SlideShare a Scribd company logo
1 of 108
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN DUY THUẤN
C¸C TéI X¢M PH¹M HO¹T §éNG T¦ PH¸P Mµ CHñ THÓ
Lµ NH÷NG NG¦êi TRONG C¸C C¥ QUAN TIÕN HµNH Tè TôNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN DUY THUẤN
C¸C TéI X¢M PH¹M HO¹T §éNG T¦ PH¸P Mµ CHñ THÓ
Lµ NH÷NG NG¦êi TRONG C¸C C¥ QUAN TIÕN HµNH Tè TôNG
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS. TS. ĐỖ NGỌC QUANG
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn
trong luận văn bảo đảm độ tin cậy, chính xá và trung
thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Duy Thuấn
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM
HOẠT ĐỘNG TƢ PHÁP MÀ CHỦ THỂ LÀ NGƢỜI
TRONG CÁC CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG...................... 6
1.1. Những khái niệm có liên quan.......................................................... 6
1.1.1. Khái niệm cơ quan tư pháp ................................................................. 6
1.1.2. Khái niệm hoạt động tư pháp ............................................................10
1.1.3. Khái niệm người trong các cơ quan tiến hành tố tụng ......................12
1.1.4. Khái niệm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là
người tiến hành tố tụng......................................................................16
1.2. Quá trình phát triển của pháp luật hình sự về các tội xâm
phạm hoạt động tƣ pháp mà chủ thể là ngƣời trong các cơ
quan tiến hành tố tụng .....................................................................18
1.2.1. Giai đoạn 1945 đến 1975...................................................................18
1.2.2. Giai đoạn 1976 đến 1999...................................................................22
1.3. Quy định của bộ luật hình sự năm 1999 về các tội xâm phạm
hoạt động tƣ pháp mà chủ thể là ngƣời trong các cơ quan
tiến hành tố tụng...............................................................................25
1.3.1. Xác định tội danh của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà
chủ thể là người trong các cơ quan tiến hành tố tụng .......................25
1.3.2. Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội xâm phạm hoạt
động tư pháp mà chủ thể là người trong các cơ quan tiến hành
tố tụng................................................................................................29
1.3.3. Chế tài hình sự đối với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp
mà chủ thể là người trong các cơ quan tiến hành tố tụng .................54
Chƣơng 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỚI
CÁC TỘI XÂM PHẠM HOẠT ĐỘNG TƢ PHÁP MÀ
CHỦ THỂ LÀ NGƢỜI TRONG CÁC CƠ QUAN TIẾN
HÀNH TỐ TỤNG............................................................................56
2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội xâm phạm
hoạt động tƣ pháp mà chủ thể là ngƣời trong các cơ quan tiến
hành tố tụng ......................................................................................56
2.1.1. Kết quả và những tồn tại trong điều tra, truy tố và xét xử đối
với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người
trong các cơ quan tiến hành tố tụng ..................................................56
2.1.2. Những nguyên nhân gây nên những tồn tại trong việc áp dụng
pháp luật đối với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ
thể là người trong các cơ quan tiến hành tố tụng.................................67
Chƣơng 3: NHỮNG ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI CÁC TỘI
XÂM PHẠM HOẠT ĐỘNG TƢ PHÁP MÀ CHỦ THỂ LÀ
NGƢỜI TRONG CÁC CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG.......74
3.1. Quan điểm của Đảng và nhà nƣớc trong đấu tranh với các
tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp mà chủ thể là ngƣời
trong các cơ quan tiến hành tố tụng ..............................................74
3.2. Hoàn thiện pháp luật hình sự về các tội xâm phạm hoạt động tƣ
pháp mà chủ thể là ngƣời trong các cơ quan tiến hành tố tụng..........80
3.4. Các đề xuất, kiến nghị khác............................................................92
KẾT LUẬN....................................................................................................95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................98
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS: Bộ luật hình sự
BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
DANH MỤC BẢNG
Số hiệu bảng Tên bảng Trang
Bảng 2.1: Số vụ án hình sự và số bị cáo bị đưa ra xét xử về tội xâm
phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người trong các cơ
quan tiến hành tố tụng từ năm 2000 đến năm 2013 60
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cải cách tư pháp là một đòi hỏi khách quan, cấp thiết và mang tính quy
luật để có thể thích ứng với những đổi mới về văn hóa, kinh tế, xã hội và hệ
thống chính trị. Vấn đề này đã chính thức được đặt ra tại nhiều Đại hội của
Đảng, đồng thời đã được đánh dấu và ghi nhận trong các Nghị quyết 8 Trung
ương khóa VII, Nghị quyết 3 và 7 Trung ương khóa VIII và đặc biệt là Nghị
quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác
tư pháp trong thời gian tới”; Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về chiến
lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010,
định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị “Về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”.
Do tố tụng hình sự được tiến hành bởi các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền mà hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng là hoạt động quyền lực
Nhà nước do những người đại diện của các cơ quan tiến hành tố tụng thực
hiện như: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan cảnh sát điều tra, Điều tra
viên; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên; Chánh án,
Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Toà án. Những năm
qua, trong tiến trình tổng thể cải cách đất nước nói chung và cải cách tư pháp
nói riêng thì hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng ở nước ta đã đạt
được những thành tựu đáng kể, nhất là trong công tác phát hiện, đấu tranh
phòng ngừa và chống tội phạm đã hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Đảng và Nhà
nước giao cho. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trong khi
thực hiện nhiệm vụ tư pháp đã xuất hiện không ít hành vi xâm phạm hoạt
động tư pháp của người tiến hành tố tụng trong các cơ quan tiến hành tố tụng.
Điều này không chỉ làm giảm hiệu quả của hoạt động tư pháp, mà còn gây
2
mất lòng tin của nhân dân vào các cơ quan tư pháp, vào công lý, lẽ phải. Vì
vậy, việc nghiên cứu các tội xâm phạm hoạt động tư pháp nói chung và với
đối tượng phạm tội là người trong các cơ quan tiến hành tố tụng nói riêng là
một vấn đề cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn. Với nhận thức như vậy, học
viên chọn đề tài: "Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người
trong các cơ quan tiến hành tố tụng (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn
tỉnh Đắk Lắk)" làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm qua, việc nghiên cứu các tội xâm phạm hoạt động tư
pháp đã thu hút được sự quan tâm của dư luận và nhiều nhà nghiên cứu đã
được công bố như: Trần Minh Hưởng, Đặng Thu Hiền: "Tìm hiểu các tội xâm
phạm hoạt động tiến hành tố tụng", Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc, năm 2002
; Nguyễn Ngọc Điệp, Hồ Thị Nệ: "Tìm hiểu các tội hoạt động tiến hành tố
tụng: Trong Bộ luật hình sự 1999", Nhà xuất bản Công an nhân dân, năm
2001; Nguyễn Tất Viễn, Luận án Phó tiến sĩ Khoa học Luật học: "Các tội xâm
phạm hoạt động tiến hành tố tụng trong luật hình sự Việt Nam", năm 1996;
Nguyễn Huy Hoàn, Luận án tiến sĩ Luật học: "Đảm bảo quyền con người
trong hoạt động tiến hành tố tụng ở Việt Nam hiện nay", năm 2005; Đề tài
nghiên cứu khoa học: "Thực trạng các tội xâm phạm hoạt động tiến hành tố
tụng và trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân các cấp trong cuộc đấu
tranh chống các tội phạm này", Chủ nhiệm đề tài Bùi Đức Long, Cơ quan chủ
trì: Trường Cao đẳng kiểm sát, 1998… . Ngoài ra, các tội xâm phạm hoạt
động tư pháp còn được đề cập ở các mức độ khác nhau trong các tạp chí, sách
báo khác như: Giáo trình Luật hình sự của trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo
trình của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, sách chuyên khảo. Các tác
giả chủ yếu đề cập tới trách nhiệm hình sự, tìm hiểu và bình luận về các tội
xâm phạm hoạt động tiến hành tố tụng trong luật hình sự Việt Nam, đảm bảo
3
quyền con người trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay hoặc nghiên cứu các tội xâm phạm hoạt động tư pháp với tư cách là đối
tượng của hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Chưa có công
trình khoa học nào nghiên cứu sâu về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà
chủ thể là người trong các cơ quan tiến hành tố tụng.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ về mặt lý luận những nội dung cơ
bản của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người trong các cơ
quan tiến hành tố tụng và thực trạng đấu tranh chống các tội phạm này theo
quy định của Luật hình sự Việt Nam trong những năm gần đây. Trên cơ sở
đó, luận văn đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh chống các
tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người trong các cơ quan tiến
hành tố tụng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Về mặt lý luận: trên cơ sở nghiên cứu quy định về các tội xâm phạm
hoạt động tư pháp trong lịch sử phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam và
các quy định về người tiến hành tố tụng và các tội xâm phạm hoạt động tư
pháp trong Luật hình sự một số nước trên thế giới, phân tích khái niệm, các
yếu tố, dấu hiệu cấu thành tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là
người trong các cơ quan tiến hành tố tụng trong Bộ luật hình sự năm 1999
hiện hành để làm sáng tỏ bản chất pháp lý và những nội dung cơ bản của các
tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người trong các cơ quan tiến
hành tố tụng theo luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Về mặt thực tiễn: nghiên cứu, phân tích và đánh giá những vụ việc của
các cơ quan, người tiến hành tố tụng đã có những sai phạm trong quá trình
thực thi pháp luật. Đồng thời phân tích những hạn chế, tồn tại và vướng mắc
4
xung quanh việc áp dụng trên thực tiễn các quy định về loại tội phạm này
nhằm đề ra phương hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật và các biện
pháp chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người trong
các cơ quan tiến hành tố tụng.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn các tội xâm
phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người tiến hành tố tụng theo quy định
của Bộ luật tố tụng thình sự Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt được những mục đích đã đặt ra trên cơ sở lý luận là phép duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận văn đã sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu như: Phương pháp so sánh, phân tích tài liệu, nghiên cứu lịch sử
và phương pháp tổng hợp, cũng như những thành tựu của khoa học luật hình
sự, khoa học luật tố tụng hình sự, xã hội học pháp luật v.v... Trong các công
trình của các nhà khoa học, luật gia ở trong và ngoài nước. Ngoài ra, việc
nghiên cứu đề tài còn dựa vào số liệu thực tiến trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk,
trong các báo cáo của Công an nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Toà án
nhân dân và một số vụ án hình sự trong thực tiễn trong quá trình điều tra, truy
tố và xét xử và thông tin trên mạng Internet để phân tích và đánh giá, tổng
hợp các tri thức khoa học luật hình sự.
5. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn và điểm mới về khoa học của luận văn
Về mặt lý luận: Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên đề cập một cách
có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội xâm phạm hoạt động
tư pháp mà chủ thể là người trong các cơ quan tiến hành tố tụng theo luật tố
tụng hình sự Việt Nam, ở cấp độ một luận văn thạc sĩ ngành luật hình sự và tố
tụng hình sự.
5
Về mặt thực tiễn: Luận văn góp phần vào việc xác định đúng đắn những
yếu tố cấu thành tội phạm của từng tội danh cụ thể trong chương Các tội xâm
phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người trong các cơ quan tiến hành tố tụng
cũng như nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy phạm pháp luật này và nêu ra
các đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh chống các
tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người trong các cơ quan tiến hành
tố tụng. Ngoài ra, luận văn còn có ý nghĩa tham khảo cho cán bộ và học viên
trong nghiên cứu, giảng dạy và học tập về vấn đề này.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề chung về các tội xâm phạm hoạt động tư
pháp mà chủ thể là người trong các cơ quan tiến hành tố tụng
Chương 2. Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội xâm phạm
hoạt động tư pháp mà chủ thể là người trong các cơ quan tiến hành tố tụng
Chương 3. Những đề xuất, kiến nghị nâng cao hiệu quả đấu tranh với
các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người trong các cơ quan
tiến hành tố tụng
6
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM
HOẠT ĐỘNG TƢ PHÁP MÀ CHỦ THỂ LÀ NGƢỜI
TRONG CÁC CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG
1.1. Những khái niệm có liên quan
1.1.1. Khái niệm cơ quan tư pháp
Quyền tư pháp cùng với quyền lập pháp và quyền hành pháp hợp thành
quyền lực nhà nước thống nhất của một quốc gia. Cơ quan tư pháp, với những
đặc trưng riêng của quyền tư pháp, được tổ chức và hoạt động theo các
nguyên tắc do Hiến pháp và pháp luật quy định.
Trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật hiện nay của nhà nước ta
không nêu rõ và đặt tên cơ quan tư pháp là cơ quan nào. Tuy nhiên, Hiến
pháp năm 1946 có một chương có tên Cơ quan tư pháp, trong đó, Tòa án được
coi là cơ quan tư pháp: Cơ quan tư pháp của Nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa gồm có: Tòa án tối cao; Các tòa án phúc thẩm; Các tòa án đệ nhị cấp và
sơ cấp (Điều 63).
Hiến pháp 1959 cụm từ cơ quan tư pháp không được sử dụng trong các
văn bản pháp luật của Nhà nước. Từ Hiến pháp năm 1992 đến nay, cụm từ
quyền tư pháp và cơ quan tư pháp được sử dụng nhiều trong các văn bản
chính trị, pháp luật; Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) có một
điều khoản đề cập đến quyền tư pháp trong nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà
nước “Quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công và phối hợp giữa
các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (Điều 2) và một
điều khoản đề cập đến hoạt động tư pháp khi quy định Viện kiểm sát thực
hiện chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Trong Hiến pháp cũng
như các văn bản pháp luật, không văn bản nào xác định rõ ràng, thống nhất cơ
7
quan thực hiện quyền tư pháp là những cơ quan nào; hoạt động tư pháp gồm
những hoạt động gì; Trong Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (Năm 2002)
cũng không có điều khoản nào làm rõ khái niệm hoạt động tư pháp, kiểm sát
hoạt động tư pháp mà chỉ dùng phương pháp liệt kê một số nhiệm vụ của
kiểm sát hoạt động điều tra, hoạt động xét xử, hoạt động thi hành án. Như
vậy, các Hiến pháp những năm tiếp theo như Hiến pháp 1959, 1980, 1992 và
Hiến pháp 2013 không có tên chương nào đặt cho cơ quan tư pháp mà chỉ quy
định chương có tên Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân. Ví dụ, Điều
126 Hiến pháp năm 1992 quy định: Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân
dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong phạm vi chức năng của
mình, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của
tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công
dân. Hiến pháp năm 2013 không có điều luật chung quy định về Tòa án nhân
dân, Viện kiểm sát nhân dân, nhưng có các điều luật riêng xác định chức năng
của các cơ quan này. Tại Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định: Tòa án
nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
thực hiện quyền tư pháp. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Điều 107
Hiến pháp 2013 quy định: Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố,
kiểm sát hoạt động tư pháp. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp
luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức,
cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống
nhất. Như vậy, tuy không nêu rõ, nhưng Tòa án nhân dân và Viện Kiểm sát
nhân dân được gọi là các cơ quan tư pháp.
8
Trong thực tế, tại các văn kiện của Đảng về đổi mới tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước nói chung hay Nghị quyết về công tác tư pháp nói
riêng, cụm từ cơ quan tư pháp được sử dụng nhiều, nhưng cũng không có văn
bản nào xác định một cách thống nhất, rõ ràng cơ quan tư pháp gồm những cơ
quan nào. Ở mỗi thời điểm khác nhau, thuật ngữ cơ quan tư pháp được xác
định và thể hiện trong các văn bản cũng khác nhau. Nghị quyết số 08-
NQ/TW, ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm
công tác tư pháp trong thời gian tới”, khi đề cập đến việc nâng cao chất lượng
hoạt động và đề cao trách nhiệm của các cơ quan và cán bộ tư pháp đã xác
định các cơ quan sau: Cơ quan điều tra; Cơ quan công tố (các viện kiểm sát
nhân dân); Cơ quan xét xử (các tòa án); Cơ quan thi hành án (hình sự, dân
sự); Cảnh sát tư pháp; Các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp (các tổ chức luật
sư, công chứng, giám định tư pháp...). Hoặc trong Nghị quyết số 49-NQ/TW,
ngày 02-6-2005 về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, khi đề cập
đến việc xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức,
bộ máy của các cơ quan tư pháp đã nêu các cơ quan: Tòa án nhân dân; Viện
kiểm sát nhân dân; Cơ quan điều tra; Cơ quan thi hành án. Ngoài ra, Nghị
quyết số 49-NQ/TW còn nhấn mạnh, cần hoàn thiện các chế định về bổ trợ tư
pháp (luật sư, giám định, cảnh sát hỗ trợ tư pháp, công chứng). Có thể thấy,
thuật ngữ các cơ quan tư pháp ở nước ta hiện nay chưa được hiểu và sử dụng
một cách thống nhất trong các văn bản của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Thuật ngữ này thường được hiểu theo nghĩa rộng là ngoài Tòa án và Viện
kiểm sát, còn có các cơ quan thuộc hệ thống hành pháp (Cơ quan điều tra, cơ
quan thi hành án, cơ quan công chứng…), thậm chí gồm cả các tổ chức xã hội
nghề nghiệp (như Luật sư), tức là những tổ chức nằm ngoài hệ thống quyền
lực Nhà nước [14].
Một điểm cần lưu ý khi tìm hiểu thuật ngữ các cơ quan tư pháp được
9
dùng với ý nghĩa, phạm vi như trên, chúng ta cần phân biệt thuật ngữ này với
thuật ngữ các cơ quan của “ngành tư pháp” thuộc hệ thống hành pháp (gồm
Bộ Tư pháp, các Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp, Ban Tư pháp). Mặc dù các cơ
quan này đều có cụm từ “Tư pháp” gắn sau tên cơ quan, nhưng thực chất, các
cơ quan này không trực tiếp thực hiện các hoạt động tư pháp. Theo chức
năng, nhiệm vụ được giao, các cơ quan này là cơ quan quản lý Nhà nước đối
với một số tổ chức và hoạt động tư pháp (thi hành án dân sự, luật sư, công
chứng, giám định tư pháp...). Ngoài ra, trong lĩnh vực xây dựng pháp luật, Bộ
Tư pháp được giao chủ trì xây dựng một số văn bản luật liên quan trực tiếp
đến hoạt động tư pháp (như Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự, Luật thi hành án,
Luật luật sư...), là thành viên tham gia và thẩm định tất cả các văn bản pháp
luật làm cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp.
Điều này đặt ra cần hiểu đúng thế nào là cơ quan tư pháp.
Theo lý luận nhà nước và pháp luật, bộ máy quyền lực nhà nước của
các quốc gia trên thế giới nói chung gồm có các cơ quan chủ yếu là: Cơ quan
lập pháp (Quốc hội), Cơ quan hành pháp (Chính phủ) và Cơ quan tư pháp
(Tòa án). Các cơ quan này độc lập với nhau để kiềm chế sự lạm quyền của
mỗi cơ quan. Tuy nhiên, do đặc điểm của nước ta, ngoài những điểm chung
như các quốc gia khác trên thế giới còn có những đặc điểm riêng. Các cơ quan
quyền lực của nhà nước ta có Cơ quan lập pháp là Quốc hội, Cơ quan hành
pháp là Chính phủ, bộ máy chính quyền địa phương và Cơ quan tư pháp thì
ngoài Tòa án còn có Viện Kiểm sát. Quan điểm của Đảng và nhà nước ta là
các cơ quan này như Điều 2 Hiến pháp 2013 khẳng định: Quyền lực nhà nước
là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Cho nên
việc phân chia quyền lực nhà nước giữa các cơ quan nhà nước mang tính chất
tương đối. Tất cả các hoạt động của các cơ quan này đặt dưới sự lãnh đạo của
10
Đảng Cộng sản Việt Nam như Điều 4 Hiến pháp năm 2013 quy định: Đảng
Cộng sản Việt nam là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội.
Như vậy, có thể hiểu các cơ quan tư pháp tại Việt Nam là Cơ quan Tòa
án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân những cơ quan thực hiện chức năng
công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp và xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hành
chính theo quy định của pháp luật có liên quan.
1.1.2. Khái niệm hoạt động tư pháp
Trên thế giới, nói đến hoạt động tư pháp là nói đến hoạt động xét xử
của toà án cũng như nói đến cơ quan tư pháp là nói đến cơ quan toà án; nói
đến tư pháp là nói đến một lĩnh vực hoạt động có tính độc lập rất cao trong
mối quan hệ với lập pháp và hành pháp. Tuy nhiên, nói như thế không có
nghĩa là lĩnh vực tư pháp độc lập một cách tuyệt đối với các lĩnh vực lập pháp
và hành pháp. Xét về phương diện phân công (hay phân chia) và thực hiện
quyền lực ở mỗi quốc gia, các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp đều có
quan hệ và ảnh hưởng qua lại với nhau trong hoạt động. Mức độ của sự ảnh
hưởng này tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố như: bản chất nhà nước; các nguyên tắc
tổ chức bộ máy nhà nước; các yếu tố văn hoá pháp lý và dân chủ; điều kiện
thực tế của mỗi nước.
Ở nước ta, nếu chỉ có hoạt động của các cơ quan tòa án, viện kiểm sát
thì chưa thể thực hiện được chức năng tư pháp, mặc dù hoạt động xét xử của
tòa án được coi là trung tâm trong hoạt động tư pháp. Khi giải quyết vụ án
hình sự, để tòa án có thể tổ chức các phiên tòa xét xử, viện kiểm sát thực hiện
được chức năng công tố, buộc tội người phạm tội trước phiên tòa phải có các
hoạt động điều tra của các cơ quan điều tra mà đa số các cơ quan này không
nằm trong cơ quan tòa án, viện kiểm sát (trừ Cơ quan điều tra của Viện kiểm
sát nhân dân tối cao). Các cơ quan điều tra nói chung (các Cơ quan điều tra
các cấp của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng) đều nằm trong bộ máy hành pháp
11
(Chính phủ). Ngoài ra, để thực hiện được nhiệm vụ điều tra của các cơ quan
này đòi hỏi phải có sự hỗ trợ của nhiều cơ quan khác như cơ quan giám định,
cơ quan hỗ trợ tư pháp, cơ quan công chứng, cơ quan định giá tài sản trong tố
tụng hình sự, tố tụng dân sự v.v.... Do vậy, hoạt động tư pháp không chỉ của
các cơ quan tư pháp, mà còn có các cơ quan khác nằm trong bộ máy Chính
phủ hoặc những tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp.
Trong quá trình phát triển của đất nước, khái niệm “hoạt động tư pháp”
luôn có những thay đổi theo các giai đoạn lịch sử, gắn liền với quá trình hình
thành, phát triển của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nếu
theo tinh thần của Hiến pháp năm 1946, với quy định về cơ quan tư pháp là
toà án thì, hoạt động tư pháp thuần tuý được hiểu chỉ là hoạt động xét xử của
toà án. Từ Hiến pháp năm 1992 trở đi, khái niệm “hoạt động tư pháp” từng
bước được mở rộng và đến nay đã gồm nhiều hoạt động khác nhau, như: khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Cho nên, các hoạt động tư pháp hiện
nay được thực hiện bởi nhiều chủ thể, như: Toà án; Viện kiểm sát; Cơ quan
điều tra thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng; các cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ
thi hành bản án, quyết định của Toà án như cơ quan Công an, các cơ quan thi
hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp, chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ
quan, tổ chức nơi người bị kết án cư trú, làm việc.... Ngoài ra còn có những
cơ quan khác cũng được giao tiến hành một số hoạt động điều tra, như: Bộ
đội biên phòng, Hải quan, Kiểm Lâm, lực lượng Cảnh sát Biển... thực hiện
các hoạt động tư pháp có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của
tập thể, bảo vệ các quyền tự do, tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm của
công dân... Cho nên, khái niệm hoạt động tư pháp thường được hiểu theo
nghĩa rộng, không chỉ là hoạt động của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,
Tòa án và Cơ quan thi hành án trong việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và
12
thi hành đối với các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, lao động và giải quyết các
quan hệ pháp luật khác được phát sinh theo quy định của pháp luật, nhằm bảo
vệ các quyền của Nhà nước, của các tổ chức, của công dân. Các hoạt động
này do người đại diện của các cơ quan tư pháp nhân danh Nhà nước trực tiếp
thực hiện tùy theo chức danh được bổ nhiệm. Hoạt động tư pháp bao gồm
những hoạt động trực tiếp liên quan đến trình tự thủ tục tố tụng theo luật định
mới được xác định là hoạt động tư pháp. Ví dụ như hoạt động điều tra; hoạt
động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp; hoạt động
xét xử, hoạt động thi hành án và các hoạt động của các cơ quan được Nhà
nước giao thẩm quyền trong việc tiến hành một số hoạt động tư pháp theo thủ
tục tố tụng, trong đó hoạt động xét xử của Tòa án là hoạt động trọng tâm (theo
tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 2/6/2005 "Về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020").
Như vậy, hoạt động tư pháp là hoạt động tố tụng trong các lĩnh vực
hình sự, dân sự, hành chính, bao gồm hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án đối với các vụ án hình sự, dân sự, hành chính do người của các Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và cơ quan thi hành án thực hiện trong
khuôn khổ pháp luật nhằm bảo vệ quyền lợi ích của nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức và của công dân.
1.1.3. Khái niệm người trong các cơ quan tiến hành tố tụng
Tên gọi người tiến hành tố tụng để chỉ những người làm việc trong các
cơ quan tiến hành tố tụng. Các cơ quan tiến hành tố tụng ở nước ta được quy
định trong các văn bản pháp luật tố tụng (Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố
tụng dân sự và Luật tố tụng hành chính). Tùy thuộc vào mỗi hình thức tố tụng
mà các cơ quan tiến hành tố tụng được quy định không giống nhau.
Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định: Các cơ
quan tiến hành tố tụng gồm có: các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát; Toà án
13
các cấp. Ví dụ, hệ thống các cơ quan điều tra bao gồm: cơ quan điều tra trong
Công an nhân dân; cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân; cơ quan điều
tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Các cơ quan điều tra là một bộ phận
hợp thành quan trọng của hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng, tiến hành
điều tra các vụ án hình sự làm cơ sở cho hoạt động truy tố, xét xử đối với
người phạm tội trước Toà án. Trong Công an nhân dân có các cơ quan điều
tra sau đây: Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an; Cơ quan cảnh sát điều tra
Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (Cơ quan Cảnh sát điều tra
Công an cấp tỉnh); Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh (Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp huyện); Cơ
quan An ninh điều tra Bộ Công an; Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương (Cơ quan An ninh điều tra Công an cấp tỉnh).
Trong Quân đội nhân dân có cơ quan điều tra hình sự Bộ Quốc phòng; cơ
quan điều tra hình sự quân khu và tương đương; cơ quan điều tra hình sự khu
vực; Cơ quan An ninh điều tra Bộ Quốc phòng; Cơ quan An ninh điều tra
quân khu và tương đương. Ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao có cơ quan điều
tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao; cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự
trung ương. cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao điều tra một
số loại tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc
các cơ quan tư pháp [39].
Hệ thống Viện kiểm sát nhân dân bao gồm: Viện kiểm sát nhân dân tối
cao; Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Viện kiểm
sát nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Viện kiểm sát quân sự.
Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hiện quyền lực nhà nước hợp thành
quan trọng của hệ thống tư pháp. Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và
pháp luật nhằm góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã
14
hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước,
của tập thể, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm
của công dân, bảo đảm để mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của
tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân đều phải được xử lý theo
pháp luật [38].
Hệ thống Tòa án nhân dân bao gồm: Toà án nhân dân tối cao; Toà án
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Toà án nhân dân quận,
huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Toà án quân sự trung ương; Tòa án quân
sự cấp quân khu và Tòa án quân sự cấp khu vực. Những người tiến hành tố
tụng tại các cơ quan này gồm Thủ trường, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra,
Điều tra viên; Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên,
Chánh án, Phó chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án [37].
Trong tố tụng dân sự, theo Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự: Các cơ quan
tiến hành tố tụng gồm có: Toà án nhân dân; Viện kiểm sát nhân dân. Những
người tiến hành tố tụng gồm có: Chánh án Toà án, Thẩm phán, Hội thẩm
nhân dân, Thư ký Toà án; Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên. Trong tố
tụng hành chính, theo Điều 34 Luật tố tụng hành chính, Các cơ quan tiến
hành tố tụng hành chính gồm có: Toà án nhân dân; Viện kiểm sát nhân dân.
Những người tiến hành tố tụng hành chính gồm có: Chánh án Toà án, Thẩm
phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án; Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm
sát viên [39].
Như vậy, cơ quan tiến hành tố tụng nói chung là cơ quan điều tra, viện
kiểm sát, tòa án được giao trách nhiệm giải quyết vụ án hình sự, vụ án dân sự,
vụ án hành chính tại các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử tùy thuộc vào chức
năng, nhiệm vụ của những cơ quan này theo quy định của pháp luật.
Quá trình giải quyết vụ án nói chung, trong đó có vụ án hình sự nói
riêng, là một quá trình liên tục, trải qua nhiều giai đoạn tố tụng khác nhau.
15
Trong vụ án hình sự, quá trình tố tụng được bắt đầu từ khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử. Đối với vụ án dân sự, hành chính, quá trình tố tụng được bắt đầu
khi có đơn khởi kiện của nguyên đơn dân sự tại Tòa án. Những người có trách
nhiệm giải quyết vụ án này được gọi là người tiến hành tố tụng.
Nếu như các cơ quan tiến hành tố tụng là cơ quan điều tra, viện kiểm
sát, tòa án thì người tiến hành tố tụng là người làm việc trong các cơ quan này
được giao nhiệm vụ giải quyết vụ án. Họ là Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ
quan điều tra và Điều tra viên; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát
và Kiểm sát viên; Chánh án, Phó Chánh án Toà án, Thẩm phán, Hội thẩm
nhân dân và Thư ký Toà án. Họ là những người có chức danh tư pháp. Vì
quan niệm chức danh tư pháp bao gồm những người thực thi nhiệm vụ trong
các cơ quan tư pháp (điều tra, truy tố, xét xử) được đào tạo kỹ năng thực hành
và hành nghề theo một chuyên môn nhất định, có chức danh, được bổ nhiệm
hoặc thừa nhận theo pháp luật khi đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn và điều kiện
xác định theo quy định của pháp luật.
Do hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng gắn liền với việc giải
quyết vụ án do người tiến hành tố tụng thực hiện. Hoạt động của họ với tư
cách người tiến hành tố tụng đều nhân danh Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam nên hoạt động của họ gắn liền với việc bảo vệ quyền và lợi ích của
nhà nước, xã hội, công dân. Chính vì vậy, hoạt động của người tiến hành tố
tụng chiếm vị trí đặc biệt quan trọng. Vụ án có được giải quyết đúng pháp luật
hay không, nhanh hay chậm; quyền lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân có được bảo vệ hay không; công lý và công bằng
có được bảo đảm hay không... tùy thuộc vào khả năng, trình độ, năng lực, đạo
đức và ý thức nghề nghiệp của người tiến hành tố tụng. Khi thực hiện nhiệm
vụ, người tiến hành tố tụng áp dụng pháp luật để xử lý các hành vi vi phạm
pháp luật; được trực tiếp sử dụng quyền lực Nhà nước trong khi thi hành công
16
vụ và ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm, các
quyền và lợi ích cơ bản của công dân.
Từ điều này, có thể hiểu, người trong các cơ quan tiến hành tố tụng là
những người tiến hành tố tụng có chức danh tố tụng; được giao nhiệm vụ giải
quyết vụ án theo trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định, tùy thuộc vào vụ án
đó là vụ án hình sự, dân sự hay vụ án hành chính.
1.1.4. Khái niệm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là
người tiến hành tố tụng
Điều 292 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định“Các tội xâm phạm hoạt
động tư pháp là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan
điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án trong việc bảo vệ quyền lợi ích của nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” [41]. Theo khái niệm
này, hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành
án là hoạt động theo đúng quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động điều
tra hình sự của cơ quan điều tra; hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm
sát hoạt động tư pháp của Cơ quan Viện kiểm sát; hoạt động xét xử của Cơ
quan Tòa án, và hoạt động thi hành án của các Cơ quan Thi hành án hình sự
(cơ quan công an các cấp), thi hành án dân sự (cơ quan tư pháp các cấp). Xâm
phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan này thể hiện bằng việc không thực
hiện đúng các quy định của pháp luật về hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và
thi hành án và hậu quả của sự xâm phạm này là gây thiệt hại cho quyền lợi ích
của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.
Trong các tội xâm phạm hoạt động tư pháp được quy định tại Chương
XXII của BLHS có 3 loại chủ thể của tội phạm. Loại thứ nhất là các tội xâm
phạm hoạt động tư pháp được thực hiện bởi những người tiến hành tố tụng
gồm các tội được quy định tại các Điều 293, 294, 295, 296, 298, 299 (Tội truy
cứu trách nhiệm hình sự người không có tội; Tội không truy cứu trách nhiệm
17
hình sự người có tội; Tội ra bản án trái pháp luật; Tội ra quyết định trái pháp
luật; Tội dùng nhục hình; Tội bức cung).
Loại chủ thể thứ hai trong các tội xâm phạm hoạt động tư pháp được
thực hiện bởi những người tham gia tố tụng. Những người tham gia tố tụng là
những người với tư cách người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, nguyên đơn, bị đơn,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, người giám định.
Họ là chủ thể của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp được quy định tại các
Điều 304, 307, 308, 311 (Tội không chấp hành án; Tội khai báo gian dối hoặc
cung cấp tài liệu sai sự thật; Tội từ chối khai báo, từ chối kết luận giám định
hoặc từ chối cung cấp tài liệu; Tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị
dẫn giải, đang bị xét xử).
Loại chủ thể thứ ba trong các tội xâm phạm hoạt động tư pháp được
thực hiện bởi bất kỳ người nào khi có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ
tuổi theo luật định. Họ có thể là những người có chức vụ quyền hạn nhất định
trong bộ máy nhà nước nói chung, hoặc họ là những người làm việc trong các
cơ quan thi hành án. Đó là các tội được quy định tại các Điều 297, 300, 301,
302, 303, 305, 306, 309, 310, 312, 313 và 314 (Tội ép buộc nhân viên tư pháp
làm trái pháp luật; Tội làm sai lệch hồ sơ vụ án; Tội thiếu trách nhiệm để người
bị giam, giữ trốn; Tội tha trái pháp luật người đang bị giam, giữ; Tội lợi dụng
chức vụ, quyền hạn giam, giữ người trái pháp luật; Tội không thi hành án; Tội
cản trở việc thi hành án; Tội mua chuộc hoặc cưỡng ép người khác khai báo gian
dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; Tội vi phạm việc niêm phong, kê biên tài sản;
Tội đánh tháo người bị giam, giữ, người đang bị dẫn giải, người đang bị xét xử;
Tội che giấu tội phạm; Tội không tố giác tội phạm).
Như phần trên đã trình bày, hoạt động của những người tiến hành tố tụng
chiếm vị trí đặc biệt quan trọng vì vụ án có được giải quyết đúng pháp luật hay
không, nhanh hay chậm; quyền lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
18
của tổ chức, cá nhân có được bảo vệ hay không; công lý và công bằng có được
bảo đảm hay không tùy thuộc vào khả năng, trình độ, năng lực, đạo đức và ý
thức nghề nghiệp của những người tiến hành tố tụng. Trong trường hợp họ vi
phạm pháp luật trong việc giải quyết vụ án làm cho vụ án được giải quyết
không đúng theo quy định của pháp luật, gây oan sai cho những người tham gia
tố tụng thì sẽ gây thiệt hại cho quyền lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Cho nên, Nhà nước và xã hội luôn đòi hỏi
họ phải thực sự khách quan trong việc giải quyết vụ án.
Từ những nội dung đã trình bày trên có thể hiểu, các tội xâm phạm hoạt
động tư pháp mà chủ thể là người tiến hành tố tụng là những hành vi xâm
phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử được
thực hiện bởi một hoặc một số người trong những người có chức vụ như: Thủ
trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện trưởng, Phó
viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó chánh án Tòa án,
Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án trong khi được giao giải quyết vụ án
gây hậu quả nghiêm trọng đến quyền lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, công dân.
1.2. Quá trình phát triển của pháp luật hình sự về các tội xâm phạm
hoạt động tƣ pháp mà chủ thể là ngƣời trong các cơ quan tiến hành tố tụng
1.2.1. Giai đoạn 1945 đến 1975
Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công (tháng 8/1945), trong
những năm tháng đầu tiên sau khi giành được độc lập, Nhà nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa non trẻ phải đối mặt với rất nhiều khó khăn trên tất cả các
lĩnh vực. Nền kinh tế đất nước rất nghèo nàn, lạc hậu, vừa trải qua nạn đói
năm 1945; người dân không có việc làm; chế độ tài chính kiệt quệ, hầu như
không có gì, phải kêu gọi nhân dân ủng hộ tiền, vàng cho cách mạng; trình độ
học vấn của nhân dân hầu như rất thấp, có tới 95% dân số toàn quốc hoàn
19
toàn mù chữ. Trong khi đó, nguy cơ ngoại xâm từ bên ngoài lấy danh nghĩa
đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật. Tại miền Bắc, quân đội Tưởng Giới
Thạch tiến vào Hà Nội. Khoảng 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch mượn danh
nghĩa Đồng Minh vào giải giáp quân đội Nhật. Tại miền Nam, quân đội Pháp
được quân Anh yểm trợ xâm lược chiếm Sài Gòn. Bên trong đất nước, bọn
phản động người Việt được sự trợ giúp của đế quốc ngoại bang và tàn quân
của chế độ cũ nổi dậy chống phá nhằm lật đổ chính quyền nhân dân non trẻ để
thành lập một chính phủ phản động làm tay sai cho chúng. Đứng trước tình
hình đó, nhân dân ta phải thực hiện ba nhiệm vụ lớn là diệt giặc đói, diệt giặc
dốt và diệt giặc ngoại xâm. Chính vì vậy, hệ thống pháp luật nói chung, trong
đó có pháp luật hình sự được xây dựng thời kỳ này chủ yếu tập trung phục vụ
ba nhiệm vụ nói trên. Nhưng do tình hình hết sức khẩn trương lúc bấy giờ,
nên không thể ban hành kịp các văn bản quy phạm pháp luật cũng như các
văn bản quy phạm pháp luật hình sự cần thiết. Do đó, ngày 10/10/1945, nhà
nước ta đã ban hành Sắc lệnh số 47-SL cho tạm thời giữ các luật lệ cũ ở ba
miền Bắc, Trung, Nam, nhưng không được xâm phạm vào nền độc lập quốc
gia, trong đó có Bộ "Luật hình An Nam", Bộ "Hoàng Việt hình luật", và Bộ
"Hình luật pháp tu chính". Điều 1 Sắc lệnh quy định:"cho đến khi ban hành
bộ luật pháp duy nhất cho toàn cõi nước Việt Nam, các luật lệ hiện hành vẫn
tạm giữ nguyên như cũ" với điều kiện "Những điều khoản trong luật lệ cũ
được tạm giữ lại do sắc luật này chỉ thi hành khi nào không trái với nền độc
lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa" (Điều 12 Sắc lệnh).
Do tình hình đất nước lúc bấy giờ rất cấp bách trong bảo vệ nền độc lập
dân tộc nên vấn đề xây dựng pháp luật chưa có thời gian xây dựng, các văn
bản pháp luật được ban hành thường mang tính thời kỳ, phục vụ những nhiệm
vụ trước mắt. Tuy nhiên, hàng loạt văn bản liên quan đến hoạt động tư pháp
được ban hành. Sắc lệnh 33C ngày 13/9/1945 của Chính phủ lâm thời về
20
thành lập tòa án quân sự; Sắc lệnh số 13 ngày 24/1/1946 và Sắc lệnh số 51
ngày 17/7/1946 về thành lập tòa án các cấp. Để hoạt động của tòa án có hiệu
quả, một số văn bản pháp luật đã quy định về các tội xâm phạm hoạt động tư
pháp. Tại Điều 24 Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946 về tổ chức Tòa án và
các ngạch Thẩm phán có quy định: các hội thẩm nhân dân phải giữ kín những
điều đã bàn bạc trong lúc nghị án. Nếu tiết lộ bí mật ấy sẽ bị tòa án nhân dân
phúc thẩm khu hoặc thành phố phạt tù từ 6 tháng đến 2 năm tù. Tại Điều 18
Sắc lệnh số 40 ngày 29/3/1946 có quy định: "Những người phụ trách các đề
lao, các trại giam, giữ người sau hạn giam mà không có lệnh gia hạn sẽ bị
phạt tù từ hai năm đến năm năm và phạt tiền từ 1.000 đến 10.000 đồng" .
Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa cũng đã ghi nhận
một số nguyên tắc trong hoạt động của cơ quan tư pháp như Điều 11 quy
định: Tư pháp chưa quyết định thì không được bắt bớ, giam cầm công dân
Việt Nam; Điều 68 quy định: "Cấm không được tra tấn, đánh đập, ngược đãi
những bị cáo và tội nhân". Điều 3 Sắc lệnh số 69/SL ngày 18/6/1949 cho
phép bị can có thể nhờ công dân không phải là luật sư bênh vực trước tòa án,
nhưng có quy định: người nào để lộ những bí mật đã biết trong khi xem hồ sơ,
hoặc trong cuộc thẩm vấn tại phiên tòa... sẽ bị phạt từ 1 đến 5 năm tù và phạt
từ 1.000 đồng đến 1.900 đồng. Điều 6 Sắc lệnh số 150-SL ngày 12/4/1953 về
việc thành lập Tòa án nhân dân đặc biệt quy định: "Khi hỏi tuyệt đối không
được đánh đập, tra tấn".
Để đảm bảo quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với
nhà ở, đồ vật, thư tín của công dân, Chính phủ đã ban hành Luật số 103/SL-
005 ngày 20/5/1953. Sắc lệnh này quy định trách nhiệm hình sự đối với hành
vi tra tấn, dùng nhục hình cũng như một số hành vi khác xâm phạm đến hoạt
động đúng đắn của cơ quan tư pháp, cụ thể Điều 14 quy định: "Đối với những
người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam tuyệt đối nghiêm cấm tra tấn hoặc dùng
21
bất cứ nhục hình nào", "Nếu phạm tội tra tấn, dùng nhục hình sẽ bị xử theo
hình luật chung". Điều 16 Sắc lệnh cũng quy định chế tài đối với hành vi bắt,
giam người, khám đồ vật, nhà ở thư tín trái đạo luật này thì tùy trường hợp có
thể bị thi hành kỷ luật hành chính hoặc bị xử phạt từ 15 ngày đến ba năm tù.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ được ký kết, đất
nước ta bị chia làm hai miền: miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, còn miền
Nam tạm thời bị đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai Ngô Đình Diệm thống trị. Trước
tình hình đó, pháp luật hình sự thời kỳ này phải thực hiện hai nhiệm vụ chiến
lược: tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và tiến hành cách
mạng dân tộc giải phóng miền Nam. Miền Bắc tiến hành cách mạng xã hội
chủ nghĩa, xây dựng miền Bắc thành căn cứ vững mạnh của cách mạng cả
nước. Đảng và Nhà nước tiến hành cuộc cải cách ruộng đất rộng khắp trên
toàn miền Bắc. Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng ngày 30/10/1967,
Điều 17 quy định: "Kẻ nào biết rõ phần tử phản cách mạng mà chưa chấp
che giấu, tiếp tế, giúp đỡ cho chúng lẩn trốn hoặc cất giấu tang vật thủ tiêu
chứng cứ phạm tội của chúng thì bị phạt tù từ hai năm đến mười năm".
Kể từ khi miền Bắc tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, số
lượng tài sản Nhà nước chiếm tỷ lệ lớn trong nền kinh tế Quốc gia. Mặt khác,
thời kỳ này, nền kinh tế Việt Nam mang đậm tính chất kinh tế bao cấp, tội
phạm về kinh tế và tội phạm xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa... gia tăng
nhiều. Đáp ứng yêu cầu của thực tế và nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng,
chống tội phạm. Ngày 21/10/1970, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành
hai pháp lệnh: Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa,
và Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản công dân. Hai pháp lệnh này
có quy định về tội bao che cho kẻ xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và tội
bao che kẻ xâm phạm tài sản công dân.
22
1.2.2. Giai đoạn 1976 đến 1999
Với chiến thắng năm 1975, miền Nam được giải phóng, đất nước ta
hoàn toàn thống nhất. Cả nước bắt tay vào khắc phục những hậu quả của
chiến tranh và tiến hành xây dựng đất nước, khôi phục kinh tế, thực hiện hai
nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc. Sau thất bại ở Việt Nam, đế quốc Mỹ đã thực hiện nhiều kế hoạch nhằm
chống phá chính quyền cách mạng Việt Nam như bao vây cấm vận kinh tế,
kích động, dụ dỗ người dân Việt Nam chạy ra nước ngoài hoặc sử dụng người
dân Việt sống lưu vong ở nước ngoài chống phá Việt Nam khiến cho tình
hình xã hội ở miền Nam chưa được ổn định.
Song song với việc chính thức thành lập Tòa án nhân dân và Viện Kiểm
sát nhân dân, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam
ban hành Sắc luật số 03/SL-76, ngày 15/3/1976, quy định các tội phạm và hình
phạt. Sắc luật này trừng trị các tội phản cách mạng, các tội xâm phạm tài sản
công cộng, các tội xâm phạm thân thể, nhân phẩm, sức khỏe, tài sản riêng của
công dân, các tội kinh tế (đầu cơ, tích trữ, phá rối trị trường, làm hàng giả...),
các tội chức vụ, hối lộ, các tội xâm phạm trật tự, an toàn công cộng [9]. Điều 3
Sắc luật quy định: "biết rõ phần tử phản cách mạng mà che giấu thì bị phạt tù
từ một năm đến bảy năm". Hướng dẫn thi hành Sắc luật số 03/SL-76, Bộ Tư
pháp đã ban hành Thông tư số 03/BTP ngày 12/4/1976. Điều 5 Thông tư quy
định: Biết rõ phần tử phản cách mạng mà che giấu, chứa chấp thì bị xử phạt từ
1 năm đến 7 năm tù; có nghĩa là hành vi chứa chấp, che giấu, tiếp tế, giúp đỡ
cho bọn phản cách mạng lẩn trốn hoặc cất giấu tang vật thủ tiêu chứng cứ về
tội phạm của chúng. Ngoài ra, trong nội dung của Thông tư này cũng có một số
quy định về những hành vi xâm phạm hoạt động tư pháp khác như: các hành vi
bắt, giam người trái phép, khám người, khám nhà ở, khám đồ vật trái phép do
người có chức vụ quyền hạn thực hiện thì bị xử theo quy định của Điều 7 Sắc
23
luật số 03/SL-76 ngày 15/3/1976, hoặc hành vi trốn trại giam hoặc tổ chức cho
kẻ khác trốn trại giam không vì mục đích phản cách mạng thì bị xử theo Điều 9
Sắc luật số 03 về tội xâm phạm đến trật tự công cộng, an toàn công cộng với
hình phạt tù từ ba tháng đến năm năm, phạt tiền đến 1.000 đồng và có thể bị
tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Như vậy, quy định của pháp luật hình sự về các tội xâm phạm hoạt
động tư pháp chưa có tính hệ thống, thiếu cụ thể, còn thiếu nhiều, tản mạn và
chưa đề cập được hết các khía cạnh và sự phức tạp của các hành vi xâm phạm
hoạt động tư pháp dẫn đến việc gặp nhiều khó khăn trong quá trình xử lý các
tội phạm này. Đứng trước yêu cầu của tình hình mới, khi đất nước hoàn toàn
thống nhất, cả nước thực hiện nhiệm vụ bảo vệ những thành quả cách mạng,
bảo vệ chế độ chủ nghĩa xã hội, xây dựng nền kinh tế nước nhà, cùng với việc
hoàn thiện hệ thống các cơ quan tư pháp thì vấn đề đấu tranh phòng chống tội
phạm nói chung và phòng chống các hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn
của các cơ quan tư pháp nói riêng trở nên bức xúc. Để khắc phục những hạn
chế trên cần phải có quy định cụ thể và có hệ thống các tội xâm phạm hoạt
động tư pháp trong văn bản quy phạm pháp luật hình sự.
Tại kỳ họp thứ 9, ngày 27/6/1985, Quốc hội khóa VII đã thông qua Bộ
luật hình sự, có hiệu lực từ ngày 1/1/1986. Sự ra đời của Bộ luật hình sự năm
1985 đánh dấu bước phát triển cao của hệ thống pháp luật Việt Nam nói
chung và pháp luật hình sự nói riêng. Bộ luật hình sự năm 1985 được ban
hành là một sự kiện chính trị pháp lý quan trọng, góp phần tích cực vào việc
hoàn thiện hệ thống pháp luật của nước ta và tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa. Bộ luật hình sự này có sự kế thừa và phát triển luật hình sự của nhà
nước ta từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945, với sự tích lũy kinh nghiệm
thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm thời gian trước năm 1985, kế thừa
những tinh hoa của pháp luật hình sự tiến bộ, thể hiện tính nhân văn, nhân đạo
24
xã hội chủ nghĩa, Bộ luật hình sự ghi nhận được những nguyên tắc cơ bản của
pháp luật hình sự xã hội chủ nghĩa như nguyên tắc pháp chế, nhân đạo, dân
chủ, cá thể hóa trách nhiệm hình sự và hình phạt.
Về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, Bộ luật hình sự năm 1985 đã
dành một chương riêng ở Phần các tội phạm, cụ thể là Chương X với 19 điều
luật, từ Điều 230 đến Điều 248 quy định về nhóm tội phạm này. Trong 19
điều luật này có 1 điều quy định về khái niệm các tội xâm phạm hoạt động tư
pháp, 1 điều quy định về hình phạt bổ sung, còn 17 điều quy định 20 tội thuộc
nhóm tội xâm phạm họat động tư pháp, trong đó 8 điều quy định về chủ thể là
người tiến hành tố tụng đó là: Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không
có tội (Điều 231); Tội ra bản án hoặc quyết định trái pháp luật (Điều 232); Tội
ép buộc nhân viên tư pháp làm trái pháp luật (Điều 233); Tội dùng nhục hình
(Điều 234); Tội bức cung (Điều 235); Tội làm sai lệch hồ sơ vụ án (Điều
236); Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn tha trái pháp luật người bị tạm giam
(Điều 238); Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn giam người trái pháp luật (Điều
239). Có thể nói, Bộ luật hình sự năm 1985 lần đầu tiên quy định một cách
thống nhất, tổng thể và có hệ thống về tội phạm và hình phạt, quy định khá
đầy đủ các hành vi nguy hiểm cho xã hội ở mức độ đáng kể bị coi là tội phạm.
Việc quy định các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp thành một chương
riêng trong Bộ luật cho thấy ý nghĩa quan trọng cụ thể hóa những quy định về
chức năng, nhiệm vụ, vị trí, vai trò của các cơ quan tư pháp bằng các quy
phạm pháp luật hình sự nhằm bảo vệ cho hoạt động của các cơ quan này khỏi
các hành vi xâm hại.
Nhằm đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, phù hợp với những đổi mới
của xã hội, Bộ luật hình sự năm 1985 đã được sửa đổi, bổ sung bốn lần vào
các năm 1989, 1991, 1992 và 1997. Tuy nhiên, riêng về chương các tội xâm
phạm hoạt động tư pháp thì vẫn tương đối ổn định.
25
Qua 15 năm thực hiện, Bộ luật hình sự năm 1985 đã góp phần to lớn
vào công cuộc xây dựng và kiến thiết đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, có
những đóng góp không nhỏ vào thành công chung của đất nước, giữ vững an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Tuy nhiên, Bộ luật hình sự năm 1985 đã
bộc lộ những hạn chế nhất định, chưa phù hợp với tình hình thực tiễn, chưa
chính xác về mặt khoa học. Nhiều tội danh quy định quá chung chung, bố cục
một số chương, điều chưa hợp lý; những hành vi phạm tội có tính chất, mức
độ nguy hiểm khác nhau lại được để cùng một điều luật, một tội danh với một
chế tài xử phạt; khoảng cách giữa mức tối thiểu và mức tối đa trong khung
hình phạt của nhiều điều luật quá dài đã tạo ra những sơ hở nhất định, dẫn đến
sự tùy tiện khi áp dụng, hiệu quả xử lý không nghiêm, không thống nhất trong
việc áp dụng hình phạt.
Xuất phát từ tình hình đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, đẩy mạnh công cuộc đổi mới, phát huy nội lực, hội nhập
khu vực và thế giới, đặt ra yêu cầu phải xây dựng một khung pháp luật hoàn
chỉnh vừa khuyến khích các yếu tố tích cực của nền kinh tế thị trường phát
triển, vừa có những quy định nghiêm cấm với các chế tài nghiêm khắc nhằm
phòng ngừa và xử lý nghiêm minh những tiêu cực của cơ chế. Đáp ứng yêu
cầu đó, ngày 21/12/1999, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khóa X tại kỳ họp thứ XI đã thông qua Bộ luật hình sự mới (gọi là Bộ
luật hình sự năm 1999), trong đó, chương các tội xâm phạm hoạt động tư
pháp được tiếp tục hoàn thiện đáp ứng yêu cầu đấu tranh với các tội phạm này
trong hoạt động tư pháp.
1.3. Quy định của bộ luật hình sự năm 1999 về các tội xâm phạm hoạt
động tƣ pháp mà chủ thể là ngƣời trong các cơ quan tiến hành tố tụng
1.3.1. Xác định tội danh của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà
chủ thể là người trong các cơ quan tiến hành tố tụng
Như phần trên đã trình bày, các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà
26
chủ thể là người tiến hành tố tụng là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng
đắn của các cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử được thực hiện bởi một hoặc
một số người trong những người có chức vụ như: Thủ trưởng, Phó thủ trưởng
Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát,
Kiểm sát viên, Chánh án, Phó chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư
ký Tòa án trong khi được giao giải quyết vụ án gây hậu quả nghiêm trọng đến
quyền lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.
Căn cứ quy định về những người tiến hành tố tụng trong tư pháp hình
sự, dân sự, hành chính và những tội danh trong chương các tội xâm phạm
hoạt động tư pháp thì có những tội danh sau đây:
- Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội (Điều 293);
- Tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội (Điều 294);
- Tội ra bản án trái pháp luật (Điều 295);
- Tội ra quyết định trái pháp luật (Điều 296);
- Tội dùng nhục hình (Điều 298);
- Tội bức cung (Điều 299);
- Tội làm sai lệch hồ sơ vụ án (Điều 300);
- Tội tha trái pháp luật người đang bị giam giữ (Điều 302);
- Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn giam giữ người trái pháp luật (Điều 303);
Chủ thể của các tội vừa lượt kê nêu trên chỉ có thể là người tiến hành
tố tụng. Ví dụ, Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội (Điều
293) quy định: Người nào có thẩm quyền mà truy cứu trách nhiệm hình sự
người mà mình biết rõ là không có tội, thì bị phạt tù từ một năm đến năm
năm. Người có thẩm quyền nêu trong điều luật này chỉ có thể là Thủ trưởng,
Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm
sát. Tương tự như thế, Tội ra bản án trái pháp luật (Điều 295) quy định:
Thẩm phán, Hội thẩm nào ra bản án mà mình biết rõ là trái pháp luật, thì bị
27
phạt tù từ một năm đến năm năm. Chủ thể của tội phạm này chỉ là Thẩm
phán, Hội thẩm là những người có thẩm quyền ra bản án sau khi xét xử. Do
vậy, các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người tiến hành tố
tụng khác với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là bất kỳ
người nào, hoặc chủ thể là những người tham gia tố tụng.
Riêng đối với tội làm sai lệch hồ sơ vụ án được quy định tại Điều 300 Bộ
luật hình sự (BLHS), điều luật quy định: Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm
phán, Hội thẩm, Thư ký Toà án, nhân viên tư pháp khác, người bào chữa, người
bảo vệ quyền lợi của đương sự nào mà thêm, bớt, sửa đổi, đánh tráo, huỷ, làm
hư hỏng các tài liệu, vật chứng của vụ án hoặc bằng các thủ đoạn khác nhằm
làm sai lệch nội dung hồ sơ vụ án, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm. Chủ
thể của tội phạm này không chỉ có Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội
thẩm, Thư ký Toà án, mà còn có cả nhân viên tư pháp khác, người bào chữa,
người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Tuy nhiên, luận văn không đề cập đến các
nhân viên tư pháp khác, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự vì
họ không phải là người tiến hành tố tụng có chức danh tố tụng như đã nêu ở
phần trên của luận văn.
Đối với những tội khác như: Tội ép buộc nhân viên tư pháp làm trái pháp
luật (Điều 297); Tội thiếu trách nhiệm để người bị giam, giữ trốn (Điều 302);
Tội cản trở việc thi hành án (Điều 306); Tội mua chuộc hoặc cưỡng ép người
khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật (Điều 309); Tội vi phạm việc
niêm phong, kê biên tài sản (Điều 310); Tội đánh tháo người bị giam, giữ, người
đang bị dẫn giải, người đang bị xét xử (Điều 312); Tội che giấu tội phạm (Điều
313); Tội không tố giác tội phạm (Điều 314), chỉ có thể được thực hiện bởi
những người khác không phải là người trong các cơ quan tiến hành tố tụng,
nên không trong phạm vi nghiên cứu.
Ví dụ, tội che dấu tội phạm được quy định tại 313 BLHS quy định:
28
Người nào không hứa hẹn trước mà che giấu một trong các tội phạm quy định
tại các điều sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù
từ sáu tháng đến năm năm: Các điều từ Điều 78 đến Điều 91 về các tội xâm
phạm an ninh quốc gia; Điều 93 (tội giết người); Điều 111, các khoản 2, 3 và 4
(tội hiếp dâm); Điều 112 (tội hiếp dâm trẻ em); Điều 114 (tội cưỡng dâm trẻ
em); Điều 116, các khoản 2 và 3 (tội dâm ô đối với trẻ em); Điều 119, khoản 2
(tội mua bán người); Điều 120 (tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em);
Điều 133 (tội cướp tài sản); Điều 134 (tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản);
Điều 138, các khoản 2, 3 và 4 (tội trộm cắp tài sản); Điều 139, các khoản 2, 3 và
4 (tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản); Điều 140, các khoản 2, 3 và 4 (tội lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản); Điều 143, các khoản 2, 3 và 4 (tội huỷ hoại hoặc
cố ý làm hư hỏng tài sản); Điều 153, các khoản 3 và 4 (tội buôn lậu); Điều 154,
khoản 3 (tội vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới); Điều 155, các
khoản 2 và 3 (tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm); Điều 156,
các khoản 2 và 3 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả); Điều 157 (tội sản xuất, buôn
bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh);
Điều 158, các khoản 2 và 3 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để
chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật
nuôi); Điều 160, các khoản 2 và 3 (tội đầu cơ); Điều 165, các khoản 2 và 3 (tội
cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm
trọng); Điều 166, các khoản 3 và 4 (tội lập quỹ trái phép); Điều 179, các khoản
2 và 3 (tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín
dụng); Điều 180 (tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân
phiếu giả, công trái giả); Điều 181 (tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành
séc giả, các giấy tờ có giá giả khác); Điều 189, các khoản 2 và 3 (tội huỷ
hoại rừng); Điều 193 (tội sản xuất trái phép chất ma tuý); Điều 194 (tội
tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý);
29
v.v..... Do vậy, các tội phạm này được thực hiện không phải đặc trưng chỉ có
những người tiến hành tố tụng.
1.3.2. Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội xâm phạm hoạt
động tư pháp mà chủ thể là người trong các cơ quan tiến hành tố tụng
Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội trong Bộ luật hình sự nói
chung là các yếu tố cấu thành tội phạm cụ thể để phân biệt tội phạm này với tội
phạm khác, hoặc phân biệt nhóm tội phạm này với nhóm tội phạm khác. Do vậy,
các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ
thể là người trong các cơ quan tiến hành tố tụng được thể hiện bằng các nội dung
sau đây:
Thứ nhất, khách thể của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể
là người trong các cơ quan tiến hành tố tụng.
Trong khoa học pháp lý hình sự, khách thể của tội phạm được chia làm 3
loại bao gồm khách thể chung, khách thể loại của từng nhóm tội phạm và khách
thể trực tiếp của từng tội phạm cụ thể.
Khách thể chung của tội phạm là sự xâm phạm vào quan hệ xã hội được
pháp luật hình sự bảo vệ. Những quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ
đó chính là nền độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ
chức, công dân, trật tự an toàn xã hội, trật tự quản lý kinh tế, trật tự pháp luật, tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước và những điều kiện bảo đảm cho mọi
người được sống trong một môi trường xã hội và sinh thái an toàn, lành mạnh,
mang tính nhân văn cao. Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp có khách thể
chung thể hiện sự xâm phạm vào trật tự pháp luật nói chung mà luật hình sự bảo
vệ. Khách thể loại của các tội phạm này chính là xâm phạm hoạt động đúng đắn
của các cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án trong việc bảo vệ quyền
lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Hoạt
30
động đúng đắn của các cơ quan điều tra, kiểm sát, tòa án và thi hành án thể hiện
ở chỗ, hoạt động tư pháp bao gồm hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành
án do cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, các cơ quan và tổ chức bổ trợ tư
pháp thực hiện trong khuôn khổ pháp luật để phòng ngừa và đấu tranh chống tội
phạm hình sự nhằm bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội; bảo
vệ lợi ích của nhà nước, của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Với
ý nghĩa quan trọng như vậy, trong hoạt động chung của bộ máy nhà nước, hoạt
động của hệ thống các cơ quan tư pháp (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án)
một mặt góp phần bảo đảm cho hoạt động bình thường của toàn xã hội thông
qua việc đấu tranh chống các tội phạm, bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền tính
mạng, tài sản, tự do, nhân phẩm, danh dự cho mỗi công dân; đảm bảo dân chủ,
công bằng xã hội cho mỗi công dân thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình trong
hoạt động tư pháp; bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo đảm mỗi tội phạm xảy
ra phải được phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh đúng người đúng tội, không
để lọt tội phạm, không bắt nhầm người vô tội. Mặt khác, nó góp phần tích cực
vào việc đấu tranh phòng ngừa tội phạm, giáo dục cho công dân có ý thức tuân
theo pháp luật. Để thực hiện được nhiệm vụ tư pháp, những người làm việc
trong các cơ quan tư pháp phải nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của Nhà nước
quy định về công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Mọi hành vi làm trái
quy định của pháp luật ở các lĩnh vực hoạt động tư pháp đều gây cho hoạt động
tư pháp không công minh, dẫn đến làm đảo lộn trật tự pháp luật, làm sai lệch cán
cân công lý, làm mất uy tín của Đảng và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam trước toàn thể nhân dân lao động. Do vậy, khách thể loại của các tội
xâm phạm hoạt động tư pháp chính là sự xâm phạm hoạt động đúng đắn của các
cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án trong việc bảo vệ quyền lợi ích
của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.
Nếu như tư pháp là những công việc bảo vệ pháp luật, thì hoạt động tư
31
pháp, không có gì khác là hoạt động bảo vệ pháp luật, trong đó hoạt động xét xử
của Tòa án được thừa nhận là nơi biểu hiện tập trung nhất quyền tư pháp trong
một quốc gia. Thế nhưng, hoạt động tư pháp lại phụ thuộc vào tổ chức hoạt động
của bộ máy Nhà nước tại mỗi quốc gia. Hoạt động tư pháp ở Nhà nước ta không
chỉ là hoạt động của Tòa án, mà còn là hoạt động của những cơ quan Nhà nước
khác, các tổ chức được Nhà nước cho phép thành lập nhằm thực hiện các công
việc liên quan trực tiếp đến hoạt động xét xử của Tòa án. Theo Điều 292 Bộ luật
hình sự năm 1999 thì hoạt động tư pháp là hoạt động của các cơ quan điều tra,
truy tố, xét xử và thi hành án. Như vậy, khách thể loại của hoạt động tư pháp là sự
hoạt động bình thường, đúng đắn của các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử và thi
hành án và những hoạt động có liên quan hoặc hỗ trợ cho việc xét xử của Tòa án.
Hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án
là những hoạt động giải quyết vụ án hình sự theo quy định của pháp luật về tư
pháp, có nghĩa là những hoạt động tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án nói
chung. Những hoạt động này là những hoạt động của toà án khi xét xử các vụ án
(hình sự, dân sự, kinh tế, lao động v.v… tại Toà án; các hoạt động của Cơ quan
điều tra, Viện Kiểm sát trong giải quyết vụ án hình sự; các hoạt động của cơ quan
thi hành án trong việc đưa các bản án, quyết định của toà án (hình sự, dân sự, kinh
tế, lao động v.v… ) đã có hiệu lực pháp luật ra thi hành. Khách thể loại của các tội
xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người trong các cơ quan tiến hành tố
tụng là nhóm những quan hệ xã hội liên quan đến hoạt động tư pháp.
Khách thể trực tiếp của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là
người tiến hành tố tụng được thể hiện trong từng điều luật cụ thể về những tội
phạm cụ thể:
- Đối với tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội (Điều 293
BLHS), khách thể trực tiếp của tội phạm này thể hiện ở chỗ xâm phạm vào
những quy định về truy cứu trách nhiệm hình sự. Tại Điều 2 BLHS quy định:
32
Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu
trách nhiệm hình sự. Để xác định một người phải chịu trách nhiệm hình sự cần
phải qua quá trình khởi tố, điều tra thu thập chứng cứ chứng minh họ phạm tội.
Điều 126 Bộ luật tố tụng hình (BLTTHS) quy định, khi có đủ căn cứ để xác định
một người đã thực hiện hành vi phạm tội thì Cơ quan điều tra ra quyết định khởi
tố bị can. Căn cứ để xác định một người đã thực hiện hành vi phạm tội phải dựa
vào những chứng cứ có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật tố
tụng hình sự quy định xác định có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi
phạm tội và chứng cứ này phải được thể hiện bằng, hoặc là vật chứng; hoặc là
lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người khác đã bị bắt, người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo; hoặc là kết luận giám định; hoặc biên bản về hoạt động
điều tra và các tài liệu, đồ vật khác. Trong trường hợp không có chứng cứ chứng
minh một người đã thực hiện tội phạm mà những người có thẩm quyền trong cơ
quan điều tra, kiểm sát (Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện
trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát) vẫn truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với họ chính là sự xâm phạm vào những quy định của pháp luật tố tụng hình sự
về việc truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Khách thể trực tiếp của tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có
tội (Điều 294 BLHS) cũng là sự xâm phạm vào những quy định về truy cứu
trách nhiệm hình sự. Điều 126 BLTTHS quy định, khi có đủ căn cứ để xác định
một người đã thực hiện hành vi phạm tội thì Cơ quan điều tra ra quyết định khởi
tố bị can. Trong trường hợp này, người có thẩm quyền trong Cơ quan điều tra
phải khởi tố bị can và tiến hành các hoạt động điều tra đối với họ để buộc họ
phải chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, người có thẩm quyền này (Thủ
trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện
kiểm sát) phải khởi tố bị can để điều tra. Nhưng họ đã không khởi tố đối với
33
người đã có đủ chứng cứ buộc tội, có nghĩa họ đã không truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với người có tội. Điều này là sự xâm phạm vào hoạt động đúng đắn
của các cơ quan tư pháp khi thực thi công vụ.
- Khách thể trực tiếp của tội ra bản án trái pháp luật (Điều 295 BLHS),
Tội ra quyết định trái pháp luật (Điều 296 BLHS) là sự xâm phạm vào hoạt động
của cơ quan xét xử khi ra bản án. Tùy thuộc vào từng vụ án được đưa ra xét xử
là vụ án hình sự, hay vụ án dân sự, hành chính, pháp luật tố tụng quy định cụ thể
về quy trình đưa ra bản án. Ví dụ, Điều 224 BLTTHS quy định, Toà án ra bản
án nhân danh nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong bản án cần
phải ghi rõ: ngày, giờ, tháng, năm và địa điểm phiên toà; họ tên của các thành
viên Hội đồng xét xử và Thư ký Toà án; họ tên của Kiểm sát viên; họ tên, ngày,
tháng, năm sinh, nơi sinh, nơi cư trú, nghề nghiệp, trình độ văn hóa, thành phần
xã hội, tiền án, tiền sự của bị cáo; ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam; họ tên, tuổi,
nghề nghiệp, nơi sinh, nơi cư trú của người đại diện hợp pháp của bị cáo; họ tên
của người bào chữa; họ tên, tuổi, nghề nghiệp, nơi cư trú của người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ
án, người đại diện hợp pháp của họ. Trong bản án phải trình bày việc phạm tội
của bị cáo, phân tích những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định
không có tội, xác định bị cáo có phạm tội hay không và nếu bị cáo phạm tội thì
phạm tội gì, theo điều, khoản nào của Bộ luật hình sự, tình tiết tăng nặng, tình
tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và cần phải xử lý như thế nào. Nếu bị cáo
không phạm tội thì bản án phải ghi rõ những căn cứ xác định bị cáo không có
tội và phải giải quyết việc khôi phục danh dự, quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Phần cuối cùng của bản án ghi những quyết định của Toà án và quyền kháng
cáo đối với bản án. Tuy nhiên, việc đưa ra bản án hình sự đã không theo đúng
quy định này như trong bản án phải trình bày việc phạm tội của bị cáo, không
phân tích những chứng cứ xác định có tội, không xác định bị cáo có phạm tội
hay không mà vẫn đưa ra bản án kết tội v.v....
34
- Khách thể trực tiếp đối với Tội dùng nhục hình (Điều 298); Tội bức
cung (Điều 299) là sự xâm phạm vào hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều
tra truy tố, xét xử trong việc lấy lời khai thẩm vấn người bị thẩm vấn. Pháp luật
tố tụng hình sự đã quy định rõ việc nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục
hình (Điều 6 BLTTHS). Do vậy, truy bức, dùng nhục hình trong hoạt động tư
pháp là vi phạm pháp luật.
- Khách thể trực tiếp Tội làm sai lệch hồ sơ vụ án (Điều 300) là sự xâm
phạm vào hoạt động đúng của các cơ quan tư pháp trong việc thiết lập, giữ gìn,
bảo quản những tài liệu có trong hồ sơ vụ án để phục vụ cho việc giải quyết
đúng đắn vụ án.
- Khách thể trực tiếp của Tội tha trái pháp luật người đang bị giam giữ
(Điều 302); Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn giam giữ người trái pháp luật (Điều
303) là những quy định của pháp luật liên quan đến tạm giữ, tạm giam đối với
người bị tạm giữ, tạm giam. Việc tạm giam, tạm giữ đối với một người phải dựa
trên những căn cứ mà pháp luật tố tụng hình sự quy định tại các điều 86, 88
BLTTHS chứ không thể tùy tiện trong việc giam giữ một người bị nghi thực
hiện tội phạm.
Tuy nhiên, do đề tài của luận văn chỉ đề cập đến các tội xâm phạm hoạt
động tư pháp mà chủ thể là người trong các cơ quan tiến hành tố tụng nên chỉ đề
cập đến khách thể loại của nhóm tội phạm này mà không đi sâu phân tích toàn
bộ khách thể trực tiếp của từng tội phạm.
Thứ hai, mặt khách quan của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ
thể là người trong các cơ quan tiến hành tố tụng.
Mặt khách quan của tội phạm nói chung thể hiện bằng hành vi, hậu quả, mối
quan hệ nhân quả của hành vi và hậu quả. Những hành vi của các tội xâm phạm
hoạt động tư pháp mà chủ thể là người trong các cơ quan tiến hành tố tụng thể hiện
bằng các hành động cụ thể khác nhau, tùy thuộc vào từng tội danh, bao gồm:
35
- Hành vi truy cứu trách nhiệm hình sự người mà mình biết rõ là không có
tội (Điều 293); hành vi không truy cứu trách nhiệm hình sự người mà mình biết
rõ là có tội (Điều 294) là những hành vi liên quan đến việc truy cứu trách nhiệm
hình sự. Đối với hành vi truy cứu trách nhiệm hình sự người mà mình biết rõ là
không có tội (Điều 293), như hướng dẫn áp dụng một số quy định trong Phần
Các tội phạm Bộ luật hình sự, tại Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 29/11/1986 [25],
được thể hiện ở các hành vi như khởi tố bị can, quy trách nhiệm hình sự của một
người trong báo cáo kết thúc điều tra hoặc truy tố một người về một tội mà
người đó trên thực tế không thực hiện hoặc họ có vi phạm pháp luật mà rõ ràng
chỉ đáng xử lý hành chính. Hành vi tố tụng nói trên được thể hiện bằng quyết
định khởi tố, báo cáo kết thúc điều tra chuyển Viện kiểm sát truy tố hoặc cáo
trạng. Trên cơ sở hướng dẫn như trên đối với hành vi truy cứu trách nhiệm hình
sự người mà mình biết rõ là không có tội, có thể hiểu hành vi không truy cứu
trách nhiệm hình sự người mà mình biết rõ là có tội (Điều 294) là không khởi tố
bị can, không quy trách nhiệm hình sự của một người trong báo cáo kết thúc
điều tra hoặc không truy tố một người về một tội mà người đó trên thực tế đã
thực hiện một cách rõ ràng. Hành vi tố tụng nói trên được thể hiện bằng không ra
quyết định khởi tố bị can, không buộc tội họ trong báo cáo kết thúc điều tra,
không chuyển Viện kiểm sát truy tố bằng bản cáo trạng.
- Hành vi ra bản án mà mình biết rõ là trái pháp luật (Điều 295), hành vi
ra quyết định mà mình biết rõ là trái pháp luật (Điều 296), như hướng dẫn áp
dụng một số quy định trong Phần Các tội phạm Bộ luật hình sự tại Nghị quyết số
04/HĐTP ngày 29/11/1986, là những hành vi ra bản án hoặc quyết định trái pháp
luật về hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, lao động trong các giai đoạn tố tụng
sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm, thi hành án. Tính chất trái pháp
luật được thể hiện ở nội dung bản án, quyết định (như kết án người rõ ràng
không có tội; tuyên không có tội đối với người rõ ràng là có tội; truất quyền thừa
36
kế, quyền sở hữu của công dân không có căn cứ hợp pháp; đình chỉ tố tụng
không có căn cứ...). Bản án hoặc quyết định có thể sai toàn bộ hoặc sai một phần
mà phần sai này rõ ràng là trái pháp luật [25].
- Hành vi dùng nhục hình trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử (Điều
298), hành vi bằng các thủ đoạn trái pháp luật buộc người bị thẩm vấn phải khai
sai sự thật (Điều 299) là những hành vi buộc người bị thẩm vấn phải khai sai sự
thật. Đối với hành vi dùng nhục hình, như hướng dẫn áp dụng một số quy định
trong Phần Các tội phạm Bộ luật hình sự tại Nghị quyết số 04/HĐTP ngày
29/11/1986, là tra tấn, đánh đập hoặc thủ đoạn khác (bắt nhịn đói, nhịn khát, ăn
cơm nhạt, không cho ngủ...) gây đau đớn về thể xác, gây tổn hại về sức khỏe
người bị điều tra, bị truy tố, bị xét xử, bị thi hành án. Đối với hành vi bức cung
(bằng các thủ đoạn trái pháp luật buộc người bị thẩm vấn phải khai sai sự thật)
thể hiện bằng việc đe dọa dùng nhục hình, dọa giam họ với người bị HIV, với
bọn đầu gấu trong trại tạm giam, hoặc dọa giam người thân của họ, ép buộc họ
khai theo ý của người thẩm vấn, xét hỏi v.v... [25].
- Hành vi tha trái pháp luật người đang bị giam giữ (Điều 302), hành vi lợi
dụng chức vụ, quyền hạn giam giữ người trái pháp luật (Điều 303) là những
hành vi liên quan đến việc lợi dụng chức vụ quyền hạn hoặc lạm quyền tha trái
pháp luật người đang bị giam (ra lệnh tha không có căn cứ pháp luật v.v...) hoặc
không ra quyết định, hoặc không chấp hành quyết định trả tự do cho người được
trả tự do theo quy định của pháp luật (không ra lệnh tha người đã hết hạn giam,
tạm giam, hoặc được miễn giảm chấp hành hình phạt v.v...).
- Hành vi làm sai lệch hồ sơ vụ án (Điều 300) là những hành vi thêm, bớt,
sửa đổi, đánh tráo, huỷ, làm hư hỏng các tài liệu, vật chứng của vụ án hoặc bằng
các thủ đoạn khác nhằm làm sai lệch nội dung hồ sơ vụ án, như hướng dẫn áp
dụng một số quy định trong Phần Các tội phạm Bộ luật hình sự tại Nghị quyết số
04/HĐTP ngày 29/11/1986, ví dụ, làm thay đổi lời khai của người làm chứng,
37
rút bớt giấy chứng thương, thay đổi vật chứng làm cho người có tội thành không
có tội hay ngược lại, hoặc làm cho tội nặng thành tội nhẹ hoặc ngược lại.
Trong các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người trong các
cơ quan tiến hành tố tụng, dấu hiệu hậu quả là bắt buộc hay không bắt buộc tùy
thuộc vào từng tội phạm cụ thể. Đối với các tội: Tội truy cứu trách nhiệm hình
sự người không có tội (Điều 293 BLHS); Tội không truy cứu trách nhiệm hình
sự người có tội (Điều 294 BLHS); Tội ra bản án trái pháp luật (Điều 295 BLHS);
Tội dùng nhục hình (Điều 298 BLHS); Tội làm sai lệch hồ sơ vụ án (Điều 300
BLHS); Tội tha trái pháp luật người đang bị giam giữ (Điều 302 BLHS); Tội lợi
dụng chức vụ, quyền hạn giam giữ người trái pháp luật (Điều 303 BLHS) không
cần phải gây hậu quả cũng đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Các tội phạm này
có cấu thành hình thức, có nghĩa khi có hành vi được mô tả trong điều luật của
Bộ luật hình sự cũng đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Ví dụ, Điều 294 BLHS
quy định: Người nào có thẩm quyền mà không truy cứu trách nhiệm hình sự
người mà mình biết rõ là có tội, là đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Trong
trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng, hậu quả rất nghiêm trọng hoặc hậu quả
đặc biệt nghiêm trọng thì nằm ở khung cấu thành tội phạm tăng nặng. Ví dụ,
khoản 2, khoản 3 Điều 294 BLHS quy định: Phạm tội thuộc một trong các
trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm: Không truy cứu
trách nhiệm hình sự người phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội
khác là tội đặc biệt nghiêm trọng; Gây hậu quả nghiêm trọng. Phạm tội gây hậu
quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ năm năm đến
mười hai năm.
Đối với tội ra quyết định trái pháp luật (Điều 296 BLHS); Tội bức cung
(Điều 299 BLHS), trong cấu thành cơ bản đòi hỏi phải có hậu quả nghiêm trọng.
Trong trường hợp chưa gây hậu quả nghiêm trọng thì không cấu thành tội phạm
này. Trong trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc gây hậu quả đặc biệt
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên, HOT
Luận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên, HOTLuận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên, HOT
Luận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên, HOT
 
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sựLuận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
 
Luận văn: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo luật hình sự, HOTLuận văn: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Phòng vệ chính đáng theo pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Phòng vệ chính đáng theo pháp luật hình sự, HAYLuận văn: Phòng vệ chính đáng theo pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Phòng vệ chính đáng theo pháp luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiLuận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tộiLuận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
 
Luận văn: Tội đánh bạc trong luật hình sự tại tỉnh Tuyên Quang
Luận văn: Tội đánh bạc trong luật hình sự tại tỉnh Tuyên QuangLuận văn: Tội đánh bạc trong luật hình sự tại tỉnh Tuyên Quang
Luận văn: Tội đánh bạc trong luật hình sự tại tỉnh Tuyên Quang
 
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Trách nhiệm của pháp nhân thương mại theo pháp luật
Luận văn: Trách nhiệm của pháp nhân thương mại theo pháp luậtLuận văn: Trách nhiệm của pháp nhân thương mại theo pháp luật
Luận văn: Trách nhiệm của pháp nhân thương mại theo pháp luật
 
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOTLuận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
 
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam ĐịnhLuận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
 
Luận văn: Chứng minh trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Chứng minh trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, HAYLuận văn: Chứng minh trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Chứng minh trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAYLuận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đLuận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
 
Luận văn: Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
Luận văn: Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạtLuận văn: Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
Luận văn: Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
 
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
 

Similar to Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY

Luận văn: Vai trò người bào chữa trong điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Vai trò người bào chữa trong điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn phí ...Luận văn: Vai trò người bào chữa trong điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Vai trò người bào chữa trong điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn phí ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

Similar to Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY (20)

Luận văn: Nhân thân người phạm tội xâm phạm hoạt động tư pháp
Luận văn: Nhân thân người phạm tội xâm phạm hoạt động tư phápLuận văn: Nhân thân người phạm tội xâm phạm hoạt động tư pháp
Luận văn: Nhân thân người phạm tội xâm phạm hoạt động tư pháp
 
Đề tài: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự, HAY
Đề tài: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự, HAYĐề tài: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự, HAY
Đề tài: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sựLuận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
 
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOTLuận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
 
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAIGIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI
 
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt NamLuận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
 
Đề tài: Địa vị pháp lý của người bị hại trong tố tụng hình sự, HOT
Đề tài: Địa vị pháp lý của người bị hại trong tố tụng hình sự, HOTĐề tài: Địa vị pháp lý của người bị hại trong tố tụng hình sự, HOT
Đề tài: Địa vị pháp lý của người bị hại trong tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng NaiLuận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
 
Luận văn: Thi hành án phạt tù từ thực tiễn TPHCM, HAY, 9đ
Luận văn: Thi hành án phạt tù từ thực tiễn TPHCM, HAY, 9đLuận văn: Thi hành án phạt tù từ thực tiễn TPHCM, HAY, 9đ
Luận văn: Thi hành án phạt tù từ thực tiễn TPHCM, HAY, 9đ
 
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAYLuận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
 
Đề tài: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của công dân, HAY
Đề tài: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của công dân, HAYĐề tài: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của công dân, HAY
Đề tài: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của công dân, HAY
 
Luận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật
Luận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luậtLuận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật
Luận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật
 
Luận văn: Vai trò người bào chữa trong điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Vai trò người bào chữa trong điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn phí ...Luận văn: Vai trò người bào chữa trong điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Vai trò người bào chữa trong điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn phí ...
 
Hỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docx
Hỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docxHỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docx
Hỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docx
 
Hỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docx
Hỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docxHỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docx
Hỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docx
 
Luận văn: Áp dụng hình phạt tại huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai, 9đ
Luận văn: Áp dụng hình phạt tại huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai, 9đLuận văn: Áp dụng hình phạt tại huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai, 9đ
Luận văn: Áp dụng hình phạt tại huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai, 9đ
 
Đề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
Đề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sátĐề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
Đề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
 
Luận văn: Địa vị pháp lý của người làm chứng theo pháp luật, 9đ
Luận văn: Địa vị pháp lý của người làm chứng theo pháp luật, 9đLuận văn: Địa vị pháp lý của người làm chứng theo pháp luật, 9đ
Luận văn: Địa vị pháp lý của người làm chứng theo pháp luật, 9đ
 
Luận văn: Bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người được thi hành án
Luận văn: Bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người được thi hành ánLuận văn: Bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người được thi hành án
Luận văn: Bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người được thi hành án
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Học viện Kstudy
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếHệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếngTonH1
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocBai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocVnPhan58
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHTư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHThaoPhuong154017
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếMa trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếngTonH1
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếHệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocBai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHTư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếMa trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 

Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN DUY THUẤN C¸C TéI X¢M PH¹M HO¹T §éNG T¦ PH¸P Mµ CHñ THÓ Lµ NH÷NG NG¦êi TRONG C¸C C¥ QUAN TIÕN HµNH Tè TôNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN DUY THUẤN C¸C TéI X¢M PH¹M HO¹T §éNG T¦ PH¸P Mµ CHñ THÓ Lµ NH÷NG NG¦êi TRONG C¸C C¥ QUAN TIÕN HµNH Tè TôNG Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS. TS. ĐỖ NGỌC QUANG HÀ NỘI - 2015
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn bảo đảm độ tin cậy, chính xá và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác TÁC GIẢ LUẬN VĂN Nguyễn Duy Thuấn
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục bảng MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM HOẠT ĐỘNG TƢ PHÁP MÀ CHỦ THỂ LÀ NGƢỜI TRONG CÁC CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG...................... 6 1.1. Những khái niệm có liên quan.......................................................... 6 1.1.1. Khái niệm cơ quan tư pháp ................................................................. 6 1.1.2. Khái niệm hoạt động tư pháp ............................................................10 1.1.3. Khái niệm người trong các cơ quan tiến hành tố tụng ......................12 1.1.4. Khái niệm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người tiến hành tố tụng......................................................................16 1.2. Quá trình phát triển của pháp luật hình sự về các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp mà chủ thể là ngƣời trong các cơ quan tiến hành tố tụng .....................................................................18 1.2.1. Giai đoạn 1945 đến 1975...................................................................18 1.2.2. Giai đoạn 1976 đến 1999...................................................................22 1.3. Quy định của bộ luật hình sự năm 1999 về các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp mà chủ thể là ngƣời trong các cơ quan tiến hành tố tụng...............................................................................25 1.3.1. Xác định tội danh của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người trong các cơ quan tiến hành tố tụng .......................25
  • 5. 1.3.2. Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người trong các cơ quan tiến hành tố tụng................................................................................................29 1.3.3. Chế tài hình sự đối với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người trong các cơ quan tiến hành tố tụng .................54 Chƣơng 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM HOẠT ĐỘNG TƢ PHÁP MÀ CHỦ THỂ LÀ NGƢỜI TRONG CÁC CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG............................................................................56 2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp mà chủ thể là ngƣời trong các cơ quan tiến hành tố tụng ......................................................................................56 2.1.1. Kết quả và những tồn tại trong điều tra, truy tố và xét xử đối với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người trong các cơ quan tiến hành tố tụng ..................................................56 2.1.2. Những nguyên nhân gây nên những tồn tại trong việc áp dụng pháp luật đối với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người trong các cơ quan tiến hành tố tụng.................................67 Chƣơng 3: NHỮNG ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM HOẠT ĐỘNG TƢ PHÁP MÀ CHỦ THỂ LÀ NGƢỜI TRONG CÁC CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG.......74 3.1. Quan điểm của Đảng và nhà nƣớc trong đấu tranh với các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp mà chủ thể là ngƣời trong các cơ quan tiến hành tố tụng ..............................................74 3.2. Hoàn thiện pháp luật hình sự về các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp mà chủ thể là ngƣời trong các cơ quan tiến hành tố tụng..........80 3.4. Các đề xuất, kiến nghị khác............................................................92 KẾT LUẬN....................................................................................................95 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................98
  • 6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
  • 7. DANH MỤC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1: Số vụ án hình sự và số bị cáo bị đưa ra xét xử về tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người trong các cơ quan tiến hành tố tụng từ năm 2000 đến năm 2013 60
  • 8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cải cách tư pháp là một đòi hỏi khách quan, cấp thiết và mang tính quy luật để có thể thích ứng với những đổi mới về văn hóa, kinh tế, xã hội và hệ thống chính trị. Vấn đề này đã chính thức được đặt ra tại nhiều Đại hội của Đảng, đồng thời đã được đánh dấu và ghi nhận trong các Nghị quyết 8 Trung ương khóa VII, Nghị quyết 3 và 7 Trung ương khóa VIII và đặc biệt là Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”; Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Do tố tụng hình sự được tiến hành bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng là hoạt động quyền lực Nhà nước do những người đại diện của các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện như: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan cảnh sát điều tra, Điều tra viên; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên; Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Toà án. Những năm qua, trong tiến trình tổng thể cải cách đất nước nói chung và cải cách tư pháp nói riêng thì hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng ở nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể, nhất là trong công tác phát hiện, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm đã hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao cho. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trong khi thực hiện nhiệm vụ tư pháp đã xuất hiện không ít hành vi xâm phạm hoạt động tư pháp của người tiến hành tố tụng trong các cơ quan tiến hành tố tụng. Điều này không chỉ làm giảm hiệu quả của hoạt động tư pháp, mà còn gây
  • 9. 2 mất lòng tin của nhân dân vào các cơ quan tư pháp, vào công lý, lẽ phải. Vì vậy, việc nghiên cứu các tội xâm phạm hoạt động tư pháp nói chung và với đối tượng phạm tội là người trong các cơ quan tiến hành tố tụng nói riêng là một vấn đề cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn. Với nhận thức như vậy, học viên chọn đề tài: "Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người trong các cơ quan tiến hành tố tụng (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)" làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Trong những năm qua, việc nghiên cứu các tội xâm phạm hoạt động tư pháp đã thu hút được sự quan tâm của dư luận và nhiều nhà nghiên cứu đã được công bố như: Trần Minh Hưởng, Đặng Thu Hiền: "Tìm hiểu các tội xâm phạm hoạt động tiến hành tố tụng", Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc, năm 2002 ; Nguyễn Ngọc Điệp, Hồ Thị Nệ: "Tìm hiểu các tội hoạt động tiến hành tố tụng: Trong Bộ luật hình sự 1999", Nhà xuất bản Công an nhân dân, năm 2001; Nguyễn Tất Viễn, Luận án Phó tiến sĩ Khoa học Luật học: "Các tội xâm phạm hoạt động tiến hành tố tụng trong luật hình sự Việt Nam", năm 1996; Nguyễn Huy Hoàn, Luận án tiến sĩ Luật học: "Đảm bảo quyền con người trong hoạt động tiến hành tố tụng ở Việt Nam hiện nay", năm 2005; Đề tài nghiên cứu khoa học: "Thực trạng các tội xâm phạm hoạt động tiến hành tố tụng và trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân các cấp trong cuộc đấu tranh chống các tội phạm này", Chủ nhiệm đề tài Bùi Đức Long, Cơ quan chủ trì: Trường Cao đẳng kiểm sát, 1998… . Ngoài ra, các tội xâm phạm hoạt động tư pháp còn được đề cập ở các mức độ khác nhau trong các tạp chí, sách báo khác như: Giáo trình Luật hình sự của trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, sách chuyên khảo. Các tác giả chủ yếu đề cập tới trách nhiệm hình sự, tìm hiểu và bình luận về các tội xâm phạm hoạt động tiến hành tố tụng trong luật hình sự Việt Nam, đảm bảo
  • 10. 3 quyền con người trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay hoặc nghiên cứu các tội xâm phạm hoạt động tư pháp với tư cách là đối tượng của hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu sâu về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người trong các cơ quan tiến hành tố tụng. 3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ về mặt lý luận những nội dung cơ bản của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người trong các cơ quan tiến hành tố tụng và thực trạng đấu tranh chống các tội phạm này theo quy định của Luật hình sự Việt Nam trong những năm gần đây. Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người trong các cơ quan tiến hành tố tụng. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Về mặt lý luận: trên cơ sở nghiên cứu quy định về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong lịch sử phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam và các quy định về người tiến hành tố tụng và các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong Luật hình sự một số nước trên thế giới, phân tích khái niệm, các yếu tố, dấu hiệu cấu thành tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người trong các cơ quan tiến hành tố tụng trong Bộ luật hình sự năm 1999 hiện hành để làm sáng tỏ bản chất pháp lý và những nội dung cơ bản của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người trong các cơ quan tiến hành tố tụng theo luật tố tụng hình sự Việt Nam. Về mặt thực tiễn: nghiên cứu, phân tích và đánh giá những vụ việc của các cơ quan, người tiến hành tố tụng đã có những sai phạm trong quá trình thực thi pháp luật. Đồng thời phân tích những hạn chế, tồn tại và vướng mắc
  • 11. 4 xung quanh việc áp dụng trên thực tiễn các quy định về loại tội phạm này nhằm đề ra phương hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật và các biện pháp chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người trong các cơ quan tiến hành tố tụng. 3.3. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người tiến hành tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng thình sự Việt Nam. 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Để đạt được những mục đích đã đặt ra trên cơ sở lý luận là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận văn đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp so sánh, phân tích tài liệu, nghiên cứu lịch sử và phương pháp tổng hợp, cũng như những thành tựu của khoa học luật hình sự, khoa học luật tố tụng hình sự, xã hội học pháp luật v.v... Trong các công trình của các nhà khoa học, luật gia ở trong và ngoài nước. Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào số liệu thực tiến trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, trong các báo cáo của Công an nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Toà án nhân dân và một số vụ án hình sự trong thực tiễn trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử và thông tin trên mạng Internet để phân tích và đánh giá, tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự. 5. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn và điểm mới về khoa học của luận văn Về mặt lý luận: Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên đề cập một cách có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người trong các cơ quan tiến hành tố tụng theo luật tố tụng hình sự Việt Nam, ở cấp độ một luận văn thạc sĩ ngành luật hình sự và tố tụng hình sự.
  • 12. 5 Về mặt thực tiễn: Luận văn góp phần vào việc xác định đúng đắn những yếu tố cấu thành tội phạm của từng tội danh cụ thể trong chương Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người trong các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy phạm pháp luật này và nêu ra các đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người trong các cơ quan tiến hành tố tụng. Ngoài ra, luận văn còn có ý nghĩa tham khảo cho cán bộ và học viên trong nghiên cứu, giảng dạy và học tập về vấn đề này. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1. Những vấn đề chung về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người trong các cơ quan tiến hành tố tụng Chương 2. Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người trong các cơ quan tiến hành tố tụng Chương 3. Những đề xuất, kiến nghị nâng cao hiệu quả đấu tranh với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người trong các cơ quan tiến hành tố tụng
  • 13. 6 Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM HOẠT ĐỘNG TƢ PHÁP MÀ CHỦ THỂ LÀ NGƢỜI TRONG CÁC CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG 1.1. Những khái niệm có liên quan 1.1.1. Khái niệm cơ quan tư pháp Quyền tư pháp cùng với quyền lập pháp và quyền hành pháp hợp thành quyền lực nhà nước thống nhất của một quốc gia. Cơ quan tư pháp, với những đặc trưng riêng của quyền tư pháp, được tổ chức và hoạt động theo các nguyên tắc do Hiến pháp và pháp luật quy định. Trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật hiện nay của nhà nước ta không nêu rõ và đặt tên cơ quan tư pháp là cơ quan nào. Tuy nhiên, Hiến pháp năm 1946 có một chương có tên Cơ quan tư pháp, trong đó, Tòa án được coi là cơ quan tư pháp: Cơ quan tư pháp của Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa gồm có: Tòa án tối cao; Các tòa án phúc thẩm; Các tòa án đệ nhị cấp và sơ cấp (Điều 63). Hiến pháp 1959 cụm từ cơ quan tư pháp không được sử dụng trong các văn bản pháp luật của Nhà nước. Từ Hiến pháp năm 1992 đến nay, cụm từ quyền tư pháp và cơ quan tư pháp được sử dụng nhiều trong các văn bản chính trị, pháp luật; Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) có một điều khoản đề cập đến quyền tư pháp trong nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước “Quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (Điều 2) và một điều khoản đề cập đến hoạt động tư pháp khi quy định Viện kiểm sát thực hiện chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Trong Hiến pháp cũng như các văn bản pháp luật, không văn bản nào xác định rõ ràng, thống nhất cơ
  • 14. 7 quan thực hiện quyền tư pháp là những cơ quan nào; hoạt động tư pháp gồm những hoạt động gì; Trong Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (Năm 2002) cũng không có điều khoản nào làm rõ khái niệm hoạt động tư pháp, kiểm sát hoạt động tư pháp mà chỉ dùng phương pháp liệt kê một số nhiệm vụ của kiểm sát hoạt động điều tra, hoạt động xét xử, hoạt động thi hành án. Như vậy, các Hiến pháp những năm tiếp theo như Hiến pháp 1959, 1980, 1992 và Hiến pháp 2013 không có tên chương nào đặt cho cơ quan tư pháp mà chỉ quy định chương có tên Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân. Ví dụ, Điều 126 Hiến pháp năm 1992 quy định: Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong phạm vi chức năng của mình, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân. Hiến pháp năm 2013 không có điều luật chung quy định về Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, nhưng có các điều luật riêng xác định chức năng của các cơ quan này. Tại Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định: Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Điều 107 Hiến pháp 2013 quy định: Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Như vậy, tuy không nêu rõ, nhưng Tòa án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân được gọi là các cơ quan tư pháp.
  • 15. 8 Trong thực tế, tại các văn kiện của Đảng về đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung hay Nghị quyết về công tác tư pháp nói riêng, cụm từ cơ quan tư pháp được sử dụng nhiều, nhưng cũng không có văn bản nào xác định một cách thống nhất, rõ ràng cơ quan tư pháp gồm những cơ quan nào. Ở mỗi thời điểm khác nhau, thuật ngữ cơ quan tư pháp được xác định và thể hiện trong các văn bản cũng khác nhau. Nghị quyết số 08- NQ/TW, ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, khi đề cập đến việc nâng cao chất lượng hoạt động và đề cao trách nhiệm của các cơ quan và cán bộ tư pháp đã xác định các cơ quan sau: Cơ quan điều tra; Cơ quan công tố (các viện kiểm sát nhân dân); Cơ quan xét xử (các tòa án); Cơ quan thi hành án (hình sự, dân sự); Cảnh sát tư pháp; Các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp (các tổ chức luật sư, công chứng, giám định tư pháp...). Hoặc trong Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02-6-2005 về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, khi đề cập đến việc xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy của các cơ quan tư pháp đã nêu các cơ quan: Tòa án nhân dân; Viện kiểm sát nhân dân; Cơ quan điều tra; Cơ quan thi hành án. Ngoài ra, Nghị quyết số 49-NQ/TW còn nhấn mạnh, cần hoàn thiện các chế định về bổ trợ tư pháp (luật sư, giám định, cảnh sát hỗ trợ tư pháp, công chứng). Có thể thấy, thuật ngữ các cơ quan tư pháp ở nước ta hiện nay chưa được hiểu và sử dụng một cách thống nhất trong các văn bản của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Thuật ngữ này thường được hiểu theo nghĩa rộng là ngoài Tòa án và Viện kiểm sát, còn có các cơ quan thuộc hệ thống hành pháp (Cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án, cơ quan công chứng…), thậm chí gồm cả các tổ chức xã hội nghề nghiệp (như Luật sư), tức là những tổ chức nằm ngoài hệ thống quyền lực Nhà nước [14]. Một điểm cần lưu ý khi tìm hiểu thuật ngữ các cơ quan tư pháp được
  • 16. 9 dùng với ý nghĩa, phạm vi như trên, chúng ta cần phân biệt thuật ngữ này với thuật ngữ các cơ quan của “ngành tư pháp” thuộc hệ thống hành pháp (gồm Bộ Tư pháp, các Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp, Ban Tư pháp). Mặc dù các cơ quan này đều có cụm từ “Tư pháp” gắn sau tên cơ quan, nhưng thực chất, các cơ quan này không trực tiếp thực hiện các hoạt động tư pháp. Theo chức năng, nhiệm vụ được giao, các cơ quan này là cơ quan quản lý Nhà nước đối với một số tổ chức và hoạt động tư pháp (thi hành án dân sự, luật sư, công chứng, giám định tư pháp...). Ngoài ra, trong lĩnh vực xây dựng pháp luật, Bộ Tư pháp được giao chủ trì xây dựng một số văn bản luật liên quan trực tiếp đến hoạt động tư pháp (như Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự, Luật thi hành án, Luật luật sư...), là thành viên tham gia và thẩm định tất cả các văn bản pháp luật làm cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp. Điều này đặt ra cần hiểu đúng thế nào là cơ quan tư pháp. Theo lý luận nhà nước và pháp luật, bộ máy quyền lực nhà nước của các quốc gia trên thế giới nói chung gồm có các cơ quan chủ yếu là: Cơ quan lập pháp (Quốc hội), Cơ quan hành pháp (Chính phủ) và Cơ quan tư pháp (Tòa án). Các cơ quan này độc lập với nhau để kiềm chế sự lạm quyền của mỗi cơ quan. Tuy nhiên, do đặc điểm của nước ta, ngoài những điểm chung như các quốc gia khác trên thế giới còn có những đặc điểm riêng. Các cơ quan quyền lực của nhà nước ta có Cơ quan lập pháp là Quốc hội, Cơ quan hành pháp là Chính phủ, bộ máy chính quyền địa phương và Cơ quan tư pháp thì ngoài Tòa án còn có Viện Kiểm sát. Quan điểm của Đảng và nhà nước ta là các cơ quan này như Điều 2 Hiến pháp 2013 khẳng định: Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Cho nên việc phân chia quyền lực nhà nước giữa các cơ quan nhà nước mang tính chất tương đối. Tất cả các hoạt động của các cơ quan này đặt dưới sự lãnh đạo của
  • 17. 10 Đảng Cộng sản Việt Nam như Điều 4 Hiến pháp năm 2013 quy định: Đảng Cộng sản Việt nam là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội. Như vậy, có thể hiểu các cơ quan tư pháp tại Việt Nam là Cơ quan Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân những cơ quan thực hiện chức năng công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp và xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hành chính theo quy định của pháp luật có liên quan. 1.1.2. Khái niệm hoạt động tư pháp Trên thế giới, nói đến hoạt động tư pháp là nói đến hoạt động xét xử của toà án cũng như nói đến cơ quan tư pháp là nói đến cơ quan toà án; nói đến tư pháp là nói đến một lĩnh vực hoạt động có tính độc lập rất cao trong mối quan hệ với lập pháp và hành pháp. Tuy nhiên, nói như thế không có nghĩa là lĩnh vực tư pháp độc lập một cách tuyệt đối với các lĩnh vực lập pháp và hành pháp. Xét về phương diện phân công (hay phân chia) và thực hiện quyền lực ở mỗi quốc gia, các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp đều có quan hệ và ảnh hưởng qua lại với nhau trong hoạt động. Mức độ của sự ảnh hưởng này tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố như: bản chất nhà nước; các nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước; các yếu tố văn hoá pháp lý và dân chủ; điều kiện thực tế của mỗi nước. Ở nước ta, nếu chỉ có hoạt động của các cơ quan tòa án, viện kiểm sát thì chưa thể thực hiện được chức năng tư pháp, mặc dù hoạt động xét xử của tòa án được coi là trung tâm trong hoạt động tư pháp. Khi giải quyết vụ án hình sự, để tòa án có thể tổ chức các phiên tòa xét xử, viện kiểm sát thực hiện được chức năng công tố, buộc tội người phạm tội trước phiên tòa phải có các hoạt động điều tra của các cơ quan điều tra mà đa số các cơ quan này không nằm trong cơ quan tòa án, viện kiểm sát (trừ Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao). Các cơ quan điều tra nói chung (các Cơ quan điều tra các cấp của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng) đều nằm trong bộ máy hành pháp
  • 18. 11 (Chính phủ). Ngoài ra, để thực hiện được nhiệm vụ điều tra của các cơ quan này đòi hỏi phải có sự hỗ trợ của nhiều cơ quan khác như cơ quan giám định, cơ quan hỗ trợ tư pháp, cơ quan công chứng, cơ quan định giá tài sản trong tố tụng hình sự, tố tụng dân sự v.v.... Do vậy, hoạt động tư pháp không chỉ của các cơ quan tư pháp, mà còn có các cơ quan khác nằm trong bộ máy Chính phủ hoặc những tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp. Trong quá trình phát triển của đất nước, khái niệm “hoạt động tư pháp” luôn có những thay đổi theo các giai đoạn lịch sử, gắn liền với quá trình hình thành, phát triển của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nếu theo tinh thần của Hiến pháp năm 1946, với quy định về cơ quan tư pháp là toà án thì, hoạt động tư pháp thuần tuý được hiểu chỉ là hoạt động xét xử của toà án. Từ Hiến pháp năm 1992 trở đi, khái niệm “hoạt động tư pháp” từng bước được mở rộng và đến nay đã gồm nhiều hoạt động khác nhau, như: khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Cho nên, các hoạt động tư pháp hiện nay được thực hiện bởi nhiều chủ thể, như: Toà án; Viện kiểm sát; Cơ quan điều tra thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng; các cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ thi hành bản án, quyết định của Toà án như cơ quan Công an, các cơ quan thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp, chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án cư trú, làm việc.... Ngoài ra còn có những cơ quan khác cũng được giao tiến hành một số hoạt động điều tra, như: Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm Lâm, lực lượng Cảnh sát Biển... thực hiện các hoạt động tư pháp có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ các quyền tự do, tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm của công dân... Cho nên, khái niệm hoạt động tư pháp thường được hiểu theo nghĩa rộng, không chỉ là hoạt động của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và Cơ quan thi hành án trong việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và
  • 19. 12 thi hành đối với các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, lao động và giải quyết các quan hệ pháp luật khác được phát sinh theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ các quyền của Nhà nước, của các tổ chức, của công dân. Các hoạt động này do người đại diện của các cơ quan tư pháp nhân danh Nhà nước trực tiếp thực hiện tùy theo chức danh được bổ nhiệm. Hoạt động tư pháp bao gồm những hoạt động trực tiếp liên quan đến trình tự thủ tục tố tụng theo luật định mới được xác định là hoạt động tư pháp. Ví dụ như hoạt động điều tra; hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp; hoạt động xét xử, hoạt động thi hành án và các hoạt động của các cơ quan được Nhà nước giao thẩm quyền trong việc tiến hành một số hoạt động tư pháp theo thủ tục tố tụng, trong đó hoạt động xét xử của Tòa án là hoạt động trọng tâm (theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 2/6/2005 "Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020"). Như vậy, hoạt động tư pháp là hoạt động tố tụng trong các lĩnh vực hình sự, dân sự, hành chính, bao gồm hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đối với các vụ án hình sự, dân sự, hành chính do người của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và cơ quan thi hành án thực hiện trong khuôn khổ pháp luật nhằm bảo vệ quyền lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và của công dân. 1.1.3. Khái niệm người trong các cơ quan tiến hành tố tụng Tên gọi người tiến hành tố tụng để chỉ những người làm việc trong các cơ quan tiến hành tố tụng. Các cơ quan tiến hành tố tụng ở nước ta được quy định trong các văn bản pháp luật tố tụng (Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự và Luật tố tụng hành chính). Tùy thuộc vào mỗi hình thức tố tụng mà các cơ quan tiến hành tố tụng được quy định không giống nhau. Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định: Các cơ quan tiến hành tố tụng gồm có: các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát; Toà án
  • 20. 13 các cấp. Ví dụ, hệ thống các cơ quan điều tra bao gồm: cơ quan điều tra trong Công an nhân dân; cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân; cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Các cơ quan điều tra là một bộ phận hợp thành quan trọng của hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng, tiến hành điều tra các vụ án hình sự làm cơ sở cho hoạt động truy tố, xét xử đối với người phạm tội trước Toà án. Trong Công an nhân dân có các cơ quan điều tra sau đây: Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an; Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp tỉnh); Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp huyện); Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an; Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (Cơ quan An ninh điều tra Công an cấp tỉnh). Trong Quân đội nhân dân có cơ quan điều tra hình sự Bộ Quốc phòng; cơ quan điều tra hình sự quân khu và tương đương; cơ quan điều tra hình sự khu vực; Cơ quan An ninh điều tra Bộ Quốc phòng; Cơ quan An ninh điều tra quân khu và tương đương. Ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao có cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao; cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương. cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao điều tra một số loại tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp [39]. Hệ thống Viện kiểm sát nhân dân bao gồm: Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Viện kiểm sát nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Viện kiểm sát quân sự. Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hiện quyền lực nhà nước hợp thành quan trọng của hệ thống tư pháp. Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật nhằm góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã
  • 21. 14 hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân, bảo đảm để mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân đều phải được xử lý theo pháp luật [38]. Hệ thống Tòa án nhân dân bao gồm: Toà án nhân dân tối cao; Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Toà án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Toà án quân sự trung ương; Tòa án quân sự cấp quân khu và Tòa án quân sự cấp khu vực. Những người tiến hành tố tụng tại các cơ quan này gồm Thủ trường, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án [37]. Trong tố tụng dân sự, theo Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự: Các cơ quan tiến hành tố tụng gồm có: Toà án nhân dân; Viện kiểm sát nhân dân. Những người tiến hành tố tụng gồm có: Chánh án Toà án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án; Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên. Trong tố tụng hành chính, theo Điều 34 Luật tố tụng hành chính, Các cơ quan tiến hành tố tụng hành chính gồm có: Toà án nhân dân; Viện kiểm sát nhân dân. Những người tiến hành tố tụng hành chính gồm có: Chánh án Toà án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án; Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên [39]. Như vậy, cơ quan tiến hành tố tụng nói chung là cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án được giao trách nhiệm giải quyết vụ án hình sự, vụ án dân sự, vụ án hành chính tại các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử tùy thuộc vào chức năng, nhiệm vụ của những cơ quan này theo quy định của pháp luật. Quá trình giải quyết vụ án nói chung, trong đó có vụ án hình sự nói riêng, là một quá trình liên tục, trải qua nhiều giai đoạn tố tụng khác nhau.
  • 22. 15 Trong vụ án hình sự, quá trình tố tụng được bắt đầu từ khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Đối với vụ án dân sự, hành chính, quá trình tố tụng được bắt đầu khi có đơn khởi kiện của nguyên đơn dân sự tại Tòa án. Những người có trách nhiệm giải quyết vụ án này được gọi là người tiến hành tố tụng. Nếu như các cơ quan tiến hành tố tụng là cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án thì người tiến hành tố tụng là người làm việc trong các cơ quan này được giao nhiệm vụ giải quyết vụ án. Họ là Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra và Điều tra viên; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát và Kiểm sát viên; Chánh án, Phó Chánh án Toà án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và Thư ký Toà án. Họ là những người có chức danh tư pháp. Vì quan niệm chức danh tư pháp bao gồm những người thực thi nhiệm vụ trong các cơ quan tư pháp (điều tra, truy tố, xét xử) được đào tạo kỹ năng thực hành và hành nghề theo một chuyên môn nhất định, có chức danh, được bổ nhiệm hoặc thừa nhận theo pháp luật khi đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn và điều kiện xác định theo quy định của pháp luật. Do hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng gắn liền với việc giải quyết vụ án do người tiến hành tố tụng thực hiện. Hoạt động của họ với tư cách người tiến hành tố tụng đều nhân danh Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nên hoạt động của họ gắn liền với việc bảo vệ quyền và lợi ích của nhà nước, xã hội, công dân. Chính vì vậy, hoạt động của người tiến hành tố tụng chiếm vị trí đặc biệt quan trọng. Vụ án có được giải quyết đúng pháp luật hay không, nhanh hay chậm; quyền lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân có được bảo vệ hay không; công lý và công bằng có được bảo đảm hay không... tùy thuộc vào khả năng, trình độ, năng lực, đạo đức và ý thức nghề nghiệp của người tiến hành tố tụng. Khi thực hiện nhiệm vụ, người tiến hành tố tụng áp dụng pháp luật để xử lý các hành vi vi phạm pháp luật; được trực tiếp sử dụng quyền lực Nhà nước trong khi thi hành công
  • 23. 16 vụ và ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm, các quyền và lợi ích cơ bản của công dân. Từ điều này, có thể hiểu, người trong các cơ quan tiến hành tố tụng là những người tiến hành tố tụng có chức danh tố tụng; được giao nhiệm vụ giải quyết vụ án theo trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định, tùy thuộc vào vụ án đó là vụ án hình sự, dân sự hay vụ án hành chính. 1.1.4. Khái niệm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người tiến hành tố tụng Điều 292 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định“Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án trong việc bảo vệ quyền lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” [41]. Theo khái niệm này, hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án là hoạt động theo đúng quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động điều tra hình sự của cơ quan điều tra; hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của Cơ quan Viện kiểm sát; hoạt động xét xử của Cơ quan Tòa án, và hoạt động thi hành án của các Cơ quan Thi hành án hình sự (cơ quan công an các cấp), thi hành án dân sự (cơ quan tư pháp các cấp). Xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan này thể hiện bằng việc không thực hiện đúng các quy định của pháp luật về hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án và hậu quả của sự xâm phạm này là gây thiệt hại cho quyền lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Trong các tội xâm phạm hoạt động tư pháp được quy định tại Chương XXII của BLHS có 3 loại chủ thể của tội phạm. Loại thứ nhất là các tội xâm phạm hoạt động tư pháp được thực hiện bởi những người tiến hành tố tụng gồm các tội được quy định tại các Điều 293, 294, 295, 296, 298, 299 (Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội; Tội không truy cứu trách nhiệm
  • 24. 17 hình sự người có tội; Tội ra bản án trái pháp luật; Tội ra quyết định trái pháp luật; Tội dùng nhục hình; Tội bức cung). Loại chủ thể thứ hai trong các tội xâm phạm hoạt động tư pháp được thực hiện bởi những người tham gia tố tụng. Những người tham gia tố tụng là những người với tư cách người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, người giám định. Họ là chủ thể của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp được quy định tại các Điều 304, 307, 308, 311 (Tội không chấp hành án; Tội khai báo gian dối hoặc cung cấp tài liệu sai sự thật; Tội từ chối khai báo, từ chối kết luận giám định hoặc từ chối cung cấp tài liệu; Tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử). Loại chủ thể thứ ba trong các tội xâm phạm hoạt động tư pháp được thực hiện bởi bất kỳ người nào khi có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo luật định. Họ có thể là những người có chức vụ quyền hạn nhất định trong bộ máy nhà nước nói chung, hoặc họ là những người làm việc trong các cơ quan thi hành án. Đó là các tội được quy định tại các Điều 297, 300, 301, 302, 303, 305, 306, 309, 310, 312, 313 và 314 (Tội ép buộc nhân viên tư pháp làm trái pháp luật; Tội làm sai lệch hồ sơ vụ án; Tội thiếu trách nhiệm để người bị giam, giữ trốn; Tội tha trái pháp luật người đang bị giam, giữ; Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn giam, giữ người trái pháp luật; Tội không thi hành án; Tội cản trở việc thi hành án; Tội mua chuộc hoặc cưỡng ép người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; Tội vi phạm việc niêm phong, kê biên tài sản; Tội đánh tháo người bị giam, giữ, người đang bị dẫn giải, người đang bị xét xử; Tội che giấu tội phạm; Tội không tố giác tội phạm). Như phần trên đã trình bày, hoạt động của những người tiến hành tố tụng chiếm vị trí đặc biệt quan trọng vì vụ án có được giải quyết đúng pháp luật hay không, nhanh hay chậm; quyền lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
  • 25. 18 của tổ chức, cá nhân có được bảo vệ hay không; công lý và công bằng có được bảo đảm hay không tùy thuộc vào khả năng, trình độ, năng lực, đạo đức và ý thức nghề nghiệp của những người tiến hành tố tụng. Trong trường hợp họ vi phạm pháp luật trong việc giải quyết vụ án làm cho vụ án được giải quyết không đúng theo quy định của pháp luật, gây oan sai cho những người tham gia tố tụng thì sẽ gây thiệt hại cho quyền lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Cho nên, Nhà nước và xã hội luôn đòi hỏi họ phải thực sự khách quan trong việc giải quyết vụ án. Từ những nội dung đã trình bày trên có thể hiểu, các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người tiến hành tố tụng là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử được thực hiện bởi một hoặc một số người trong những người có chức vụ như: Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án trong khi được giao giải quyết vụ án gây hậu quả nghiêm trọng đến quyền lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. 1.2. Quá trình phát triển của pháp luật hình sự về các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp mà chủ thể là ngƣời trong các cơ quan tiến hành tố tụng 1.2.1. Giai đoạn 1945 đến 1975 Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công (tháng 8/1945), trong những năm tháng đầu tiên sau khi giành được độc lập, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa non trẻ phải đối mặt với rất nhiều khó khăn trên tất cả các lĩnh vực. Nền kinh tế đất nước rất nghèo nàn, lạc hậu, vừa trải qua nạn đói năm 1945; người dân không có việc làm; chế độ tài chính kiệt quệ, hầu như không có gì, phải kêu gọi nhân dân ủng hộ tiền, vàng cho cách mạng; trình độ học vấn của nhân dân hầu như rất thấp, có tới 95% dân số toàn quốc hoàn
  • 26. 19 toàn mù chữ. Trong khi đó, nguy cơ ngoại xâm từ bên ngoài lấy danh nghĩa đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật. Tại miền Bắc, quân đội Tưởng Giới Thạch tiến vào Hà Nội. Khoảng 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch mượn danh nghĩa Đồng Minh vào giải giáp quân đội Nhật. Tại miền Nam, quân đội Pháp được quân Anh yểm trợ xâm lược chiếm Sài Gòn. Bên trong đất nước, bọn phản động người Việt được sự trợ giúp của đế quốc ngoại bang và tàn quân của chế độ cũ nổi dậy chống phá nhằm lật đổ chính quyền nhân dân non trẻ để thành lập một chính phủ phản động làm tay sai cho chúng. Đứng trước tình hình đó, nhân dân ta phải thực hiện ba nhiệm vụ lớn là diệt giặc đói, diệt giặc dốt và diệt giặc ngoại xâm. Chính vì vậy, hệ thống pháp luật nói chung, trong đó có pháp luật hình sự được xây dựng thời kỳ này chủ yếu tập trung phục vụ ba nhiệm vụ nói trên. Nhưng do tình hình hết sức khẩn trương lúc bấy giờ, nên không thể ban hành kịp các văn bản quy phạm pháp luật cũng như các văn bản quy phạm pháp luật hình sự cần thiết. Do đó, ngày 10/10/1945, nhà nước ta đã ban hành Sắc lệnh số 47-SL cho tạm thời giữ các luật lệ cũ ở ba miền Bắc, Trung, Nam, nhưng không được xâm phạm vào nền độc lập quốc gia, trong đó có Bộ "Luật hình An Nam", Bộ "Hoàng Việt hình luật", và Bộ "Hình luật pháp tu chính". Điều 1 Sắc lệnh quy định:"cho đến khi ban hành bộ luật pháp duy nhất cho toàn cõi nước Việt Nam, các luật lệ hiện hành vẫn tạm giữ nguyên như cũ" với điều kiện "Những điều khoản trong luật lệ cũ được tạm giữ lại do sắc luật này chỉ thi hành khi nào không trái với nền độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa" (Điều 12 Sắc lệnh). Do tình hình đất nước lúc bấy giờ rất cấp bách trong bảo vệ nền độc lập dân tộc nên vấn đề xây dựng pháp luật chưa có thời gian xây dựng, các văn bản pháp luật được ban hành thường mang tính thời kỳ, phục vụ những nhiệm vụ trước mắt. Tuy nhiên, hàng loạt văn bản liên quan đến hoạt động tư pháp được ban hành. Sắc lệnh 33C ngày 13/9/1945 của Chính phủ lâm thời về
  • 27. 20 thành lập tòa án quân sự; Sắc lệnh số 13 ngày 24/1/1946 và Sắc lệnh số 51 ngày 17/7/1946 về thành lập tòa án các cấp. Để hoạt động của tòa án có hiệu quả, một số văn bản pháp luật đã quy định về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp. Tại Điều 24 Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946 về tổ chức Tòa án và các ngạch Thẩm phán có quy định: các hội thẩm nhân dân phải giữ kín những điều đã bàn bạc trong lúc nghị án. Nếu tiết lộ bí mật ấy sẽ bị tòa án nhân dân phúc thẩm khu hoặc thành phố phạt tù từ 6 tháng đến 2 năm tù. Tại Điều 18 Sắc lệnh số 40 ngày 29/3/1946 có quy định: "Những người phụ trách các đề lao, các trại giam, giữ người sau hạn giam mà không có lệnh gia hạn sẽ bị phạt tù từ hai năm đến năm năm và phạt tiền từ 1.000 đến 10.000 đồng" . Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa cũng đã ghi nhận một số nguyên tắc trong hoạt động của cơ quan tư pháp như Điều 11 quy định: Tư pháp chưa quyết định thì không được bắt bớ, giam cầm công dân Việt Nam; Điều 68 quy định: "Cấm không được tra tấn, đánh đập, ngược đãi những bị cáo và tội nhân". Điều 3 Sắc lệnh số 69/SL ngày 18/6/1949 cho phép bị can có thể nhờ công dân không phải là luật sư bênh vực trước tòa án, nhưng có quy định: người nào để lộ những bí mật đã biết trong khi xem hồ sơ, hoặc trong cuộc thẩm vấn tại phiên tòa... sẽ bị phạt từ 1 đến 5 năm tù và phạt từ 1.000 đồng đến 1.900 đồng. Điều 6 Sắc lệnh số 150-SL ngày 12/4/1953 về việc thành lập Tòa án nhân dân đặc biệt quy định: "Khi hỏi tuyệt đối không được đánh đập, tra tấn". Để đảm bảo quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của công dân, Chính phủ đã ban hành Luật số 103/SL- 005 ngày 20/5/1953. Sắc lệnh này quy định trách nhiệm hình sự đối với hành vi tra tấn, dùng nhục hình cũng như một số hành vi khác xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan tư pháp, cụ thể Điều 14 quy định: "Đối với những người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam tuyệt đối nghiêm cấm tra tấn hoặc dùng
  • 28. 21 bất cứ nhục hình nào", "Nếu phạm tội tra tấn, dùng nhục hình sẽ bị xử theo hình luật chung". Điều 16 Sắc lệnh cũng quy định chế tài đối với hành vi bắt, giam người, khám đồ vật, nhà ở thư tín trái đạo luật này thì tùy trường hợp có thể bị thi hành kỷ luật hành chính hoặc bị xử phạt từ 15 ngày đến ba năm tù. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ được ký kết, đất nước ta bị chia làm hai miền: miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, còn miền Nam tạm thời bị đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai Ngô Đình Diệm thống trị. Trước tình hình đó, pháp luật hình sự thời kỳ này phải thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và tiến hành cách mạng dân tộc giải phóng miền Nam. Miền Bắc tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng miền Bắc thành căn cứ vững mạnh của cách mạng cả nước. Đảng và Nhà nước tiến hành cuộc cải cách ruộng đất rộng khắp trên toàn miền Bắc. Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng ngày 30/10/1967, Điều 17 quy định: "Kẻ nào biết rõ phần tử phản cách mạng mà chưa chấp che giấu, tiếp tế, giúp đỡ cho chúng lẩn trốn hoặc cất giấu tang vật thủ tiêu chứng cứ phạm tội của chúng thì bị phạt tù từ hai năm đến mười năm". Kể từ khi miền Bắc tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, số lượng tài sản Nhà nước chiếm tỷ lệ lớn trong nền kinh tế Quốc gia. Mặt khác, thời kỳ này, nền kinh tế Việt Nam mang đậm tính chất kinh tế bao cấp, tội phạm về kinh tế và tội phạm xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa... gia tăng nhiều. Đáp ứng yêu cầu của thực tế và nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm. Ngày 21/10/1970, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành hai pháp lệnh: Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, và Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản công dân. Hai pháp lệnh này có quy định về tội bao che cho kẻ xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và tội bao che kẻ xâm phạm tài sản công dân.
  • 29. 22 1.2.2. Giai đoạn 1976 đến 1999 Với chiến thắng năm 1975, miền Nam được giải phóng, đất nước ta hoàn toàn thống nhất. Cả nước bắt tay vào khắc phục những hậu quả của chiến tranh và tiến hành xây dựng đất nước, khôi phục kinh tế, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Sau thất bại ở Việt Nam, đế quốc Mỹ đã thực hiện nhiều kế hoạch nhằm chống phá chính quyền cách mạng Việt Nam như bao vây cấm vận kinh tế, kích động, dụ dỗ người dân Việt Nam chạy ra nước ngoài hoặc sử dụng người dân Việt sống lưu vong ở nước ngoài chống phá Việt Nam khiến cho tình hình xã hội ở miền Nam chưa được ổn định. Song song với việc chính thức thành lập Tòa án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban hành Sắc luật số 03/SL-76, ngày 15/3/1976, quy định các tội phạm và hình phạt. Sắc luật này trừng trị các tội phản cách mạng, các tội xâm phạm tài sản công cộng, các tội xâm phạm thân thể, nhân phẩm, sức khỏe, tài sản riêng của công dân, các tội kinh tế (đầu cơ, tích trữ, phá rối trị trường, làm hàng giả...), các tội chức vụ, hối lộ, các tội xâm phạm trật tự, an toàn công cộng [9]. Điều 3 Sắc luật quy định: "biết rõ phần tử phản cách mạng mà che giấu thì bị phạt tù từ một năm đến bảy năm". Hướng dẫn thi hành Sắc luật số 03/SL-76, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 03/BTP ngày 12/4/1976. Điều 5 Thông tư quy định: Biết rõ phần tử phản cách mạng mà che giấu, chứa chấp thì bị xử phạt từ 1 năm đến 7 năm tù; có nghĩa là hành vi chứa chấp, che giấu, tiếp tế, giúp đỡ cho bọn phản cách mạng lẩn trốn hoặc cất giấu tang vật thủ tiêu chứng cứ về tội phạm của chúng. Ngoài ra, trong nội dung của Thông tư này cũng có một số quy định về những hành vi xâm phạm hoạt động tư pháp khác như: các hành vi bắt, giam người trái phép, khám người, khám nhà ở, khám đồ vật trái phép do người có chức vụ quyền hạn thực hiện thì bị xử theo quy định của Điều 7 Sắc
  • 30. 23 luật số 03/SL-76 ngày 15/3/1976, hoặc hành vi trốn trại giam hoặc tổ chức cho kẻ khác trốn trại giam không vì mục đích phản cách mạng thì bị xử theo Điều 9 Sắc luật số 03 về tội xâm phạm đến trật tự công cộng, an toàn công cộng với hình phạt tù từ ba tháng đến năm năm, phạt tiền đến 1.000 đồng và có thể bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Như vậy, quy định của pháp luật hình sự về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp chưa có tính hệ thống, thiếu cụ thể, còn thiếu nhiều, tản mạn và chưa đề cập được hết các khía cạnh và sự phức tạp của các hành vi xâm phạm hoạt động tư pháp dẫn đến việc gặp nhiều khó khăn trong quá trình xử lý các tội phạm này. Đứng trước yêu cầu của tình hình mới, khi đất nước hoàn toàn thống nhất, cả nước thực hiện nhiệm vụ bảo vệ những thành quả cách mạng, bảo vệ chế độ chủ nghĩa xã hội, xây dựng nền kinh tế nước nhà, cùng với việc hoàn thiện hệ thống các cơ quan tư pháp thì vấn đề đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và phòng chống các hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan tư pháp nói riêng trở nên bức xúc. Để khắc phục những hạn chế trên cần phải có quy định cụ thể và có hệ thống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong văn bản quy phạm pháp luật hình sự. Tại kỳ họp thứ 9, ngày 27/6/1985, Quốc hội khóa VII đã thông qua Bộ luật hình sự, có hiệu lực từ ngày 1/1/1986. Sự ra đời của Bộ luật hình sự năm 1985 đánh dấu bước phát triển cao của hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật hình sự nói riêng. Bộ luật hình sự năm 1985 được ban hành là một sự kiện chính trị pháp lý quan trọng, góp phần tích cực vào việc hoàn thiện hệ thống pháp luật của nước ta và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Bộ luật hình sự này có sự kế thừa và phát triển luật hình sự của nhà nước ta từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945, với sự tích lũy kinh nghiệm thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm thời gian trước năm 1985, kế thừa những tinh hoa của pháp luật hình sự tiến bộ, thể hiện tính nhân văn, nhân đạo
  • 31. 24 xã hội chủ nghĩa, Bộ luật hình sự ghi nhận được những nguyên tắc cơ bản của pháp luật hình sự xã hội chủ nghĩa như nguyên tắc pháp chế, nhân đạo, dân chủ, cá thể hóa trách nhiệm hình sự và hình phạt. Về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, Bộ luật hình sự năm 1985 đã dành một chương riêng ở Phần các tội phạm, cụ thể là Chương X với 19 điều luật, từ Điều 230 đến Điều 248 quy định về nhóm tội phạm này. Trong 19 điều luật này có 1 điều quy định về khái niệm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, 1 điều quy định về hình phạt bổ sung, còn 17 điều quy định 20 tội thuộc nhóm tội xâm phạm họat động tư pháp, trong đó 8 điều quy định về chủ thể là người tiến hành tố tụng đó là: Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội (Điều 231); Tội ra bản án hoặc quyết định trái pháp luật (Điều 232); Tội ép buộc nhân viên tư pháp làm trái pháp luật (Điều 233); Tội dùng nhục hình (Điều 234); Tội bức cung (Điều 235); Tội làm sai lệch hồ sơ vụ án (Điều 236); Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn tha trái pháp luật người bị tạm giam (Điều 238); Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn giam người trái pháp luật (Điều 239). Có thể nói, Bộ luật hình sự năm 1985 lần đầu tiên quy định một cách thống nhất, tổng thể và có hệ thống về tội phạm và hình phạt, quy định khá đầy đủ các hành vi nguy hiểm cho xã hội ở mức độ đáng kể bị coi là tội phạm. Việc quy định các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp thành một chương riêng trong Bộ luật cho thấy ý nghĩa quan trọng cụ thể hóa những quy định về chức năng, nhiệm vụ, vị trí, vai trò của các cơ quan tư pháp bằng các quy phạm pháp luật hình sự nhằm bảo vệ cho hoạt động của các cơ quan này khỏi các hành vi xâm hại. Nhằm đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, phù hợp với những đổi mới của xã hội, Bộ luật hình sự năm 1985 đã được sửa đổi, bổ sung bốn lần vào các năm 1989, 1991, 1992 và 1997. Tuy nhiên, riêng về chương các tội xâm phạm hoạt động tư pháp thì vẫn tương đối ổn định.
  • 32. 25 Qua 15 năm thực hiện, Bộ luật hình sự năm 1985 đã góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng và kiến thiết đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, có những đóng góp không nhỏ vào thành công chung của đất nước, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Tuy nhiên, Bộ luật hình sự năm 1985 đã bộc lộ những hạn chế nhất định, chưa phù hợp với tình hình thực tiễn, chưa chính xác về mặt khoa học. Nhiều tội danh quy định quá chung chung, bố cục một số chương, điều chưa hợp lý; những hành vi phạm tội có tính chất, mức độ nguy hiểm khác nhau lại được để cùng một điều luật, một tội danh với một chế tài xử phạt; khoảng cách giữa mức tối thiểu và mức tối đa trong khung hình phạt của nhiều điều luật quá dài đã tạo ra những sơ hở nhất định, dẫn đến sự tùy tiện khi áp dụng, hiệu quả xử lý không nghiêm, không thống nhất trong việc áp dụng hình phạt. Xuất phát từ tình hình đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đẩy mạnh công cuộc đổi mới, phát huy nội lực, hội nhập khu vực và thế giới, đặt ra yêu cầu phải xây dựng một khung pháp luật hoàn chỉnh vừa khuyến khích các yếu tố tích cực của nền kinh tế thị trường phát triển, vừa có những quy định nghiêm cấm với các chế tài nghiêm khắc nhằm phòng ngừa và xử lý nghiêm minh những tiêu cực của cơ chế. Đáp ứng yêu cầu đó, ngày 21/12/1999, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X tại kỳ họp thứ XI đã thông qua Bộ luật hình sự mới (gọi là Bộ luật hình sự năm 1999), trong đó, chương các tội xâm phạm hoạt động tư pháp được tiếp tục hoàn thiện đáp ứng yêu cầu đấu tranh với các tội phạm này trong hoạt động tư pháp. 1.3. Quy định của bộ luật hình sự năm 1999 về các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp mà chủ thể là ngƣời trong các cơ quan tiến hành tố tụng 1.3.1. Xác định tội danh của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người trong các cơ quan tiến hành tố tụng Như phần trên đã trình bày, các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà
  • 33. 26 chủ thể là người tiến hành tố tụng là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử được thực hiện bởi một hoặc một số người trong những người có chức vụ như: Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án trong khi được giao giải quyết vụ án gây hậu quả nghiêm trọng đến quyền lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Căn cứ quy định về những người tiến hành tố tụng trong tư pháp hình sự, dân sự, hành chính và những tội danh trong chương các tội xâm phạm hoạt động tư pháp thì có những tội danh sau đây: - Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội (Điều 293); - Tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội (Điều 294); - Tội ra bản án trái pháp luật (Điều 295); - Tội ra quyết định trái pháp luật (Điều 296); - Tội dùng nhục hình (Điều 298); - Tội bức cung (Điều 299); - Tội làm sai lệch hồ sơ vụ án (Điều 300); - Tội tha trái pháp luật người đang bị giam giữ (Điều 302); - Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn giam giữ người trái pháp luật (Điều 303); Chủ thể của các tội vừa lượt kê nêu trên chỉ có thể là người tiến hành tố tụng. Ví dụ, Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội (Điều 293) quy định: Người nào có thẩm quyền mà truy cứu trách nhiệm hình sự người mà mình biết rõ là không có tội, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm. Người có thẩm quyền nêu trong điều luật này chỉ có thể là Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát. Tương tự như thế, Tội ra bản án trái pháp luật (Điều 295) quy định: Thẩm phán, Hội thẩm nào ra bản án mà mình biết rõ là trái pháp luật, thì bị
  • 34. 27 phạt tù từ một năm đến năm năm. Chủ thể của tội phạm này chỉ là Thẩm phán, Hội thẩm là những người có thẩm quyền ra bản án sau khi xét xử. Do vậy, các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người tiến hành tố tụng khác với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là bất kỳ người nào, hoặc chủ thể là những người tham gia tố tụng. Riêng đối với tội làm sai lệch hồ sơ vụ án được quy định tại Điều 300 Bộ luật hình sự (BLHS), điều luật quy định: Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Toà án, nhân viên tư pháp khác, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự nào mà thêm, bớt, sửa đổi, đánh tráo, huỷ, làm hư hỏng các tài liệu, vật chứng của vụ án hoặc bằng các thủ đoạn khác nhằm làm sai lệch nội dung hồ sơ vụ án, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm. Chủ thể của tội phạm này không chỉ có Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Toà án, mà còn có cả nhân viên tư pháp khác, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Tuy nhiên, luận văn không đề cập đến các nhân viên tư pháp khác, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự vì họ không phải là người tiến hành tố tụng có chức danh tố tụng như đã nêu ở phần trên của luận văn. Đối với những tội khác như: Tội ép buộc nhân viên tư pháp làm trái pháp luật (Điều 297); Tội thiếu trách nhiệm để người bị giam, giữ trốn (Điều 302); Tội cản trở việc thi hành án (Điều 306); Tội mua chuộc hoặc cưỡng ép người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật (Điều 309); Tội vi phạm việc niêm phong, kê biên tài sản (Điều 310); Tội đánh tháo người bị giam, giữ, người đang bị dẫn giải, người đang bị xét xử (Điều 312); Tội che giấu tội phạm (Điều 313); Tội không tố giác tội phạm (Điều 314), chỉ có thể được thực hiện bởi những người khác không phải là người trong các cơ quan tiến hành tố tụng, nên không trong phạm vi nghiên cứu. Ví dụ, tội che dấu tội phạm được quy định tại 313 BLHS quy định:
  • 35. 28 Người nào không hứa hẹn trước mà che giấu một trong các tội phạm quy định tại các điều sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm: Các điều từ Điều 78 đến Điều 91 về các tội xâm phạm an ninh quốc gia; Điều 93 (tội giết người); Điều 111, các khoản 2, 3 và 4 (tội hiếp dâm); Điều 112 (tội hiếp dâm trẻ em); Điều 114 (tội cưỡng dâm trẻ em); Điều 116, các khoản 2 và 3 (tội dâm ô đối với trẻ em); Điều 119, khoản 2 (tội mua bán người); Điều 120 (tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em); Điều 133 (tội cướp tài sản); Điều 134 (tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản); Điều 138, các khoản 2, 3 và 4 (tội trộm cắp tài sản); Điều 139, các khoản 2, 3 và 4 (tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản); Điều 140, các khoản 2, 3 và 4 (tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản); Điều 143, các khoản 2, 3 và 4 (tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản); Điều 153, các khoản 3 và 4 (tội buôn lậu); Điều 154, khoản 3 (tội vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới); Điều 155, các khoản 2 và 3 (tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm); Điều 156, các khoản 2 và 3 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả); Điều 157 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh); Điều 158, các khoản 2 và 3 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi); Điều 160, các khoản 2 và 3 (tội đầu cơ); Điều 165, các khoản 2 và 3 (tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng); Điều 166, các khoản 3 và 4 (tội lập quỹ trái phép); Điều 179, các khoản 2 và 3 (tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng); Điều 180 (tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả); Điều 181 (tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác); Điều 189, các khoản 2 và 3 (tội huỷ hoại rừng); Điều 193 (tội sản xuất trái phép chất ma tuý); Điều 194 (tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý);
  • 36. 29 v.v..... Do vậy, các tội phạm này được thực hiện không phải đặc trưng chỉ có những người tiến hành tố tụng. 1.3.2. Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người trong các cơ quan tiến hành tố tụng Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội trong Bộ luật hình sự nói chung là các yếu tố cấu thành tội phạm cụ thể để phân biệt tội phạm này với tội phạm khác, hoặc phân biệt nhóm tội phạm này với nhóm tội phạm khác. Do vậy, các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người trong các cơ quan tiến hành tố tụng được thể hiện bằng các nội dung sau đây: Thứ nhất, khách thể của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người trong các cơ quan tiến hành tố tụng. Trong khoa học pháp lý hình sự, khách thể của tội phạm được chia làm 3 loại bao gồm khách thể chung, khách thể loại của từng nhóm tội phạm và khách thể trực tiếp của từng tội phạm cụ thể. Khách thể chung của tội phạm là sự xâm phạm vào quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ. Những quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ đó chính là nền độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, trật tự an toàn xã hội, trật tự quản lý kinh tế, trật tự pháp luật, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước và những điều kiện bảo đảm cho mọi người được sống trong một môi trường xã hội và sinh thái an toàn, lành mạnh, mang tính nhân văn cao. Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp có khách thể chung thể hiện sự xâm phạm vào trật tự pháp luật nói chung mà luật hình sự bảo vệ. Khách thể loại của các tội phạm này chính là xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án trong việc bảo vệ quyền lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Hoạt
  • 37. 30 động đúng đắn của các cơ quan điều tra, kiểm sát, tòa án và thi hành án thể hiện ở chỗ, hoạt động tư pháp bao gồm hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án do cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, các cơ quan và tổ chức bổ trợ tư pháp thực hiện trong khuôn khổ pháp luật để phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm hình sự nhằm bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội; bảo vệ lợi ích của nhà nước, của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Với ý nghĩa quan trọng như vậy, trong hoạt động chung của bộ máy nhà nước, hoạt động của hệ thống các cơ quan tư pháp (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) một mặt góp phần bảo đảm cho hoạt động bình thường của toàn xã hội thông qua việc đấu tranh chống các tội phạm, bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền tính mạng, tài sản, tự do, nhân phẩm, danh dự cho mỗi công dân; đảm bảo dân chủ, công bằng xã hội cho mỗi công dân thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình trong hoạt động tư pháp; bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo đảm mỗi tội phạm xảy ra phải được phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh đúng người đúng tội, không để lọt tội phạm, không bắt nhầm người vô tội. Mặt khác, nó góp phần tích cực vào việc đấu tranh phòng ngừa tội phạm, giáo dục cho công dân có ý thức tuân theo pháp luật. Để thực hiện được nhiệm vụ tư pháp, những người làm việc trong các cơ quan tư pháp phải nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của Nhà nước quy định về công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Mọi hành vi làm trái quy định của pháp luật ở các lĩnh vực hoạt động tư pháp đều gây cho hoạt động tư pháp không công minh, dẫn đến làm đảo lộn trật tự pháp luật, làm sai lệch cán cân công lý, làm mất uy tín của Đảng và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trước toàn thể nhân dân lao động. Do vậy, khách thể loại của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp chính là sự xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án trong việc bảo vệ quyền lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Nếu như tư pháp là những công việc bảo vệ pháp luật, thì hoạt động tư
  • 38. 31 pháp, không có gì khác là hoạt động bảo vệ pháp luật, trong đó hoạt động xét xử của Tòa án được thừa nhận là nơi biểu hiện tập trung nhất quyền tư pháp trong một quốc gia. Thế nhưng, hoạt động tư pháp lại phụ thuộc vào tổ chức hoạt động của bộ máy Nhà nước tại mỗi quốc gia. Hoạt động tư pháp ở Nhà nước ta không chỉ là hoạt động của Tòa án, mà còn là hoạt động của những cơ quan Nhà nước khác, các tổ chức được Nhà nước cho phép thành lập nhằm thực hiện các công việc liên quan trực tiếp đến hoạt động xét xử của Tòa án. Theo Điều 292 Bộ luật hình sự năm 1999 thì hoạt động tư pháp là hoạt động của các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Như vậy, khách thể loại của hoạt động tư pháp là sự hoạt động bình thường, đúng đắn của các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án và những hoạt động có liên quan hoặc hỗ trợ cho việc xét xử của Tòa án. Hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án là những hoạt động giải quyết vụ án hình sự theo quy định của pháp luật về tư pháp, có nghĩa là những hoạt động tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án nói chung. Những hoạt động này là những hoạt động của toà án khi xét xử các vụ án (hình sự, dân sự, kinh tế, lao động v.v… tại Toà án; các hoạt động của Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát trong giải quyết vụ án hình sự; các hoạt động của cơ quan thi hành án trong việc đưa các bản án, quyết định của toà án (hình sự, dân sự, kinh tế, lao động v.v… ) đã có hiệu lực pháp luật ra thi hành. Khách thể loại của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người trong các cơ quan tiến hành tố tụng là nhóm những quan hệ xã hội liên quan đến hoạt động tư pháp. Khách thể trực tiếp của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người tiến hành tố tụng được thể hiện trong từng điều luật cụ thể về những tội phạm cụ thể: - Đối với tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội (Điều 293 BLHS), khách thể trực tiếp của tội phạm này thể hiện ở chỗ xâm phạm vào những quy định về truy cứu trách nhiệm hình sự. Tại Điều 2 BLHS quy định:
  • 39. 32 Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Để xác định một người phải chịu trách nhiệm hình sự cần phải qua quá trình khởi tố, điều tra thu thập chứng cứ chứng minh họ phạm tội. Điều 126 Bộ luật tố tụng hình (BLTTHS) quy định, khi có đủ căn cứ để xác định một người đã thực hiện hành vi phạm tội thì Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị can. Căn cứ để xác định một người đã thực hiện hành vi phạm tội phải dựa vào những chứng cứ có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự quy định xác định có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và chứng cứ này phải được thể hiện bằng, hoặc là vật chứng; hoặc là lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người khác đã bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; hoặc là kết luận giám định; hoặc biên bản về hoạt động điều tra và các tài liệu, đồ vật khác. Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh một người đã thực hiện tội phạm mà những người có thẩm quyền trong cơ quan điều tra, kiểm sát (Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát) vẫn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với họ chính là sự xâm phạm vào những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về việc truy cứu trách nhiệm hình sự. - Khách thể trực tiếp của tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội (Điều 294 BLHS) cũng là sự xâm phạm vào những quy định về truy cứu trách nhiệm hình sự. Điều 126 BLTTHS quy định, khi có đủ căn cứ để xác định một người đã thực hiện hành vi phạm tội thì Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị can. Trong trường hợp này, người có thẩm quyền trong Cơ quan điều tra phải khởi tố bị can và tiến hành các hoạt động điều tra đối với họ để buộc họ phải chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, người có thẩm quyền này (Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát) phải khởi tố bị can để điều tra. Nhưng họ đã không khởi tố đối với
  • 40. 33 người đã có đủ chứng cứ buộc tội, có nghĩa họ đã không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có tội. Điều này là sự xâm phạm vào hoạt động đúng đắn của các cơ quan tư pháp khi thực thi công vụ. - Khách thể trực tiếp của tội ra bản án trái pháp luật (Điều 295 BLHS), Tội ra quyết định trái pháp luật (Điều 296 BLHS) là sự xâm phạm vào hoạt động của cơ quan xét xử khi ra bản án. Tùy thuộc vào từng vụ án được đưa ra xét xử là vụ án hình sự, hay vụ án dân sự, hành chính, pháp luật tố tụng quy định cụ thể về quy trình đưa ra bản án. Ví dụ, Điều 224 BLTTHS quy định, Toà án ra bản án nhân danh nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong bản án cần phải ghi rõ: ngày, giờ, tháng, năm và địa điểm phiên toà; họ tên của các thành viên Hội đồng xét xử và Thư ký Toà án; họ tên của Kiểm sát viên; họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi sinh, nơi cư trú, nghề nghiệp, trình độ văn hóa, thành phần xã hội, tiền án, tiền sự của bị cáo; ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam; họ tên, tuổi, nghề nghiệp, nơi sinh, nơi cư trú của người đại diện hợp pháp của bị cáo; họ tên của người bào chữa; họ tên, tuổi, nghề nghiệp, nơi cư trú của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp của họ. Trong bản án phải trình bày việc phạm tội của bị cáo, phân tích những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định không có tội, xác định bị cáo có phạm tội hay không và nếu bị cáo phạm tội thì phạm tội gì, theo điều, khoản nào của Bộ luật hình sự, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và cần phải xử lý như thế nào. Nếu bị cáo không phạm tội thì bản án phải ghi rõ những căn cứ xác định bị cáo không có tội và phải giải quyết việc khôi phục danh dự, quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Phần cuối cùng của bản án ghi những quyết định của Toà án và quyền kháng cáo đối với bản án. Tuy nhiên, việc đưa ra bản án hình sự đã không theo đúng quy định này như trong bản án phải trình bày việc phạm tội của bị cáo, không phân tích những chứng cứ xác định có tội, không xác định bị cáo có phạm tội hay không mà vẫn đưa ra bản án kết tội v.v....
  • 41. 34 - Khách thể trực tiếp đối với Tội dùng nhục hình (Điều 298); Tội bức cung (Điều 299) là sự xâm phạm vào hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra truy tố, xét xử trong việc lấy lời khai thẩm vấn người bị thẩm vấn. Pháp luật tố tụng hình sự đã quy định rõ việc nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình (Điều 6 BLTTHS). Do vậy, truy bức, dùng nhục hình trong hoạt động tư pháp là vi phạm pháp luật. - Khách thể trực tiếp Tội làm sai lệch hồ sơ vụ án (Điều 300) là sự xâm phạm vào hoạt động đúng của các cơ quan tư pháp trong việc thiết lập, giữ gìn, bảo quản những tài liệu có trong hồ sơ vụ án để phục vụ cho việc giải quyết đúng đắn vụ án. - Khách thể trực tiếp của Tội tha trái pháp luật người đang bị giam giữ (Điều 302); Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn giam giữ người trái pháp luật (Điều 303) là những quy định của pháp luật liên quan đến tạm giữ, tạm giam đối với người bị tạm giữ, tạm giam. Việc tạm giam, tạm giữ đối với một người phải dựa trên những căn cứ mà pháp luật tố tụng hình sự quy định tại các điều 86, 88 BLTTHS chứ không thể tùy tiện trong việc giam giữ một người bị nghi thực hiện tội phạm. Tuy nhiên, do đề tài của luận văn chỉ đề cập đến các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người trong các cơ quan tiến hành tố tụng nên chỉ đề cập đến khách thể loại của nhóm tội phạm này mà không đi sâu phân tích toàn bộ khách thể trực tiếp của từng tội phạm. Thứ hai, mặt khách quan của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người trong các cơ quan tiến hành tố tụng. Mặt khách quan của tội phạm nói chung thể hiện bằng hành vi, hậu quả, mối quan hệ nhân quả của hành vi và hậu quả. Những hành vi của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người trong các cơ quan tiến hành tố tụng thể hiện bằng các hành động cụ thể khác nhau, tùy thuộc vào từng tội danh, bao gồm:
  • 42. 35 - Hành vi truy cứu trách nhiệm hình sự người mà mình biết rõ là không có tội (Điều 293); hành vi không truy cứu trách nhiệm hình sự người mà mình biết rõ là có tội (Điều 294) là những hành vi liên quan đến việc truy cứu trách nhiệm hình sự. Đối với hành vi truy cứu trách nhiệm hình sự người mà mình biết rõ là không có tội (Điều 293), như hướng dẫn áp dụng một số quy định trong Phần Các tội phạm Bộ luật hình sự, tại Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 29/11/1986 [25], được thể hiện ở các hành vi như khởi tố bị can, quy trách nhiệm hình sự của một người trong báo cáo kết thúc điều tra hoặc truy tố một người về một tội mà người đó trên thực tế không thực hiện hoặc họ có vi phạm pháp luật mà rõ ràng chỉ đáng xử lý hành chính. Hành vi tố tụng nói trên được thể hiện bằng quyết định khởi tố, báo cáo kết thúc điều tra chuyển Viện kiểm sát truy tố hoặc cáo trạng. Trên cơ sở hướng dẫn như trên đối với hành vi truy cứu trách nhiệm hình sự người mà mình biết rõ là không có tội, có thể hiểu hành vi không truy cứu trách nhiệm hình sự người mà mình biết rõ là có tội (Điều 294) là không khởi tố bị can, không quy trách nhiệm hình sự của một người trong báo cáo kết thúc điều tra hoặc không truy tố một người về một tội mà người đó trên thực tế đã thực hiện một cách rõ ràng. Hành vi tố tụng nói trên được thể hiện bằng không ra quyết định khởi tố bị can, không buộc tội họ trong báo cáo kết thúc điều tra, không chuyển Viện kiểm sát truy tố bằng bản cáo trạng. - Hành vi ra bản án mà mình biết rõ là trái pháp luật (Điều 295), hành vi ra quyết định mà mình biết rõ là trái pháp luật (Điều 296), như hướng dẫn áp dụng một số quy định trong Phần Các tội phạm Bộ luật hình sự tại Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 29/11/1986, là những hành vi ra bản án hoặc quyết định trái pháp luật về hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, lao động trong các giai đoạn tố tụng sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm, thi hành án. Tính chất trái pháp luật được thể hiện ở nội dung bản án, quyết định (như kết án người rõ ràng không có tội; tuyên không có tội đối với người rõ ràng là có tội; truất quyền thừa
  • 43. 36 kế, quyền sở hữu của công dân không có căn cứ hợp pháp; đình chỉ tố tụng không có căn cứ...). Bản án hoặc quyết định có thể sai toàn bộ hoặc sai một phần mà phần sai này rõ ràng là trái pháp luật [25]. - Hành vi dùng nhục hình trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử (Điều 298), hành vi bằng các thủ đoạn trái pháp luật buộc người bị thẩm vấn phải khai sai sự thật (Điều 299) là những hành vi buộc người bị thẩm vấn phải khai sai sự thật. Đối với hành vi dùng nhục hình, như hướng dẫn áp dụng một số quy định trong Phần Các tội phạm Bộ luật hình sự tại Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 29/11/1986, là tra tấn, đánh đập hoặc thủ đoạn khác (bắt nhịn đói, nhịn khát, ăn cơm nhạt, không cho ngủ...) gây đau đớn về thể xác, gây tổn hại về sức khỏe người bị điều tra, bị truy tố, bị xét xử, bị thi hành án. Đối với hành vi bức cung (bằng các thủ đoạn trái pháp luật buộc người bị thẩm vấn phải khai sai sự thật) thể hiện bằng việc đe dọa dùng nhục hình, dọa giam họ với người bị HIV, với bọn đầu gấu trong trại tạm giam, hoặc dọa giam người thân của họ, ép buộc họ khai theo ý của người thẩm vấn, xét hỏi v.v... [25]. - Hành vi tha trái pháp luật người đang bị giam giữ (Điều 302), hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn giam giữ người trái pháp luật (Điều 303) là những hành vi liên quan đến việc lợi dụng chức vụ quyền hạn hoặc lạm quyền tha trái pháp luật người đang bị giam (ra lệnh tha không có căn cứ pháp luật v.v...) hoặc không ra quyết định, hoặc không chấp hành quyết định trả tự do cho người được trả tự do theo quy định của pháp luật (không ra lệnh tha người đã hết hạn giam, tạm giam, hoặc được miễn giảm chấp hành hình phạt v.v...). - Hành vi làm sai lệch hồ sơ vụ án (Điều 300) là những hành vi thêm, bớt, sửa đổi, đánh tráo, huỷ, làm hư hỏng các tài liệu, vật chứng của vụ án hoặc bằng các thủ đoạn khác nhằm làm sai lệch nội dung hồ sơ vụ án, như hướng dẫn áp dụng một số quy định trong Phần Các tội phạm Bộ luật hình sự tại Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 29/11/1986, ví dụ, làm thay đổi lời khai của người làm chứng,
  • 44. 37 rút bớt giấy chứng thương, thay đổi vật chứng làm cho người có tội thành không có tội hay ngược lại, hoặc làm cho tội nặng thành tội nhẹ hoặc ngược lại. Trong các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà chủ thể là người trong các cơ quan tiến hành tố tụng, dấu hiệu hậu quả là bắt buộc hay không bắt buộc tùy thuộc vào từng tội phạm cụ thể. Đối với các tội: Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội (Điều 293 BLHS); Tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội (Điều 294 BLHS); Tội ra bản án trái pháp luật (Điều 295 BLHS); Tội dùng nhục hình (Điều 298 BLHS); Tội làm sai lệch hồ sơ vụ án (Điều 300 BLHS); Tội tha trái pháp luật người đang bị giam giữ (Điều 302 BLHS); Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn giam giữ người trái pháp luật (Điều 303 BLHS) không cần phải gây hậu quả cũng đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Các tội phạm này có cấu thành hình thức, có nghĩa khi có hành vi được mô tả trong điều luật của Bộ luật hình sự cũng đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Ví dụ, Điều 294 BLHS quy định: Người nào có thẩm quyền mà không truy cứu trách nhiệm hình sự người mà mình biết rõ là có tội, là đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng, hậu quả rất nghiêm trọng hoặc hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì nằm ở khung cấu thành tội phạm tăng nặng. Ví dụ, khoản 2, khoản 3 Điều 294 BLHS quy định: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm: Không truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội đặc biệt nghiêm trọng; Gây hậu quả nghiêm trọng. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười hai năm. Đối với tội ra quyết định trái pháp luật (Điều 296 BLHS); Tội bức cung (Điều 299 BLHS), trong cấu thành cơ bản đòi hỏi phải có hậu quả nghiêm trọng. Trong trường hợp chưa gây hậu quả nghiêm trọng thì không cấu thành tội phạm này. Trong trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc gây hậu quả đặc biệt