SlideShare a Scribd company logo
1 of 84
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LƢU THỊ THU HƢƠNG
CÁC BIỆN PHÁP TƢ PHÁP
TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LƢU THỊ THU HƢƠNG
CÁC BIỆN PHÁP TƢ PHÁP
TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự
Mã số : 60 38 40
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Trịnh Quốc Toản
HÀ NỘI - 2014
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình hoàn thành luận văn thạc sỹ luật học này, tôi đã nhận
được sự giúp đỡ rất nhiều từ người thầy mẫu mực và tận tâm – PGS.TS Trịnh
Quốc Toản, các giảng viên của Khoa sau đại học, ĐHQG Hà Nội, cũng như
sự động viên khích lệ từ gia đình, bạn bè và các đồng nghiệp. Tôi xin trân
trọng gửi lời cảm ơn đến gia đình, các thầy cô cùng các bạn bè, đồng nghiệp
đã giúp tôi trong suốt thời gian qua để hoàn thành luận văn thạc sỹ này.
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa
học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận
văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết
luận của luận văn chưa từng được công bố trong bất cứ công
trình nào khác.
Tác giả luận văn
Lƣu Thị Thu Hƣơng
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Chú giải
BLHS Bộ luật hình sự
PLHS Pháp luật hình sự
TTHS Tố tụng hình sự
MỤC LỤC
Nội dung Trang
1.1.
1.2.
Lời mở đầu
Chƣơng 1: Một số vấn đề chung về các biện pháp tƣ pháp
trong pháp luật hình sự Việt Nam
Quan niệm chung về biện pháp tƣ pháp
1.1.1. Khái niệm và các đặc điểm của biện pháp tư pháp hình
sự
1.1.2. Vai trò và ý nghĩa của biện pháp tư pháp hình sự
Phân biệt biện pháp tƣ pháp với hình phạt và các biện pháp
cƣỡng chế hành chính
1.2.1. Phân biệt biện pháp tư pháp với hình phạt
1.2.2. Phân biệt biện pháp tư pháp với các biện pháp cưỡng chế
hành chính
1.3. Quy định các biện pháp tƣ pháp trong Luật hình sự một số
nƣớc
Chƣơng 2: Các biện pháp tƣ pháp theo Luật hình sự Việt
Nam và thực tiễn áp dụng
2.1 Khái quát lịch sử pháp Luật hình sự Việt Nam quy định về
các biện pháp tƣ pháp
2.1.1. Giai đoạn từ Cách mạng tháng 8/1945 cho đến khi ban
hành Bộ luật hình sự năm 1985
2.1.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự 1985 đến
trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999
2.2. Các quy định về biện pháp tƣ pháp trong Bộ luật hình sự
2.3.
năm 1999
2.2.1. Biện pháp tư pháp chung
2.2.2. Biện pháp tư pháp riêng
Thực tiễn áp dụng các biện pháp tƣ pháp; những tồn tại,
hạn chế trong thực tiễn áp dụng và nguyên nhân của nó
2.3.1. Thực tiễn áp dụng các biện pháp tư pháp
2.3.2. Những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn áp dụng các biện
pháp tư pháp
2.3.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn
áp dụng các biện pháp tư pháp
Chƣơng 3: Nhu cầu, quan điểm và các giải pháp hoàn thiện
quy định về các biện pháp tƣ pháp trong Luật hình sự Việt
Nam và nâng cao hiệu quả áp dụng
3.1. Nhu cầu, quan điểm hoàn thiện quy định về các biện pháp
tƣ pháp trong Luật hình sự Việt Nam và nâng cao hiệu quả
áp dụng
3.1.1. Nhu cầu hoàn thiện quy định về các biện pháp tư pháp
trong Luật hình sự Việt Nam và nâng cao hiệu quả áp dụng
3.1.2.Quan điểm hoàn thiện quy định về các biện pháp tư pháp
trong Luật hình sự Việt Nam và nâng cao hiệu quả áp dụng
3.2. Các giải pháp hoàn thiện các quy định về biện pháp tƣ
pháp trong Luật hình sự Việt Nam
3.3. Các giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các
quy định về biện pháp tƣ pháp trong Luật hình sự Việt
Nam
Kết luận
Tài liệu tham khảo
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Xã hội ngày càng phát triển, con người ngày càng có nhiều nhu cầu
cấp thiết hơn việc ăn, ở, mặc… mà còn giải trí, giao lưu xã hội. Sự mở rộng
một cách đa dạng các mối quan hệ hiện nay không chỉ mang đến những thành
tựu về khoa học xã hội, kinh tế - chính trị, đồng thời lại mang đến những mặt
tiêu cực, lối sống cực đoan, và kết quả tất yếu là tình hình tội phạm ngày càng
phức tạp. Trước tình hình thực tế đó, Nhà nước đã áp dụng rất nhiều các chế
tài trong pháp luật hình sự để kiểm soát và hạn chế tội phạm, trong đó không
thể không kể đến các biện pháp tư pháp hình sự.
Tại Việt Nam, việc áp dụng các biện pháp tư pháp hình sự vào thực
tiễn đang đặt ra rất nhiều vấn đề cần được nghiên cứu và giải đáp để có thể
hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng. Thực
tiễn cho thấy, việc áp dụng các chế tài hình sự còn chưa mang lại những
hiệu quả thiết thực đối với phòng chống tội phạm. Việc xem xét hành vi
phạm tội và quyết định hình phạt hay biện pháp tư pháp đối với người phạm
tội, nhất là người chưa thành niên phạm tội cần được quan tâm đến một cách
sát sao hơn.
Vì những lý do trên cũng như quan tâm đến xu hướng pháp luật hình
sự thế giới mà Đảng và Nhà nước ta có những quyết sách kịp thời trong cải
cách hệ thống tư pháp và hiệu quả của việc áp dụng biện pháp tư pháp hình sự
là rất cần thiết. Sự ra đời của Nghị quyết số 08-NQ/TW về cải cách tư pháp
ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị; Nghị quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định
hướng đến năm 2020 ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị, Nghị quyết số
49/2005/NQ-QH 11 về chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh năm 2006
2
ngày 19/11/2005 của Quốc hội cũng như việc sửa đổi Bộ luật Hình sự năm
1999 (năm 2009) đã thể hiện rất rõ xu hướng này.
Toàn bộ những phân tích và dẫn chứng trong việc áp dụng biện pháp
tư pháp hình sự đều trên cơ sở thực tiễn, nhằm tìm ra giải pháp hoàn thiện
pháp luật cũng như cải cách tư pháp làm cho việc nghiên cứu đề tài "Các biện
pháp tư pháp trong pháp luật hình sự Việt Nam" trong thời điểm hiện nay
đạt được hiệu quả cao.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Dưới góc độ pháp lý, trong thời gian qua các biện pháp tư pháp hình
sự đã được quan tâm rất nhiều và đề cập đến trong pháp luật hình sự, pháp
luật tố tụng hình sự cũng như pháp luật thi hành án hình sự.
Nhưng trước đây, chưa có bất cứ công trình khoa học nào nghiên cứu
sâu sắc về việc này, các nhà làm luật trước đó, chỉ đặt ra các quy định mang
tính chất ước lệ. Những đề tài nghiên cứu trước đây chủ yếu tập trung:
- Các biện pháp tư pháp trong Bộ luật Hình sự năm 1999 và vấn đề
hoàn thiện Bộ luật Tố tụng hình sự về trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp
đó, của TS. Phạm Hồng Hải, Tạp chí luật học, số 5/2000.
- Thi hành các biện pháp tư pháp không phải là hình phạt, của Hồ Sĩ
Sơn, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 04/2004.
- Vai trò của gia đình trong việc thi hành các hình phạt không tước tự
do và các biện pháp tư pháp, của TS. Trần Quang Tiệp, Tạp chí Nhà nước và
pháp luật số 02/2004.
- Tăng cường năng lực hệ thống tư pháp người chưa thành niên tại
Việt Nam, Thông tin khoa học chuyên đề, Viện khoa học pháp lý, 2000.
- Những vấn đề lý luận và thực tiễn về tư pháp hình sự với người chưa
thành niên phạm tội, của Đỗ Thị Phượng, Bùi Đức Lợi, Đề tài nghiên cứu cấp
trường, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2005.
3
- Tư pháp hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội những khía
cạnh tội phạm học, của TSKH.PGS Lê Cảm - ThS. Đỗ Thị Phượng, Tạp chí
tòa án nhân dân, số 22/2004.
Đến Luật Thi hành án hình sự năm 2010, việc thi hành đã được quy
định một cách cụ thể, rõ ràng nhưng chưa được áp dụng một cách triệt để và
hiệu quả.
Vì thế, ở luận văn này, đề tài tập trung nghiên cứu các khía cạnh của
pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự và pháp luật thi hành án hình sự
đối với các biện pháp tư pháp hình sự; cũng như thực tiễn áp dụng các biện
pháp tư pháp này. Thông qua đó, việc nghiên cứu các vấn đề này sẽ giúp
chúng ta có cách tiếp cận toàn diện hơn trong việc áp dụng các biện pháp tư
pháp, giúp chúng ta hiểu rõ và thực thi chúng một cách có hiệu quả hơn.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ các vấn đề lý luận, cùng với việc áp dụng biện pháp tư
pháp trong thực tiễn, luận văn đi sâu phân tích từ nhiều khía cạnh khác nhau về
biện pháp tư pháp hình sự: quy định pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình
sự, pháp luật thi hành án hình sự, xu hướng, cũng như nguyên nhân và điều
kiện áp dụng, việc áp dụng trên thực tiễn. Từ sự phân tích này, tác giả luận văn
đã đề xuất một số giải pháp cho việc áp dụng các biện pháp tư pháp phù hợp
pháp luật, thực tiễn, cũng như xu hướng quốc tế và thực trạng tại Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được những mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ chủ yếu là:
- Phân tích làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về các biện pháp tư pháp
trong pháp luật hình sự như: Khái niệm, đặc điểm, mục đích, bản chất và điều
kiện áp dụng của các biện pháp tư pháp.
4
- Phân tích các quy định pháp luật về các biện pháp tư pháp trong
pháp luật tố tụng hình sự, pháp luật về thi hành án hình sự cũng như thực tiễn
áp dụng chúng.
- Rút ra các điểm hạn chế của việc áp dụng, thi hành chúng trong thực
tiễn cũng như các nguyên nhân của các hạn chế đó.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn là vấn đề về lý luận và
thực tiễn của việc áp dụng các biện pháp tư pháp hình sự. Những vấn đề này
được nghiên cứu trên cơ sở các quy định pháp luật hình sự, quy định pháp
luật về tố tụng hình sự, quy định pháp luật về thi hành án hình sự, cũng như
các quan điểm về chính sách của Đảng và Nhà nước, cũng như xu hướng áp
dụng tại Việt Nam trong thời gian tới và trên thế giới.
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là lý luận về các biện pháp tư
pháp hình sự trong pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự và pháp luật
về thi hành án hình sự. Đồng thời, luận văn còn nghiên cứu trên cơ sở của
việc áp dụng thực tiễn các quy định pháp luật hình sự và thi hành biện pháp tư
pháp hình sự.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Do tính phức tạp và rộng lớn của vấn đề nên luận văn chỉ giới hạn
nghiên cứu các vấn đề lý luận, cũng như hoạt động áp dụng và thi hành các
biện pháp tư pháp hình sự trong thực tiễn. Các hoạt động khác đều không
thuộc phạm vi nghiên cứu của luận văn này.
Về thực tiễn, luận văn giới hạn nghiên cứu các nội dung nêu trên trong
pháp luật hình sự hiện hành để tìm ra những điểm cơ bản trong thực tiễn đó.
Tuy nhiên do nguồn tài liệu còn hạn chế, nên nhiều dữ liệu còn chưa được cập
5
nhật một cách hoàn chỉnh. Những số liệu được thống kê trong luận văn này là
từ các bản án từ trong 05 năm trở lại đây.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Trên cơ sở lý luận của việc nghiên cứu và quán triệt chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
chính sách hình sự, so sánh đối chiếu với pháp luật thực định, luận văn đã sử
dụng, kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau.
Đó là các phương pháp: tổng hợp, phân tích, so sánh, thống kê về việc
áp dụng biện pháp tư pháp hình sự trong thực tiễn trên cả tư tưởng, quy định
vật chất, cũng như quy định hình thức và việc áp dụng trên thực tiễn (thi hành
án hình sự về biện pháp tư pháp).
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
6.1. Về mặt lý luận
Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên đi sâu nhằm kiến nghị việc áp
dụng và thi hành các biện pháp tư pháp hình sự trong thực tiễn góp phần hoàn
thiện các biện pháp tư pháp này trong pháp luật hình sự Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu đề tài có thể làm rõ thêm các quan điểm lý luận
khoa học về định hướng áp dụng biện pháp tư pháp này. Ngoài ra kết quả
nghiên cứu đề tài còn có thể dùng làm tài liệu tham khảo, phục vụ cho việc
nghiên cứu, học tập khoa học luật hình sự, luật tố tụng hình sự, luật thi hành
án hình sự.
6.2. Về mặt thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể là ý kiến hữu ích trong hoạt động
lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng
hình sự, pháp luật thi hành án hình sự trong việc đấu tranh phòng chống tội
phạm cũng như giáo dục, cải tạo người phạm tội nói chung và người chưa
6
thành phạm tội chưa thành niên nói riêng ở nước ta. Đồng thời, đây cũng là tài
liệu có thể làm căn cứ sửa đổi pháp luật hiện hành và tiến đến hoàn thiện hệ
thống tư pháp hình sự trong tương lai.
Tóm lại, đây là công trình nghiên cứu về cả lý luận và thực tiễn của
biện pháp tư pháp hình sự. Luận văn phân tích một cách cụ thể và toàn diện
các quy định của pháp luật hình sự về biện pháp tư pháp hình sự. Phân tích,
đánh giá chi tiết từng điều kiện, đặc điểm của các biện pháp tư pháp hình sự
đồng thời có sự so sánh, đối chiếu với pháp luật quốc tế, nghiên cứu nhằm đưa ra
các giải pháp kiến nghị, hoàn thiện các quy định với việc xử lý người phạm
tội bằng biện pháp tư pháp, từ đó nâng cao và tăng cường hiệu quả áp dụng của
pháp luật góp phần đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về các biện pháp tư pháp trong pháp
luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Các biện pháp tư pháp theo luật hình sự Việt Nam và thực
tiễn áp dụng.
Chương 3: Nhu cầu, quan điểm và các giải pháp hoàn thiện quy định về
các biện pháp tư pháp trong luật hình sự Việt Nam và nâng cao hiệu quả áp dụng.
7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC BIỆN PHÁP TƢ PHÁP
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. QUAN NIỆM CHUNG VỀ BIỆN PHÁP TƢ PHÁP
1.1.1. Khái niệm và các đặc điểm của biện pháp tƣ pháp
Khi nghiên cứu lý luận về các biện pháp tư pháp hình sự, việc xem xét
khái niệm của nó là hết sức quan trọng, song nếu chỉ nghiên cứu trên khía
cạnh lý luận thì chưa đủ, mà cần phải xem xét trên cả khía cạnh pháp luật
hình sự thực định cũng như thực tiễn áp dụng. Chúng ta cùng điểm qua một
số khía cạnh để xem xét khái niệm cơ bản của các biện pháp tư pháp:
* Pháp luật hình sự thực định:
Pháp luật hình sự thực định Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám
năm 1945 cho đến năm 1986 (pháp điển hóa lần 1) thì chưa xây dựng định
nghĩa pháp lý của khái niệm các biện pháp tư pháp hình sự, cũng như chưa
từng được ghi nhận về mặt lập pháp.
Pháp điển hóa lần thứ 2 (năm 1999), khái niệm pháp lý của "biện pháp
tư pháp" cũng chưa được chính thức ghi nhận trong pháp luật thực định.
Như vậy, có thể nói mặc dù các biện pháp tư pháp hình sự là một chế
định hết sức quan trọng, song hành cùng hình phạt để hoàn thiện hệ thống chế
tài hình sự, nhưng lại chưa được ghi nhận một cách chính thống. Việc chưa đề
cập đến nó trên cơ sở pháp luật thực định là một điểm thiếu sót cần được xem xét.
* Trong lý luận luật hình sự:
Từ trước đến nay trong khoa học luật hình sự của thế giới nói chung
và Việt Nam nói riêng, khái niệm về các biện pháp tư pháp có rất nhiều tranh
8
cãi, ý kiến khác nhau; song vẫn chưa có một quan điểm thống nhất nào, cụ
thể là:
- Khoa học luật hình sự Việt Nam có một số quan điểm coi các biện
pháp tư pháp là: Biện pháp tư pháp hình sự không phải là hình phạt, chỉ có tính
chất hành chính, dân sự nhưng được quyết định ngay trong vụ án hình sự. Ngoài
ra các biện pháp được áp dụng chung đối với bị cáo, người bị hại, nguyên đơn
dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự.
"Biện pháp tư pháp hình sự là các biện pháp hình sự được Bộ luật Hình
sự quy định, do các cơ quan tư pháp áp dụng đối với người có hành vi nguy
hiểm cho xã hội, có tác dụng hỗ trợ hoặc thay thế hình phạt" [30, tr. 194].
Như vậy, tổng kết các quan điểm khác nhau về khái niệm các biện
pháp tư pháp, đồng thời căn cứ vào quá trình lập pháp, xây dựng hệ thống các
quy phạm pháp luật về các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự Việt
Nam, chúng ta có thể đưa ra khái niệm khoa học về các biện pháp tư pháp
hình sự: Biện pháp tư pháp là biện pháp cưỡng chế về hình sự của Nhà nước
ít nghiêm khắc hơn so với hình phạt, do pháp luật hình sự quy định và được
cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền căn cứ vào giai đoạn tố tụng hình sự
tương ứng cụ thể áp dụng đối với người phạm tội nhằm hạn chế quyền, tự do
của người đó, hoặc hỗ trợ hay thay thế cho hình phạt.
Từ những quan điểm về khái niệm "Biện pháp tư pháp" và khái niệm
khoa học nêu trên, có thể thấy biện pháp tư pháp với tính chất là biện pháp
cưỡng chế về hình sự ít nghiêm khắc hơn so với hình phạt, có những đặc điểm
cơ bản (dấu hiệu) sau:
Đặc điểm thứ nhất: Biện pháp tư pháp là biện pháp cưỡng chế về hình
sự ít nghiêm khắc hơn so với hình phạt mà hậu quả pháp lý của việc áp dụng
nó là người phạm tội không bị coi là có án tích nếu như biện pháp tư pháp
được áp dụng độc lập đối với người đó mà không kèm hình phạt.
9
Thực chất, hình phạt là biện pháp cưỡng chế về hình sự nghiêm khắc
nhất của Nhà nước so với tất cả các biện pháp cưỡng chế khác; mà khi áp
dụng hình phạt đối với người phạm tội, thì hậu quả pháp lý là người phạm tội
sẽ có án tích. Do đó, với tính chất là biện pháp cưỡng chế của Nhà nước, các
biện pháp tư pháp hình sự được áp dụng đồng thời với hình phạt, thì người
phạm tội sẽ có hậu quả pháp lý là có án tích; còn nếu như áp dụng độc lập mà
không kèm hình phạt (ví dụ như khi người đó được miễn hình phạt, mà chỉ áp
dụng biện pháp tư pháp) thì người đó không bị coi là có án tích.
Đặc điểm thứ hai: Với tính chất là một dạng của trách nhiệm hình sự
và là một hình thức để thực hiện trách nhiệm hình sự trong văn bản của Cơ
quan tư pháp hình sự có thẩm quyền, biện pháp tư pháp cũng chỉ có thể xuất
hiện khi có sự việc phạm tội.
Chỉ khi có tội phạm cùng đầy đủ các dấu hiệu của nó, thì mới có thể
xác định được trách nhiệm hình sự và mới có thể có biện pháp tư pháp hình
sự với tư cách là biện pháp ít nghiêm khắc hơn hình phạt.
Khi xảy ra sự kiện phạm tội, theo quy định pháp luật hình sự, Cơ quan
nhà nước có thẩm quyền, tùy theo giai đoạn tố tụng nhất định (Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án) xác định trách nhiệm hình sự đối với người
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong luật hình sự, có
lỗi (vô ý hoặc cố ý), đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự. Trên cơ sở đó, cơ quan tiến hành tố tụng buộc người phạm tội
chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình, đồng thời quyết định
hình phạt; kèm theo hoặc áp dụng độc lập các biện pháp tư pháp.
Nếu không có hành vi phạm tội xảy ra, thì người bị áp dụng biện pháp
cưỡng chế khác không phải là biện pháp tư pháp hình sự mà có thể là các biện
pháp tư pháp hành chính, dân sự…
Đặc điểm thứ ba: Khác với hình phạt, căn cứ vào giai đoạn tố tụng
hình sự tương ứng cụ thể, biện pháp tư pháp hỗ trợ hình phạt (từ điều 41-43
10
Bộ luật Hình sự năm 1999) có thể do cơ quan tư pháp hình sự khác có thẩm
quyền như là Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án… áp dụng đối với
người phạm tội nói chung (kể cả người bị kết án); còn với các biện pháp tư
pháp thay thế hình phạt (Điều 70 Bộ luật Hình sự năm 1999), thì chỉ có thể do
Tòa án áp dụng với người bị kết án nói riêng.
Việc áp dụng các biện pháp tư pháp hình sự đối với người phạm tội
được xác định ở phạm vi rất rộng lớn. Không như hình phạt, chỉ có thể áp
dụng sau khi bị kết án, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có thể
bị áp dụng biện pháp tư pháp hình sự ngay từ giai đoạn điều tra khi có dấu
hiệu phạm tội; nhưng thực tế, để quyết định việc áp dụng các biện pháp tư
pháp hình sự hay không, để xử lý với tài sản bị xâm phạm, hoặc đối với việc
bồi thường, xin lỗi công khai, bắt buộc chữa bệnh, thì chỉ có Tòa án là có
thẩm quyền. Còn trước đó, những biện pháp này chỉ được áp dụng tạm thời,
có thể bị thay đổi sau khi Hội đồng xét xử đưa ra phán quyết cuối cùng.
Đặc điểm thứ tư: Biện pháp tư pháp chỉ nhằm hạn chế, chứ không
tước đoạt quyền, tự do của người phạm tội; hoặc để hỗ trợ hay thay thế cho
hình phạt.
Với những trường hợp buộc áp dụng biện pháp tư pháp, thì dù mang
tính cưỡng chế, nhưng chỉ hạn chế phần nào quyền lợi của người bị kết án mà
không nhằm tước đi quyền, tự do của người phạm tội. Điều đó được thể hiện
rõ ràng nhất ở quy định của từng biện pháp tư pháp hình sự.
Ví như biện pháp tư pháp "Giáo dục tại xã, phường thị trấn" người bị
áp dụng mặc dù bị hạn chế về quyền lợi (không được ra khỏi nơi cư trú nếu
không được sự cho phép của cơ quan có thẩm quyền) nhưng cũng không hoàn
toàn mất đi sự tự do của mình, họ vẫn có quyền đi lại, tham gia các phong
trào, hoạt động của tổ chức, xã hội tại nơi cư trú; thậm chí làm ăn, sinh hoạt
không khác nhiều so với những người bình thường.
11
Hoặc việc bắt buộc chữa bệnh đối với những người có bệnh lý bị hạn
chế về nhận thức hoặc điều khiển hành vi, khiến việc phạm tội của họ không
phải là cố ý; mà do bệnh lý khiến họ hành động trái quy định pháp luật. Do
đó, việc bắt buộc chữa bệnh, tuy là một trong số những biện pháp tư pháp
nhưng lại mang tính chất giúp đỡ người phạm tội có bệnh hơn là trừng phạt;
bản thân người bị áp dụng biện pháp này vẫn được sinh hoạt như những người
bệnh không phạm tội khác, vẫn có những quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân. Việc có áp dụng hình phạt hay biện pháp tư pháp hình sự khác sau khi
hoàn tất việc chữa bệnh, sẽ do Hội đồng xét xử xem xét tùy tình huống cụ thể.
Đặc điểm thứ năm: Cũng như các biện pháp cưỡng chế khác về hình
sự, các biện pháp tư pháp cũng được quy định trong pháp luật hình sự và phải
do cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền áp dụng theo một trình tự đặc biệt
do luật tố tụng hình sự quy định. Không phải bất cứ Cơ quan nhà nước nào
cũng được phép áp dụng các biện pháp tư pháp hình sự; mặc dù một số biện
pháp tư pháp hình sự có vẻ giống như biện pháp cưỡng chế hành chính, dân
sự (tịch thu tiền, vật trực tiếp liên quan đến tội phạm và tịch thu sung công
quỹ; hoặc phạt tiền) nhưng xét về bản chất thì hoàn toàn khác nhau; do đó chỉ
có cơ quan tư pháp hình sự mới có quyền xem xét và áp dụng. Đặc biệt, việc
xử lý đối với người bị kết án cũng như áp dụng hình phạt và các biện pháp tư
pháp hình sự phải do Tòa án xác định trên cơ sở áp dụng pháp luật hình sự;
còn các cơ quan tố tụng khác cũng phải tuân thủ đúng trình tự và thủ tục do
pháp luật tố tụng hình sự, pháp luật thi hành án hình sự quy định.
Đặc điểm thứ sáu: Biện pháp tư pháp chỉ mang tính chất cá nhân vì
theo pháp luật hình sự Việt Nam chỉ được áp dụng riêng với bản thân người
phạm tội hoặc người bị kết án.
Việc áp dụng chế tài đối với người phạm tội chỉ được thực hiện khi có
việc thực hiện phạm tội xảy ra, và chỉ đối với người đó; những người thân của
họ không có nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm về những hành động đó trước
12
pháp luật hình sự. Gia đình hoặc người giám hộ (với người chưa thành niên)
chỉ có nghĩa vụ tài chính với người phạm tội.
Các biện pháp tư pháp áp dụng với đối tượng phạm tội là tổ chức còn
chưa được xác định, việc áp dụng các biện pháp tư pháp hình sự này, chỉ có thể
áp dụng với từng người phạm tội, và liên đới chịu trách nhiệm về tài chính.
1.1.2. Vai trò và mục đích của của biện pháp tƣ pháp hình sự
Các biện pháp tư pháp hình sự xét về bản chất là những biện pháp
cưỡng chế của Nhà nước do cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền
(Viện kiểm sát và Tòa án) áp dụng đối với người phạm tội và những người
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong tình trạng không có năng lực
trách nhiệm hình sự do bị bệnh tâm thần hoặc bị một bệnh lý khác đã mất đi
khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi của mình.
Với hệ thống hình phạt và các biện pháp tư pháp hình sự đa dạng, có
tính chất nghiêm khắc khác nhau, công dụng khác nhau thì việc xử lý hình
sự càng chính xác các chi tiết, hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội
và nạn nhân càng được xem xét một cách kỹ càng trước khi quyết định hình
phạt và do đó, hiệu quả của việc áp dụng biện pháp tư pháp sẽ phần nào
được nâng cao.
Có thể nói, việc tồn tại hệ thống các biện pháp tư pháp song hành với
hệ thống hình phạt (chính và bổ sung) làm cho hệ thống chế tài cân đối hơn,
hoàn thiện và hiệu quả hơn, đáp ứng được yêu cầu đấu tranh và phòng chống
tội phạm phù hợp xu hướng phát triển của đất nước cũng như hội nhập quốc tế.
Thêm vào đó, các biện pháp tư pháp hình sự được áp dụng với người
bị kết án sẽ củng cố, hỗ trợ và tăng cường hiệu quả việc áp dụng hình phạt;
khiến cho việc tái hòa nhập cộng đồng của người bị kết án trở nên dễ dàng
hơn, tránh được nguy cơ tái phạm, tái phạm nguy hiểm và góp phần giúp hoạt
động tư pháp trơn tru hiện quả hơn.
13
Mặt khác, với những trường hợp chưa đủ tính chất nghiêm trọng để có
thể áp dụng hệ thống hình phạt, thì các biện pháp tư pháp hình sự chính là cứu
cánh để giải quyết tình hình tội phạm, không bỏ sót người phạm tội, vẫn có
chế tài áp dụng với họ, nhưng tương xứng về cả nội dung và tính chất nghiêm
khắc đối với hành vi phạm tội mà họ đã gây ra.
Như vậy, có thể thấy rằng các biện pháp tư pháp hình sự đã góp phần
làm phong phú hệ thống chế tài hình sự, thúc đẩy chức năng bảo vệ, phòng
ngừa và giáo dục của pháp luật hình sự, tạo cơ sở pháp lý để đấu tranh và
phòng chống tội phạm một cách hiệu quả. Chính vì vậy, vai trò của các biện
pháp tư pháp hình sự trong luật hình sự nói riêng và trong pháp luật nói chung
là hết sức quan trọng và cần thiết.
Từ trước đến nay khi nghiên cứu những vấn đề lý luận về trách nhiệm
hình sự, hình phạt và các biện pháp tư pháp; có rất nhiều quan điểm, tranh
luận về mục đích của hình phạt mà chưa có nghiên cứu nào cụ thể về các Biện
pháp tư pháp. Tuy nhiên, vì các biện pháp tư pháp cũng là một biện pháp
cưỡng chế hình sự nhằm thực hiện trách nhiệm hình sự của người phạm tội
nên có những điểm tương đồng với hình phạt. Đi sâu vào phân tích mục đích
của biện pháp tư pháp có thể thấy trên các khía cạnh:
Về mặt hình thức, biện pháp tư pháp chỉ ra mục đích mà thông qua
việc áp dụng với người phạm tội Nhà nước mong muốn đạt được. Như vậy,
có thể hiểu mục đích của biện pháp tư pháp là kết quả cuối cùng mà Nhà nước
mong muốn đạt được bằng cách áp dụng các biện pháp tư pháp do nhà làm luật
quy định trong pháp luật hình sự theo đúng trình tự, thủ tục được quy định 5
hạn chế tội phạm mới, thúc đẩy việc tái hòa nhập cộng đồng; thể hiện được
tính nhân đạo trong pháp luật cũng như chính sách của Đảng và Nhà nước.
Về mặt nội dung, cốt lõi của kết quả cuối cùng mà Nhà nước mong
muốn đạt được bằng việc áp dụng biện pháp tư pháp đối với người phạm tội.
14
Có thể thấy, việc áp dụng biện pháp tư pháp độc lập hoặc kèm theo với việc
quyết định hình phạt, nhằm: Ngăn ngừa tội phạm; giáo dục và cải tạo; ngăn
ngừa, trừng trị, giáo dục và cải tạo.
Tuy nhiên, nếu xét đến bản chất sâu xa của việc áp dụng biện pháp tư
pháp hình sự, có thể thấy, mục đích chính của việc áp dụng các biện pháp tư
pháp hình sự là: Góp phần phục hồi lại công lý; cải tạo và giáo dục những
người phạm tội; góp phần cảnh cáo, giáo dục các thành viên khác trong xã hội
có ý thức tôn trọng, tuân thủ và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật - ngăn
ngừa chung; hỗ trợ cho cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm.
Việc Nhà nước quy định cho các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có
thẩm quyền áp dụng các biện pháp tư pháp hình sự (mà không phải là hình
phạt) đối với những người nêu trên nhằm hỗ trợ để đạt được mục đích phòng
ngừa chung và phòng ngừa riêng.
Với tư cách là các biện pháp cưỡng chế về hình sự, Biện pháp tư pháp
hình sự là cách thức tác động đến người phạm tội. Trong một số trường hợp
thì Biện pháp tư pháp hình sự là hậu quả của việc phạm tội; nên trong một số
trường hợp thì ngoài việc phải chịu hình phạt, người phạm tội còn phải bị áp
dụng các biện pháp tư pháp (kèm theo hình phạt hoặc áp dụng độc lập). Trong
những trường hợp này, việc áp dụng các biện pháp tư pháp hình sự có tác
dụng cải tạo người phạm tội, phòng ngừa chung và phòng ngừa riêng.
Bên cạnh việc áp dụng hình phạt, áp dụng biện pháp tư pháp còn giúp
cho việc xử lý tội phạm và người phạm tội được triệt để và toàn diện hơn.
Trong Bộ luật Hình sự có quy định các biện pháp tư pháp chung và riêng góp
phần giúp các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền có thể vận dụng một
cách mềm dẻo, linh hoạt và đúng đắn theo chính sách hình sự, chính sách tố
tụng hình sự và chính sách phòng ngừa tội phạm của Nhà nước ta. Ngoài ra,
việc áp dụng biện pháp tư pháp hình sự còn phản ánh việc áp dụng hình phạt -
biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước do luật hình sự quy
15
định không phải là phương tiện duy nhất trong công cuộc đấu tranh, phòng và
chống tội phạm. Để nâng cao hiệu quả của việc đấu tranh, phòng và chống tội
phạm; đòi hỏi Nhà nước và xã hội áp dụng một cách đồng bộ, có hệ thống,
toàn diện các biện pháp khác nhau với mức độ cưỡng chế phù hợp và linh
hoạt nhằm ngăn chặn và đẩy lùi tội phạm.
1.2. PHÂN BIỆT BIỆN PHÁP TƢ PHÁP HÌNH SỰ VỚI HÌNH PHẠT VÀ
CÁC BIỆN PHÁP CƢỠNG CHẾ HÀNH CHÍNH
1.2.1. Phân biệt biện pháp tƣ pháp hình sự với hình phạt
* Sự giống nhau
- Điểm thứ nhất, cả hình phạt và biện pháp tư pháp hình sự đều là hai
chế định quan trọng của luật hình sự Việt Nam và chỉ xuất hiện khi có cơ sở
nhất định do pháp luật hình sự quy định là: Việc phạm tội của thể nhân (là
con người cụ thể, có năng lực trách nhiệm hình sự, đã đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự và có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, bị
luật hình sự cấm). Chỉ khi nào có tội phạm và xác định được trách nhiệm hình
sự thì mới có thể áp dụng hình phạt hoặc các biện pháp tư pháp hình sự tương
ứng cụ thể nhằm thực hiện trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội nói
chung và người bị kết án nói riêng.
- Điểm thứ hai, hình phạt và biện pháp tư pháp hình sự đều là các biện
pháp cưỡng chế về hình sự của Nhà nước, đồng thời là các dạng và là các
hình thức thực hiện trách nhiệm hình sự, do cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm
quyền áp dụng theo một trình tự, thủ tục đặc biệt được quy định trong pháp
luật tố tụng hình sự. Những chế định này được quy định trong pháp luật hình
sự và cách thức thực hiện được quy định trong tố tụng hình sự; các quy định
pháp luật này được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà
nước, theo đúng thủ tục pháp lý và đảm bảo thực hiện một cách có hiệu quả
và đạt được mục đích đã đề ra.
16
- Điểm thứ ba, việc áp dụng hình phạt và biện pháp tư pháp hình sự
đều dẫn đến hậu quả pháp lý bất lợi nhất định đối với người phạm tội ở các
mức độ khác nhau, tùy thuộc vào tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm,
nhân thân của người phạm tội, nhân thân người bị hại, và các tình tiết cụ thể
của vụ án hình sự tương ứng.
- Điểm thứ tư, theo pháp luật hình sự Việt Nam, cả hình phạt và biện
pháp tư pháp hình sự đều chỉ mang tính chất cá nhân và chỉ được áp dụng với
thể nhân phạm tội. Người phạm tội hoặc người bị kết án phải thi hành Hình
phạt hoặc áp dụng Biện pháp tư pháp hình sự tương xứng với hành vi phạm
tội, còn những người thân đều không phải chịu trách nhiệm hình sự về lỗi mà
người đó đã gây ra mà chỉ có thể bị liên đới hoặc hỗ trợ về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do người có lỗi gây ra.
* Sự khác nhau:
Bảng 2.1: Sự khác nhau giữa các biện pháp tư pháp hình sự và hình phạt
Tiêu chí Các biện pháp tƣ pháp hình sự Hình phạt
Khái niệm
khoa học
Là biện pháp cưỡng chế về hình sự của
Nhà nước do pháp luật hình sự quy định
và được cơ quan tư pháp hình sự có
thẩm quyền căn cứ vào giai đoạn tố tụng
hình sự tương ứng cụ thể áp dụng đối
với người phạm tội nhằm hạn chế
quyền, tự do của người đó hoặc hỗ trợ
hay thay tế cho hình phạt.
Hình phạt là biện pháp cưỡng
chế nghiêm khắc nhất của
Nhà nước được quyết định
trong Bản án kết tội có
hiệu lực pháp luật của Tòa
án để tước bỏ quyền, tự do
của người bị kết án theo
các quy định của pháp luật
hình sự Việt Nam.
Về mức
độ nghiêm
khắc
Các biện pháp tư pháp hình sự chỉ là
một trong hệ thống các biện pháp cưỡng
chế về hình sự áp dụng với người phạm
tội, mang tính răn đe, trừng phạt nhưng
Hình phạt là biện pháp cưỡng
chế nghiêm khắc nhất của
Nhà nước.
17
không nghiêm khắc bằng hình phạt.
Việc áp dụng các biện pháp hình sự đôi
khi chỉ mang tính chất phòng ngừa hoặc
răn đe, hơn là trừng phạt người phạm tội
(ví dụ: Bắt buộc chữa bệnh)
Về chủ thể
có thẩm
quyền áp
dụng và đối
tượng bị áp
dụng
Việc áp dụng các biện pháp tư pháp
hình sự hình sự thì thẩm quyền thuộc về
Tòa án xét xử vụ án đó, và các cơ quan
tư pháp hình sự tương ứng giai đoạn tố
tụng hình sự áp dụng để hỗ trợ hình phạt
(áp dụng các Điều 41, Điều 42, Điều 43,
Bộ luật Hình sự năm 1999 với tất cả
những người phạm tội nói chung và
Điều 70 Bộ luật Hình sự năm 1999 với
người phạm tội chưa thành niên).
Chỉ có Tòa án xét xử vụ án
hình sự là cơ quan tiến
hành tố tụng duy nhất có
thẩm quyền áp dụng hình
phạt với người bị kết án
trên cơ sở bản án kết tội.
Về hậu quả
pháp lý
Việc áp dụng các biện pháp tư pháp
hình sự, người bị áp dụng nếu như chỉ
áp dụng biện pháp tư pháp hình sự riêng
rẽ (áp dụng độc lập không kèm theo
hình phạt) thì người phạm tội không bị
coi là có án tích; ngoài ra, người đó chỉ
bị hạn chế, chứ không phải tước bỏ hoàn
toàn quyền lợi, cũng như tự do của
mình. Người phạm tội vẫn có quyền
được sinh hoạt, sống và làm việc trong
cộng đồng, cũng là một hình thức tái
hòa nhập với cộng đồng.
Việc áp dụng hình phạt với
người phạm tội sẽ đưa đến
án tích của người bị kết án
và phải áp dụng hình phạt;
ngoài việc bị hạn chế
quyền, tự do thì người bị
áp dụng hình phạt còn có
thể bị tước bỏ quyền và tự
do đó.
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp từ Giáo trình luật hình sự; Bộ luật Hình
sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009) và một số tài liệu tham khảo khác.
18
1.2.2. Phân biệt biện pháp tƣ pháp hình sự với biện pháp cƣỡng
chế hành chính
* Sự giống nhau:
- Điểm thứ nhất, biện pháp tư pháp hình sự và biện pháp cưỡng chế
hành chính đều là hai chế định quan trọng hệ thống pháp luật Việt Nam nhằm
quản lý xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền, dân chủ, công bằng, văn
minh. Hai chế định này tuy có tính chất, vai trò khác nhau, nhưng đều có tác
dụng nhất định, hỗ trợ lẫn nhau trong việc hoàn thiện pháp luật hình sự nói
riêng, và góp phần đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung.
- Điểm thứ hai, biện pháp tư pháp hình sự và biện pháp cưỡng chế
hành chính đều là các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước, do Cơ quan nhà
nước có thẩm quyền áp dụng theo một trình tự, thủ tục đặc biệt được pháp
luật quy định, được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà
nước, theo đúng thủ tục pháp lý và đảm bảo thực hiện một cách có hiệu quả
và đạt được mục đích đã đề ra. Những trình tự này nhằm đảm bảo việc thực
hiện các chế định nêu trên không bị rườm rà, cũng có thể giám sát thường
trực và hạn chế tiêu cực không đáng có, góp phần tối giản hóa các trình tự,
thủ tục của pháp luật tố tụng hình sự, thúc đẩy việc giải quyết vụ án hình sự
hiệu quả.
- Điểm thứ ba, việc áp dụng biện pháp tư pháp hình sự và các biện
pháp cưỡng chế hành chính đều dẫn đến hậu quả pháp lý bất lợi nhất định đối
với người bị áp dụng ở các mức độ khác nhau. Bản thân người phạm tội phải
chịu sự trừng phạt của pháp luật bằng các chế tài pháp lý (hình phạt và các
biện pháp cưỡng chế khác - hình sự, hành chính, dân sự…) đồng thời nhằm
răn đe cộng đồng tránh việc phạm tội hoặc tái phạm tội của người đã từng bị
kết án.
19
* Sự khác nhau:
Bảng 2.2: Sự khác nhau giữa các biện pháp tư pháp hình sự
và các biện pháp cưỡng chế hành chính
Tiêu chí Các biện pháp tƣ pháp Các biện pháp cƣỡng chế hành chính
Khái niệm
khoa học
Là biện pháp cưỡng chế về
hình sự của Nhà nước do pháp
luật hình sự quy định và được
cơ quan tư pháp hình sự có
thẩm quyền căn cứ vào giai
đoạn tố tụng hình sự tương
ứng cụ thể áp dụng đối với
người phạm tội nhằm hạn chế
quyền, tự do của người đó
hoặc hỗ trợ hay thay tế cho
hình phạt.
Còn các biện pháp cưỡng chế hành
chính là một dạng cưỡng chế nhà
nước, tổng hợp các biện pháp mà Nhà
nước (thông qua Cơ quan nhà nước,
cá nhân có thẩm quyền) áp dụng để
tác động lên tâm lý, tư tưởng, tình cảm
và hành vi của công dân, nhân viên
nhà nước, người có chức vụ, tác động
tới hoạt động, hành vi của cơ quan, tổ
chức nhà nước, xã hội, tổ chức kinh tế
để buộc họ thực hiện các nghĩa vụ pháp
lý nhằm mục đích ngăn chặn những
hành vi vi phạm pháp luật, đảm bảo
pháp chế, trật tự trong quản lý hành
chính nhà nước và xử lý trách nhiệm
cá nhân, tổ chức vi phạm pháp luật.
Về mức
độ nghiêm
khắc
Các biện pháp tư pháp hình sự
chỉ là một trong hệ thống các
biện pháp cưỡng chế về hình
sự áp dụng với người phạm
tội, mang tính răn đe, trừng
phạt nhưng không nghiêm khắc
bằng hình phạt.
Cưỡng chế hành chính là sự cưỡng
bức, bắt buộc công dân, hay tổ chức
nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh
tế phải thực hiện các nghĩa vụ pháp lý
được quy định bởi pháp luật hành
chính và nằm ngoài phạm vi nội bộ
của cơ quan, ngành.
Về chủ thể
có thẩm
quyền áp
Việc áp dụng các biện pháp tư
pháp hình sự hình sự thì thẩm
quyền thuộc về Tòa án xét xử
Cơ quan nhà nước, người có thẩm
quyền áp dụng các biện pháp cưỡng
chế hành chính và cá nhân hay tổ chức
20
dụng và
đối tượng
bị áp dụng
vụ án đó, và các cơ quan tư
pháp hình sự tương ứng giai
đoạn tố tụng hình sự áp dụng
để hỗ trợ hình phạt (áp dụng
các Điều 41, Điều 42, Điều 43,
Bộ luật Hình sự năm 1999 với
tất cả những người phạm tội
nói chung và Điều 70 Bộ luật
Hình sự năm 1999 với người
phạm tội chưa thành niên).
bị áp dụng cưỡng chế không nằm
trong quan hệ trực thuộc trên dưới về
tổ chức mà chỉ có quan hệ kiểm tra,
giám sát.
Những người, cơ quan có thẩm quyền
được áp dụng các biện pháp cưỡng
chế hành chính được quy định cụ thể
tại Pháp lệnh xử lý vi phạm hành
chính (2002).
Về hậu quả
pháp lý
Việc áp dụng các biện pháp tư
pháp hình sự, người bị áp dụng
nếu như chỉ áp dụng biện pháp
tư pháp hình sự riêng rẽ (áp
dụng độc lập không kèm theo
hình phạt) thì người phạm tội
không bị coi là có án tích;
ngoài ra, người đó chỉ bị hạn
chế, chứ không phải tước bỏ
hoàn toàn quyền lợi, cũng như
tự do của mình.
Cưỡng chế hành chính nhằm phòng
ngừa, ngăn chặn những vi phạm pháp
luật, trừng phạt người vi phạm theo
trình tự xử lý hành chính nhằm đảm
bảo trật tự trong các trường hợp khẩn
cấp khi chưa xảy ra vi phạm pháp luật,
vì thế mà hậu quả không nặng nề như
việc áp dụng các biện pháp hình sự.
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp từ Giáo trình luật hình sự; Bộ luật Hình
sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009) và một số tài liệu tham khảo khác.
1.3. QUY ĐỊNH VỀ CÁC BIỆN PHÁP TƢ PHÁP TRONG LUẬT HÌNH SỰ
MỘT SỐ NƢỚC
Nghiên cứu luật hình sự nước ngoài cho thấy ít có nước nào chỉ thiết
lập riêng hoặc là hệ thống các hình phạt hoặc là hệ thống các biện pháp cưỡng
chế khác trong Luật hình sự, mà phần lớn các nước chấp nhận sự song song
tồn tại hai hệ thống các biện pháp cưỡng chế hình sự: Hình phạt và biện pháp
cưỡng chế hình sự khác.
21
Việc quy định đồng thời hai hệ thống các biện pháp cưỡng chế hình sự
trong pháp luật hình sự là do chính sách hình sự của mỗi nước quyết định.
Tuy nhiên, Luật hình sự ở những ngước có quy định biện pháp cưỡng chế
hình sự khác không phải là hình phạt thì tên gọi của nó cũng rất khác nhau.
Chẳng hạn như, Bộ luật Hình sự của Cộng hòa Liên bang Đức quy định từ
Điều 61 đến Điều 72 về các "biện pháp cải tạo và an ninh", Bộ luật Hình sự
1995 của Tây Ban Nha quy định các biện pháp này với tên gọi "Các biện pháp
an ninh" trong phần IV quyển I; Luật hình sự của Pháp cũng quy định các
biện pháp này với tên gọi là "biện pháp an ninh". Chính quyền Sài Gòn cũ
đưa các biện pháp này vào Chương II, Bộ luật Hình sự năm 1972 với tên gọi
"các biện pháp phòng vệ". Trong khi đó, tại Bộ luật Hình sự năm 1999 của
Việt Nam lại đặt tên các biện pháp cưỡng chế hình sự khác là "Các biện pháp
tư pháp".
Trong luật hình sự Việt Nam, việc song song hai hệ thống biện pháp
cưỡng chế hình sự (hình phạt và các biện pháp tư pháp) là sự biểu hiện tổng
hợp sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước trong việc đấu tranh phòng, chống tội
phạm. Sự hiện diện của các biện pháp cưỡng chế hình sự khác trong Luật hình
sự có vai trò quan trọng trong việc thực hiện chính sách hình sự của nhà nước
về tội phạm và trách nhiệm hình sự. Đồng thời, sự có mặt của các biện pháp
tư pháp trong luật hình sự cũng chỉ rõ một thực tế là hình phạt không phải là
phương tiện duy nhất trong cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm. Các cơ
quan chức năng phải áp dụng đồng bộ các biện pháp khác nhau thì mới có khả
năng ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng phạm tội ra khỏi đời sống xã hội.
Trong khoa học luật hình sự nước ngài, biện pháp cưỡng chế hình sự
khác được hiểu là "biện pháp tước hoặc hạn chế tự do, quyền hoặc là biện
pháp về tài sản, chủ yếu có mục đích ngăn ngừa việc thực hiện tội phạm mới"
hoặc là "những biện pháp cưỡng chế, không có màu sắc luân lý, áp dụng với
các cá nhân nguy hiểm cho trật tự xã hội để phòng ngừa các tội phạm và tình
22
trạng của họ có thể gây ra. Trong các định nghĩa khoa học về các biện pháp
cưỡng chế hình sự khác được quy định theo luật hình sự nêu trên, các học giả
đã dựa trên bản chất, đặc điểm và chức năng của các biện pháp này. Tuy
nhiên, tôi cho rằng nó vẫn chưa đầy đủ, chưa khái quát hết được các đặc điểm
chủ yếu của loại biện pháp này, ví dụ như về chủ thể áp dụng, hiệu lực pháp
luật và hiệu lực thi hành của nó.
Nghiên cứu luật hình sự một số nước, tôi thấy các biện pháp cưỡng
chế hình sự không phải là hình phạt được quy định rất đa dạng, có thể được
phân chia thành ba nhóm lớn:
(1) Các biện pháp được áp dụng với những người có hành vi nguy
hiểm cho xã hội nhưng không cấu thành tội phạm: Ví dụ như biện pháp điều
trị người bị nghiện rượu, nghiện ma túy; Trục xuất người nước ngoài, hoặc
bắt buộc chữa bệnh....
(2) Các biện pháp áp dụng với người phạm tội, nhưng họ không phải
chịu hình phạt. Ví dụ như những biện pháp giáo dục đối với người chưa thành
niên phạm tội, đưa vào cơ sở bắt buộc chữa bệnh đối với những người bị tâm
thần sau khi phạm tội...
(3) Bao gồm rất nhiều các biện pháp cưỡng chế hình sự khác áp dụng
với những người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự như: Tước giấy phép
lái xe, đóng cửa cơ sở sản xuất, kinh doanh; tịch thu tài sản; cấm cư trú; cấm
hành nghề hoặc làm công việc nhất định...
Các biện pháp cưỡng chế hình sự không phải là hình phạt trong luật
hình sự một số nước có mục đích là nhằm phòng ngừa tội phạm. Biện pháp
này dựa trên tình trạng nguy hiểm của cá nhân người thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội đã thể hiện, có nghĩa là người trong tình trạng đó có khả năng
rất lớn thực hiện tội phạm trong tương lai. Chính vì thế khi áp dụng biện pháp
cưỡng chế hình sự khá, Tòa án không quan tâm đến quá khứ, đến lỗi của
23
người bị áp dụng. Các biện pháp cưỡng chế hình sự không phải là hình phạt
được áp dụng nhằm biện pháp phòng ngừa bằng cách giáo dục, chữa trị những
nguyên nhân làm lệch lạc về thể chất, tâm lý, xã hội... làm cho người bị áp
dụng không thể tái hòa nhập xã hội được. Trong một số trường hợp, các biện
pháp cưỡng chế khác được biểu hiện dưới dạng các biện pháp tước tự do hoặc
hạn chế tự do, chẳng hạn như đưa vào cơ sở chữa bệnh, các biện pháp đưa
người chưa thành niên vào cơ sở giáo dục... Nhưng ở đây cần phải hiểu là đối
lập với hình phạt, các biện pháp nêu trên được áp dụng với các cá nhân nguy
hiểm không phải là trừng trị và cũng không phải là cái giá mà người bị áp
dụng phải trả với xã hội, không phải là sự lên án của xã hội đối với hành vi và
đối với người bị áp dụng biện pháp đó mà là nhằm tới mục đích phòng ngừa,
bảo vệ xã hội thông qua việc tái hòa nhập xã hội của người bị áp dụng. Tuy
nhiên, vì nhiều biện pháp cưỡng chế hình sự khác có tính chất tước đoạt hoặc
hạn chế tự do hoặc về tài sản, tức là có động chạm đến quyền, lợi ích thiết thân
của người bị áp dụng, nên khi áp dụng các biện pháp này cần tuân thù những
quy định về trình tự, thủ tục tố tụng nghiêm ngặt, nhằm tránh tối đa sự khó chịu,
gây tổn hại cho quyền và lợi ích của người bị áp dụng dẫn đến nguy cơ cản
trở quá trình tái hòa nhập cộng đồng của họ. Đặc biệt đối với người phạm tội
mà biện pháp cưỡng chế khác được áp dụng bên cạnh hình phạt thì theo chế
độ thi hành biện pháp cưỡng chế hình sự này cần được tổ chức theo cách mà cá
nhân đó không có cảm giác là bị trừng phạt vì tội phạm mà họ đã thực hiện.
Về thời hạn chấp hình biện pháp cưỡng chế hình sự không phải là
hình phạt có thể là rất ngặt nghèo và không có thời hạn nhất định. Tuy nhiên
các biện pháp này có thể được xem xét lại, tùy thuộc vào sự tiến triển của tình
trạng thể và tâm lý, tâm thần của người bị áp dụng, ví dụ đối với biện pháp
bắt buộc chữa bệnh áp dụng với người không có năng lực trách nhiệm hình sự
do mắc bệnh tâm thần hoặc các biện pháp áp dụng với người chưa thành niên
phạm tội.
24
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Qua nghiên cứu sơ bộ một số nội dung về lý luận của các biện pháp tư
pháp hình sự, phần nào có thể thấy các biện pháp tư pháp hình sự, với tư cách
là biện pháp cưỡng chế khác trong pháp luật hình sự, có vai trò hết sức quan
trọng trong hệ thống pháp luật nói chung, cũng như trong việc đấu tranh,
phòng và chống tội phạm.
Mặc dù biện pháp tư pháp hình sự chưa phải là biện pháp cưỡng chế
hình sự nghiêm khắc nhất, nhưng lại có tác động rất lớn trong việc ngăn ngừa
tội phạm, xử lý các trường hợp phạm tội đặc biệt: chưa thành niên, hành vi
phạm tội nhưng chưa đến mức phải chịu hình phạt.
Việc nghiên cứu các biện pháp tư pháp hình sự trên khía cạnh lý luận
giúp cho chúng ta có thể hiểu rõ hơn nguồn gốc, đặc điểm cũng như vai trò
quan trọng của các biện pháp này.
Mặc dù vậy, những hạn chế về mặt lý luận hiện nay, cũng là những trở
ngại trong việc áp dụng và thi hành các biện pháp tư pháp hình sự, khiến cho
việc đấu tranh, phòng và chống tội phạm còn chưa đạt hiệu quả cao. Thế nên,
để hoàn thiện các biện pháp tư pháp hình sự, chúng ta cần xem xét trên khía
cạnh áp dụng và thi hành các biện pháp nêu trên.
25
Chương 2
CÁC BIỆN PHÁP TƢ PHÁP TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
2.1. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM QUY ĐỊNH
VỀ CÁC BIỆN PHÁP TƢ PHÁP
2.1.1. Giai đoạn từ Cách mạng Tháng tám năm 1945 đến trƣớc
khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985
Sớm nhất, các biện pháp tư pháp đã được đề cập đến trong các văn
bản pháp lý do Nhà nước ban hành, cụ thể là "tịch thu vật, tiền liên quan đến
tội phạm" đã được quy định trong Công văn số 4/NCPL ngày 14/4/1966, Tòa
án nhân dân tối cao gửi Tòa án các địa phương hướng dẫn:
Cần phân biệt những đồ vật là tài sản của người can án là
Tòa án xét xử tịch thu theo yêu cầu của pháp luật với những đồ vật
là tài sản của người can án mà Tòa án tịch biên để đảm bảo việc
chấp hành khoản bồi thường những thiệt hại mà người can án gây
nên trong khi phạm tội. Việc tịch thu các phương tiện dùng để
phạm tội là một biện pháp tư pháp bắt buộc, và việc tịch thu một
phần hoặc toàn bộ tài sản của người can án (về tội phản cách mạng
và một số tội phạm về kinh tế) là một hình phạt phụ. Việc tịch biên
một số đồ vật của người bị kết án để bồi thường thiệt hại là một
biện pháp bảo đảm việc chấp hành quyết định về dân sự trong bản
án hình sự [25, tr. 262].
Đặc biệt hơn, theo hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao số 329-HS2
ngày 11 tháng 02 năm 1967, hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên
ở thời kỳ này chỉ chiếm khoảng một phần hai mức án đối với người lớn. Đối
với trẻ em từ 9 đến 17 tuổi, đi lang thang, trộm cắp nhiều lần, có lối sống sa
26
đọa trụy lạc đã được gia đình, đoàn thể, nhà trường và chính quyền tận tình
giúp đỡ nhiều lần, nhưng không chịu sửa chữa sẽ bị đưa vào trường phổ thông
công nông nghiệp trong thời gian 02 năm. Đây là những trường giáo dục
thanh thiếu niên hư.
Những quy định ban đầu này chỉ mang tính chất rời rạc, hướng dẫn
khá sơ sài, chưa xác định được loại tài sản trực tiếp liên quan đến tội phạm là
gì, và cách xử lý cụ thể với từng loại ra sao; cũng như việc các định thế nào là
người phạm tội vị thành niên. Việc áp dụng những hướng dẫn này đương
nhiên cũng không thể chi tiết cụ thể được. Do đó, ban đầu, việc quy định các
biện pháp tư pháp hình sự trong luật hình sự nêu trên, đã có sự ghi nhận,
nhưng chưa đầy đủ, rõ ràng.
2.1.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985 đến
trƣớc khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1999
Bộ luật Hình sự 1985 ghi nhận cả biện pháp tư pháp hình sự chung và
biện pháp tư pháp hình sự riêng, trong đó biện pháp tư pháp hình sự chung
bao gồm: "Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm"; "Buộc trả lại
tài sản và công khai xin lỗi"; "Bắt buộc chữa bệnh" được ghi nhận trước hết.
Thêm vào đó, còn có những quy định về "cải tạo không giam giữ và
cải tạo tại đơn vị" áp dụng đối với quân nhân phạm tội (Nghị quyết 95/HĐBT
ngày 25/7/1989).
Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế với người chưa thành niên cũng được
ghi nhận trong Bộ luật Hình sự năm 1985 quy định là biện pháp "buộc phải
chịu thử thách", song chưa thể hiện được đầy đủ bản chất và chính xác, phù hợp
nhất với các văn bản pháp luật và thực tiễn áp dụng. Theo đó, các biện pháp
tư pháp hình sự đối với người chưa thành niên tại Bộ luật Hình sự 1985 gồm:
- Biện pháp buộc phải chịu thử thách;
- Biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng.
27
2.2. CÁC BIỆN PHÁP TƢ PHÁP TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999
2.2.1. Các biện pháp tƣ pháp chung
* Khái niệm và phân loại các biện pháp tư pháp chung
- Khái niệm: Các biện pháp tư pháp hình sự (chung) áp dụng với
người phạm tội là những biện pháp cưỡng chế về hình sự của Nhà nước ít
nghiêm khắc hơn hình phạt, do Bộ luật Hình sự quy định và được Tòa án áp
dụng khi xét xử nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt, căn cứ vào
tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân
người phạm tội và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm.
- Phân loại: Các biện pháp tư pháp hình sự chung được áp dụng với
những người phạm tội (cả người đã thành niên và người chưa thành niên
phạm tội) với mục đích trừng phạt, cải tạo và ngăn ngừa.
Biện pháp tư pháp hình sự chung gồm có 4 biện pháp tư pháp hình sự
được quy định trong Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009):
(1) Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm;
(2) Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại;
(3) Buộc công khai xin lỗi;
(4) Bắt buộc chữa bệnh.
* Điều kiện áp dụng các biện pháp tư pháp trong Bộ luật Hình sự năm
1999
Biện pháp tư pháp "Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm"
Vật và tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm là vật hoặc tiền là công cụ,
phương tiện dùng và việc thực hiện tội phạm hoặc thông qua việc thực hiện
tội phạm mà có, hoặc do mua bán đổi chác những thứ ấy mà có hoặc là vật
Nhà nước cấm sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán [30, tr. 195].
28
Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định:
Điều 41. Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm
1. Việc tịch thu, sung quỹ nhà nước được áp dụng đối với:
a) Công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội;
b) Vật hoặc tiền do phạm tội hoặc do mua bán, đổi chác
những thứ ấy mà có;
c) Vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành.
2. Đối với vật, tiền bị người phạm tội chiếm đoạt hoặc sử
dụng trái phép, thì không tịch thu mà trả lại cho chủ sở hữu hoặc
người quản lý hợp pháp.
3. Vật, tiền thuộc tài sản của người khác, nếu người này có
lỗi trong việc để cho người phạm tội sử dụng vào việc thực hiện tội
phạm, thì có thể bị tịch thu, sung quỹ nhà nước [22].
Biện pháp tư pháp hình sự "Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến
tội phạm" được áp dụng trong suốt quá trình xử lý vụ án từ giai đoạn điều tra,
truy tố, xét xử và thi hành án.
Trong pháp luật thực định, việc áp dụng biện pháp này được quy định
trong Điều 41 Bộ luật Hình sự năm 1999: Giai đoạn đầu, những vật, tiền trực
tiếp liên quan đến tội phạm được các cơ quan tiến hành tố tụng xác định sẽ bị
tịch thu, kê biên; đến khi đưa ra xét xử vụ án, việc xử lý với các vật, tiền này
mới thực sự được quyết định.
Về thẩm quyền áp dụng: Cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền áp
dụng biện pháp "Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm" là Tòa án
xét xử vụ việc đó. Khi đưa vụ án ra xét xử, ngoài việc quyết định hình phạt
với người phạm tội, Tòa án còn phải xử lý vật chứng, tài sản, tiền bạc mà cơ
quan tiến hành tố tụng trước đó đã thu giữ, kê biên.
29
Trong đó:
Việc tịch thu sung quỹ Nhà nước được thực hiện với:
- Công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội: Để xác định rằng đâu
là công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội, trong quá trình xét xử, Tòa
án phải xem xét các chứng cứ có liên quan đến vật, tiền này một cách thận
trọng, kỹ lưỡng và hoàn toàn khách quan. Ví dụ: Khi một người sử dụng xe
máy để vận chuyển hàng quốc cấm, thì chiếc xe máy là phương tiện dùng để
phạm tội. Nhưng đối với những phương tiện, công cụ mà không xác định
được là có được dùng vào việc phạm tội hay không, thì không được áp dụng
biện pháp này.
- Vật hoặc tiền do tội phạm, hoặc do mua bán, đổi chác những thứ ấy
mà có: Việc xác định vật, tiền trong khi áp dụng "Tịch thu sung công quỹ" có
ý nghĩa hết sức quan trọng, cụ thể là: Đối với vật, tiền mà người phạm tội
chiếm đoạt hoặc sử dụng không trái phép thì mới được phép sung công quỹ.
Ví dụ: A ăn trộm tiền bạc của rất nhiều nhà trong làng, sau khi cơ quan tiến
hành tố tụng xử lý vụ án, còn dư một số tiền 500.000 VNĐ không xác định
được của ai, số tiền này sẽ được tịch thu, sung công quỹ. Đối với vật, tiền mà
người phạm tội có do sử dụng hợp pháp thì tùy vào từng trường hợp mà xem
xét để tịch thu sung công quỹ hoặc trả lại cho chủ sở hữu của vật, tiền. Trong
trường hợp người chủ sở hữu, hoặc người đang quản lý tài sản mà có lỗi trong
việc để người phạm tội sử dụng vào việc phạm tội thì có thể bị tịch thu tài sản
đó. Ví dụ: A mượn xe của B để chở hàng cấm đi bán, chiếc xe máy này B vẫn
thường dùng để đi làm, B cho A mượn nhưng không hề biết A để vận chuyển
hàng cấm thì chiếc xe máy sẽ được xem xét trả lại cho B; nhưng nếu B biết
mà vẫn cho A mượn thì chiếc xe sẽ bị tịch thu; B có thể bị truy cứu trách
nhiệm hình sự (trong vai trò người giúp sức).
30
- Vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành: Người phạm tội khi kinh
doanh, vận chuyển các loại hàng cấm (được quy định trong Nghị định số
11/1999/NĐ-CP của Chính phủ về danh mục hàng hóa cấm lưu thông, dịch vụ
thương mại cấm thực hiện; hàng hóa thương mại dịch vụ hạn chế kinh doanh,
kinh doanh có điều kiện) thì những vật đó sẽ bị tịch thu sung công quỹ. Ví dụ:
A mang pháo từ Trung Quốc về Việt Nam để bán trong những ngày tết
Nguyên đán, trên đường vận chuyển bị phát hiện; số pháo nêu trên thuộc danh
mục hàng hóa bị cấm lưu hành, kinh doanh nên sẽ bị tịch thu sung công quỹ.
- Trong một số trường hợp thì tài sản được trả lại cho chủ sở hữu hoặc
người quản lý hợp pháp, cụ thể là, đối với: vật hoặc tiền bị người chiếm đoạt
hoặc sử dụng trái phép vào việc phạm tội. Ví dụ: A ăn trộm chiếc xe đạp của B
và dùng để đánh bạc; trong khi đang đánh bạc thì bị bắt, chiếc xe đạp bị cơ
quan công an tạm giữ. Khi xử lý vụ án, chiếc xe đạp của A sẽ được xem xét
và trả lại cho A.
Biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt
hại, buộc công khai xin lỗi"
Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại là biện pháp tư pháp
được Bộ luật Hình sự quy định, do Tòa án áp dụng đối với người phạm tội khi
họ đã gây ra thiệt hại vật chất hoặc tinh thần cho người bị hại [30, tr. 196].
Buộc công khai xin lỗi là biện pháp tư pháp được quy định trong Bộ
luật Hình sự, do Tòa án áp dụng đối với người phạm tội gây thiệt hại về tinh
thần nhằm khôi phục những giá trị tinh thần cho người bị hại và giáo dục, cải
tạo người phạm tội [30, tr. 197].
Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định:
Điều 42. Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại;
buộc công khai xin lỗi
31
1. Người phạm tội phải trả lại tài sản đã chiếm đoạt cho chủ sở
hữu hoặc người quản lý hợp pháp, phải sửa chữa hoặc bồi thường
thiệt hại vật chất đã được xác định do hành vi phạm tội gây ra.
2. Trong trường hợp phạm tội gây thiệt hại về tinh thần, Tòa
án buộc người phạm tội phải bồi thường về vật chất, công khai xin
lỗi người bị hại [22].
Biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc
công khai xin lỗi" được áp dụng trong quá trình xử lý vụ án, cụ thể là giai
đoạn xét xử vụ án; và thẩm quyền là Tòa án đang xét xử vụ việc.
Việc quy định biện pháp này trong Bộ luật Hình sự, được hiểu là:
Người phạm tội bị áp dụng biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi
thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi" có nghĩa vụ thực hiện:
- Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại: Theo quy định tại
Điều 42 Bộ luật Hình sự 1999 thì người phạm tội phải trả lại tài sản đã chiếm
đoạt cho chủ sở hữu, hoặc người đang quản lý hợp pháp, phải sửa chữa hoặc
bồi thường thiệt hại vật chất do hành vi phạm tội gây ra. Các thiệt hại về mặt
vật chất có thể tính ra bằng tiền, cụ thể là đối với tài sản là vật, tiền có giá trị
và giá trị sử dụng cụ thể. Tòa án chỉ có thể buộc người phạm tội thực hiện
việc này trên cơ sở xác định về tài sản, lỗi của người chiếm đoạt và phần trăm
thiệt hại (nếu có) của tài sản. Nếu tài sản còn nguyên giá trị như khi bị chiếm
đoạt, thì người phạm tội phải trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp;
trong trường hợp tài sản đã bị thiệt hại, hư hại thì người đó phải sửa chữa
hoặc bồi thường bằng vật, tiền có giá trị tương xứng.
Trong trường hợp người phạm tội có xâm hại về tinh thần (không phải
những yếu tố kể trên) mà về tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm của
người khác, thì việc áp dụng bồi thường được thực hiện nhưng trên cơ sở bồi
32
thường tình thần. Cụ thể được quy định trong Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP
ngày 08/7/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn
áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự 2005 về bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng. Thực chất, việc bồi thường này không nhằm vào khắc phục
các tổn thất về mặt tinh thần, thể chất mà để nhằm bù đắp các tổn thất vật chất
kèm theo như tiền mai tang, tiền chữa trị vết thương, các khoản thu nhập bị
mất trong quá trình bị thương; chi phí cho mai tang, chạy chữa… thì người
phạm tội sẽ bồi thường cho người bị hại hoặc đại diện của người bị hại.
- Buộc công khai xin lỗi: Đối với trường hợp người bị hại bị xâm hại
về mặt tinh thần, thì ngoài việc áp dụng "Bồi thường thiệt hại về mặt tinh
thần" như đã phân tích ở trên, Bộ luật Hình sự cho phép Tòa án áp dụng cả
hai biện pháp tư pháp bồi thường thiệt hại và buộc công khai xin lỗi người bị
hại. Người bị thiệt hại về tinh thần được khôi phục lại những giá trị tinh thần
thông qua việc Tòa án nhân dân Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam buộc người phạm tội công khai xin lỗi họ. Biện pháp tư pháp này không
chỉ có tác dụng giáo dục, cải tạo người phạm tội trở thành công dân có ích mà
còn giúp xã hội biết tôn trọng giá trị đời sống tinh thần. Việc áp dụng công
khai xin lỗi thường được đi kèm với bồi thường thiệt hại để đạt được kết quả
cao nhất.
Biện pháp tư pháp "Bắt buộc chữa bệnh":
Bắt buộc chữa bệnh là biện pháp tư pháp được Bộ luật Hình sự quy
định, do tòa án hoặc viện kiểm soát áp dụng đối với người thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội trong khi mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm cho
mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình.
Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định về
biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh như sau:
Điều 43: Bắt buộc chữa bệnh:
33
Đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong
khi mắc bệnh quy định tại khoản 1 Điều 13 của Bộ luật này, thì tùy
theo giai đoạn tố tụng, Viện kiểm sát hoặc Tòa án căn cứ vào kết
luận của Hội đồng giám định pháp y, có thể quyết định đưa họ vào
một cơ sở điều trị chuyên khoa để bắt buộc chữa bệnh; nếu thấy
không cần thiết phải đưa vào một cơ sở điều trị chuyên khoa, thì có
thể giao cho gia đình hoặc người giám hộ trông nom dưới sự giám
sát của Cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
2. Đối với người phạm tội trong khi có năng lực trách nhiệm
hình sự nhưng trước khi bị kết án đã mắc bệnh tới mức mất khả
năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì căn
cứ vào kết luận của Hội đồng giám định pháp y, Tòa án có thể
quyết định đưa họ vào một cơ sở điều trị chuyên khoa để bắt buộc
chữa bệnh. Sau khi khỏi bệnh, người đó có thể phải chịu trách
nhiệm hình sự.
3. Đối với người đang chấp hành hình phạt mà bị bệnh tới
mức mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của
mình, thì căn cứ vào kết luận của Hội đồng giám định pháp y, Tòa
án có thể quyết định đưa họ vào một cơ sở điều trị chuyên khoa để
bắt buộc chữa bệnh. Sau khi khỏi bệnh, người đó phải tiếp tục chấp
hành hình phạt, nếu không có lý do khác để miễn chấp hành hình phạt.
Điều 44. Thời gian bắt buộc chữa bệnh
Căn cứ vào kết luận của cơ sở điều trị, nếu người bị bắt
buộc chữa bệnh quy định tại Điều 43 của Bộ luật này đã khỏi bệnh,
thì tùy theo giai đoạn tố tụng, Viện kiểm sát hoặc Tòa án xét và
quyết định đình chỉ việc thi hành biện pháp này.
34
Thời gian bắt buộc chữa bệnh được trừ vào thời hạn chấp
hành hình phạt tù [22].
Bắt buộc chữa bệnh được áp dụng cho các trường hợp người thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội trong tình trạng mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh
khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình.
Việc áp dụng biện pháp tư pháp này được quy định tại Điều 43, 44 Bộ luật
Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung).
Việc áp dụng biện pháp tư pháp này nhằm phòng ngừa khả năng gây
thiệt hại cho trật tự, an toàn xã hội của người mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh
khác gây rối loạn hoạt động tâm thần. Bên cạnh đó, việc áp dụng Bắt buộc
chữa bệnh còn mang tính nhân đạo, bởi lẽ thay vì áp dụng hình phạt đối với
những người đó thì Nhà nước quy định các biện pháp tư pháp hình sự, cụ thể
là Bắt buộc chữa bệnh cho phép những người đó được chữa bệnh tại cơ sở
điều trị chuyên khoa có thể giao cho gia đình hoặc người giám hộ trông nom
dưới sự giám sát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng biện pháp này.
Bắt buộc chữa bệnh được áp dụng bởi cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, cụ thể là Viện kiểm sát hoặc Tòa án áp dụng bắt buộc chữa bệnh với
người phạm tội căn cứ vào quyết định của Hội đồng giám định y khoa. Thẩm
quyền áp dụng tùy vào từng giai đoạn tố tụng thuộc về Viện kiểm sát (giai
đoạn điều tra, truy tố) hoặc Tòa án (giai đoạn xét xử). Cụ thể việc áp dụng
được quy định tại Điều 43, 44 Bộ luật Hình sự:
- Áp dụng đối với người trong tình trạng mất năng lực trách nhiệm
hình sự: Đang mắc phải một bệnh tâm thần, hoặc một bệnh lý khác mà không
có khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi của mình. Người bị mất năng
lực trách nhiệm hình sự trong khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội,
không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi đó; nhưng để tránh trường
hợp người đó tiếp tục phạm tội thì Nhà nước quy định việc áp dụng biện pháp
35
bắt buộc chữa bệnh. Khi có căn cứ cho rằng người đó bị mất năng lực trách
nhiệm hình sự thì tùy vào giai đoạn tố tụng mà Viện kiểm sát, Tòa án căn cứ
kết luận Hội đồng giám định pháp y, có thể quyết định đưa họ vào một cơ sở
điều trị chuyên khoa (nếu cần thiết) hoặc giao cho gia đình, người giám hộ
trông nom dưới sự giám sát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc áp
dụng này tùy thuộc vào từng giai đoạn, cụ thể là ở giai đoạn điều tra, truy tố,
thì Viện kiểm sát trên cơ sở kết luận giám định (có thể do Cơ quan điều tra đề
nghị trưng cầu giám định khi điều tra) có thể ra quyết định áp dụng; còn đối
với trường hợp vụ án được đưa ra xét xử hoặc đang được thi hành án thì Tòa
án là cơ quan có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp này.
2.2.2. Các biện pháp tƣ pháp quy định riêng cho ngƣời chƣa
thành niên phạm tội
Các biện pháp tư pháp hình sự (riêng) áp dụng với người chưa thành
niên phạm tội là những biện pháp cưỡng chế về hình sự của Nhà nước ít
nghiêm khắc hơn hình phạt, do Bộ luật Hình sự quy định và được Tòa án áp
dụng khi xét xử nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt, căn cứ vào
tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân
người chưa thành niên và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm.
Bên cạnh việc áp dụng những hình phạt, tùy theo từng trường hợp cụ
thể cần phải áp dụng biện pháp thay thế cho hình phạt mà vẫn đảm bảo yêu
cầu công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm; Tòa án áp dụng các biện
pháp tư pháp riêng, hoặc cơ quan tiến hành tố tụng hình sự áp dụng các biện
pháp tư pháp chung với người chưa thành niên phạm tội.
Các biện pháp tư pháp hình sự riêng chỉ áp dụng với những người
chưa thành niên phạm tội, do đó chỉ ghi nhận trong hai biện pháp tư pháp là:
+ Giáo dục tại xã, phường, thị trấn;
36
+ Đưa vào trường giáo dưỡng.
Nếu như các biện pháp tư pháp chung, có mục đích nhằm hỗ trợ hoặc
thay thế cho hình phạt; thì các biện pháp tư pháp riêng áp dụng với người
chưa thành niên phạm tội lại có mục đích chính là thay thế cho hình phạt;
nhằm "giáo dục, cải tạo người chưa thành niên phạm tội và phòng ngừa tội
phạm do người chưa thành niên thực hiện.
Người chưa thành niên là những người chưa hoàn toàn phát triển đầy
đủ về nhân cách, chưa có đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ của một công dân.
Pháp luật ở mỗi quốc gia quy định độ tuổi cụ thể của người chưa thành niên.
Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên hợp
quốc thông qua ngày 20/11/1989 có ghi: "Trong phạm vi Công ước này, trẻ
em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với
trẻ em có quy định tuổi thành niên sớm hơn".
Ở Việt Nam, độ tuổi người chưa thành niên được xác định thống nhất
trong Hiến pháp năm 1992, Bộ luật Hình sự năm 1999, Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2003, Bộ luật Lao động, Bộ luật Dân sự, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành
chính và một số văn bản quy phạm pháp luật khác. Tất cả các văn bản pháp
luật đó đều quy định tuổi của người chưa thành niên là dưới 18 tuổi và quy
định riêng những chế định pháp luật đối với người chưa thành niên trong từng
lĩnh vực cụ thể.
Khái niệm người chưa thành niên khác với khái niệm trẻ em. Theo
Điều 1 Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 2004: "Trẻ em là công
dân Việt Nam dưới 16 tuổi".
Tóm lại, khái niệm người chưa thành niên được xây dựng dựa trên sự
phát triển về mặt thể chất và tinh thần của con người và được cụ thể hóa bằng
giới hạn độ tuổi trong các văn bản pháp luật của từng quốc gia. Theo đó,
người ta quy định những quyền và nghĩa vụ cụ thể của người chưa thành niên.
37
Như vậy, có thể khái niệm: Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi,
chưa phát triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần, chưa có đầy đủ các quyền
và nghĩa vụ pháp lý như người đã thành niên.
Người chưa thành niên phạm tội là một hiện tượng xã hội đang được
xã hội rất quan tâm hiện nay, do người chưa thành niên là đối tượng đặc biệt.
Việc đưa vụ án hình sự có người chưa thành niên ra xét xử, phải đảm bảo
được các nguyên tắc cơ bản của pháp luật hình sự, cũng như khi quyết định
hình phạt phải trên cơ sở của đường lối, chính sách hình sự xử lý người chưa
thành niên phạm tội. Do đó, mặc dù việc áp dụng các biện pháp tư pháp hình
sự thể hiện tính nhân đạo đối với người chưa thành niên phạm tội, song việc
áp dụng này vẫn phải đảm bảo các quyền lợi như đối với các công dân bình
thường, và đáp ứng các điều kiện áp dụng do pháp luật quy định.
* Giáo dục tại xã, phường, thị trấn
Giáo dục tại xã, phường, thị trấn là biện pháp tư pháp được áp dụng
với người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng trong thời hạn một năm
đến hai năm. Biện pháp này được quy định tại khoản 2, Điều 70 Bộ luật Hình
sự 1999 như sau:
Điều 70: Các biện pháp tư pháp áp dụng với người chưa
thành niên phạm tội:
2. Tòa án có thể áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường,
thị trấn từ một năm đến hai năm đối với người chưa thành niên
phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng.
Người được giáo dục tại xã, phường, thị trấn phải chấp hành
đầy đủ những nghĩa vụ về học tập, lao động, tuân theo pháp luật
dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền xã, phường, thị trấn và
tổ chức xã hội được Tòa án giao trách nhiệm [20].
38
Điều kiện áp dụng: Giáo dục tại xã, phường, thị trấn là biện pháp tư
pháp thay thế cho hình phạt được áp dụng đới với người chưa thành niên phạm
tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng. Như vậy, điều kiện để áp dụng biện
pháp tư pháp này là buộc phải căn cứ vào tính chất nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội, cũng như các điều kiện khác: Có nhiều tình tiết giảm nhẹ,
nhân thân tốt, người chưa thành niên phạm tội đã có thái độ ăn năn, hối cải
sau khi phạm tội, có nơi ở ổn định và môi trường sống của họ thuận lợi cho
việc giáo dục và cải tạo.
Thời hạn áp dụng: Việc áp dụng biện pháp tư pháp này là từ một đến
hai năm do Tòa án xem xét quyết định. Trong thời hạn này, người chưa thành
niên bị kết án không bị cách ky khỏi cuộc sống xã hội, nhưng người bị áp
dụng biện pháp này buộc phải chấp hành đầy đủ những nghĩa vụ, cũng như
được hưởng những quyền lợi được quy định tại Nghị định 59/2000/NĐ-CP
ngày 30/10/2000 của Chính phủ quy định việc thi hành biện pháp giáo dục tại
xã, phường, thị trấn
Việc áp dụng này nhằm tạo điều kiện cho người chưa thành niên bị
kết án được lao động, học tập tại cộng đồng và chứng tỏ sự hối cải của mình
ngay trong môi trường xã hội bình thường, dưới sự giám sát của Ủy ban nhân
dân xã, phường, thị trấn hoặc tổ chức xã hội và gia đình.
* Đưa vào trường giáo dưỡng
Đưa vào trường giáo dưỡng là biện pháp tư pháp đối với người chưa
thành niên nếu xét thấy cần phải có kỷ luật chặt chẽ và cần phải cách ly họ
khỏi môi trường xã hội để giáo dục và cải tạo họ thành công dân có ích cho xã
hội. Biện pháp này được quy định tại khoản 3, Điều 70 Bộ luật Hình sự năm
1999 quy định:
Điều 70: Các biện pháp tư pháp áp dụng với người chưa
thành niên phạm tội:
39
3. Tòa án có thể áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo
dưỡng từ một năm đến hai năm đối với người chưa thành niên phạm
tội, nếu thấy do tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội, do
nhân thân và môi trường sống của người đó mà cần đưa người đó
vào một tổ chức giáo dục có kỷ luật chặt chẽ [20].
Đưa vào trường giáo dưỡng là biện pháp tư pháp áp dụng đối với người
chưa thành niên phạm tội buộc phải cách ly họ khỏi gia đình, hoặc môi trường
sống hiện tạo để vào một tổ chức giáo dục có kỷ luật chặt chẽ và nghiêm ngặt.
Đây là biện pháp tư pháp dùng thay thế hình phạt, có tính nghiêm
khắc hơn so với biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, nhằm hạn chế tự
do và cách ly người chưa thành niên bị kết án khỏi môi trường sống bình
thường của họ, đưa họ vào một tổ chức giáo dục riêng có kỷ luật chặt chẽ,
chấp hành đầy đủ nội quy, nề nếp, được sống học tập và rèn luyện dưới sự
giám sát chặt chẽ của tổ chức chuyên trách là trường giáo dưỡng trong một
thời gian nhất định.
Điều kiện áp dụng: Biện pháp tư pháp này mang tính nghiêm khắc
hơn so với biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; do đó để áp dụng biện
pháp này Tòa án cần cân nhắc một cách kỹ càng. Việc áp dụng biện pháp này
chỉ với đối tượng là người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi
phạm tội - điều này phần nào cũng có ảnh hưởng đến các yếu tố tinh thần của
họ. Do đó, việc áp dụng cần đáp ứng được các điều kiện sau:
+ Tòa án cần căn cứ vào tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội
do người chưa thành niên thực hiện. Bộ luật Hình sự năm 1999 không quy
định cụ thể người đó phạm tội gì, do đó, Tòa án cần xem xét trên cơ sở các
yếu tố: Quan hệ xã hội bị xâm hại (đối tượng), hình thức lỗi (vô ý hay cố ý).
40
+ Tòa án căn cứ vào nhân thành người chưa thành niên phạm tội. Qua
việc xem xét và đánh giá tổng thể các yếu tố về nhân thân như: Hoàn cảnh gia
đình, lý lịch bản thân, độ tuổi, giới tính, tiền án - tiền sự trước đó... có thể
phản ánh được các đặc điểm, đặc tính xã hội của chính người này; đồng thời
phản ánh được khả năng cải tạo, giáo dục họ trong môi trường sống.
+ Tòa án căn cứ vào môi trường sống của người chưa thành niên. Môi
trường sống là nơi người đó sinh sống, học tập và lao động. Ở một môi trường
tốt thì người đó có điều kiện để phát triển bản thân, cũng như trở thành một
người có ích, còn nếu như sống trong điều kiện môi trường không tốt, có thể
gây ảnh hưởng xấu đến người chưa thành niên, khiến họ dễ mắc phải những
thói hư tật xấu, bị bạn bè lôi kéo, rủ rê, dễ rơi vào các tệ nạn xã hội... Môi
trường xấu có thể khiến người chưa thành niên có những nhận thức lệch lạc,
hành động thiếu suy nghĩ hướng đến việc chống đối xã hội. Do đó, việc chấp
nhận để người chưa thành niên phạm tội tiếp tục được sống, giáo dục và cải
tạo trong môi trường đó là một lựa chọn không đúng đắn, việc cách ly họ khỏi
môi trường xấu đó là hết sức cần thiết.
Như vậy, có thể thấy những người chưa thành niên có hành vi phạm
tội có tính chất nghiêm trọng, nhân thân xấu, không có nơi cư trú nhất định
(sống lang thang, bụi đời...) [14, tr. 399].
Thời hạn áp dụng: Đối với những trường hợp thỏa mãn các điều kiện
nêu trên, Tòa án quyết định thời gian đưa vào trường giáo dưỡng từ một đến
hai năm.
Trong thời hạn này, người bị kết án buộc phải thực hiện các nội quy,
quy chế của trường giáo dưỡng, sống, học tập và lao động theo quy định. Tính
từ ngày người chưa thành niên được đưa vào trường giáo dưỡng, nếu họ đã
chấp hành được một nửa thời hạn ở trường giáo dưỡng do Tòa án quyết định,
đồng thời, có nhiều tiến bộ trong quá trình chấp hành như: Thực hiện tốt các
41
nội quy, quy định của trường giáo dưỡng; tích cực rèn luyện và đạt kết quả
tốt, thể hiện được sự ăn năn, hối cải do những hành vi nguy hiểm cho xã hội
do mình gây ra... thì người phụ trách của nhà trường có thể đề nghị Tòa án
chấm dứt thời hạn ở trường giáo dưỡng trước thời hạn.
2.3. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP TƢ PHÁP; NHỮNG TỒN
TẠI, HẠN CHẾ TRONG THỰC TIỄN ÁP DỤNG CHẾ ĐỊNH CÁC BIỆN PHÁP TƢ
PHÁP VÀ NHỮNG NGUYÊN NHÂN CỦA NÓ
2.3.1. Thực tiễn áp dụng các biện pháp tƣ pháp
Việc áp dụng các biện pháp tư pháp hình sự đã có từ lâu, ngay khi Bộ
luật Hình sự năm 1985 được ban hành, và đến nay, với pháp luật thực định
(Bộ luật Hình sự 1999, sửa đổi bổ sung 2009) thì những quy định này càng
được cụ thể rõ ràng hơn, được áp dụng vào thực tế nhiều hơn. Trong những
vụ án hình sự gần đây (500 vụ án hình sự được tính từ năm 2005) thì tỷ lệ áp
dụng các biện pháp tư pháp hình sự khá cao (chiếm đến 80%). Hầu hết các vụ
án hình sự đều được áp dụng biện pháp tư pháp.
Thực tiễn việc áp dụng các biện pháp tư pháp cụ thể là:
Với biện pháp "Trả lại vật, tiền do phạm tội mà có" được đánh giá là
biện pháp tư pháp được áp dụng rộng rãi, chiếm tỷ lệ lớn trong các vụ án hình
sự có liên quan đến tài sản. Trên cơ sở khảo sát 500 vụ án hình sự từ năm
2005 đến này, thì việc áp dụng biện pháp này chiếm đến 60% tổng số vụ án.
Hầu hết các vụ án có liên quan đến tài sản, người bị hại bị chiếm đoạt
tài sản một cách bất hợp pháp, thì sẽ áp dụng biện pháp tư pháp hình sự "Trả
lại vật tiền" cho người bị thiệt hại về tài sản. Mặt khác, việc áp dụng trả lại tài
sản cho người bị thiệt hại về tài sản hoặc người quản lý tài sản hợp pháp là
việc rất cần thiết, và đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho người dân.
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY

More Related Content

What's hot

Báo cáo thực tập kiểm sát viên viện kiểm sát huyện Phú Riềng, Bình Phước
Báo cáo thực tập kiểm sát viên viện kiểm sát huyện Phú Riềng, Bình PhướcBáo cáo thực tập kiểm sát viên viện kiểm sát huyện Phú Riềng, Bình Phước
Báo cáo thực tập kiểm sát viên viện kiểm sát huyện Phú Riềng, Bình PhướcDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Thi hành án dân sự
Thi hành án dân sựThi hành án dân sự
Thi hành án dân sựTé Lầu
 

What's hot (20)

Luận văn: Kỹ thuật lập pháp trong Quốc triều hình luật, HAY
Luận văn: Kỹ thuật lập pháp trong Quốc triều hình luật, HAYLuận văn: Kỹ thuật lập pháp trong Quốc triều hình luật, HAY
Luận văn: Kỹ thuật lập pháp trong Quốc triều hình luật, HAY
 
Báo cáo thực tập kiểm sát viên viện kiểm sát huyện Phú Riềng, Bình Phước
Báo cáo thực tập kiểm sát viên viện kiểm sát huyện Phú Riềng, Bình PhướcBáo cáo thực tập kiểm sát viên viện kiểm sát huyện Phú Riềng, Bình Phước
Báo cáo thực tập kiểm sát viên viện kiểm sát huyện Phú Riềng, Bình Phước
 
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sựLuận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sự
 
Tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đ
Tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đTội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đ
Tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đ
 
Thi hành án dân sự
Thi hành án dân sựThi hành án dân sự
Thi hành án dân sự
 
Luận văn: Bảo đảm quyền bị can, bị cáo là người chưa thành niên
Luận văn: Bảo đảm quyền bị can, bị cáo là người chưa thành niênLuận văn: Bảo đảm quyền bị can, bị cáo là người chưa thành niên
Luận văn: Bảo đảm quyền bị can, bị cáo là người chưa thành niên
 
Luận văn: Tội trộm cắp theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trộm cắp theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Đề tài: Kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự, HAY
Đề tài: Kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự, HAYĐề tài: Kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự, HAY
Đề tài: Kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự, HAY
 
Ngăn chặn bắt, tạm giam đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, 9đ
Ngăn chặn bắt, tạm giam đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, 9đNgăn chặn bắt, tạm giam đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, 9đ
Ngăn chặn bắt, tạm giam đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, 9đ
 
Luận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Luật
Luận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo LuậtLuận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Luật
Luận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Luật
 
Luận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt NamLuận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
 
Đề tài: Vai trò của Thẩm phán Toà án trong hoạt động xét xử, HAY
Đề tài: Vai trò của Thẩm phán Toà án trong hoạt động xét xử, HAYĐề tài: Vai trò của Thẩm phán Toà án trong hoạt động xét xử, HAY
Đề tài: Vai trò của Thẩm phán Toà án trong hoạt động xét xử, HAY
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Luận văn: Bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng hình sựLuận văn: Bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOTLuận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Tội mua bán người, mua bán trẻ em tại tỉnh Hà Giang
Luận văn: Tội mua bán người, mua bán trẻ em tại tỉnh Hà GiangLuận văn: Tội mua bán người, mua bán trẻ em tại tỉnh Hà Giang
Luận văn: Tội mua bán người, mua bán trẻ em tại tỉnh Hà Giang
 
Luận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí Minh
Luận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí MinhLuận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí Minh
Luận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí Minh
 
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đLuận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
 
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại Quảng Ninh
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại Quảng NinhLuận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại Quảng Ninh
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại Quảng Ninh
 
Luận văn: Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo, HOT
Luận văn: Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo, HOTLuận văn: Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo, HOT
Luận văn: Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo, HOT
 

Similar to Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY

CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...phamhieu56
 
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...TiLiu5
 
Luận văn thạc sĩ các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự việt ...
Luận văn thạc sĩ các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự việt ...Luận văn thạc sĩ các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự việt ...
Luận văn thạc sĩ các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự việt ...jackjohn45
 
Luận văn: Quyết định hình phạt và tổng hợp hình phạt theo pháp luật - Gửi miễ...
Luận văn: Quyết định hình phạt và tổng hợp hình phạt theo pháp luật - Gửi miễ...Luận văn: Quyết định hình phạt và tổng hợp hình phạt theo pháp luật - Gửi miễ...
Luận văn: Quyết định hình phạt và tổng hợp hình phạt theo pháp luật - Gửi miễ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

Similar to Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY (20)

Luận án: Thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự
Luận án: Thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sựLuận án: Thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự
Luận án: Thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự
 
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt NamLuận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
 
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAYLuận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật Việt Nam tại Vĩnh Phúc
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật Việt Nam tại Vĩnh PhúcLuận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật Việt Nam tại Vĩnh Phúc
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật Việt Nam tại Vĩnh Phúc
 
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...
 
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...
 
Luận văn thạc sĩ các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự việt ...
Luận văn thạc sĩ các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự việt ...Luận văn thạc sĩ các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự việt ...
Luận văn thạc sĩ các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự việt ...
 
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Thủ tục Thi hành án dân sự huyện Phú Ninh, Quảng Nam
Luận văn: Thủ tục Thi hành án dân sự huyện Phú Ninh, Quảng NamLuận văn: Thủ tục Thi hành án dân sự huyện Phú Ninh, Quảng Nam
Luận văn: Thủ tục Thi hành án dân sự huyện Phú Ninh, Quảng Nam
 
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docxBiện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
 
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAYLuận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
 
Luận văn: Quyết định hình phạt và tổng hợp hình phạt theo pháp luật - Gửi miễ...
Luận văn: Quyết định hình phạt và tổng hợp hình phạt theo pháp luật - Gửi miễ...Luận văn: Quyết định hình phạt và tổng hợp hình phạt theo pháp luật - Gửi miễ...
Luận văn: Quyết định hình phạt và tổng hợp hình phạt theo pháp luật - Gửi miễ...
 
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOTLuận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
 
Luận văn: Chế định án tích trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Chế định án tích trong luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Chế định án tích trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Chế định án tích trong luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Vấn đề về chế định án tích trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Vấn đề về chế định án tích trong luật hình sự, HAYLuận văn: Vấn đề về chế định án tích trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Vấn đề về chế định án tích trong luật hình sự, HAY
 
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sựBiện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật hình sự việt nam
Luận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật hình sự việt namLuận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật hình sự việt nam
Luận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật hình sự việt nam
 
Bện pháp xử lý vi phạm hành chính tại Tòa án tỉnh Quảng Nam
Bện pháp xử lý vi phạm hành chính tại Tòa án tỉnh Quảng NamBện pháp xử lý vi phạm hành chính tại Tòa án tỉnh Quảng Nam
Bện pháp xử lý vi phạm hành chính tại Tòa án tỉnh Quảng Nam
 
Luận văn: Hình phạt cảnh cáo theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt cảnh cáo theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Hình phạt cảnh cáo theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt cảnh cáo theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Áp dụng hình phạt chính theo pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Áp dụng hình phạt chính theo pháp luật hình sự, HAYLuận văn: Áp dụng hình phạt chính theo pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Áp dụng hình phạt chính theo pháp luật hình sự, HAY
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Doanh Nghiệp, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Doanh Nghiệp, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Doanh Nghiệp, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Doanh Nghiệp, Dễ Làm Điểm Cao
 

Recently uploaded

TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxAnAn97022
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfVyTng986513
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 

Recently uploaded (20)

TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 

Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LƢU THỊ THU HƢƠNG CÁC BIỆN PHÁP TƢ PHÁP TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LƢU THỊ THU HƢƠNG CÁC BIỆN PHÁP TƢ PHÁP TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật hình sự Mã số : 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Trịnh Quốc Toản HÀ NỘI - 2014
  • 3. LỜI CẢM ƠN Trong quá trình hoàn thành luận văn thạc sỹ luật học này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ rất nhiều từ người thầy mẫu mực và tận tâm – PGS.TS Trịnh Quốc Toản, các giảng viên của Khoa sau đại học, ĐHQG Hà Nội, cũng như sự động viên khích lệ từ gia đình, bạn bè và các đồng nghiệp. Tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến gia đình, các thầy cô cùng các bạn bè, đồng nghiệp đã giúp tôi trong suốt thời gian qua để hoàn thành luận văn thạc sỹ này.
  • 4. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận của luận văn chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào khác. Tác giả luận văn Lƣu Thị Thu Hƣơng
  • 5. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT Từ viết tắt Chú giải BLHS Bộ luật hình sự PLHS Pháp luật hình sự TTHS Tố tụng hình sự
  • 6. MỤC LỤC Nội dung Trang 1.1. 1.2. Lời mở đầu Chƣơng 1: Một số vấn đề chung về các biện pháp tƣ pháp trong pháp luật hình sự Việt Nam Quan niệm chung về biện pháp tƣ pháp 1.1.1. Khái niệm và các đặc điểm của biện pháp tư pháp hình sự 1.1.2. Vai trò và ý nghĩa của biện pháp tư pháp hình sự Phân biệt biện pháp tƣ pháp với hình phạt và các biện pháp cƣỡng chế hành chính 1.2.1. Phân biệt biện pháp tư pháp với hình phạt 1.2.2. Phân biệt biện pháp tư pháp với các biện pháp cưỡng chế hành chính 1.3. Quy định các biện pháp tƣ pháp trong Luật hình sự một số nƣớc Chƣơng 2: Các biện pháp tƣ pháp theo Luật hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng 2.1 Khái quát lịch sử pháp Luật hình sự Việt Nam quy định về các biện pháp tƣ pháp 2.1.1. Giai đoạn từ Cách mạng tháng 8/1945 cho đến khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 2.1.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự 1985 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 2.2. Các quy định về biện pháp tƣ pháp trong Bộ luật hình sự
  • 7. 2.3. năm 1999 2.2.1. Biện pháp tư pháp chung 2.2.2. Biện pháp tư pháp riêng Thực tiễn áp dụng các biện pháp tƣ pháp; những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn áp dụng và nguyên nhân của nó 2.3.1. Thực tiễn áp dụng các biện pháp tư pháp 2.3.2. Những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn áp dụng các biện pháp tư pháp 2.3.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn áp dụng các biện pháp tư pháp Chƣơng 3: Nhu cầu, quan điểm và các giải pháp hoàn thiện quy định về các biện pháp tƣ pháp trong Luật hình sự Việt Nam và nâng cao hiệu quả áp dụng 3.1. Nhu cầu, quan điểm hoàn thiện quy định về các biện pháp tƣ pháp trong Luật hình sự Việt Nam và nâng cao hiệu quả áp dụng 3.1.1. Nhu cầu hoàn thiện quy định về các biện pháp tư pháp trong Luật hình sự Việt Nam và nâng cao hiệu quả áp dụng 3.1.2.Quan điểm hoàn thiện quy định về các biện pháp tư pháp trong Luật hình sự Việt Nam và nâng cao hiệu quả áp dụng 3.2. Các giải pháp hoàn thiện các quy định về biện pháp tƣ pháp trong Luật hình sự Việt Nam 3.3. Các giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về biện pháp tƣ pháp trong Luật hình sự Việt Nam Kết luận Tài liệu tham khảo
  • 8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Xã hội ngày càng phát triển, con người ngày càng có nhiều nhu cầu cấp thiết hơn việc ăn, ở, mặc… mà còn giải trí, giao lưu xã hội. Sự mở rộng một cách đa dạng các mối quan hệ hiện nay không chỉ mang đến những thành tựu về khoa học xã hội, kinh tế - chính trị, đồng thời lại mang đến những mặt tiêu cực, lối sống cực đoan, và kết quả tất yếu là tình hình tội phạm ngày càng phức tạp. Trước tình hình thực tế đó, Nhà nước đã áp dụng rất nhiều các chế tài trong pháp luật hình sự để kiểm soát và hạn chế tội phạm, trong đó không thể không kể đến các biện pháp tư pháp hình sự. Tại Việt Nam, việc áp dụng các biện pháp tư pháp hình sự vào thực tiễn đang đặt ra rất nhiều vấn đề cần được nghiên cứu và giải đáp để có thể hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng. Thực tiễn cho thấy, việc áp dụng các chế tài hình sự còn chưa mang lại những hiệu quả thiết thực đối với phòng chống tội phạm. Việc xem xét hành vi phạm tội và quyết định hình phạt hay biện pháp tư pháp đối với người phạm tội, nhất là người chưa thành niên phạm tội cần được quan tâm đến một cách sát sao hơn. Vì những lý do trên cũng như quan tâm đến xu hướng pháp luật hình sự thế giới mà Đảng và Nhà nước ta có những quyết sách kịp thời trong cải cách hệ thống tư pháp và hiệu quả của việc áp dụng biện pháp tư pháp hình sự là rất cần thiết. Sự ra đời của Nghị quyết số 08-NQ/TW về cải cách tư pháp ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị; Nghị quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 49/2005/NQ-QH 11 về chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh năm 2006
  • 9. 2 ngày 19/11/2005 của Quốc hội cũng như việc sửa đổi Bộ luật Hình sự năm 1999 (năm 2009) đã thể hiện rất rõ xu hướng này. Toàn bộ những phân tích và dẫn chứng trong việc áp dụng biện pháp tư pháp hình sự đều trên cơ sở thực tiễn, nhằm tìm ra giải pháp hoàn thiện pháp luật cũng như cải cách tư pháp làm cho việc nghiên cứu đề tài "Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự Việt Nam" trong thời điểm hiện nay đạt được hiệu quả cao. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Dưới góc độ pháp lý, trong thời gian qua các biện pháp tư pháp hình sự đã được quan tâm rất nhiều và đề cập đến trong pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự cũng như pháp luật thi hành án hình sự. Nhưng trước đây, chưa có bất cứ công trình khoa học nào nghiên cứu sâu sắc về việc này, các nhà làm luật trước đó, chỉ đặt ra các quy định mang tính chất ước lệ. Những đề tài nghiên cứu trước đây chủ yếu tập trung: - Các biện pháp tư pháp trong Bộ luật Hình sự năm 1999 và vấn đề hoàn thiện Bộ luật Tố tụng hình sự về trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp đó, của TS. Phạm Hồng Hải, Tạp chí luật học, số 5/2000. - Thi hành các biện pháp tư pháp không phải là hình phạt, của Hồ Sĩ Sơn, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 04/2004. - Vai trò của gia đình trong việc thi hành các hình phạt không tước tự do và các biện pháp tư pháp, của TS. Trần Quang Tiệp, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 02/2004. - Tăng cường năng lực hệ thống tư pháp người chưa thành niên tại Việt Nam, Thông tin khoa học chuyên đề, Viện khoa học pháp lý, 2000. - Những vấn đề lý luận và thực tiễn về tư pháp hình sự với người chưa thành niên phạm tội, của Đỗ Thị Phượng, Bùi Đức Lợi, Đề tài nghiên cứu cấp trường, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2005.
  • 10. 3 - Tư pháp hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội những khía cạnh tội phạm học, của TSKH.PGS Lê Cảm - ThS. Đỗ Thị Phượng, Tạp chí tòa án nhân dân, số 22/2004. Đến Luật Thi hành án hình sự năm 2010, việc thi hành đã được quy định một cách cụ thể, rõ ràng nhưng chưa được áp dụng một cách triệt để và hiệu quả. Vì thế, ở luận văn này, đề tài tập trung nghiên cứu các khía cạnh của pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự và pháp luật thi hành án hình sự đối với các biện pháp tư pháp hình sự; cũng như thực tiễn áp dụng các biện pháp tư pháp này. Thông qua đó, việc nghiên cứu các vấn đề này sẽ giúp chúng ta có cách tiếp cận toàn diện hơn trong việc áp dụng các biện pháp tư pháp, giúp chúng ta hiểu rõ và thực thi chúng một cách có hiệu quả hơn. 3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài 3.1. Mục đích Trên cơ sở làm rõ các vấn đề lý luận, cùng với việc áp dụng biện pháp tư pháp trong thực tiễn, luận văn đi sâu phân tích từ nhiều khía cạnh khác nhau về biện pháp tư pháp hình sự: quy định pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự, pháp luật thi hành án hình sự, xu hướng, cũng như nguyên nhân và điều kiện áp dụng, việc áp dụng trên thực tiễn. Từ sự phân tích này, tác giả luận văn đã đề xuất một số giải pháp cho việc áp dụng các biện pháp tư pháp phù hợp pháp luật, thực tiễn, cũng như xu hướng quốc tế và thực trạng tại Việt Nam. 3.2. Nhiệm vụ Để đạt được những mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ chủ yếu là: - Phân tích làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự như: Khái niệm, đặc điểm, mục đích, bản chất và điều kiện áp dụng của các biện pháp tư pháp.
  • 11. 4 - Phân tích các quy định pháp luật về các biện pháp tư pháp trong pháp luật tố tụng hình sự, pháp luật về thi hành án hình sự cũng như thực tiễn áp dụng chúng. - Rút ra các điểm hạn chế của việc áp dụng, thi hành chúng trong thực tiễn cũng như các nguyên nhân của các hạn chế đó. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn là vấn đề về lý luận và thực tiễn của việc áp dụng các biện pháp tư pháp hình sự. Những vấn đề này được nghiên cứu trên cơ sở các quy định pháp luật hình sự, quy định pháp luật về tố tụng hình sự, quy định pháp luật về thi hành án hình sự, cũng như các quan điểm về chính sách của Đảng và Nhà nước, cũng như xu hướng áp dụng tại Việt Nam trong thời gian tới và trên thế giới. 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là lý luận về các biện pháp tư pháp hình sự trong pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự và pháp luật về thi hành án hình sự. Đồng thời, luận văn còn nghiên cứu trên cơ sở của việc áp dụng thực tiễn các quy định pháp luật hình sự và thi hành biện pháp tư pháp hình sự. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Do tính phức tạp và rộng lớn của vấn đề nên luận văn chỉ giới hạn nghiên cứu các vấn đề lý luận, cũng như hoạt động áp dụng và thi hành các biện pháp tư pháp hình sự trong thực tiễn. Các hoạt động khác đều không thuộc phạm vi nghiên cứu của luận văn này. Về thực tiễn, luận văn giới hạn nghiên cứu các nội dung nêu trên trong pháp luật hình sự hiện hành để tìm ra những điểm cơ bản trong thực tiễn đó. Tuy nhiên do nguồn tài liệu còn hạn chế, nên nhiều dữ liệu còn chưa được cập
  • 12. 5 nhật một cách hoàn chỉnh. Những số liệu được thống kê trong luận văn này là từ các bản án từ trong 05 năm trở lại đây. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài Trên cơ sở lý luận của việc nghiên cứu và quán triệt chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về chính sách hình sự, so sánh đối chiếu với pháp luật thực định, luận văn đã sử dụng, kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau. Đó là các phương pháp: tổng hợp, phân tích, so sánh, thống kê về việc áp dụng biện pháp tư pháp hình sự trong thực tiễn trên cả tư tưởng, quy định vật chất, cũng như quy định hình thức và việc áp dụng trên thực tiễn (thi hành án hình sự về biện pháp tư pháp). 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu 6.1. Về mặt lý luận Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên đi sâu nhằm kiến nghị việc áp dụng và thi hành các biện pháp tư pháp hình sự trong thực tiễn góp phần hoàn thiện các biện pháp tư pháp này trong pháp luật hình sự Việt Nam. Kết quả nghiên cứu đề tài có thể làm rõ thêm các quan điểm lý luận khoa học về định hướng áp dụng biện pháp tư pháp này. Ngoài ra kết quả nghiên cứu đề tài còn có thể dùng làm tài liệu tham khảo, phục vụ cho việc nghiên cứu, học tập khoa học luật hình sự, luật tố tụng hình sự, luật thi hành án hình sự. 6.2. Về mặt thực tiễn Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể là ý kiến hữu ích trong hoạt động lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự, pháp luật thi hành án hình sự trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm cũng như giáo dục, cải tạo người phạm tội nói chung và người chưa
  • 13. 6 thành phạm tội chưa thành niên nói riêng ở nước ta. Đồng thời, đây cũng là tài liệu có thể làm căn cứ sửa đổi pháp luật hiện hành và tiến đến hoàn thiện hệ thống tư pháp hình sự trong tương lai. Tóm lại, đây là công trình nghiên cứu về cả lý luận và thực tiễn của biện pháp tư pháp hình sự. Luận văn phân tích một cách cụ thể và toàn diện các quy định của pháp luật hình sự về biện pháp tư pháp hình sự. Phân tích, đánh giá chi tiết từng điều kiện, đặc điểm của các biện pháp tư pháp hình sự đồng thời có sự so sánh, đối chiếu với pháp luật quốc tế, nghiên cứu nhằm đưa ra các giải pháp kiến nghị, hoàn thiện các quy định với việc xử lý người phạm tội bằng biện pháp tư pháp, từ đó nâng cao và tăng cường hiệu quả áp dụng của pháp luật góp phần đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự Việt Nam. Chương 2: Các biện pháp tư pháp theo luật hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng. Chương 3: Nhu cầu, quan điểm và các giải pháp hoàn thiện quy định về các biện pháp tư pháp trong luật hình sự Việt Nam và nâng cao hiệu quả áp dụng.
  • 14. 7 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC BIỆN PHÁP TƢ PHÁP TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. QUAN NIỆM CHUNG VỀ BIỆN PHÁP TƢ PHÁP 1.1.1. Khái niệm và các đặc điểm của biện pháp tƣ pháp Khi nghiên cứu lý luận về các biện pháp tư pháp hình sự, việc xem xét khái niệm của nó là hết sức quan trọng, song nếu chỉ nghiên cứu trên khía cạnh lý luận thì chưa đủ, mà cần phải xem xét trên cả khía cạnh pháp luật hình sự thực định cũng như thực tiễn áp dụng. Chúng ta cùng điểm qua một số khía cạnh để xem xét khái niệm cơ bản của các biện pháp tư pháp: * Pháp luật hình sự thực định: Pháp luật hình sự thực định Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 cho đến năm 1986 (pháp điển hóa lần 1) thì chưa xây dựng định nghĩa pháp lý của khái niệm các biện pháp tư pháp hình sự, cũng như chưa từng được ghi nhận về mặt lập pháp. Pháp điển hóa lần thứ 2 (năm 1999), khái niệm pháp lý của "biện pháp tư pháp" cũng chưa được chính thức ghi nhận trong pháp luật thực định. Như vậy, có thể nói mặc dù các biện pháp tư pháp hình sự là một chế định hết sức quan trọng, song hành cùng hình phạt để hoàn thiện hệ thống chế tài hình sự, nhưng lại chưa được ghi nhận một cách chính thống. Việc chưa đề cập đến nó trên cơ sở pháp luật thực định là một điểm thiếu sót cần được xem xét. * Trong lý luận luật hình sự: Từ trước đến nay trong khoa học luật hình sự của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, khái niệm về các biện pháp tư pháp có rất nhiều tranh
  • 15. 8 cãi, ý kiến khác nhau; song vẫn chưa có một quan điểm thống nhất nào, cụ thể là: - Khoa học luật hình sự Việt Nam có một số quan điểm coi các biện pháp tư pháp là: Biện pháp tư pháp hình sự không phải là hình phạt, chỉ có tính chất hành chính, dân sự nhưng được quyết định ngay trong vụ án hình sự. Ngoài ra các biện pháp được áp dụng chung đối với bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự. "Biện pháp tư pháp hình sự là các biện pháp hình sự được Bộ luật Hình sự quy định, do các cơ quan tư pháp áp dụng đối với người có hành vi nguy hiểm cho xã hội, có tác dụng hỗ trợ hoặc thay thế hình phạt" [30, tr. 194]. Như vậy, tổng kết các quan điểm khác nhau về khái niệm các biện pháp tư pháp, đồng thời căn cứ vào quá trình lập pháp, xây dựng hệ thống các quy phạm pháp luật về các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự Việt Nam, chúng ta có thể đưa ra khái niệm khoa học về các biện pháp tư pháp hình sự: Biện pháp tư pháp là biện pháp cưỡng chế về hình sự của Nhà nước ít nghiêm khắc hơn so với hình phạt, do pháp luật hình sự quy định và được cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền căn cứ vào giai đoạn tố tụng hình sự tương ứng cụ thể áp dụng đối với người phạm tội nhằm hạn chế quyền, tự do của người đó, hoặc hỗ trợ hay thay thế cho hình phạt. Từ những quan điểm về khái niệm "Biện pháp tư pháp" và khái niệm khoa học nêu trên, có thể thấy biện pháp tư pháp với tính chất là biện pháp cưỡng chế về hình sự ít nghiêm khắc hơn so với hình phạt, có những đặc điểm cơ bản (dấu hiệu) sau: Đặc điểm thứ nhất: Biện pháp tư pháp là biện pháp cưỡng chế về hình sự ít nghiêm khắc hơn so với hình phạt mà hậu quả pháp lý của việc áp dụng nó là người phạm tội không bị coi là có án tích nếu như biện pháp tư pháp được áp dụng độc lập đối với người đó mà không kèm hình phạt.
  • 16. 9 Thực chất, hình phạt là biện pháp cưỡng chế về hình sự nghiêm khắc nhất của Nhà nước so với tất cả các biện pháp cưỡng chế khác; mà khi áp dụng hình phạt đối với người phạm tội, thì hậu quả pháp lý là người phạm tội sẽ có án tích. Do đó, với tính chất là biện pháp cưỡng chế của Nhà nước, các biện pháp tư pháp hình sự được áp dụng đồng thời với hình phạt, thì người phạm tội sẽ có hậu quả pháp lý là có án tích; còn nếu như áp dụng độc lập mà không kèm hình phạt (ví dụ như khi người đó được miễn hình phạt, mà chỉ áp dụng biện pháp tư pháp) thì người đó không bị coi là có án tích. Đặc điểm thứ hai: Với tính chất là một dạng của trách nhiệm hình sự và là một hình thức để thực hiện trách nhiệm hình sự trong văn bản của Cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền, biện pháp tư pháp cũng chỉ có thể xuất hiện khi có sự việc phạm tội. Chỉ khi có tội phạm cùng đầy đủ các dấu hiệu của nó, thì mới có thể xác định được trách nhiệm hình sự và mới có thể có biện pháp tư pháp hình sự với tư cách là biện pháp ít nghiêm khắc hơn hình phạt. Khi xảy ra sự kiện phạm tội, theo quy định pháp luật hình sự, Cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tùy theo giai đoạn tố tụng nhất định (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án) xác định trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong luật hình sự, có lỗi (vô ý hoặc cố ý), đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Trên cơ sở đó, cơ quan tiến hành tố tụng buộc người phạm tội chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình, đồng thời quyết định hình phạt; kèm theo hoặc áp dụng độc lập các biện pháp tư pháp. Nếu không có hành vi phạm tội xảy ra, thì người bị áp dụng biện pháp cưỡng chế khác không phải là biện pháp tư pháp hình sự mà có thể là các biện pháp tư pháp hành chính, dân sự… Đặc điểm thứ ba: Khác với hình phạt, căn cứ vào giai đoạn tố tụng hình sự tương ứng cụ thể, biện pháp tư pháp hỗ trợ hình phạt (từ điều 41-43
  • 17. 10 Bộ luật Hình sự năm 1999) có thể do cơ quan tư pháp hình sự khác có thẩm quyền như là Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án… áp dụng đối với người phạm tội nói chung (kể cả người bị kết án); còn với các biện pháp tư pháp thay thế hình phạt (Điều 70 Bộ luật Hình sự năm 1999), thì chỉ có thể do Tòa án áp dụng với người bị kết án nói riêng. Việc áp dụng các biện pháp tư pháp hình sự đối với người phạm tội được xác định ở phạm vi rất rộng lớn. Không như hình phạt, chỉ có thể áp dụng sau khi bị kết án, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có thể bị áp dụng biện pháp tư pháp hình sự ngay từ giai đoạn điều tra khi có dấu hiệu phạm tội; nhưng thực tế, để quyết định việc áp dụng các biện pháp tư pháp hình sự hay không, để xử lý với tài sản bị xâm phạm, hoặc đối với việc bồi thường, xin lỗi công khai, bắt buộc chữa bệnh, thì chỉ có Tòa án là có thẩm quyền. Còn trước đó, những biện pháp này chỉ được áp dụng tạm thời, có thể bị thay đổi sau khi Hội đồng xét xử đưa ra phán quyết cuối cùng. Đặc điểm thứ tư: Biện pháp tư pháp chỉ nhằm hạn chế, chứ không tước đoạt quyền, tự do của người phạm tội; hoặc để hỗ trợ hay thay thế cho hình phạt. Với những trường hợp buộc áp dụng biện pháp tư pháp, thì dù mang tính cưỡng chế, nhưng chỉ hạn chế phần nào quyền lợi của người bị kết án mà không nhằm tước đi quyền, tự do của người phạm tội. Điều đó được thể hiện rõ ràng nhất ở quy định của từng biện pháp tư pháp hình sự. Ví như biện pháp tư pháp "Giáo dục tại xã, phường thị trấn" người bị áp dụng mặc dù bị hạn chế về quyền lợi (không được ra khỏi nơi cư trú nếu không được sự cho phép của cơ quan có thẩm quyền) nhưng cũng không hoàn toàn mất đi sự tự do của mình, họ vẫn có quyền đi lại, tham gia các phong trào, hoạt động của tổ chức, xã hội tại nơi cư trú; thậm chí làm ăn, sinh hoạt không khác nhiều so với những người bình thường.
  • 18. 11 Hoặc việc bắt buộc chữa bệnh đối với những người có bệnh lý bị hạn chế về nhận thức hoặc điều khiển hành vi, khiến việc phạm tội của họ không phải là cố ý; mà do bệnh lý khiến họ hành động trái quy định pháp luật. Do đó, việc bắt buộc chữa bệnh, tuy là một trong số những biện pháp tư pháp nhưng lại mang tính chất giúp đỡ người phạm tội có bệnh hơn là trừng phạt; bản thân người bị áp dụng biện pháp này vẫn được sinh hoạt như những người bệnh không phạm tội khác, vẫn có những quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Việc có áp dụng hình phạt hay biện pháp tư pháp hình sự khác sau khi hoàn tất việc chữa bệnh, sẽ do Hội đồng xét xử xem xét tùy tình huống cụ thể. Đặc điểm thứ năm: Cũng như các biện pháp cưỡng chế khác về hình sự, các biện pháp tư pháp cũng được quy định trong pháp luật hình sự và phải do cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền áp dụng theo một trình tự đặc biệt do luật tố tụng hình sự quy định. Không phải bất cứ Cơ quan nhà nước nào cũng được phép áp dụng các biện pháp tư pháp hình sự; mặc dù một số biện pháp tư pháp hình sự có vẻ giống như biện pháp cưỡng chế hành chính, dân sự (tịch thu tiền, vật trực tiếp liên quan đến tội phạm và tịch thu sung công quỹ; hoặc phạt tiền) nhưng xét về bản chất thì hoàn toàn khác nhau; do đó chỉ có cơ quan tư pháp hình sự mới có quyền xem xét và áp dụng. Đặc biệt, việc xử lý đối với người bị kết án cũng như áp dụng hình phạt và các biện pháp tư pháp hình sự phải do Tòa án xác định trên cơ sở áp dụng pháp luật hình sự; còn các cơ quan tố tụng khác cũng phải tuân thủ đúng trình tự và thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự, pháp luật thi hành án hình sự quy định. Đặc điểm thứ sáu: Biện pháp tư pháp chỉ mang tính chất cá nhân vì theo pháp luật hình sự Việt Nam chỉ được áp dụng riêng với bản thân người phạm tội hoặc người bị kết án. Việc áp dụng chế tài đối với người phạm tội chỉ được thực hiện khi có việc thực hiện phạm tội xảy ra, và chỉ đối với người đó; những người thân của họ không có nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm về những hành động đó trước
  • 19. 12 pháp luật hình sự. Gia đình hoặc người giám hộ (với người chưa thành niên) chỉ có nghĩa vụ tài chính với người phạm tội. Các biện pháp tư pháp áp dụng với đối tượng phạm tội là tổ chức còn chưa được xác định, việc áp dụng các biện pháp tư pháp hình sự này, chỉ có thể áp dụng với từng người phạm tội, và liên đới chịu trách nhiệm về tài chính. 1.1.2. Vai trò và mục đích của của biện pháp tƣ pháp hình sự Các biện pháp tư pháp hình sự xét về bản chất là những biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền (Viện kiểm sát và Tòa án) áp dụng đối với người phạm tội và những người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự do bị bệnh tâm thần hoặc bị một bệnh lý khác đã mất đi khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi của mình. Với hệ thống hình phạt và các biện pháp tư pháp hình sự đa dạng, có tính chất nghiêm khắc khác nhau, công dụng khác nhau thì việc xử lý hình sự càng chính xác các chi tiết, hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội và nạn nhân càng được xem xét một cách kỹ càng trước khi quyết định hình phạt và do đó, hiệu quả của việc áp dụng biện pháp tư pháp sẽ phần nào được nâng cao. Có thể nói, việc tồn tại hệ thống các biện pháp tư pháp song hành với hệ thống hình phạt (chính và bổ sung) làm cho hệ thống chế tài cân đối hơn, hoàn thiện và hiệu quả hơn, đáp ứng được yêu cầu đấu tranh và phòng chống tội phạm phù hợp xu hướng phát triển của đất nước cũng như hội nhập quốc tế. Thêm vào đó, các biện pháp tư pháp hình sự được áp dụng với người bị kết án sẽ củng cố, hỗ trợ và tăng cường hiệu quả việc áp dụng hình phạt; khiến cho việc tái hòa nhập cộng đồng của người bị kết án trở nên dễ dàng hơn, tránh được nguy cơ tái phạm, tái phạm nguy hiểm và góp phần giúp hoạt động tư pháp trơn tru hiện quả hơn.
  • 20. 13 Mặt khác, với những trường hợp chưa đủ tính chất nghiêm trọng để có thể áp dụng hệ thống hình phạt, thì các biện pháp tư pháp hình sự chính là cứu cánh để giải quyết tình hình tội phạm, không bỏ sót người phạm tội, vẫn có chế tài áp dụng với họ, nhưng tương xứng về cả nội dung và tính chất nghiêm khắc đối với hành vi phạm tội mà họ đã gây ra. Như vậy, có thể thấy rằng các biện pháp tư pháp hình sự đã góp phần làm phong phú hệ thống chế tài hình sự, thúc đẩy chức năng bảo vệ, phòng ngừa và giáo dục của pháp luật hình sự, tạo cơ sở pháp lý để đấu tranh và phòng chống tội phạm một cách hiệu quả. Chính vì vậy, vai trò của các biện pháp tư pháp hình sự trong luật hình sự nói riêng và trong pháp luật nói chung là hết sức quan trọng và cần thiết. Từ trước đến nay khi nghiên cứu những vấn đề lý luận về trách nhiệm hình sự, hình phạt và các biện pháp tư pháp; có rất nhiều quan điểm, tranh luận về mục đích của hình phạt mà chưa có nghiên cứu nào cụ thể về các Biện pháp tư pháp. Tuy nhiên, vì các biện pháp tư pháp cũng là một biện pháp cưỡng chế hình sự nhằm thực hiện trách nhiệm hình sự của người phạm tội nên có những điểm tương đồng với hình phạt. Đi sâu vào phân tích mục đích của biện pháp tư pháp có thể thấy trên các khía cạnh: Về mặt hình thức, biện pháp tư pháp chỉ ra mục đích mà thông qua việc áp dụng với người phạm tội Nhà nước mong muốn đạt được. Như vậy, có thể hiểu mục đích của biện pháp tư pháp là kết quả cuối cùng mà Nhà nước mong muốn đạt được bằng cách áp dụng các biện pháp tư pháp do nhà làm luật quy định trong pháp luật hình sự theo đúng trình tự, thủ tục được quy định 5 hạn chế tội phạm mới, thúc đẩy việc tái hòa nhập cộng đồng; thể hiện được tính nhân đạo trong pháp luật cũng như chính sách của Đảng và Nhà nước. Về mặt nội dung, cốt lõi của kết quả cuối cùng mà Nhà nước mong muốn đạt được bằng việc áp dụng biện pháp tư pháp đối với người phạm tội.
  • 21. 14 Có thể thấy, việc áp dụng biện pháp tư pháp độc lập hoặc kèm theo với việc quyết định hình phạt, nhằm: Ngăn ngừa tội phạm; giáo dục và cải tạo; ngăn ngừa, trừng trị, giáo dục và cải tạo. Tuy nhiên, nếu xét đến bản chất sâu xa của việc áp dụng biện pháp tư pháp hình sự, có thể thấy, mục đích chính của việc áp dụng các biện pháp tư pháp hình sự là: Góp phần phục hồi lại công lý; cải tạo và giáo dục những người phạm tội; góp phần cảnh cáo, giáo dục các thành viên khác trong xã hội có ý thức tôn trọng, tuân thủ và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật - ngăn ngừa chung; hỗ trợ cho cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm. Việc Nhà nước quy định cho các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền áp dụng các biện pháp tư pháp hình sự (mà không phải là hình phạt) đối với những người nêu trên nhằm hỗ trợ để đạt được mục đích phòng ngừa chung và phòng ngừa riêng. Với tư cách là các biện pháp cưỡng chế về hình sự, Biện pháp tư pháp hình sự là cách thức tác động đến người phạm tội. Trong một số trường hợp thì Biện pháp tư pháp hình sự là hậu quả của việc phạm tội; nên trong một số trường hợp thì ngoài việc phải chịu hình phạt, người phạm tội còn phải bị áp dụng các biện pháp tư pháp (kèm theo hình phạt hoặc áp dụng độc lập). Trong những trường hợp này, việc áp dụng các biện pháp tư pháp hình sự có tác dụng cải tạo người phạm tội, phòng ngừa chung và phòng ngừa riêng. Bên cạnh việc áp dụng hình phạt, áp dụng biện pháp tư pháp còn giúp cho việc xử lý tội phạm và người phạm tội được triệt để và toàn diện hơn. Trong Bộ luật Hình sự có quy định các biện pháp tư pháp chung và riêng góp phần giúp các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền có thể vận dụng một cách mềm dẻo, linh hoạt và đúng đắn theo chính sách hình sự, chính sách tố tụng hình sự và chính sách phòng ngừa tội phạm của Nhà nước ta. Ngoài ra, việc áp dụng biện pháp tư pháp hình sự còn phản ánh việc áp dụng hình phạt - biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước do luật hình sự quy
  • 22. 15 định không phải là phương tiện duy nhất trong công cuộc đấu tranh, phòng và chống tội phạm. Để nâng cao hiệu quả của việc đấu tranh, phòng và chống tội phạm; đòi hỏi Nhà nước và xã hội áp dụng một cách đồng bộ, có hệ thống, toàn diện các biện pháp khác nhau với mức độ cưỡng chế phù hợp và linh hoạt nhằm ngăn chặn và đẩy lùi tội phạm. 1.2. PHÂN BIỆT BIỆN PHÁP TƢ PHÁP HÌNH SỰ VỚI HÌNH PHẠT VÀ CÁC BIỆN PHÁP CƢỠNG CHẾ HÀNH CHÍNH 1.2.1. Phân biệt biện pháp tƣ pháp hình sự với hình phạt * Sự giống nhau - Điểm thứ nhất, cả hình phạt và biện pháp tư pháp hình sự đều là hai chế định quan trọng của luật hình sự Việt Nam và chỉ xuất hiện khi có cơ sở nhất định do pháp luật hình sự quy định là: Việc phạm tội của thể nhân (là con người cụ thể, có năng lực trách nhiệm hình sự, đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, bị luật hình sự cấm). Chỉ khi nào có tội phạm và xác định được trách nhiệm hình sự thì mới có thể áp dụng hình phạt hoặc các biện pháp tư pháp hình sự tương ứng cụ thể nhằm thực hiện trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội nói chung và người bị kết án nói riêng. - Điểm thứ hai, hình phạt và biện pháp tư pháp hình sự đều là các biện pháp cưỡng chế về hình sự của Nhà nước, đồng thời là các dạng và là các hình thức thực hiện trách nhiệm hình sự, do cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền áp dụng theo một trình tự, thủ tục đặc biệt được quy định trong pháp luật tố tụng hình sự. Những chế định này được quy định trong pháp luật hình sự và cách thức thực hiện được quy định trong tố tụng hình sự; các quy định pháp luật này được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước, theo đúng thủ tục pháp lý và đảm bảo thực hiện một cách có hiệu quả và đạt được mục đích đã đề ra.
  • 23. 16 - Điểm thứ ba, việc áp dụng hình phạt và biện pháp tư pháp hình sự đều dẫn đến hậu quả pháp lý bất lợi nhất định đối với người phạm tội ở các mức độ khác nhau, tùy thuộc vào tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, nhân thân của người phạm tội, nhân thân người bị hại, và các tình tiết cụ thể của vụ án hình sự tương ứng. - Điểm thứ tư, theo pháp luật hình sự Việt Nam, cả hình phạt và biện pháp tư pháp hình sự đều chỉ mang tính chất cá nhân và chỉ được áp dụng với thể nhân phạm tội. Người phạm tội hoặc người bị kết án phải thi hành Hình phạt hoặc áp dụng Biện pháp tư pháp hình sự tương xứng với hành vi phạm tội, còn những người thân đều không phải chịu trách nhiệm hình sự về lỗi mà người đó đã gây ra mà chỉ có thể bị liên đới hoặc hỗ trợ về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người có lỗi gây ra. * Sự khác nhau: Bảng 2.1: Sự khác nhau giữa các biện pháp tư pháp hình sự và hình phạt Tiêu chí Các biện pháp tƣ pháp hình sự Hình phạt Khái niệm khoa học Là biện pháp cưỡng chế về hình sự của Nhà nước do pháp luật hình sự quy định và được cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền căn cứ vào giai đoạn tố tụng hình sự tương ứng cụ thể áp dụng đối với người phạm tội nhằm hạn chế quyền, tự do của người đó hoặc hỗ trợ hay thay tế cho hình phạt. Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quyết định trong Bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Tòa án để tước bỏ quyền, tự do của người bị kết án theo các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam. Về mức độ nghiêm khắc Các biện pháp tư pháp hình sự chỉ là một trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế về hình sự áp dụng với người phạm tội, mang tính răn đe, trừng phạt nhưng Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước.
  • 24. 17 không nghiêm khắc bằng hình phạt. Việc áp dụng các biện pháp hình sự đôi khi chỉ mang tính chất phòng ngừa hoặc răn đe, hơn là trừng phạt người phạm tội (ví dụ: Bắt buộc chữa bệnh) Về chủ thể có thẩm quyền áp dụng và đối tượng bị áp dụng Việc áp dụng các biện pháp tư pháp hình sự hình sự thì thẩm quyền thuộc về Tòa án xét xử vụ án đó, và các cơ quan tư pháp hình sự tương ứng giai đoạn tố tụng hình sự áp dụng để hỗ trợ hình phạt (áp dụng các Điều 41, Điều 42, Điều 43, Bộ luật Hình sự năm 1999 với tất cả những người phạm tội nói chung và Điều 70 Bộ luật Hình sự năm 1999 với người phạm tội chưa thành niên). Chỉ có Tòa án xét xử vụ án hình sự là cơ quan tiến hành tố tụng duy nhất có thẩm quyền áp dụng hình phạt với người bị kết án trên cơ sở bản án kết tội. Về hậu quả pháp lý Việc áp dụng các biện pháp tư pháp hình sự, người bị áp dụng nếu như chỉ áp dụng biện pháp tư pháp hình sự riêng rẽ (áp dụng độc lập không kèm theo hình phạt) thì người phạm tội không bị coi là có án tích; ngoài ra, người đó chỉ bị hạn chế, chứ không phải tước bỏ hoàn toàn quyền lợi, cũng như tự do của mình. Người phạm tội vẫn có quyền được sinh hoạt, sống và làm việc trong cộng đồng, cũng là một hình thức tái hòa nhập với cộng đồng. Việc áp dụng hình phạt với người phạm tội sẽ đưa đến án tích của người bị kết án và phải áp dụng hình phạt; ngoài việc bị hạn chế quyền, tự do thì người bị áp dụng hình phạt còn có thể bị tước bỏ quyền và tự do đó. Nguồn: Tác giả tự tổng hợp từ Giáo trình luật hình sự; Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009) và một số tài liệu tham khảo khác.
  • 25. 18 1.2.2. Phân biệt biện pháp tƣ pháp hình sự với biện pháp cƣỡng chế hành chính * Sự giống nhau: - Điểm thứ nhất, biện pháp tư pháp hình sự và biện pháp cưỡng chế hành chính đều là hai chế định quan trọng hệ thống pháp luật Việt Nam nhằm quản lý xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền, dân chủ, công bằng, văn minh. Hai chế định này tuy có tính chất, vai trò khác nhau, nhưng đều có tác dụng nhất định, hỗ trợ lẫn nhau trong việc hoàn thiện pháp luật hình sự nói riêng, và góp phần đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung. - Điểm thứ hai, biện pháp tư pháp hình sự và biện pháp cưỡng chế hành chính đều là các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước, do Cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng theo một trình tự, thủ tục đặc biệt được pháp luật quy định, được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước, theo đúng thủ tục pháp lý và đảm bảo thực hiện một cách có hiệu quả và đạt được mục đích đã đề ra. Những trình tự này nhằm đảm bảo việc thực hiện các chế định nêu trên không bị rườm rà, cũng có thể giám sát thường trực và hạn chế tiêu cực không đáng có, góp phần tối giản hóa các trình tự, thủ tục của pháp luật tố tụng hình sự, thúc đẩy việc giải quyết vụ án hình sự hiệu quả. - Điểm thứ ba, việc áp dụng biện pháp tư pháp hình sự và các biện pháp cưỡng chế hành chính đều dẫn đến hậu quả pháp lý bất lợi nhất định đối với người bị áp dụng ở các mức độ khác nhau. Bản thân người phạm tội phải chịu sự trừng phạt của pháp luật bằng các chế tài pháp lý (hình phạt và các biện pháp cưỡng chế khác - hình sự, hành chính, dân sự…) đồng thời nhằm răn đe cộng đồng tránh việc phạm tội hoặc tái phạm tội của người đã từng bị kết án.
  • 26. 19 * Sự khác nhau: Bảng 2.2: Sự khác nhau giữa các biện pháp tư pháp hình sự và các biện pháp cưỡng chế hành chính Tiêu chí Các biện pháp tƣ pháp Các biện pháp cƣỡng chế hành chính Khái niệm khoa học Là biện pháp cưỡng chế về hình sự của Nhà nước do pháp luật hình sự quy định và được cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền căn cứ vào giai đoạn tố tụng hình sự tương ứng cụ thể áp dụng đối với người phạm tội nhằm hạn chế quyền, tự do của người đó hoặc hỗ trợ hay thay tế cho hình phạt. Còn các biện pháp cưỡng chế hành chính là một dạng cưỡng chế nhà nước, tổng hợp các biện pháp mà Nhà nước (thông qua Cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền) áp dụng để tác động lên tâm lý, tư tưởng, tình cảm và hành vi của công dân, nhân viên nhà nước, người có chức vụ, tác động tới hoạt động, hành vi của cơ quan, tổ chức nhà nước, xã hội, tổ chức kinh tế để buộc họ thực hiện các nghĩa vụ pháp lý nhằm mục đích ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật, đảm bảo pháp chế, trật tự trong quản lý hành chính nhà nước và xử lý trách nhiệm cá nhân, tổ chức vi phạm pháp luật. Về mức độ nghiêm khắc Các biện pháp tư pháp hình sự chỉ là một trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế về hình sự áp dụng với người phạm tội, mang tính răn đe, trừng phạt nhưng không nghiêm khắc bằng hình phạt. Cưỡng chế hành chính là sự cưỡng bức, bắt buộc công dân, hay tổ chức nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế phải thực hiện các nghĩa vụ pháp lý được quy định bởi pháp luật hành chính và nằm ngoài phạm vi nội bộ của cơ quan, ngành. Về chủ thể có thẩm quyền áp Việc áp dụng các biện pháp tư pháp hình sự hình sự thì thẩm quyền thuộc về Tòa án xét xử Cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính và cá nhân hay tổ chức
  • 27. 20 dụng và đối tượng bị áp dụng vụ án đó, và các cơ quan tư pháp hình sự tương ứng giai đoạn tố tụng hình sự áp dụng để hỗ trợ hình phạt (áp dụng các Điều 41, Điều 42, Điều 43, Bộ luật Hình sự năm 1999 với tất cả những người phạm tội nói chung và Điều 70 Bộ luật Hình sự năm 1999 với người phạm tội chưa thành niên). bị áp dụng cưỡng chế không nằm trong quan hệ trực thuộc trên dưới về tổ chức mà chỉ có quan hệ kiểm tra, giám sát. Những người, cơ quan có thẩm quyền được áp dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính được quy định cụ thể tại Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính (2002). Về hậu quả pháp lý Việc áp dụng các biện pháp tư pháp hình sự, người bị áp dụng nếu như chỉ áp dụng biện pháp tư pháp hình sự riêng rẽ (áp dụng độc lập không kèm theo hình phạt) thì người phạm tội không bị coi là có án tích; ngoài ra, người đó chỉ bị hạn chế, chứ không phải tước bỏ hoàn toàn quyền lợi, cũng như tự do của mình. Cưỡng chế hành chính nhằm phòng ngừa, ngăn chặn những vi phạm pháp luật, trừng phạt người vi phạm theo trình tự xử lý hành chính nhằm đảm bảo trật tự trong các trường hợp khẩn cấp khi chưa xảy ra vi phạm pháp luật, vì thế mà hậu quả không nặng nề như việc áp dụng các biện pháp hình sự. Nguồn: Tác giả tự tổng hợp từ Giáo trình luật hình sự; Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009) và một số tài liệu tham khảo khác. 1.3. QUY ĐỊNH VỀ CÁC BIỆN PHÁP TƢ PHÁP TRONG LUẬT HÌNH SỰ MỘT SỐ NƢỚC Nghiên cứu luật hình sự nước ngoài cho thấy ít có nước nào chỉ thiết lập riêng hoặc là hệ thống các hình phạt hoặc là hệ thống các biện pháp cưỡng chế khác trong Luật hình sự, mà phần lớn các nước chấp nhận sự song song tồn tại hai hệ thống các biện pháp cưỡng chế hình sự: Hình phạt và biện pháp cưỡng chế hình sự khác.
  • 28. 21 Việc quy định đồng thời hai hệ thống các biện pháp cưỡng chế hình sự trong pháp luật hình sự là do chính sách hình sự của mỗi nước quyết định. Tuy nhiên, Luật hình sự ở những ngước có quy định biện pháp cưỡng chế hình sự khác không phải là hình phạt thì tên gọi của nó cũng rất khác nhau. Chẳng hạn như, Bộ luật Hình sự của Cộng hòa Liên bang Đức quy định từ Điều 61 đến Điều 72 về các "biện pháp cải tạo và an ninh", Bộ luật Hình sự 1995 của Tây Ban Nha quy định các biện pháp này với tên gọi "Các biện pháp an ninh" trong phần IV quyển I; Luật hình sự của Pháp cũng quy định các biện pháp này với tên gọi là "biện pháp an ninh". Chính quyền Sài Gòn cũ đưa các biện pháp này vào Chương II, Bộ luật Hình sự năm 1972 với tên gọi "các biện pháp phòng vệ". Trong khi đó, tại Bộ luật Hình sự năm 1999 của Việt Nam lại đặt tên các biện pháp cưỡng chế hình sự khác là "Các biện pháp tư pháp". Trong luật hình sự Việt Nam, việc song song hai hệ thống biện pháp cưỡng chế hình sự (hình phạt và các biện pháp tư pháp) là sự biểu hiện tổng hợp sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Sự hiện diện của các biện pháp cưỡng chế hình sự khác trong Luật hình sự có vai trò quan trọng trong việc thực hiện chính sách hình sự của nhà nước về tội phạm và trách nhiệm hình sự. Đồng thời, sự có mặt của các biện pháp tư pháp trong luật hình sự cũng chỉ rõ một thực tế là hình phạt không phải là phương tiện duy nhất trong cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm. Các cơ quan chức năng phải áp dụng đồng bộ các biện pháp khác nhau thì mới có khả năng ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng phạm tội ra khỏi đời sống xã hội. Trong khoa học luật hình sự nước ngài, biện pháp cưỡng chế hình sự khác được hiểu là "biện pháp tước hoặc hạn chế tự do, quyền hoặc là biện pháp về tài sản, chủ yếu có mục đích ngăn ngừa việc thực hiện tội phạm mới" hoặc là "những biện pháp cưỡng chế, không có màu sắc luân lý, áp dụng với các cá nhân nguy hiểm cho trật tự xã hội để phòng ngừa các tội phạm và tình
  • 29. 22 trạng của họ có thể gây ra. Trong các định nghĩa khoa học về các biện pháp cưỡng chế hình sự khác được quy định theo luật hình sự nêu trên, các học giả đã dựa trên bản chất, đặc điểm và chức năng của các biện pháp này. Tuy nhiên, tôi cho rằng nó vẫn chưa đầy đủ, chưa khái quát hết được các đặc điểm chủ yếu của loại biện pháp này, ví dụ như về chủ thể áp dụng, hiệu lực pháp luật và hiệu lực thi hành của nó. Nghiên cứu luật hình sự một số nước, tôi thấy các biện pháp cưỡng chế hình sự không phải là hình phạt được quy định rất đa dạng, có thể được phân chia thành ba nhóm lớn: (1) Các biện pháp được áp dụng với những người có hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng không cấu thành tội phạm: Ví dụ như biện pháp điều trị người bị nghiện rượu, nghiện ma túy; Trục xuất người nước ngoài, hoặc bắt buộc chữa bệnh.... (2) Các biện pháp áp dụng với người phạm tội, nhưng họ không phải chịu hình phạt. Ví dụ như những biện pháp giáo dục đối với người chưa thành niên phạm tội, đưa vào cơ sở bắt buộc chữa bệnh đối với những người bị tâm thần sau khi phạm tội... (3) Bao gồm rất nhiều các biện pháp cưỡng chế hình sự khác áp dụng với những người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự như: Tước giấy phép lái xe, đóng cửa cơ sở sản xuất, kinh doanh; tịch thu tài sản; cấm cư trú; cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định... Các biện pháp cưỡng chế hình sự không phải là hình phạt trong luật hình sự một số nước có mục đích là nhằm phòng ngừa tội phạm. Biện pháp này dựa trên tình trạng nguy hiểm của cá nhân người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thể hiện, có nghĩa là người trong tình trạng đó có khả năng rất lớn thực hiện tội phạm trong tương lai. Chính vì thế khi áp dụng biện pháp cưỡng chế hình sự khá, Tòa án không quan tâm đến quá khứ, đến lỗi của
  • 30. 23 người bị áp dụng. Các biện pháp cưỡng chế hình sự không phải là hình phạt được áp dụng nhằm biện pháp phòng ngừa bằng cách giáo dục, chữa trị những nguyên nhân làm lệch lạc về thể chất, tâm lý, xã hội... làm cho người bị áp dụng không thể tái hòa nhập xã hội được. Trong một số trường hợp, các biện pháp cưỡng chế khác được biểu hiện dưới dạng các biện pháp tước tự do hoặc hạn chế tự do, chẳng hạn như đưa vào cơ sở chữa bệnh, các biện pháp đưa người chưa thành niên vào cơ sở giáo dục... Nhưng ở đây cần phải hiểu là đối lập với hình phạt, các biện pháp nêu trên được áp dụng với các cá nhân nguy hiểm không phải là trừng trị và cũng không phải là cái giá mà người bị áp dụng phải trả với xã hội, không phải là sự lên án của xã hội đối với hành vi và đối với người bị áp dụng biện pháp đó mà là nhằm tới mục đích phòng ngừa, bảo vệ xã hội thông qua việc tái hòa nhập xã hội của người bị áp dụng. Tuy nhiên, vì nhiều biện pháp cưỡng chế hình sự khác có tính chất tước đoạt hoặc hạn chế tự do hoặc về tài sản, tức là có động chạm đến quyền, lợi ích thiết thân của người bị áp dụng, nên khi áp dụng các biện pháp này cần tuân thù những quy định về trình tự, thủ tục tố tụng nghiêm ngặt, nhằm tránh tối đa sự khó chịu, gây tổn hại cho quyền và lợi ích của người bị áp dụng dẫn đến nguy cơ cản trở quá trình tái hòa nhập cộng đồng của họ. Đặc biệt đối với người phạm tội mà biện pháp cưỡng chế khác được áp dụng bên cạnh hình phạt thì theo chế độ thi hành biện pháp cưỡng chế hình sự này cần được tổ chức theo cách mà cá nhân đó không có cảm giác là bị trừng phạt vì tội phạm mà họ đã thực hiện. Về thời hạn chấp hình biện pháp cưỡng chế hình sự không phải là hình phạt có thể là rất ngặt nghèo và không có thời hạn nhất định. Tuy nhiên các biện pháp này có thể được xem xét lại, tùy thuộc vào sự tiến triển của tình trạng thể và tâm lý, tâm thần của người bị áp dụng, ví dụ đối với biện pháp bắt buộc chữa bệnh áp dụng với người không có năng lực trách nhiệm hình sự do mắc bệnh tâm thần hoặc các biện pháp áp dụng với người chưa thành niên phạm tội.
  • 31. 24 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 Qua nghiên cứu sơ bộ một số nội dung về lý luận của các biện pháp tư pháp hình sự, phần nào có thể thấy các biện pháp tư pháp hình sự, với tư cách là biện pháp cưỡng chế khác trong pháp luật hình sự, có vai trò hết sức quan trọng trong hệ thống pháp luật nói chung, cũng như trong việc đấu tranh, phòng và chống tội phạm. Mặc dù biện pháp tư pháp hình sự chưa phải là biện pháp cưỡng chế hình sự nghiêm khắc nhất, nhưng lại có tác động rất lớn trong việc ngăn ngừa tội phạm, xử lý các trường hợp phạm tội đặc biệt: chưa thành niên, hành vi phạm tội nhưng chưa đến mức phải chịu hình phạt. Việc nghiên cứu các biện pháp tư pháp hình sự trên khía cạnh lý luận giúp cho chúng ta có thể hiểu rõ hơn nguồn gốc, đặc điểm cũng như vai trò quan trọng của các biện pháp này. Mặc dù vậy, những hạn chế về mặt lý luận hiện nay, cũng là những trở ngại trong việc áp dụng và thi hành các biện pháp tư pháp hình sự, khiến cho việc đấu tranh, phòng và chống tội phạm còn chưa đạt hiệu quả cao. Thế nên, để hoàn thiện các biện pháp tư pháp hình sự, chúng ta cần xem xét trên khía cạnh áp dụng và thi hành các biện pháp nêu trên.
  • 32. 25 Chương 2 CÁC BIỆN PHÁP TƢ PHÁP TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG 2.1. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM QUY ĐỊNH VỀ CÁC BIỆN PHÁP TƢ PHÁP 2.1.1. Giai đoạn từ Cách mạng Tháng tám năm 1945 đến trƣớc khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985 Sớm nhất, các biện pháp tư pháp đã được đề cập đến trong các văn bản pháp lý do Nhà nước ban hành, cụ thể là "tịch thu vật, tiền liên quan đến tội phạm" đã được quy định trong Công văn số 4/NCPL ngày 14/4/1966, Tòa án nhân dân tối cao gửi Tòa án các địa phương hướng dẫn: Cần phân biệt những đồ vật là tài sản của người can án là Tòa án xét xử tịch thu theo yêu cầu của pháp luật với những đồ vật là tài sản của người can án mà Tòa án tịch biên để đảm bảo việc chấp hành khoản bồi thường những thiệt hại mà người can án gây nên trong khi phạm tội. Việc tịch thu các phương tiện dùng để phạm tội là một biện pháp tư pháp bắt buộc, và việc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản của người can án (về tội phản cách mạng và một số tội phạm về kinh tế) là một hình phạt phụ. Việc tịch biên một số đồ vật của người bị kết án để bồi thường thiệt hại là một biện pháp bảo đảm việc chấp hành quyết định về dân sự trong bản án hình sự [25, tr. 262]. Đặc biệt hơn, theo hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao số 329-HS2 ngày 11 tháng 02 năm 1967, hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên ở thời kỳ này chỉ chiếm khoảng một phần hai mức án đối với người lớn. Đối với trẻ em từ 9 đến 17 tuổi, đi lang thang, trộm cắp nhiều lần, có lối sống sa
  • 33. 26 đọa trụy lạc đã được gia đình, đoàn thể, nhà trường và chính quyền tận tình giúp đỡ nhiều lần, nhưng không chịu sửa chữa sẽ bị đưa vào trường phổ thông công nông nghiệp trong thời gian 02 năm. Đây là những trường giáo dục thanh thiếu niên hư. Những quy định ban đầu này chỉ mang tính chất rời rạc, hướng dẫn khá sơ sài, chưa xác định được loại tài sản trực tiếp liên quan đến tội phạm là gì, và cách xử lý cụ thể với từng loại ra sao; cũng như việc các định thế nào là người phạm tội vị thành niên. Việc áp dụng những hướng dẫn này đương nhiên cũng không thể chi tiết cụ thể được. Do đó, ban đầu, việc quy định các biện pháp tư pháp hình sự trong luật hình sự nêu trên, đã có sự ghi nhận, nhưng chưa đầy đủ, rõ ràng. 2.1.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985 đến trƣớc khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1999 Bộ luật Hình sự 1985 ghi nhận cả biện pháp tư pháp hình sự chung và biện pháp tư pháp hình sự riêng, trong đó biện pháp tư pháp hình sự chung bao gồm: "Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm"; "Buộc trả lại tài sản và công khai xin lỗi"; "Bắt buộc chữa bệnh" được ghi nhận trước hết. Thêm vào đó, còn có những quy định về "cải tạo không giam giữ và cải tạo tại đơn vị" áp dụng đối với quân nhân phạm tội (Nghị quyết 95/HĐBT ngày 25/7/1989). Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế với người chưa thành niên cũng được ghi nhận trong Bộ luật Hình sự năm 1985 quy định là biện pháp "buộc phải chịu thử thách", song chưa thể hiện được đầy đủ bản chất và chính xác, phù hợp nhất với các văn bản pháp luật và thực tiễn áp dụng. Theo đó, các biện pháp tư pháp hình sự đối với người chưa thành niên tại Bộ luật Hình sự 1985 gồm: - Biện pháp buộc phải chịu thử thách; - Biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng.
  • 34. 27 2.2. CÁC BIỆN PHÁP TƢ PHÁP TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 2.2.1. Các biện pháp tƣ pháp chung * Khái niệm và phân loại các biện pháp tư pháp chung - Khái niệm: Các biện pháp tư pháp hình sự (chung) áp dụng với người phạm tội là những biện pháp cưỡng chế về hình sự của Nhà nước ít nghiêm khắc hơn hình phạt, do Bộ luật Hình sự quy định và được Tòa án áp dụng khi xét xử nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt, căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm. - Phân loại: Các biện pháp tư pháp hình sự chung được áp dụng với những người phạm tội (cả người đã thành niên và người chưa thành niên phạm tội) với mục đích trừng phạt, cải tạo và ngăn ngừa. Biện pháp tư pháp hình sự chung gồm có 4 biện pháp tư pháp hình sự được quy định trong Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009): (1) Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm; (2) Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; (3) Buộc công khai xin lỗi; (4) Bắt buộc chữa bệnh. * Điều kiện áp dụng các biện pháp tư pháp trong Bộ luật Hình sự năm 1999 Biện pháp tư pháp "Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm" Vật và tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm là vật hoặc tiền là công cụ, phương tiện dùng và việc thực hiện tội phạm hoặc thông qua việc thực hiện tội phạm mà có, hoặc do mua bán đổi chác những thứ ấy mà có hoặc là vật Nhà nước cấm sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán [30, tr. 195].
  • 35. 28 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định: Điều 41. Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm 1. Việc tịch thu, sung quỹ nhà nước được áp dụng đối với: a) Công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội; b) Vật hoặc tiền do phạm tội hoặc do mua bán, đổi chác những thứ ấy mà có; c) Vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành. 2. Đối với vật, tiền bị người phạm tội chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép, thì không tịch thu mà trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp. 3. Vật, tiền thuộc tài sản của người khác, nếu người này có lỗi trong việc để cho người phạm tội sử dụng vào việc thực hiện tội phạm, thì có thể bị tịch thu, sung quỹ nhà nước [22]. Biện pháp tư pháp hình sự "Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm" được áp dụng trong suốt quá trình xử lý vụ án từ giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Trong pháp luật thực định, việc áp dụng biện pháp này được quy định trong Điều 41 Bộ luật Hình sự năm 1999: Giai đoạn đầu, những vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm được các cơ quan tiến hành tố tụng xác định sẽ bị tịch thu, kê biên; đến khi đưa ra xét xử vụ án, việc xử lý với các vật, tiền này mới thực sự được quyết định. Về thẩm quyền áp dụng: Cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền áp dụng biện pháp "Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm" là Tòa án xét xử vụ việc đó. Khi đưa vụ án ra xét xử, ngoài việc quyết định hình phạt với người phạm tội, Tòa án còn phải xử lý vật chứng, tài sản, tiền bạc mà cơ quan tiến hành tố tụng trước đó đã thu giữ, kê biên.
  • 36. 29 Trong đó: Việc tịch thu sung quỹ Nhà nước được thực hiện với: - Công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội: Để xác định rằng đâu là công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội, trong quá trình xét xử, Tòa án phải xem xét các chứng cứ có liên quan đến vật, tiền này một cách thận trọng, kỹ lưỡng và hoàn toàn khách quan. Ví dụ: Khi một người sử dụng xe máy để vận chuyển hàng quốc cấm, thì chiếc xe máy là phương tiện dùng để phạm tội. Nhưng đối với những phương tiện, công cụ mà không xác định được là có được dùng vào việc phạm tội hay không, thì không được áp dụng biện pháp này. - Vật hoặc tiền do tội phạm, hoặc do mua bán, đổi chác những thứ ấy mà có: Việc xác định vật, tiền trong khi áp dụng "Tịch thu sung công quỹ" có ý nghĩa hết sức quan trọng, cụ thể là: Đối với vật, tiền mà người phạm tội chiếm đoạt hoặc sử dụng không trái phép thì mới được phép sung công quỹ. Ví dụ: A ăn trộm tiền bạc của rất nhiều nhà trong làng, sau khi cơ quan tiến hành tố tụng xử lý vụ án, còn dư một số tiền 500.000 VNĐ không xác định được của ai, số tiền này sẽ được tịch thu, sung công quỹ. Đối với vật, tiền mà người phạm tội có do sử dụng hợp pháp thì tùy vào từng trường hợp mà xem xét để tịch thu sung công quỹ hoặc trả lại cho chủ sở hữu của vật, tiền. Trong trường hợp người chủ sở hữu, hoặc người đang quản lý tài sản mà có lỗi trong việc để người phạm tội sử dụng vào việc phạm tội thì có thể bị tịch thu tài sản đó. Ví dụ: A mượn xe của B để chở hàng cấm đi bán, chiếc xe máy này B vẫn thường dùng để đi làm, B cho A mượn nhưng không hề biết A để vận chuyển hàng cấm thì chiếc xe máy sẽ được xem xét trả lại cho B; nhưng nếu B biết mà vẫn cho A mượn thì chiếc xe sẽ bị tịch thu; B có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự (trong vai trò người giúp sức).
  • 37. 30 - Vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành: Người phạm tội khi kinh doanh, vận chuyển các loại hàng cấm (được quy định trong Nghị định số 11/1999/NĐ-CP của Chính phủ về danh mục hàng hóa cấm lưu thông, dịch vụ thương mại cấm thực hiện; hàng hóa thương mại dịch vụ hạn chế kinh doanh, kinh doanh có điều kiện) thì những vật đó sẽ bị tịch thu sung công quỹ. Ví dụ: A mang pháo từ Trung Quốc về Việt Nam để bán trong những ngày tết Nguyên đán, trên đường vận chuyển bị phát hiện; số pháo nêu trên thuộc danh mục hàng hóa bị cấm lưu hành, kinh doanh nên sẽ bị tịch thu sung công quỹ. - Trong một số trường hợp thì tài sản được trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, cụ thể là, đối với: vật hoặc tiền bị người chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép vào việc phạm tội. Ví dụ: A ăn trộm chiếc xe đạp của B và dùng để đánh bạc; trong khi đang đánh bạc thì bị bắt, chiếc xe đạp bị cơ quan công an tạm giữ. Khi xử lý vụ án, chiếc xe đạp của A sẽ được xem xét và trả lại cho A. Biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, buộc công khai xin lỗi" Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại là biện pháp tư pháp được Bộ luật Hình sự quy định, do Tòa án áp dụng đối với người phạm tội khi họ đã gây ra thiệt hại vật chất hoặc tinh thần cho người bị hại [30, tr. 196]. Buộc công khai xin lỗi là biện pháp tư pháp được quy định trong Bộ luật Hình sự, do Tòa án áp dụng đối với người phạm tội gây thiệt hại về tinh thần nhằm khôi phục những giá trị tinh thần cho người bị hại và giáo dục, cải tạo người phạm tội [30, tr. 197]. Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định: Điều 42. Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi
  • 38. 31 1. Người phạm tội phải trả lại tài sản đã chiếm đoạt cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, phải sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại vật chất đã được xác định do hành vi phạm tội gây ra. 2. Trong trường hợp phạm tội gây thiệt hại về tinh thần, Tòa án buộc người phạm tội phải bồi thường về vật chất, công khai xin lỗi người bị hại [22]. Biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi" được áp dụng trong quá trình xử lý vụ án, cụ thể là giai đoạn xét xử vụ án; và thẩm quyền là Tòa án đang xét xử vụ việc. Việc quy định biện pháp này trong Bộ luật Hình sự, được hiểu là: Người phạm tội bị áp dụng biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi" có nghĩa vụ thực hiện: - Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại: Theo quy định tại Điều 42 Bộ luật Hình sự 1999 thì người phạm tội phải trả lại tài sản đã chiếm đoạt cho chủ sở hữu, hoặc người đang quản lý hợp pháp, phải sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại vật chất do hành vi phạm tội gây ra. Các thiệt hại về mặt vật chất có thể tính ra bằng tiền, cụ thể là đối với tài sản là vật, tiền có giá trị và giá trị sử dụng cụ thể. Tòa án chỉ có thể buộc người phạm tội thực hiện việc này trên cơ sở xác định về tài sản, lỗi của người chiếm đoạt và phần trăm thiệt hại (nếu có) của tài sản. Nếu tài sản còn nguyên giá trị như khi bị chiếm đoạt, thì người phạm tội phải trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp; trong trường hợp tài sản đã bị thiệt hại, hư hại thì người đó phải sửa chữa hoặc bồi thường bằng vật, tiền có giá trị tương xứng. Trong trường hợp người phạm tội có xâm hại về tinh thần (không phải những yếu tố kể trên) mà về tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm của người khác, thì việc áp dụng bồi thường được thực hiện nhưng trên cơ sở bồi
  • 39. 32 thường tình thần. Cụ thể được quy định trong Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Thực chất, việc bồi thường này không nhằm vào khắc phục các tổn thất về mặt tinh thần, thể chất mà để nhằm bù đắp các tổn thất vật chất kèm theo như tiền mai tang, tiền chữa trị vết thương, các khoản thu nhập bị mất trong quá trình bị thương; chi phí cho mai tang, chạy chữa… thì người phạm tội sẽ bồi thường cho người bị hại hoặc đại diện của người bị hại. - Buộc công khai xin lỗi: Đối với trường hợp người bị hại bị xâm hại về mặt tinh thần, thì ngoài việc áp dụng "Bồi thường thiệt hại về mặt tinh thần" như đã phân tích ở trên, Bộ luật Hình sự cho phép Tòa án áp dụng cả hai biện pháp tư pháp bồi thường thiệt hại và buộc công khai xin lỗi người bị hại. Người bị thiệt hại về tinh thần được khôi phục lại những giá trị tinh thần thông qua việc Tòa án nhân dân Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam buộc người phạm tội công khai xin lỗi họ. Biện pháp tư pháp này không chỉ có tác dụng giáo dục, cải tạo người phạm tội trở thành công dân có ích mà còn giúp xã hội biết tôn trọng giá trị đời sống tinh thần. Việc áp dụng công khai xin lỗi thường được đi kèm với bồi thường thiệt hại để đạt được kết quả cao nhất. Biện pháp tư pháp "Bắt buộc chữa bệnh": Bắt buộc chữa bệnh là biện pháp tư pháp được Bộ luật Hình sự quy định, do tòa án hoặc viện kiểm soát áp dụng đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm cho mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình. Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định về biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh như sau: Điều 43: Bắt buộc chữa bệnh:
  • 40. 33 Đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi mắc bệnh quy định tại khoản 1 Điều 13 của Bộ luật này, thì tùy theo giai đoạn tố tụng, Viện kiểm sát hoặc Tòa án căn cứ vào kết luận của Hội đồng giám định pháp y, có thể quyết định đưa họ vào một cơ sở điều trị chuyên khoa để bắt buộc chữa bệnh; nếu thấy không cần thiết phải đưa vào một cơ sở điều trị chuyên khoa, thì có thể giao cho gia đình hoặc người giám hộ trông nom dưới sự giám sát của Cơ quan nhà nước có thẩm quyền. 2. Đối với người phạm tội trong khi có năng lực trách nhiệm hình sự nhưng trước khi bị kết án đã mắc bệnh tới mức mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì căn cứ vào kết luận của Hội đồng giám định pháp y, Tòa án có thể quyết định đưa họ vào một cơ sở điều trị chuyên khoa để bắt buộc chữa bệnh. Sau khi khỏi bệnh, người đó có thể phải chịu trách nhiệm hình sự. 3. Đối với người đang chấp hành hình phạt mà bị bệnh tới mức mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì căn cứ vào kết luận của Hội đồng giám định pháp y, Tòa án có thể quyết định đưa họ vào một cơ sở điều trị chuyên khoa để bắt buộc chữa bệnh. Sau khi khỏi bệnh, người đó phải tiếp tục chấp hành hình phạt, nếu không có lý do khác để miễn chấp hành hình phạt. Điều 44. Thời gian bắt buộc chữa bệnh Căn cứ vào kết luận của cơ sở điều trị, nếu người bị bắt buộc chữa bệnh quy định tại Điều 43 của Bộ luật này đã khỏi bệnh, thì tùy theo giai đoạn tố tụng, Viện kiểm sát hoặc Tòa án xét và quyết định đình chỉ việc thi hành biện pháp này.
  • 41. 34 Thời gian bắt buộc chữa bệnh được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù [22]. Bắt buộc chữa bệnh được áp dụng cho các trường hợp người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong tình trạng mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình. Việc áp dụng biện pháp tư pháp này được quy định tại Điều 43, 44 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung). Việc áp dụng biện pháp tư pháp này nhằm phòng ngừa khả năng gây thiệt hại cho trật tự, an toàn xã hội của người mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác gây rối loạn hoạt động tâm thần. Bên cạnh đó, việc áp dụng Bắt buộc chữa bệnh còn mang tính nhân đạo, bởi lẽ thay vì áp dụng hình phạt đối với những người đó thì Nhà nước quy định các biện pháp tư pháp hình sự, cụ thể là Bắt buộc chữa bệnh cho phép những người đó được chữa bệnh tại cơ sở điều trị chuyên khoa có thể giao cho gia đình hoặc người giám hộ trông nom dưới sự giám sát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng biện pháp này. Bắt buộc chữa bệnh được áp dụng bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cụ thể là Viện kiểm sát hoặc Tòa án áp dụng bắt buộc chữa bệnh với người phạm tội căn cứ vào quyết định của Hội đồng giám định y khoa. Thẩm quyền áp dụng tùy vào từng giai đoạn tố tụng thuộc về Viện kiểm sát (giai đoạn điều tra, truy tố) hoặc Tòa án (giai đoạn xét xử). Cụ thể việc áp dụng được quy định tại Điều 43, 44 Bộ luật Hình sự: - Áp dụng đối với người trong tình trạng mất năng lực trách nhiệm hình sự: Đang mắc phải một bệnh tâm thần, hoặc một bệnh lý khác mà không có khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi của mình. Người bị mất năng lực trách nhiệm hình sự trong khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi đó; nhưng để tránh trường hợp người đó tiếp tục phạm tội thì Nhà nước quy định việc áp dụng biện pháp
  • 42. 35 bắt buộc chữa bệnh. Khi có căn cứ cho rằng người đó bị mất năng lực trách nhiệm hình sự thì tùy vào giai đoạn tố tụng mà Viện kiểm sát, Tòa án căn cứ kết luận Hội đồng giám định pháp y, có thể quyết định đưa họ vào một cơ sở điều trị chuyên khoa (nếu cần thiết) hoặc giao cho gia đình, người giám hộ trông nom dưới sự giám sát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc áp dụng này tùy thuộc vào từng giai đoạn, cụ thể là ở giai đoạn điều tra, truy tố, thì Viện kiểm sát trên cơ sở kết luận giám định (có thể do Cơ quan điều tra đề nghị trưng cầu giám định khi điều tra) có thể ra quyết định áp dụng; còn đối với trường hợp vụ án được đưa ra xét xử hoặc đang được thi hành án thì Tòa án là cơ quan có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp này. 2.2.2. Các biện pháp tƣ pháp quy định riêng cho ngƣời chƣa thành niên phạm tội Các biện pháp tư pháp hình sự (riêng) áp dụng với người chưa thành niên phạm tội là những biện pháp cưỡng chế về hình sự của Nhà nước ít nghiêm khắc hơn hình phạt, do Bộ luật Hình sự quy định và được Tòa án áp dụng khi xét xử nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt, căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người chưa thành niên và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm. Bên cạnh việc áp dụng những hình phạt, tùy theo từng trường hợp cụ thể cần phải áp dụng biện pháp thay thế cho hình phạt mà vẫn đảm bảo yêu cầu công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm; Tòa án áp dụng các biện pháp tư pháp riêng, hoặc cơ quan tiến hành tố tụng hình sự áp dụng các biện pháp tư pháp chung với người chưa thành niên phạm tội. Các biện pháp tư pháp hình sự riêng chỉ áp dụng với những người chưa thành niên phạm tội, do đó chỉ ghi nhận trong hai biện pháp tư pháp là: + Giáo dục tại xã, phường, thị trấn;
  • 43. 36 + Đưa vào trường giáo dưỡng. Nếu như các biện pháp tư pháp chung, có mục đích nhằm hỗ trợ hoặc thay thế cho hình phạt; thì các biện pháp tư pháp riêng áp dụng với người chưa thành niên phạm tội lại có mục đích chính là thay thế cho hình phạt; nhằm "giáo dục, cải tạo người chưa thành niên phạm tội và phòng ngừa tội phạm do người chưa thành niên thực hiện. Người chưa thành niên là những người chưa hoàn toàn phát triển đầy đủ về nhân cách, chưa có đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ của một công dân. Pháp luật ở mỗi quốc gia quy định độ tuổi cụ thể của người chưa thành niên. Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 20/11/1989 có ghi: "Trong phạm vi Công ước này, trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ em có quy định tuổi thành niên sớm hơn". Ở Việt Nam, độ tuổi người chưa thành niên được xác định thống nhất trong Hiến pháp năm 1992, Bộ luật Hình sự năm 1999, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật Lao động, Bộ luật Dân sự, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và một số văn bản quy phạm pháp luật khác. Tất cả các văn bản pháp luật đó đều quy định tuổi của người chưa thành niên là dưới 18 tuổi và quy định riêng những chế định pháp luật đối với người chưa thành niên trong từng lĩnh vực cụ thể. Khái niệm người chưa thành niên khác với khái niệm trẻ em. Theo Điều 1 Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 2004: "Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi". Tóm lại, khái niệm người chưa thành niên được xây dựng dựa trên sự phát triển về mặt thể chất và tinh thần của con người và được cụ thể hóa bằng giới hạn độ tuổi trong các văn bản pháp luật của từng quốc gia. Theo đó, người ta quy định những quyền và nghĩa vụ cụ thể của người chưa thành niên.
  • 44. 37 Như vậy, có thể khái niệm: Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi, chưa phát triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần, chưa có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý như người đã thành niên. Người chưa thành niên phạm tội là một hiện tượng xã hội đang được xã hội rất quan tâm hiện nay, do người chưa thành niên là đối tượng đặc biệt. Việc đưa vụ án hình sự có người chưa thành niên ra xét xử, phải đảm bảo được các nguyên tắc cơ bản của pháp luật hình sự, cũng như khi quyết định hình phạt phải trên cơ sở của đường lối, chính sách hình sự xử lý người chưa thành niên phạm tội. Do đó, mặc dù việc áp dụng các biện pháp tư pháp hình sự thể hiện tính nhân đạo đối với người chưa thành niên phạm tội, song việc áp dụng này vẫn phải đảm bảo các quyền lợi như đối với các công dân bình thường, và đáp ứng các điều kiện áp dụng do pháp luật quy định. * Giáo dục tại xã, phường, thị trấn Giáo dục tại xã, phường, thị trấn là biện pháp tư pháp được áp dụng với người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng trong thời hạn một năm đến hai năm. Biện pháp này được quy định tại khoản 2, Điều 70 Bộ luật Hình sự 1999 như sau: Điều 70: Các biện pháp tư pháp áp dụng với người chưa thành niên phạm tội: 2. Tòa án có thể áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn từ một năm đến hai năm đối với người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng. Người được giáo dục tại xã, phường, thị trấn phải chấp hành đầy đủ những nghĩa vụ về học tập, lao động, tuân theo pháp luật dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền xã, phường, thị trấn và tổ chức xã hội được Tòa án giao trách nhiệm [20].
  • 45. 38 Điều kiện áp dụng: Giáo dục tại xã, phường, thị trấn là biện pháp tư pháp thay thế cho hình phạt được áp dụng đới với người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng. Như vậy, điều kiện để áp dụng biện pháp tư pháp này là buộc phải căn cứ vào tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, cũng như các điều kiện khác: Có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhân thân tốt, người chưa thành niên phạm tội đã có thái độ ăn năn, hối cải sau khi phạm tội, có nơi ở ổn định và môi trường sống của họ thuận lợi cho việc giáo dục và cải tạo. Thời hạn áp dụng: Việc áp dụng biện pháp tư pháp này là từ một đến hai năm do Tòa án xem xét quyết định. Trong thời hạn này, người chưa thành niên bị kết án không bị cách ky khỏi cuộc sống xã hội, nhưng người bị áp dụng biện pháp này buộc phải chấp hành đầy đủ những nghĩa vụ, cũng như được hưởng những quyền lợi được quy định tại Nghị định 59/2000/NĐ-CP ngày 30/10/2000 của Chính phủ quy định việc thi hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn Việc áp dụng này nhằm tạo điều kiện cho người chưa thành niên bị kết án được lao động, học tập tại cộng đồng và chứng tỏ sự hối cải của mình ngay trong môi trường xã hội bình thường, dưới sự giám sát của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn hoặc tổ chức xã hội và gia đình. * Đưa vào trường giáo dưỡng Đưa vào trường giáo dưỡng là biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên nếu xét thấy cần phải có kỷ luật chặt chẽ và cần phải cách ly họ khỏi môi trường xã hội để giáo dục và cải tạo họ thành công dân có ích cho xã hội. Biện pháp này được quy định tại khoản 3, Điều 70 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định: Điều 70: Các biện pháp tư pháp áp dụng với người chưa thành niên phạm tội:
  • 46. 39 3. Tòa án có thể áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng từ một năm đến hai năm đối với người chưa thành niên phạm tội, nếu thấy do tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội, do nhân thân và môi trường sống của người đó mà cần đưa người đó vào một tổ chức giáo dục có kỷ luật chặt chẽ [20]. Đưa vào trường giáo dưỡng là biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội buộc phải cách ly họ khỏi gia đình, hoặc môi trường sống hiện tạo để vào một tổ chức giáo dục có kỷ luật chặt chẽ và nghiêm ngặt. Đây là biện pháp tư pháp dùng thay thế hình phạt, có tính nghiêm khắc hơn so với biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, nhằm hạn chế tự do và cách ly người chưa thành niên bị kết án khỏi môi trường sống bình thường của họ, đưa họ vào một tổ chức giáo dục riêng có kỷ luật chặt chẽ, chấp hành đầy đủ nội quy, nề nếp, được sống học tập và rèn luyện dưới sự giám sát chặt chẽ của tổ chức chuyên trách là trường giáo dưỡng trong một thời gian nhất định. Điều kiện áp dụng: Biện pháp tư pháp này mang tính nghiêm khắc hơn so với biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; do đó để áp dụng biện pháp này Tòa án cần cân nhắc một cách kỹ càng. Việc áp dụng biện pháp này chỉ với đối tượng là người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội - điều này phần nào cũng có ảnh hưởng đến các yếu tố tinh thần của họ. Do đó, việc áp dụng cần đáp ứng được các điều kiện sau: + Tòa án cần căn cứ vào tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội do người chưa thành niên thực hiện. Bộ luật Hình sự năm 1999 không quy định cụ thể người đó phạm tội gì, do đó, Tòa án cần xem xét trên cơ sở các yếu tố: Quan hệ xã hội bị xâm hại (đối tượng), hình thức lỗi (vô ý hay cố ý).
  • 47. 40 + Tòa án căn cứ vào nhân thành người chưa thành niên phạm tội. Qua việc xem xét và đánh giá tổng thể các yếu tố về nhân thân như: Hoàn cảnh gia đình, lý lịch bản thân, độ tuổi, giới tính, tiền án - tiền sự trước đó... có thể phản ánh được các đặc điểm, đặc tính xã hội của chính người này; đồng thời phản ánh được khả năng cải tạo, giáo dục họ trong môi trường sống. + Tòa án căn cứ vào môi trường sống của người chưa thành niên. Môi trường sống là nơi người đó sinh sống, học tập và lao động. Ở một môi trường tốt thì người đó có điều kiện để phát triển bản thân, cũng như trở thành một người có ích, còn nếu như sống trong điều kiện môi trường không tốt, có thể gây ảnh hưởng xấu đến người chưa thành niên, khiến họ dễ mắc phải những thói hư tật xấu, bị bạn bè lôi kéo, rủ rê, dễ rơi vào các tệ nạn xã hội... Môi trường xấu có thể khiến người chưa thành niên có những nhận thức lệch lạc, hành động thiếu suy nghĩ hướng đến việc chống đối xã hội. Do đó, việc chấp nhận để người chưa thành niên phạm tội tiếp tục được sống, giáo dục và cải tạo trong môi trường đó là một lựa chọn không đúng đắn, việc cách ly họ khỏi môi trường xấu đó là hết sức cần thiết. Như vậy, có thể thấy những người chưa thành niên có hành vi phạm tội có tính chất nghiêm trọng, nhân thân xấu, không có nơi cư trú nhất định (sống lang thang, bụi đời...) [14, tr. 399]. Thời hạn áp dụng: Đối với những trường hợp thỏa mãn các điều kiện nêu trên, Tòa án quyết định thời gian đưa vào trường giáo dưỡng từ một đến hai năm. Trong thời hạn này, người bị kết án buộc phải thực hiện các nội quy, quy chế của trường giáo dưỡng, sống, học tập và lao động theo quy định. Tính từ ngày người chưa thành niên được đưa vào trường giáo dưỡng, nếu họ đã chấp hành được một nửa thời hạn ở trường giáo dưỡng do Tòa án quyết định, đồng thời, có nhiều tiến bộ trong quá trình chấp hành như: Thực hiện tốt các
  • 48. 41 nội quy, quy định của trường giáo dưỡng; tích cực rèn luyện và đạt kết quả tốt, thể hiện được sự ăn năn, hối cải do những hành vi nguy hiểm cho xã hội do mình gây ra... thì người phụ trách của nhà trường có thể đề nghị Tòa án chấm dứt thời hạn ở trường giáo dưỡng trước thời hạn. 2.3. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP TƢ PHÁP; NHỮNG TỒN TẠI, HẠN CHẾ TRONG THỰC TIỄN ÁP DỤNG CHẾ ĐỊNH CÁC BIỆN PHÁP TƢ PHÁP VÀ NHỮNG NGUYÊN NHÂN CỦA NÓ 2.3.1. Thực tiễn áp dụng các biện pháp tƣ pháp Việc áp dụng các biện pháp tư pháp hình sự đã có từ lâu, ngay khi Bộ luật Hình sự năm 1985 được ban hành, và đến nay, với pháp luật thực định (Bộ luật Hình sự 1999, sửa đổi bổ sung 2009) thì những quy định này càng được cụ thể rõ ràng hơn, được áp dụng vào thực tế nhiều hơn. Trong những vụ án hình sự gần đây (500 vụ án hình sự được tính từ năm 2005) thì tỷ lệ áp dụng các biện pháp tư pháp hình sự khá cao (chiếm đến 80%). Hầu hết các vụ án hình sự đều được áp dụng biện pháp tư pháp. Thực tiễn việc áp dụng các biện pháp tư pháp cụ thể là: Với biện pháp "Trả lại vật, tiền do phạm tội mà có" được đánh giá là biện pháp tư pháp được áp dụng rộng rãi, chiếm tỷ lệ lớn trong các vụ án hình sự có liên quan đến tài sản. Trên cơ sở khảo sát 500 vụ án hình sự từ năm 2005 đến này, thì việc áp dụng biện pháp này chiếm đến 60% tổng số vụ án. Hầu hết các vụ án có liên quan đến tài sản, người bị hại bị chiếm đoạt tài sản một cách bất hợp pháp, thì sẽ áp dụng biện pháp tư pháp hình sự "Trả lại vật tiền" cho người bị thiệt hại về tài sản. Mặt khác, việc áp dụng trả lại tài sản cho người bị thiệt hại về tài sản hoặc người quản lý tài sản hợp pháp là việc rất cần thiết, và đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho người dân.