SlideShare a Scribd company logo
1 of 123
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGŨ THỊ NHƢ HOA
NGUY£N T¾C TR¸CH NHIÖM CUNG CÊP TµI LIÖU, CHøNG Cø
CñA C¸ NH¢N, C¥ QUAN, Tæ CHøC Cã THÈM QUYÒN
TRONG Tè TôNG D¢N Sù
Chuyên ngành: Luật dân sự
Mã số: 60 38 30
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN ANH TUẤN
HÀ NỘI - 2014
Lêi cam ®oan
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn
đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành
tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính
theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Ngũ Thị Nhƣ Hoa
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC
TRÁCH NHIỆM CUNG CẤP TÀI LIỆU, CHỨNG CỨ CỦA
CÁ NHÂN, CƠ QUAN, TỔ CHỨC CÓ THẨM QUYỀN
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ .............................................................. 7
1.1 Khái niệm và ý nghĩa của nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài
liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ................ 7
1.1.1 Khái niệm nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của
cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền............................................... 7
1.1.2 Ý nghĩa của nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ
của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ...................................... 13
1.2 Cơ sở của nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của
cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền............................................. 15
1.3 Sự hình thành và phát triển của nguyên tắc trách nhiệm cung cấp
tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam.............................................. 25
1.4 Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân,
cơ quan, tổ chức theo pháp luật tố tụng dân sự của một số nƣớc
trên thế giới........................................................................................... 36
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1................................................................................ 41
Chƣơng 2: NỘI DUNG NGUYÊN TẮC TRÁCH NHIỆM CUNG
CẤP TÀI LIỆU, CHỨNG CỨ CỦA CÁ NHÂN, CƠ QUAN,
TỔ CHỨC CÓ THẨM QUYỀN THEO PHÁP LUẬT TỐ
TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH..................................... 42
2.1 Trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong
việc cung cấp đầy đủ tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của đƣơng
sự, Toà án, Viện kiểm sát ..................................................................... 42
2.1.1 Xác định các loại tài liệu, chứng cứ mà các cá nhân, cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền có trách nhiệm cung cấp trong các vụ việc
dân sự.................................................................................................... 43
2.1.2. Về phạm vi trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân,
cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ........................................................... 55
2.2 Trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong
việc cung cấp tài liệu, chứng cứ đúng thời hạn theo yêu cầu của
đƣơng sự, Toà án, Viện kiểm sát .......................................................... 58
2.3 Trách nhiệm pháp lý của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
trong việc không cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ, không
đúng thời hạn các tài liệu, chứng cứ..................................................... 65
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2................................................................................ 74
Chƣơng 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC TRÁCH
NHIỆM CUNG CẤP TÀI LIỆU, CHỨNG CỨ CỦA CÁ
NHÂN, CƠ QUAN, TỔ CHỨC CÓ THẨM QUYỀN VÀ
KIẾN NGHỊ......................................................................................... 76
3.1 Thực tiễn thực hiện nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu,
chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ...................... 76
3.2 Một số kiến nghị về nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu,
chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong tố
tụng dân sự.......................................................................................... 100
3.2.1 Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về nguyên tắc trách nhiệm cung cấp
tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền........... 101
3.2.2. Kiến nghị về thực hiện nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu,
chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền .................... 106
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ............................................................................... 112
KẾT LUẬN CHUNG.................................................................................... 113
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................... 114
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLTTDS : Bộ luật tố tụng dân sự
BKH&CN : Bộ Khoa học và công nghệ
BTP : Bộ Tƣ pháp
BVHTT&DL : Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch
DN : Doanh nghiệp
DANIDA : Cơ quan hợp tác và phát triển quốc tế của
Chính phủ Đan Mạch
GĐT, TT : Giám đốc thẩm, tái thẩm
HĐTPTANDTC : Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao
TP : Thành phố
TTDS : Tố tụng dân sự
TAND : Tòa án nhân dân
TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao
UBND : Ủy ban nhân dân
UBTVQH : Ủy ban thƣờng vụ quốc hội
UNDP : Chƣơng trình phát triển của Liên Hợp Quốc
VADS : Vụ án dân sự
VVDS : Vụ việc dân sự
VKSND : Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xã hội là hệ thống các quan hệ đa dạng và phức tạp. Quyền và lợi ích
của các chủ thể là vấn đề quan trọng, là động lực để các chủ thể tham gia vào
các quan hệ xã hội. Tuy ở những mức độ khác nhau nhƣng pháp luật các nƣớc
trên thế giới đều công nhận và bảo hộ các quyền, lợi ích chính đáng của các
chủ thể. Khi tham gia vào các quan hệ xã hội các chủ thể phải thực hiện đúng
các quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Việc một chủ thể
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ quyền, nghĩa vụ
của mình có thể xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác,
dẫn đến tranh chấp. Để duy trì trật tự xã hội, Nhà nƣớc phải thiết lập cơ chế
pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Một trong số đó là cơ
chế về tố tụng.
Hiện nay, Việt Nam đang đứng trƣớc những cơ hội và thách thức của
tiến trình hội nhập, một tiến trình không thể đảo ngƣợc trên con đƣờng phát
triển đất nƣớc. Việc gia nhập vào tổ chức thƣơng mại thế giới, tham gia vào
các công ƣớc quốc tế, ký kết nhiều hiệp định song phƣơng và đa phƣơng với
các nƣớc, thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài đã làm cho các giao lƣu dân sự, thƣơng
mại phát triển một cách mạnh mẽ và đa dạng.
Để đảm bảo cho sự phát triển lành mạnh của các quan hệ dân sự, quan
hệ thƣơng mại đó đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh nó.
Bên cạnh việc hoàn thiện pháp luật nội dung thì việc hoàn thiện pháp luật tố
tụng cũng là một nhu cầu rất cần thiết để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của các chủ thể trong trƣờng hợp có tranh chấp hoặc bị xâm phạm. Một cơ
chế tố tụng có hiệu quả có vai trò rất quan trọng để các chủ thể yên tâm và,
hơn nữa, thúc đẩy họ tham gia tích cực vào các giao lƣu dân sự, thƣơng mại
2
trên thị trƣờng góp phần thúc đẩy kinh tế tăng trƣởng, xã hội phát triển. Chính
vì vậy, Bộ luật tố tụng dân sự 2004 đã ra đời với nhiều điểm mới cả về nội
dung và hình thức khắc phục kịp thời những hạn chế tồn tại của pháp lệnh thủ
tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 đáp ứng tích cực yêu cầu của quá
trình hội nhập. Bộ luật tố tụng dân sự 2004 với nội dung phong phú quy định
khá cụ thể những vấn đề liên quan đến hoạt động tƣ pháp của nƣớc ta hiện
nay, trong đó vấn đề chứng cứ trong tố tụng dân sự đƣợc quan tâm sửa đổi
khá nhiều, với nhiều điểm mới quan trọng giúp cho việc thu thập, sử dụng,
đánh giá chứng cứ của các thẩm phán cũng nhƣ những ngƣời tiến hành tố
tụng khác đƣợc khách quan và đúng đắn hơn, góp phần giải quyết các vụ việc
dân sự một cách đúng đắn, triệt để, đáp ứng lòng tin của nhân dân đối với
pháp luật. Một trong số những vấn đề liên quan đến chứng cứ đã đƣợc sửa
đổi, bổ sung là trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức
có thẩm quyền trong tố tụng dân sự. Đây đƣợc coi là một nội dung có nhiều
điểm mới tiến bộ so với pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự trƣớc
đây và đƣợc quy định là một trong những nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng
dân sự hiện hành. Trên thực tế, đôi khi chứng cứ có thể không do các đƣơng
sự lƣu giữ mà do các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác lƣu giữ, quản lý. Việc
quy định trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức giúp
cho đƣơng sự có thể thực hiện đƣợc quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ
của mình, đồng thời góp phần giúp cho Tòa án giải quyết các vụ việc dân sự
một cách đúng đắn, chính xác và nhanh chóng. Nhƣ vậy, nguyên tắc này ra
đời đã thể hiện đƣợc vai trò to lớn của nó đối với hoạt động xét xử của Tòa
án, tuy nhiên, thực tế thi hành vẫn còn một số vƣớng mắc nhất định. Chính vì
vậy, việc nghiên cứu về nguyên tắc trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá
nhân, cơ quan, tổ chức là rất cần thiết. Với những lý do trên, em đã chọn đề
tài “Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ
3
quan, tổ chức có thẩm quyền trong tố tụng dân sự” làm luận văn tốt nghiệp
thạc sỹ của mình.
2. Mục đích và phạm vi nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ những vấn đề lý luận cũng
nhƣ nội dung các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành
về nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan,
tổ chức có thẩm quyền, chỉ ra những điểm còn thiếu sót hoặc chƣa hợp lý
trong các quy định hiện hành về nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu,
chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Ngoài ra việc nghiên cứu cũng nhằm
chỉ ra một số vƣớng mắc, khó khăn trên thực tế khi thực hiện nguyên tắc trách
nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền, từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật đồng thời
nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng
cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trên thực tế.
- Phạm vi nghiên cứu:
Với mục đích nghiên cứu trên, Luận văn tập trung nghiên cứu về pháp
luật hiện hành và thực tiễn thực hiện nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu,
chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền tại một số Tòa án địa
phƣơng. Tuy nhiên, một số vấn đề lý luận cơ bản về nguyên tắc trách nhiệm
cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cũng
đƣợc tiến hành nghiên cứu nhằm tạo cơ sở cho việc đánh giá luật thực định và
đề xuất kiến nghị. Ngoài ra, Luận văn có mở rộng nghiên cứu quy định của
pháp luật một số nƣớc về trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân,
cơ quan, tổ chức trong tố tụng dân sự. Tuy nhiên, việc nghiên cứu chỉ nhằm
mục đích so sánh, tham khảo mà không nghiên cứu sâu quy định về trách
nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong tố tụng
4
dân sự của Tòa án nƣớc ngoài. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài sẽ đƣợc giới
hạn trong phạm vi sau đây:
- Nghiên cứu khái niệm, ý nghĩa và cơ sở hình thành nguyên tắc trách
nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền trong tố tụng dân sự.
- Nghiên cứu lƣợc sử pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về nguyên
tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức
có thẩm quyền trong tố tụng dân sự và so sánh, tham khảo pháp luật một số
nƣớc trên thế giới.
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về nguyên tắc trách
nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền trong tố tụng dân sự. Để làm rõ vấn đề này, bên cạnh việc nghiên cứu
các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành, Luận văn còn
nghiên cứu quy định của một số ngành luật nội dung để làm rõ trách nhiệm
cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Tuy nhiên,
trong khuôn khổ của Luận văn này, tác giả chỉ giới hạn việc nghiên cứu quy
định của một số ngành luật nội dung có liên quan đến việc quản lý, lƣu giữ
chứng cứ, tài liệu của các cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền điều chỉnh
một số quan hệ xã hội mang tính chất phổ biến, thƣờng gặp trong thực tiễn tố
tụng tại Toà án.
- Nghiên cứu tình hình thực hiện nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài
liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trên thực tế, từ đó
rút ra những vƣớng mắc, khó khăn và đề xuất giải pháp khắc phục.
3. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về tố tụng dân
sự nhƣ Công trình nghiên cứu khoa học cấp Nhà nƣớc của Toà án nhân dân
tối cao năm 1996 nghiên cứu về “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Bộ luật
5
tố tụng dân sự”; Công trình nghiên cứu khoa học cấp cơ sở của trƣờng Đại
học Luật Hà Nội 2001 nghiên cứu về “Cơ sở khoa học của việc hoàn thiện
một số chế định cơ bản của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam”… Bên cạnh
những công trình đó, cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề chứng
cứ, chứng minh trong tố tụng dân sự, nhƣ Luận văn “Chứng cứ và hoạt động
chứng minh trong tố tụng dân sự” của Thạc sỹ Vũ Trọng Hiếu năm 1997;
Luận văn “Hoạt động cung cấp và thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự
Việt Nam” của thạc sỹ Nguyễn Minh Hằng năm 2002; Luận án tiến sĩ Luật
học của Nguyễn Minh Hằng năm 2007 nghiên cứu về “Chế định chứng minh
trong tố tụng dân sự Việt Nam”… Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chƣa có một
công trình nào nghiên cứu về nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng
cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Có thể nói đây là công trình
đầu tiên tiếp cận nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này ở cấp độ thạc sỹ.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Dựa trên quan điểm, quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, tôn trọng sự thật khách quan của sự vật hiện tƣợng,
xem xét vấn đề một cách một cách toàn diện.
- Sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu chuyên ngành nghiên cứu
chuyên sâu các vấn đề dƣới góc độ pháp luật nhƣ phƣơng pháp phân tích,
tổng hợp, so sánh.
5. Đóng góp của đề tài
Luận văn là công trình nghiên cứu có hệ thống về nguyên tắc trách
nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền trong tố tụng dân sự - có thể coi là công trình đầu tiên tiếp cận nghiên
cứu chuyên sâu về vấn đề này ở cấp độ thạc sỹ, cụ thể là:
Thứ nhất: Lần đầu tiên nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu,
chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong tố tụng dân sự
6
đƣợc nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện cả về cơ sở lý luận cũng
nhƣ thực tiễn từ khái niệm, ý nghĩa, cơ sở hình thành và lƣợc sử phát triển của
nguyên tắc, làm bật bản chất và trọng tâm của vấn đề nghiên cứu. Luận văn
cũng đã tiếp cận và làm rõ đƣợc trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong
việc cung cấp đầy đủ, đúng thời hạn tài liệu, chứng cứ mà mình đang quản lý, lƣu
giữ, đồng thời làm rõ các trách nhiệm pháp lý có thể đƣợc áp dụng khi cá nhân, cơ
quan, tổ chức không thực hiện trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của mình.
Thứ hai: Quá trình nghiên cứu đề tài đã tìm ra đƣợc những tồn tại, bất cập
trong công tác xây dựng và thực tiễn thực hiện nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài
liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Từ đó đƣa ra những đề
xuất, kiến nghị để góp phần vào việc hoàn thiện các quy định của pháp luật cũng
nhƣ tăng cƣờng hiệu quả thực hiện nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng
cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trên thực tế.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
đƣợc kết cấu bởi 3 chƣơng:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về nguyên tắc trách nhiệm cung
cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong tố
tụng dân sự.
Chương 2: Nội dung nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng
cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền theo pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam hiện hành.
Chương 3: Thực tiễn thực hiện nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài
liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền và kiến nghị.
7
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC TRÁCH NHIỆM
CUNG CẤP TÀI LIỆU, CHỨNG CỨ CỦA CÁ NHÂN, CƠ QUAN,
TỔ CHỨC CÓ THẨM QUYỀN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1 KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA NGUYÊN TẮC TRÁCH
NHIỆM CUNG CẤP TÀI LIỆU, CHỨNG CỨ CỦA CÁ NHÂN, CƠ QUAN,
TỔ CHỨC CÓ THẨM QUYỀN
1.1.1 Khái niệm nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng
cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
Theo cách hiểu chung nhất, nguyên tắc là một thuật ngữ dùng để chỉ
“những quy định, phép tắc, tiêu chuẩn làm cơ sở, chỗ dựa để xem xét, làm
việc” [48, tr.1217]. Theo đó, nguyên tắc của một ngành luật cũng đƣợc xây
dựng dựa trên nền tảng này. Pháp luật của các nhà nƣớc nói chung và pháp
luật Việt Nam nói riêng đều đƣợc thiết lập dựa trên những nguyên tắc nhất
định, đó là những tƣ tƣởng pháp lý chỉ đạo có tính chất xuất phát điểm, thể
hiện sự toàn diện và có ý nghĩa bao quát, quyết định sự đúng đắn về nội dung,
chất lƣợng và hiệu quả của pháp luật, cũng nhƣ quá trình xây dựng, thực hiện
và bảo vệ pháp luật.
Việc xây dựng các quy định cụ thể của pháp luật tố tụng dân sự và thực
tiễn tố tụng dân sự tại Toà án cũng phải trên cơ sở những nguyên tắc nhất
định. Đó là những quy phạm chỉ đạo, mang tính chất cơ sở, nền tảng cho toàn
bộ quy trình TTDS. Các quy phạm này là một bộ phận cấu thành của pháp
luật TTDS, có tính ổn định, bền vững, ít thay đổi hơn so với các quy phạm
pháp luật TTDS khác. Tuy nhiên, sự ổn định đó chỉ mang tính chất tƣơng đối
và có thể thay đổi cho phù hợp hơn với các điều kiện kinh tế - xã hội.
Vấn đề chứng minh và chứng cứ là những vấn đề có tính quan trọng
8
hàng đầu trong việc xác định sự thật khách quan, bảo vệ quyền lợi hợp pháp
của các đƣơng sự. Do vậy, pháp luật ngoài việc phải định ra các nguyên tắc về
cung cấp chứng cứ và chứng minh (mối quan hệ giữa đƣơng sự và Toà án)
cũng cần phải xây dựng bên cạnh đó nguyên tắc về trách nhiệm cung cấp
chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền (mối quan hệ phối hợp
giữa Toà án và các chủ thể khác) nhằm tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động tố
tụng dân sự của Toà án đƣợc tiến hành thuận lợi.
Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền trong tố tụng dân sự là một trong những nguyên
tắc cơ bản trong TTDS đã đƣợc ghi nhận tại Điều 7 Bộ luật tố tụng dân sự
2004 và đƣợc sửa đổi, bổ sung tại khoản 1 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2011. Đây là một nguyên tắc mới
đƣợc đƣa vào trong pháp luật tố tụng dân sự, do vậy, việc nghiên cứu, tìm
hiểu nhằm làm rõ bản chất của nguyên tắc này và mối liên hệ của nó với
nguyên tắc chứng minh trong tố tụng dân sự là rất cần thiết.
Về ngôn ngữ học, theo Từ điển Tiếng Việt thì thuật ngữ “trách
nhiệm” đƣợc hiểu là “điều phải làm, phải gánh vác hoặc phải nhận lấy về
mình” [48, tr.1678]. Dƣới góc nhìn lý luận thì Toà án chỉ có thể giải quyết
đúng đắn các vụ việc dân sự khi có đầy đủ chứng cứ để làm sáng tỏ các tình
tiết, sự kiện có liên quan. Do vậy, chứng cứ có một vai trò, ý nghĩa rất quan
trọng trong tố tụng dân sự và việc xây dựng các quy phạm pháp luật điều
chỉnh hoạt động cung cấp, thu thập chứng cứ của Toà án là rất cần thiết.
Theo lịch sử tố tụng dân sự từ trƣớc đến nay, nghĩa vụ cung cấp chứng
cứ và chứng minh trƣớc hết luôn thuộc về đƣơng sự. Bởi họ là ngƣời đƣa ra
yêu cầu hoặc là chủ thể của quan hệ pháp luật tranh chấp, họ là ngƣời trong
cuộc, biết rõ nguyên nhân, điều kiện phát sinh tranh chấp, biết rõ các tài liệu,
chứng cứ liên quan đến vụ việc của mình có những gì và đang ở đâu. Bên
9
cạnh đó, khi khởi kiện cũng nhƣ khi đƣa ra yêu cầu phản tố, bao giờ đƣơng sự
cũng là ngƣời ở thế chủ động, vì vậy họ phải đƣa ra chứng cứ và những lý lẽ
để chứng minh, bảo vệ cho quyền lợi của mình. Đƣơng sự phản đối yêu cầu
cũng phải đƣa ra đƣợc chứng cứ, lý lẽ chứng minh thì sự phản đối của họ mới
thuyết phục đƣợc Toà án. Tuy nhiên, trên thực tế, chứng cứ của vụ việc dân
sự có thể do các đƣơng sự lƣu giữ, nhƣng cũng có thể do các cá nhân, cơ
quan, tổ chức khác lƣu giữ. Xét thực tiễn ở Việt Nam, do nhiều nguyên nhân
khác nhau, việc phổ cập các thông tin, đặc biệt là các tài liệu, giấy tờ liên
quan đến quyền sở hữu nhà ở, quyền tài sản, quyền sử dụng đất… vẫn còn
hạn chế; các tài liệu, giấy tờ, văn bản này hiện đang do một số cơ quan nhà
nƣớc có trách nhiệm bảo quản, quản lý và vì nhiều lý do khác nhau các thông
tin này vẫn chƣa đƣợc số hoá để công khai cho mọi tầng lớp nhân dân. Do
vậy, đƣơng sự sẽ không thực hiện đƣợc việc bảo vệ quyền lợi của mình và
Toà án sẽ không thể giải quyết vụ án nếu những cá nhân, cơ quan, tổ chức này
không hợp tác hoặc chậm trễ trong việc cung cấp những tài liệu, giấy tờ, văn
bản có liên quan đến vụ việc dân sự.
Chính vì vậy, pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, một mặt đề cao
trách nhiệm chứng minh của đƣơng sự với vai trò hỗ trợ của Toà án nhằm
phát huy hơn nữa vai trò tích cực, chủ động của đƣơng sự trong việc bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của mình, mặt khác ràng buộc trách nhiệm của các
cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong việc tạo điều kiện thuận lợi
để đƣơng sự và Toà án có thể tiếp cận tài liệu, chứng cứ một cách công khai,
bình đẳng và minh bạch.
Việc nghiên cứu cho thấy trong tố tụng dân sự, trách nhiệm cung cấp
tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đƣợc quy định
là một nguyên tắc cơ bản của luật TTDS. Tuy nhiên, trong tố tụng hình sự,
trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức chƣa đƣợc quy
10
định là một trong những nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự. Điều 65
Bộ luật tố tụng hình sự 2003 chỉ quy định chung là:
Để thu thập chứng cứ, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà
án có quyền triệu tập những ngƣời biết về vụ án để hỏi và nghe họ
trình bày về những vấn đề có liên quan đến vụ án, trƣng cầu giám
định, tiến hành khám xét, khám nghiệm và các hoạt động điều tra
khác theo quy định của Bộ luật này; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá
nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, trình bày những tình tiết làm sáng tỏ
vụ án…[19]
Nhƣ vậy, pháp luật tố tụng hình sự mới chỉ quy định một cách chung
chung về quyền yêu cầu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án mà
không quy định về trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức khi không thực
hiện yêu cầu này.
Để có thể đƣa ra khái niệm đầy đủ về nguyên tắc trách nhiệm cung cấp
tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong tố tụng
dân sự, trƣớc hết cần làm rõ nội hàm chủ yếu, cơ bản của nguyên tắc này. Có
thể nhận thấy hai vấn đề cần phải đặt ra là trách nhiệm cung cấp chứng cứ, tài
liệu với ai và trách nhiệm nhƣ thế nào.
Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự nếu thấy chứng cứ mà đƣơng
sự giao nộp chƣa đủ cơ sở để giải quyết, Toà án có thể giải thích cho đƣơng
sự biết về quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đang lƣu
giữ chứng cứ, tài liệu cung cấp chứng cứ, tài liệu. Đƣơng sự sẽ là chủ thể đầu
tiên có quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lƣu giữ chứng cứ, tài
liệu cung cấp chứng cứ, tài liệu cho mình. Bởi trong tố tụng dân sự, đƣơng sự
là chủ thể có nghĩa vụ chứng minh và cung cấp chứng cứ. Những chứng cứ có
liên quan đến vụ việc dân sự phải đƣợc đƣơng sự cung cấp cho Toà án để làm
căn cứ chứng minh cho yêu cầu hay sự phản đối yêu cầu của đƣơng sự. Vì
11
vậy, cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lƣu giữ chứng cứ có trách nhiệm cung
cấp chứng cứ, tài liệu cho đƣơng sự để đƣơng sự thực hiện đƣợc nghĩa vụ
cung cấp chứng cứ của mình.
Khi biết chứng cứ (các tài liệu đọc đƣợc, nghe đƣợc, nhìn đƣợc, các vật
chứng) đang do cá nhân, cơ quan, tổ chức quản lý, lƣu giữ thì đƣơng sự có
quyền tự mình yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ. Nếu cá
nhân, cơ quan, tổ chức không cung cấp chứng cứ cho đƣơng sự thì đƣơng sự
có quyền yêu cầu Toà án hỗ trợ trong việc thu thập chứng cứ. Với tƣ cách là
cơ quan bảo vệ công lý, Toà án ra quyết định yêu cầu các chủ thể đang lƣu
giữ chứng cứ, tài liệu cung cấp cho Toà án để làm cơ sở cho việc giải quyết
vụ việc dân sự. Toà án có thể ấn định một thời hạn hợp lý để cá nhân, cơ
quan, tổ chức đang quản lý, lƣu giữ chứng cứ, tài liệu cung cấp cho Toà án.
Bên cạnh quyền yêu cầu của đƣơng sự và Toà án thì Viện kiểm sát cũng
có quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp chứng cứ,
tài liệu. Trong tố tụng dân sự, Viện kiểm sát có hai chức năng, đó là kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong quá trình tố tụng dân sự và kháng nghị theo thủ
tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Quyền yêu cầu cung cấp chứng cứ, tài
liệu cần đƣợc trao cho Viện kiểm sát để chủ thể này thực hiện chức năng kháng
nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm. Theo đó, để đảm bảo
cho việc thực hiện thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc
thẩm và tái thẩm, Viện kiểm sát cũng có quyền yêu cầu đƣơng sự, cá nhân, cơ
quan, tổ chức cung cấp hồ sơ, tài liệu, vật chứng.
Quyền yêu cầu này đƣợc thực hiện trƣớc hết là trong trƣờng hợp Viện
kiểm sát thu thập hồ sơ, tài liệu, vật chứng để bảo đảm thực hiện quyền kháng
nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Ngoài ra, quyền yêu
cầu cung cấp chứng cứ, tài liệu của Viện kiểm sát còn đƣợc thực hiện ngay cả
khi đã kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm, nhằm bảo
12
vệ quan điểm kháng nghị của Viện kiểm sát tại phiên tòa, phiên họp phúc
thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Nhƣ vậy, quyền yêu cầu cung cấp chứng cứ,
tài liệu của Viện kiểm sát có thể thực hiện vào thời điểm xem xét việc kháng
nghị, hoặc cũng có thể thực hiện sau khi đã thực hiện quyền kháng nghị theo
thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm.
Việc cung cấp chứng cứ, tài liệu đƣợc hiểu là việc mà cá nhân, cơ quan,
tổ chức có thẩm quyền buộc phải thực hiện khi đƣợc yêu cầu, nó đƣợc coi là
một nghĩa vụ tố tụng dân sự đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức, nếu không
thực hiện nghĩa vụ thì sẽ phải gánh chịu một hậu quả. Trách nhiệm đó thể
hiện ở việc cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lƣu giữ chứng cứ, tài liệu
phải cung cấp đầy đủ, kịp thời chứng cứ, tài liệu theo yêu cầu của đƣơng sự
để họ có thể cung cấp chứng cứ, tài liệu cho Toà án theo đúng thời hạn luật
định. Đối với Toà án, Viện kiểm sát - là các cơ quan tiến hành tố tụng thì cá
nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lƣu giữ chứng cứ, tài liệu phải cung cấp
đầy đủ, kịp thời chứng cứ, tài liệu trong thời hạn do các chủ thể này ấn định
để bảo đảm cho việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan này.
Pháp luật cũng cần phải đặt ra chế tài đối với trƣờng hợp cá nhân, cơ quan, tổ
chức đang quản lý, lƣu giữ chứng cứ, tài liệu không thực hiện hoặc thực hiện
không tốt nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, tài liệu theo yêu cầu của đƣơng sự,
Toà án, Viện kiểm sát để bảo đảm việc thực hiện trách nhiệm của các chủ thể
này. Tùy theo chủ thể vi phạm hoặc mức độ vi phạm mà hành vi vi phạm có
thể bị xử lý theo chế tài kỷ luật, hành chính hoặc hình sự.
Nhƣ vậy, có thể rút ra kết luận là nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài
liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền là một trong
những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự, xác định trách nhiệm phối hợp
của các cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đang lưu giữ, quản lý chứng
cứ, tài liệu trong việc cung cấp đầy đủ, kịp thời chứng cứ, tài liệu liên quan đến
13
vụ việc dân sự khi có yêu cầu của đương sự, Toà án hoặc Viện kiểm sát đồng
thời xác định trách nhiệm pháp lý của các chủ thể này trong trường hợp không
thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ, kịp thời trách nhiệm của mình.
1.1.2 Ý nghĩa của nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng
cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
Trƣớc hết, có thể nhận thấy rằng việc quy định trách nhiệm cung cấp tài
liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền là một nguyên tắc
cơ bản trong TTDS, đã thể hiện sự quan tâm của nhà lập pháp Việt Nam tới
trách nhiệm phối hợp giữa các công dân, cơ quan hành chính và cơ quan tƣ
pháp trong việc thực hiện nhiệm vụ chung, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động
thu thập chứng cứ của Toà án, Viện kiểm sát đƣợc thuận lợi, giúp cho công
dân nhận thức đƣợc nghĩa vụ tố tụng dân sự của mình mà thực hiện theo đúng
quy định của pháp luật.
Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền còn góp phần tạo cơ sở pháp lý cho đƣơng sự
thực hiện quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ chứng minh. Trong TTDS,
chủ thể có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ là đƣơng sự. Tuy nhiên, trên thực tế,
chứng cứ không phải bao giờ cũng do đƣơng sự nắm giữ, quản lý mà có thể
có trƣờng hợp chứng cứ của vụ việc đang do cá nhân, cơ quan, tổ chức khác
lƣu giữ. Khi đó, để thực hiện đƣợc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Toà án thì
đƣơng sự có quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lƣu giữ chứng cứ
cung cấp chứng cứ đó cho mình. Theo đó, khi chứng cứ do cá nhân, cơ quan,
tổ chức có thẩm quyền lƣu giữ, quản lý thì chủ thể đầu tiên có quyền yêu cầu
cung cấp chứng cứ là đƣơng sự, và chỉ khi đƣơng sự không thể tự mình thu
thập đƣợc thì Toà án mới tiến hành thu thập chứng cứ. Nhƣ vậy, quy định này
đã mang lại ý nghĩa to lớn trong việc giúp đƣơng sự thực hiện đƣợc quyền và
nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của mình, phát huy hơn nữa vai trò chủ động,
14
tích cực của họ trong việc giải quyết tranh chấp vì lợi ích của chính mình, tạo
điều kiện để họ có thể bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Ngoài ý nghĩa với đƣơng sự, nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu,
chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức còn có ý nghĩa trong việc giúp Toà án
có đầy đủ cơ sở để giải quyết đúng đắn, nhanh chóng vụ việc dân sự. Trong
TTDS chứng cứ có vai trò vô cùng quan trọng đối với việc giải quyết vụ việc
dân sự của Toà án, là phƣơng tiện quan trọng để Toà án nhận biết đƣợc sự
thật của vụ việc, giải quyết đƣợc vụ việc dân sự một cách công minh, có căn
cứ và hợp pháp. Khi chứng cứ đƣợc cung cấp cho Toà án một cách trung thực
và đầy đủ, chắc hẳn việc giải quyết vụ án sẽ đơn giản và nhanh chóng hơn rất
nhiều. Vì vậy, khi cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đang lƣu giữ,
quản lý chứng cứ thì chứng cứ đó phải đƣợc cung cấp cho Toà án cho dù họ
không có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến quan hệ pháp luật đang có tranh
chấp. Việc quy định trách nhiệm này sẽ giúp cho Toà án có đầy đủ chứng cứ,
có cơ sở để làm rõ sự thật của vụ việc, và đƣa ra phán quyết cuối cùng một
cách chính xác. Đồng thời, nguyên tắc này cũng quy định việc cung cấp
chứng cứ phải đƣợc thực hiện kịp thời, trong thời hạn luật định. Điều này sẽ
giúp Toà án giải quyết đƣợc nhanh chóng vụ việc dân sự, tránh đƣợc trƣờng
hợp vi phạm thời hạn tố tụng hoặc dẫn đến án tồn đọng do sự chậm trễ cung
cấp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức.
Bên cạnh đó, nguyên tắc nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu,
chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có ý nghĩa hỗ trợ cho Viện kiểm sát
thực hiện tốt chức năng của mình theo quy định của pháp luật TTDS. Nguyên
tắc này đã ghi nhận quyền yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ của Viện kiểm
sát bên cạnh quyền yêu cầu của Toà án. Theo đó, Viện kiểm sát có quyền yêu
cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp tài liệu, chứng cứ cho
mình để xem xét việc có kháng nghị hay không, hoặc khi đã ra quyết định
15
kháng nghị, Viện kiểm sát có quyền yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ để
bảo vệ quan điểm kháng nghị của mình tại phiên tòa, phiên họp giải quyết vụ
việc dân sự. Nhƣ vậy, tài liệu, chứng cứ đƣợc cung cấp có thể là cơ sở để
Viện kiểm sát quyết định có kháng nghị hay không, hoặc nhờ có tài liệu,
chứng cứ đó, quan điểm kháng nghị của Viện kiểm sát mới đƣợc coi là có căn
cứ, là hợp pháp, khi đó mới thuyết phục đƣợc Toà án chấp nhận kháng nghị.
Với vai trò đó của chứng cứ, nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng
cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đã góp phần quan trọng trong
việc giúp Viện kiểm sát thực hiện đƣợc thẩm quyền kháng nghị của mình.
Cuối cùng, nguyên tắc nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng
cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có ý nghĩa trong việc đề cao trách nhiệm của
cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc phối hợp với Toà án giải quyết vụ việc
dân sự. Việc ghi nhận nguyên tắc trách nhiệm cung cấp của cá nhân, cơ quan,
tổ chức có thẩm quyền sẽ đề cao đƣợc trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ
chức trong việc phối hợp với Toà án giải quyết vụ việc dân sự.
Nhƣ vậy, nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá
nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền có ý nghĩa to lớn trƣớc hết đối với
đƣơng sự, giúp đƣơng sự thực hiện đƣợc quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng
cứ của mình, phát huy hơn nữa vai trò chủ động, tích cực của họ trong việc
giải quyết tranh chấp vì lợi ích của chính mình, bên cạnh đó, giúp Toà án và
Viện kiểm sát có cơ sở để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình một cách
đúng đắn, kịp thời, đồng thời, góp phần nâng cao trách nhiệm phối hợp của
các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc giải quyết vụ việc dân sự.
1.2 CƠ SỞ CỦA NGUYÊN TẮC TRÁCH NHIỆM CUNG CẤP TÀI LIỆU,
CHỨNG CỨ CỦA CÁ NHÂN, CƠ QUAN, TỔ CHỨC CÓ THẨM QUYỀN
Trong TTDS, để đảm bảo cho việc giải quyết vụ việc dân sự đƣợc nhanh
chóng, đúng đắn, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đƣơng sự,
16
pháp luật đã ghi nhận nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của
cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Nguyên tắc này xác định trách nhiệm
của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền phải cung cấp đầy đủ, đúng thời
hạn chứng cứ, tài liệu do mình quản lý, lƣu giữ khi có yêu cầu của đƣơng sự,
Toà án, hoặc Viện kiểm sát và phải chịu trách nhiệm trƣớc pháp luật về việc
cung cấp tài liệu, chứng cứ đó. Nguyên tắc này đƣợc hình thành và phát triển là
dựa trên những cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn nhất định.
- Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân,
cơ quan, tổ chức có thẩm quyền được xây dựng trên cơ sở chủ trương,
đường lối của Đảng về hoàn thiện pháp luật và cải cách tư pháp.
Theo đánh giá tình hình công tác tƣ pháp trong những năm qua tại Nghị
quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, công tác tƣ pháp đã đạt đƣợc nhiều kết
quả, góp phần quan trọng vào việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội, bảo vệ lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân… Tuy nhiên, chất lƣợng
công tác tƣ pháp nói chung vẫn chƣa ngang tầm với yêu cầu và đòi hỏi của
nhân dân. Một trong những nguyên nhân của tồn tại, hạn chế đó là vì pháp luật
trong lĩnh vực tƣ pháp chƣa hoàn thiện, chƣa đồng bộ và còn nhiều sơ hở.
Để khắc phục những hạn chế nói trên, Đảng ta đã đƣa ra một số quan
điểm chỉ đạo, nhiệm vụ nhằm đẩy mạnh công tác tƣ pháp trong thời gian tới.
Liên quan đến việc hoàn thiện pháp luật về tƣ pháp, Nghị quyết 08-NQ/TW
đã đƣa ra nhiệm vụ khẩn trƣơng ban hành Bộ luật tố tụng dân sự và một số
luật, pháp lệnh khác làm cơ sở pháp lý cho hoạt động của các cơ quan tƣ
pháp. Thực hiện Nghị quyết 08-NQ/TW, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 đã
đƣợc ban hành, trong đó có bổ sung nguyên tắc trách nhiệm cung cấp chứng
cứ, tài liệu của cá nhân, cơ quan, tổ chức.
Tiếp đó, Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về
17
chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020 có đƣa ra một số nhiệm vụ cải cách
tƣ pháp có liên quan đến pháp luật tố tụng dân sự: “Tiếp tục hoàn thiện thủ
tục tố tụng dân sự. Nghiên cứu thực hiện và phát triển các loại hình dịch vụ
từ phía nhà nước để tạo điều kiện cho các đương sự chủ động thu thập chứng
cứ chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình” [2].
Nhƣ vậy, sự ra đời và phát triển của nguyên tắc trách nhiệm cung cấp
tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong tố tụng
dân sự bƣớc đầu đã đáp ứng đƣợc nhiệm vụ mà Nghị quyết 49 đề ra về hoàn
thiện thủ tục tố tụng dân sự, cải cách tƣ pháp.
- Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân,
cơ quan, tổ chức có thẩm quyền được xây dựng trên cơ sở mối quan hệ
phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp.
Nghị quyết 08-NQ/TW về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tƣ
pháp trong thời gian tới” ngày 02/01/2002 và Nghị quyết 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 về cải cách tƣ pháp của Bộ chính trị đều có đƣa ra một số quan
điểm chỉ đạo về việc cải cách tƣ pháp, trong đó quan điểm cải cách tƣ pháp
phải đặt dƣới sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng, bảo đảm sự ổn định chính trị,
bản chất Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân, quyền lực nhà nƣớc là thống nhất, có sự phân công,
phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp đƣợc đƣa lên hàng đầu. Bên cạnh đó, Điều 2 Hiến pháp
nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992 sửa đổi, bổ sung 2001 cũng
có quy định: “…Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” [17].
Nhƣ vậy, theo quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nƣớc ta, quyền lực
18
nhà nƣớc là thống nhất, không phân chia nhƣng trong tổ chức bộ máy nhà
nƣớc XHCN có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp
và tƣ pháp. Đó là sự phân công lao động hợp lý giữa các hệ thống cơ quan
nhà nƣớc và giữa các cơ quan trong từng hệ thống, tránh sự chồng chéo, mâu
thuẫn giữa ba quyền cũng nhƣ trong nhiệm vụ, chức năng của từng cơ quan,
bảo đảm sự vận hành nhịp nhàng của từng cơ quan, sự phối hợp đồng bộ của
cả bộ máy nhà nƣớc thực hiện quyền lực tập trung của nhà nƣớc. Đối với hoạt
động tƣ pháp, để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, các cơ quan tƣ
pháp cần phải có sự phối hợp, hỗ trợ của các cơ quan lập pháp và hành pháp.
Đặc biệt, Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết 49-NQ/TW
ngày 02/6/2005 đều đƣa ra quan điểm chỉ đạo phát huy sức mạnh tổng hợp
của toàn xã hội tham gia vào công tác tƣ pháp. Các cơ quan tƣ pháp phải dựa
vào nhân dân để hoạt động, đồng thời phải là lực lƣợng nòng cốt, là chỗ dựa
vững chắc của nhân dân trong đấu tranh phòng chống tội phạm, các hành vi vi
phạm pháp luật và giải quyết tranh chấp.
Nhƣ vậy, để hoạt động tƣ pháp đạt hiệu quả tốt nhất thì cần có sự tham
gia phối hợp của nhân dân, của toàn xã hội, trong đó có các cơ quan nhà nƣớc
và các tổ chức. Sự phối hợp này có thể đƣợc thực hiện trong nhiều khâu,
nhiều hoạt động cụ thể của hoạt động tƣ pháp, trong đó có hoạt động xét xử.
Để thực hiện tốt hoạt động xét xử, đƣa ra đƣợc những bản án, quyết định một
cách công minh, đúng pháp luật, thì công tác thu thập chứng cứ đóng một vai
trò quan trọng. Trong tố tụng dân sự, chứng cứ trƣớc hết sẽ do đƣơng sự cung
cấp. Tuy nhiên, trong một số trƣờng hợp, đƣơng sự không lƣu giữ chứng cứ
mà do cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền lƣu giữ, quản lý thì rất cần sự
hỗ trợ, phối hợp từ phía các cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Sự hỗ
trợ, phối hợp trong trƣờng hợp này thể hiện ở việc cung cấp đầy đủ và đúng
thời hạn những chứng cứ đƣợc yêu cầu. Điều đó sẽ giúp cho hoạt động xét xử
19
của Toà án đƣợc thực hiện một cách đúng đắn và nhanh chóng, bảo vệ đƣợc
quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức. Nguyên tắc trách nhiệm
cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thể
hiện trách nhiệm phối hợp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
trong việc cung cấp tài liệu, chứng cứ do mình quản lý, lƣu giữ khi có yêu
cầu. Việc quy định nguyên tắc này là hoàn toàn phù hợp với quan điểm chỉ
đạo của Đảng và Nhà nƣớc đã nêu ở trên.
- Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân,
cơ quan, tổ chức có thẩm quyền được xây dựng trên cơ sở mối quan hệ
giữa Nhà nước và công dân.
Điều 51 Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung 2001 có quy định: “Quyền
của công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân. Nhà nước bảo đảm
các quyền của công dân; công dân phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với
Nhà nước và xã hội. Quyền và nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và luật
quy định”. [17]
Nhƣ vậy, các quyền của công dân đƣợc pháp luật ghi nhận và bảo vệ.
Mọi hành động xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân đều bị xử
lý theo pháp luật. Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân có thể
đƣợc Nhà nƣớc thực hiện bằng nhiều cách thức, trong đó, thông qua hoạt
động tƣ pháp đƣợc coi là một công cụ hữu hiệu. Khi quyền và lợi ích của các
bên bị tranh chấp hoặc xâm phạm thì có thể khởi kiện ra Toà án, khi đó, Toà
án với tƣ cách là cơ quan xét xử duy nhất sẽ xem xét, giải quyết vụ việc và
đƣa ra phán quyết cuối cùng, xác định ai đúng ai sai. Nhƣ vậy, Nhà nƣớc có
thể bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân thông qua hoạt động
tƣ pháp. Ngƣợc lại, công dân cũng phải có nghĩa vụ, trách nhiệm đối với hoạt
động tƣ pháp của Nhà nƣớc để hoạt động này đạt hiệu quả cao nhất. Chẳng
hạn, khi cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền yêu cầu cá nhân cung cấp chứng
20
cứ, tài liệu mà các chủ này đang lƣu giữ, quản lý để phục vụ cho hoạt động
xét xử thì những chủ thể này phải có trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ với Toà án,
thực hiện theo yêu cầu của các cơ quan có thẩm quyền. Sự phối hợp, hợp tác
trong trƣờng hợp này sẽ góp phần làm cho hoạt động tƣ pháp đƣợc thực hiện
một cách nhanh chóng, chính xác. Trách nhiệm phối hợp, hợp tác trong
trƣờng hợp này cũng đƣợc coi là nghĩa vụ của công dân đối với các hoạt động
của Nhà nƣớc.
- Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân,
cơ quan, tổ chức có thẩm quyền được xây dựng trên cơ sở bảo đảm quyền
tiếp cận công lý của đương sự, tạo cơ sở pháp lý cho đương sự có thể thực
hiện được việc bảo vệ quyền lợi của mình.
Theo kết quả nghiên cứu thì tiếp cận công lý là khả năng
của công dân có thể tìm kiếm và đạt đƣợc một sự đền bù hoặc
khắc phục cho những bất công hoặc thiệt hại do cá nhân hay chủ
thể khác gây ra, thông qua các cơ chế tƣ pháp chính thống hoặc
không chính thống phù hợp với các nguyên tắc và tiêu chuẩn
quốc tế về quyền con ngƣời [8, tr.188-194].
Nhƣ vậy quyền tiếp cận công lý là khả năng chủ thể yêu cầu nhà nƣớc tạo
mọi điều kiện thuận lợi nhất để sử dụng pháp luật nhằm mục đích bảo vệ quyền
lợi của mình tại cơ quan nhà nƣớc khi có tranh chấp hoặc xử lý vi phạm.
Việc đảm bảo quyền tiếp cận công lý của công dân luôn gắn với vấn đề
thực thi công lý của Toà án. Khi có tranh chấp không tự hòa giải đƣợc, ngƣời
dân phải tìm đến Toà án để phân giải đúng sai, khi có vi phạm thì Toà án là
nơi cuối cùng để xử lý trách nhiệm trên cơ sở công lý. Quá trình yêu cầu Toà
án thực thi công lý chính là quá trình tiếp cận công lý của công dân. Để đảm
bảo việc thực thi công lý của Toà án thì chứng cứ đóng một vai trò quan
trọng, gần nhƣ mang tính quyết định. Bởi chỉ khi nào chứng cứ đƣợc cung cấp
21
một cách đầy đủ thì Toà án mới có cơ sở để tìm ra sự thật khách quan của các
vụ việc, từ đó mới đƣa ra đƣợc phán quyết đúng đắn, bảo vệ đƣợc quyền và
lợi ích hợp pháp của đƣơng sự. Vì vậy, trong trƣờng hợp chứng cứ liên quan
đến vụ việc dân sự đang do các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác lƣu giữ, thì
những cá nhân, cơ quan, tổ chức đó có trách nhiệm phải cung cấp chứng cứ
cho đƣơng sự, cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền để đảm bảo quá trình giải
quyết vụ việc dân sự của Toà án, mà cũng chính là quá trình thực thi công lý,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể.
- Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân,
cơ quan, tổ chức có thẩm quyền được thiết lập trên cơ sở nguyên tắc cung
cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự.
Để đƣơng sự thực hiện đƣợc nghĩa vụ chứng minh của mình và Toà án
có thể thu thập chứng cứ, tài liệu cần thiết để giải quyết vụ việc dân sự, pháp
luật tố tụng dân sự đã thiết lập nguyên tắc trách nhiệm cung cấp chứng cứ của
cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền nhằm bảo đảm và hỗ trợ thực hiện
nguyên tắc về cung cấp chứng cứ và chứng minh.
Trong TTDS, khi đƣa ra yêu cầu hay bác bỏ yêu cầu của ngƣời khác,
đƣơng sự có quyền, nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh để làm rõ căn
cứ yêu cầu của mình hay căn cứ bác bỏ yêu cầu của ngƣời khác. Tuy nhiên,
trong một số trƣờng hợp, chứng cứ liên quan đến vụ việc dân sự lại không do
đƣơng sự nắm giữ, quản lý. Khi đó, muốn thực hiện đƣợc quyền và nghĩa vụ
cung cấp chứng cứ cho Toà án thì đƣơng sự có quyền yêu cầu cá nhân, cơ
quan, tổ chức cung cấp chứng cứ cho mình. Trên cơ sở đó, nguyên tắc trách
nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ra đời
một phần là để đảm bảo thực hiện đƣợc nguyên tắc cung cấp chứng cứ và
chứng minh trong tố tụng dân sự. Khi chứng cứ liên quan đến vụ việc dân sự
đang do cá nhân, cơ quan, tổ chức khác lƣu giữ, quản lý thì ngƣời có quyền
yêu cầu cung cấp trƣớc hết là đƣơng sự. Đƣơng sự có quyền yêu cầu cá nhân,
22
cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ cho mình để thực hiện đƣợc quyền và
nghĩa vụ cung cấp chứng cứ khi yêu cầu Toà án giải quyết vụ việc dân sự.
Tuy nhiên, tùy vào đặc thù từng loại chứng cứ mà có thể đƣơng sự sẽ không
dễ dàng thu thập đƣợc chứng cứ. Khi đó, Toà án với tƣ cách là cơ quan công
lý giữ gìn trật tự, kỷ cƣơng xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân
dân có trách nhiệm hƣớng dẫn các bên cung cấp chứng cứ, có nghĩa vụ xác
minh chứng cứ các bên đƣa ra và hỗ trợ các bên đƣơng sự khi họ không thể tự
mình thu thập đƣợc và có yêu cầu. Khi đƣơng sự không tự mình thu thập
đƣợc chứng cứ mặc dù đã áp dụng các biện pháp cần thiết thì có thể yêu cầu
Toà án thu thập chứng cứ, và Toà án có quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ
chức đang quản lý, lƣu giữ chứng cứ cung cấp chứng cứ cho mình. Việc yêu
cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp chứng cứ là một trong
những biện pháp thu thập chứng cứ của Toà án, nhằm hỗ trợ đƣơng sự khi
đƣơng sự không thể tự mình thu thập đƣợc chứng cứ.
Sở dĩ Toà án có trách nhiệm hỗ trợ đƣơng sự trong việc thu thập chứng
cứ từ các cá nhân, cơ quan, tổ chức là bởi vì Toà án là cơ quan tiến hành tố
tụng thực hiện chức năng xét xử, thiết lập lại các quan hệ nội dung bị vi phạm
hay tranh chấp, bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Ngoài ra, có những trƣờng hợp các cơ quan công quyền, các tổ chức xã hội trì
trệ trong việc cung cấp thông tin cho đƣơng sự dẫn đến bản thân đƣơng sự
không thể thực hiện đƣợc việc thu thập chứng cứ nên cần phải có sự hỗ trợ,
can thiệp của Toà án.
Nhƣ vậy, có thể coi nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ
của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ra đời đã cụ thể hóa hơn vai trò
của Toà án trong việc hỗ trợ đƣơng sự thu thập chứng cứ và góp phần đảm
bảo giúp đƣơng sự thực hiện đƣợc quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ
trong tố tụng dân sự.
23
- Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân,
cơ quan, tổ chức có thẩm quyền được ghi nhận xuất phát từ cơ sở chứng
cứ, tài liệu do cá nhân, cơ quan, tổ chức lưu giữ có ý nghĩa trong việc giải
quyết vụ việc dân sự.
Việc phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các đƣơng sự
gắn liền với những sự kiện, hành vi pháp lý nhất định. Do đó, khi có tranh
chấp hoặc yêu cầu dân sự và các đƣơng sự yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của họ, thì việc đƣa ra những chứng cứ chứng minh sự tồn
tại của sự kiện hay hành vi pháp lý nào đó làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm
dứt quan hệ pháp luật dân sự đang có tranh chấp mang ý nghĩa quyết định.
Những chứng cứ đó sẽ chứa đựng những tin tức, dấu vết về các tình tiết, sự
kiện của vụ việc dân sự và có khả năng làm sáng tỏ những vấn đề cần chứng
minh trong vụ việc dân sự một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Cho dù chứng cứ
đó đang do đƣơng sự quản lý hay do cá nhân, cơ quan, tổ chức khác lƣu giữ,
quản lý thì nó cũng liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các đƣơng sự và có ý
nghĩa trong việc giải quyết vụ việc dân sự của Toà án, có thể gián tiếp hoặc
trực tiếp giúp Toà án đƣa ra đƣợc phán quyết cuối cùng. Vì vậy, nếu chứng cứ
đó đang do cá nhân, cơ quan, tổ chức khác lƣu giữ, quản lý thì cần phải đƣợc
cung cấp cho Toà án để Toà án có cơ sở giải quyết vụ việc dân sự.
- Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân,
cơ quan, tổ chức có thẩm quyền được hình thành từ yêu cầu của thực tiễn
giải quyết các vụ việc dân sự nhằm khắc phục tình trạng án tồn đọng, kéo
dài, kém hiệu quả trong hoạt động giải quyết án kiện của Toà án.
Việc cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền có đƣợc thực hiện hay không phần lớn phụ thuộc vào ý thức pháp luật
của các chủ thể. Các cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền có thể vì một
số lý do chủ quan mà không có sự hợp tác, không cung cấp chứng cứ khi có
24
yêu cầu. Chẳng hạn nhƣ do có sai sót trong công tác chuyên môn nên các cơ
quan, tổ chức cố tình không cung cấp tài liệu, chứng cứ. Vì các chứng cứ
đang do cơ quan, tổ chức quản lý nên chứng cứ đó chắc chắn có liên quan đến
hoạt động chuyên môn của các cơ quan, tổ chức. Khi đã có sự sai sót trong
hoạt động chuyên môn, để tránh phải chịu trách nhiệm có thể họ sẽ không
cung cấp tài liệu, chứng cứ khi có yêu cầu để che đậy những sai sót đó. Mặt
khác nếu việc quản lý, lƣu trữ tài liệu của cơ quan, tổ chức đó không đƣợc
thực hiện một cách khoa học, không có tính hệ thống, khi đó việc lật lại hồ sơ,
tài liệu sẽ khó khăn và mất nhiều thời gian, nên cơ quan, tổ chức sẽ trì hoãn
hoặc từ chối việc cung cấp tài liệu, chứng cứ khi có yêu cầu.
Ngoài ra, việc không cung cấp chứng cứ, tài liệu cũng có thể xuất phát
từ ý thức pháp luật của những cá nhân có trách nhiệm quản lý, lƣu giữ. Có
thể họ cho rằng họ không liên quan đến tranh chấp giữa các đƣơng sự, vì
vậy, việc cung cấp tài liệu, chứng cứ không phải là trách nhiệm của họ. Khi
các cá nhân, cơ quan, tổ chức thiếu sự phối hợp, hợp tác với Toà án trong
việc cung cấp chứng cứ có thể dẫn đến hậu quả án tồn đọng, kéo dài thời
gian giải quyết vụ việc dân sự, làm giảm hiệu quả hoạt động giải quyết án
kiện của Toà án. Để hạn chế việc cá nhân, cơ quan, tổ chức không cung cấp
tài liệu, chứng cứ vì những lý do chủ quan đó, cần thiết phải xây dựng trách
nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của các cá nhân, cơ quan, tổ chức thành
một nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng dân sự để có cơ chế pháp lý ràng
buộc các cá nhân, cơ quan, tổ chức, buộc các cá nhân, cơ quan, tổ chức phải
cung cấp tài liệu, chứng cứ khi có yêu cầu và phải chịu trách nhiệm pháp lý
khi không thực hiện theo yêu cầu đó.
Nhƣ vậy, từ những cơ sở lý luận và cơ sở thực tế trên, cho thấy cần
thiết và phải quy định trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của các cá
nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thành một nguyên tắc cơ bản của tố
25
tụng dân sự để có cơ sở pháp lý ràng buộc các cá nhân, cơ quan, tổ chức đang
quản lý, lƣu giữ tài liệu, chứng cứ thực hiện việc cung cấp tài liệu, chứng cứ
khi có yêu cầu, tạo điều kiện giúp Toà án giải quyết nhanh chóng, đúng đắn
vụ việc dân sự, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đƣơng sự.
1.3 SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NGUYÊN TẮC
TRÁCH NHIỆM CUNG CẤP TÀI LIỆU, CHỨNG CỨ CỦA CÁ NHÂN,
CƠ QUAN, TỔ CHỨC CÓ THẨM QUYỀN TRONG PHÁP LUẬT TỐ
TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
Quá trình hình thành và phát triển của nguyên tắc trách nhiệm cung cấp
tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền gắn liền với sự
hình thành và phát triển của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam và có thể chia
thành các giai đoạn sau:
 Giai đoạn từ năm 1989 trở về trước
Trƣớc năm 1945, do nền kinh tế phong kiến lạc hậu, kém phát triển nên
pháp luật cũng chƣa phát triển. Trong các văn bản pháp luật đƣợc ban hành
chƣa có sự phân biệt rõ các lĩnh vực về hành chính, dân sự, hình sự và tố
tụng. Các quy định về thủ tục giải quyết các tranh chấp dân sự thƣờng đƣợc
quy định trong các văn bản về tố tụng hình sự.
Tuy vậy, trong thời kỳ này pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam bƣớc đầu
đã có sự phát triển. Những năm đầu thế kỷ XX, chính quyền phong kiến Việt
Nam đã ban hành đƣợc hàng loạt các văn bản pháp luật có quy định về thủ tục
giải quyết các vụ việc dân sự nhƣ Bộ Bắc Kỳ pháp viện biên chế năm 1921,
Bộ luật dân sự, thƣơng sự tố tụng Bắc Kỳ năm 1921, Bộ Trung Kỳ pháp viện
biên chế 1935, Bộ luật dân sự, thƣơng sự tố tụng Trung kỳ năm 1935...v.v.
Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công đã mở ra trang sử mới
trong lịch sử phát triển của dân tộc, lập ra nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Từ ngày đầu thành lập, Nhà nƣớc ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật mới.
26
Trong đó, có nhiều văn bản có chứa đựng các quy phạm tố tụng dân sự nhƣ
Sắc lệnh số 51 ngày 17/4/1946 ấn định thẩm quyền các Toà án; Sắc lệnh số
144/SL ngày 22/12/1949 mở rộng quyền bào chữa cho các đƣơng sự. Sắc lệnh
số 85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tƣ pháp và luật tố tụng…
Năm 1954, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta kết thúc
thắng lợi, miền Bắc hoàn toàn giải phóng nhƣng miền Nam vẫn bị đặt dƣới sự
thống trị của đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn cho tới năm 1975. Thời
gian này chính quyền Sài Gòn cũng đã ban hành nhiều văn bản pháp luật tố
tụng dân sự mới nhƣ Luật số I/62 ngày 8/1/1962 về quy chế luật sƣ và tổ chức
luật sƣ đoàn; Bộ luật dân sự, thƣơng sự tố tụng ngày 20/12/1972. Nhìn chung
các quy định pháp luật tố tụng dân sự của chính quyền Sài Gòn khá cụ thể, đã
có những tiến bộ so với pháp luật tố tụng dân sự của chính quyền phong kiến
Việt Nam trƣớc đó.
Ở miền Bắc, từ những năm đầu hòa bình lập lại Nhà nƣớc ta đã ban
hành một loạt những văn bản pháp luật tố tụng dân sự mới nhƣ Thông tƣ số
03/VHC ngày 2/4/1955 của Bộ tài chính và Bộ tƣ pháp sửa đổi tạm thời lệ
phí về việc hộ; Nghị định số 87/NĐ-LB ngày 16/8/1955 của Bộ lao động và
Bộ tƣ pháp về hòa giải xích mích giữa chủ và ngƣời làm công, Luật tổ chức
Toà án nhân dân 1960, Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân 1960, Thông tƣ
số 614/DS1 ngày 24/4/1963 hƣớng dẫn một số thủ tục tố tụng, Thông tƣ số
594/NCPL ngày 27/8/1968 hƣớng dẫn đƣờng lối xét xử các việc tranh chấp
về thừa kế…v.v.
Nhìn chung, trong giai đoạn từ năm 1989 trở về trƣớc Nhà nƣớc ta đã
ban hành đƣợc một số văn bản pháp luật về tố tụng dân sự, quy định đƣợc
tƣơng đối đầy đủ, hợp lý các vấn đề về tố tụng dân sự, tuy nhiên, những vấn
đề này còn đƣợc quy định một cách tản mạn, chƣa thống nhất, chủ yếu đƣợc
quy định trong các thông tƣ do Toà án nhân dân tối cao ban hành nên hiệu lực
27
chƣa cao. Rải rác trong một số văn bản trên có một số quy định về nguyên tắc
mang tính cơ bản của thủ tục tố tụng dân sự nhƣ quyền độc lập của Toà án
nhân dân khi xét xử, Toà án nhân dân xét xử có hội thẩm nhân dân tham gia,
việc xét xử phải công khai… nhƣng nguyên tắc trách nhiệm cung cấp chứng
cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức thì vẫn chƣa đƣợc quy định. Tuy nhiên,
trong một số văn bản pháp luật cụ thể nhƣ một số thông tƣ, công văn trong
thời kỳ này cũng đã có những quy định liên quan đến trách nhiệm cung cấp
chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức.
Tại mục II Thông tƣ số 06-TATC ngày 25/2/1974 hƣớng dẫn việc điều
tra trong tố tụng dân sự có quy định:
Toà án nhân dân xử về mặt dân sự có thể sử dụng những kết
quả điều tra trong hồ sơ của vụ án hình sự để xử lý về mặt dân
sự…, Viện kiểm sát nhân dân hoặc Toà án nhân dân đã xử lý về
mặt hình sự có thể chuyển cho Toà án nhân dân có nhiệm vụ xử lý
về mặt dân sự hồ sơ hoặc những tài liệu cần thiết cho việc xử lý về
mặt dân sự. Ngƣợc lại nếu xét thấy cần thiết, Toà án nhân dân có
nhiệm vụ xử lý về mặt dân sự có thể tự mình yêu cầu Viện kiểm sát
nhân dân hoặc Toà án nhân dân đã xử lý về mặt hình sự chuyển cho
mình hồ sơ hoặc những tài liệu nói trên… [33, tr.60].
Cũng tại Thông tƣ này, mục III về phƣơng pháp điều tra có quy định:
“Toà án nhân dân có thể yêu cầu các Ủy ban hành chính xã, khu phố, cơ quan,
xí nghiệp, hợp tác xã đƣa cho Toà án xem xét và trích sao cho Toà án những
sổ sách về kế toán, bản đồ về ruộng đất, nhà cửa, v.v… có liên quan đến việc
kiện…” [33, tr.62].
Tại mục I Thông tƣ số 03-NCPL ngày 3/3/1966 của Toà án nhân dân
tối cao về trình tự giải quyết việc ly hôn có quy định: “… Mức lƣơng hoặc thu
nhập của mỗi bên phải đƣợc cơ quan hoặc tổ chức hữu quan chứng nhận để có
căn cứ chính xác giải quyết vấn đề phí tổn nuôi con” [33, tr.68].
28
Nhƣ vậy, có thể khẳng định rằng, trong giai đoạn từ 1989 trở về trƣớc,
các văn bản về tố tụng dân sự đã ra đời, tuy nhiên, còn tản mạn, chƣa có tính
thống nhất. Trong những văn bản này cũng đã có những quy định cụ thể về
trách nhiệm phối hợp của các cơ quan khác trong việc cung cấp chứng cứ để
đảm bảo cho quá trình giải quyết án dân sự. Tuy nhiên, những quy định này
còn chƣa mang tính khái quát, nhƣng đây cũng có thể coi là cơ sở bắt nguồn
cho quá trình hình thành và phát triển của nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài
liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức sau này.
 Giai đoạn từ năm 1990 đến năm 2004
Năm 1989, để đáp ứng yêu cầu của công tác xét xử và thi hành án dân
sự Nhà nƣớc đã ban hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Pháp
lệnh thi hành án dân sự. Sau Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự và
Pháp lệnh thi hành án dân sự, nhiều văn bản pháp luật khác cũng đƣợc ban
hành nhƣ Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1992, Luật tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân năm 1992, Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993, Pháp lệnh
thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994, Pháp lệnh thủ tục giải quyết
các tranh chấp lao động năm 1996…v.v.
Trong giai đoạn từ năm 1990 đến năm 2004 đã có nhiều văn bản pháp
luật có hiệu lực cao đƣợc ban hành quy định về tố tụng dân sự. Đây có thể coi
là giai đoạn khởi đầu cho quá trình hình thành hệ thống văn bản pháp luật
thống nhất về tố tụng dân sự. Các văn bản pháp luật thời kỳ này đã quy định
đƣợc khá đầy đủ các vấn đề về tố tụng dân sự, tuy nhiên vẫn còn khá tản mạn
nhƣ các văn bản pháp luật của thời kỳ trƣớc. Đặc biệt, với sự ra đời của Pháp
lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994 và Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các tranh chấp lao động năm 1996 đã làm cho các quy định về tố tụng
dân sự bị xé lẻ, thiếu tập trung, chồng chéo và mâu thuẫn dẫn đến việc khó
khăn, lúng túng khi thực hiện. Tuy vậy, điều đáng ghi nhận trong thời kỳ này là
29
trong ba văn bản chính quy định về thủ tục tố tụng đã có những quy định chung
mang tính nguyên tắc, nền tảng cho quá trình tố tụng dân sự. Một trong những
quy định đƣợc ghi nhận đó là quy định về việc cung cấp, thu thập chứng cứ.
Điều 3 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 có quy
định: “Đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền lợi của
mình. Toà án có nhiệm vụ xem xét mọi tình tiết của vụ án và khi cần thiết có
thể thu thập thêm chứng cứ để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án được chính
xác” [11]. Nhƣ vậy, trong giai đoạn khởi đầu này, pháp luật tố tụng dân sự
cũng đã quy định nghĩa vụ cung cấp chứng cứ trƣớc hết thuộc về đƣơng sự.
Tuy nhiên, trong trƣờng hợp cần thiết, Toà án vẫn có thể tiến hành thu thập
chứng cứ. Quy định này đƣợc hiểu nhƣ là một quyền hạn của Toà án, khi xét
thấy vụ án có tình tiết chƣa rõ ràng, họ có thể áp dụng các biện pháp thu thập
thêm chứng cứ để đảm bảo cho việc giải quyết vụ án đƣợc chính xác. Những
biện pháp này đƣợc quy định cụ thể tại Điều 38 Pháp lệnh thủ tục giải quyết
các vụ án dân sự năm 1989:
Điều 38. Việc điều tra trƣớc khi hoà giải, xét xử.
1- Để chuẩn bị cho việc hoà giải, xét xử, tuỳ trƣờng hợp, Toà
án tiến hành những việc sau đây:
a) Lấy lời khai của các đƣơng sự, ngƣời làm chứng về những
vấn đề cần thiết;
b) Yêu cầu cơ quan Nhà nƣớc, tổ chức xã hội hữu quan hoặc
công dân cung cấp bằng chứng có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ án;
c) Xem xét tại chỗ;
d) Trƣng cầu giám định;
đ) Yêu cầu cơ quan chuyên môn định giá hoặc lập hội đồng
định giá tài sản có tranh chấp.
2- Viện kiểm sát có quyền yêu cầu Toà án hoặc tự mình
30
trƣng cầu giám định hoặc điều tra, xác minh những vấn đề cần làm
sáng tỏ trong vụ án [11].
Điểm b khoản 1 Điều này có quy định một trong những biện pháp thu
thập chứng cứ của Toà án là yêu cầu cơ quan Nhà nƣớc, tổ chức xã hội hữu
quan hoặc công dân cung cấp bằng chứng có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ
án. Đây có thể coi là tiền thân, là cơ sở hình thành cho nguyên tắc trách nhiệm
cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong pháp
luật tố tụng dân sự hiện hành. Tuy vậy, điểm b khoản 1 Điều này mới chỉ quy
định quyền hạn của Toà án trong việc yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung
cấp bằng chứng mà chƣa quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân
nhƣ thế nào khi có yêu cầu của Toà án.
Tiếp theo đó, Điều 4 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế
năm 1994 cũng quy định về việc xác minh, thu thập chứng cứ: “Khi cần
thiết, Toà án có thể xác minh, thu thập chứng cứ để bảo đảm cho việc giải
quyết vụ án được chính xác” [45]. Quy định này cũng đƣợc cụ thể hóa tại
Điều 35 Pháp lệnh này:
…Việc xác minh, thu thập chứng cứ bao gồm:
a) Yêu cầu đƣơng sự cung cấp, bổ sung chứng cứ hoặc trình
bày về những vấn đề cần thiết;
b) Yêu cầu cơ quan Nhà nƣớc, tổ chức hữu quan, cá nhân
cung cấp bằng chứng có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ án;
c) Yêu cầu ngƣời làm chứng trình bày về những vấn đề cần
thiết... [45]
Theo quy định này, một trong những biện pháp xác minh, thu thập
chứng cứ của Toà án là yêu cầu cơ quan Nhà nƣớc, tổ chức hữu quan, cá nhân
cung cấp bằng chứng có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ án. Tuy nhiên, quy
định này vẫn mắc phải hạn chế nhƣ đối với Pháp lệnh thủ tục giải quyết các
vụ án dân sự trƣớc đó, đó là không quy định trách nhiệm của cá nhân, cơ
31
quan, tổ chức khi có yêu cầu của Toà án, không quy định trách nhiệm của
những chủ thể này khi không thực hiện yêu cầu cung cấp bằng chứng cho Toà
án là nhƣ thế nào.
Bên cạnh hai pháp lệnh trên, Điều 3 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các
tranh chấp lao động 1996 quy định về việc xác minh, thu thập chứng cứ:
Khi cần thiết, Toà án tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ
hoặc yêu cầu các bên tranh chấp lao động, cơ quan, tổ chức, cá
nhân hữu quan cung cấp tài liệu, chứng cứ để bảo đảm cho việc giải
quyết vụ án lao động đƣợc chính xác, công bằng. Các bên tranh
chấp lao động, cơ quan, tổ chức, cá nhân đƣợc yêu cầu phải cung
cấp đầy đủ và đúng thời hạn theo yêu cầu của Toà án [46].
Nhƣ vậy, trong giai đoạn này, pháp luật về tố tụng dân sự đã có sự ghi
nhận về quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ trong
quá trình tố tụng. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật giai đoạn này mới chỉ ghi
nhận quyền yêu cầu của Toà án khi xét thấy cần thiết, mà không cho phép
đƣơng sự chủ động yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức hữu quan cung cấp
chứng cứ cho mình. Nhƣ vậy, có thể làm hạn chế khả năng bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của đƣơng sự. Mặt khác, quy định ở giai đoạn này còn mang
tính hình thức, bởi nó mới chỉ ghi nhận quyền yêu cầu của Toà án, mà chƣa
quy định về trách nhiệm thực hiện của cá nhân, cơ quan, tổ chức hữu quan.
Chỉ đến khi Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động 1996 ra đời,
pháp luật mới quy định trách nhiệm của các cá nhân, cơ quan, tổ chức hữu
quan phải cung cấp tài liệu, chứng cứ đầy đủ và đúng thời hạn theo yêu cầu
của Toà án. Và đây có thể coi là mốc khởi đầu cho quá trình hình thành và
phát triển của nguyên tắc trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền trong tố tụng dân sự.
32
 Giai đoạn từ năm 2005 trở đi
Ngày 15 tháng 6 năm 2004, Quốc Hội nƣớc Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa XI đã thông qua Bộ luật tố tụng dân sự đầu tiên của
nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại kỳ họp thứ 5. Sự ra đời của
bộ luật đƣợc đánh giá là một bƣớc ngoặt trong lịch sử phát triển pháp luật
tố tụng dân sự.
BLTTDS đã quy định đƣợc khá đầy đủ các vấn đề về tố tụng dân sự
nhƣ các nguyên tắc cơ bản; thẩm quyền dân sự của Toà án; cơ quan tiến hành
tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng và ngƣời tham gia tố tụng; chứng minh và
chứng cứ trong tố tụng dân sự; biện pháp khẩn cấp tạm thời…, đặc biệt là bổ
sung một số nguyên tắc mới trong tố tụng dân sự.
So với các pháp lệnh về thủ tục tố tụng trƣớc đó, nhiều quy định trong
thủ tục tố tụng dân sự cũng đƣợc quy định rõ hơn, cụ thể hơn trong phần các
nguyên tắc. Nhƣ nguyên tắc trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền quy định tại Điều 7. Nguyên tắc này là sự kế
thừa quy định của pháp luật trong ba pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
dân sự, các vụ án kinh tế và các tranh chấp lao động trƣớc đó, có sự sửa đổi,
bổ sung nhằm bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của đƣơng sự.
Theo đó, Điều 7 BLTTDS 2004 có quy định:
Cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền
hạn của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ cho đƣơng sự, Toà
án chứng cứ trong vụ án mà cá nhân, cơ quan, tổ chức đó đang
lƣu giữ, quản lý khi có yêu cầu của đƣơng sự, Toà án; trong
trƣờng hợp không cung cấp đƣợc thì phải thông báo bằng văn bản
cho đƣơng sự, Toà án biết và nêu rõ lý do của việc không cung
cấp đƣợc chứng cứ [20].
Nhƣ vậy, theo quy định này, chủ thể có quyền yêu cầu cá nhân, cơ
quan, tổ chức cung cấp chứng cứ là đƣơng sự và Toà án.
33
Đây là điểm mới của Bộ luật trong khi ba Pháp lệnh trƣớc chỉ quy định
quyền yêu cầu thuộc về Toà án trong trƣờng hợp cần thiết. Việc bổ sung thêm
quyền yêu cầu cung cấp chứng cứ của đƣơng sự đã làm tăng tính chủ động
cho đƣơng sự trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình và nhƣ vậy
có thể đẩy nhanh quá trình tố tụng, hơn nữa, quy định nhƣ vậy sẽ giảm đƣợc
gánh nặng cho Toà án trong công tác tố tụng dân sự. Một số trƣờng hợp
đƣơng sự có thể tự mình thu thập đƣợc chứng cứ nhờ có sự phối hợp, hỗ trợ
của các cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan, khi đó đƣơng sự sẽ không cần
sự hỗ trợ của Toà án trong việc thu thập chứng cứ và Toà án sẽ giảm đƣợc
một số công việc phải làm trong hoạt động tố tụng dân sự.
So với quy định trong ba pháp lệnh trƣớc đây thì nguyên tắc này cũng
đã đƣợc quy định chặt chẽ hơn về trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức
khi có yêu cầu cung cấp chứng cứ. Theo đó, pháp luật quy định: “…trong
trường hợp không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản cho
đương sự, Toà án biết và nêu rõ lý do của việc không cung cấp được chứng
cứ” [20, Điều 7]. Quy định này đòi hỏi cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lƣu
giữ chứng cứ phải có trách nhiệm phối hợp với đƣơng sự, Toà án trong quá
trình giải quyết vụ việc dân sự. Việc xác định trách nhiệm của cá nhân, tổ
chức hữu quan chắc chắn sẽ là một bảo đảm về mặt pháp lý để việc giải quyết
vụ việc dân sự đƣợc tiến hành theo đúng thủ tục tố tụng.
Sau hơn 5 năm thi hành, Bộ luật tố tụng dân sự đã góp phần quan trọng
trong việc bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân, cơ quan, tổ chức. Tuy nhiên, khi triển khai thi hành BLTTDS cho thấy
một số quy định của BLTTDS không tránh khỏi những khiếm khuyết nhất
định. Trƣớc thực tế đó, ngày 29-3-2011, Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 9 đã
thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự, Nghị
quyết thi hành Luật. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01-01-2012.
34
Một trong những nội dung đƣợc sửa đổi, bổ sung đó là nguyên tắc trách
nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
Nguyên tắc này đƣợc quy định tại Điều 7 BLTTDS, tuy nhiên, BLTTDS
2004 chƣa quy định về trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ cung cấp chứng
cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Việc này đã dẫn đến tình trạng thực tế
“nhiều cơ quan, tổ chức chưa phối hợp chặt chẽ với Toà án, thậm chí chưa làm
hết trách nhiệm của mình theo quy định của pháp luật trong việc cung cấp tài
liệu, chứng cứ… làm cho công tác giải quyết, xét xử nhiều vụ án bị kéo dài hoặc
phải ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án…” [37, tr.21] hoặc
“…cùng một vấn đề nhưng nhiều trường hợp cơ quan có thẩm quyền có
những văn bản xác nhận trái ngược nhau, ảnh hưởng đến việc giải quyết của
Toà án” [38, tr.10], hoặc không thực hiện yêu cầu cung cấp chứng cứ cho
đƣơng sự nên không ít các trƣờng hợp đƣơng sự đã gặp nhiều khó khăn trong
việc tự mình thu thập chứng cứ.
Khắc phục hạn chế đó, khoản 1 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung năm 2011
có sửa đổi, bổ sung Điều 7 BLTTDS 2004 nhƣ sau:
Cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn
của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ và đúng thời hạn cho
đƣơng sự, Toà án, Viện kiểm sát tài liệu, chứng cứ mà mình đang
lƣu giữ, quản lý khi có yêu cầu của đƣơng sự, Toà án, Viện kiểm sát
và phải chịu trách nhiệm trƣớc pháp luật về việc cung cấp tài liệu,
chứng cứ đó; trong trƣờng hợp không cung cấp đƣợc thì phải thông
báo bằng văn bản cho đƣơng sự, Toà án, Viện kiểm sát biết và nêu rõ
lý do của việc không cung cấp đƣợc tài liệu, chứng cứ [21].
Điều luật sửa đổi này đã quy định nguyên tắc về trách nhiệm của các cá
nhân, cơ quan, tổ chức đang lƣu giữ tài liệu, chứng cứ hoặc quản lý tài liệu,
35
chứng cứ trong việc từ chối cung cấp tài liệu, chứng cứ mà không có lý do
chính đáng; cung cấp không đầy đủ, kịp thời; cung cấp tài liệu, chứng cứ
không chính xác theo yêu cầu của đƣơng sự, Toà án, Viện kiểm sát và quy
định về biện pháp xử lý tại Điều 385, Điều 389 BLTTDS năm 2004 và khoản
21 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung năm 2011 sửa đổi Điều 94 BLTTDS 2004.
Theo đó, tùy theo mức độ vi phạm, cá nhân, cơ quan, tổ chức có thể bị xử lý
theo quy định của pháp luật nhƣ phạt cảnh cáo, phạt tiền, cƣỡng chế thi hành,
xử lý kỷ luật hoặc có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
BLTTDS sửa đổi cũng đã bổ sung quyền yêu cầu cung cấp tài liệu,
chứng cứ của Viện kiểm sát. Trong khi ba Pháp lệnh trƣớc đây chỉ quy định
quyền yêu cầu thuộc về Toà án trong trƣờng hợp cần thiết, BLTTDS 2004
quy định quyền yêu cầu thuộc về đƣơng sự và Toà án, thì Luật sửa đổi, bổ
sung 2011 đã quy định quyền yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ thuộc về
đƣơng sự, Toà án, Viện kiểm sát. Bổ sung này là hoàn toàn hợp lý và đáp ứng
đƣợc nhu cầu giải quyết vụ việc dân sự trên thực tế. Bởi theo quy định của
pháp luật tố tụng, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị bản án, quyết định của
Toà án theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm và bảo vệ quan điểm
kháng nghị của mình tại phiên tòa, phiên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái
thẩm. Và để có thể bảo vệ quan điểm của mình, Viện kiểm sát phải đƣa ra các
chứng cứ thì mới thuyết phục đƣợc Toà án chấp nhận quan điểm của mình.
Trong trƣờng hợp, chứng cứ đang do cá nhân, cơ quan, tổ chức khác quản lý,
lƣu giữ, và quyền yêu cầu của Viện kiểm sát không đƣợc pháp luật thừa nhận
và bảo vệ thì Viện kiểm sát sẽ khó có thể đƣa ra căn cứ để bảo vệ cho quan
điểm của mình, nhƣ vậy, sẽ ảnh hƣởng xấu đến kết quả giải quyết vụ việc dân
sự. Vì lẽ đó mà Luật sửa đổi, bổ sung 2011 đã bổ sung thêm quyền yêu cầu
cung cấp tài liệu, chứng cứ thuộc về Viện kiểm sát.
36
1.4 NGUYÊN TẮC TRÁCH NHIỆM CUNG CẤP TÀI LIỆU,
CHỨNG CỨ CỦA CÁ NHÂN, CƠ QUAN, TỔ CHỨC THEO PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG DÂN SỰ CỦA MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI
Việc yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức hữu quan cung cấp chứng cứ là
một trong những hình thức thu thập chứng cứ trong quá trình tố tụng dân sự.
Và hiện nay trên thế giới, mỗi nƣớc đều có một cách quy định riêng về cách
thức cung cấp, thu thập chứng cứ. Nội dung cách thức này phụ thuộc vào
quan niệm về vai trò của Toà án và đƣơng sự trong thu thập chứng cứ của mỗi
hệ thống pháp luật trên thế giới. Nhìn chung, hoạt động thu thập chứng cứ sẽ
là hoạt động quan trọng trong giai đoạn tố tụng thể hiện đƣợc quan niệm của
từng hệ thống pháp luật về vai trò của Toà án trong tố tụng dân sự là chủ
động, tích cực hay thụ động. Một cách khái quát, việc tham gia của Toà án
vào hoạt động thu thập chứng cứ có thể phân chia thành ba mô hình sau đây:
- Thứ nhất, Toà án không tham gia thu thập chứng cứ ở các nƣớc theo
mô hình tranh tụng;
- Thứ hai, Toà án đóng vai trò chủ động, tích cực và trực tiếp thu thập
chứng cứ trong mô hình thẩm xét;
- Thứ ba, Toà án không thu thập nhƣng hỗ trợ đƣơng sự bằng các quyết
định tƣ pháp trong mô hình kết hợp tranh tụng và thẩm xét.
Ở các nƣớc theo mô hình tranh tụng, Toà án chỉ đóng vai trò thụ động,
hầu nhƣ không tham gia vào việc thu thập chứng cứ. Thẩm phán và các
thành viên bồi thẩm đoàn đều không biết về hồ sơ vụ án cho đến khi mở
phiên tòa. Nghĩa vụ thu thập chứng cứ thuộc về đƣơng sự với sự hỗ trợ của
luật sƣ. Chính vì vậy, mô hình tranh tụng còn đƣợc gọi là tố tụng do đƣơng
sự kiểm soát hay đƣơng sự tự điều tra vụ án. Chính vì đƣơng sự là ngƣời có
vai trò chủ động trong việc thu thập chứng cứ, nên pháp luật cũng quy định
cơ chế để đảm bảo cho đƣơng sự thực hiện việc thu thập chứng cứ. Chẳng
37
hạn, đƣơng sự có quyền yêu cầu đối phƣơng phải cung cấp thông tin, trả lời
các câu hỏi do mình đƣa ra trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và đối phƣơng
phải thực hiện nghĩa vụ đó mà không cần sự quyết định của Toà án. Đƣơng
sự cũng đƣợc pháp luật đảm bảo thực hiện quyền yêu cầu trực tiếp bất cứ cá
nhân, cơ quan, tổ chức nào đang chiếm hữu chứng cứ phải cung cấp chứng
cứ đó. Tuy nhiên, pháp luật cũng quy định các chủ thể đang chiếm hữu
chứng cứ có quyền từ chối cung cấp chứng cứ nếu việc cung cấp đó liên
quan đến bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, hay bí mật nhà nƣớc. Việc từ
chối này phải đƣợc Toà án xác nhận bằng quyết định thông qua quy chế bảo
vệ và miễn trừ cung cấp chứng cứ.
Ngƣợc lại, ở các nƣớc theo hệ thống thẩm xét, mặc dù pháp luật quy
định các đƣơng sự có nghĩa vụ phải cung cấp chứng cứ để chứng minh cho
yêu cầu hay phản đối yêu cầu, nhƣng trên thực tế Toà án tham gia rất tích cực
vào việc thu thập chứng cứ. Các đƣơng sự có nghĩa vụ cung cấp toàn bộ
chứng cứ cho Toà án ngay trong giai đoạn chuẩn bị xét xử để Toà án xây
dựng hồ sơ vụ án. Trong quá trình giải quyết vụ việc, nếu xét thấy không có
đủ căn cứ cho việc quyết định thì Toà án có quyền tự mình thu thập thêm
chứng cứ, tiến hành những biện pháp điều tra. Pháp luật trong mô hình tố tụng
này có rất ít quy định về việc đảm bảo đƣơng sự tự thu thập chứng cứ. Với
những đặc điểm đó, trên thực tế các đƣơng sự gặp rất nhiều khó khăn khi thực
hiện nghĩa vụ cung cấp chứng cứ. Hệ quả là họ đã yêu cầu Toà án tiến hành
thu thập chứng cứ thay cho họ, bởi vì, Toà án với thẩm quyền và ƣu thế của
mình sẽ dễ dàng hơn khi yêu cầu các chủ thể khác cung cấp chứng cứ.
Ví dụ, Điều 57 Bộ luật tố tụng dân sự Liên Bang Nga quy định về xuất
trình và yêu cầu cung cấp chứng cứ:
1. Chứng cứ do các bên và những ngƣời tham gia tố tụng
khác cung cấp. Toà án có quyền yêu cầu những ngƣời tham gia tố
38
tụng xuất trình thêm chứng cứ. Trong trƣờng hợp những ngƣời
tham gia tố tụng gặp khó khăn trong việc xuất trình chứng cứ, theo
yêu cầu của họ, Toà án có thể giúp đỡ trong việc thu thập và yêu
cầu cung cấp chứng cứ.
2. Trong đơn yêu cầu cung cấp chứng cứ phải nêu rõ chứng
cứ cũng nhƣ những tình tiết nào có ý nghĩa cho việc giải quyết đúng
đắn vụ án, có thể đƣợc khẳng định hoặc phủ nhận bằng chứng cứ
đó, phải chỉ ra những nguyên nhân cản trở việc thu thập chứng cứ
và địa điểm nơi có chứng cứ. Toà án trực tiếp yêu cầu ngƣời đang
nắm giữ chứng cứ cung cấp. Những ngƣời này chuyển chứng cứ
đƣợc yêu cầu cung cấp cho Toà án hoặc cho ngƣời đƣa ra yêu cầu
để ngƣời này xuất trình chứng cứ tại Toà án… [15, tr.80]
Mô hình thứ ba là sự kết hợp giữa hai mô hình trên với đặc điểm cơ bản
là vai trò thu thập chứng cứ, chứng minh thuộc về đƣơng sự nhƣng đồng thời
Toà án cũng tham gia một số hoạt động thu thập chứng cứ trong trƣờng hợp
đặc biệt. Mô hình này đƣợc áp dụng ở Đức, Nhật Bản [6, tr.258].
Ở Đức, nguyên tắc cơ bản về trách nhiệm cung cấp chứng cứ và
chứng minh các sự kiện, tình tiết vụ án thuộc về đƣơng sự. Nếu đƣơng sự
không cung cấp đầy đủ chứng cứ hoặc thiếu chứng cứ thì Toà án quyết định
dựa trên những chứng cứ mà đƣơng sự cung cấp, chứ Toà án không tự mình
thu thập chứng cứ. Ở Nhật Bản, nguyên tắc chung cũng đƣợc ghi nhận nhƣ ở
Đức. Các chủ thể đang chiếm hữu chứng cứ có nghĩa vụ phải cung cấp
chứng cứ cho đƣơng sự chỉ trừ khi ngƣời đó cũng có quyền lợi trong vụ án
hoặc bảo vệ các bí mật cá nhân, bí mật kinh doanh hay bí mật nhà nƣớc thì
mới có quyền từ chối cung cấp. Bên cạnh đó, pháp luật các nƣớc này cũng
quy định trong các trƣờng hợp khẩn cấp để bảo vệ chứng cứ nhƣ trƣờng hợp
chứng cứ đang bị tẩu tán, hủy hoại thì theo yêu cầu bằng văn bản của đƣơng
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Luận văn: Chế độ bảo hiểm xã hội đối với tai nạn lao động, 9đ
Luận văn: Chế độ bảo hiểm xã hội đối với tai nạn lao động, 9đLuận văn: Chế độ bảo hiểm xã hội đối với tai nạn lao động, 9đ
Luận văn: Chế độ bảo hiểm xã hội đối với tai nạn lao động, 9đ
 
Khóa luận Quyền an tử và vấn đề hợp pháp hóa na tử ở Việt Nam
Khóa luận Quyền an tử và vấn đề hợp pháp hóa na tử ở Việt NamKhóa luận Quyền an tử và vấn đề hợp pháp hóa na tử ở Việt Nam
Khóa luận Quyền an tử và vấn đề hợp pháp hóa na tử ở Việt Nam
 
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của đương sự, HOT, HAY
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của đương sự, HOT, HAYLuận văn: Đại diện theo pháp luật của đương sự, HOT, HAY
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của đương sự, HOT, HAY
 
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sựLuận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Bảo đảm quyền bị can, bị cáo là người chưa thành niên
Luận văn: Bảo đảm quyền bị can, bị cáo là người chưa thành niênLuận văn: Bảo đảm quyền bị can, bị cáo là người chưa thành niên
Luận văn: Bảo đảm quyền bị can, bị cáo là người chưa thành niên
 
Luận văn: Cấp dưỡng sau ly hôn theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Cấp dưỡng sau ly hôn theo pháp luật Việt Nam, HAYLuận văn: Cấp dưỡng sau ly hôn theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Cấp dưỡng sau ly hôn theo pháp luật Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOTLuận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Thừa phát lại trong thi hành án dân sự, HAY
Luận văn: Thừa phát lại trong thi hành án dân sự, HAYLuận văn: Thừa phát lại trong thi hành án dân sự, HAY
Luận văn: Thừa phát lại trong thi hành án dân sự, HAY
 
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOTLuận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
 
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú YênBáo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
 
Luận văn: Xác định cha, mẹ, con theo quy định của Luật Hôn Nhân - Gửi miễn ph...
Luận văn: Xác định cha, mẹ, con theo quy định của Luật Hôn Nhân - Gửi miễn ph...Luận văn: Xác định cha, mẹ, con theo quy định của Luật Hôn Nhân - Gửi miễn ph...
Luận văn: Xác định cha, mẹ, con theo quy định của Luật Hôn Nhân - Gửi miễn ph...
 
Luận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án
Luận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa ánLuận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án
Luận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án
 
Luận văn: Kê biên tài sản trong thi hành án dân sự theo Luật thi hành án dân ...
Luận văn: Kê biên tài sản trong thi hành án dân sự theo Luật thi hành án dân ...Luận văn: Kê biên tài sản trong thi hành án dân sự theo Luật thi hành án dân ...
Luận văn: Kê biên tài sản trong thi hành án dân sự theo Luật thi hành án dân ...
 
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAYLuận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
 
Luận văn: Hiệu lực của ly hôn đối với vợ chồng theo luật hôn nhân
Luận văn: Hiệu lực của ly hôn đối với vợ chồng theo luật hôn nhânLuận văn: Hiệu lực của ly hôn đối với vợ chồng theo luật hôn nhân
Luận văn: Hiệu lực của ly hôn đối với vợ chồng theo luật hôn nhân
 
Luận văn: Xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
Luận văn: Xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩmLuận văn: Xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
Luận văn: Xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
 
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOTĐề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
 
Luận văn: An toàn, vệ sinh lao động đối với lao động nữ theo luật
Luận văn: An toàn, vệ sinh lao động đối với lao động nữ theo luậtLuận văn: An toàn, vệ sinh lao động đối với lao động nữ theo luật
Luận văn: An toàn, vệ sinh lao động đối với lao động nữ theo luật
 
Luận văn: Người đại diện theo ủy quyền của đương sự, HOT
Luận văn: Người đại diện theo ủy quyền của đương sự, HOTLuận văn: Người đại diện theo ủy quyền của đương sự, HOT
Luận văn: Người đại diện theo ủy quyền của đương sự, HOT
 
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOTLuận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
 

Similar to Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền

Similar to Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền (20)

Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong ...
Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong ...Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong ...
Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong ...
 
Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong ...
Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong ...Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong ...
Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong ...
 
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdf
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdfNHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdf
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdf
 
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOTQuyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
 
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAYLuận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
 
Xây dựng ý thức pháp luật của Thẩm phán trong cải cách tư pháp
Xây dựng ý thức pháp luật của Thẩm phán trong cải cách tư phápXây dựng ý thức pháp luật của Thẩm phán trong cải cách tư pháp
Xây dựng ý thức pháp luật của Thẩm phán trong cải cách tư pháp
 
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOTLuận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
 
Luận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Vấn đề về quyền xét xử công bằng ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề về quyền xét xử công bằng ở Việt Nam, HOTLuận văn: Vấn đề về quyền xét xử công bằng ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề về quyền xét xử công bằng ở Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Vai trò người bào chữa trong điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Vai trò người bào chữa trong điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn phí ...Luận văn: Vai trò người bào chữa trong điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Vai trò người bào chữa trong điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn phí ...
 
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOTToà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
 
Luận văn: Bảo vệ quyền con người thông qua xét xử vụ án hình sự
Luận văn: Bảo vệ quyền con người thông qua xét xử vụ án hình sựLuận văn: Bảo vệ quyền con người thông qua xét xử vụ án hình sự
Luận văn: Bảo vệ quyền con người thông qua xét xử vụ án hình sự
 
Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế
Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên HuếXét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế
Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế
 
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOTLuận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
 
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOTLuận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
 
Luận văn: Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật
Luận văn: Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luậtLuận văn: Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật
Luận văn: Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật
 
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
 
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP DÂN SỰ Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP DÂN SỰ Ở VIỆT NAMLUẬN VĂN THẠC SĨ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP DÂN SỰ Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP DÂN SỰ Ở VIỆT NAM
 
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOTLuận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
 
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP DÂN SỰ Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP DÂN SỰ Ở VIỆT NAMLUẬN VĂN THẠC SĨ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP DÂN SỰ Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP DÂN SỰ Ở VIỆT NAM
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
dangdinhkien2k4
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
DungxPeach
 

Recently uploaded (20)

TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 

Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGŨ THỊ NHƢ HOA NGUY£N T¾C TR¸CH NHIÖM CUNG CÊP TµI LIÖU, CHøNG Cø CñA C¸ NH¢N, C¥ QUAN, Tæ CHøC Cã THÈM QUYÒN TRONG Tè TôNG D¢N Sù Chuyên ngành: Luật dân sự Mã số: 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN ANH TUẤN HÀ NỘI - 2014
  • 2. Lêi cam ®oan Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Ngũ Thị Nhƣ Hoa
  • 3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC TRÁCH NHIỆM CUNG CẤP TÀI LIỆU, CHỨNG CỨ CỦA CÁ NHÂN, CƠ QUAN, TỔ CHỨC CÓ THẨM QUYỀN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ .............................................................. 7 1.1 Khái niệm và ý nghĩa của nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ................ 7 1.1.1 Khái niệm nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền............................................... 7 1.1.2 Ý nghĩa của nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ...................................... 13 1.2 Cơ sở của nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền............................................. 15 1.3 Sự hình thành và phát triển của nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam.............................................. 25 1.4 Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức theo pháp luật tố tụng dân sự của một số nƣớc trên thế giới........................................................................................... 36 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1................................................................................ 41
  • 4. Chƣơng 2: NỘI DUNG NGUYÊN TẮC TRÁCH NHIỆM CUNG CẤP TÀI LIỆU, CHỨNG CỨ CỦA CÁ NHÂN, CƠ QUAN, TỔ CHỨC CÓ THẨM QUYỀN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH..................................... 42 2.1 Trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong việc cung cấp đầy đủ tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của đƣơng sự, Toà án, Viện kiểm sát ..................................................................... 42 2.1.1 Xác định các loại tài liệu, chứng cứ mà các cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền có trách nhiệm cung cấp trong các vụ việc dân sự.................................................................................................... 43 2.1.2. Về phạm vi trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ........................................................... 55 2.2 Trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong việc cung cấp tài liệu, chứng cứ đúng thời hạn theo yêu cầu của đƣơng sự, Toà án, Viện kiểm sát .......................................................... 58 2.3 Trách nhiệm pháp lý của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong việc không cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ, không đúng thời hạn các tài liệu, chứng cứ..................................................... 65 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2................................................................................ 74 Chƣơng 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC TRÁCH NHIỆM CUNG CẤP TÀI LIỆU, CHỨNG CỨ CỦA CÁ NHÂN, CƠ QUAN, TỔ CHỨC CÓ THẨM QUYỀN VÀ KIẾN NGHỊ......................................................................................... 76 3.1 Thực tiễn thực hiện nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ...................... 76 3.2 Một số kiến nghị về nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong tố tụng dân sự.......................................................................................... 100
  • 5. 3.2.1 Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền........... 101 3.2.2. Kiến nghị về thực hiện nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền .................... 106 KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ............................................................................... 112 KẾT LUẬN CHUNG.................................................................................... 113 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................... 114
  • 6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLTTDS : Bộ luật tố tụng dân sự BKH&CN : Bộ Khoa học và công nghệ BTP : Bộ Tƣ pháp BVHTT&DL : Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch DN : Doanh nghiệp DANIDA : Cơ quan hợp tác và phát triển quốc tế của Chính phủ Đan Mạch GĐT, TT : Giám đốc thẩm, tái thẩm HĐTPTANDTC : Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao TP : Thành phố TTDS : Tố tụng dân sự TAND : Tòa án nhân dân TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao UBND : Ủy ban nhân dân UBTVQH : Ủy ban thƣờng vụ quốc hội UNDP : Chƣơng trình phát triển của Liên Hợp Quốc VADS : Vụ án dân sự VVDS : Vụ việc dân sự VKSND : Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao XHCN : Xã hội chủ nghĩa
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Xã hội là hệ thống các quan hệ đa dạng và phức tạp. Quyền và lợi ích của các chủ thể là vấn đề quan trọng, là động lực để các chủ thể tham gia vào các quan hệ xã hội. Tuy ở những mức độ khác nhau nhƣng pháp luật các nƣớc trên thế giới đều công nhận và bảo hộ các quyền, lợi ích chính đáng của các chủ thể. Khi tham gia vào các quan hệ xã hội các chủ thể phải thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Việc một chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình có thể xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác, dẫn đến tranh chấp. Để duy trì trật tự xã hội, Nhà nƣớc phải thiết lập cơ chế pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Một trong số đó là cơ chế về tố tụng. Hiện nay, Việt Nam đang đứng trƣớc những cơ hội và thách thức của tiến trình hội nhập, một tiến trình không thể đảo ngƣợc trên con đƣờng phát triển đất nƣớc. Việc gia nhập vào tổ chức thƣơng mại thế giới, tham gia vào các công ƣớc quốc tế, ký kết nhiều hiệp định song phƣơng và đa phƣơng với các nƣớc, thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài đã làm cho các giao lƣu dân sự, thƣơng mại phát triển một cách mạnh mẽ và đa dạng. Để đảm bảo cho sự phát triển lành mạnh của các quan hệ dân sự, quan hệ thƣơng mại đó đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh nó. Bên cạnh việc hoàn thiện pháp luật nội dung thì việc hoàn thiện pháp luật tố tụng cũng là một nhu cầu rất cần thiết để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong trƣờng hợp có tranh chấp hoặc bị xâm phạm. Một cơ chế tố tụng có hiệu quả có vai trò rất quan trọng để các chủ thể yên tâm và, hơn nữa, thúc đẩy họ tham gia tích cực vào các giao lƣu dân sự, thƣơng mại
  • 8. 2 trên thị trƣờng góp phần thúc đẩy kinh tế tăng trƣởng, xã hội phát triển. Chính vì vậy, Bộ luật tố tụng dân sự 2004 đã ra đời với nhiều điểm mới cả về nội dung và hình thức khắc phục kịp thời những hạn chế tồn tại của pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 đáp ứng tích cực yêu cầu của quá trình hội nhập. Bộ luật tố tụng dân sự 2004 với nội dung phong phú quy định khá cụ thể những vấn đề liên quan đến hoạt động tƣ pháp của nƣớc ta hiện nay, trong đó vấn đề chứng cứ trong tố tụng dân sự đƣợc quan tâm sửa đổi khá nhiều, với nhiều điểm mới quan trọng giúp cho việc thu thập, sử dụng, đánh giá chứng cứ của các thẩm phán cũng nhƣ những ngƣời tiến hành tố tụng khác đƣợc khách quan và đúng đắn hơn, góp phần giải quyết các vụ việc dân sự một cách đúng đắn, triệt để, đáp ứng lòng tin của nhân dân đối với pháp luật. Một trong số những vấn đề liên quan đến chứng cứ đã đƣợc sửa đổi, bổ sung là trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong tố tụng dân sự. Đây đƣợc coi là một nội dung có nhiều điểm mới tiến bộ so với pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự trƣớc đây và đƣợc quy định là một trong những nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng dân sự hiện hành. Trên thực tế, đôi khi chứng cứ có thể không do các đƣơng sự lƣu giữ mà do các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác lƣu giữ, quản lý. Việc quy định trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức giúp cho đƣơng sự có thể thực hiện đƣợc quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của mình, đồng thời góp phần giúp cho Tòa án giải quyết các vụ việc dân sự một cách đúng đắn, chính xác và nhanh chóng. Nhƣ vậy, nguyên tắc này ra đời đã thể hiện đƣợc vai trò to lớn của nó đối với hoạt động xét xử của Tòa án, tuy nhiên, thực tế thi hành vẫn còn một số vƣớng mắc nhất định. Chính vì vậy, việc nghiên cứu về nguyên tắc trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức là rất cần thiết. Với những lý do trên, em đã chọn đề tài “Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ
  • 9. 3 quan, tổ chức có thẩm quyền trong tố tụng dân sự” làm luận văn tốt nghiệp thạc sỹ của mình. 2. Mục đích và phạm vi nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu: Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ những vấn đề lý luận cũng nhƣ nội dung các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền, chỉ ra những điểm còn thiếu sót hoặc chƣa hợp lý trong các quy định hiện hành về nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Ngoài ra việc nghiên cứu cũng nhằm chỉ ra một số vƣớng mắc, khó khăn trên thực tế khi thực hiện nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền, từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật đồng thời nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trên thực tế. - Phạm vi nghiên cứu: Với mục đích nghiên cứu trên, Luận văn tập trung nghiên cứu về pháp luật hiện hành và thực tiễn thực hiện nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền tại một số Tòa án địa phƣơng. Tuy nhiên, một số vấn đề lý luận cơ bản về nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cũng đƣợc tiến hành nghiên cứu nhằm tạo cơ sở cho việc đánh giá luật thực định và đề xuất kiến nghị. Ngoài ra, Luận văn có mở rộng nghiên cứu quy định của pháp luật một số nƣớc về trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong tố tụng dân sự. Tuy nhiên, việc nghiên cứu chỉ nhằm mục đích so sánh, tham khảo mà không nghiên cứu sâu quy định về trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong tố tụng
  • 10. 4 dân sự của Tòa án nƣớc ngoài. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài sẽ đƣợc giới hạn trong phạm vi sau đây: - Nghiên cứu khái niệm, ý nghĩa và cơ sở hình thành nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong tố tụng dân sự. - Nghiên cứu lƣợc sử pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong tố tụng dân sự và so sánh, tham khảo pháp luật một số nƣớc trên thế giới. - Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong tố tụng dân sự. Để làm rõ vấn đề này, bên cạnh việc nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành, Luận văn còn nghiên cứu quy định của một số ngành luật nội dung để làm rõ trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của Luận văn này, tác giả chỉ giới hạn việc nghiên cứu quy định của một số ngành luật nội dung có liên quan đến việc quản lý, lƣu giữ chứng cứ, tài liệu của các cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền điều chỉnh một số quan hệ xã hội mang tính chất phổ biến, thƣờng gặp trong thực tiễn tố tụng tại Toà án. - Nghiên cứu tình hình thực hiện nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trên thực tế, từ đó rút ra những vƣớng mắc, khó khăn và đề xuất giải pháp khắc phục. 3. Tình hình nghiên cứu đề tài Cho đến nay đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về tố tụng dân sự nhƣ Công trình nghiên cứu khoa học cấp Nhà nƣớc của Toà án nhân dân tối cao năm 1996 nghiên cứu về “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Bộ luật
  • 11. 5 tố tụng dân sự”; Công trình nghiên cứu khoa học cấp cơ sở của trƣờng Đại học Luật Hà Nội 2001 nghiên cứu về “Cơ sở khoa học của việc hoàn thiện một số chế định cơ bản của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam”… Bên cạnh những công trình đó, cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề chứng cứ, chứng minh trong tố tụng dân sự, nhƣ Luận văn “Chứng cứ và hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự” của Thạc sỹ Vũ Trọng Hiếu năm 1997; Luận văn “Hoạt động cung cấp và thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự Việt Nam” của thạc sỹ Nguyễn Minh Hằng năm 2002; Luận án tiến sĩ Luật học của Nguyễn Minh Hằng năm 2007 nghiên cứu về “Chế định chứng minh trong tố tụng dân sự Việt Nam”… Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chƣa có một công trình nào nghiên cứu về nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Có thể nói đây là công trình đầu tiên tiếp cận nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này ở cấp độ thạc sỹ. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu - Dựa trên quan điểm, quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tôn trọng sự thật khách quan của sự vật hiện tƣợng, xem xét vấn đề một cách một cách toàn diện. - Sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu chuyên ngành nghiên cứu chuyên sâu các vấn đề dƣới góc độ pháp luật nhƣ phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, so sánh. 5. Đóng góp của đề tài Luận văn là công trình nghiên cứu có hệ thống về nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong tố tụng dân sự - có thể coi là công trình đầu tiên tiếp cận nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này ở cấp độ thạc sỹ, cụ thể là: Thứ nhất: Lần đầu tiên nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong tố tụng dân sự
  • 12. 6 đƣợc nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện cả về cơ sở lý luận cũng nhƣ thực tiễn từ khái niệm, ý nghĩa, cơ sở hình thành và lƣợc sử phát triển của nguyên tắc, làm bật bản chất và trọng tâm của vấn đề nghiên cứu. Luận văn cũng đã tiếp cận và làm rõ đƣợc trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc cung cấp đầy đủ, đúng thời hạn tài liệu, chứng cứ mà mình đang quản lý, lƣu giữ, đồng thời làm rõ các trách nhiệm pháp lý có thể đƣợc áp dụng khi cá nhân, cơ quan, tổ chức không thực hiện trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của mình. Thứ hai: Quá trình nghiên cứu đề tài đã tìm ra đƣợc những tồn tại, bất cập trong công tác xây dựng và thực tiễn thực hiện nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Từ đó đƣa ra những đề xuất, kiến nghị để góp phần vào việc hoàn thiện các quy định của pháp luật cũng nhƣ tăng cƣờng hiệu quả thực hiện nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trên thực tế. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn đƣợc kết cấu bởi 3 chƣơng: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong tố tụng dân sự. Chương 2: Nội dung nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành. Chương 3: Thực tiễn thực hiện nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền và kiến nghị.
  • 13. 7 Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC TRÁCH NHIỆM CUNG CẤP TÀI LIỆU, CHỨNG CỨ CỦA CÁ NHÂN, CƠ QUAN, TỔ CHỨC CÓ THẨM QUYỀN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 1.1 KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA NGUYÊN TẮC TRÁCH NHIỆM CUNG CẤP TÀI LIỆU, CHỨNG CỨ CỦA CÁ NHÂN, CƠ QUAN, TỔ CHỨC CÓ THẨM QUYỀN 1.1.1 Khái niệm nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền Theo cách hiểu chung nhất, nguyên tắc là một thuật ngữ dùng để chỉ “những quy định, phép tắc, tiêu chuẩn làm cơ sở, chỗ dựa để xem xét, làm việc” [48, tr.1217]. Theo đó, nguyên tắc của một ngành luật cũng đƣợc xây dựng dựa trên nền tảng này. Pháp luật của các nhà nƣớc nói chung và pháp luật Việt Nam nói riêng đều đƣợc thiết lập dựa trên những nguyên tắc nhất định, đó là những tƣ tƣởng pháp lý chỉ đạo có tính chất xuất phát điểm, thể hiện sự toàn diện và có ý nghĩa bao quát, quyết định sự đúng đắn về nội dung, chất lƣợng và hiệu quả của pháp luật, cũng nhƣ quá trình xây dựng, thực hiện và bảo vệ pháp luật. Việc xây dựng các quy định cụ thể của pháp luật tố tụng dân sự và thực tiễn tố tụng dân sự tại Toà án cũng phải trên cơ sở những nguyên tắc nhất định. Đó là những quy phạm chỉ đạo, mang tính chất cơ sở, nền tảng cho toàn bộ quy trình TTDS. Các quy phạm này là một bộ phận cấu thành của pháp luật TTDS, có tính ổn định, bền vững, ít thay đổi hơn so với các quy phạm pháp luật TTDS khác. Tuy nhiên, sự ổn định đó chỉ mang tính chất tƣơng đối và có thể thay đổi cho phù hợp hơn với các điều kiện kinh tế - xã hội. Vấn đề chứng minh và chứng cứ là những vấn đề có tính quan trọng
  • 14. 8 hàng đầu trong việc xác định sự thật khách quan, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các đƣơng sự. Do vậy, pháp luật ngoài việc phải định ra các nguyên tắc về cung cấp chứng cứ và chứng minh (mối quan hệ giữa đƣơng sự và Toà án) cũng cần phải xây dựng bên cạnh đó nguyên tắc về trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền (mối quan hệ phối hợp giữa Toà án và các chủ thể khác) nhằm tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động tố tụng dân sự của Toà án đƣợc tiến hành thuận lợi. Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong tố tụng dân sự là một trong những nguyên tắc cơ bản trong TTDS đã đƣợc ghi nhận tại Điều 7 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 và đƣợc sửa đổi, bổ sung tại khoản 1 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2011. Đây là một nguyên tắc mới đƣợc đƣa vào trong pháp luật tố tụng dân sự, do vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu nhằm làm rõ bản chất của nguyên tắc này và mối liên hệ của nó với nguyên tắc chứng minh trong tố tụng dân sự là rất cần thiết. Về ngôn ngữ học, theo Từ điển Tiếng Việt thì thuật ngữ “trách nhiệm” đƣợc hiểu là “điều phải làm, phải gánh vác hoặc phải nhận lấy về mình” [48, tr.1678]. Dƣới góc nhìn lý luận thì Toà án chỉ có thể giải quyết đúng đắn các vụ việc dân sự khi có đầy đủ chứng cứ để làm sáng tỏ các tình tiết, sự kiện có liên quan. Do vậy, chứng cứ có một vai trò, ý nghĩa rất quan trọng trong tố tụng dân sự và việc xây dựng các quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động cung cấp, thu thập chứng cứ của Toà án là rất cần thiết. Theo lịch sử tố tụng dân sự từ trƣớc đến nay, nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trƣớc hết luôn thuộc về đƣơng sự. Bởi họ là ngƣời đƣa ra yêu cầu hoặc là chủ thể của quan hệ pháp luật tranh chấp, họ là ngƣời trong cuộc, biết rõ nguyên nhân, điều kiện phát sinh tranh chấp, biết rõ các tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ việc của mình có những gì và đang ở đâu. Bên
  • 15. 9 cạnh đó, khi khởi kiện cũng nhƣ khi đƣa ra yêu cầu phản tố, bao giờ đƣơng sự cũng là ngƣời ở thế chủ động, vì vậy họ phải đƣa ra chứng cứ và những lý lẽ để chứng minh, bảo vệ cho quyền lợi của mình. Đƣơng sự phản đối yêu cầu cũng phải đƣa ra đƣợc chứng cứ, lý lẽ chứng minh thì sự phản đối của họ mới thuyết phục đƣợc Toà án. Tuy nhiên, trên thực tế, chứng cứ của vụ việc dân sự có thể do các đƣơng sự lƣu giữ, nhƣng cũng có thể do các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác lƣu giữ. Xét thực tiễn ở Việt Nam, do nhiều nguyên nhân khác nhau, việc phổ cập các thông tin, đặc biệt là các tài liệu, giấy tờ liên quan đến quyền sở hữu nhà ở, quyền tài sản, quyền sử dụng đất… vẫn còn hạn chế; các tài liệu, giấy tờ, văn bản này hiện đang do một số cơ quan nhà nƣớc có trách nhiệm bảo quản, quản lý và vì nhiều lý do khác nhau các thông tin này vẫn chƣa đƣợc số hoá để công khai cho mọi tầng lớp nhân dân. Do vậy, đƣơng sự sẽ không thực hiện đƣợc việc bảo vệ quyền lợi của mình và Toà án sẽ không thể giải quyết vụ án nếu những cá nhân, cơ quan, tổ chức này không hợp tác hoặc chậm trễ trong việc cung cấp những tài liệu, giấy tờ, văn bản có liên quan đến vụ việc dân sự. Chính vì vậy, pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, một mặt đề cao trách nhiệm chứng minh của đƣơng sự với vai trò hỗ trợ của Toà án nhằm phát huy hơn nữa vai trò tích cực, chủ động của đƣơng sự trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, mặt khác ràng buộc trách nhiệm của các cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong việc tạo điều kiện thuận lợi để đƣơng sự và Toà án có thể tiếp cận tài liệu, chứng cứ một cách công khai, bình đẳng và minh bạch. Việc nghiên cứu cho thấy trong tố tụng dân sự, trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đƣợc quy định là một nguyên tắc cơ bản của luật TTDS. Tuy nhiên, trong tố tụng hình sự, trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức chƣa đƣợc quy
  • 16. 10 định là một trong những nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự. Điều 65 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 chỉ quy định chung là: Để thu thập chứng cứ, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án có quyền triệu tập những ngƣời biết về vụ án để hỏi và nghe họ trình bày về những vấn đề có liên quan đến vụ án, trƣng cầu giám định, tiến hành khám xét, khám nghiệm và các hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, trình bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ án…[19] Nhƣ vậy, pháp luật tố tụng hình sự mới chỉ quy định một cách chung chung về quyền yêu cầu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án mà không quy định về trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức khi không thực hiện yêu cầu này. Để có thể đƣa ra khái niệm đầy đủ về nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong tố tụng dân sự, trƣớc hết cần làm rõ nội hàm chủ yếu, cơ bản của nguyên tắc này. Có thể nhận thấy hai vấn đề cần phải đặt ra là trách nhiệm cung cấp chứng cứ, tài liệu với ai và trách nhiệm nhƣ thế nào. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự nếu thấy chứng cứ mà đƣơng sự giao nộp chƣa đủ cơ sở để giải quyết, Toà án có thể giải thích cho đƣơng sự biết về quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đang lƣu giữ chứng cứ, tài liệu cung cấp chứng cứ, tài liệu. Đƣơng sự sẽ là chủ thể đầu tiên có quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lƣu giữ chứng cứ, tài liệu cung cấp chứng cứ, tài liệu cho mình. Bởi trong tố tụng dân sự, đƣơng sự là chủ thể có nghĩa vụ chứng minh và cung cấp chứng cứ. Những chứng cứ có liên quan đến vụ việc dân sự phải đƣợc đƣơng sự cung cấp cho Toà án để làm căn cứ chứng minh cho yêu cầu hay sự phản đối yêu cầu của đƣơng sự. Vì
  • 17. 11 vậy, cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lƣu giữ chứng cứ có trách nhiệm cung cấp chứng cứ, tài liệu cho đƣơng sự để đƣơng sự thực hiện đƣợc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của mình. Khi biết chứng cứ (các tài liệu đọc đƣợc, nghe đƣợc, nhìn đƣợc, các vật chứng) đang do cá nhân, cơ quan, tổ chức quản lý, lƣu giữ thì đƣơng sự có quyền tự mình yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ. Nếu cá nhân, cơ quan, tổ chức không cung cấp chứng cứ cho đƣơng sự thì đƣơng sự có quyền yêu cầu Toà án hỗ trợ trong việc thu thập chứng cứ. Với tƣ cách là cơ quan bảo vệ công lý, Toà án ra quyết định yêu cầu các chủ thể đang lƣu giữ chứng cứ, tài liệu cung cấp cho Toà án để làm cơ sở cho việc giải quyết vụ việc dân sự. Toà án có thể ấn định một thời hạn hợp lý để cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lƣu giữ chứng cứ, tài liệu cung cấp cho Toà án. Bên cạnh quyền yêu cầu của đƣơng sự và Toà án thì Viện kiểm sát cũng có quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp chứng cứ, tài liệu. Trong tố tụng dân sự, Viện kiểm sát có hai chức năng, đó là kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình tố tụng dân sự và kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Quyền yêu cầu cung cấp chứng cứ, tài liệu cần đƣợc trao cho Viện kiểm sát để chủ thể này thực hiện chức năng kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm. Theo đó, để đảm bảo cho việc thực hiện thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm, Viện kiểm sát cũng có quyền yêu cầu đƣơng sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp hồ sơ, tài liệu, vật chứng. Quyền yêu cầu này đƣợc thực hiện trƣớc hết là trong trƣờng hợp Viện kiểm sát thu thập hồ sơ, tài liệu, vật chứng để bảo đảm thực hiện quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Ngoài ra, quyền yêu cầu cung cấp chứng cứ, tài liệu của Viện kiểm sát còn đƣợc thực hiện ngay cả khi đã kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm, nhằm bảo
  • 18. 12 vệ quan điểm kháng nghị của Viện kiểm sát tại phiên tòa, phiên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Nhƣ vậy, quyền yêu cầu cung cấp chứng cứ, tài liệu của Viện kiểm sát có thể thực hiện vào thời điểm xem xét việc kháng nghị, hoặc cũng có thể thực hiện sau khi đã thực hiện quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm. Việc cung cấp chứng cứ, tài liệu đƣợc hiểu là việc mà cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc phải thực hiện khi đƣợc yêu cầu, nó đƣợc coi là một nghĩa vụ tố tụng dân sự đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức, nếu không thực hiện nghĩa vụ thì sẽ phải gánh chịu một hậu quả. Trách nhiệm đó thể hiện ở việc cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lƣu giữ chứng cứ, tài liệu phải cung cấp đầy đủ, kịp thời chứng cứ, tài liệu theo yêu cầu của đƣơng sự để họ có thể cung cấp chứng cứ, tài liệu cho Toà án theo đúng thời hạn luật định. Đối với Toà án, Viện kiểm sát - là các cơ quan tiến hành tố tụng thì cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lƣu giữ chứng cứ, tài liệu phải cung cấp đầy đủ, kịp thời chứng cứ, tài liệu trong thời hạn do các chủ thể này ấn định để bảo đảm cho việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan này. Pháp luật cũng cần phải đặt ra chế tài đối với trƣờng hợp cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lƣu giữ chứng cứ, tài liệu không thực hiện hoặc thực hiện không tốt nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, tài liệu theo yêu cầu của đƣơng sự, Toà án, Viện kiểm sát để bảo đảm việc thực hiện trách nhiệm của các chủ thể này. Tùy theo chủ thể vi phạm hoặc mức độ vi phạm mà hành vi vi phạm có thể bị xử lý theo chế tài kỷ luật, hành chính hoặc hình sự. Nhƣ vậy, có thể rút ra kết luận là nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền là một trong những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự, xác định trách nhiệm phối hợp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đang lưu giữ, quản lý chứng cứ, tài liệu trong việc cung cấp đầy đủ, kịp thời chứng cứ, tài liệu liên quan đến
  • 19. 13 vụ việc dân sự khi có yêu cầu của đương sự, Toà án hoặc Viện kiểm sát đồng thời xác định trách nhiệm pháp lý của các chủ thể này trong trường hợp không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ, kịp thời trách nhiệm của mình. 1.1.2 Ý nghĩa của nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền Trƣớc hết, có thể nhận thấy rằng việc quy định trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền là một nguyên tắc cơ bản trong TTDS, đã thể hiện sự quan tâm của nhà lập pháp Việt Nam tới trách nhiệm phối hợp giữa các công dân, cơ quan hành chính và cơ quan tƣ pháp trong việc thực hiện nhiệm vụ chung, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động thu thập chứng cứ của Toà án, Viện kiểm sát đƣợc thuận lợi, giúp cho công dân nhận thức đƣợc nghĩa vụ tố tụng dân sự của mình mà thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền còn góp phần tạo cơ sở pháp lý cho đƣơng sự thực hiện quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ chứng minh. Trong TTDS, chủ thể có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ là đƣơng sự. Tuy nhiên, trên thực tế, chứng cứ không phải bao giờ cũng do đƣơng sự nắm giữ, quản lý mà có thể có trƣờng hợp chứng cứ của vụ việc đang do cá nhân, cơ quan, tổ chức khác lƣu giữ. Khi đó, để thực hiện đƣợc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Toà án thì đƣơng sự có quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lƣu giữ chứng cứ cung cấp chứng cứ đó cho mình. Theo đó, khi chứng cứ do cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền lƣu giữ, quản lý thì chủ thể đầu tiên có quyền yêu cầu cung cấp chứng cứ là đƣơng sự, và chỉ khi đƣơng sự không thể tự mình thu thập đƣợc thì Toà án mới tiến hành thu thập chứng cứ. Nhƣ vậy, quy định này đã mang lại ý nghĩa to lớn trong việc giúp đƣơng sự thực hiện đƣợc quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của mình, phát huy hơn nữa vai trò chủ động,
  • 20. 14 tích cực của họ trong việc giải quyết tranh chấp vì lợi ích của chính mình, tạo điều kiện để họ có thể bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Ngoài ý nghĩa với đƣơng sự, nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức còn có ý nghĩa trong việc giúp Toà án có đầy đủ cơ sở để giải quyết đúng đắn, nhanh chóng vụ việc dân sự. Trong TTDS chứng cứ có vai trò vô cùng quan trọng đối với việc giải quyết vụ việc dân sự của Toà án, là phƣơng tiện quan trọng để Toà án nhận biết đƣợc sự thật của vụ việc, giải quyết đƣợc vụ việc dân sự một cách công minh, có căn cứ và hợp pháp. Khi chứng cứ đƣợc cung cấp cho Toà án một cách trung thực và đầy đủ, chắc hẳn việc giải quyết vụ án sẽ đơn giản và nhanh chóng hơn rất nhiều. Vì vậy, khi cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đang lƣu giữ, quản lý chứng cứ thì chứng cứ đó phải đƣợc cung cấp cho Toà án cho dù họ không có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến quan hệ pháp luật đang có tranh chấp. Việc quy định trách nhiệm này sẽ giúp cho Toà án có đầy đủ chứng cứ, có cơ sở để làm rõ sự thật của vụ việc, và đƣa ra phán quyết cuối cùng một cách chính xác. Đồng thời, nguyên tắc này cũng quy định việc cung cấp chứng cứ phải đƣợc thực hiện kịp thời, trong thời hạn luật định. Điều này sẽ giúp Toà án giải quyết đƣợc nhanh chóng vụ việc dân sự, tránh đƣợc trƣờng hợp vi phạm thời hạn tố tụng hoặc dẫn đến án tồn đọng do sự chậm trễ cung cấp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức. Bên cạnh đó, nguyên tắc nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có ý nghĩa hỗ trợ cho Viện kiểm sát thực hiện tốt chức năng của mình theo quy định của pháp luật TTDS. Nguyên tắc này đã ghi nhận quyền yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ của Viện kiểm sát bên cạnh quyền yêu cầu của Toà án. Theo đó, Viện kiểm sát có quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp tài liệu, chứng cứ cho mình để xem xét việc có kháng nghị hay không, hoặc khi đã ra quyết định
  • 21. 15 kháng nghị, Viện kiểm sát có quyền yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ để bảo vệ quan điểm kháng nghị của mình tại phiên tòa, phiên họp giải quyết vụ việc dân sự. Nhƣ vậy, tài liệu, chứng cứ đƣợc cung cấp có thể là cơ sở để Viện kiểm sát quyết định có kháng nghị hay không, hoặc nhờ có tài liệu, chứng cứ đó, quan điểm kháng nghị của Viện kiểm sát mới đƣợc coi là có căn cứ, là hợp pháp, khi đó mới thuyết phục đƣợc Toà án chấp nhận kháng nghị. Với vai trò đó của chứng cứ, nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đã góp phần quan trọng trong việc giúp Viện kiểm sát thực hiện đƣợc thẩm quyền kháng nghị của mình. Cuối cùng, nguyên tắc nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có ý nghĩa trong việc đề cao trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc phối hợp với Toà án giải quyết vụ việc dân sự. Việc ghi nhận nguyên tắc trách nhiệm cung cấp của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền sẽ đề cao đƣợc trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc phối hợp với Toà án giải quyết vụ việc dân sự. Nhƣ vậy, nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền có ý nghĩa to lớn trƣớc hết đối với đƣơng sự, giúp đƣơng sự thực hiện đƣợc quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của mình, phát huy hơn nữa vai trò chủ động, tích cực của họ trong việc giải quyết tranh chấp vì lợi ích của chính mình, bên cạnh đó, giúp Toà án và Viện kiểm sát có cơ sở để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình một cách đúng đắn, kịp thời, đồng thời, góp phần nâng cao trách nhiệm phối hợp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc giải quyết vụ việc dân sự. 1.2 CƠ SỞ CỦA NGUYÊN TẮC TRÁCH NHIỆM CUNG CẤP TÀI LIỆU, CHỨNG CỨ CỦA CÁ NHÂN, CƠ QUAN, TỔ CHỨC CÓ THẨM QUYỀN Trong TTDS, để đảm bảo cho việc giải quyết vụ việc dân sự đƣợc nhanh chóng, đúng đắn, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đƣơng sự,
  • 22. 16 pháp luật đã ghi nhận nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Nguyên tắc này xác định trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền phải cung cấp đầy đủ, đúng thời hạn chứng cứ, tài liệu do mình quản lý, lƣu giữ khi có yêu cầu của đƣơng sự, Toà án, hoặc Viện kiểm sát và phải chịu trách nhiệm trƣớc pháp luật về việc cung cấp tài liệu, chứng cứ đó. Nguyên tắc này đƣợc hình thành và phát triển là dựa trên những cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn nhất định. - Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền được xây dựng trên cơ sở chủ trương, đường lối của Đảng về hoàn thiện pháp luật và cải cách tư pháp. Theo đánh giá tình hình công tác tƣ pháp trong những năm qua tại Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, công tác tƣ pháp đã đạt đƣợc nhiều kết quả, góp phần quan trọng vào việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân… Tuy nhiên, chất lƣợng công tác tƣ pháp nói chung vẫn chƣa ngang tầm với yêu cầu và đòi hỏi của nhân dân. Một trong những nguyên nhân của tồn tại, hạn chế đó là vì pháp luật trong lĩnh vực tƣ pháp chƣa hoàn thiện, chƣa đồng bộ và còn nhiều sơ hở. Để khắc phục những hạn chế nói trên, Đảng ta đã đƣa ra một số quan điểm chỉ đạo, nhiệm vụ nhằm đẩy mạnh công tác tƣ pháp trong thời gian tới. Liên quan đến việc hoàn thiện pháp luật về tƣ pháp, Nghị quyết 08-NQ/TW đã đƣa ra nhiệm vụ khẩn trƣơng ban hành Bộ luật tố tụng dân sự và một số luật, pháp lệnh khác làm cơ sở pháp lý cho hoạt động của các cơ quan tƣ pháp. Thực hiện Nghị quyết 08-NQ/TW, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 đã đƣợc ban hành, trong đó có bổ sung nguyên tắc trách nhiệm cung cấp chứng cứ, tài liệu của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Tiếp đó, Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về
  • 23. 17 chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020 có đƣa ra một số nhiệm vụ cải cách tƣ pháp có liên quan đến pháp luật tố tụng dân sự: “Tiếp tục hoàn thiện thủ tục tố tụng dân sự. Nghiên cứu thực hiện và phát triển các loại hình dịch vụ từ phía nhà nước để tạo điều kiện cho các đương sự chủ động thu thập chứng cứ chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình” [2]. Nhƣ vậy, sự ra đời và phát triển của nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong tố tụng dân sự bƣớc đầu đã đáp ứng đƣợc nhiệm vụ mà Nghị quyết 49 đề ra về hoàn thiện thủ tục tố tụng dân sự, cải cách tƣ pháp. - Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền được xây dựng trên cơ sở mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nghị quyết 08-NQ/TW về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tƣ pháp trong thời gian tới” ngày 02/01/2002 và Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về cải cách tƣ pháp của Bộ chính trị đều có đƣa ra một số quan điểm chỉ đạo về việc cải cách tƣ pháp, trong đó quan điểm cải cách tƣ pháp phải đặt dƣới sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng, bảo đảm sự ổn định chính trị, bản chất Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quyền lực nhà nƣớc là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp đƣợc đƣa lên hàng đầu. Bên cạnh đó, Điều 2 Hiến pháp nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992 sửa đổi, bổ sung 2001 cũng có quy định: “…Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” [17]. Nhƣ vậy, theo quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nƣớc ta, quyền lực
  • 24. 18 nhà nƣớc là thống nhất, không phân chia nhƣng trong tổ chức bộ máy nhà nƣớc XHCN có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tƣ pháp. Đó là sự phân công lao động hợp lý giữa các hệ thống cơ quan nhà nƣớc và giữa các cơ quan trong từng hệ thống, tránh sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa ba quyền cũng nhƣ trong nhiệm vụ, chức năng của từng cơ quan, bảo đảm sự vận hành nhịp nhàng của từng cơ quan, sự phối hợp đồng bộ của cả bộ máy nhà nƣớc thực hiện quyền lực tập trung của nhà nƣớc. Đối với hoạt động tƣ pháp, để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, các cơ quan tƣ pháp cần phải có sự phối hợp, hỗ trợ của các cơ quan lập pháp và hành pháp. Đặc biệt, Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 đều đƣa ra quan điểm chỉ đạo phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội tham gia vào công tác tƣ pháp. Các cơ quan tƣ pháp phải dựa vào nhân dân để hoạt động, đồng thời phải là lực lƣợng nòng cốt, là chỗ dựa vững chắc của nhân dân trong đấu tranh phòng chống tội phạm, các hành vi vi phạm pháp luật và giải quyết tranh chấp. Nhƣ vậy, để hoạt động tƣ pháp đạt hiệu quả tốt nhất thì cần có sự tham gia phối hợp của nhân dân, của toàn xã hội, trong đó có các cơ quan nhà nƣớc và các tổ chức. Sự phối hợp này có thể đƣợc thực hiện trong nhiều khâu, nhiều hoạt động cụ thể của hoạt động tƣ pháp, trong đó có hoạt động xét xử. Để thực hiện tốt hoạt động xét xử, đƣa ra đƣợc những bản án, quyết định một cách công minh, đúng pháp luật, thì công tác thu thập chứng cứ đóng một vai trò quan trọng. Trong tố tụng dân sự, chứng cứ trƣớc hết sẽ do đƣơng sự cung cấp. Tuy nhiên, trong một số trƣờng hợp, đƣơng sự không lƣu giữ chứng cứ mà do cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền lƣu giữ, quản lý thì rất cần sự hỗ trợ, phối hợp từ phía các cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Sự hỗ trợ, phối hợp trong trƣờng hợp này thể hiện ở việc cung cấp đầy đủ và đúng thời hạn những chứng cứ đƣợc yêu cầu. Điều đó sẽ giúp cho hoạt động xét xử
  • 25. 19 của Toà án đƣợc thực hiện một cách đúng đắn và nhanh chóng, bảo vệ đƣợc quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức. Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thể hiện trách nhiệm phối hợp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong việc cung cấp tài liệu, chứng cứ do mình quản lý, lƣu giữ khi có yêu cầu. Việc quy định nguyên tắc này là hoàn toàn phù hợp với quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nƣớc đã nêu ở trên. - Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền được xây dựng trên cơ sở mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân. Điều 51 Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung 2001 có quy định: “Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân. Nhà nước bảo đảm các quyền của công dân; công dân phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và xã hội. Quyền và nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và luật quy định”. [17] Nhƣ vậy, các quyền của công dân đƣợc pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Mọi hành động xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân đều bị xử lý theo pháp luật. Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân có thể đƣợc Nhà nƣớc thực hiện bằng nhiều cách thức, trong đó, thông qua hoạt động tƣ pháp đƣợc coi là một công cụ hữu hiệu. Khi quyền và lợi ích của các bên bị tranh chấp hoặc xâm phạm thì có thể khởi kiện ra Toà án, khi đó, Toà án với tƣ cách là cơ quan xét xử duy nhất sẽ xem xét, giải quyết vụ việc và đƣa ra phán quyết cuối cùng, xác định ai đúng ai sai. Nhƣ vậy, Nhà nƣớc có thể bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân thông qua hoạt động tƣ pháp. Ngƣợc lại, công dân cũng phải có nghĩa vụ, trách nhiệm đối với hoạt động tƣ pháp của Nhà nƣớc để hoạt động này đạt hiệu quả cao nhất. Chẳng hạn, khi cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền yêu cầu cá nhân cung cấp chứng
  • 26. 20 cứ, tài liệu mà các chủ này đang lƣu giữ, quản lý để phục vụ cho hoạt động xét xử thì những chủ thể này phải có trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ với Toà án, thực hiện theo yêu cầu của các cơ quan có thẩm quyền. Sự phối hợp, hợp tác trong trƣờng hợp này sẽ góp phần làm cho hoạt động tƣ pháp đƣợc thực hiện một cách nhanh chóng, chính xác. Trách nhiệm phối hợp, hợp tác trong trƣờng hợp này cũng đƣợc coi là nghĩa vụ của công dân đối với các hoạt động của Nhà nƣớc. - Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền được xây dựng trên cơ sở bảo đảm quyền tiếp cận công lý của đương sự, tạo cơ sở pháp lý cho đương sự có thể thực hiện được việc bảo vệ quyền lợi của mình. Theo kết quả nghiên cứu thì tiếp cận công lý là khả năng của công dân có thể tìm kiếm và đạt đƣợc một sự đền bù hoặc khắc phục cho những bất công hoặc thiệt hại do cá nhân hay chủ thể khác gây ra, thông qua các cơ chế tƣ pháp chính thống hoặc không chính thống phù hợp với các nguyên tắc và tiêu chuẩn quốc tế về quyền con ngƣời [8, tr.188-194]. Nhƣ vậy quyền tiếp cận công lý là khả năng chủ thể yêu cầu nhà nƣớc tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để sử dụng pháp luật nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi của mình tại cơ quan nhà nƣớc khi có tranh chấp hoặc xử lý vi phạm. Việc đảm bảo quyền tiếp cận công lý của công dân luôn gắn với vấn đề thực thi công lý của Toà án. Khi có tranh chấp không tự hòa giải đƣợc, ngƣời dân phải tìm đến Toà án để phân giải đúng sai, khi có vi phạm thì Toà án là nơi cuối cùng để xử lý trách nhiệm trên cơ sở công lý. Quá trình yêu cầu Toà án thực thi công lý chính là quá trình tiếp cận công lý của công dân. Để đảm bảo việc thực thi công lý của Toà án thì chứng cứ đóng một vai trò quan trọng, gần nhƣ mang tính quyết định. Bởi chỉ khi nào chứng cứ đƣợc cung cấp
  • 27. 21 một cách đầy đủ thì Toà án mới có cơ sở để tìm ra sự thật khách quan của các vụ việc, từ đó mới đƣa ra đƣợc phán quyết đúng đắn, bảo vệ đƣợc quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự. Vì vậy, trong trƣờng hợp chứng cứ liên quan đến vụ việc dân sự đang do các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác lƣu giữ, thì những cá nhân, cơ quan, tổ chức đó có trách nhiệm phải cung cấp chứng cứ cho đƣơng sự, cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền để đảm bảo quá trình giải quyết vụ việc dân sự của Toà án, mà cũng chính là quá trình thực thi công lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể. - Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền được thiết lập trên cơ sở nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự. Để đƣơng sự thực hiện đƣợc nghĩa vụ chứng minh của mình và Toà án có thể thu thập chứng cứ, tài liệu cần thiết để giải quyết vụ việc dân sự, pháp luật tố tụng dân sự đã thiết lập nguyên tắc trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền nhằm bảo đảm và hỗ trợ thực hiện nguyên tắc về cung cấp chứng cứ và chứng minh. Trong TTDS, khi đƣa ra yêu cầu hay bác bỏ yêu cầu của ngƣời khác, đƣơng sự có quyền, nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh để làm rõ căn cứ yêu cầu của mình hay căn cứ bác bỏ yêu cầu của ngƣời khác. Tuy nhiên, trong một số trƣờng hợp, chứng cứ liên quan đến vụ việc dân sự lại không do đƣơng sự nắm giữ, quản lý. Khi đó, muốn thực hiện đƣợc quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Toà án thì đƣơng sự có quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ cho mình. Trên cơ sở đó, nguyên tắc trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ra đời một phần là để đảm bảo thực hiện đƣợc nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự. Khi chứng cứ liên quan đến vụ việc dân sự đang do cá nhân, cơ quan, tổ chức khác lƣu giữ, quản lý thì ngƣời có quyền yêu cầu cung cấp trƣớc hết là đƣơng sự. Đƣơng sự có quyền yêu cầu cá nhân,
  • 28. 22 cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ cho mình để thực hiện đƣợc quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ khi yêu cầu Toà án giải quyết vụ việc dân sự. Tuy nhiên, tùy vào đặc thù từng loại chứng cứ mà có thể đƣơng sự sẽ không dễ dàng thu thập đƣợc chứng cứ. Khi đó, Toà án với tƣ cách là cơ quan công lý giữ gìn trật tự, kỷ cƣơng xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân có trách nhiệm hƣớng dẫn các bên cung cấp chứng cứ, có nghĩa vụ xác minh chứng cứ các bên đƣa ra và hỗ trợ các bên đƣơng sự khi họ không thể tự mình thu thập đƣợc và có yêu cầu. Khi đƣơng sự không tự mình thu thập đƣợc chứng cứ mặc dù đã áp dụng các biện pháp cần thiết thì có thể yêu cầu Toà án thu thập chứng cứ, và Toà án có quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lƣu giữ chứng cứ cung cấp chứng cứ cho mình. Việc yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp chứng cứ là một trong những biện pháp thu thập chứng cứ của Toà án, nhằm hỗ trợ đƣơng sự khi đƣơng sự không thể tự mình thu thập đƣợc chứng cứ. Sở dĩ Toà án có trách nhiệm hỗ trợ đƣơng sự trong việc thu thập chứng cứ từ các cá nhân, cơ quan, tổ chức là bởi vì Toà án là cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện chức năng xét xử, thiết lập lại các quan hệ nội dung bị vi phạm hay tranh chấp, bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Ngoài ra, có những trƣờng hợp các cơ quan công quyền, các tổ chức xã hội trì trệ trong việc cung cấp thông tin cho đƣơng sự dẫn đến bản thân đƣơng sự không thể thực hiện đƣợc việc thu thập chứng cứ nên cần phải có sự hỗ trợ, can thiệp của Toà án. Nhƣ vậy, có thể coi nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ra đời đã cụ thể hóa hơn vai trò của Toà án trong việc hỗ trợ đƣơng sự thu thập chứng cứ và góp phần đảm bảo giúp đƣơng sự thực hiện đƣợc quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ trong tố tụng dân sự.
  • 29. 23 - Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền được ghi nhận xuất phát từ cơ sở chứng cứ, tài liệu do cá nhân, cơ quan, tổ chức lưu giữ có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ việc dân sự. Việc phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các đƣơng sự gắn liền với những sự kiện, hành vi pháp lý nhất định. Do đó, khi có tranh chấp hoặc yêu cầu dân sự và các đƣơng sự yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, thì việc đƣa ra những chứng cứ chứng minh sự tồn tại của sự kiện hay hành vi pháp lý nào đó làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự đang có tranh chấp mang ý nghĩa quyết định. Những chứng cứ đó sẽ chứa đựng những tin tức, dấu vết về các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự và có khả năng làm sáng tỏ những vấn đề cần chứng minh trong vụ việc dân sự một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Cho dù chứng cứ đó đang do đƣơng sự quản lý hay do cá nhân, cơ quan, tổ chức khác lƣu giữ, quản lý thì nó cũng liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các đƣơng sự và có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ việc dân sự của Toà án, có thể gián tiếp hoặc trực tiếp giúp Toà án đƣa ra đƣợc phán quyết cuối cùng. Vì vậy, nếu chứng cứ đó đang do cá nhân, cơ quan, tổ chức khác lƣu giữ, quản lý thì cần phải đƣợc cung cấp cho Toà án để Toà án có cơ sở giải quyết vụ việc dân sự. - Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền được hình thành từ yêu cầu của thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự nhằm khắc phục tình trạng án tồn đọng, kéo dài, kém hiệu quả trong hoạt động giải quyết án kiện của Toà án. Việc cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền có đƣợc thực hiện hay không phần lớn phụ thuộc vào ý thức pháp luật của các chủ thể. Các cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền có thể vì một số lý do chủ quan mà không có sự hợp tác, không cung cấp chứng cứ khi có
  • 30. 24 yêu cầu. Chẳng hạn nhƣ do có sai sót trong công tác chuyên môn nên các cơ quan, tổ chức cố tình không cung cấp tài liệu, chứng cứ. Vì các chứng cứ đang do cơ quan, tổ chức quản lý nên chứng cứ đó chắc chắn có liên quan đến hoạt động chuyên môn của các cơ quan, tổ chức. Khi đã có sự sai sót trong hoạt động chuyên môn, để tránh phải chịu trách nhiệm có thể họ sẽ không cung cấp tài liệu, chứng cứ khi có yêu cầu để che đậy những sai sót đó. Mặt khác nếu việc quản lý, lƣu trữ tài liệu của cơ quan, tổ chức đó không đƣợc thực hiện một cách khoa học, không có tính hệ thống, khi đó việc lật lại hồ sơ, tài liệu sẽ khó khăn và mất nhiều thời gian, nên cơ quan, tổ chức sẽ trì hoãn hoặc từ chối việc cung cấp tài liệu, chứng cứ khi có yêu cầu. Ngoài ra, việc không cung cấp chứng cứ, tài liệu cũng có thể xuất phát từ ý thức pháp luật của những cá nhân có trách nhiệm quản lý, lƣu giữ. Có thể họ cho rằng họ không liên quan đến tranh chấp giữa các đƣơng sự, vì vậy, việc cung cấp tài liệu, chứng cứ không phải là trách nhiệm của họ. Khi các cá nhân, cơ quan, tổ chức thiếu sự phối hợp, hợp tác với Toà án trong việc cung cấp chứng cứ có thể dẫn đến hậu quả án tồn đọng, kéo dài thời gian giải quyết vụ việc dân sự, làm giảm hiệu quả hoạt động giải quyết án kiện của Toà án. Để hạn chế việc cá nhân, cơ quan, tổ chức không cung cấp tài liệu, chứng cứ vì những lý do chủ quan đó, cần thiết phải xây dựng trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của các cá nhân, cơ quan, tổ chức thành một nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng dân sự để có cơ chế pháp lý ràng buộc các cá nhân, cơ quan, tổ chức, buộc các cá nhân, cơ quan, tổ chức phải cung cấp tài liệu, chứng cứ khi có yêu cầu và phải chịu trách nhiệm pháp lý khi không thực hiện theo yêu cầu đó. Nhƣ vậy, từ những cơ sở lý luận và cơ sở thực tế trên, cho thấy cần thiết và phải quy định trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của các cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thành một nguyên tắc cơ bản của tố
  • 31. 25 tụng dân sự để có cơ sở pháp lý ràng buộc các cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lƣu giữ tài liệu, chứng cứ thực hiện việc cung cấp tài liệu, chứng cứ khi có yêu cầu, tạo điều kiện giúp Toà án giải quyết nhanh chóng, đúng đắn vụ việc dân sự, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đƣơng sự. 1.3 SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NGUYÊN TẮC TRÁCH NHIỆM CUNG CẤP TÀI LIỆU, CHỨNG CỨ CỦA CÁ NHÂN, CƠ QUAN, TỔ CHỨC CÓ THẨM QUYỀN TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM Quá trình hình thành và phát triển của nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền gắn liền với sự hình thành và phát triển của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam và có thể chia thành các giai đoạn sau:  Giai đoạn từ năm 1989 trở về trước Trƣớc năm 1945, do nền kinh tế phong kiến lạc hậu, kém phát triển nên pháp luật cũng chƣa phát triển. Trong các văn bản pháp luật đƣợc ban hành chƣa có sự phân biệt rõ các lĩnh vực về hành chính, dân sự, hình sự và tố tụng. Các quy định về thủ tục giải quyết các tranh chấp dân sự thƣờng đƣợc quy định trong các văn bản về tố tụng hình sự. Tuy vậy, trong thời kỳ này pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam bƣớc đầu đã có sự phát triển. Những năm đầu thế kỷ XX, chính quyền phong kiến Việt Nam đã ban hành đƣợc hàng loạt các văn bản pháp luật có quy định về thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự nhƣ Bộ Bắc Kỳ pháp viện biên chế năm 1921, Bộ luật dân sự, thƣơng sự tố tụng Bắc Kỳ năm 1921, Bộ Trung Kỳ pháp viện biên chế 1935, Bộ luật dân sự, thƣơng sự tố tụng Trung kỳ năm 1935...v.v. Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công đã mở ra trang sử mới trong lịch sử phát triển của dân tộc, lập ra nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa. Từ ngày đầu thành lập, Nhà nƣớc ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật mới.
  • 32. 26 Trong đó, có nhiều văn bản có chứa đựng các quy phạm tố tụng dân sự nhƣ Sắc lệnh số 51 ngày 17/4/1946 ấn định thẩm quyền các Toà án; Sắc lệnh số 144/SL ngày 22/12/1949 mở rộng quyền bào chữa cho các đƣơng sự. Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tƣ pháp và luật tố tụng… Năm 1954, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta kết thúc thắng lợi, miền Bắc hoàn toàn giải phóng nhƣng miền Nam vẫn bị đặt dƣới sự thống trị của đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn cho tới năm 1975. Thời gian này chính quyền Sài Gòn cũng đã ban hành nhiều văn bản pháp luật tố tụng dân sự mới nhƣ Luật số I/62 ngày 8/1/1962 về quy chế luật sƣ và tổ chức luật sƣ đoàn; Bộ luật dân sự, thƣơng sự tố tụng ngày 20/12/1972. Nhìn chung các quy định pháp luật tố tụng dân sự của chính quyền Sài Gòn khá cụ thể, đã có những tiến bộ so với pháp luật tố tụng dân sự của chính quyền phong kiến Việt Nam trƣớc đó. Ở miền Bắc, từ những năm đầu hòa bình lập lại Nhà nƣớc ta đã ban hành một loạt những văn bản pháp luật tố tụng dân sự mới nhƣ Thông tƣ số 03/VHC ngày 2/4/1955 của Bộ tài chính và Bộ tƣ pháp sửa đổi tạm thời lệ phí về việc hộ; Nghị định số 87/NĐ-LB ngày 16/8/1955 của Bộ lao động và Bộ tƣ pháp về hòa giải xích mích giữa chủ và ngƣời làm công, Luật tổ chức Toà án nhân dân 1960, Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân 1960, Thông tƣ số 614/DS1 ngày 24/4/1963 hƣớng dẫn một số thủ tục tố tụng, Thông tƣ số 594/NCPL ngày 27/8/1968 hƣớng dẫn đƣờng lối xét xử các việc tranh chấp về thừa kế…v.v. Nhìn chung, trong giai đoạn từ năm 1989 trở về trƣớc Nhà nƣớc ta đã ban hành đƣợc một số văn bản pháp luật về tố tụng dân sự, quy định đƣợc tƣơng đối đầy đủ, hợp lý các vấn đề về tố tụng dân sự, tuy nhiên, những vấn đề này còn đƣợc quy định một cách tản mạn, chƣa thống nhất, chủ yếu đƣợc quy định trong các thông tƣ do Toà án nhân dân tối cao ban hành nên hiệu lực
  • 33. 27 chƣa cao. Rải rác trong một số văn bản trên có một số quy định về nguyên tắc mang tính cơ bản của thủ tục tố tụng dân sự nhƣ quyền độc lập của Toà án nhân dân khi xét xử, Toà án nhân dân xét xử có hội thẩm nhân dân tham gia, việc xét xử phải công khai… nhƣng nguyên tắc trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức thì vẫn chƣa đƣợc quy định. Tuy nhiên, trong một số văn bản pháp luật cụ thể nhƣ một số thông tƣ, công văn trong thời kỳ này cũng đã có những quy định liên quan đến trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Tại mục II Thông tƣ số 06-TATC ngày 25/2/1974 hƣớng dẫn việc điều tra trong tố tụng dân sự có quy định: Toà án nhân dân xử về mặt dân sự có thể sử dụng những kết quả điều tra trong hồ sơ của vụ án hình sự để xử lý về mặt dân sự…, Viện kiểm sát nhân dân hoặc Toà án nhân dân đã xử lý về mặt hình sự có thể chuyển cho Toà án nhân dân có nhiệm vụ xử lý về mặt dân sự hồ sơ hoặc những tài liệu cần thiết cho việc xử lý về mặt dân sự. Ngƣợc lại nếu xét thấy cần thiết, Toà án nhân dân có nhiệm vụ xử lý về mặt dân sự có thể tự mình yêu cầu Viện kiểm sát nhân dân hoặc Toà án nhân dân đã xử lý về mặt hình sự chuyển cho mình hồ sơ hoặc những tài liệu nói trên… [33, tr.60]. Cũng tại Thông tƣ này, mục III về phƣơng pháp điều tra có quy định: “Toà án nhân dân có thể yêu cầu các Ủy ban hành chính xã, khu phố, cơ quan, xí nghiệp, hợp tác xã đƣa cho Toà án xem xét và trích sao cho Toà án những sổ sách về kế toán, bản đồ về ruộng đất, nhà cửa, v.v… có liên quan đến việc kiện…” [33, tr.62]. Tại mục I Thông tƣ số 03-NCPL ngày 3/3/1966 của Toà án nhân dân tối cao về trình tự giải quyết việc ly hôn có quy định: “… Mức lƣơng hoặc thu nhập của mỗi bên phải đƣợc cơ quan hoặc tổ chức hữu quan chứng nhận để có căn cứ chính xác giải quyết vấn đề phí tổn nuôi con” [33, tr.68].
  • 34. 28 Nhƣ vậy, có thể khẳng định rằng, trong giai đoạn từ 1989 trở về trƣớc, các văn bản về tố tụng dân sự đã ra đời, tuy nhiên, còn tản mạn, chƣa có tính thống nhất. Trong những văn bản này cũng đã có những quy định cụ thể về trách nhiệm phối hợp của các cơ quan khác trong việc cung cấp chứng cứ để đảm bảo cho quá trình giải quyết án dân sự. Tuy nhiên, những quy định này còn chƣa mang tính khái quát, nhƣng đây cũng có thể coi là cơ sở bắt nguồn cho quá trình hình thành và phát triển của nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức sau này.  Giai đoạn từ năm 1990 đến năm 2004 Năm 1989, để đáp ứng yêu cầu của công tác xét xử và thi hành án dân sự Nhà nƣớc đã ban hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Pháp lệnh thi hành án dân sự. Sau Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự và Pháp lệnh thi hành án dân sự, nhiều văn bản pháp luật khác cũng đƣợc ban hành nhƣ Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1992, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1992, Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động năm 1996…v.v. Trong giai đoạn từ năm 1990 đến năm 2004 đã có nhiều văn bản pháp luật có hiệu lực cao đƣợc ban hành quy định về tố tụng dân sự. Đây có thể coi là giai đoạn khởi đầu cho quá trình hình thành hệ thống văn bản pháp luật thống nhất về tố tụng dân sự. Các văn bản pháp luật thời kỳ này đã quy định đƣợc khá đầy đủ các vấn đề về tố tụng dân sự, tuy nhiên vẫn còn khá tản mạn nhƣ các văn bản pháp luật của thời kỳ trƣớc. Đặc biệt, với sự ra đời của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994 và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động năm 1996 đã làm cho các quy định về tố tụng dân sự bị xé lẻ, thiếu tập trung, chồng chéo và mâu thuẫn dẫn đến việc khó khăn, lúng túng khi thực hiện. Tuy vậy, điều đáng ghi nhận trong thời kỳ này là
  • 35. 29 trong ba văn bản chính quy định về thủ tục tố tụng đã có những quy định chung mang tính nguyên tắc, nền tảng cho quá trình tố tụng dân sự. Một trong những quy định đƣợc ghi nhận đó là quy định về việc cung cấp, thu thập chứng cứ. Điều 3 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 có quy định: “Đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền lợi của mình. Toà án có nhiệm vụ xem xét mọi tình tiết của vụ án và khi cần thiết có thể thu thập thêm chứng cứ để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án được chính xác” [11]. Nhƣ vậy, trong giai đoạn khởi đầu này, pháp luật tố tụng dân sự cũng đã quy định nghĩa vụ cung cấp chứng cứ trƣớc hết thuộc về đƣơng sự. Tuy nhiên, trong trƣờng hợp cần thiết, Toà án vẫn có thể tiến hành thu thập chứng cứ. Quy định này đƣợc hiểu nhƣ là một quyền hạn của Toà án, khi xét thấy vụ án có tình tiết chƣa rõ ràng, họ có thể áp dụng các biện pháp thu thập thêm chứng cứ để đảm bảo cho việc giải quyết vụ án đƣợc chính xác. Những biện pháp này đƣợc quy định cụ thể tại Điều 38 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989: Điều 38. Việc điều tra trƣớc khi hoà giải, xét xử. 1- Để chuẩn bị cho việc hoà giải, xét xử, tuỳ trƣờng hợp, Toà án tiến hành những việc sau đây: a) Lấy lời khai của các đƣơng sự, ngƣời làm chứng về những vấn đề cần thiết; b) Yêu cầu cơ quan Nhà nƣớc, tổ chức xã hội hữu quan hoặc công dân cung cấp bằng chứng có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ án; c) Xem xét tại chỗ; d) Trƣng cầu giám định; đ) Yêu cầu cơ quan chuyên môn định giá hoặc lập hội đồng định giá tài sản có tranh chấp. 2- Viện kiểm sát có quyền yêu cầu Toà án hoặc tự mình
  • 36. 30 trƣng cầu giám định hoặc điều tra, xác minh những vấn đề cần làm sáng tỏ trong vụ án [11]. Điểm b khoản 1 Điều này có quy định một trong những biện pháp thu thập chứng cứ của Toà án là yêu cầu cơ quan Nhà nƣớc, tổ chức xã hội hữu quan hoặc công dân cung cấp bằng chứng có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ án. Đây có thể coi là tiền thân, là cơ sở hình thành cho nguyên tắc trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong pháp luật tố tụng dân sự hiện hành. Tuy vậy, điểm b khoản 1 Điều này mới chỉ quy định quyền hạn của Toà án trong việc yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp bằng chứng mà chƣa quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân nhƣ thế nào khi có yêu cầu của Toà án. Tiếp theo đó, Điều 4 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994 cũng quy định về việc xác minh, thu thập chứng cứ: “Khi cần thiết, Toà án có thể xác minh, thu thập chứng cứ để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án được chính xác” [45]. Quy định này cũng đƣợc cụ thể hóa tại Điều 35 Pháp lệnh này: …Việc xác minh, thu thập chứng cứ bao gồm: a) Yêu cầu đƣơng sự cung cấp, bổ sung chứng cứ hoặc trình bày về những vấn đề cần thiết; b) Yêu cầu cơ quan Nhà nƣớc, tổ chức hữu quan, cá nhân cung cấp bằng chứng có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ án; c) Yêu cầu ngƣời làm chứng trình bày về những vấn đề cần thiết... [45] Theo quy định này, một trong những biện pháp xác minh, thu thập chứng cứ của Toà án là yêu cầu cơ quan Nhà nƣớc, tổ chức hữu quan, cá nhân cung cấp bằng chứng có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ án. Tuy nhiên, quy định này vẫn mắc phải hạn chế nhƣ đối với Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự trƣớc đó, đó là không quy định trách nhiệm của cá nhân, cơ
  • 37. 31 quan, tổ chức khi có yêu cầu của Toà án, không quy định trách nhiệm của những chủ thể này khi không thực hiện yêu cầu cung cấp bằng chứng cho Toà án là nhƣ thế nào. Bên cạnh hai pháp lệnh trên, Điều 3 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động 1996 quy định về việc xác minh, thu thập chứng cứ: Khi cần thiết, Toà án tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ hoặc yêu cầu các bên tranh chấp lao động, cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan cung cấp tài liệu, chứng cứ để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án lao động đƣợc chính xác, công bằng. Các bên tranh chấp lao động, cơ quan, tổ chức, cá nhân đƣợc yêu cầu phải cung cấp đầy đủ và đúng thời hạn theo yêu cầu của Toà án [46]. Nhƣ vậy, trong giai đoạn này, pháp luật về tố tụng dân sự đã có sự ghi nhận về quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ trong quá trình tố tụng. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật giai đoạn này mới chỉ ghi nhận quyền yêu cầu của Toà án khi xét thấy cần thiết, mà không cho phép đƣơng sự chủ động yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức hữu quan cung cấp chứng cứ cho mình. Nhƣ vậy, có thể làm hạn chế khả năng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đƣơng sự. Mặt khác, quy định ở giai đoạn này còn mang tính hình thức, bởi nó mới chỉ ghi nhận quyền yêu cầu của Toà án, mà chƣa quy định về trách nhiệm thực hiện của cá nhân, cơ quan, tổ chức hữu quan. Chỉ đến khi Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động 1996 ra đời, pháp luật mới quy định trách nhiệm của các cá nhân, cơ quan, tổ chức hữu quan phải cung cấp tài liệu, chứng cứ đầy đủ và đúng thời hạn theo yêu cầu của Toà án. Và đây có thể coi là mốc khởi đầu cho quá trình hình thành và phát triển của nguyên tắc trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong tố tụng dân sự.
  • 38. 32  Giai đoạn từ năm 2005 trở đi Ngày 15 tháng 6 năm 2004, Quốc Hội nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI đã thông qua Bộ luật tố tụng dân sự đầu tiên của nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại kỳ họp thứ 5. Sự ra đời của bộ luật đƣợc đánh giá là một bƣớc ngoặt trong lịch sử phát triển pháp luật tố tụng dân sự. BLTTDS đã quy định đƣợc khá đầy đủ các vấn đề về tố tụng dân sự nhƣ các nguyên tắc cơ bản; thẩm quyền dân sự của Toà án; cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng và ngƣời tham gia tố tụng; chứng minh và chứng cứ trong tố tụng dân sự; biện pháp khẩn cấp tạm thời…, đặc biệt là bổ sung một số nguyên tắc mới trong tố tụng dân sự. So với các pháp lệnh về thủ tục tố tụng trƣớc đó, nhiều quy định trong thủ tục tố tụng dân sự cũng đƣợc quy định rõ hơn, cụ thể hơn trong phần các nguyên tắc. Nhƣ nguyên tắc trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quy định tại Điều 7. Nguyên tắc này là sự kế thừa quy định của pháp luật trong ba pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, các vụ án kinh tế và các tranh chấp lao động trƣớc đó, có sự sửa đổi, bổ sung nhằm bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của đƣơng sự. Theo đó, Điều 7 BLTTDS 2004 có quy định: Cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ cho đƣơng sự, Toà án chứng cứ trong vụ án mà cá nhân, cơ quan, tổ chức đó đang lƣu giữ, quản lý khi có yêu cầu của đƣơng sự, Toà án; trong trƣờng hợp không cung cấp đƣợc thì phải thông báo bằng văn bản cho đƣơng sự, Toà án biết và nêu rõ lý do của việc không cung cấp đƣợc chứng cứ [20]. Nhƣ vậy, theo quy định này, chủ thể có quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ là đƣơng sự và Toà án.
  • 39. 33 Đây là điểm mới của Bộ luật trong khi ba Pháp lệnh trƣớc chỉ quy định quyền yêu cầu thuộc về Toà án trong trƣờng hợp cần thiết. Việc bổ sung thêm quyền yêu cầu cung cấp chứng cứ của đƣơng sự đã làm tăng tính chủ động cho đƣơng sự trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình và nhƣ vậy có thể đẩy nhanh quá trình tố tụng, hơn nữa, quy định nhƣ vậy sẽ giảm đƣợc gánh nặng cho Toà án trong công tác tố tụng dân sự. Một số trƣờng hợp đƣơng sự có thể tự mình thu thập đƣợc chứng cứ nhờ có sự phối hợp, hỗ trợ của các cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan, khi đó đƣơng sự sẽ không cần sự hỗ trợ của Toà án trong việc thu thập chứng cứ và Toà án sẽ giảm đƣợc một số công việc phải làm trong hoạt động tố tụng dân sự. So với quy định trong ba pháp lệnh trƣớc đây thì nguyên tắc này cũng đã đƣợc quy định chặt chẽ hơn về trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức khi có yêu cầu cung cấp chứng cứ. Theo đó, pháp luật quy định: “…trong trường hợp không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự, Toà án biết và nêu rõ lý do của việc không cung cấp được chứng cứ” [20, Điều 7]. Quy định này đòi hỏi cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lƣu giữ chứng cứ phải có trách nhiệm phối hợp với đƣơng sự, Toà án trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Việc xác định trách nhiệm của cá nhân, tổ chức hữu quan chắc chắn sẽ là một bảo đảm về mặt pháp lý để việc giải quyết vụ việc dân sự đƣợc tiến hành theo đúng thủ tục tố tụng. Sau hơn 5 năm thi hành, Bộ luật tố tụng dân sự đã góp phần quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Tuy nhiên, khi triển khai thi hành BLTTDS cho thấy một số quy định của BLTTDS không tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định. Trƣớc thực tế đó, ngày 29-3-2011, Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 9 đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự, Nghị quyết thi hành Luật. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01-01-2012.
  • 40. 34 Một trong những nội dung đƣợc sửa đổi, bổ sung đó là nguyên tắc trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Nguyên tắc này đƣợc quy định tại Điều 7 BLTTDS, tuy nhiên, BLTTDS 2004 chƣa quy định về trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Việc này đã dẫn đến tình trạng thực tế “nhiều cơ quan, tổ chức chưa phối hợp chặt chẽ với Toà án, thậm chí chưa làm hết trách nhiệm của mình theo quy định của pháp luật trong việc cung cấp tài liệu, chứng cứ… làm cho công tác giải quyết, xét xử nhiều vụ án bị kéo dài hoặc phải ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án…” [37, tr.21] hoặc “…cùng một vấn đề nhưng nhiều trường hợp cơ quan có thẩm quyền có những văn bản xác nhận trái ngược nhau, ảnh hưởng đến việc giải quyết của Toà án” [38, tr.10], hoặc không thực hiện yêu cầu cung cấp chứng cứ cho đƣơng sự nên không ít các trƣờng hợp đƣơng sự đã gặp nhiều khó khăn trong việc tự mình thu thập chứng cứ. Khắc phục hạn chế đó, khoản 1 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung năm 2011 có sửa đổi, bổ sung Điều 7 BLTTDS 2004 nhƣ sau: Cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ và đúng thời hạn cho đƣơng sự, Toà án, Viện kiểm sát tài liệu, chứng cứ mà mình đang lƣu giữ, quản lý khi có yêu cầu của đƣơng sự, Toà án, Viện kiểm sát và phải chịu trách nhiệm trƣớc pháp luật về việc cung cấp tài liệu, chứng cứ đó; trong trƣờng hợp không cung cấp đƣợc thì phải thông báo bằng văn bản cho đƣơng sự, Toà án, Viện kiểm sát biết và nêu rõ lý do của việc không cung cấp đƣợc tài liệu, chứng cứ [21]. Điều luật sửa đổi này đã quy định nguyên tắc về trách nhiệm của các cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lƣu giữ tài liệu, chứng cứ hoặc quản lý tài liệu,
  • 41. 35 chứng cứ trong việc từ chối cung cấp tài liệu, chứng cứ mà không có lý do chính đáng; cung cấp không đầy đủ, kịp thời; cung cấp tài liệu, chứng cứ không chính xác theo yêu cầu của đƣơng sự, Toà án, Viện kiểm sát và quy định về biện pháp xử lý tại Điều 385, Điều 389 BLTTDS năm 2004 và khoản 21 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung năm 2011 sửa đổi Điều 94 BLTTDS 2004. Theo đó, tùy theo mức độ vi phạm, cá nhân, cơ quan, tổ chức có thể bị xử lý theo quy định của pháp luật nhƣ phạt cảnh cáo, phạt tiền, cƣỡng chế thi hành, xử lý kỷ luật hoặc có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. BLTTDS sửa đổi cũng đã bổ sung quyền yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ của Viện kiểm sát. Trong khi ba Pháp lệnh trƣớc đây chỉ quy định quyền yêu cầu thuộc về Toà án trong trƣờng hợp cần thiết, BLTTDS 2004 quy định quyền yêu cầu thuộc về đƣơng sự và Toà án, thì Luật sửa đổi, bổ sung 2011 đã quy định quyền yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ thuộc về đƣơng sự, Toà án, Viện kiểm sát. Bổ sung này là hoàn toàn hợp lý và đáp ứng đƣợc nhu cầu giải quyết vụ việc dân sự trên thực tế. Bởi theo quy định của pháp luật tố tụng, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị bản án, quyết định của Toà án theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm và bảo vệ quan điểm kháng nghị của mình tại phiên tòa, phiên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Và để có thể bảo vệ quan điểm của mình, Viện kiểm sát phải đƣa ra các chứng cứ thì mới thuyết phục đƣợc Toà án chấp nhận quan điểm của mình. Trong trƣờng hợp, chứng cứ đang do cá nhân, cơ quan, tổ chức khác quản lý, lƣu giữ, và quyền yêu cầu của Viện kiểm sát không đƣợc pháp luật thừa nhận và bảo vệ thì Viện kiểm sát sẽ khó có thể đƣa ra căn cứ để bảo vệ cho quan điểm của mình, nhƣ vậy, sẽ ảnh hƣởng xấu đến kết quả giải quyết vụ việc dân sự. Vì lẽ đó mà Luật sửa đổi, bổ sung 2011 đã bổ sung thêm quyền yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ thuộc về Viện kiểm sát.
  • 42. 36 1.4 NGUYÊN TẮC TRÁCH NHIỆM CUNG CẤP TÀI LIỆU, CHỨNG CỨ CỦA CÁ NHÂN, CƠ QUAN, TỔ CHỨC THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ CỦA MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI Việc yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức hữu quan cung cấp chứng cứ là một trong những hình thức thu thập chứng cứ trong quá trình tố tụng dân sự. Và hiện nay trên thế giới, mỗi nƣớc đều có một cách quy định riêng về cách thức cung cấp, thu thập chứng cứ. Nội dung cách thức này phụ thuộc vào quan niệm về vai trò của Toà án và đƣơng sự trong thu thập chứng cứ của mỗi hệ thống pháp luật trên thế giới. Nhìn chung, hoạt động thu thập chứng cứ sẽ là hoạt động quan trọng trong giai đoạn tố tụng thể hiện đƣợc quan niệm của từng hệ thống pháp luật về vai trò của Toà án trong tố tụng dân sự là chủ động, tích cực hay thụ động. Một cách khái quát, việc tham gia của Toà án vào hoạt động thu thập chứng cứ có thể phân chia thành ba mô hình sau đây: - Thứ nhất, Toà án không tham gia thu thập chứng cứ ở các nƣớc theo mô hình tranh tụng; - Thứ hai, Toà án đóng vai trò chủ động, tích cực và trực tiếp thu thập chứng cứ trong mô hình thẩm xét; - Thứ ba, Toà án không thu thập nhƣng hỗ trợ đƣơng sự bằng các quyết định tƣ pháp trong mô hình kết hợp tranh tụng và thẩm xét. Ở các nƣớc theo mô hình tranh tụng, Toà án chỉ đóng vai trò thụ động, hầu nhƣ không tham gia vào việc thu thập chứng cứ. Thẩm phán và các thành viên bồi thẩm đoàn đều không biết về hồ sơ vụ án cho đến khi mở phiên tòa. Nghĩa vụ thu thập chứng cứ thuộc về đƣơng sự với sự hỗ trợ của luật sƣ. Chính vì vậy, mô hình tranh tụng còn đƣợc gọi là tố tụng do đƣơng sự kiểm soát hay đƣơng sự tự điều tra vụ án. Chính vì đƣơng sự là ngƣời có vai trò chủ động trong việc thu thập chứng cứ, nên pháp luật cũng quy định cơ chế để đảm bảo cho đƣơng sự thực hiện việc thu thập chứng cứ. Chẳng
  • 43. 37 hạn, đƣơng sự có quyền yêu cầu đối phƣơng phải cung cấp thông tin, trả lời các câu hỏi do mình đƣa ra trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và đối phƣơng phải thực hiện nghĩa vụ đó mà không cần sự quyết định của Toà án. Đƣơng sự cũng đƣợc pháp luật đảm bảo thực hiện quyền yêu cầu trực tiếp bất cứ cá nhân, cơ quan, tổ chức nào đang chiếm hữu chứng cứ phải cung cấp chứng cứ đó. Tuy nhiên, pháp luật cũng quy định các chủ thể đang chiếm hữu chứng cứ có quyền từ chối cung cấp chứng cứ nếu việc cung cấp đó liên quan đến bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, hay bí mật nhà nƣớc. Việc từ chối này phải đƣợc Toà án xác nhận bằng quyết định thông qua quy chế bảo vệ và miễn trừ cung cấp chứng cứ. Ngƣợc lại, ở các nƣớc theo hệ thống thẩm xét, mặc dù pháp luật quy định các đƣơng sự có nghĩa vụ phải cung cấp chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu hay phản đối yêu cầu, nhƣng trên thực tế Toà án tham gia rất tích cực vào việc thu thập chứng cứ. Các đƣơng sự có nghĩa vụ cung cấp toàn bộ chứng cứ cho Toà án ngay trong giai đoạn chuẩn bị xét xử để Toà án xây dựng hồ sơ vụ án. Trong quá trình giải quyết vụ việc, nếu xét thấy không có đủ căn cứ cho việc quyết định thì Toà án có quyền tự mình thu thập thêm chứng cứ, tiến hành những biện pháp điều tra. Pháp luật trong mô hình tố tụng này có rất ít quy định về việc đảm bảo đƣơng sự tự thu thập chứng cứ. Với những đặc điểm đó, trên thực tế các đƣơng sự gặp rất nhiều khó khăn khi thực hiện nghĩa vụ cung cấp chứng cứ. Hệ quả là họ đã yêu cầu Toà án tiến hành thu thập chứng cứ thay cho họ, bởi vì, Toà án với thẩm quyền và ƣu thế của mình sẽ dễ dàng hơn khi yêu cầu các chủ thể khác cung cấp chứng cứ. Ví dụ, Điều 57 Bộ luật tố tụng dân sự Liên Bang Nga quy định về xuất trình và yêu cầu cung cấp chứng cứ: 1. Chứng cứ do các bên và những ngƣời tham gia tố tụng khác cung cấp. Toà án có quyền yêu cầu những ngƣời tham gia tố
  • 44. 38 tụng xuất trình thêm chứng cứ. Trong trƣờng hợp những ngƣời tham gia tố tụng gặp khó khăn trong việc xuất trình chứng cứ, theo yêu cầu của họ, Toà án có thể giúp đỡ trong việc thu thập và yêu cầu cung cấp chứng cứ. 2. Trong đơn yêu cầu cung cấp chứng cứ phải nêu rõ chứng cứ cũng nhƣ những tình tiết nào có ý nghĩa cho việc giải quyết đúng đắn vụ án, có thể đƣợc khẳng định hoặc phủ nhận bằng chứng cứ đó, phải chỉ ra những nguyên nhân cản trở việc thu thập chứng cứ và địa điểm nơi có chứng cứ. Toà án trực tiếp yêu cầu ngƣời đang nắm giữ chứng cứ cung cấp. Những ngƣời này chuyển chứng cứ đƣợc yêu cầu cung cấp cho Toà án hoặc cho ngƣời đƣa ra yêu cầu để ngƣời này xuất trình chứng cứ tại Toà án… [15, tr.80] Mô hình thứ ba là sự kết hợp giữa hai mô hình trên với đặc điểm cơ bản là vai trò thu thập chứng cứ, chứng minh thuộc về đƣơng sự nhƣng đồng thời Toà án cũng tham gia một số hoạt động thu thập chứng cứ trong trƣờng hợp đặc biệt. Mô hình này đƣợc áp dụng ở Đức, Nhật Bản [6, tr.258]. Ở Đức, nguyên tắc cơ bản về trách nhiệm cung cấp chứng cứ và chứng minh các sự kiện, tình tiết vụ án thuộc về đƣơng sự. Nếu đƣơng sự không cung cấp đầy đủ chứng cứ hoặc thiếu chứng cứ thì Toà án quyết định dựa trên những chứng cứ mà đƣơng sự cung cấp, chứ Toà án không tự mình thu thập chứng cứ. Ở Nhật Bản, nguyên tắc chung cũng đƣợc ghi nhận nhƣ ở Đức. Các chủ thể đang chiếm hữu chứng cứ có nghĩa vụ phải cung cấp chứng cứ cho đƣơng sự chỉ trừ khi ngƣời đó cũng có quyền lợi trong vụ án hoặc bảo vệ các bí mật cá nhân, bí mật kinh doanh hay bí mật nhà nƣớc thì mới có quyền từ chối cung cấp. Bên cạnh đó, pháp luật các nƣớc này cũng quy định trong các trƣờng hợp khẩn cấp để bảo vệ chứng cứ nhƣ trƣờng hợp chứng cứ đang bị tẩu tán, hủy hoại thì theo yêu cầu bằng văn bản của đƣơng