ, chồng
ổn định cuộc sống sau khi ly hôn. Ví dụ: Trường hợp khi vợ chồng ly hôn, cả
hai đều có nhu cầu chia tài sản bằng hiện vật như nhau thì cần ưu tiên cho
người vợ, giải quyết quyền lưu cơ cho vợ trong nhà chung của hai vợ chồng,…
Đồng thời, việc chia tài sản chung của vợ chồng cũng cần bảo vệ quyền lợi
của các bên trong lao động, sản xuất, kinh doanh. Đặc biệt là đối với tài sản
36. 36
đang có tranh chấp là nguồn thu nhập của vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng thì
phải xem xét ai là người có khả năng quản lý, duy trì và phát triển tốt hơn tính
hữu dụng và tính sinh lợi của tài sản thì Tòa án nên giao tài sản bằng hiện vật
cho người đó. Ví dụ: chị A là công chức nhà nước còn anh C làm nông
nghiệp. Khi ly hôn cả hai đều có yêu cầu chia đất nông nghiệp trồng lúa và
hoa màu mà họ đang canh tác thì Tòa án sẽ giao đất cho anh C còn chị A
được thanh toán phần tài sản tính ra giá trị bằng tiền.
Như vậy, để bảo vệ quyền lợi chính đáng của các bên và các thành
viên khác trong gia đình khi chia tài sản chung vợ chồng khi ly hôn cần quán
triệt các nguyên tắc theo quy định Điều 95 Luật HN&GĐ năm 2000 và trên
cơ sở những tài sản hiện có để chia kết hợp với từng trường hợp cụ thể theo
quy định tại Điều 96 đến Điều 99 Luật HN&GĐ năm 2000.
Trên thực tế, việc chia tài sản chung vợ chồng khi ly hôn hiện nay cho
thấy: đối với những tài sản là bất động sản như nhà ở, quyền sử dụng đất hoặc
các tài sản khi vợ chồng chung sống cùng gia đình thường gặp nhiều khó
khăn, vướng mắc. Bởi nó đụng chạm tới quyền lợi của các bên về tiền bạc, tài
sản. Khi mà tình cảm yêu thương, gắn bó giữa vợ chồng không còn, thì những
nhường nhịn hoặc ưu ái cho nhau thường rất ít tồn tại, giữa họ thường nảy
sinh những tranh chấp về tài sản gay gắt, dẫn đến nhiều khiếu kiện kéo dài. Vì
vậy, trên cơ sở các quy định của Luật HN&GĐ năm 2000, Nghị định số
70/2001/NĐ-CP, đối với từng trường hợp cụ thể, Tòa án cần áp dụng các quy
định của pháp luật để có thể giải quyết một cách đúng đắn, hợp tình, hợp lý
giúp đảm bảo quyền lợi của các bên vợ chồng khi sự kiện ly hôn diễn ra.
Như vậy, về nguyên tắc khi ly hôn, tài sản chung sẽ do các bên tự thỏa
thuận phân chia, trong trường hợp không thể tự thỏa thuận phân chia, các bên
sẽ yêu cầu Tòa án giải quyết. Theo quy định của pháp luật, Tòa án sẽ phân
chia tài sản chung theo nguyên tắc chia đôi, có xem xét đến công sức đóng
góp và hoàn cảnh của mỗi bên, quá trình chia có đảm bảo quyền lợi của vợ và
37. 37
các con. Ngoài ra, khi chia tài sản cũng phải chú ý tới việc bảo vệ quyền lợi
chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để họ có
điều kiện để tiếp tục lao động tạo thu nhập, tránh tình trạng làm mất hoặc
giảm giá trị, công dụng của tài sản như phá hỏng tài sản, nhà cửa, tư liệu sản
xuất làm ảnh hưởng tới sản xuất kinh doanh của các bên.
Khi ly hôn tài sản của vợ chồng có thể được chia bằng hiện vật hoặc
theo giá trị, nếu có sự chênh lệch thì người nào được chia tài sản có giá trị lớn
hơn phải thanh toán cho bên kia khoản tiền tương ứng với phần chênh lệch.
Giá trị tài sản được xác định theo giá thị trường tại thời điểm chia. Trên thực
tế, Tòa án thường gặp rất nhiều vướng mắc khi giải quyết hậu quả pháp lý về
tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn. Để đảm bảo tài sản được chia công bằng,
hợp lý, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các bên, nâng cao hiệu quả
việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến tài sản vợ chồng, Tòa án phải xác
định rõ các chứng cứ mà đương sự cung cấp, vận dụng đúng đắn, linh hoạt
các nguyên tắc cơ bản của Luật HN&GĐ năm 2000, nguyên tắc chia tài sản
của vợ chồng khi ly hôn. Qua đó, xác định rõ nguồn gốc, giá trị, số lượng tài
sản, tình hình tài sản khi ly hôn, tình trạng cụ thể của gia đình, công sức đóng
góp của mỗi bên trong quá trình vợ chồng chung sống như thế nào?… Có như
thế mới có thể giải quyết vấn đề tài sản một cách thấu tình đạt lý, bảo vệ được
quyền lợi của các bên, lợi ích của gia đình và xã hội.
2.1.2. Căn cứ xác định tài sản chung vợ chồng
Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định:
1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo
ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những
thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài
sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và
những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là
tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng
38. 38
có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung
khi vợ chồng có thỏa thuận.
Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất.
2. Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ
chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong
giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ chồng.
3. Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản
mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài
sản đó là tài sản chung [32].
Như vậy, không phải tất cả các tài sản mà vợ chồng hiện có đều là tài
sản chung của vợ chồng. Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định về tài sản
chung của vợ chồng trên cơ sở kế thừa quy định của Luật HN&GĐ năm 1986
và xác định cụ thể hơn các loại tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng.
Theo quy định trên thì có hai căn cứ để xác định tài sản chung của vợ chồng:
Căn cứ pháp lý và căn cứ nguồn gốc tài sản.
Về căn cứ pháp lý, việc xác định khối tài sản chung của vợ chồng căn
cứ vào sự tồn tại của quan hệ hôn nhân - quan hệ vợ chồng. Theo Khoản 1
Điều 27, "tài sản chung của vợ chồng do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao
động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân…" [32]. Như vậy, thời kỳ hôn nhân là sự
kiện pháp lý làm phát sinh không chỉ quan hệ vợ chồng mà còn bắt đầu quá
trình xác lập tài sản chung vợ chồng. Vậy, thời kỳ hôn nhân là thời kỳ như thế
nào? Khoản 7 Điều 8 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định: "Thời kỳ hôn nhân
là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng tính từ ngày đăng ký kết hôn đến
ngày chấm dứt hôn nhân" [32]. Thời kỳ hôn nhân bắt đầu từ ngày cơ quan có
thẩm quyền vào Sổ đăng ký kết hôn và cấp Giấy chứng nhận kết hôn cho hai
vợ chồng và chấm dứt khi một bên vợ hoặc chồng chết hoặc vợ chồng ly hôn
(từ khi phán quyết ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật). Theo căn cứ pháp
lý trên thì mọi tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân đều được coi là tài
39. 39
sản chung của vợ chồng, vợ chồng có quyền bình đẳng trong việc chiếm hữu,
sử dụng, định đoạt mà không phụ thuộc vào khả năng trực tiếp tạo ra tài sản
hay công sức đóng góp của mỗi bên.
Về căn cứ vào nguồn gốc tài sản, Luật HN&GĐ năm 2000 quy định
có các căn cứ để xác định tài sản chung vợ chồng như sau:
Thứ nhất, tài sản chung của vợ chồng là tài sản do vợ hoặc chồng tạo
ra trong thời kỳ hôn nhân. Tài sản chung của vợ chồng có thể do công sức của
cả hai vợ chồng tạo ra hoặc chỉ do vợ (chồng) tạo ra trong thời kỳ hôn nhân
bằng cách trực tiếp (lao động sản xuất, tiền lương…) hoặc gián tiếp thông qua
các giao dịch dân sự (buôn bán, đầu tư, tìm kiếm lợi nhuận…). Hoa lợi, lợi
tức có được từ tài sản chung hoặc riêng của vợ chồng cũng là tài sản chung, là
thu nhập có được trong thời kỳ hôn nhân. Theo Điểm a Khoản 2 Điều 95 Luật
HN&GĐ năm 2000, "lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao
động có thu nhập" [32], vì thế trong cuộc sống gia đình, vì sức khỏe, hoặc vì
hoàn cảnh và khả năng lao động mà tài sản chỉ do một người tạo ra thì vẫn coi
như vợ chồng cùng đóng góp công sức vào việc tạo lập khối tài sản chung.
Trong lao động của người chồng đã bao hàm cả lao động của người vợ và
ngược lại, trong lao động của người vợ đã bao hàm lao động của người chồng.
Bởi lẽ, nếu như không có vợ hoặc chồng chăm lo gia đình, bảo quản tài sản,
chăm sóc con cái tạo điều kiện cho người kia lao động tạo thu nhập thì khó có
thể tạo ra được khối tài sản chung một cách trọn vẹn. Đó chính là đặc trưng
mang tính chất cộng đồng của cuộc sống vợ chồng.
Thứ hai, tài sản chung của vợ chồng là "thu nhập do lao động, hoạt
động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được
tặng cho chung" [32, Khoản 1 Điều 27]. Về căn cứ xác lập tài sản chung, bên
cạnh những căn cứ đã được xác định trong Luật HN&GĐ năm 1986, Luật
HN&GĐ năm 2000 đã làm rõ hơn khái niệm "thu nhập về nghề nghiệp" bằng
40. 40
quy định "thu nhập do lao động, hoạt động do sản xuất kinh doanh…" cũng là
tài sản chung. Đây là thu nhập thường xuyên, cơ bản, chính đáng và chủ yếu
của mỗi người, để đảm bảo cuộc sống vật chất ổn định, lâu dài của gia đình.
Pháp luật không căn cứ vào mức thu nhập để quy định mà chỉ quy định "thu
nhập về nghề nghiệp" của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung
của vợ chồng. Dù vợ chồng làm việc ở những ngành nghề khác nhau với mức
thu nhập khác nhau, song, mọi thu nhập từ lao động, từ hoạt động sản xuất
kinh doanh của vợ chồng đều là tài sản chung của vợ chồng. Điều này phù
hợp hơn với điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay và cũng hoàn toàn phù hợp với quy định về quyền nhân thân
của vợ chồng là tự do lựa chọn việc làm. Chính công việc cũng như sức lao
động của mỗi người đều góp phần vào khối tài sản chung trong gia đình. Theo
Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) hướng dẫn việc áp dụng một số quy định
của Luật HN&GĐ năm 2000, "những thu nhập hợp pháp khác" quy định tại
Khoản 1 Điều 27 có thể là tiền thưởng, tiền trợ cấp, tiền trúng thưởng xổ số
mà vợ chồng có được, hoặc tài sản mà vợ chồng được xác lập quyền sở hữu
theo quy định của BLDS năm 2005 như: Xác lập quyền sở hữu đối với vật vô
chủ, vật không xác định được ai là chủ sở hữu; xác lập quyền sở hữu đối với
vật bị chôn giấu, bị chìm đắm được tìm thấy; xác lập quyền sở hữu đối với vật
do người khác đánh rơi, bỏ quên; xác lập quyền sở hữu đối với gia súc bị thất
lạc; xác lập quyền sở hữu đối với gia cầm bị thất lạc; xác lập quyền sở hữu
đối với vật nuôi dưới nước. Tài sản chung của vợ chồng còn bao gồm: tài sản
vợ chồng được được thừa kế chung hoặc tặng cho chung. Đối với tài sản vợ
chồng được thừa kế riêng, tặng cho riêng cũng sẽ trở thành tài sản chung của
vợ chồng khi tài sản riêng đó được sáp nhập vào tài sản chung.
Thứ ba, Khoản 1 Điều 27 còn quy định tài sản chung là những tài sản
mà "vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung". Thực tế cho thấy, có những tài sản
41. 41
thuộc sở hữu riêng của vợ hoặc chồng do vợ (chồng) có được trước khi kết
hôn, được thừa kế, được tặng cho riêng về nguyên tắc là tài sản riêng, tuy
nhiên, những tài sản đó sẽ là tài sản chung nếu như trong thời kỳ hôn nhân, vợ
chồng có thỏa thuận coi đó là tài sản chung của vợ chồng. Quy định này hoàn
toàn hợp lý và có cơ sở bởi vì trong cuộc sống gia đình, nhiều tài sản riêng của
vợ chồng được đưa vào sử dụng chung, phục vụ nhu cầu sinh hoạt chung của
tất cả các thành viên trong gia đình. Nếu cả hai bên vợ chồng đều có thỏa thuận
và đồng ý sáp nhập tài sản riêng vào thành tài sản chung thì đó đương nhiên
được coi là tài sản chung. Quy định này mang tính mềm dẻo, linh hoạt nhằm
bảo đảm quyền tự định đoạt của vợ chồng, quyết định về phạm vi tài sản thuộc
sở hữu chung hợp nhất. Quy định này cũng phù hợp xu hướng phát triển của
pháp luật nước ta là ưu tiên và khuyến khích việc xây dựng, củng cố chế độ tài
sản chung hợp nhất của vợ chồng, góp phần củng cố sự bền vững của gia đình.
Thứ tư, nếu vợ chồng xẩy ra tranh chấp về xác định tài sản riêng
nhưng mỗi bên đều không có chứng cứ chứng minh đó là tài sản riêng của
mình thì coi đó là tài sản chung của vợ chồng [32, khoản 3 Điều 27]. Quy
định này mang tính nguyên tắc suy đoán được áp dụng trong trường hợp chia
tài sản khi ly hôn hoặc các trường hợp khác khi có tranh chấp về tài sản của
vợ chồng thì ưu tiên bảo vệ lợi ích chung của gia đình.
Thứ năm, "quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn
là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có
được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi có thỏa
thuận" [32, Khoản 1 Điều 27]. Quyền sử dụng đất là tài sản đặc biệt và có giá
trị lớn. Trên thực tế, người chồng thường nắm giữ toàn bộ tài sản trong gia
đình và thường đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì vậy,
việc quy định quyền sử dụng đất có được sau khi kết hôn là tài sản chung của
vợ chồng có ý nghĩa bảo đảm sự bình đẳng giữa vợ và chồng trong quan hệ về
tài sản. Vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân hoặc
42. 42
sau ly hôn là nhà cửa, quyền sử dụng đất rất phức tạp do các giấy tờ pháp lý
liên quan đến quyền sử dụng đất chỉ đứng tên một người và việc xác định tài
sản chung hay tài sản riêng để đảm bảo lợi ích chính đáng của mỗi người là
rất khó khăn. Việc Luật HN&GĐ năm 2000 quy định một cách rõ ràng quyền
sử dụng đất mà vợ chồng có được trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung
hoặc có được trước khi kết hôn mà vợ, chồng thỏa thuận là tài sản chung sẽ là
một cơ sở pháp lý cần thiết cho vấn đề giải quyết tranh chấp về đất đai khi
chia tài sản chung vợ chồng.
Ngoài ra, tài sản chung vợ chồng còn bao gồm các tài sản mà vợ
chồng mua sắm được bằng thu nhập nói trên, tiền tiết kiệm của vợ chồng gửi
ở ngân hàng, những khoản nợ mà vợ chồng đã vay trước đó sử dụng vào đời
sống chung cần phải trả, những khoản nợ mà vợ chồng cho người khác vay có
quyền đòi,…Các tài sản chung của vợ chồng phải là tài sản đó phải hiện còn
trong gia đình tại thời điểm Tòa án giải quyết cho vợ chồng ly hôn.
Luật HN&GĐ năm 2000 đã khẳng định "Tài sản chung của vợ chồng
thuộc sở hữu chung hợp nhất" [32, Điều 27]. Đây là quy định mới và hoàn
toàn phù hợp với nội dung của BLDS về sở hữu. Theo quy định tại Điều 229,
Điều 232 BLDS, sở hữu chung là sở hữu của nhiều chủ sở hữu đối với tài sản,
bao gồm sở hữu chung theo phần và sở hữu chung hợp nhất. Sở hữu chung
hợp nhất là sở hữu chung trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu
không được xác định đối với tài sản chung. Các chủ sở hữu chung hợp nhất
có quyền, nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản thuộc sở hữu chung. Chế độ sở
hữu chung hợp nhất của vợ chồng hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với truyền
thống gia đình Việt Nam, như câu ông ta thường nói "của chồng, công vợ".
Chính sự hợp nhất về tài sản chung của vợ chồng là yếu tố tạo nên sự hài hòa
vè bền chặt hơn trong quan hệ gia đình.
Khoản 2 Điều 27 quy định: Tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng
theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng
43. 43
nhận quyền sở hữu phải ghi cả tên cả vợ và chồng. Đây là quy định mới
khẳng định sự bình đẳng vợ chồng trong quan hệ về tài sản, tạo cơ sở pháp lý
vững chắc cho việc bảo vệ quyền sở hữu của người vợ. Việc pháp luật quy
định quyền được ghi tên của cả vợ và chồng vào giấy chứng nhận quyền sở
hữu đối với tài sản chung vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký
quyền sở hữu một mặt là thể chế hóa Điều 174 BLDS năm 2005: "Những tài
sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì phải được đăng ký"
(phù hợp điểm h, khoản 1 Điều 16 Công ước Cedaw: "Quyền như nhau của cả
vợ và chồng đối với việc sở hữu thu nhập, kiểm soát, quản lý, hưởng thụ và
sử dụng tài sản, dù đó là tài sản không phải trả tiền hay đó là tài sản có giá trị
lớn") và là biện pháp bảo đảm an toàn về mặt pháp luật quyền sở hữu của phụ
nữ đối với tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân; mặt khác, qua đó có thể tránh
được những tranh chấp phát sinh về quyền tài sản giữa vợ chồng, đồng thời,
tạo cơ sở để Tòa án giải quyết một cách đúng đắn việc phân chia tài sản, bảo
vệ tốt hơn quyền lợi của phụ nữ. Từ trước đến nay, tài sản thuộc sở hữu chung
của vợ chồng khi đăng ký quyền sở hữu thông thường chỉ ghi tên một người
là tên vợ hoặc tên chồng. Luật HN&GĐ năm 2000 ra đời quy định việc đăng
ký quyền sở hữu tài sản chung phải ghi tên cả hai người. Nghị quyết số
02/2000/HĐTP hướng dẫn như sau:
Để bảo vệ quyền lợi chính đáng của các bên, trong trường hợp
tài sản do vợ chồng có được trong thời kỳ hôn nhân mà pháp luật quy
định phải đăng ký quyền sở hữu nhưng trong giấy chứng nhận quyền
sở hữu chỉ ghi tên vợ hoặc chồng, nếu không có tranh chấp thì đó là
tài sản chung của vợ chồng, nếu có tranh chấp là tài sản riêng thì
người có tên trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải chứng minh
được tài sản này do được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong
thời kỳ hôn nhân hoặc tài sản này có được từ nguồn tài sản riêng
quy định tại Khoản 1 Điều 32… Trong trường hợp không chứng