SlideShare a Scribd company logo
1 of 125
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN VĂN PHƯƠNG
VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ - NGƯỜI BÀO CHỮA
TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2014
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN VĂN PHƯƠNG
VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ - NGƯỜI BÀO CHỮA
TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Tuân
HÀ NỘI - 2014
3
Lêi cam ®oan
T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn
cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ
trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh
x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña
luËn v¨n ch­a tõng ®­îc ai c«ng bè trong bÊt kú
c«ng tr×nh nµo kh¸c.
T¸c gi¶ luËn v¨n
NguyÔn V¨n Ph­¬ng
4
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đồ
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA LUẬT
SƯ - NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ
SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
9
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 9
1.1.1. Khái niệm giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 9
1.1.2. Ý nghĩa của giai đoạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự 19
1.2. Địa vị pháp lý và vai trò của luật sư - người bào chữa trong tố
tụng hình sự
20
1.2.1. Địa vị pháp lý của luật sư - người bào chữa trong tố tụng hình sự 20
1.2.2. Vai trò của luật sư - người bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự
36
Chương 2: SỰ THAM GIA CỦA LUẬT SƯ - NGƯỜI BÀO CHỮA
TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
42
2.1. Quy định của pháp luật về vai trò của luật sư - người bào
chữa trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
42
2.1.1. Vai trò của luật sư - người bào chữa trong chuẩn bị xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự
43
2.1.2. Vai trò của luật sư - người bào chữa trong phiên tòa xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự
57
5
2.2. Thực trạng hoạt động của luật sư tham gia bào chữa trong xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự
72
2.2.1. Về số lượng luật sư và tổ chức hành nghề luật sư 72
2.2.2. Kết quả hoạt động của luật sư tham gia bào chữa trong xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự
76
2.2.3. Những hạn chế trong hoạt động của luật sư tham gia bào chữa
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và nguyên nhân
80
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA
LUẬT SƯ - NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG XÉT XỬ SƠ
THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
90
3.1. Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo 90
3.2. Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa 96
3.3. Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự 100
3.3.1. Ghi nhận và khẳng định địa vị pháp lý của luật sư tham gia
bào chữa như một chức danh tư pháp độc lập với đầy đủ các
quyền năng để luật sư bào chữa một cách có hiệu quả, trong
đó có quyền được thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ
100
3.3.2. Cần có cơ chế tạo điều kiện thuận lợi để luật sư tham gia bào chữa 103
3.4. Các giải pháp khác 106
3.4.1. Tăng cường quản lý nhà nước đối với tổ chức hành nghề luật
sư, tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư
106
3.4.2. Đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng đào tạo nghề
luật sư
108
3.4.3. Nâng cao nhận thức về luật sư và nghề luật sư trong xã hội 110
KẾT LUẬN 112
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 114
6
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS : Bộ luật Hình sự
BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự
CQĐT : Cơ quan điều tra
CQTHTT : Cơ quan tiến hành tố tụng
ĐTV : Điều tra viên
HĐXX : Hội đồng xét xử
KSV : Kiểm sát viên
TAND : Tòa án nhân dân
THTT : Tiến hành tố tụng
TNHS : Trách nhiệm hình sự
TTHS : Tố tụng hình sự
VAHS : Vụ án hình sự
VKS : Viện kiểm sát
VKSND : Viện kiểm sát nhân dân
XXPT : Xét xử phúc thẩm
XXST : Xét xử sơ thẩm
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
7
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
2.1 Bảng số liệu về số lượng luật sư và tổ chức hành nghề
luật sư trên địa bàn cả nước từ năm 2007 đến năm 2013
73
2.2 Kết quả khảo sát hoạt động bào chữa tại một số tổ chức
hành nghề luật sư trong các năm từ 2010 - 2013
77
DANH MỤC CÁC BIỀU ĐỒ
Số hiệu
biểu đồ
Tên biểu đồ Trang
2.1 Số lượng số lượng luật sư và tổ chức hành nghề luật sư
trên địa bàn cả nước từ năm 2007 đến năm 2013
73
8
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) quy định:
Trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành
án hình sự; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa
các cơ quan tiến hành tố tụng; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm
của những người tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của những
người tham gia tố tụng, của các cơ quan, tổ chức và công dân… [33].
Sau mười năm áp dụng, BLTTHS năm 2003 đã tạo nền tảng pháp lý
quan trọng để các chủ thể thực hiện chức năng, nhiệm vụ tố tụng của mình,
góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, giữ
vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, phục vụ tích cực công cuộc đổi mới
trong những năm vừa qua.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đã có không ít những bất cập gây
cản trở cho các chủ thể tố tụng hình sự (TTHS), gây ra những khó khăn đối
với những người tham gia tố tụng, trong đó có luật sư. BLTTHS năm 2003
còn nhiều bất cập trong các quy định của pháp luật và trong thực tiễn thực
hiện các quy định liên quan đến các vấn đề như: Việc bảo đảm quyền bào chữa
cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; quyền nhờ luật sư bào chữa cho người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo của người thân thích; địa vị pháp lý của người bào chữa;
thủ tục cấp giấy chứng nhận cho người bào chữa; vai trò của luật sư trong
việc thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ; việc tranh luận tại phiên tòa…
Những vấn đề nêu trên làm cho vai trò của người bào chữa nói chung
và của luật sư bào chữa nói riêng rất mờ nhạt, chưa đạt hiệu quả cao, dẫn đến
ngày càng có nhiều vụ án oan, sai xảy ra, trong đó có thể kể đến một số vụ
như: Vụ ông Nguyễn Thanh Chấn ở Bắc Giang bị kết án tù chung thân về tội
9
giết người đã được minh oan sau 10 năm chịu hình phạt tù; vụ ông Trần Văn
Chiến ở Tiền Giang bị kết án tù chung thân về tội giết người được minh oan
sau hơn 16 năm chấp hành hình phạt tù; vụ anh Nguyễn Minh Hùng ở Tây
Ninh bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử 2 lần và đều tuyên phạt mức án tử hình về
hành vi vận chuyển, buôn bán trái phép chất ma túy, được minh oan sau hơn 4
năm ròng rã kêu cứu; vụ ông Bùi Minh Hải ở Đồng Nai bị Viện kiểm sát nhân
dân (VKSND) tỉnh Đồng Nai đề nghị mức án tử hình và bị Tòa án nhân dân
(TAND) tỉnh Đồng Nai tuyên phạt tù chung thân về các tội giết người, cướp
của, hiếp dâm được minh oan sau 16 tháng bị giam giữ. Đặc biệt, Vụ án "vườn
điều" ở Bình Thuận được xem là một trong những vụ án oan, sai lớn nhất
trong lịch sử tư pháp Việt Nam bởi có đến 9 người trong một gia đình rơi vào
vòng lao lý, vụ án được đưa ra xét xử nhiều lần, qua nhiều cấp nhưng đều bị
hủy án do có nhiều tình tiết chưa rõ ràng. Việc điều tra, xét xử vụ án được kéo
dài 12 năm nhưng vẫn không tìm ra hung thủ. Năm 2006, Cơ quan điều tra
(CQĐT) xác định các bị cáo vô tội và trả tự do tại tòa, đồng thời, các cơ quan
tiến hành tố tụng (CQTHTT) đã công khai xin lỗi và bồi thường cho những
người bị oan, sai…
Trên đây chỉ là một số vụ án oan, sai xảy ra trong thời gian qua. Ngoài
các vụ án này, còn rất nhiều vụ án mà người bị điều tra, truy tố, xét xử, bị tạm
giam, tạm giữ, bị phạt tù… không phải là người đã thực hiện hành vi phạm
tội. Điều đó cho thấy, pháp luật TTHS còn nhiều bất cập, việc thực thi các
quy định của pháp luật trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử còn chưa thật
nghiêm túc, hoạt động và vai trò của những người tiến hành tố tụng (THTT)
như Điều tra viên (ĐTV), Kiểm sát viên (KSV), Thẩm phán và những người
tham gia tố tụng, trong đó có luật sư chưa thật hiệu quả.
Vì vậy, vấn đề cấp thiết đặt ra hiện nay là BLTTHS nói riêng cũng
như pháp luật về tư pháp hình sự nói chung phải được sửa đổi, tạo hành lang
pháp lý minh bạch hơn, khả thi hơn cho các chủ thể tham gia tố tụng thực
10
hiện quyền của mình. Hiện nay, các cơ quan THTT từ Trung ương tới địa
phương đang tiến hành tổ chức tổng kết việc thực hiện BLTTHS để đánh giá
về thực trạng và hiệu quả áp dụng Bộ luật này, tìm ra những nguyên nhân và
đề ra những giải pháp sửa đổi, bổ sung. Việc sửa đổi BLTTHS phải được tiến
hành trên cơ sở thực tiễn của quá trình mười năm thực hiện. Để có thể đánh
giá việc thi hành BLTTHS một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ là
nhiệm vụ của nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều chủ thể khác nhau như: CQĐT,
Viện kiểm sát (VKS), Tòa án, luật sư… Việc xây dựng BLTTHS cần phải
quán triệt quan điểm thể chế hóa đường lối của Đảng, Nhà nước về cải cách
tư pháp, đáp ứng yêu cầu của công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm
trong tình hình mới, chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện
chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội,
không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Trong đó, chế định về
luật sư (về vai trò của luật sư thể hiện qua quyền, nghĩa vụ của luật sư) là một
trong những chế định cần phải hoàn thiện không những chỉ trong việc xây
dựng các quy phạm pháp luật mà còn trong việc đưa những quy phạm đó vào
thực tế cuộc sống. Về vấn đề này, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002
của Bộ Chính trị về "một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời
gian tới" nêu rõ:
Nâng cao chất lượng công tác điều tra, thực hiện tốt công
tác tiếp nhận, xử lý tin báo, tố giác tội phạm, tăng cường phối hợp
giữa các cơ quan chuyên trách điều tra với các cơ quan khác…
Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo
đảm tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người
tham gia tố tụng khác… Khi xét xử Tòa án phải đảm bảo cho mọi
công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách
quan; Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật; việc xét xử của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả
11
tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các
chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo…
Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để luật sư tham
gia vào quá trình tố tụng: tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ
sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên tòa… [14].
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 xác định rõ: "Tòa án có vị trí trung tâm
và xét xử là hoạt động trọng tâm" trong quá trình giải quyết VAHS [16]. Do
xét xử là hoạt động trọng tâm, có nhiệm vụ "xác định sự thật của vụ án" nên
trong vụ án hình sự vai trò của luật sư được thể hiện tập trung, đầy đủ nhất ở
giai đoạn xét xử, đặc biệt là xét xử sơ thẩm (XXST). Chính vì vậy, việc tiếp
tục nghiên cứu các quy định của pháp luật TTHS hiện hành và các quy định
khác có liên quan, về thực trạng tham gia và vai trò của luật sư tham gia bào
chữa trong VAHS, đề ra các phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả của luật sư khi tham gia tố tụng trong giai đoạn XXST VAHS là rất cần
thiết. Hy vọng, luận văn này với đề tài "Vai trò của luật sư - người bào chữa
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay" sẽ góp
phần trong việc xây dựng, hoàn thiện các quy định của pháp luật, nâng cao
hiệu quả và vai trò của luật sư, tạo điều kiện cho việc giải quyết VAHS một
cách nhanh chóng, kịp thời, công minh và đúng pháp luật.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Hiện nay, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về vai trò của
luật sư, về địa vị pháp lý, quyền, nghĩa vụ của luật sư khi tham gia tố tụng trong
VAHS, như: TS.LS Phan Trung Hoài: "Hoàn thiện pháp luật về luật sư ở Việt
Nam", Nxb Tư pháp, 2006; TS. Nguyễn Văn Tuân: "Vai trò của luật sư trong
tố tụng hình sự", Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001; GS,TS Nguyễn Ngọc
Anh (Chủ biên): "Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003",
Nxb Chính trị Quốc gia, 2011; Đinh Văn Quế: "Bình luận khoa học Bộ luật
12
Tố tụng hình sự (xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm)",
Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2007; TS. Nguyễn Văn Tuân: "Thực
trạng tranh tụng và vấn đề nâng cao vai trò của luật sư trong tranh tụng
trước yêu cầu cải cách tư pháp", Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 3/2010;
Hoàng Thị Sơn: "Thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong tố tụng
hình sự", Luận án tiến sĩ luật học; Hồ Sĩ Sơn: "Những đảm bảo hiệu quả của
hoạt động bào chữa trong tố tụng hình sự", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số
150, tháng 10/2000; Thu Tâm - Hồng Phong: "Vấn đề tranh tụng và vai trò
của luật sư", Báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh, số ra ngày 14/10/2002;
Ngô Thị Ngọc Vân: "Vai trò của luật sư bào chữa trong xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự", Luận văn thạc sĩ luật học, 2004…
Các công trình nghiên cứu, bài viết nêu trên đã thể hiện được tương
đối rõ nét về địa vị pháp lý, vai trò của luật sư trong VAHS và rất hữu ích
trong quá trình nghiên cứu, học tập, áp dụng pháp luật trong thực tiễn. Tuy
nhiên, do biến chuyển của thời gian và thực tế tình hình áp dụng pháp luật có
nhiều thay đổi, thực trạng sự tham gia của luật sư vào các VAHS, vai trò của
luật sư trong các vụ án cũng có những chuyển biến nên cần thiết phải tiếp tục
nghiên cứu chuyên sâu về thực trạng tham gia và vai trò của luật sư với tư
cách là người bào chữa ở giai đoạn XXST VAHS để từ đó chỉ ra những bất
cập, nguyên nhân của những hạn chế và đề xuất những giải pháp để khắc
phục, nâng cao hiệu quả hoạt động của luật sư.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài "Vai trò của luật sư - người bào chữa trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay", luận văn xác
định các mục đích nghiên cứu cơ bản như sau:
- Mục đích chính của luận văn là phân tích, đánh giá một cách toàn
diện và có hệ thống về mặt lý luận, các quy định của pháp luật cũng như thực
13
tiễn sự tham gia và vai trò của luật sư trong giai đoạn XXST VAHS ở Việt
Nam hiện nay.
- Kiến nghị các cơ quan nhà nước có liên quan trong việc soạn thảo
và ban hành mới, sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật để phù hợp với
tình hình thực tiễn và dần dần hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật điều
chỉnh trong lĩnh vực này; kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định đó,
tạo điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động và vai trò của luật sư trong hoạt
động TTHS, góp phần giải quyết nhanh chóng, chính xác, công minh, kịp thời
mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở các mục đích nghiên cứu nêu trên, nhiệm vụ của luận văn
là phải:
- Khái quát một số vấn đề lý luận cơ bản về luật sư và vai trò của luật
sư - người bào chữa trong VAHS;
- Phân tích các quy định của pháp luật về vai trò, quyền và nghĩa vụ
của luật sư - người bào chữa trong giai đoạn XXST VAHS;
- Đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật có liên quan
và vai trò của luật sư tham gia tố tụng ở giai đoạn XXST VAHS trên cơ sở
các số liệu cụ thể. Từ đó thấy được những hạn chế, cũng như các thuận lợi,
khó khăn của luật sư khi tham gia tố tụng với vai trò là người bào chữa ở giai
đoạn XXST VAHS làm cơ sở cho việc đề xuất ban hành, sửa đổi, bổ sung
một số văn bản pháp luật liên quan.
3.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn gồm hai nhóm đối tượng sau:
- Nghiên cứu các vấn đề về lý luận, các quy định của pháp luật có liên
quan đến vai trò của luật sư tham gia tố tụng ở giai đoạn XXST VAHS với
vai trò là người bào chữa. Liên hệ so sánh giữa các quy định hiện hành và các
14
quy định được ban hành trước đây có liên quan đến phạm vi nghiên cứu của
luận văn.
- Nghiên cứu thực tiễn của việc thi hành pháp luật, về sự tham gia và
vai trò của luật sư, về việc luật sư thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình khi
giam gia TTHS ở giai đoạn XXST.
* Phạm vi nghiên cứu:
Trong giai đoạn XXST VAHS, luật sư có thể tham gia với nhiều tư
cách, như: người bào chữa, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người
bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan… Tuy nhiên, trong phạm vi luận văn này, tác giả chỉ đề cập, nghiên cứu
và giải quyết những vấn đề xung quanh vai trò của luật sư khi tham gia bào
chữa tại giai đoạn XXST VAHS theo quy định của pháp luật; đánh giá tình
hình thực hiện các quy định của pháp luật có liên quan trong thực tiễn, đồng
thời, tìm ra các nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế để từ đó đưa ra những
giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về mặt lập pháp cũng
như việc nâng cao vai trò, hiệu quả hoạt động của luật sư.
Trong khuôn khổ của luận văn, các thông tin, số liệu được lấy từ nguồn
thống kê trong những năm gần đây.
4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật lịch sử và
duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà
nước và pháp luật, quan điểm của Đảng, Nhà nước về xây dựng Nhà nước
pháp quyền, về chính sách hình sự, về phương hướng và nhiệm vụ cải cách tư
pháp… Để thực hiện đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp như phân tích
tổng hợp, lịch sử, thống kê, đối chiếu, so sánh…
5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Luận văn là sự tổng hợp những vấn đề chung nhất về lý luận cũng như
thực tiễn vai trò của luật sư khi tham gia tố tụng ở giai đoạn XXST VAHS với
15
tư cách là người bào chữa, thể hiện được nhiều điểm mới cơ bản so với các
nghiên cứu trước đây, như:
- Tổng hợp được các vấn đề lý luận về XXST VAHS; về quyền bào
chữa của bị cáo; về địa vị pháp lý, quyền, nghĩa vụ của luật sư trong việc thu
thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ; về việc tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm của
luật sư…
- Đánh giá được thực trạng, đưa ra được những nguyên nhân, hạn chế
và đề xuất được các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật,
nâng cao vai trò, hiệu quả hoạt động của luật sư với tư cách là người bào chữa
trong giai đoạn XXST VAHS.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, luận văn có thể có những đóng góp về
mặt lý luận đối với vấn đề vai trò của luật sư - người bào chữa trong VAHS
nói chung và trong giai đoạn XXST VAHS nói riêng. Bên cạnh đó, luận văn
còn chỉ ra được những hạn chế trong thực tiễn tham gia của luật sư vào việc
giải quyết VAHS, nguyên nhân của sự hạn chế đó và đề ra được những giải
pháp nhằm khắc phục những hạn chế, hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao
hiệu quả hoạt động và vai trò của luật sư.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về vai trò của luật sư - người bào
chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Chương 2: Sự tham gia của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự.
Chương 3: Một số phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao vai trò
của luật sư - người bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
16
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ -
NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM
VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN
HÌNH SỰ
1.1.1. Khái niệm giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam năm 2013
quy định: "Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp" [38, Điều 102]. Luật Tổ chức Tòa án
nhân dân năm 2002 quy định: "Trong phạm vi chức năng của mình, Tòa án có
nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa
và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo
vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân" [38, Điều 1].
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ pháp lý thông dụng: "Xét xử là hoạt
động của Tòa án tại phiên tòa để xét xử các chứng cứ và căn cứ vào pháp luật,
xử lý vụ án bằng việc ra bản án và các quyết định của Tòa án".
Theo định nghĩa trên, xét xử không chỉ đơn giản là kiểm tra lại các tài
liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra, truy tố để tuyên án, mà
xét xử là hoạt động đặc biệt mang tính quyền lực Nhà nước, do Tòa án thực
hiện, nhằm giải quyết những vụ án theo quy định của pháp luật. Xét xử được
thực hiện theo một trình tự và theo những nguyên tắc nhất định để giải quyết
vụ án. Thông qua việc xét xử mọi vấn đề của vụ án được làm sáng tỏ, trên cơ
sở đó Tòa án ra các quyết định cần thiết để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
công dân, cơ quan, tổ chức, lợi ích của Nhà nước, bảo vệ chế độ.
Tùy theo từng tiêu chí cụ thể, xét xử được phân biệt như sau:
17
- Phân biệt theo nội dung xét xử: Xét xử tội phạm hình sự, xét xử
tranh chấp dân sự, tranh chấp lao động, xét xử khiếu kiện hành chính…
- Phân biệt theo cấp độ xét xử có: XXST và xét xử phúc thẩm
(XXPT). Ngoài ra còn có trình tự đặc biệt là xét lại bản án và quyết định đã
có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
Việc giải quyết một VAHS được trải qua nhiều giai đoạn tố tụng từ
khởi tố, điều tra, truy tố đến xét xử và thi hành án. XXST là một giai đoạn tố
tụng trong hoạt động TTHS. Vậy giai đoạn TTHS là gì?
Từ trước đến nay, trong pháp luật TTHS nước ta chưa từng có định
nghĩa thế nào là "giai đoạn TTHS". Theo GS, TSKH Lê Cảm, dưới góc độ
khoa học khái niệm giai đoạn TTHS có thể được định nghĩa là:
Bước của quá trình tố tụng hình sự tương ứng với chức năng
nhất định trong hoạt động tư pháp hình sự của từng loại chủ thể tiến
hành tố tụng có thẩm quyền, nhằm thực hiện các nhiệm vụ cụ thể
do luật định, có thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc, để giải
quyết vụ án hình sự một cách công minh và khách quan, có căn cứ
và đúng pháp luật, góp phần củng cố pháp chế và trật tự pháp luật,
bảo vệ vững chắc các quyền và tự do của công dân [4].
Mỗi giai đoạn tố tụng có nhiệm vụ khác nhau, tương ứng với mỗi giai
đoạn đó là chức năng cụ thể của mỗi cơ quan THTT có thẩm quyền. Mỗi giai
đoạn tố tụng kết thúc được đánh dấu bằng một văn bản tố tụng khác nhau,
như: giai đoạn khởi tố kết thúc khi có quyết định khởi tố; giai đoạn điều tra
kết thúc bằng bản kết luận điều tra; giai đoạn truy tố được kết thúc khi có bản
cáo trạng; các giai đoạn xét xử kết thúc khi có bản án, quyết định của Tòa
án… Tuy nhiên, các văn bản tố tụng này là sự thể hiện kết quả của cả quá
trình tố tụng hoàn chỉnh. Trường hợp việc giải quyết vụ án được chấm dứt
giữa chừng vì những lý do nhất định thì mỗi giai đoạn tố tụng có thể được kết
thúc bằng một văn bản tố tụng khác, như: ở giai đoạn khởi tố vụ án có thể là
18
quyết định không khởi tố vụ án, không khởi tố bị can; ở giai đoạn truy tố có
thể là quyết định đình chỉ giải quyết vụ án của VKS; ở giai đoạn XXST có thể
là quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án của Tòa án…
Như vậy, có thể nói: Giai đoạn TTHS là khái niệm dùng để chỉ các
bước của quá trình giải quyết VAHS, mỗi bước có thời điểm bắt đầu và thời
điểm kết thúc riêng, mỗi bước có nhiệm vụ riêng và được thực hiện chủ yếu
bởi cơ quan THTT có chức năng tương ứng nhằm giải quyết VAHS.
Hiệu quả hoạt động của mỗi giai đoạn tố tụng có ý nghĩa riêng trong
toàn bộ quá trình tố tụng, nó có thể là tiền đề cho hoạt động của giai đoạn tố
tụng sau hoặc lại là sự đánh giá, kiểm chứng tính đúng đắn của hoạt động tố
tụng trong giai đoạn trước. Giai đoạn xét xử được xác định là giai đoạn quan
trọng nhất của quá trình giải quyết VAHS, được coi là "hoạt động trọng tâm"
của cả quá trình TTHS, bởi lẽ ở giai đoạn xét xử, sau khi nghiên cứu khách
quan, toàn diện và đầy đủ các tình tiết của vụ án, mọi vấn đề liên quan đến vụ
án như có hành vi phạm tội không, ai đã thực hiện tội phạm đó, có bị chịu
hình phạt không, mức phạt như thế nào… được làm sáng tỏ trong giai đoạn
xét xử. Hay có thể nói, phán quyết cuối cùng có tính quyết định đối với việc
giải quyết một VAHS chủ yếu được thực hiện ở giai đoạn xét xử và bởi tòa án.
Nhằm mục đích xét xử đúng người, đúng tội, áp dụng đúng pháp luật,
không để lọt tội phạm, không xử oan người vô tội, BLTTHS quy định về việc
thực hiện chế độ hai cấp xét xử là XXST và XXPT [33, Điều 20]. Tuy nhiên,
không phải mọi VAHS nếu được đưa ra xét xử thì sẽ đều được xét xử ở cấp
phúc thẩm, bởi lẽ, chỉ có những "bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo,
kháng nghị" thì mới có khả năng được xét xử ở cấp phúc thẩm. Nói "có khả
năng" vì không phải mọi bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án có kháng cáo,
kháng nghị đều đương nhiên được xem xét, giải quyết ở cấp phúc thẩm mà
còn phụ thuộc nhiều yếu tố như việc kháng cáo, kháng nghị đó do ai thực
hiện, có phải do chủ thể có quyền kháng cáo, kháng nghị thực hiện không, có
19
theo đúng trình tự, thủ tục và có trong thời hạn pháp luật cho phép không…
Việc giải quyết vụ án theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm cũng không phải
sẽ được thực hiện ở mọi vụ án, vì chỉ có những bản án, quyết định của Tòa án
đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng
trong quá trình giải quyết hoặc có những tình tiết mới được phát hiện có thể
làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định mà Tòa án không
biết được khi ra bản án, quyết định đó thì bản án, quyết định đó mới có thể
được xem xét, giải quyết theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Trong
khi đó, XXST là thủ tục bắt buộc đối với mọi vụ án nếu được tòa án đưa ra
xét xử. Các thủ tục XXPT, giám đốc thẩm hay tái thẩm đối với vụ án chỉ có
thể được thực hiện khi thuộc các trường hợp như đã phân tích ở trên, nó có
thể xảy ra hoặc không xảy ra. Như vậy, có thể khẳng định, XXST có vai trò
và ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình giải quyết VAHS.
Để thấy rõ vai trò của giai đoạn XXST VAHS, chúng ta cần hiểu rõ
thế nào là XXST VAHS. Việc tìm hiểu, giải thích, làm sáng tỏ khái niệm
XXST VAHS có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất lớn, không chỉ nhằm nâng
cao chất lượng, hiệu quả xét xử mà còn có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt
động của các cơ quan THTT, người THTT và người tham gia tố tụng.
Nếu như XXPT VAHS được pháp luật quy định "là việc Tòa án cấp
trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án,
quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo
hoặc kháng nghị" [33, Điều 230] thì XXST VAHS lại không được pháp luật
định nghĩa cụ thể. Do đó, hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về XXST
VAHS, tuy nhiên, có thể tổng hợp lại thành các loại quan điểm về XXST
VAHS như sau:
- Quan điểm thứ nhất: XXST là một giai đoạn tố tụng mà ở đó đòi hỏi
những người THTT và người tham gia tố tụng phải tập trung trí tuệ xử lý các
tình huống một cách nhanh chóng, các lý lẽ đưa ra không chỉ chính xác mà
20
phải có tính thuyết phục, đồng thời lại phải tuân theo những quy định của
pháp luật [28, tr. 7]. XXST là giai đoạn trung tâm, quyết định quá trình giải
quyết vụ án từ khi khởi tố, điều tra đến khi đưa bị cáo ra tòa [28, tr. 131].
- Quan điểm thứ hai: XXST VAHS là giai đoạn kế tiếp giai đoạn truy
tố. Trong giai đoạn này, Tòa án có thẩm quyền tiến hành nghiên cứu hồ sơ, ra
các quyết định cần thiết về việc giải quyết VAHS, mở phiên tòa nhằm xem
xét, đánh giá công khai các chứng cứ để ra bản án, quyết định tội danh của bị
cáo, hình phạt, các biện pháp tư pháp cũng như ra các quyết định cần thiết
khác [47, tr. 233].
- Quan điểm thứ ba: XXST VAHS là một giai đoạn của TTHS, trong
đó tòa án có thẩm quyền tiến hành xem xét và giải quyết VAHS, ra bản án,
quyết định tố tụng theo quy định của pháp luật nhằm bảo vệ chế độ, pháp chế
XHCN, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân góp phần đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Phán quyết
của XXST là những phán quyết đầu tiên của Tòa án đối với một vụ án, nó cũng
có thể là phán quyết cuối cùng trong trường hợp không có kháng cáo, kháng nghị.
Các quan điểm nêu trên đã ít nhiều phản ánh được bản chất của hoạt
động XXST VAHS. Tuy nhiên theo tác giả, từng quan điểm nêu trên ít nhiều
vẫn chưa có được sự chính xác, chưa thể hiện được đầy đủ tính chất của
XXST VAHS, cụ thể:
- Quan điểm thứ nhất và thứ hai chưa thể hiện được đầy đủ tính chất của
XXST, chưa phân biệt được XXST với XXPT hay giám đốc thẩm, tái thẩm.
- Quan điểm thứ ba cho rằng phán quyết của XXST là phán quyết đầu
tiên của Tòa án đối với một vụ án… là chưa chính xác bởi lẽ một VAHS có
thể trải qua nhiều lần XXST, ở lần XXST đầu tiên Hội đồng xét xử (HĐXX)
có thể quyết định trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung hoặc bản án, quyết định
của lần XXST lần đầu tiên này có thể bị kháng cáo, kháng nghị và khi XXPT
Tòa án cấp phúc thẩm tuyên hủy bản án, quyết định sơ thẩm lần đầu tiên đó
21
để XXST lại. Khi XXST lại, HĐXX lại ra phán quyết khác (có thể nội dung
của phán quyết này không có gì thay đổi so với nội dung phán quyết trong
bản án, quyết định của lần xử sơ thẩm trước) thì phán quyết này cũng không
thể coi là phán quyết đầu tiên đối với vụ án (bởi trước đó đã có phán quyết
của lần xử sơ thẩm trước, phán quyết của tòa án cấp phúc thẩm…). Như vậy,
không thể nói XXST là xét xử lần đầu tiên đối với VAHS.
Theo tác giả, XXST VAHS nên được định nghĩa như sau: XXST VAHS
là một giai đoạn của hoạt động TTHS, ở đó, Tòa án cấp thứ nhất thực hiện
việc xem xét, đánh giá chứng cứ, các tình tiết của vụ án một cách công khai,
khách quan, toàn diện…, trên cơ sở đó Tòa án áp dụng các quy định của
pháp luật có liên quan ra bản án hoặc các quyết định tố tụng cần thiết để giải
quyết vụ án; bản án, quyết định trong giai đoạn XXST chưa có hiệu lực ngay
và có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật.
Giai đoạn XXST được bắt đầu kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án và kết
thúc khi phiên tòa sơ thẩm kết thúc. Trên cơ sở tính chất, chức năng, nhiệm
vụ của mình, XXST VAHS có những đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất: XXST VAHS là một giai đoạn của hoạt động TTHS. Nói
XXST là một giai đoạn của hoạt động tố tụng vì cũng như các giai đoạn khác
của hoạt động TTHS, XXST VAHS có thời điểm bắt đầu và thời điểm kết
thúc riêng; do các chủ thể THTT thực hiện mà trung tâm là Tòa án; kết quả
của hoạt động xét xử là việc HĐXX ra bản án, quyết định tố tụng để giải
quyết vụ án… Trong XXST VAHS, Tòa án là chủ thể THTT chính, có vai trò
trung tâm và chỉ có Tòa án mới có chức năng xét xử. Nhiệm vụ của Tòa án là
phải xem xét, thẩm tra đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của KSV, của
người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và
những người có liên quan để ra bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức
thuyết phục, bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
22
Thứ hai: Cơ sở của XXST là bản cáo trạng của VKS. Chỉ khi đã có
bản cáo trạng truy tố bị can thì Tòa án mới có thể tiến hành xem xét việc xét
xử vụ án.
Thứ ba: Theo quy định, thành phần HĐXX sơ thẩm:
Gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm, trường hợp vụ án có
tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì Hội đồng xét xử có thể gồm hai
Thẩm phán và ba Hội thẩm; đối với vụ án mà bị cáo bị đưa ra xét
xử về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình thì Hội
đồng xét xử gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm [33, Điều 185].
Trong khi đó, thành phần HĐXX phúc thẩm "gồm ba Thẩm phán và
trong trường hợp cần thiết có thể có thêm hai Hội thẩm" [33, Điều 244]. Như
vậy, tại giai đoạn XXST VAHS bắt buộc phải có Hội thẩm.
Thứ tư: Kết quả hoạt động của giai đoạn XXST VAHS là việc HĐXX
ra bản án, quyết định để giải quyết vụ án. Nội dung của bản án, quyết định đó
có thể là tuyên bố bị cáo phạm tội và áp dụng mức hình phạt tương xứng, có
thể là tuyên bố bị cáo không phạm tội, đình chỉ giải quyết vụ án… Những bản
án, quyết định này không có hiệu lực ngay và có thể bị kháng cáo, kháng nghị
theo thủ tục phúc thẩm. Đây là đặc trưng cơ bản nhất của XXST nói chung và
XXST VAHS nói riêng.
Mặc dù XXST VAHS là một giai đoạn trong quá trình giải quyết một
VAHS, tuy nhiên có thể chia giai đoạn XXST VAHS thành hai bước hoặc hai
giai đoạn nhỏ, đó là: Chuẩn bị XXST VAHS và phiên tòa sơ thẩm VAHS,
mỗi giai đoạn có những nhiệm vụ riêng, cụ thể.
* Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Chuẩn bị XXST VAHS được bắt đầu kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án và
kết thúc khi phiên tòa được mở. Trong giai đoạn này, Tòa án thực hiện việc
nghiên cứu hồ sơ, giải quyết các yêu cầu của những người tham gia tố tụng,
đồng thời tiến hành những việc cần thiết cho việc mở phiên tòa sơ thẩm.
23
Chuẩn bị XXST VAHS có vị trí quan trọng trong hoạt động tố tụng và
được quy định trong một chương riêng trong BLTTHS năm 2003 (chương
XVII), nhưng đến nay pháp luật chưa có khái niệm cụ thể thế nào là chuẩn bị
XXST VAHS mà chỉ quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử, nội dung các công
việc cụ thể, nhiệm vụ của các chủ thể THTT trong giai đoạn chuẩn bị xét xử.
Theo tác giả, khái niệm chuẩn bị xét xử VAHS có thể được định nghĩa như
sau: Chuẩn bị xét xử VAHS là hoạt động TTHS do những người tiến hành
TTHS có thẩm quyền thực hiện từ khi thụ lý vụ án đến khi mở phiên tòa và
được tiến hành theo trình tự pháp luật quy định. Cũng theo đó, chuẩn bị
XXST VAHS là hoạt động TTHS do những người tiến hành TTHS có thẩm
quyền thực hiện từ khi thụ lý vụ án đến khi mở phiên tòa sơ thẩm và được tiến
hành theo trình tự pháp luật quy định.
Chuẩn bị XXST VAHS là giai đoạn đầu tiên trong XXST VAHS,
thông qua hoạt động chuẩn bị xét xử, Tòa án mà trực tiếp là Thẩm phán được
phân công chủ tọa phiên tòa (trong trường hợp vụ án được đưa ra xét xử) có
nhiệm vụ "nghiên cứu hồ sơ, giải quyết các khiếu nại và yêu cầu của những
người tham gia tố tụng và tiến hành những việc khác cần thiết cho việc mở
phiên tòa" [33, Điều 176]. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán được
phân công chủ tọa phiên tòa phải ra một trong những quyết định sau: (i) Đưa
vụ án ra xét xử; hoặc (ii) Trả hồ sơ để điều tra bổ sung; hoặc (iii) Đình chỉ
hoặc tạm đình chỉ vụ án.
Thời hạn chuẩn bị XXST VAHS là ba mươi ngày đối với tội phạm ít
nghiêm trọng, bốn mươi lăm ngày đối với tội phạm nghiêm trọng, hai tháng
đối với tội phạm rất nghiêm trọng, ba tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng. Thời hạn được tính từ ngày Tòa án nhận hồ sơ vụ án. Đây là khoảng
thời gian để những người THTT thực hiện hoạt động TTHS trước khi XXST
vụ án và thực hiện các công việc cần thiết khác chuẩn bị cho việc mở phiên
tòa hoặc quyết định trả hồ sơ đề điều tra bổ sung, đình chỉ hoặc tạm đình chỉ
24
vụ án. Trường hợp vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn thì thời hạn
chuẩn bị xét xử là bảy ngày kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án.
Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, các thành viên HĐXX sẽ nghiên cứu
hồ sơ để xem xét vụ án có thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án không, có
cần chuyển, tách, nhập vụ án không? Thủ tục tố tụng trong quá trình điều tra,
truy tố đã đúng và đầy đủ chưa? Có cần áp dụng, thay đổi hay hủy bỏ biện
pháp ngăn chặn không? Hồ sơ vụ án đã có đủ tài liệu, chứng cứ để làm rõ
những vấn đề phải chứng minh chưa? Hành vi được mô tả trong bản kết luận
điều tra và cáo trạng có cấu thành tội phạm không? Việc định tội danh, viện
dẫn căn cứ pháp luật trong bản cáo trạng đã đúng chưa?... Trên cơ sở kết quả
nghiên cứu, Thẩm phán được giao nhiệm vụ chủ tọa phiên tòa (nếu vụ án
được đưa ra xét xử) sẽ ra một trong các quyết định nêu trên (quyết định đưa
vụ án ra xét xử; hoặc quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung; hoặc quyết
định đình chỉ hoặc quyết định tạm đình chỉ vụ án).
Ngoài ra, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Tòa án cũng thực hiện một
số hoạt động tố tụng khác như giải quyết các khiếu nại, tố cáo của những
người có liên quan, tống đạt các văn bản tố tụng, thông báo triệu tập những
người cần xét hỏi đến phiên tòa, chuẩn bị phòng xử án cho phiên tòa…
Tất cả các hoạt động trên trong giai đoạn chuẩn bị xét xử là nhằm
chuẩn bị cho phiên tòa được diễn ra theo đúng trình tự, thủ tục và thời gian
pháp luật quy định, đảm bảo cho phiên tòa được diễn ra đúng quy định, xét xử
đúng người, đúng tội, áp dụng đúng pháp luật, nhanh chóng, công minh, kịp
thời, giúp cho bản án, quyết định của Tòa án được ban hành có hiệu lực và
hiệu quả cao.
* Phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự
Phiên tòa là nơi diễn ra các hoạt động quan trọng nhất, quyết định nhất
đối với việc giải quyết các vụ án nói chung và VAHS nói riêng. Việc xét xử
được thực hiện bởi một HĐXX gồm có một Thẩm phán và hai Hội thẩm;
25
trường hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì HĐXX có thể gồm
có hai Thẩm phán và ba Hội thẩm; vụ án mà bị cáo bị đưa ra xét xử về tội
theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình thì HĐXX gồm hai Thẩm
phán và ba Hội thẩm [33, Điều 185]. KSV sẽ đại diện VKS trong việc thực
hành quyền công tố, đưa ra lời buộc tội đối với bị cáo và quan điểm giải quyết
vụ án, kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên tòa. Những người tham gia
tố tụng bao gồm bị cáo, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng, người làm chữa, người
phiên dịch, người giám định…
Theo quy định của BLTTHS năm 2003, phiên tòa XXST VAHS bao
gồm các phần sau: Thủ tục bắt đầu phiên tòa, thủ tục xét hỏi tại phiên tòa,
tranh luận tại phiên tòa, nghị án và tuyên án.
Tại phiên tòa, việc xét hỏi có ý nghĩa như hoạt động điều tra công
khai. Sau khi việc xét hỏi kết thúc, bên buộc tội (VKS) và bên gỡ tội (bị cáo,
người bào chữa) sẽ tranh luận nhằm đưa ra các căn cứ, lý lẽ để bảo vệ quan
điểm của mình. HĐXX điều khiển để việc tranh luận diễn ra theo đúng quy
định. Trên cơ sở kết quả tranh luận, HĐXX nghị án và ra bản án, quyết định
với nội dung cơ bản là trình bày hành vi của bị cáo mà VKS đã truy tố và
được đưa ra xét xử tại phiên tòa, phân tích những chứng cứ xác định bị cáo có
tội hoặc chứng cứ xác định bị cáo không có tội, xác định bị cáo có phạm tội
hay không và nếu bị cáo phạm tội thì phạm tội gì, theo điều khoản nào của Bộ
luật hình sự (BLHS), các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
(TNHS) và cần phải xử lý như thế nào; nếu bị cáo không phạm tội thì chỉ rõ
những căn cứ xác định bị cáo không có tội và giải quyết việc khôi phục danh
dự, quyền và lợi ích hợp pháp của họ… [33, Điều 224].
Như vậy, tại phiên tòa, quyết định về việc giải quyết vụ án sẽ được
HĐXX đưa ra trên cơ sở giải quyết nhiệm vụ trọng tâm của giai đoạn xét xử
là xác định sự thật khách quan của vụ án. Chỉ có xác định được sự thật
26
khách quan của vụ án thì mới có thể giải quyết vụ án một cách chính xác,
đúng pháp luật.
1.1.2. Ý nghĩa của giai đoạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự
Xuất phát từ nhiệm vụ chủ yếu và quan trọng nhất của XXST VAHS
là giải quyết đúng đắn, khách quan vụ án, xét xử đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm… nên XXST có
vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình giải quyết VAHS.
Thông qua việc xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm, Tòa án thực hiện việc
điều tra công khai, trực tiếp các tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ án với sự
tham gia của cả bên buộc tội và bên gỡ tội, những người tham gia tố tụng
khác để khẳng định tính hợp pháp, tính khách quan và tính liên quan của các
chứng cứ đã được thu thập trong các giai đoạn điều tra, truy tố và cả những
chứng cứ thu thập được tại phiên tòa. Thông qua việc xét hỏi công khai, Tòa
án vừa có thể thu thập thêm các chứng cứ quan trọng, vừa có thể xem xét,
đánh giá được những chứng cứ khác, khắc phục được những thiếu sót, sai lầm
trong hoạt động tố tụng trước đó. Bên cạnh đó, hoạt động tranh luận tại phiên
tòa cũng có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc giải quyết vụ án. Thông qua
việc tranh luận, các bên đưa ra được những lý lẽ để bảo vệ quan điểm của mình.
Tại phiên tòa sơ thẩm, các nguyên tắc TTHS cơ bản cũng được thực
hiện đầy đủ nhất như nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật,
nguyên tắc không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của tòa án đã có
hiệu lực pháp luật, nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành
hoặc tham gia tố tụng, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo…
Quyền bào chữa của bị cáo thể hiện bằng việc bị cáo có thể tự mình bào chữa
hoặc nhờ người khác bào chữa thông qua quá trình tranh tụng và "đỉnh cao
của quá trình đó là ở phiên tòa sơ thẩm" [7, tr. 20]. Tại phiên tòa, những
người tham gia tố tụng được bình đẳng với nhau và bình đẳng với cả VKS
trong việc xuất trình các chứng cứ, tranh luận và đưa ra các yêu cầu… Từ đó
27
đảm bảo cho bản án, quyết định của Tòa án được ban hành một cách chính
xác, khách quan, công minh.
Thông qua XXST VAHS, các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ
chức, quyền tự do dân chủ của công dân, lợi ích của Nhà nước được bảo vệ.
Thông qua XXST VAHS, chức năng giáo dục mọi người ý thức tuân
theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm của Tòa án cũng
được thể hiện. Một bản án được tuyên khách quan, công bằng, đúng pháp luật
không chỉ có tác dụng trừng trị, răn đe, giáo dục người phạm tội mà nó còn có
tác dụng giáo dục, tuyên truyền chung đối với toàn xã hội, giúp người dân
nâng cao ý thức, sự hiểu biết pháp luật, giúp họ hiểu rõ quan điểm, chính sách
của Nhà nước đối với người phạm tội để tránh vi phạm pháp luật và có những
hành vi, ứng xử phù hợp.
Xét xử sơ thẩm VAHS có vai trò quan trọng còn thể hiện ở chỗ XXST
có mối quan hệ chặt chẽ với các hoạt động TTHS khác. Toàn bộ các hoạt động
khởi tố, điều tra, truy tố chỉ nhằm mục đích thu thập chứng cứ phục vụ cho hoạt
động xét xử. Bản án, quyết định của Tòa án được tuyên khách quan, toàn diện,
chính xác sẽ tạo lòng tin trong nhân dân, làm giảm tỷ lệ kháng cáo, kháng nghị
theo trình tự phúc thẩm, góp phần tiết kiệm thời gian, tiền bạc của Nhà nước,
nhân dân, nâng cao chất lượng, uy tín của Tòa án và các cơ quan tư pháp.
1.2. ĐỊA VỊ PHÁP LÝ VÀ VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ - NGƯỜI BÀO CHỮA
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.2.1. Địa vị pháp lý của luật sư - người bào chữa trong tố tụng
hình sự
* Khái niệm luật sư
Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau trong việc định nghĩa về luật
sư, trong đó có thể kể ra một số quan điểm sau đây:
Quan điểm thứ nhất: "Luật sư là người có chức trách, dùng pháp luật
bào chữa cho bị can trước tòa án" [62, tr. 1059]. Theo tác giả, quan điểm này
28
cho rằng luật sư là người "dùng pháp luật bào chữa cho bị can trước tòa án" là
chưa chính xác vì theo quy định, người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử
được gọi là "Bị cáo" mà không phải là bị can [33, Điều 50]; không phải chỉ có
luật sư mới "dùng pháp luật bào chữa" mà ngoài luật sư còn có các chủ thể
khác cũng có thể "dùng pháp luật bào chữa", đó là người đại diện hợp pháp của
bị cáo, là bào chữa viên nhân dân. Ngoài ra, trong hoạt động nghề nghiệp của
mình, luật sư còn có thể bào chữa cho cả người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong
VAHS hoặc thực hiện các dịch vụ pháp lý khác theo yêu cầu của khách hàng.
Quan điểm thứ hai: Luật sư là người hoạt động bào chữa chuyên
nghiệp hoạt động trong đoàn luật sư. Quan điểm này còn rất chung chung và
chưa đầy đủ vì trên thực tế, ngoài hoạt động bào chữa, luật sư còn thực hiện
các dịch vụ pháp lý khác theo yêu cầu của khách hàng như tham gia bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong các VAHS, dân sự, lao động,
tham gia tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng…
Pháp luật các nước trên thế giới thường không đưa ra khái niệm luật
sư mà chỉ quy định về tiêu chuẩn để trở thành luật sư. Tiêu chuẩn phổ biến để
một người có thể được công nhận là luật sư bao gồm người đó phải là công
dân ở nước sở tại, có bằng cử nhân luật và có phẩm chất đạo đức tốt. Ở nước
ta, Luật Luật sư năm 2006 cũng không định nghĩa thế nào là luật sư mà chỉ
quy định: Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy
định của pháp luật, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của khách hàng;
hoạt động nghề nghiệp của luật sư nhằm góp phần bảo vệ công lý, phát triển
kinh tế và xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Một người có đủ
các tiêu chuẩn sau thì có thể trở thành luật sư: Là công dân Việt Nam trung
thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức
tốt, có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập
sự hành nghề luật sư, có sức khỏe bảo đảm hành nghề luật sư. Điều kiện hành
29
nghề luật sư: Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều 10 của Luật luật sư
muốn được hành nghề luật sư phải có chứng chỉ hành nghề luật sư và gia
nhập một Đoàn luật sư [36, Điều 2, 3, 10, 11].
Như vậy, cho đến nay chưa có định nghĩa chính thức về luật sư. Tuy
nhiên, tác giả đồng ý với quan điểm sau: "Luật sư là danh từ chỉ người được
công nhận là luật sư khi có đủ tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật và hành
nghề luật sư là việc luật sư được làm những việc theo chuyên môn, nghề
nghiệp của mình đã được pháp luật quy định" [52]. Những việc theo chuyên
môn, nghề nghiệp đó có thể là tham gia VAHS với tư cách là người bào chữa
cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc với tư cách là người bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền, lợi
ích liên quan trong VAHS, hoặc thực hiện các dịch vụ pháp lý khác của khách
hàng theo quy định của pháp luật.
* Khái niệm người bào chữa
Trong quá trình giải quyết VAHS, người bào chữa có vai trò quan
trọng góp phần giúp Tòa án xét xử đúng người, đúng tội, áp dụng đúng pháp
luật. Tuy nhiên, cho đến nay trong lý luận pháp lý và thực tiễn TTHS vẫn
chưa có khái niệm chính thức và thống nhất về người bào chữa.
Có ý kiến cho rằng: Người bào chữa là người giúp đỡ Tòa án trong
việc xác định tất cả các tình tiết cần thiết về vụ án để cuối cùng Tòa án ra một
bản án có căn cứ và đúng pháp luật. Quan điểm khác cho rằng "Người bào
chữa là người thực hiện việc bảo vệ các quyền và lợi ích của người bị tình
nghi và bị can và giúp họ về mặt pháp lý trong quá trình tố tụng đối với vụ án
theo thủ tục quy định tại Bộ luật này" [56, Điều 49]. Hoặc:
Người bào chữa là thuật ngữ chỉ về những người có kiến
thức pháp luật và kinh nghiệm hoạt động tố tụng thay mặt thân chủ
tham gia tố tụng trong một vụ án hình sự để biện hộ, bảo vệ cho
thân chủ của mình để chống lại sự buộc tội, truy tố hoặc một sự tố
30
cáo, giúp làm giảm trách nhiệm hình sự cho thân chủ của họ đồng
thời cũng có thể giúp cơ quan có chức năng làm sáng tỏ các tình
tiết vụ án, họ có quyền tranh tụng với các chủ thể khác trong quá
trình xử lý vụ án hình sự [48].
Người bào chữa là người tham gia tố tụng với nhiệm vụ và mục đích
là làm sáng tỏ những tình tiết của vụ án nhằm giúp chứng minh sự vô tội hoặc
giảm nhẹ TNHS cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và giúp người tạm giữ,
bị can, bị cáo về mặt pháp lý để bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của
họ [1, tr. 115].
Các quan điểm trên chủ yếu mới chỉ nói lên mục đích tham gia tố tụng
của người bào chữa mà chưa làm rõ và đầy đủ bản chất, vai trò, địa vị pháp lý
của người bào chữa, cũng như chưa phân biệt được người bào chữa với người
THTT, với người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Theo tác giả, trên cơ sở các
quy định tại các Điều 56, 57, 58 và các quy định khác của BLTTHS năm
2003, có thể đưa ra định nghĩa về người bào chữa như sau: Người bào chữa là
người tham gia TTHS do được mời hoặc được yêu cầu và được cơ quan
THTT có thẩm quyền chấp thuận để giúp chứng minh sự vô tội hoặc làm giảm
nhẹ TNHS của người bị buộc tội, giúp người bị buộc tội về mặt pháp lý nhằm
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, qua đó góp phần giúp Tòa án giải
quyết vụ án một cách nhanh chóng, chính xác, công minh.
* Địa vị pháp lý của luật sư - người bào chữa trong tố tụng hình sự
Theo Từ điển luật học:
Địa vị pháp lý là vị trí của chủ thể pháp luật trong mối quan
hệ với những chủ thể pháp luật khác trên cơ sở các quy định của
pháp luật. Địa vị pháp lý của chủ thể pháp luật thể hiện thành một
tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể, qua đó xác lập
cũng như giới hạn khả năng của chủ thể trong các hoạt động của
mình [59, tr. 244].
31
Theo định nghĩa này thì địa vị pháp lý của luật sư tham gia giai đoạn
XXST VAHS với tư cách là người bào chữa là tổng thể các quyền năng cũng
như nghĩa vụ, trách nhiệm của luật sư thể hiện trong các quy định của pháp
luật về quyền và nghĩa vụ của luật sư ở giai đoạn XXST VAHS.
Luật sư tham gia TTHS với tư cách là người bào chữa "có nghĩa là
thực hiện vai trò của người bào chữa là một trong những người tham gia tố
tụng vì công lý" [8, tr. 152]. Tính chất vì công lý đó thể hiện ở chỗ:
Luật sư bào chữa là người không có quyền, nghĩa vụ liên
quan đến vụ án nhưng họ tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi cho
khách hàng của mình, đồng thời góp phần giúp các cơ quan tố tụng
hình sự làm rõ sự thật vụ án; là lực lượng đối trọng với bên buộc tội
trong tranh tụng để đảm bảo tính dân chủ, khách quan và tránh được
những sai lầm phiến diện trong giải quyết vụ án hình sự [61, tr. 121].
Trong VAHS, luật sư có thể tham gia với tư cách là người bào chữa
cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
cho người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi ích
liên quan đến vụ án… Tuy nhiên, địa vị pháp lý và vai trò của luật sư được
thể hiện rõ nét nhất khi luật sư tham gia VAHS với vai trò là người bào chữa.
Luật sư bào chữa là luật sư tham gia tố tụng với tư cách
người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nhằm bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của người được bào chữa, đồng thời góp
phần đảm bảo công lý trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, qua
đó phát triển kinh tế, xã hội và xây dựng xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh [61, tr. 120-121].
Theo quy định của BLTTHS người bào chữa có thể là Luật sư; Người
đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; Bào chữa viên nhân
dân [33, Điều 56].
32
Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy
định của pháp luật và thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của khách
hàng [36, Điều 2, 10, 11].
Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có thể là
bố mẹ đẻ, bố mẹ nuôi, người đỡ đầu, anh chị em ruột và những người theo
quy định của pháp luật đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa
thành niên, người có nhược điểm về thất chất hoặc tinh thần. Những người đại
diện hợp pháp này nhất thiết phải là người đã thành niên, có năng lực hành vi
dân sự đầy đủ.
Bào chữa viên nhân dân là người được tổ chức, đoàn thể xã hội cử ra
để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Hiện nay, pháp luật còn
thiếu các quy định cụ thể về bào chữa viên nhân dân và trong thực tế hoạt
động bào chữa viên nhân dân cũng không được tổ chức thành một hệ thống.
Như vậy, có thể thấy trong ba nhóm người bào chữa nêu trên, chỉ có
luật sư là người bào chữa được quy định chặt chẽ, cụ thể về điều kiện, tiêu
chuẩn cũng như cách thức hoạt động. Xuất phát từ các quy định này và từ
nhiều lý do khác nhau nên trong thực tiễn TTHS hiện nay, người bào chữa
chủ yếu là luật sư, còn bào chữa viên nhân dân và người đại diện hợp pháp
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chỉ tồn tại trong pháp luật thực định mà
rất ít có sự tham gia bào chữa trong thực tế.
Mặc dù có vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho người bị buộc tội, giúp các cơ quan THTT trong việc điều tra,
truy tố và xét xử VAHS một cách nhanh chóng, khách quan, chính xác; "việc
bào chữa của luật sư với mục đích góp phần đi tìm công lý, không được làm
oan người vô tội nhưng cũng không để lọt tội phạm" [50, tr. 24], và trên thực
tế luật sư là người bào chữa chủ yếu, nhưng hiện nay, vị trí và vai trò của luật
sư với tư cách là người bào chữa trong XXST VAHS vẫn có nhiều quan điểm
khác nhau. Có người cho rằng luật sư là người bào chữa, là người tham gia tố
33
tụng độc lập. Quan điểm khác cho rằng luật sư trong TTHS là người đại diện
của bị can, bị cáo. Một số người khác lại có quan điểm luật sư là chủ thể độc
lập trong tố tụng, đồng thời là người đại diện cho lợi ích hợp pháp của bị can,
bị cáo [49, tr. 43].
Theo Tiến sĩ Phạm Hồng Hải, khi tham gia bào chữa trong giai đoạn
XXST VAHS, luật sư không phải là người tham gia tố tụng độc lập, vì mối
quan hệ giữa luật sư và bị cáo chỉ được thiết lập khi bị cáo hoặc người đại
diện hợp pháp, người thân của họ mời luật sư cho họ và được cơ quan THTT
chấp nhận, hoặc luật sư được cơ quan THTT đề nghị cử luật sư cho người này
và được họ đồng ý. Do đó, có thể khẳng định ý chí của bị cáo luôn là yếu tố
quyết định có hay không có sự tham gia của luật sư. Xuất phát từ ý chí chủ
quan của mình, bị cáo có thể từ chối luật sư ở bất kỳ giai đoạn nào của quá
trình tố tụng nếu họ nhận thấy sự tham gia của luật sư là không còn cần thiết,
không thể giúp đỡ gì hoặc làm xấu hơn tình trạng của họ [21, tr. 13].
Theo tác giả, khi tham gia với tư cách là người bào chữa trong XXST
VAHS, luật sư là người tham gia tố tụng độc lập nhưng chỉ là độc lập tương
đối. Tính độc lập tương đối thể hiện ở chỗ, mặc dù luật sư được tự mình thực
hiện các hoạt động tố tụng cần thiết như thực hiện các hoạt động nhằm thu
thập chứng cứ, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật; luật sư có quyền trình bày
quan điểm của mình mà không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của bị cáo, có
quyền kháng cáo, khiếu nại các bản án, quyết định, hành vi tố tụng và trong
mọi trường hợp, luật sư chỉ căn cứ vào các quy định của pháp luật để bảo vệ
quyền, lợi ích của bị cáo; luật sư không có nghĩa vụ phải bào chữa theo yêu
cầu của bị cáo nếu những yêu cầu đó là không có căn cứ, trái pháp luật…
Tính độc lập của luật sư còn được thể hiện ở chỗ: "Luật sư hành nghề độc lập
trên cơ sở pháp luật và quy tắc đạo đức nghề nghiệp chứ không chịu bất kỳ áp
lực, một cản trở nào từ bên ngoài, thậm chí, từ lợi ích cá nhân của chính bản
thân luật sư" [50, tr. 21]. Tuy nhiên, mọi hoạt động này của luật sư lại được
34
xuất phát và phụ thuộc vào thái độ của bị cáo đối với luật sư, và luật sư sẽ
không thể thực hiện hoặc tiếp tục thực hiện các hoạt động tố tụng này nếu bị
cáo từ chối luật sư.
Để tạo điều kiện cho luật sư tham gia tố tụng trong XXST VAHS với
tư cách là người bào chữa thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, pháp luật
đã quy định rõ cho họ có những quyền, nghĩa vụ nhất định.
* Quyền và nghĩa vụ của luật sư - người bào chữa trong tố tụng
hình sự
- Quyền của luật sư - người bào chữa trong tố tụng hình sự
Quyền của luật sư tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa
trong TTHS được quy định tập trung tại các Điều 56, 58 BLTTHS năm 2003,
ngoài ra, còn được quy định rải rác tại các điều khoản khác trong BLTTHS
năm 2003 như quy định về quyền bình đẳng trước Tòa án (Điều 19), các quy
định về nghĩa vụ từ chối tham gia với tư cách là người giám định, người phiên
dịch (Điều 60, 61), quyền được giao quyết định đưa vụ án ra xét xử (Điều 182),
được tiếp xúc với bị cáo tại phiên tòa (Điều 188), quyền gửi trước bản bào
chữa cho Tòa án (Điều 190), quyền trình bày nhận xét của mình về các tài liệu
được xem xét tại phiên tòa, về nơi đã xảy ra tội phạm hoặc những địa điểm
khác có liên quan đến vụ án, về kết luận giám định (Điều 213, 214, 215),
được Tòa án giao bản án (Điều 229)…, các quy định trong Luật Luật sư.
Về thời điểm tham gia bào chữa của luật sư: Luật sư có quyền tham
gia tố tụng để bào chữa từ khi khởi tố bị can hoặc từ khi có quyết định tạm
giữ trong trường hợp bắt người phạm tội quả tang, người đang bị truy nã, bắt
người trong trường hợp khẩn cấp; trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với
tội xâm phạm an ninh quốc gia thì luật sư có thể tham gia tố tụng từ khi kết
thúc điều tra [33, Điều 58]. So với BLTTHS năm 1988 thì BLTTHS năm
2003 cho phép người bào chữa tham gia tố tụng sớm hơn (có thể tham gia từ
khi có quyết định tạm giữ trong trường hợp bắt người phạm tội quả tang,
35
người đang bị truy nã, bắt người trong trường hợp khẩn cấp). Đây là điểm
mới tiến bộ và quan trọng của BLTTHS năm 2003 nhằm đảm bảo quyền tự
do, dân chủ của công dân, nâng cao trách nhiệm của cơ quan THTT, người
THTT, mở rộng hơn nữa biện pháp bảo đảm thực hiện quyền bào chữa của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Luật sư có thể tham gia theo đề nghị của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo, người thân thích của họ hoặc tham gia theo yêu cầu của cơ quan THTT.
Luật sư có thể bào chữa cho nhiều người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong cùng
một vụ án, nếu quyền và lợi ích của họ không đối lập nhau; nhiều luật sư có
thể cùng bào chữa cho một người bị tạm giữ, bị can, bị cáo [33, Điều 56].
Thực tế cho thấy, các hoạt động tố tụng ban đầu có ý nghĩa rất quan
trọng đối với việc giải quyết vụ án, có ảnh hưởng tới các hoạt động tố tụng
sau đó. Về phía luật sư, việc tham gia vụ án sớm giúp luật sư có điều kiện
thuận lợi trong việc thu thập chứng cứ gỡ tội hoặc những tình tiết giảm nhẹ
TNHS cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, giúp luật sư có những điều kiện
pháp lý cần thiết để việc bào chữa đạt được hiệu quả cao. Tham gia tố tụng
sớm, luật sư có điều kiện giám sát các hoạt động của ĐTV, hạn chế những sai
sót hoặc những vi phạm pháp luật trong việc bắt, giam giữ, bức cung, dùng
nhục hình… Khi có sự tham gia của luật sư, người bị tạm giữ, bị can sẽ bình
tĩnh hơn, tự tin hơn trong quá trình làm việc với CQĐT. Trên thực tế, trong
các vụ án có oan, sai, vai trò của người bào chữa chưa được khẳng định đúng
mức, một phần là do người bào chữa chưa được tham gia đầy đủ ngay từ đầu
quá trình tố tụng.
Quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi
cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm
giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác; xem các
biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết
định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa [33, Điều 58].
36
Đây là những quyền mới của luật sư được BLTTHS năm 2003 bổ
sung thêm so với BLTTHS năm 1988. Việc quy định như vậy phù hợp với
quy định về thời điểm tham gia tố tụng của luật sư, đồng thời, tạo cho luật sư
thực hiện việc giám sát đối với các hoạt động của ĐTV, đặc biệt là giám sát
các nội dung được thể hiện trong các biên bản tố tụng. Qua việc giám sát này,
nếu phát hiện thấy có những sai sót hoặc vi phạm trong hoạt động tố tụng của
ĐTV, luật sư sẽ thực hiện các thủ tục kiến nghị, khiếu nại cần thiết để hoạt
động tố tụng của CQĐT, ĐTV được thực hiện theo đúng quy định của pháp
luật. Để có thể có mặt khi ĐTV lấy lời khai của người bị tạm giữ, hỏi cung bị
can, luật sư có quyền "đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa
điểm". Trường hợp được ĐTV đồng ý, luật sư có quyền đặt câu hỏi đối với
người bị tạm giữ, bị can.
Luật sư có quyền "đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người
giám định, người phiên dịch" trong trường hợp có căn cứ cho rằng họ không
khách quan trong khi thực hiện nhiệm vụ. Đây không phải chỉ là quyền của bị
can, bị cáo mà còn là quyền của luật sư và luật sư được thực hiện quyền này
trong tất cả các giai đoạn của quá trình tố tụng. Trên thực tế, do hạn chế về
nhận thức, về trình độ pháp lý và do bị can, bị cáo không có điều kiện tìm
hiểu nên họ rất khó khăn trong việc thực hiện quyền yêu cầu thay đổi những
người THTT và người tham gia tố tụng. Do vậy, pháp luật quy định luật sư có
quyền yêu cầu thay đổi những người này nhằm tạo điều kiện cho luật sư trợ
giúp cho bị can, bị cáo thực hiện quyền của mình, đảm bảo sự vô tư, khách
quan trong quá trình giải quyết vụ án, đảm bảo cho những quyết định có liên
quan đến bị can, bị cáo được ban hành chính xác, công bằng, đúng pháp luật.
Quyền thu thập tài liệu, đồ vật có liên quan đến việc bào chữa: Để
thực hiện việc bào chữa, luật sư có quyền thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết
liên quan đến việc bào chữa. Luật sư có thể thu thập từ người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo, người thân tích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá
37
nhân nếu không thuộc bí mật Nhà nước, bí mật công tác. Khi đã thu thập
được, luật sư có quyền đưa ra các tài liệu, đồ vật, yêu cầu đối với các
CQTHTT [33, Điều 58]. Đây cũng là quy định mới của BLTTHS năm 2003 so
với BLTTHS năm 1988. Quyền thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết… có liên quan
thực chất là quyền điều tra của luật sư. Để có thể bảo vệ tốt nhất quyền, lợi
ích hợp pháp của bị can, bị cáo, luật sư cần thu thập các tài liệu, chứng cứ cần
thiết liên quan thông qua việc tiếp xúc với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo,
người thân thích của những người này hoặc thu thập từ cơ quan, tổ chức, cá nhân
theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo… để từ đó đưa ra những lý
lẽ nhằm giúp chứng minh sự vô tội hoặc giảm nhẹ TNHS cho họ, góp phần
xác định sự thật của vụ án. Quy định này cũng thể hiện sự bình đẳng của luật
sư đối với KSV trong việc đưa ra các chứng cứ, tài liệu đồ vật trước tòa. Các
tài liệu, tình tiết, đồ vật do luật sư thu thập được sẽ giúp họ chuẩn bị tốt luận cứ
bào chữa của mình. Trong quá trình tố tụng, khi có căn cứ pháp lý, luật sư đưa
ra các yêu cầu tố tụng như yêu cầu thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, yêu
cầu trưng cầu giám định, giám định bổ sung, yêu cầu đối chất, tạm đình chỉ,
đình chỉ, điều tra lại, điều tra bổ sung… góp phần quan trọng trong việc bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án,
giúp cho việc giải quyết vụ án được nhanh chóng, chính xác, đúng pháp luật.
Quyền đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu trong hồ sơ: Sau khi kết thúc
điều tra, luật sư có quyền đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ
vụ án liên quan đến việc bào chữa [33, Điều 58]. Thông qua việc đọc, ghi chép
và sao chụp tài liệu, luật sư sẽ nắm bắt được đầy đủ, chính xác các tình tiết
của vụ án, các căn cứ buộc tội mà CQĐT và VKS áp dụng đối với bị can, bị
cáo để từ đó tìm ra các chứng cứ gỡ tội hoặc giảm nhẹ TNHS cho họ. Đối với
những vụ án đơn giản, ít hồ sơ, tài liệu cần đọc hoặc ghi chép thì luật sư có
thể đọc hồ sơ, ghi chép tại chỗ những gì cần thiết, nhưng có những vụ án
nghiêm trọng, hồ sơ phức tạp, có nhiều vấn đề cần nghiên cứu thì luật sư
38
không thể đọc và ghi chép hết những gì cần thiết. Do đó, quy định được ghi
chép và sao chụp tài liệu cần thiết cho việc bào chữa sẽ tạo điều kiện cho luật
sư thu thập tài liệu, tình tiết chuẩn bị cho việc bào chữa của mình, đảm bảo sự
bình đẳng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội trong tranh tụng.
Quyền gặp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo: Nhằm tạo điều kiện cho
luật sư thực hiện tốt chức năng bào chữa của mình, pháp luật cho phép luật sư
có quyền gặp người bị tạm giữ, gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam. Đây là
quyền rất quan trọng của luật sư. Để thu thập tài liệu, chứng cứ phục vụ việc
bào chữa, luật sư không chỉ nghiên cứu, sao chép hồ sơ vụ án đã được các
CQTHTT thu thập mà một trong những nguồn chứng cứ đặc biệt quan trọng
giúp luật sư bào chữa tốt có từ chính bị can, bị cáo. Bởi, hơn ai hết, chính bị
can, bị cáo mới là người biết rõ nhất họ có phải là người đã thực hiện hành vi
phạm tội mà các cơ quan THTT đang xem xét, giải quyết hay không, nếu có
thì ở mức nào? Thông qua việc trực tiếp gặp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo,
luật sư sẽ thu thập các chứng cứ ngoại phạm, các tình tiết giảm nhẹ TNHS cho
họ, nắm bắt được các đặc điểm nhân thân, diễn biến tâm lý của người được bào
chữa khi họ thực hiện tội phạm hoặc động viên họ khai báo thành khẩn để
nhận được sự khoan hồng của pháp luật. Đồng thời, thông qua việc gặp gỡ,
luật sư sẽ tư vấn cho họ các vấn đề pháp lý có liên quan để từ đó giúp tâm lý
của họ vững vàng hơn, yên tâm hơn và họ có thể tự bào chữa cho mình.
Quyền tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa: Tại phiên tòa, các chức
năng buộc tội, gỡ tội và xét xử được thực hiện đồng thời và rõ nét nhất nên
luật sư có quyền tham gia hỏi, tranh luận và có quyền bình đẳng với KSV, bị
cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp của họ, người bảo vệ
quyền lợi của đương sự trong việc đưa ra các chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra
yêu cầu và tranh luận dân chủ trước Tòa án [33, Điều 19, 58]. Khi tham gia hỏi
và tranh luận tại phiên tòa, luật sư góp phần làm sáng tỏ quan điểm của bị cáo
39
đối với việc buộc tội, làm rõ những tình tiết quan trọng chưa được làm rõ
trong những lời khai của bị cáo và trong câu trả lời của bị cáo đối với những
câu hỏi của HĐXX và KSV nhằm xác định tính xác thực của các chứng cứ
buộc tội cũng như gỡ tội, xác thực sự thật khách quan của vụ án. Tại phiên tòa
có sự tham gia của các bên, bao gồm cả bên buộc tội, bên bị hại và những
người làm chứng, người có quyền, nghĩa vụ liên quan… nên sẽ thuận lợi hơn
rất nhiều để luật sư thực hiện hoạt động điều tra công khai, kiểm tra lại tính
xác thực, tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp của các chứng cứ
có trong vụ án, trên cơ sở đó giúp Tòa án có những phán quyết chính xác,
khách quan, đúng pháp luật, bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo.
Việc bào chữa của luật sư có đem lại kết quả tốt cho người được bào chữa hay
không phụ thuộc nhiều vào việc hỏi và tranh luận của luật sư tại phiên tòa.
Tầm quan trọng của việc tranh luận tại phiên tòa đã được nêu rõ trong Nghị
quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về "một số nhiệm vụ
trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới":
Việc xét xử của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả
tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các
chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo,
nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích
hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức
thuyết phục và trong thời hạn quy định. Các cơ quan tư pháp có
trách nhiệm tạo điều kiện để luật sư tham gia vào quá trình tố tụng:
tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ sơ vụ án, tranh luận dân
chủ tại phiên tòa… [14].
Và, "khi nghị án, chỉ được căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được
thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét toàn diện các chứng cứ, ý kiến của
Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác
tại phiên tòa" [33, Điều 222].
40
Khi phát hiện những sai sót, vi phạm trong hoạt động tố tụng, luật sư
có quyền "khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng". Trong trường hợp có căn cứ cho rằng bản án, quyết
định của Tòa án áp dụng đối với người chưa thành niên hoặc người có nhược
điểm về thể chất hoặc tâm thần chưa đúng quy định của pháp luật, hoặc có vi
phạm nghiêm trọng trong thủ tục tố tụng thì luật sư có quyền kháng cáo bản
án, quyết định đó.
Như vậy, với việc quy định các quyền nêu trên cho luật sư, pháp luật
TTHS đã ghi nhận một cách chính thức các đảm bảo để người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa (trong đó bao gồm cả quyền tự bào chữa
và quyền nhờ người khác bào chữa) của mình, đồng thời tạo hành lang pháp
lý để luật sư thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ của mình trong quá trình
tham gia bào chữa cho bị can, bị cáo, bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp
cho họ, hạn chế sự tùy tiện, lạm quyền của các CQTHTT và người THTT
trong quá trình giải quyết vụ án.
- Nghĩa vụ của luật sư - người bào chữa trong tố tụng hình sự
Bên cạnh việc quy định các quyền của luật sư khi tham gia bào chữa,
pháp luật cũng quy định cho họ phải có những nghĩa vụ nhất định. Nghĩa vụ
của luật sư khi tham gia bào chữa được quy định tập trung tại Điều 58
BLTTHS. Chức năng chủ yếu của luật sư là bảo vệ các quyền, lợi ích hợp
pháp của bị cáo, tuy nhiên, trong quá trình thực hiện chức năng đó, luật sư chỉ
được phép sử dụng các biện pháp và thực hiện các hoạt động trong khuôn khổ
pháp luật cho phép.
Luật sư có nghĩa vụ sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để
làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội,
những tình tiết giảm nhẹ TNHS của bị can, bị cáo. Tùy theo mỗi giai đoạn tố
tụng, khi thu thập được tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án thì luật sư có trách
nhiệm giao cho CQĐT, VKS, Tòa án. Quy định này đòi hỏi luật sư phải làm
41
hết sức mình bằng việc sử dụng các biện pháp mà pháp luật cho phép để giúp
đỡ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, nhằm hạn chế tình trạng luật sư thiếu
trách nhiệm, không bố trí thời gian nghiên cứu hồ sơ, thu thập chứng cứ hay
tham gia phiên tòa để bào chữa cho người bị buộc tội. Trên thực tế, có nhiều
luật sư chỉ xem qua hồ sơ, tài liệu rồi bào chữa một cách sơ sài, hời hợt tại
phiên tòa khiến kết quả bào chữa không cao.
Nghĩa vụ giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Không phải bất cứ người bị buộc tội
nào cũng am hiểu pháp luật, hơn nữa, họ luôn ở trong trạng thái lo sợ kể từ
thời điểm bị khởi tố, giam giữ. Vì vậy, việc giúp đỡ về mặt pháp lý của luật
sư đối với họ là rất quan trọng. Trong suốt quá trình tham gia tố tụng, luật sư
phải có nghĩa vụ giúp đỡ về mặt pháp lý đối với người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo; giáo dục họ tôn trọng pháp luật, giải thích cho họ biết những quyền và lợi
ích hợp pháp của họ để họ có thể tự bào chữa và bảo vệ mình.
Mặc dù bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là một hoạt
động nghề nghiệp của luật sư, tuy nhiên, luật sư không được từ chối bào chữa
cho những người mà mình đã đảm nhận bào chữa, nếu không có lý do chính
đáng. Khi luật sư đã nhận lời bào chữa cho người bị buộc tội thì giữa họ đã
hình thành một mối quan hệ mật thiết với nhau, nếu luật sư từ chối bào chữa
giữa chừng sẽ ảnh hưởng không chỉ tới quyền lợi của người bị buộc tội mà
còn ảnh hưởng đến tâm lý của họ, có thể ảnh hưởng chung đến tiến độ giải
quyết vụ án.
Luật sư có nghĩa vụ tôn trọng sự thật và pháp luật, không được mua
chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu
sai sự thật. Khi tham gia tố tụng, luật sư không chỉ có nghĩa vụ bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của thân chủ mà còn có nghĩa vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ
pháp chế, trong đó sự thật là không thể chối cãi. Chính vì vậy, luật sư phải tôn
trọng sự thật và tôn trọng pháp luật. Luật sư chỉ được sử dụng các biện pháp
42
do pháp luật quy định để thực hiện việc bào chữa, không được bóp méo sự
thật của vụ án. Luật sư phải tôn trọng và triệt để tuân thủ các quy định của
pháp luật và không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai
báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật cho các cơ quan THTT. Đó là những
hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức nghề nghiệp hành nghề luật sư,
ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của toàn xã hội bởi nó sẽ làm sai lệch sự thật
khách quan của vụ án, ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật.
Luật sư có nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án. Phiên tòa là
giai đoạn quan trọng nhất của toàn bộ quá trình tố tụng, ở đó sẽ xác định được
bị cáo có tội hay không và TNHS của bị cáo trong trường hợp họ bị tuyên là
có tội. Việc tham gia phiên tòa là quyền nhưng cũng là nghĩa vụ của luật sư:
"Người bào chữa có nghĩa vụ tham gia phiên tòa. Người bào chữa có thể gửi
trước bản bào chữa cho Tòa án" [33, Điều 190]. Luật sư tham gia phiên tòa
không chỉ để sử dụng các chứng cứ, tài liệu thu thập được trong giai đoạn
trước đó mà còn để tranh luận nhằm bác bỏ sự buộc tội của đại diện VKS, qua
đó luật sư có thể giúp làm rõ được nội dung vụ án, xác định sự thật khách
quan để HĐXX có phán quyết đúng đắn, chính xác. Đây cũng là quy định
nhằm đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo.
Luật sư không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực
hiện việc bào chữa, không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong
hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp
pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân [33, Điều 58]. Do đặc thù nghề nghiệp,
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ bào chữa, luật sư có thể biết được nhiều bí
mật của Nhà nước, bí mật của bị can, bị cáo hay bí mật khác mà luật sư có thể
biết được. Pháp luật quy định họ không được tiết lộ những thông tin bí mật
này vì nó sẽ ảnh hưởng đến lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, lợi ích của
Nhà nước và xã hội. Để thực hiện nhiệm vụ bào chữa, pháp luật cho phép luật
43
sư được đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu, thu thập các chứng cứ, đồ vật liên
quan đến việc bào chữa nhưng luật sư chỉ được phép sử dụng những thông
tin, tài liệu này cho mục đích bào chữa cho bị can, bị cáo mà không được sử
dụng vào mục đích khác làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Pháp luật quy định khi tham gia bào chữa cho bị can, bị cáo, luật sư phải
triệt để tuân thủ các nghĩa vụ nêu trên, trường hợp luật sư "làm trái pháp luật
thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị thu hồi giấy chứng nhận người
bào chữa, xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự;
nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật" [33, Điều 58].
1.2.2. Vai trò của luật sư – người bào chữa trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự
Trên cơ sở các quyền, nghĩa vụ mà pháp luật quy định và thông qua
hoạt động bào chữa của mình, luật sư có vai trò rất quan trọng trong xét xử vụ
án nói chung và trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng.
* Góp phần làm rõ sự thật khách quan của vụ án, giúp giải quyết vụ
án một cách nhanh chóng, chính xác, đúng pháp luật; làm minh bạch hoá
hoạt động tố tụng.
Trong quá trình tham gia bào chữa, luật sư thực hiện các hoạt động
thu thập thông tin liên, tài liệu có liên quan đến vụ án thông qua việc tiếp xúc
với bị cáo, những người có liên quan… Qua đó, luật sư nắm được các tình tiết
khách quan của vụ án như: bị cáo có thực hiện hành vi vi phạm pháp luật
không, hành vi đó có dấu hiệu cấu thành tội phạm không, nếu có thì cấu thành
tội gì; động cơ, mục đích của hành vi phạm tội; các tình tiết tăng nặng, giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo… Trên cơ sở đó, luật sư đưa ra các ý kiến
đề xuất đối với các CQTHTT và người THTT nhằm làm sáng tỏ sự thật khách
quan của vụ án. Luật sư đưa ra quan điểm của mình về việc giải quyết vụ án
liên quan đến việc xác định tội danh và quyết định hình phạt đối với bị cáo,
44
giúp cho việc giải quyết vụ án được nhanh chóng, chính xác, tránh làm oan
người vô tội, không bỏ lọt tội phạm… Trong thực tiễn hoạt động xét xử các
vụ án hình sự ở nước ta, có nhiều vụ án mặc dù tại bản kết luận điều tra của
CQĐT và cáo trạng của VKS đã kết luận cụ thể, rõ ràng về việc bị can đã
thực hiện hành vi phạm tội, cần phải xét xử theo tội danh và hình phạt theo
quy định của pháp luật, tuy nhiên tại phiên toà, trên cơ sở phân tích, lập luận
của luật sư bào chữa mà HĐXX đã quyết định xét xử theo tội danh khác có
khung hình phạt nhẹ hơn hoặc tuyên bố bị cáo không phạm tội, đình chỉ giải
quyết vụ án… Có thực tế này một phần là do luật sư đã đưa ra được các lập
luận sắc bén, có căn cứ và phù hợp với thực tế khách quan của vụ án.
Khi tham gia bào chữa ở giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, luật
sư không chỉ có vai trò trong việc góp phần tìm ra sự thật khách quan của vụ
án, giúp việc giải quyết vụ án được nhanh chóng, chính xác mà luật sư còn có
vai trò trong việc giám sát hoạt động của các CQTHTT và người THTT, qua
đó làm cho hoạt động của các CQTHTT và người THTT được thực hiện một
cách đúng pháp luật, tránh được việc lạm quyền trong hoạt động giải quyết vụ
án. Thực tiễn cũng chỉ ra rằng, những vụ án không được giải quyết theo đúng
trình tự, thủ tục được pháp luật quy định thì thường dẫn tới oan, sai. Do vậy
vấn đề đặt ra là cần phải tuân thủ đúng pháp luật trong suốt quá trình giải
quyết vụ án và việc có sự tham gia của luật sư bào chữa cũng sẽ góp phần làm
cho việc giải quyết vụ án được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.
* Góp phần bảo vệ quyền con người, bảo vệ công lý, bảo vệ chế độ
Hoạt động nghề nghiệp của luật sư góp phần bảo vệ công lý, các
quyền tự do, dân chủ của công dân, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ
quan, tổ chức, phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh [36, Điều 3].
Quyền con người là quyền được pháp luật ghi nhận và bảo đảm thực
hiện thông qua nhiều thiết chế khác nhau, trong đó tổ chức luật sư là một tổ
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAYĐề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
 
Luận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sự
Luận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sựLuận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sự
Luận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sự
 
Luận văn: Bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng hình sựLuận văn: Bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tại TPHCM, HAY, 9đ
Luận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tại TPHCM, HAY, 9đLuận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tại TPHCM, HAY, 9đ
Luận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tại TPHCM, HAY, 9đ
 
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Luật
Luận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo LuậtLuận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Luật
Luận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Luật
 
Luận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOT
Luận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOTLuận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOT
Luận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOT
 
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Tội giết người trên địa bàn tỉnh Nghệ An, HOT
Luận văn: Tội giết người trên địa bàn tỉnh Nghệ An, HOTLuận văn: Tội giết người trên địa bàn tỉnh Nghệ An, HOT
Luận văn: Tội giết người trên địa bàn tỉnh Nghệ An, HOT
 
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
 
Luận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án Luật Tố tụng, HOT
Luận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án Luật Tố tụng, HOTLuận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án Luật Tố tụng, HOT
Luận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án Luật Tố tụng, HOT
 
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOTLuận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tộiLuận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
 
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tình hình tội phạm tại quận Phú Nhuận, TPHCM, 9đ
Luận văn: Tình hình tội phạm tại quận Phú Nhuận, TPHCM, 9đLuận văn: Tình hình tội phạm tại quận Phú Nhuận, TPHCM, 9đ
Luận văn: Tình hình tội phạm tại quận Phú Nhuận, TPHCM, 9đ
 
Luận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tộiLuận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội
 
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật tại TPHCM
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật tại TPHCMLuận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật tại TPHCM
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật tại TPHCM
 
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAYLuận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
 
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOTLuận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
 

Similar to Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT

Similar to Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT (20)

Luận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
Luận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sựLuận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
Luận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
 
Luận án: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận án: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAYLuận án: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận án: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụngLuận văn: Nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng
 
Luận văn: Phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm trong tố tụng hình sự
Luận văn: Phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm trong tố tụng hình sựLuận văn: Phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm trong tố tụng hình sự
Luận văn: Phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm trong tố tụng hình sự
 
Luận văn: Tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự tại Hà Nội
Luận văn: Tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự tại Hà NộiLuận văn: Tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự tại Hà Nội
Luận văn: Tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự tại Hà Nội
 
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sựLuận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
 
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đ
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đLuận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đ
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đ
 
Luận văn: So sánh đối tượng chứng minh theo luật tố tụng, HOT
Luận văn: So sánh đối tượng chứng minh theo luật tố tụng, HOTLuận văn: So sánh đối tượng chứng minh theo luật tố tụng, HOT
Luận văn: So sánh đối tượng chứng minh theo luật tố tụng, HOT
 
Nhiệm vụ của Viển kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Nhiệm vụ của Viển kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sựNhiệm vụ của Viển kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Nhiệm vụ của Viển kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
 
Luận án: Chứng minh trong tố tụng hình sự tỉnh Đồng Nai, HAY - Gửi miễn phí ...
Luận án: Chứng minh trong tố tụng hình sự tỉnh Đồng Nai, HAY  - Gửi miễn phí ...Luận án: Chứng minh trong tố tụng hình sự tỉnh Đồng Nai, HAY  - Gửi miễn phí ...
Luận án: Chứng minh trong tố tụng hình sự tỉnh Đồng Nai, HAY - Gửi miễn phí ...
 
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn phí ...Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn phí ...
 
ĐỀ TÀI : KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰ...
ĐỀ TÀI : KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG  HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰ...ĐỀ TÀI : KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG  HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰ...
ĐỀ TÀI : KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰ...
 
Vai trò của luật sư bào chữa trong xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
Vai trò của luật sư bào chữa trong xét xử phúc thẩm vụ án hình sựVai trò của luật sư bào chữa trong xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
Vai trò của luật sư bào chữa trong xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
 
Luận án: Chủ thể buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam, HAY
Luận án: Chủ thể buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam, HAYLuận án: Chủ thể buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam, HAY
Luận án: Chủ thể buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Chủ thể buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Chủ thể buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Chủ thể buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Chủ thể buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Vai trò người bào chữa trong điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Vai trò người bào chữa trong điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn phí ...Luận văn: Vai trò người bào chữa trong điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Vai trò người bào chữa trong điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn phí ...
 
Luận văn: Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật
Luận văn: Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luậtLuận văn: Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật
Luận văn: Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật
 
Đề tài: Địa vị pháp lý của người bị hại trong tố tụng hình sự, HOT
Đề tài: Địa vị pháp lý của người bị hại trong tố tụng hình sự, HOTĐề tài: Địa vị pháp lý của người bị hại trong tố tụng hình sự, HOT
Đề tài: Địa vị pháp lý của người bị hại trong tố tụng hình sự, HOT
 
Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án xâm phạm tính mạng con người
Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án xâm phạm tính mạng con ngườiThẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án xâm phạm tính mạng con người
Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án xâm phạm tính mạng con người
 
Luận văn: Tố tụng hình sự và vấn đề áp dụng tố tụng tranh tụng
Luận văn: Tố tụng hình sự và vấn đề áp dụng tố tụng tranh tụngLuận văn: Tố tụng hình sự và vấn đề áp dụng tố tụng tranh tụng
Luận văn: Tố tụng hình sự và vấn đề áp dụng tố tụng tranh tụng
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
Xem Số Mệnh
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
dangdinhkien2k4
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
dnghia2002
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
ltbdieu
 

Recently uploaded (20)

Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ emcác nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
 
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
 
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdfGiáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
 
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
 
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net VietKiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
 
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
 
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
 
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàBài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 

Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT

  • 1. 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN VĂN PHƯƠNG VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ - NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014
  • 2. 2 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN VĂN PHƯƠNG VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ - NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Tuân HÀ NỘI - 2014
  • 3. 3 Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch­a tõng ®­îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n NguyÔn V¨n Ph­¬ng
  • 4. 4 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng Danh mục các biểu đồ MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ - NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ 9 1.1. Khái niệm và ý nghĩa của giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 9 1.1.1. Khái niệm giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 9 1.1.2. Ý nghĩa của giai đoạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự 19 1.2. Địa vị pháp lý và vai trò của luật sư - người bào chữa trong tố tụng hình sự 20 1.2.1. Địa vị pháp lý của luật sư - người bào chữa trong tố tụng hình sự 20 1.2.2. Vai trò của luật sư - người bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 36 Chương 2: SỰ THAM GIA CỦA LUẬT SƯ - NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ 42 2.1. Quy định của pháp luật về vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 42 2.1.1. Vai trò của luật sư - người bào chữa trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 43 2.1.2. Vai trò của luật sư - người bào chữa trong phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 57
  • 5. 5 2.2. Thực trạng hoạt động của luật sư tham gia bào chữa trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 72 2.2.1. Về số lượng luật sư và tổ chức hành nghề luật sư 72 2.2.2. Kết quả hoạt động của luật sư tham gia bào chữa trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 76 2.2.3. Những hạn chế trong hoạt động của luật sư tham gia bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và nguyên nhân 80 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ - NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ 90 3.1. Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo 90 3.2. Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa 96 3.3. Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự 100 3.3.1. Ghi nhận và khẳng định địa vị pháp lý của luật sư tham gia bào chữa như một chức danh tư pháp độc lập với đầy đủ các quyền năng để luật sư bào chữa một cách có hiệu quả, trong đó có quyền được thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ 100 3.3.2. Cần có cơ chế tạo điều kiện thuận lợi để luật sư tham gia bào chữa 103 3.4. Các giải pháp khác 106 3.4.1. Tăng cường quản lý nhà nước đối với tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư 106 3.4.2. Đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng đào tạo nghề luật sư 108 3.4.3. Nâng cao nhận thức về luật sư và nghề luật sư trong xã hội 110 KẾT LUẬN 112 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 114
  • 6. 6 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật Hình sự BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự CQĐT : Cơ quan điều tra CQTHTT : Cơ quan tiến hành tố tụng ĐTV : Điều tra viên HĐXX : Hội đồng xét xử KSV : Kiểm sát viên TAND : Tòa án nhân dân THTT : Tiến hành tố tụng TNHS : Trách nhiệm hình sự TTHS : Tố tụng hình sự VAHS : Vụ án hình sự VKS : Viện kiểm sát VKSND : Viện kiểm sát nhân dân XXPT : Xét xử phúc thẩm XXST : Xét xử sơ thẩm XHCN : Xã hội chủ nghĩa
  • 7. 7 DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang 2.1 Bảng số liệu về số lượng luật sư và tổ chức hành nghề luật sư trên địa bàn cả nước từ năm 2007 đến năm 2013 73 2.2 Kết quả khảo sát hoạt động bào chữa tại một số tổ chức hành nghề luật sư trong các năm từ 2010 - 2013 77 DANH MỤC CÁC BIỀU ĐỒ Số hiệu biểu đồ Tên biểu đồ Trang 2.1 Số lượng số lượng luật sư và tổ chức hành nghề luật sư trên địa bàn cả nước từ năm 2007 đến năm 2013 73
  • 8. 8 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) quy định: Trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng, của các cơ quan, tổ chức và công dân… [33]. Sau mười năm áp dụng, BLTTHS năm 2003 đã tạo nền tảng pháp lý quan trọng để các chủ thể thực hiện chức năng, nhiệm vụ tố tụng của mình, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, phục vụ tích cực công cuộc đổi mới trong những năm vừa qua. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đã có không ít những bất cập gây cản trở cho các chủ thể tố tụng hình sự (TTHS), gây ra những khó khăn đối với những người tham gia tố tụng, trong đó có luật sư. BLTTHS năm 2003 còn nhiều bất cập trong các quy định của pháp luật và trong thực tiễn thực hiện các quy định liên quan đến các vấn đề như: Việc bảo đảm quyền bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; quyền nhờ luật sư bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo của người thân thích; địa vị pháp lý của người bào chữa; thủ tục cấp giấy chứng nhận cho người bào chữa; vai trò của luật sư trong việc thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ; việc tranh luận tại phiên tòa… Những vấn đề nêu trên làm cho vai trò của người bào chữa nói chung và của luật sư bào chữa nói riêng rất mờ nhạt, chưa đạt hiệu quả cao, dẫn đến ngày càng có nhiều vụ án oan, sai xảy ra, trong đó có thể kể đến một số vụ như: Vụ ông Nguyễn Thanh Chấn ở Bắc Giang bị kết án tù chung thân về tội
  • 9. 9 giết người đã được minh oan sau 10 năm chịu hình phạt tù; vụ ông Trần Văn Chiến ở Tiền Giang bị kết án tù chung thân về tội giết người được minh oan sau hơn 16 năm chấp hành hình phạt tù; vụ anh Nguyễn Minh Hùng ở Tây Ninh bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử 2 lần và đều tuyên phạt mức án tử hình về hành vi vận chuyển, buôn bán trái phép chất ma túy, được minh oan sau hơn 4 năm ròng rã kêu cứu; vụ ông Bùi Minh Hải ở Đồng Nai bị Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tỉnh Đồng Nai đề nghị mức án tử hình và bị Tòa án nhân dân (TAND) tỉnh Đồng Nai tuyên phạt tù chung thân về các tội giết người, cướp của, hiếp dâm được minh oan sau 16 tháng bị giam giữ. Đặc biệt, Vụ án "vườn điều" ở Bình Thuận được xem là một trong những vụ án oan, sai lớn nhất trong lịch sử tư pháp Việt Nam bởi có đến 9 người trong một gia đình rơi vào vòng lao lý, vụ án được đưa ra xét xử nhiều lần, qua nhiều cấp nhưng đều bị hủy án do có nhiều tình tiết chưa rõ ràng. Việc điều tra, xét xử vụ án được kéo dài 12 năm nhưng vẫn không tìm ra hung thủ. Năm 2006, Cơ quan điều tra (CQĐT) xác định các bị cáo vô tội và trả tự do tại tòa, đồng thời, các cơ quan tiến hành tố tụng (CQTHTT) đã công khai xin lỗi và bồi thường cho những người bị oan, sai… Trên đây chỉ là một số vụ án oan, sai xảy ra trong thời gian qua. Ngoài các vụ án này, còn rất nhiều vụ án mà người bị điều tra, truy tố, xét xử, bị tạm giam, tạm giữ, bị phạt tù… không phải là người đã thực hiện hành vi phạm tội. Điều đó cho thấy, pháp luật TTHS còn nhiều bất cập, việc thực thi các quy định của pháp luật trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử còn chưa thật nghiêm túc, hoạt động và vai trò của những người tiến hành tố tụng (THTT) như Điều tra viên (ĐTV), Kiểm sát viên (KSV), Thẩm phán và những người tham gia tố tụng, trong đó có luật sư chưa thật hiệu quả. Vì vậy, vấn đề cấp thiết đặt ra hiện nay là BLTTHS nói riêng cũng như pháp luật về tư pháp hình sự nói chung phải được sửa đổi, tạo hành lang pháp lý minh bạch hơn, khả thi hơn cho các chủ thể tham gia tố tụng thực
  • 10. 10 hiện quyền của mình. Hiện nay, các cơ quan THTT từ Trung ương tới địa phương đang tiến hành tổ chức tổng kết việc thực hiện BLTTHS để đánh giá về thực trạng và hiệu quả áp dụng Bộ luật này, tìm ra những nguyên nhân và đề ra những giải pháp sửa đổi, bổ sung. Việc sửa đổi BLTTHS phải được tiến hành trên cơ sở thực tiễn của quá trình mười năm thực hiện. Để có thể đánh giá việc thi hành BLTTHS một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ là nhiệm vụ của nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều chủ thể khác nhau như: CQĐT, Viện kiểm sát (VKS), Tòa án, luật sư… Việc xây dựng BLTTHS cần phải quán triệt quan điểm thể chế hóa đường lối của Đảng, Nhà nước về cải cách tư pháp, đáp ứng yêu cầu của công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới, chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Trong đó, chế định về luật sư (về vai trò của luật sư thể hiện qua quyền, nghĩa vụ của luật sư) là một trong những chế định cần phải hoàn thiện không những chỉ trong việc xây dựng các quy phạm pháp luật mà còn trong việc đưa những quy phạm đó vào thực tế cuộc sống. Về vấn đề này, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về "một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới" nêu rõ: Nâng cao chất lượng công tác điều tra, thực hiện tốt công tác tiếp nhận, xử lý tin báo, tố giác tội phạm, tăng cường phối hợp giữa các cơ quan chuyên trách điều tra với các cơ quan khác… Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác… Khi xét xử Tòa án phải đảm bảo cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan; Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc xét xử của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả
  • 11. 11 tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo… Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để luật sư tham gia vào quá trình tố tụng: tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên tòa… [14]. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 xác định rõ: "Tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm" trong quá trình giải quyết VAHS [16]. Do xét xử là hoạt động trọng tâm, có nhiệm vụ "xác định sự thật của vụ án" nên trong vụ án hình sự vai trò của luật sư được thể hiện tập trung, đầy đủ nhất ở giai đoạn xét xử, đặc biệt là xét xử sơ thẩm (XXST). Chính vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu các quy định của pháp luật TTHS hiện hành và các quy định khác có liên quan, về thực trạng tham gia và vai trò của luật sư tham gia bào chữa trong VAHS, đề ra các phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của luật sư khi tham gia tố tụng trong giai đoạn XXST VAHS là rất cần thiết. Hy vọng, luận văn này với đề tài "Vai trò của luật sư - người bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay" sẽ góp phần trong việc xây dựng, hoàn thiện các quy định của pháp luật, nâng cao hiệu quả và vai trò của luật sư, tạo điều kiện cho việc giải quyết VAHS một cách nhanh chóng, kịp thời, công minh và đúng pháp luật. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Hiện nay, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về vai trò của luật sư, về địa vị pháp lý, quyền, nghĩa vụ của luật sư khi tham gia tố tụng trong VAHS, như: TS.LS Phan Trung Hoài: "Hoàn thiện pháp luật về luật sư ở Việt Nam", Nxb Tư pháp, 2006; TS. Nguyễn Văn Tuân: "Vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự", Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001; GS,TS Nguyễn Ngọc Anh (Chủ biên): "Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003", Nxb Chính trị Quốc gia, 2011; Đinh Văn Quế: "Bình luận khoa học Bộ luật
  • 12. 12 Tố tụng hình sự (xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm)", Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2007; TS. Nguyễn Văn Tuân: "Thực trạng tranh tụng và vấn đề nâng cao vai trò của luật sư trong tranh tụng trước yêu cầu cải cách tư pháp", Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 3/2010; Hoàng Thị Sơn: "Thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự", Luận án tiến sĩ luật học; Hồ Sĩ Sơn: "Những đảm bảo hiệu quả của hoạt động bào chữa trong tố tụng hình sự", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 150, tháng 10/2000; Thu Tâm - Hồng Phong: "Vấn đề tranh tụng và vai trò của luật sư", Báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh, số ra ngày 14/10/2002; Ngô Thị Ngọc Vân: "Vai trò của luật sư bào chữa trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự", Luận văn thạc sĩ luật học, 2004… Các công trình nghiên cứu, bài viết nêu trên đã thể hiện được tương đối rõ nét về địa vị pháp lý, vai trò của luật sư trong VAHS và rất hữu ích trong quá trình nghiên cứu, học tập, áp dụng pháp luật trong thực tiễn. Tuy nhiên, do biến chuyển của thời gian và thực tế tình hình áp dụng pháp luật có nhiều thay đổi, thực trạng sự tham gia của luật sư vào các VAHS, vai trò của luật sư trong các vụ án cũng có những chuyển biến nên cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu chuyên sâu về thực trạng tham gia và vai trò của luật sư với tư cách là người bào chữa ở giai đoạn XXST VAHS để từ đó chỉ ra những bất cập, nguyên nhân của những hạn chế và đề xuất những giải pháp để khắc phục, nâng cao hiệu quả hoạt động của luật sư. 3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Để hoàn thành đề tài "Vai trò của luật sư - người bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay", luận văn xác định các mục đích nghiên cứu cơ bản như sau: - Mục đích chính của luận văn là phân tích, đánh giá một cách toàn diện và có hệ thống về mặt lý luận, các quy định của pháp luật cũng như thực
  • 13. 13 tiễn sự tham gia và vai trò của luật sư trong giai đoạn XXST VAHS ở Việt Nam hiện nay. - Kiến nghị các cơ quan nhà nước có liên quan trong việc soạn thảo và ban hành mới, sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật để phù hợp với tình hình thực tiễn và dần dần hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh trong lĩnh vực này; kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định đó, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động và vai trò của luật sư trong hoạt động TTHS, góp phần giải quyết nhanh chóng, chính xác, công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Trên cơ sở các mục đích nghiên cứu nêu trên, nhiệm vụ của luận văn là phải: - Khái quát một số vấn đề lý luận cơ bản về luật sư và vai trò của luật sư - người bào chữa trong VAHS; - Phân tích các quy định của pháp luật về vai trò, quyền và nghĩa vụ của luật sư - người bào chữa trong giai đoạn XXST VAHS; - Đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật có liên quan và vai trò của luật sư tham gia tố tụng ở giai đoạn XXST VAHS trên cơ sở các số liệu cụ thể. Từ đó thấy được những hạn chế, cũng như các thuận lợi, khó khăn của luật sư khi tham gia tố tụng với vai trò là người bào chữa ở giai đoạn XXST VAHS làm cơ sở cho việc đề xuất ban hành, sửa đổi, bổ sung một số văn bản pháp luật liên quan. 3.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn gồm hai nhóm đối tượng sau: - Nghiên cứu các vấn đề về lý luận, các quy định của pháp luật có liên quan đến vai trò của luật sư tham gia tố tụng ở giai đoạn XXST VAHS với vai trò là người bào chữa. Liên hệ so sánh giữa các quy định hiện hành và các
  • 14. 14 quy định được ban hành trước đây có liên quan đến phạm vi nghiên cứu của luận văn. - Nghiên cứu thực tiễn của việc thi hành pháp luật, về sự tham gia và vai trò của luật sư, về việc luật sư thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình khi giam gia TTHS ở giai đoạn XXST. * Phạm vi nghiên cứu: Trong giai đoạn XXST VAHS, luật sư có thể tham gia với nhiều tư cách, như: người bào chữa, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan… Tuy nhiên, trong phạm vi luận văn này, tác giả chỉ đề cập, nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh vai trò của luật sư khi tham gia bào chữa tại giai đoạn XXST VAHS theo quy định của pháp luật; đánh giá tình hình thực hiện các quy định của pháp luật có liên quan trong thực tiễn, đồng thời, tìm ra các nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế để từ đó đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về mặt lập pháp cũng như việc nâng cao vai trò, hiệu quả hoạt động của luật sư. Trong khuôn khổ của luận văn, các thông tin, số liệu được lấy từ nguồn thống kê trong những năm gần đây. 4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật lịch sử và duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng, Nhà nước về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về phương hướng và nhiệm vụ cải cách tư pháp… Để thực hiện đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp như phân tích tổng hợp, lịch sử, thống kê, đối chiếu, so sánh… 5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn Luận văn là sự tổng hợp những vấn đề chung nhất về lý luận cũng như thực tiễn vai trò của luật sư khi tham gia tố tụng ở giai đoạn XXST VAHS với
  • 15. 15 tư cách là người bào chữa, thể hiện được nhiều điểm mới cơ bản so với các nghiên cứu trước đây, như: - Tổng hợp được các vấn đề lý luận về XXST VAHS; về quyền bào chữa của bị cáo; về địa vị pháp lý, quyền, nghĩa vụ của luật sư trong việc thu thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ; về việc tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm của luật sư… - Đánh giá được thực trạng, đưa ra được những nguyên nhân, hạn chế và đề xuất được các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật, nâng cao vai trò, hiệu quả hoạt động của luật sư với tư cách là người bào chữa trong giai đoạn XXST VAHS. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, luận văn có thể có những đóng góp về mặt lý luận đối với vấn đề vai trò của luật sư - người bào chữa trong VAHS nói chung và trong giai đoạn XXST VAHS nói riêng. Bên cạnh đó, luận văn còn chỉ ra được những hạn chế trong thực tiễn tham gia của luật sư vào việc giải quyết VAHS, nguyên nhân của sự hạn chế đó và đề ra được những giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế, hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu quả hoạt động và vai trò của luật sư. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về vai trò của luật sư - người bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Chương 2: Sự tham gia của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Chương 3: Một số phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao vai trò của luật sư - người bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
  • 16. 16 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ - NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1.1. Khái niệm giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam năm 2013 quy định: "Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp" [38, Điều 102]. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 quy định: "Trong phạm vi chức năng của mình, Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân" [38, Điều 1]. Theo Từ điển giải thích thuật ngữ pháp lý thông dụng: "Xét xử là hoạt động của Tòa án tại phiên tòa để xét xử các chứng cứ và căn cứ vào pháp luật, xử lý vụ án bằng việc ra bản án và các quyết định của Tòa án". Theo định nghĩa trên, xét xử không chỉ đơn giản là kiểm tra lại các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra, truy tố để tuyên án, mà xét xử là hoạt động đặc biệt mang tính quyền lực Nhà nước, do Tòa án thực hiện, nhằm giải quyết những vụ án theo quy định của pháp luật. Xét xử được thực hiện theo một trình tự và theo những nguyên tắc nhất định để giải quyết vụ án. Thông qua việc xét xử mọi vấn đề của vụ án được làm sáng tỏ, trên cơ sở đó Tòa án ra các quyết định cần thiết để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức, lợi ích của Nhà nước, bảo vệ chế độ. Tùy theo từng tiêu chí cụ thể, xét xử được phân biệt như sau:
  • 17. 17 - Phân biệt theo nội dung xét xử: Xét xử tội phạm hình sự, xét xử tranh chấp dân sự, tranh chấp lao động, xét xử khiếu kiện hành chính… - Phân biệt theo cấp độ xét xử có: XXST và xét xử phúc thẩm (XXPT). Ngoài ra còn có trình tự đặc biệt là xét lại bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Việc giải quyết một VAHS được trải qua nhiều giai đoạn tố tụng từ khởi tố, điều tra, truy tố đến xét xử và thi hành án. XXST là một giai đoạn tố tụng trong hoạt động TTHS. Vậy giai đoạn TTHS là gì? Từ trước đến nay, trong pháp luật TTHS nước ta chưa từng có định nghĩa thế nào là "giai đoạn TTHS". Theo GS, TSKH Lê Cảm, dưới góc độ khoa học khái niệm giai đoạn TTHS có thể được định nghĩa là: Bước của quá trình tố tụng hình sự tương ứng với chức năng nhất định trong hoạt động tư pháp hình sự của từng loại chủ thể tiến hành tố tụng có thẩm quyền, nhằm thực hiện các nhiệm vụ cụ thể do luật định, có thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc, để giải quyết vụ án hình sự một cách công minh và khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật, góp phần củng cố pháp chế và trật tự pháp luật, bảo vệ vững chắc các quyền và tự do của công dân [4]. Mỗi giai đoạn tố tụng có nhiệm vụ khác nhau, tương ứng với mỗi giai đoạn đó là chức năng cụ thể của mỗi cơ quan THTT có thẩm quyền. Mỗi giai đoạn tố tụng kết thúc được đánh dấu bằng một văn bản tố tụng khác nhau, như: giai đoạn khởi tố kết thúc khi có quyết định khởi tố; giai đoạn điều tra kết thúc bằng bản kết luận điều tra; giai đoạn truy tố được kết thúc khi có bản cáo trạng; các giai đoạn xét xử kết thúc khi có bản án, quyết định của Tòa án… Tuy nhiên, các văn bản tố tụng này là sự thể hiện kết quả của cả quá trình tố tụng hoàn chỉnh. Trường hợp việc giải quyết vụ án được chấm dứt giữa chừng vì những lý do nhất định thì mỗi giai đoạn tố tụng có thể được kết thúc bằng một văn bản tố tụng khác, như: ở giai đoạn khởi tố vụ án có thể là
  • 18. 18 quyết định không khởi tố vụ án, không khởi tố bị can; ở giai đoạn truy tố có thể là quyết định đình chỉ giải quyết vụ án của VKS; ở giai đoạn XXST có thể là quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án của Tòa án… Như vậy, có thể nói: Giai đoạn TTHS là khái niệm dùng để chỉ các bước của quá trình giải quyết VAHS, mỗi bước có thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc riêng, mỗi bước có nhiệm vụ riêng và được thực hiện chủ yếu bởi cơ quan THTT có chức năng tương ứng nhằm giải quyết VAHS. Hiệu quả hoạt động của mỗi giai đoạn tố tụng có ý nghĩa riêng trong toàn bộ quá trình tố tụng, nó có thể là tiền đề cho hoạt động của giai đoạn tố tụng sau hoặc lại là sự đánh giá, kiểm chứng tính đúng đắn của hoạt động tố tụng trong giai đoạn trước. Giai đoạn xét xử được xác định là giai đoạn quan trọng nhất của quá trình giải quyết VAHS, được coi là "hoạt động trọng tâm" của cả quá trình TTHS, bởi lẽ ở giai đoạn xét xử, sau khi nghiên cứu khách quan, toàn diện và đầy đủ các tình tiết của vụ án, mọi vấn đề liên quan đến vụ án như có hành vi phạm tội không, ai đã thực hiện tội phạm đó, có bị chịu hình phạt không, mức phạt như thế nào… được làm sáng tỏ trong giai đoạn xét xử. Hay có thể nói, phán quyết cuối cùng có tính quyết định đối với việc giải quyết một VAHS chủ yếu được thực hiện ở giai đoạn xét xử và bởi tòa án. Nhằm mục đích xét xử đúng người, đúng tội, áp dụng đúng pháp luật, không để lọt tội phạm, không xử oan người vô tội, BLTTHS quy định về việc thực hiện chế độ hai cấp xét xử là XXST và XXPT [33, Điều 20]. Tuy nhiên, không phải mọi VAHS nếu được đưa ra xét xử thì sẽ đều được xét xử ở cấp phúc thẩm, bởi lẽ, chỉ có những "bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị" thì mới có khả năng được xét xử ở cấp phúc thẩm. Nói "có khả năng" vì không phải mọi bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án có kháng cáo, kháng nghị đều đương nhiên được xem xét, giải quyết ở cấp phúc thẩm mà còn phụ thuộc nhiều yếu tố như việc kháng cáo, kháng nghị đó do ai thực hiện, có phải do chủ thể có quyền kháng cáo, kháng nghị thực hiện không, có
  • 19. 19 theo đúng trình tự, thủ tục và có trong thời hạn pháp luật cho phép không… Việc giải quyết vụ án theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm cũng không phải sẽ được thực hiện ở mọi vụ án, vì chỉ có những bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong quá trình giải quyết hoặc có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định mà Tòa án không biết được khi ra bản án, quyết định đó thì bản án, quyết định đó mới có thể được xem xét, giải quyết theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Trong khi đó, XXST là thủ tục bắt buộc đối với mọi vụ án nếu được tòa án đưa ra xét xử. Các thủ tục XXPT, giám đốc thẩm hay tái thẩm đối với vụ án chỉ có thể được thực hiện khi thuộc các trường hợp như đã phân tích ở trên, nó có thể xảy ra hoặc không xảy ra. Như vậy, có thể khẳng định, XXST có vai trò và ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình giải quyết VAHS. Để thấy rõ vai trò của giai đoạn XXST VAHS, chúng ta cần hiểu rõ thế nào là XXST VAHS. Việc tìm hiểu, giải thích, làm sáng tỏ khái niệm XXST VAHS có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất lớn, không chỉ nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả xét xử mà còn có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động của các cơ quan THTT, người THTT và người tham gia tố tụng. Nếu như XXPT VAHS được pháp luật quy định "là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị" [33, Điều 230] thì XXST VAHS lại không được pháp luật định nghĩa cụ thể. Do đó, hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về XXST VAHS, tuy nhiên, có thể tổng hợp lại thành các loại quan điểm về XXST VAHS như sau: - Quan điểm thứ nhất: XXST là một giai đoạn tố tụng mà ở đó đòi hỏi những người THTT và người tham gia tố tụng phải tập trung trí tuệ xử lý các tình huống một cách nhanh chóng, các lý lẽ đưa ra không chỉ chính xác mà
  • 20. 20 phải có tính thuyết phục, đồng thời lại phải tuân theo những quy định của pháp luật [28, tr. 7]. XXST là giai đoạn trung tâm, quyết định quá trình giải quyết vụ án từ khi khởi tố, điều tra đến khi đưa bị cáo ra tòa [28, tr. 131]. - Quan điểm thứ hai: XXST VAHS là giai đoạn kế tiếp giai đoạn truy tố. Trong giai đoạn này, Tòa án có thẩm quyền tiến hành nghiên cứu hồ sơ, ra các quyết định cần thiết về việc giải quyết VAHS, mở phiên tòa nhằm xem xét, đánh giá công khai các chứng cứ để ra bản án, quyết định tội danh của bị cáo, hình phạt, các biện pháp tư pháp cũng như ra các quyết định cần thiết khác [47, tr. 233]. - Quan điểm thứ ba: XXST VAHS là một giai đoạn của TTHS, trong đó tòa án có thẩm quyền tiến hành xem xét và giải quyết VAHS, ra bản án, quyết định tố tụng theo quy định của pháp luật nhằm bảo vệ chế độ, pháp chế XHCN, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân góp phần đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Phán quyết của XXST là những phán quyết đầu tiên của Tòa án đối với một vụ án, nó cũng có thể là phán quyết cuối cùng trong trường hợp không có kháng cáo, kháng nghị. Các quan điểm nêu trên đã ít nhiều phản ánh được bản chất của hoạt động XXST VAHS. Tuy nhiên theo tác giả, từng quan điểm nêu trên ít nhiều vẫn chưa có được sự chính xác, chưa thể hiện được đầy đủ tính chất của XXST VAHS, cụ thể: - Quan điểm thứ nhất và thứ hai chưa thể hiện được đầy đủ tính chất của XXST, chưa phân biệt được XXST với XXPT hay giám đốc thẩm, tái thẩm. - Quan điểm thứ ba cho rằng phán quyết của XXST là phán quyết đầu tiên của Tòa án đối với một vụ án… là chưa chính xác bởi lẽ một VAHS có thể trải qua nhiều lần XXST, ở lần XXST đầu tiên Hội đồng xét xử (HĐXX) có thể quyết định trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung hoặc bản án, quyết định của lần XXST lần đầu tiên này có thể bị kháng cáo, kháng nghị và khi XXPT Tòa án cấp phúc thẩm tuyên hủy bản án, quyết định sơ thẩm lần đầu tiên đó
  • 21. 21 để XXST lại. Khi XXST lại, HĐXX lại ra phán quyết khác (có thể nội dung của phán quyết này không có gì thay đổi so với nội dung phán quyết trong bản án, quyết định của lần xử sơ thẩm trước) thì phán quyết này cũng không thể coi là phán quyết đầu tiên đối với vụ án (bởi trước đó đã có phán quyết của lần xử sơ thẩm trước, phán quyết của tòa án cấp phúc thẩm…). Như vậy, không thể nói XXST là xét xử lần đầu tiên đối với VAHS. Theo tác giả, XXST VAHS nên được định nghĩa như sau: XXST VAHS là một giai đoạn của hoạt động TTHS, ở đó, Tòa án cấp thứ nhất thực hiện việc xem xét, đánh giá chứng cứ, các tình tiết của vụ án một cách công khai, khách quan, toàn diện…, trên cơ sở đó Tòa án áp dụng các quy định của pháp luật có liên quan ra bản án hoặc các quyết định tố tụng cần thiết để giải quyết vụ án; bản án, quyết định trong giai đoạn XXST chưa có hiệu lực ngay và có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật. Giai đoạn XXST được bắt đầu kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án và kết thúc khi phiên tòa sơ thẩm kết thúc. Trên cơ sở tính chất, chức năng, nhiệm vụ của mình, XXST VAHS có những đặc trưng cơ bản sau: Thứ nhất: XXST VAHS là một giai đoạn của hoạt động TTHS. Nói XXST là một giai đoạn của hoạt động tố tụng vì cũng như các giai đoạn khác của hoạt động TTHS, XXST VAHS có thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc riêng; do các chủ thể THTT thực hiện mà trung tâm là Tòa án; kết quả của hoạt động xét xử là việc HĐXX ra bản án, quyết định tố tụng để giải quyết vụ án… Trong XXST VAHS, Tòa án là chủ thể THTT chính, có vai trò trung tâm và chỉ có Tòa án mới có chức năng xét xử. Nhiệm vụ của Tòa án là phải xem xét, thẩm tra đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của KSV, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và những người có liên quan để ra bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục, bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
  • 22. 22 Thứ hai: Cơ sở của XXST là bản cáo trạng của VKS. Chỉ khi đã có bản cáo trạng truy tố bị can thì Tòa án mới có thể tiến hành xem xét việc xét xử vụ án. Thứ ba: Theo quy định, thành phần HĐXX sơ thẩm: Gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm, trường hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì Hội đồng xét xử có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm; đối với vụ án mà bị cáo bị đưa ra xét xử về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình thì Hội đồng xét xử gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm [33, Điều 185]. Trong khi đó, thành phần HĐXX phúc thẩm "gồm ba Thẩm phán và trong trường hợp cần thiết có thể có thêm hai Hội thẩm" [33, Điều 244]. Như vậy, tại giai đoạn XXST VAHS bắt buộc phải có Hội thẩm. Thứ tư: Kết quả hoạt động của giai đoạn XXST VAHS là việc HĐXX ra bản án, quyết định để giải quyết vụ án. Nội dung của bản án, quyết định đó có thể là tuyên bố bị cáo phạm tội và áp dụng mức hình phạt tương xứng, có thể là tuyên bố bị cáo không phạm tội, đình chỉ giải quyết vụ án… Những bản án, quyết định này không có hiệu lực ngay và có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Đây là đặc trưng cơ bản nhất của XXST nói chung và XXST VAHS nói riêng. Mặc dù XXST VAHS là một giai đoạn trong quá trình giải quyết một VAHS, tuy nhiên có thể chia giai đoạn XXST VAHS thành hai bước hoặc hai giai đoạn nhỏ, đó là: Chuẩn bị XXST VAHS và phiên tòa sơ thẩm VAHS, mỗi giai đoạn có những nhiệm vụ riêng, cụ thể. * Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Chuẩn bị XXST VAHS được bắt đầu kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án và kết thúc khi phiên tòa được mở. Trong giai đoạn này, Tòa án thực hiện việc nghiên cứu hồ sơ, giải quyết các yêu cầu của những người tham gia tố tụng, đồng thời tiến hành những việc cần thiết cho việc mở phiên tòa sơ thẩm.
  • 23. 23 Chuẩn bị XXST VAHS có vị trí quan trọng trong hoạt động tố tụng và được quy định trong một chương riêng trong BLTTHS năm 2003 (chương XVII), nhưng đến nay pháp luật chưa có khái niệm cụ thể thế nào là chuẩn bị XXST VAHS mà chỉ quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử, nội dung các công việc cụ thể, nhiệm vụ của các chủ thể THTT trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Theo tác giả, khái niệm chuẩn bị xét xử VAHS có thể được định nghĩa như sau: Chuẩn bị xét xử VAHS là hoạt động TTHS do những người tiến hành TTHS có thẩm quyền thực hiện từ khi thụ lý vụ án đến khi mở phiên tòa và được tiến hành theo trình tự pháp luật quy định. Cũng theo đó, chuẩn bị XXST VAHS là hoạt động TTHS do những người tiến hành TTHS có thẩm quyền thực hiện từ khi thụ lý vụ án đến khi mở phiên tòa sơ thẩm và được tiến hành theo trình tự pháp luật quy định. Chuẩn bị XXST VAHS là giai đoạn đầu tiên trong XXST VAHS, thông qua hoạt động chuẩn bị xét xử, Tòa án mà trực tiếp là Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa (trong trường hợp vụ án được đưa ra xét xử) có nhiệm vụ "nghiên cứu hồ sơ, giải quyết các khiếu nại và yêu cầu của những người tham gia tố tụng và tiến hành những việc khác cần thiết cho việc mở phiên tòa" [33, Điều 176]. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa phải ra một trong những quyết định sau: (i) Đưa vụ án ra xét xử; hoặc (ii) Trả hồ sơ để điều tra bổ sung; hoặc (iii) Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án. Thời hạn chuẩn bị XXST VAHS là ba mươi ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, bốn mươi lăm ngày đối với tội phạm nghiêm trọng, hai tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, ba tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Thời hạn được tính từ ngày Tòa án nhận hồ sơ vụ án. Đây là khoảng thời gian để những người THTT thực hiện hoạt động TTHS trước khi XXST vụ án và thực hiện các công việc cần thiết khác chuẩn bị cho việc mở phiên tòa hoặc quyết định trả hồ sơ đề điều tra bổ sung, đình chỉ hoặc tạm đình chỉ
  • 24. 24 vụ án. Trường hợp vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn thì thời hạn chuẩn bị xét xử là bảy ngày kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án. Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, các thành viên HĐXX sẽ nghiên cứu hồ sơ để xem xét vụ án có thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án không, có cần chuyển, tách, nhập vụ án không? Thủ tục tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã đúng và đầy đủ chưa? Có cần áp dụng, thay đổi hay hủy bỏ biện pháp ngăn chặn không? Hồ sơ vụ án đã có đủ tài liệu, chứng cứ để làm rõ những vấn đề phải chứng minh chưa? Hành vi được mô tả trong bản kết luận điều tra và cáo trạng có cấu thành tội phạm không? Việc định tội danh, viện dẫn căn cứ pháp luật trong bản cáo trạng đã đúng chưa?... Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, Thẩm phán được giao nhiệm vụ chủ tọa phiên tòa (nếu vụ án được đưa ra xét xử) sẽ ra một trong các quyết định nêu trên (quyết định đưa vụ án ra xét xử; hoặc quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung; hoặc quyết định đình chỉ hoặc quyết định tạm đình chỉ vụ án). Ngoài ra, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Tòa án cũng thực hiện một số hoạt động tố tụng khác như giải quyết các khiếu nại, tố cáo của những người có liên quan, tống đạt các văn bản tố tụng, thông báo triệu tập những người cần xét hỏi đến phiên tòa, chuẩn bị phòng xử án cho phiên tòa… Tất cả các hoạt động trên trong giai đoạn chuẩn bị xét xử là nhằm chuẩn bị cho phiên tòa được diễn ra theo đúng trình tự, thủ tục và thời gian pháp luật quy định, đảm bảo cho phiên tòa được diễn ra đúng quy định, xét xử đúng người, đúng tội, áp dụng đúng pháp luật, nhanh chóng, công minh, kịp thời, giúp cho bản án, quyết định của Tòa án được ban hành có hiệu lực và hiệu quả cao. * Phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự Phiên tòa là nơi diễn ra các hoạt động quan trọng nhất, quyết định nhất đối với việc giải quyết các vụ án nói chung và VAHS nói riêng. Việc xét xử được thực hiện bởi một HĐXX gồm có một Thẩm phán và hai Hội thẩm;
  • 25. 25 trường hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì HĐXX có thể gồm có hai Thẩm phán và ba Hội thẩm; vụ án mà bị cáo bị đưa ra xét xử về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình thì HĐXX gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm [33, Điều 185]. KSV sẽ đại diện VKS trong việc thực hành quyền công tố, đưa ra lời buộc tội đối với bị cáo và quan điểm giải quyết vụ án, kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên tòa. Những người tham gia tố tụng bao gồm bị cáo, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng, người làm chữa, người phiên dịch, người giám định… Theo quy định của BLTTHS năm 2003, phiên tòa XXST VAHS bao gồm các phần sau: Thủ tục bắt đầu phiên tòa, thủ tục xét hỏi tại phiên tòa, tranh luận tại phiên tòa, nghị án và tuyên án. Tại phiên tòa, việc xét hỏi có ý nghĩa như hoạt động điều tra công khai. Sau khi việc xét hỏi kết thúc, bên buộc tội (VKS) và bên gỡ tội (bị cáo, người bào chữa) sẽ tranh luận nhằm đưa ra các căn cứ, lý lẽ để bảo vệ quan điểm của mình. HĐXX điều khiển để việc tranh luận diễn ra theo đúng quy định. Trên cơ sở kết quả tranh luận, HĐXX nghị án và ra bản án, quyết định với nội dung cơ bản là trình bày hành vi của bị cáo mà VKS đã truy tố và được đưa ra xét xử tại phiên tòa, phân tích những chứng cứ xác định bị cáo có tội hoặc chứng cứ xác định bị cáo không có tội, xác định bị cáo có phạm tội hay không và nếu bị cáo phạm tội thì phạm tội gì, theo điều khoản nào của Bộ luật hình sự (BLHS), các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (TNHS) và cần phải xử lý như thế nào; nếu bị cáo không phạm tội thì chỉ rõ những căn cứ xác định bị cáo không có tội và giải quyết việc khôi phục danh dự, quyền và lợi ích hợp pháp của họ… [33, Điều 224]. Như vậy, tại phiên tòa, quyết định về việc giải quyết vụ án sẽ được HĐXX đưa ra trên cơ sở giải quyết nhiệm vụ trọng tâm của giai đoạn xét xử là xác định sự thật khách quan của vụ án. Chỉ có xác định được sự thật
  • 26. 26 khách quan của vụ án thì mới có thể giải quyết vụ án một cách chính xác, đúng pháp luật. 1.1.2. Ý nghĩa của giai đoạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Xuất phát từ nhiệm vụ chủ yếu và quan trọng nhất của XXST VAHS là giải quyết đúng đắn, khách quan vụ án, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm… nên XXST có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình giải quyết VAHS. Thông qua việc xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm, Tòa án thực hiện việc điều tra công khai, trực tiếp các tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ án với sự tham gia của cả bên buộc tội và bên gỡ tội, những người tham gia tố tụng khác để khẳng định tính hợp pháp, tính khách quan và tính liên quan của các chứng cứ đã được thu thập trong các giai đoạn điều tra, truy tố và cả những chứng cứ thu thập được tại phiên tòa. Thông qua việc xét hỏi công khai, Tòa án vừa có thể thu thập thêm các chứng cứ quan trọng, vừa có thể xem xét, đánh giá được những chứng cứ khác, khắc phục được những thiếu sót, sai lầm trong hoạt động tố tụng trước đó. Bên cạnh đó, hoạt động tranh luận tại phiên tòa cũng có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc giải quyết vụ án. Thông qua việc tranh luận, các bên đưa ra được những lý lẽ để bảo vệ quan điểm của mình. Tại phiên tòa sơ thẩm, các nguyên tắc TTHS cơ bản cũng được thực hiện đầy đủ nhất như nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, nguyên tắc không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật, nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành hoặc tham gia tố tụng, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo… Quyền bào chữa của bị cáo thể hiện bằng việc bị cáo có thể tự mình bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa thông qua quá trình tranh tụng và "đỉnh cao của quá trình đó là ở phiên tòa sơ thẩm" [7, tr. 20]. Tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng được bình đẳng với nhau và bình đẳng với cả VKS trong việc xuất trình các chứng cứ, tranh luận và đưa ra các yêu cầu… Từ đó
  • 27. 27 đảm bảo cho bản án, quyết định của Tòa án được ban hành một cách chính xác, khách quan, công minh. Thông qua XXST VAHS, các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, quyền tự do dân chủ của công dân, lợi ích của Nhà nước được bảo vệ. Thông qua XXST VAHS, chức năng giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm của Tòa án cũng được thể hiện. Một bản án được tuyên khách quan, công bằng, đúng pháp luật không chỉ có tác dụng trừng trị, răn đe, giáo dục người phạm tội mà nó còn có tác dụng giáo dục, tuyên truyền chung đối với toàn xã hội, giúp người dân nâng cao ý thức, sự hiểu biết pháp luật, giúp họ hiểu rõ quan điểm, chính sách của Nhà nước đối với người phạm tội để tránh vi phạm pháp luật và có những hành vi, ứng xử phù hợp. Xét xử sơ thẩm VAHS có vai trò quan trọng còn thể hiện ở chỗ XXST có mối quan hệ chặt chẽ với các hoạt động TTHS khác. Toàn bộ các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố chỉ nhằm mục đích thu thập chứng cứ phục vụ cho hoạt động xét xử. Bản án, quyết định của Tòa án được tuyên khách quan, toàn diện, chính xác sẽ tạo lòng tin trong nhân dân, làm giảm tỷ lệ kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm, góp phần tiết kiệm thời gian, tiền bạc của Nhà nước, nhân dân, nâng cao chất lượng, uy tín của Tòa án và các cơ quan tư pháp. 1.2. ĐỊA VỊ PHÁP LÝ VÀ VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ - NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.2.1. Địa vị pháp lý của luật sư - người bào chữa trong tố tụng hình sự * Khái niệm luật sư Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau trong việc định nghĩa về luật sư, trong đó có thể kể ra một số quan điểm sau đây: Quan điểm thứ nhất: "Luật sư là người có chức trách, dùng pháp luật bào chữa cho bị can trước tòa án" [62, tr. 1059]. Theo tác giả, quan điểm này
  • 28. 28 cho rằng luật sư là người "dùng pháp luật bào chữa cho bị can trước tòa án" là chưa chính xác vì theo quy định, người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử được gọi là "Bị cáo" mà không phải là bị can [33, Điều 50]; không phải chỉ có luật sư mới "dùng pháp luật bào chữa" mà ngoài luật sư còn có các chủ thể khác cũng có thể "dùng pháp luật bào chữa", đó là người đại diện hợp pháp của bị cáo, là bào chữa viên nhân dân. Ngoài ra, trong hoạt động nghề nghiệp của mình, luật sư còn có thể bào chữa cho cả người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong VAHS hoặc thực hiện các dịch vụ pháp lý khác theo yêu cầu của khách hàng. Quan điểm thứ hai: Luật sư là người hoạt động bào chữa chuyên nghiệp hoạt động trong đoàn luật sư. Quan điểm này còn rất chung chung và chưa đầy đủ vì trên thực tế, ngoài hoạt động bào chữa, luật sư còn thực hiện các dịch vụ pháp lý khác theo yêu cầu của khách hàng như tham gia bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong các VAHS, dân sự, lao động, tham gia tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng… Pháp luật các nước trên thế giới thường không đưa ra khái niệm luật sư mà chỉ quy định về tiêu chuẩn để trở thành luật sư. Tiêu chuẩn phổ biến để một người có thể được công nhận là luật sư bao gồm người đó phải là công dân ở nước sở tại, có bằng cử nhân luật và có phẩm chất đạo đức tốt. Ở nước ta, Luật Luật sư năm 2006 cũng không định nghĩa thế nào là luật sư mà chỉ quy định: Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của pháp luật, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của khách hàng; hoạt động nghề nghiệp của luật sư nhằm góp phần bảo vệ công lý, phát triển kinh tế và xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Một người có đủ các tiêu chuẩn sau thì có thể trở thành luật sư: Là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức khỏe bảo đảm hành nghề luật sư. Điều kiện hành
  • 29. 29 nghề luật sư: Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều 10 của Luật luật sư muốn được hành nghề luật sư phải có chứng chỉ hành nghề luật sư và gia nhập một Đoàn luật sư [36, Điều 2, 3, 10, 11]. Như vậy, cho đến nay chưa có định nghĩa chính thức về luật sư. Tuy nhiên, tác giả đồng ý với quan điểm sau: "Luật sư là danh từ chỉ người được công nhận là luật sư khi có đủ tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật và hành nghề luật sư là việc luật sư được làm những việc theo chuyên môn, nghề nghiệp của mình đã được pháp luật quy định" [52]. Những việc theo chuyên môn, nghề nghiệp đó có thể là tham gia VAHS với tư cách là người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc với tư cách là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền, lợi ích liên quan trong VAHS, hoặc thực hiện các dịch vụ pháp lý khác của khách hàng theo quy định của pháp luật. * Khái niệm người bào chữa Trong quá trình giải quyết VAHS, người bào chữa có vai trò quan trọng góp phần giúp Tòa án xét xử đúng người, đúng tội, áp dụng đúng pháp luật. Tuy nhiên, cho đến nay trong lý luận pháp lý và thực tiễn TTHS vẫn chưa có khái niệm chính thức và thống nhất về người bào chữa. Có ý kiến cho rằng: Người bào chữa là người giúp đỡ Tòa án trong việc xác định tất cả các tình tiết cần thiết về vụ án để cuối cùng Tòa án ra một bản án có căn cứ và đúng pháp luật. Quan điểm khác cho rằng "Người bào chữa là người thực hiện việc bảo vệ các quyền và lợi ích của người bị tình nghi và bị can và giúp họ về mặt pháp lý trong quá trình tố tụng đối với vụ án theo thủ tục quy định tại Bộ luật này" [56, Điều 49]. Hoặc: Người bào chữa là thuật ngữ chỉ về những người có kiến thức pháp luật và kinh nghiệm hoạt động tố tụng thay mặt thân chủ tham gia tố tụng trong một vụ án hình sự để biện hộ, bảo vệ cho thân chủ của mình để chống lại sự buộc tội, truy tố hoặc một sự tố
  • 30. 30 cáo, giúp làm giảm trách nhiệm hình sự cho thân chủ của họ đồng thời cũng có thể giúp cơ quan có chức năng làm sáng tỏ các tình tiết vụ án, họ có quyền tranh tụng với các chủ thể khác trong quá trình xử lý vụ án hình sự [48]. Người bào chữa là người tham gia tố tụng với nhiệm vụ và mục đích là làm sáng tỏ những tình tiết của vụ án nhằm giúp chứng minh sự vô tội hoặc giảm nhẹ TNHS cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và giúp người tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý để bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của họ [1, tr. 115]. Các quan điểm trên chủ yếu mới chỉ nói lên mục đích tham gia tố tụng của người bào chữa mà chưa làm rõ và đầy đủ bản chất, vai trò, địa vị pháp lý của người bào chữa, cũng như chưa phân biệt được người bào chữa với người THTT, với người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Theo tác giả, trên cơ sở các quy định tại các Điều 56, 57, 58 và các quy định khác của BLTTHS năm 2003, có thể đưa ra định nghĩa về người bào chữa như sau: Người bào chữa là người tham gia TTHS do được mời hoặc được yêu cầu và được cơ quan THTT có thẩm quyền chấp thuận để giúp chứng minh sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ TNHS của người bị buộc tội, giúp người bị buộc tội về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, qua đó góp phần giúp Tòa án giải quyết vụ án một cách nhanh chóng, chính xác, công minh. * Địa vị pháp lý của luật sư - người bào chữa trong tố tụng hình sự Theo Từ điển luật học: Địa vị pháp lý là vị trí của chủ thể pháp luật trong mối quan hệ với những chủ thể pháp luật khác trên cơ sở các quy định của pháp luật. Địa vị pháp lý của chủ thể pháp luật thể hiện thành một tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể, qua đó xác lập cũng như giới hạn khả năng của chủ thể trong các hoạt động của mình [59, tr. 244].
  • 31. 31 Theo định nghĩa này thì địa vị pháp lý của luật sư tham gia giai đoạn XXST VAHS với tư cách là người bào chữa là tổng thể các quyền năng cũng như nghĩa vụ, trách nhiệm của luật sư thể hiện trong các quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của luật sư ở giai đoạn XXST VAHS. Luật sư tham gia TTHS với tư cách là người bào chữa "có nghĩa là thực hiện vai trò của người bào chữa là một trong những người tham gia tố tụng vì công lý" [8, tr. 152]. Tính chất vì công lý đó thể hiện ở chỗ: Luật sư bào chữa là người không có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ án nhưng họ tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi cho khách hàng của mình, đồng thời góp phần giúp các cơ quan tố tụng hình sự làm rõ sự thật vụ án; là lực lượng đối trọng với bên buộc tội trong tranh tụng để đảm bảo tính dân chủ, khách quan và tránh được những sai lầm phiến diện trong giải quyết vụ án hình sự [61, tr. 121]. Trong VAHS, luật sư có thể tham gia với tư cách là người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi ích liên quan đến vụ án… Tuy nhiên, địa vị pháp lý và vai trò của luật sư được thể hiện rõ nét nhất khi luật sư tham gia VAHS với vai trò là người bào chữa. Luật sư bào chữa là luật sư tham gia tố tụng với tư cách người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được bào chữa, đồng thời góp phần đảm bảo công lý trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, qua đó phát triển kinh tế, xã hội và xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh [61, tr. 120-121]. Theo quy định của BLTTHS người bào chữa có thể là Luật sư; Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; Bào chữa viên nhân dân [33, Điều 56].
  • 32. 32 Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của pháp luật và thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của khách hàng [36, Điều 2, 10, 11]. Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có thể là bố mẹ đẻ, bố mẹ nuôi, người đỡ đầu, anh chị em ruột và những người theo quy định của pháp luật đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thất chất hoặc tinh thần. Những người đại diện hợp pháp này nhất thiết phải là người đã thành niên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Bào chữa viên nhân dân là người được tổ chức, đoàn thể xã hội cử ra để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Hiện nay, pháp luật còn thiếu các quy định cụ thể về bào chữa viên nhân dân và trong thực tế hoạt động bào chữa viên nhân dân cũng không được tổ chức thành một hệ thống. Như vậy, có thể thấy trong ba nhóm người bào chữa nêu trên, chỉ có luật sư là người bào chữa được quy định chặt chẽ, cụ thể về điều kiện, tiêu chuẩn cũng như cách thức hoạt động. Xuất phát từ các quy định này và từ nhiều lý do khác nhau nên trong thực tiễn TTHS hiện nay, người bào chữa chủ yếu là luật sư, còn bào chữa viên nhân dân và người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chỉ tồn tại trong pháp luật thực định mà rất ít có sự tham gia bào chữa trong thực tế. Mặc dù có vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội, giúp các cơ quan THTT trong việc điều tra, truy tố và xét xử VAHS một cách nhanh chóng, khách quan, chính xác; "việc bào chữa của luật sư với mục đích góp phần đi tìm công lý, không được làm oan người vô tội nhưng cũng không để lọt tội phạm" [50, tr. 24], và trên thực tế luật sư là người bào chữa chủ yếu, nhưng hiện nay, vị trí và vai trò của luật sư với tư cách là người bào chữa trong XXST VAHS vẫn có nhiều quan điểm khác nhau. Có người cho rằng luật sư là người bào chữa, là người tham gia tố
  • 33. 33 tụng độc lập. Quan điểm khác cho rằng luật sư trong TTHS là người đại diện của bị can, bị cáo. Một số người khác lại có quan điểm luật sư là chủ thể độc lập trong tố tụng, đồng thời là người đại diện cho lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo [49, tr. 43]. Theo Tiến sĩ Phạm Hồng Hải, khi tham gia bào chữa trong giai đoạn XXST VAHS, luật sư không phải là người tham gia tố tụng độc lập, vì mối quan hệ giữa luật sư và bị cáo chỉ được thiết lập khi bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp, người thân của họ mời luật sư cho họ và được cơ quan THTT chấp nhận, hoặc luật sư được cơ quan THTT đề nghị cử luật sư cho người này và được họ đồng ý. Do đó, có thể khẳng định ý chí của bị cáo luôn là yếu tố quyết định có hay không có sự tham gia của luật sư. Xuất phát từ ý chí chủ quan của mình, bị cáo có thể từ chối luật sư ở bất kỳ giai đoạn nào của quá trình tố tụng nếu họ nhận thấy sự tham gia của luật sư là không còn cần thiết, không thể giúp đỡ gì hoặc làm xấu hơn tình trạng của họ [21, tr. 13]. Theo tác giả, khi tham gia với tư cách là người bào chữa trong XXST VAHS, luật sư là người tham gia tố tụng độc lập nhưng chỉ là độc lập tương đối. Tính độc lập tương đối thể hiện ở chỗ, mặc dù luật sư được tự mình thực hiện các hoạt động tố tụng cần thiết như thực hiện các hoạt động nhằm thu thập chứng cứ, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật; luật sư có quyền trình bày quan điểm của mình mà không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của bị cáo, có quyền kháng cáo, khiếu nại các bản án, quyết định, hành vi tố tụng và trong mọi trường hợp, luật sư chỉ căn cứ vào các quy định của pháp luật để bảo vệ quyền, lợi ích của bị cáo; luật sư không có nghĩa vụ phải bào chữa theo yêu cầu của bị cáo nếu những yêu cầu đó là không có căn cứ, trái pháp luật… Tính độc lập của luật sư còn được thể hiện ở chỗ: "Luật sư hành nghề độc lập trên cơ sở pháp luật và quy tắc đạo đức nghề nghiệp chứ không chịu bất kỳ áp lực, một cản trở nào từ bên ngoài, thậm chí, từ lợi ích cá nhân của chính bản thân luật sư" [50, tr. 21]. Tuy nhiên, mọi hoạt động này của luật sư lại được
  • 34. 34 xuất phát và phụ thuộc vào thái độ của bị cáo đối với luật sư, và luật sư sẽ không thể thực hiện hoặc tiếp tục thực hiện các hoạt động tố tụng này nếu bị cáo từ chối luật sư. Để tạo điều kiện cho luật sư tham gia tố tụng trong XXST VAHS với tư cách là người bào chữa thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, pháp luật đã quy định rõ cho họ có những quyền, nghĩa vụ nhất định. * Quyền và nghĩa vụ của luật sư - người bào chữa trong tố tụng hình sự - Quyền của luật sư - người bào chữa trong tố tụng hình sự Quyền của luật sư tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa trong TTHS được quy định tập trung tại các Điều 56, 58 BLTTHS năm 2003, ngoài ra, còn được quy định rải rác tại các điều khoản khác trong BLTTHS năm 2003 như quy định về quyền bình đẳng trước Tòa án (Điều 19), các quy định về nghĩa vụ từ chối tham gia với tư cách là người giám định, người phiên dịch (Điều 60, 61), quyền được giao quyết định đưa vụ án ra xét xử (Điều 182), được tiếp xúc với bị cáo tại phiên tòa (Điều 188), quyền gửi trước bản bào chữa cho Tòa án (Điều 190), quyền trình bày nhận xét của mình về các tài liệu được xem xét tại phiên tòa, về nơi đã xảy ra tội phạm hoặc những địa điểm khác có liên quan đến vụ án, về kết luận giám định (Điều 213, 214, 215), được Tòa án giao bản án (Điều 229)…, các quy định trong Luật Luật sư. Về thời điểm tham gia bào chữa của luật sư: Luật sư có quyền tham gia tố tụng để bào chữa từ khi khởi tố bị can hoặc từ khi có quyết định tạm giữ trong trường hợp bắt người phạm tội quả tang, người đang bị truy nã, bắt người trong trường hợp khẩn cấp; trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia thì luật sư có thể tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra [33, Điều 58]. So với BLTTHS năm 1988 thì BLTTHS năm 2003 cho phép người bào chữa tham gia tố tụng sớm hơn (có thể tham gia từ khi có quyết định tạm giữ trong trường hợp bắt người phạm tội quả tang,
  • 35. 35 người đang bị truy nã, bắt người trong trường hợp khẩn cấp). Đây là điểm mới tiến bộ và quan trọng của BLTTHS năm 2003 nhằm đảm bảo quyền tự do, dân chủ của công dân, nâng cao trách nhiệm của cơ quan THTT, người THTT, mở rộng hơn nữa biện pháp bảo đảm thực hiện quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Luật sư có thể tham gia theo đề nghị của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của họ hoặc tham gia theo yêu cầu của cơ quan THTT. Luật sư có thể bào chữa cho nhiều người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong cùng một vụ án, nếu quyền và lợi ích của họ không đối lập nhau; nhiều luật sư có thể cùng bào chữa cho một người bị tạm giữ, bị can, bị cáo [33, Điều 56]. Thực tế cho thấy, các hoạt động tố tụng ban đầu có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc giải quyết vụ án, có ảnh hưởng tới các hoạt động tố tụng sau đó. Về phía luật sư, việc tham gia vụ án sớm giúp luật sư có điều kiện thuận lợi trong việc thu thập chứng cứ gỡ tội hoặc những tình tiết giảm nhẹ TNHS cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, giúp luật sư có những điều kiện pháp lý cần thiết để việc bào chữa đạt được hiệu quả cao. Tham gia tố tụng sớm, luật sư có điều kiện giám sát các hoạt động của ĐTV, hạn chế những sai sót hoặc những vi phạm pháp luật trong việc bắt, giam giữ, bức cung, dùng nhục hình… Khi có sự tham gia của luật sư, người bị tạm giữ, bị can sẽ bình tĩnh hơn, tự tin hơn trong quá trình làm việc với CQĐT. Trên thực tế, trong các vụ án có oan, sai, vai trò của người bào chữa chưa được khẳng định đúng mức, một phần là do người bào chữa chưa được tham gia đầy đủ ngay từ đầu quá trình tố tụng. Quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa [33, Điều 58].
  • 36. 36 Đây là những quyền mới của luật sư được BLTTHS năm 2003 bổ sung thêm so với BLTTHS năm 1988. Việc quy định như vậy phù hợp với quy định về thời điểm tham gia tố tụng của luật sư, đồng thời, tạo cho luật sư thực hiện việc giám sát đối với các hoạt động của ĐTV, đặc biệt là giám sát các nội dung được thể hiện trong các biên bản tố tụng. Qua việc giám sát này, nếu phát hiện thấy có những sai sót hoặc vi phạm trong hoạt động tố tụng của ĐTV, luật sư sẽ thực hiện các thủ tục kiến nghị, khiếu nại cần thiết để hoạt động tố tụng của CQĐT, ĐTV được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Để có thể có mặt khi ĐTV lấy lời khai của người bị tạm giữ, hỏi cung bị can, luật sư có quyền "đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm". Trường hợp được ĐTV đồng ý, luật sư có quyền đặt câu hỏi đối với người bị tạm giữ, bị can. Luật sư có quyền "đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch" trong trường hợp có căn cứ cho rằng họ không khách quan trong khi thực hiện nhiệm vụ. Đây không phải chỉ là quyền của bị can, bị cáo mà còn là quyền của luật sư và luật sư được thực hiện quyền này trong tất cả các giai đoạn của quá trình tố tụng. Trên thực tế, do hạn chế về nhận thức, về trình độ pháp lý và do bị can, bị cáo không có điều kiện tìm hiểu nên họ rất khó khăn trong việc thực hiện quyền yêu cầu thay đổi những người THTT và người tham gia tố tụng. Do vậy, pháp luật quy định luật sư có quyền yêu cầu thay đổi những người này nhằm tạo điều kiện cho luật sư trợ giúp cho bị can, bị cáo thực hiện quyền của mình, đảm bảo sự vô tư, khách quan trong quá trình giải quyết vụ án, đảm bảo cho những quyết định có liên quan đến bị can, bị cáo được ban hành chính xác, công bằng, đúng pháp luật. Quyền thu thập tài liệu, đồ vật có liên quan đến việc bào chữa: Để thực hiện việc bào chữa, luật sư có quyền thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa. Luật sư có thể thu thập từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân tích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá
  • 37. 37 nhân nếu không thuộc bí mật Nhà nước, bí mật công tác. Khi đã thu thập được, luật sư có quyền đưa ra các tài liệu, đồ vật, yêu cầu đối với các CQTHTT [33, Điều 58]. Đây cũng là quy định mới của BLTTHS năm 2003 so với BLTTHS năm 1988. Quyền thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết… có liên quan thực chất là quyền điều tra của luật sư. Để có thể bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, luật sư cần thu thập các tài liệu, chứng cứ cần thiết liên quan thông qua việc tiếp xúc với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc thu thập từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo… để từ đó đưa ra những lý lẽ nhằm giúp chứng minh sự vô tội hoặc giảm nhẹ TNHS cho họ, góp phần xác định sự thật của vụ án. Quy định này cũng thể hiện sự bình đẳng của luật sư đối với KSV trong việc đưa ra các chứng cứ, tài liệu đồ vật trước tòa. Các tài liệu, tình tiết, đồ vật do luật sư thu thập được sẽ giúp họ chuẩn bị tốt luận cứ bào chữa của mình. Trong quá trình tố tụng, khi có căn cứ pháp lý, luật sư đưa ra các yêu cầu tố tụng như yêu cầu thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, yêu cầu trưng cầu giám định, giám định bổ sung, yêu cầu đối chất, tạm đình chỉ, đình chỉ, điều tra lại, điều tra bổ sung… góp phần quan trọng trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án, giúp cho việc giải quyết vụ án được nhanh chóng, chính xác, đúng pháp luật. Quyền đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu trong hồ sơ: Sau khi kết thúc điều tra, luật sư có quyền đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa [33, Điều 58]. Thông qua việc đọc, ghi chép và sao chụp tài liệu, luật sư sẽ nắm bắt được đầy đủ, chính xác các tình tiết của vụ án, các căn cứ buộc tội mà CQĐT và VKS áp dụng đối với bị can, bị cáo để từ đó tìm ra các chứng cứ gỡ tội hoặc giảm nhẹ TNHS cho họ. Đối với những vụ án đơn giản, ít hồ sơ, tài liệu cần đọc hoặc ghi chép thì luật sư có thể đọc hồ sơ, ghi chép tại chỗ những gì cần thiết, nhưng có những vụ án nghiêm trọng, hồ sơ phức tạp, có nhiều vấn đề cần nghiên cứu thì luật sư
  • 38. 38 không thể đọc và ghi chép hết những gì cần thiết. Do đó, quy định được ghi chép và sao chụp tài liệu cần thiết cho việc bào chữa sẽ tạo điều kiện cho luật sư thu thập tài liệu, tình tiết chuẩn bị cho việc bào chữa của mình, đảm bảo sự bình đẳng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội trong tranh tụng. Quyền gặp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo: Nhằm tạo điều kiện cho luật sư thực hiện tốt chức năng bào chữa của mình, pháp luật cho phép luật sư có quyền gặp người bị tạm giữ, gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam. Đây là quyền rất quan trọng của luật sư. Để thu thập tài liệu, chứng cứ phục vụ việc bào chữa, luật sư không chỉ nghiên cứu, sao chép hồ sơ vụ án đã được các CQTHTT thu thập mà một trong những nguồn chứng cứ đặc biệt quan trọng giúp luật sư bào chữa tốt có từ chính bị can, bị cáo. Bởi, hơn ai hết, chính bị can, bị cáo mới là người biết rõ nhất họ có phải là người đã thực hiện hành vi phạm tội mà các cơ quan THTT đang xem xét, giải quyết hay không, nếu có thì ở mức nào? Thông qua việc trực tiếp gặp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, luật sư sẽ thu thập các chứng cứ ngoại phạm, các tình tiết giảm nhẹ TNHS cho họ, nắm bắt được các đặc điểm nhân thân, diễn biến tâm lý của người được bào chữa khi họ thực hiện tội phạm hoặc động viên họ khai báo thành khẩn để nhận được sự khoan hồng của pháp luật. Đồng thời, thông qua việc gặp gỡ, luật sư sẽ tư vấn cho họ các vấn đề pháp lý có liên quan để từ đó giúp tâm lý của họ vững vàng hơn, yên tâm hơn và họ có thể tự bào chữa cho mình. Quyền tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa: Tại phiên tòa, các chức năng buộc tội, gỡ tội và xét xử được thực hiện đồng thời và rõ nét nhất nên luật sư có quyền tham gia hỏi, tranh luận và có quyền bình đẳng với KSV, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp của họ, người bảo vệ quyền lợi của đương sự trong việc đưa ra các chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ trước Tòa án [33, Điều 19, 58]. Khi tham gia hỏi và tranh luận tại phiên tòa, luật sư góp phần làm sáng tỏ quan điểm của bị cáo
  • 39. 39 đối với việc buộc tội, làm rõ những tình tiết quan trọng chưa được làm rõ trong những lời khai của bị cáo và trong câu trả lời của bị cáo đối với những câu hỏi của HĐXX và KSV nhằm xác định tính xác thực của các chứng cứ buộc tội cũng như gỡ tội, xác thực sự thật khách quan của vụ án. Tại phiên tòa có sự tham gia của các bên, bao gồm cả bên buộc tội, bên bị hại và những người làm chứng, người có quyền, nghĩa vụ liên quan… nên sẽ thuận lợi hơn rất nhiều để luật sư thực hiện hoạt động điều tra công khai, kiểm tra lại tính xác thực, tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp của các chứng cứ có trong vụ án, trên cơ sở đó giúp Tòa án có những phán quyết chính xác, khách quan, đúng pháp luật, bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo. Việc bào chữa của luật sư có đem lại kết quả tốt cho người được bào chữa hay không phụ thuộc nhiều vào việc hỏi và tranh luận của luật sư tại phiên tòa. Tầm quan trọng của việc tranh luận tại phiên tòa đã được nêu rõ trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về "một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới": Việc xét xử của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn quy định. Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để luật sư tham gia vào quá trình tố tụng: tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên tòa… [14]. Và, "khi nghị án, chỉ được căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa" [33, Điều 222].
  • 40. 40 Khi phát hiện những sai sót, vi phạm trong hoạt động tố tụng, luật sư có quyền "khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng". Trong trường hợp có căn cứ cho rằng bản án, quyết định của Tòa án áp dụng đối với người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần chưa đúng quy định của pháp luật, hoặc có vi phạm nghiêm trọng trong thủ tục tố tụng thì luật sư có quyền kháng cáo bản án, quyết định đó. Như vậy, với việc quy định các quyền nêu trên cho luật sư, pháp luật TTHS đã ghi nhận một cách chính thức các đảm bảo để người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa (trong đó bao gồm cả quyền tự bào chữa và quyền nhờ người khác bào chữa) của mình, đồng thời tạo hành lang pháp lý để luật sư thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ của mình trong quá trình tham gia bào chữa cho bị can, bị cáo, bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp cho họ, hạn chế sự tùy tiện, lạm quyền của các CQTHTT và người THTT trong quá trình giải quyết vụ án. - Nghĩa vụ của luật sư - người bào chữa trong tố tụng hình sự Bên cạnh việc quy định các quyền của luật sư khi tham gia bào chữa, pháp luật cũng quy định cho họ phải có những nghĩa vụ nhất định. Nghĩa vụ của luật sư khi tham gia bào chữa được quy định tập trung tại Điều 58 BLTTHS. Chức năng chủ yếu của luật sư là bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo, tuy nhiên, trong quá trình thực hiện chức năng đó, luật sư chỉ được phép sử dụng các biện pháp và thực hiện các hoạt động trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Luật sư có nghĩa vụ sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ TNHS của bị can, bị cáo. Tùy theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi thu thập được tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án thì luật sư có trách nhiệm giao cho CQĐT, VKS, Tòa án. Quy định này đòi hỏi luật sư phải làm
  • 41. 41 hết sức mình bằng việc sử dụng các biện pháp mà pháp luật cho phép để giúp đỡ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, nhằm hạn chế tình trạng luật sư thiếu trách nhiệm, không bố trí thời gian nghiên cứu hồ sơ, thu thập chứng cứ hay tham gia phiên tòa để bào chữa cho người bị buộc tội. Trên thực tế, có nhiều luật sư chỉ xem qua hồ sơ, tài liệu rồi bào chữa một cách sơ sài, hời hợt tại phiên tòa khiến kết quả bào chữa không cao. Nghĩa vụ giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Không phải bất cứ người bị buộc tội nào cũng am hiểu pháp luật, hơn nữa, họ luôn ở trong trạng thái lo sợ kể từ thời điểm bị khởi tố, giam giữ. Vì vậy, việc giúp đỡ về mặt pháp lý của luật sư đối với họ là rất quan trọng. Trong suốt quá trình tham gia tố tụng, luật sư phải có nghĩa vụ giúp đỡ về mặt pháp lý đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; giáo dục họ tôn trọng pháp luật, giải thích cho họ biết những quyền và lợi ích hợp pháp của họ để họ có thể tự bào chữa và bảo vệ mình. Mặc dù bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là một hoạt động nghề nghiệp của luật sư, tuy nhiên, luật sư không được từ chối bào chữa cho những người mà mình đã đảm nhận bào chữa, nếu không có lý do chính đáng. Khi luật sư đã nhận lời bào chữa cho người bị buộc tội thì giữa họ đã hình thành một mối quan hệ mật thiết với nhau, nếu luật sư từ chối bào chữa giữa chừng sẽ ảnh hưởng không chỉ tới quyền lợi của người bị buộc tội mà còn ảnh hưởng đến tâm lý của họ, có thể ảnh hưởng chung đến tiến độ giải quyết vụ án. Luật sư có nghĩa vụ tôn trọng sự thật và pháp luật, không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật. Khi tham gia tố tụng, luật sư không chỉ có nghĩa vụ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của thân chủ mà còn có nghĩa vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ pháp chế, trong đó sự thật là không thể chối cãi. Chính vì vậy, luật sư phải tôn trọng sự thật và tôn trọng pháp luật. Luật sư chỉ được sử dụng các biện pháp
  • 42. 42 do pháp luật quy định để thực hiện việc bào chữa, không được bóp méo sự thật của vụ án. Luật sư phải tôn trọng và triệt để tuân thủ các quy định của pháp luật và không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật cho các cơ quan THTT. Đó là những hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức nghề nghiệp hành nghề luật sư, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của toàn xã hội bởi nó sẽ làm sai lệch sự thật khách quan của vụ án, ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Luật sư có nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án. Phiên tòa là giai đoạn quan trọng nhất của toàn bộ quá trình tố tụng, ở đó sẽ xác định được bị cáo có tội hay không và TNHS của bị cáo trong trường hợp họ bị tuyên là có tội. Việc tham gia phiên tòa là quyền nhưng cũng là nghĩa vụ của luật sư: "Người bào chữa có nghĩa vụ tham gia phiên tòa. Người bào chữa có thể gửi trước bản bào chữa cho Tòa án" [33, Điều 190]. Luật sư tham gia phiên tòa không chỉ để sử dụng các chứng cứ, tài liệu thu thập được trong giai đoạn trước đó mà còn để tranh luận nhằm bác bỏ sự buộc tội của đại diện VKS, qua đó luật sư có thể giúp làm rõ được nội dung vụ án, xác định sự thật khách quan để HĐXX có phán quyết đúng đắn, chính xác. Đây cũng là quy định nhằm đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo. Luật sư không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện việc bào chữa, không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân [33, Điều 58]. Do đặc thù nghề nghiệp, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ bào chữa, luật sư có thể biết được nhiều bí mật của Nhà nước, bí mật của bị can, bị cáo hay bí mật khác mà luật sư có thể biết được. Pháp luật quy định họ không được tiết lộ những thông tin bí mật này vì nó sẽ ảnh hưởng đến lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, lợi ích của Nhà nước và xã hội. Để thực hiện nhiệm vụ bào chữa, pháp luật cho phép luật
  • 43. 43 sư được đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu, thu thập các chứng cứ, đồ vật liên quan đến việc bào chữa nhưng luật sư chỉ được phép sử dụng những thông tin, tài liệu này cho mục đích bào chữa cho bị can, bị cáo mà không được sử dụng vào mục đích khác làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Pháp luật quy định khi tham gia bào chữa cho bị can, bị cáo, luật sư phải triệt để tuân thủ các nghĩa vụ nêu trên, trường hợp luật sư "làm trái pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa, xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật" [33, Điều 58]. 1.2.2. Vai trò của luật sư – người bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Trên cơ sở các quyền, nghĩa vụ mà pháp luật quy định và thông qua hoạt động bào chữa của mình, luật sư có vai trò rất quan trọng trong xét xử vụ án nói chung và trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng. * Góp phần làm rõ sự thật khách quan của vụ án, giúp giải quyết vụ án một cách nhanh chóng, chính xác, đúng pháp luật; làm minh bạch hoá hoạt động tố tụng. Trong quá trình tham gia bào chữa, luật sư thực hiện các hoạt động thu thập thông tin liên, tài liệu có liên quan đến vụ án thông qua việc tiếp xúc với bị cáo, những người có liên quan… Qua đó, luật sư nắm được các tình tiết khách quan của vụ án như: bị cáo có thực hiện hành vi vi phạm pháp luật không, hành vi đó có dấu hiệu cấu thành tội phạm không, nếu có thì cấu thành tội gì; động cơ, mục đích của hành vi phạm tội; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo… Trên cơ sở đó, luật sư đưa ra các ý kiến đề xuất đối với các CQTHTT và người THTT nhằm làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Luật sư đưa ra quan điểm của mình về việc giải quyết vụ án liên quan đến việc xác định tội danh và quyết định hình phạt đối với bị cáo,
  • 44. 44 giúp cho việc giải quyết vụ án được nhanh chóng, chính xác, tránh làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm… Trong thực tiễn hoạt động xét xử các vụ án hình sự ở nước ta, có nhiều vụ án mặc dù tại bản kết luận điều tra của CQĐT và cáo trạng của VKS đã kết luận cụ thể, rõ ràng về việc bị can đã thực hiện hành vi phạm tội, cần phải xét xử theo tội danh và hình phạt theo quy định của pháp luật, tuy nhiên tại phiên toà, trên cơ sở phân tích, lập luận của luật sư bào chữa mà HĐXX đã quyết định xét xử theo tội danh khác có khung hình phạt nhẹ hơn hoặc tuyên bố bị cáo không phạm tội, đình chỉ giải quyết vụ án… Có thực tế này một phần là do luật sư đã đưa ra được các lập luận sắc bén, có căn cứ và phù hợp với thực tế khách quan của vụ án. Khi tham gia bào chữa ở giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, luật sư không chỉ có vai trò trong việc góp phần tìm ra sự thật khách quan của vụ án, giúp việc giải quyết vụ án được nhanh chóng, chính xác mà luật sư còn có vai trò trong việc giám sát hoạt động của các CQTHTT và người THTT, qua đó làm cho hoạt động của các CQTHTT và người THTT được thực hiện một cách đúng pháp luật, tránh được việc lạm quyền trong hoạt động giải quyết vụ án. Thực tiễn cũng chỉ ra rằng, những vụ án không được giải quyết theo đúng trình tự, thủ tục được pháp luật quy định thì thường dẫn tới oan, sai. Do vậy vấn đề đặt ra là cần phải tuân thủ đúng pháp luật trong suốt quá trình giải quyết vụ án và việc có sự tham gia của luật sư bào chữa cũng sẽ góp phần làm cho việc giải quyết vụ án được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. * Góp phần bảo vệ quyền con người, bảo vệ công lý, bảo vệ chế độ Hoạt động nghề nghiệp của luật sư góp phần bảo vệ công lý, các quyền tự do, dân chủ của công dân, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh [36, Điều 3]. Quyền con người là quyền được pháp luật ghi nhận và bảo đảm thực hiện thông qua nhiều thiết chế khác nhau, trong đó tổ chức luật sư là một tổ