SlideShare a Scribd company logo
1 of 140
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM THỊ HỢP
BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI ĐANG BỊ TRUY NÃ
TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM -
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2012
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM THỊ HỢP
BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI ĐANG BỊ TRUY NÃ
TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM -
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số : 60 38 40
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Trịnh Quốc Toản
HÀ NỘI - 2012
3
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn bảo đảm độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Phạm Thị Hợp
4
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BIỆN PHÁP BẮT
NGƯỜI ĐANG BỊ TRUY NÃ TRONG LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM
6
1.1. Cơ sở lý luận về biện pháp bắt người đang bị truy nã trong
Luật tố tụng hình sự Việt Nam
6
1.1.1. Quan niệm về biện pháp ngăn chặn và biện pháp bắt người 6
1.1.2. Biện pháp bắt người đang bị truy nã 15
1.2. Khái quát lịch sử pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam quy
định về biện pháp bắt người đang bị truy nã
33
1.2.1. Trong thời kỳ phong kiến 33
1.2.2. Thời kỳ từ năm 1945 đến trước khi có Bộ luật Tố tụng hình
sự năm 1988
35
1.2.3. Quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 đến trước
khi có Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003
37
1.3. Biện pháp bắt người đang bị truy nã ở một số nước 40
Chương 2: Những quy định của Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự NĂM
2003 về biện pháp bắt người đang bị truy nã Và Thực
Tiễn áp dụng
45
2.1. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về biện
pháp bắt người đang bị truy nã
45
5
2.2. Thực tiễn áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã 54
2.2.1. Tình hình tội phạm 54
2.2.2. Tình hình tội phạm bỏ trốn 55
2.2.3. Kết quả bắt người đang bị truy nã 56
2.3. Những tồn tại, hạn chế trong quá trình áp dụng biện pháp
bắt người đang bị truy nã và nguyên nhân
63
2.3.1. Những tồn tại, hạn chế trong quá trình áp dụng biện pháp
bắt người đang bị truy nã
63
2.3.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế nêu trên 85
Chương 3: một số kiến nghị VÀ Giải pháp NHằM nâng cao hiệu quả
áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã trong luật
tố tụng hình sự việt nam
89
3.1. Nhu cầu hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình
sự hiện hành về bắt người đang bị truy nã và nâng cao hiệu
quả áp dụng
89
3.1.1. Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa và công cuộc cải cách tư pháp
89
3.1.2. Nhu cầu bảo vệ quyền con người 91
3.1.3. Đòi hỏi nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm,
tình hình tội phạm phức tạp bỏ trốn
92
3.2. Những kiến nghị tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp
luật
93
3.2.1. Những kiến nghị hoàn thiện các quy định trong Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2003 về biện pháp bắt người đang bị truy nã
94
3.2.2. Những kiến nghị hoàn thiện các quy định trong Bộ luật hình
sự
102
3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định
Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành về bắt người đang bị truy
103
6
nã
3.3.1. Tăng cường công tác giải thích pháp luật của cơ quan chức
năng
103
3.3.2. Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn và phẩm chất đạo
đức của chủ thể áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã
105
3.3.3. Nâng cao tinh thần trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố
tụng trong việc chủ động ngăn chặn tình trạng người phạm
tội lẩn trốn, hạn chế đầu vào
108
3.3.4.
Xử lý nghiêm minh, kịp thời các trường hợp vi phạm
trong quá trình áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã
111
3.3.5. Tăng cường mối quan hệ phối hợp, trao đổi giữa các cơ
quan tiến hành tố tụng cũng như các cơ quan, tổ chức hữu
quan
112
3.3.6. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ
hoạt động bắt người đang bị truy nã
115
3.3.7. Tăng cường công tác tuyên truyền, phát động phong trào
quần chúng nhân dân tham gia phát hiện và bắt giữ người
đang bị truy nã
116
3.3.8. Đẩy mạnh việc vận động người đang bị truy nã ra đầu thú 117
3.3.9. Tăng cường hợp tác quốc tế trong công tác bắt người đang
bị truy nã
118
KẾT LUẬN 120
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 122
7
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS : Bộ luật Hình sự
BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự
BPNC : Biện pháp ngăn chặn
CQĐT : Cơ quan điều tra
NCTN : Người chưa thành niên
QĐTN : Quyết định truy nã
TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao
TTHS : Tố tụng hình sự
VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao
8
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
2.1 Số liệu về đối tượng truy nã phát sinh theo từng năm 58
2.2 Số vụ, bị cáo bị Tòa án xét xử về tội trốn khỏi nơi giam
giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử từ năm
2006 - 2010
59
2.3 Số liệu kết quả xử lý đối tượng truy nã đã bị bắt và vận
động đầu thú
60
2.4 Số liệu các trường hợp trốn 76
2.5 Số liệu các trường hợp trốn do thay đổi biện pháp ngăn
chặn
83
9
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu
Bản chất của người phạm tội là luôn tìm cách lẩn trốn hòng thoát khỏi
sự trừng trị của pháp luật. Vì thế việc tìm kiếm, bắt giữ người phạm tội bỏ
trốn luôn là một yêu cầu khách quan, một nhiệm vụ thường xuyên của các cơ
quan bảo vệ pháp luật. Nếu người phạm tội còn lẩn trốn, chẳng những pháp
luật không được thi hành, mà quan trọng hơn các đối tượng này vẫn có thể
tiếp tục hoạt động phạm tội và gây ra tội ác cho xã hội. Việc tìm kiếm, bắt giữ
lại người có hành vi phạm tội đang lẩn trốn có cơ sở xuất phát từ nguyên tắc:
đã phạm tội thì không tránh khỏi bị trừng trị. Về vấn đề này V.I. Lênin đã chỉ
rõ: "Tác dụng ngăn ngừa của hình phạt không phải ở chỗ hình phạt đó phải
nặng mà vấn đề cơ bản ở chỗ không một kẻ phạm tội nào không bị trừng trị,
không một hành vi phạm tội nào không bị phát hiện ra" [24].
Tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội phạm lẩn trốn nói riêng
ở nước ta và nhiều nước trên thế giới vẫn diễn biến phức tạp. Do những
nguyên nhân khác nhau mà mỗi năm trong cả nước có hàng ngàn người phạm
tội lẩn trốn phải ra quyết định truy nã (QĐTN) và số đối tượng chưa bắt được
cũng còn khá nhiều. Điều này gây ra những khó khăn cho các cơ quan thi
hành pháp luật trong các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
Tuy nhiên thực tiễn pháp luật về biện pháp ngăn chặn (BPNC) bắt
người nói chung và bắt người đang bị truy nã nói riêng vẫn còn những hạn
chế, bất cập như các quy định của pháp luật hiện hành về truy nã không đầy
đủ, nhiều quy định không còn phù hợp, chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh
chống tội phạm thể hiện như: quy định về đối tượng truy nã, trình tự, thủ tục,
phạm vi truy nã, việc áp dụng các BPNC sau khi truy bắt được đối tượng truy
nã... dẫn đến chất lượng và hiệu quả của BPNC không đạt được. Trước tình
10
hình trên, tác giả nhận thấy việc nghiên cứu đề tài: "Biện pháp bắt người
đang bị truy nã trong luật tố tụng hình sự Việt Nam - Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn" là cần thiết, khách quan, đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải
cách tư pháp ở nước ta hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong khoa học pháp lý, dưới những góc độ khác nhau, đã có nhiều
công trình khoa học nghiên cứu về BPNC nói chung và biện pháp bắt người
nói riêng như: Nguyễn Vạn Nguyên (1995), Các biện pháp ngăn chặn và
những vấn đề nâng cao hiệu quả của chúng, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội;
Nguyễn Duy Thuân (1999), Các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự -
Những vấn đề về lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Lê
Cảm (2005), "Sự bất đắc dĩ phải gây thiệt hại để bắt người phạm tội quả tang
hoặc đang bị truy nã", Sách chuyên khảo sau đại học: Những vấn đề cơ bản
trong khoa học Luật Hình sự Việt Nam (phần chung), Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội; Mai Bộ (2006), Áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam
đối với người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí Tòa án nhân dân; Ban chỉ
đạo Chương trình quốc gia phòng chống tội phạm - Bộ Công an (2002), Công
tác truy nã - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội; Nguyễn Văn Điệp (2005), Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm
giam trong tố tụng hình sự Việt Nam. Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp,
Luận án Tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội...
Tuy nhiên qua nghiên cứu, khảo sát nội dung các sách chuyên khảo,
các luận án, các bài báo khoa học cho thấy, hầu hết đó là các công trình
nghiên cứu cơ bản về các BPNC nói chung, còn đối với chế định bắt người
đang bị truy nã, nhìn một cách tổng quan, chưa được quan tâm một cách đúng
mức. Những nghiên cứu về biện pháp bắt người đang bị truy nã chỉ dừng lại ở
những công trình nghiên cứu đơn lẻ chuyên ngành của cơ quan Công an là
chủ yếu hoặc là một phần nội dung của biện pháp bắt người nói chung. Có thể
11
nói hiện nay ở Việt Nam chưa triển khai nghiên cứu có hệ thống, toàn diện và
sâu sắc về biện pháp bắt người đang bị truy nã dưới góc độ lý luận và thực
tiễn áp dụng. Do đó, nguyên nhân của những tồn tại, bất cập trong thực tiễn
áp dụng những quy định về biện pháp bắt người đang bị truy nã chưa được
phân tích có hệ thống để đưa ra những kiến nghị, giải pháp đồng bộ.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Tác giả nghiên cứu đề tài với những mục đích sau:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về biện pháp bắt người đang bị
truy nã trong luật tố tụng hình sự (TTHS) Việt Nam;
- Nghiên cứu, phân tích pháp luật Việt Nam quy định về biện pháp bắt
người đang bị truy nã và thực tiễn áp dụng từ đó rút ra những tồn tại, hạn chế
của việc quy định và áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã và những
nguyên nhân của nó.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để có thể đạt được mục đích nêu trên, trong phạm vi đề tài, tác giả tập
trung vào những nhiệm vụ sau:
+ Nghiên cứu những vấn đề chung dưới góc độ lý luận và pháp lý
để làm rõ khái niệm, mục đích, ý nghĩa, nguyên tắc, đặc điểm... của biện pháp
bắt người đang bị truy nã trong luật TTHS Việt Nam;
+ Nghiên cứu, phân tích làm sáng tỏ thực trạng áp dụng biện pháp bắt
người đang bị truy nã qua đó đưa ra những nhận xét về ưu điểm và những tồn
tại của biện pháp bắt người đang bị truy nã trong luật TTHS Việt Nam;
+ Tổng hợp kết quả nghiên cứu và đề xuất một số giải pháp góp phần
nâng cao hiệu quả của việc áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã trong
luật TTHS Việt Nam trong thời gian tới.
12
4. Phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu là chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đấu tranh
phòng, chống tội phạm;
- Đồng thời được tiến hành bằng những phương pháp nghiên cứu khoa
học cơ bản như: phân tích, tổng hợp, so sánh, hệ thống, logic, đối chiếu thực
tiễn, thống kê... nhờ vậy những vấn đề liên quan tới biện pháp bắt người đang
bị truy nã được xem xét, đánh giá từ nhiều góc độ khác nhau, bảo đảm tính
đầy đủ, toàn diện, có hệ thống và xác thực.
5. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu và những đề xuất được nêu trong luận văn có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Thông qua
công trình nghiên cứu này, tác giả mong muốn đóng góp vào việc hoàn thiện
pháp luật TTHS. Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ
làm công tác nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học
luật TTHS, tội phạm học và cán bộ làm công tác tại các cơ quan bảo vệ pháp
luật...
6. Những điểm mới của luận văn
Đây là công trình chuyên khảo nghiên cứu một cách có hệ thống và
toàn diện về biện pháp bắt người đang bị truy nã trong luật TTHS Việt Nam.
Những điểm mới của luận văn là:
- Làm sáng tỏ hệ thống những vấn đề lý luận về chế định bắt người
đang bị truy nã trong luật TTHS Việt Nam;
13
- Phân tích một cách sâu sắc và đánh giá toàn diện về sự thể hiện của
biện pháp bắt người đang bị truy nã trong Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS)
Việt Nam hiện hành;
- Phân tích, đánh giá một cách toàn diện thực trạng áp dụng pháp luật
về biện pháp bắt người đang bị truy nã trong luật TTHS Việt Nam; nêu ra
những hạn chế, bất cập về mặt lập pháp, những tồn tại trong thực tiễn áp dụng
pháp luật cũng như nguyên nhân của những hạn chế, bất cập đó. Trên cơ sở
đó, luận văn đề xuất các giải pháp khả thi để hoàn thiện pháp luật nhằm nâng
cao hiệu quả của việc áp dụng pháp luật TTHS về BPNC bắt người đang bị
truy nã.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về biện pháp bắt người đang bị truy
nã trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Chương 2: Những quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về
biện pháp bắt người đang bị truy nã và thực tiễn áp dụng
Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm phần nâng cao hiệu
quả áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã trong luật tố tụng hình sự
Việt Nam.
14
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
VỀ BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI ĐANG BỊ TRUY NÃ
TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI ĐANG BỊ TRUY NÃ
TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1.1. Quan niệm về biện pháp ngăn chặn và biện pháp bắt người
1.1.1.1. Quan niệm về biện pháp ngăn chặn
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân là quan điểm cơ bản
của Đảng và nhà nước ta. Tuy nhiên khi có hành vi đi ngược lại với lợi ích
của xã hội, lợi ích của nhà nước, nhà nước ta cũng cho phép áp dụng các biện
pháp cưỡng chế cần thiết để hạn chế quyền và lợi ích của chủ thể thực hiện
hành vi đó. Điều này hoàn toàn không mâu thuẫn với nguyên tắc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân mà trái lại nó còn góp phần bảo vệ
được lợi ích của cộng đồng, của xã hội, đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ kinh
tế - xã hội của đất nước.
Nhằm mục đích ngăn chặn và phòng ngừa việc không thực hiện các
nghĩa vụ của những người tham gia TTHS, pháp luật cho phép Cơ quan điều
tra (CQĐT), Viện kiểm sát và Tòa án áp dụng đối với những người đó các
biện pháp cưỡng chế TTHS.
Các biện pháp cưỡng chế TTHS có khác nhau về tính chất và chức năng.
Một số biện pháp cưỡng chế TTHS chỉ được áp dụng trong những trường hợp
một người thực hiện những vi phạm pháp luật nhất định. Chẳng hạn trong khi
tiến hành xét xử, Tòa án có thể áp dụng biện pháp buộc những người vi phạm
trật tự phiên tòa rời khỏi phòng xử án hoặc phạt tiền đối với họ. Biện pháp
cưỡng chế này là những biện pháp trách nhiệm tố tụng.
15
Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc đấu tranh phòng, chống tội
phạm, BLTTHS của Nhà nước ta đã quy định hàng loạt các biện pháp cưỡng
chế khác nhau nhằm những mục đích tố tụng nhất định. "Biện pháp cưỡng chế
trong tố tụng hình sự bao gồm các biện pháp được luật tố tụng hình sự quy
định, do cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng nhằm thực hiện những mục đích tố
tụng nhất định" [42].
Căn cứ vào mục đích của chúng, có thể chia thành ba nhóm sau:
- Nhóm 1: Gồm những biện pháp nhằm mục đích ngăn chặn tội phạm,
ngăn ngừa người có hành vi phạm tội bỏ trốn hoặc gây khó khăn cho quá
trình giải quyết vụ án như: Bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú,
bảo lĩnh và đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm;
- Nhóm 2: Gồm những biện pháp bảo đảm cho việc thu thập và ghi
nhận chứng cứ như: Khám xét người, khám xét chỗ ở, địa điểm nơi làm việc,
khám nghiệm hiện trường, xem xét dấu vết trên thân thể...;
- Nhóm 3: Gồm những biện pháp bảo đảm thuận lợi cho quá trình tiến
hành tố tụng được diễn ra bình thường và thuận lợi như: Kê biên tài sản, áp
giải bị can, bị cáo, người bị kết án, dẫn giải người làm chứng, những biện
pháp xử lý do Thẩm phán chủ tọa phiên tòa áp dụng đối với người có hành vi
vi phạm nội quy phiên tòa [41].
Trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế nêu trên thì BPNC là một
chế định pháp lý quan trọng. Toàn bộ quy phạm pháp luật xác định cơ sở,
mục đích của các BPNC, các loại BPNC cụ thể, trình tự áp dụng, thay thế và
hủy bỏ chúng cũng như những bảo đảm pháp chế trong việc áp dụng các biện
pháp này hợp thành một chế định pháp luật TTHS - những BPNC.
Chức năng của chế định pháp luật này được thể hiện trong việc điều
chỉnh các quan hệ pháp luật phát sinh khi cần thiết phải hạn chế tự do của bị
can, bị cáo nhằm ngăn ngừa khả năng tiếp tục thực hiện tội phạm, trốn tránh
việc điều tra, xét xử, cản trở việc xác định sự thật về vụ án hình sự của họ. Áp
16
dụng các BPNC không thể loại trừ hoàn toàn nhưng có thể hạn chế một cách
có hiệu quả khả năng thực hiện các hành vi nói trên của bị can, bị cáo.
BLTTHS dành một chương riêng trong phần Những quy định chung
nói về BPNC, chứng tỏ sự quan tâm đặc biệt của nhà nước ta đối với việc sử
dụng các biện pháp này trong cuộc đấu tranh chống tội phạm. Nhìn lại công
tác lập pháp trong mấy chục năm qua cho thấy, những quy định của pháp luật
TTHS về các BPNC luôn có sự thay đổi, phát triển cùng với sự phát triển đi
lên của nhà nước và xã hội Việt Nam. Đó là một hiện tượng hợp quy luật.
Trong lịch sử phát triển của luật TTHS Việt Nam, nội dung và các loại BPNC
có sự thay đổi theo hướng ngày càng hoàn thiện.
Vậy thế nào là BPNC trong TTHS? Trong pháp luật thực định chưa có
một khái niệm pháp lý về BPNC rõ ràng. Cho nên trong các tài liệu, sách báo
Việt Nam các học giả đã có những khái niệm khác nhau về các BPNC.
Theo Từ điển thuật ngữ pháp lý phổ thông của Nhà xuất bản "Sách
pháp lý" Matxcơva năm 1973 thì:
Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế về mặt tố tụng
hình sự do Điều tra viên, Dự thẩm viên, Kiểm sát viên và Tòa án áp
dụng đối với bị can (người bị tình nghi) nếu có đủ căn cứ cho rằng
bị can trốn tránh việc điều tra, dự thẩm hoặc hoặc trốn tránh Tòa án,
cản trở việc xác minh sự thật về vụ án hay sẽ tiếp tục hoạt động
phạm tội, cũng như để đảm bảo việc thi hành án [1].
Theo Giáo trình Luật TTHS Việt Nam - Khoa Luật trường Đại học
khoa học xã hội và nhân văn cho rằng:
Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế trong tố tụng
hình sự áp dụng đối với bị can, bị cáo, người phạm tội quả tang và
người cần bắt trong trường hợp khẩn cấp để kịp thời ngăn chặn tội
phạm của họ, ngăn chặn những người đó gây khó khăn cho việc
điều tra, truy tố, xét xử và tiếp tục phạm tội hoặc trốn [23].
17
Cuốn Giáo trình Luật TTHS Việt Nam - Trường Đại học Luật Hà Nội
thì:
Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế trong tố tụng
hình sự áp dụng đối với bị can, bị cáo, người bị truy nã hoặc đối với
những người chưa bị khởi tố (trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm
tội quả tang) nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội,
ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành
động gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án
hình sự [41].
Còn theo cuốn "Tội phạm học, Luật hình sự và Luật tố tụng hình sự"
thì BPNC là một loạt biện pháp do CQĐT, Viện kiểm sát và Tòa án áp dụng
đối với người bị tình nghi phạm tội, đối với bị can, bị cáo và cả người bị kết
án khi các cơ quan này có căn cứ cho rằng những người này sẽ gây khó khăn
cho việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hoặc tiếp tục phạm tội [42].
Có thể thấy các khái niệm trên chỉ phản ánh được phần nào của
BPNC. Nhằm xây dựng một khái niệm hoàn chỉnh trong đó bao hàm những
dấu hiệu đặc trưng như mục đích áp dụng, thẩm quyền áp dụng, đối tượng áp
dụng, căn cứ và mục đích áp dụng để từ đó hiểu và vận dụng đúng đắn trong
thực tiễn. Vì vậy, có thể hiểu rằng:
BPNC là những biện pháp cưỡng chế trong TTHS do các chủ thể có
thẩm quyền được áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc người chưa bị khởi tố
khi có căn cứ do BLTTHS quy định, nhằm ngăn chặn kịp thời những hành vi
nguy hiểm cho xã hội, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật
hoặc có hành động gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành
án hình sự. BPNC bao gồm: Bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú,
bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm.
Tóm lại, các BPNC là những biện pháp được áp dụng để ngăn ngừa bị
can, bị cáo gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc tiếp tục phạm
18
tội. Chúng không phải là những biện pháp trừng trị, trấn áp bị can, bị cáo
hoặc được áp dụng để răn đe người khác, bởi vì chúng không phải là hình
phạt. Về bản chất pháp lý, các BPNC trong luật TTHS có tính phòng ngừa,
được áp dụng để chặn đứng hoặc ngăn ngừa hành vi phạm tội cũng như hành
vi trốn tránh pháp luật của bị can, bị cáo. Áp dụng đúng đắn và kịp thời các
BPNC tạo điều kiện cho việc giải quyết đúng đắn và có kết quả các nhiệm vụ
của TTHS. Ý nghĩa trực tiếp của chúng là tạo điều kiện thuận lợi cho việc làm
rõ sự thật của vụ án hình sự, bảo đảm thực hiện nguyên tắc người có tội phải
chịu trách nhiệm hình sự và ngăn chặn bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội. Việc
quy định những BPNC trong BLTTHS góp phần tích cực vào việc thực hiện
nhiệm vụ bảo vệ sự an toàn và vững mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo
vệ tài sản, tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của công dân; bảo
đảm việc thực hiện dân chủ, tôn trọng và bảo đảm các quyền và tự do của
công dân được Hiến pháp ghi nhận, không để một công dân nào bị hạn chế
các quyền công dân, bị bắt, bị giam, giữ một cách trái pháp luật.
1.1.1.2. Quan niệm về biện pháp bắt người
Biện pháp bắt người có một vị trí quan trọng trong số những BPNC
mà BLTTHS quy định, bởi lẽ đây là BPNC có tính chất cưỡng chế rất nghiêm
khắc, trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến các quyền cơ bản của công dân được
Hiến pháp quy định. Đây là cơ sở pháp lý để nhận thức quyền bất khả về thân
thể của công dân có thể bị tác động trong những trường hợp cần thiết do yêu cầu
của cuộc đấu tranh chống tội phạm và trong khuôn khổ pháp luật quy định.
Bắt người trong TTHS là việc bắt người phạm tội theo các quy định
của pháp luật TTHS. Bắt người trong trường hợp này do chủ thể sử dụng
quyền lực nhà nước nhằm đạt được mục đích tố tụng.
Theo Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách khoa thì:
Bắt là một trong những biện pháp ngăn chặn mà Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án áp dụng khi có căn cứ chứng tỏ
19
bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc
sẽ tiếp tục phạm tội cũng như khi thấy cần thiết để đảm bảo thi
hành án [48].
Trong giáo trình Luật TTHS Việt Nam của trường Đại học Luật Hà
Nội thì:
Bắt người là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự
được áp dụng đối với bị can, bị cáo, người đang bị truy nã và trong
trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang thì áp dụng cả đối với
người chưa bị khởi tố về hình sự nhằm kịp thời ngăn chặn hành vi
phạm tội của họ, ngăn ngừa họ trốn tránh pháp luật, tạo điều kiện
thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự
[41].
Có thể thấy, cả hai cách hiểu như trên về bắt người trong TTHS là
chưa đầy đủ. Theo cách hiểu thứ nhất chưa bao hàm hết mục đích, phạm vi
đối tượng áp dụng của biện pháp này đồng thời cũng không xác định thẩm
quyền quyết định áp dụng, thẩm quyền bắt, không phù hợp với tinh thần các
Điều 79, 80, 81, 82 BLTTHS. Còn theo cách hiểu thứ hai cũng chưa xác định
được thẩm quyền quyết định bắt. Theo tôi, khái niệm bắt người trong Luật
TTHS phải thể hiện đầy đủ bản chất, nội dung, căn cứ áp dụng, mục đích,
thẩm quyền áp dụng, phạm vi áp dụng, đối tượng áp dụng biện pháp này. Với
quan niệm nêu trên, tôi xin đưa ra khái niệm bắt người trong TTHS như sau:
Bắt người là một BPNC trong TTHS do người có thẩm quyền quyết
định áp dụng và thực hiện theo trình tự tố tụng đối với bị can, bị cáo hoặc đối
với người chưa bị khởi tố về hình sự khi có đầy đủ căn cứ theo luật định,
nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa không để họ tiếp tục phạm tội,
tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và bảo đảm việc
thi hành án.
20
Bắt người cũng như các BPNC khác đều là những biện pháp cưỡng
chế tố tụng được thực hiện bằng sức mạnh của quyền lực nhà nước, luôn gắn
liền với sự tác động và hạn chế các quyền tự do cá nhân của đối tượng bị áp
dụng trong TTHS nhằm mục đích chung là ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa
người phạm tội trốn tránh pháp luật hoặc có hành vi gây khó khăn, cản trở
việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự hoặc tiếp tục phạm tội. Do đó
khi thực hiện quyết định bắt cần phải có sự cân nhắc hết sức thận trọng, tuân
thủ chặt chẽ các quy định của pháp luật về căn cứ, trình tự, thủ tục, thẩm
quyền. Với biện pháp này, buộc người bị bắt phải có mặt tại địa điểm quy
định để làm việc với Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán. Biện pháp bắt
người được tính từ thời điểm người có chức vụ theo luật định ra lệnh bắt đến
khi kết thúc là người bị bắt được dẫn giải đến nơi để tạm giữ, tạm giam.
Biện pháp bắt người luôn có quan hệ tác động qua lại với các BPNC
khác. Trong mối quan hệ với các BPNC khác, bắt người thường là tiền đề cho
việc áp dụng các BPNC khác. Ở phương diện quan hệ này có thể nói trong
luật TTHS nếu xác định bắt người là BPNC độc lập có lẽ cũng chỉ nhằm xác
định ranh giới về mặt hình thức của sự tác động đến các quyền tự do cá nhân
của đối tượng bị áp dụng BPNC mà thôi. Nếu nghiên cứu đầy đủ, cụ thể các
quy định của BLTTHS về các BPNC như đối tượng, căn cứ, mục đích cụ thể
của việc áp dụng, chúng ta có thể đưa ra một kết luận chắc chắn rằng sẽ
không có bắt người độc lập (bắt chỉ để bắt) mà thường gắn với một mục đích
nhất định nào đó, từ đó cho thấy bắt người thường là BPNC đi liền trước hoặc
là tiền đề cho việc áp dụng BPNC khác.
Việc quy định biện pháp bắt người trong TTHS thể hiện đường lối,
chính sách của Nhà nước ta trong việc xử lý những hành vi phạm tội. Bắt
người cùng với các BPNC khác góp phần nâng cao hiệu quả quản lý xã hội
bằng pháp luật, là cơ sở pháp lý để cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm
quyền tác động đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân trong
21
những trường hợp cần thiết, nhằm mục đích của TTHS. Mặt khác, việc quy
định biện pháp bắt người còn thể hiện thái độ kiên quyết, triệt để của Nhà
nước trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm.
Quy định và áp dụng biện pháp bắt người có ý nghĩa rất lớn trong thực
tiễn. Việc bắt người sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan tiến hành tố
tụng giải quyết được những nhiệm vụ đặt ra trong các giai đoạn tố tụng một
cách chính xác, nhanh chóng. Thông thường khi thực hiện tội phạm hoặc
ngay cả trường hợp đang chuẩn bị thực hiện tội phạm, người phạm tội đã ít
nhiều nhận thức được những hậu quả mà mình phải gánh chịu, do vậy họ thư-
ờng tính toán những phương án cần thiết để trốn tránh pháp luật hoặc gây khó
khăn cho việc điều tra, xử lý tội phạm mà họ thực hiện. Việc bắt các đối t-
ượng này để hạn chế tự do của họ, làm rõ hành vi phạm tội của họ một cách
khách quan là cần thiết và trong nhiều trường hợp là cấp bách không thể trì
hoãn (trường hợp phạm tội quả tang, khẩn cấp), nó giúp cơ quan có thẩm
quyền không chỉ kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa người có hành vi
phạm tội bỏ trốn mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét
xử và thi hành án.
Việc quy định một cách cụ thể, rõ ràng các trường hợp bắt người về
đối tượng, thẩm quyền, căn cứ, thủ tục bắt là cơ sở pháp lý vững chắc để xử
lý hành vi vi phạm pháp luật khi áp dụng biện pháp bắt người. Việc bắt người
hầu hết đều do người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện,
các quy định của pháp luật TTHS về biện pháp này là những quy định có tính
chất lựa chọn, tức là chỉ áp dụng trong những trường hợp cần thiết, không
phải là biện pháp bắt buộc đối với tất cả tội phạm. Việc bắt người trong thực
tế không chỉ là đòi hỏi của công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình
sự, liên quan trực tiếp đến đối tượng bị áp dụng mà còn ảnh hưởng đến tình
hình an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội. Việc áp dụng BPNC này là một
việc rất phức tạp và hệ trọng. Do đó, để đảm bảo được hiệu quả cao nhất, bảo
22
đảm được sự đồng tình của dư luận xã hội, tạo được niềm tin của quần chúng
nhân dân vào tính đúng đắn của việc áp dụng biện pháp này, việc bắt người
trong TTHS phải được xem xét, cân nhắc, đánh giá một cách thận trọng, đầy
đủ. Khi áp dụng phải đảm bảo được các yêu cầu về chính trị, pháp luật và
nghiệp vụ.
Bắt người đúng pháp luật sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của cuộc đấu
tranh phòng, chống tội phạm, ngăn chặn kịp thời những hành vi phạm tội
cũng như hành vi trốn tránh pháp luật, gây khó khăn cho tiến trình giải quyết
vụ án hình sự, bảo đảm việc thực thi pháp luật của các cơ quan tiến hành tố
tụng. Ngược lại bắt người không đúng pháp luật (không đúng căn cứ áp, thủ
tục, trình tự, thẩm quyền, bắt nhầm, bắt oan, bắt sai...) sẽ gây tác hại to lớn
đến nhiều mặt, không những xâm phạm quyền tự do thân thể của công dân mà
còn làm giảm uy tín của Nhà nước và các cơ quan bảo vệ pháp luật, gây
hoang mang trong dư luận, dễ bị các thế lực phản động, thù địch trong và
ngoài nước lợi dụng để xuyên tạc nói xấu chế độ, chống phá lại Nhà nước ta.
Với ý nghĩa và tầm quan trọng to lớn của việc bắt người nêu trên nên
Nhà nước ta đã ban hành một hệ thống văn bản pháp luật TTHS quy định chi
tiết về vấn đề này. Quá trình tổ chức thực hiện các văn bản trên đây đã phát huy
được tác dụng to lớn trong cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm.
Tuy nhiên, việc vận dụng các quy định nói trên trong một thời gian dài mà ít
có sự thay đổi đã không tránh khỏi những hạn chế, vướng mắc do sự thay đổi
của tình hình kinh tế - xã hội và những diễn biến phức tạp của tình hình tội
phạm. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của cuộc đấu tranh chống và phòng
ngừa tội phạm cũng như yêu cầu của việc tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa và việc bảo đảm các quyền dân chủ của công dân, kế thừa có chọn lọc các
quy định về bắt người trong các văn bản pháp luật trước đây, nhất là quy định
của BLTTHS năm 1988, BLTTHS năm 2003 quy định ba trường hợp bắt
người sau:
23
- Bắt bị can, bị cáo để tạm giam;
- Bắt người trong trường hợp khẩn cấp;
- Bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã.
Với ba trường hợp nêu trên là quy định chung để khi có căn cứ thuộc
trường hợp nào thì cơ quan, người có thẩm quyền do luật định có thể áp dụng.
Song căn cứ vào Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và
Ủy ban nhân dân, các quy định đối với người chưa thành niên, các quy định
đối với người nước ngoài, khi chủ thể thuộc các trường hợp này còn phải vận
dụng thêm các quy định mang tính cá biệt để áp dụng BPNC cũng như áp
dụng các quy định trong BLTTHS được đúng đắn. Việc áp dụng các biện
pháp bắt cũng phải quán triệt các nguyên tắc chung, các chủ trương, đường lối
chỉ đạo của Đảng và Nhà nước trong mỗi giai đoạn xây dựng và phát triển nền
kinh tế - xã hội của đất nước ta.
1.1.2. Biện pháp bắt người đang bị truy nã
1.1.2.1. Khái niệm biện pháp bắt người đang bị truy nã
Để đảm bảo tính chính xác, khách quan, nhanh chóng và xử lý nghiêm
minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, với phương châm "không để lọt tội
phạm, không làm oan người vô tội", các cơ quan và người có thẩm quyền theo
quy định của BLTTHS được phép áp dụng BPNC quy định tại Điều 79
BLTTHS. Nội dung của điều luật là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc bắt
người trong đó có trường hợp bắt người đang bị truy nã.
Mặc dù Điều 82 BLTTHS quy định tương đối đầy đủ việc bắt người
đang bị truy nã nhưng không giải thích thế nào là bắt người đang bị truy nã.
Về lịch sử, truy nã là một tập quán phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới
xuất phát từ yêu cầu bảo vệ cuộc sống yên ổn của cộng đồng và trừng trị kẻ
gây ra tội ác. Truy nã tội phạm từ lâu đã gắn liền và trở thành một bộ phận
quan trọng trong cuộc đấu tranh chống tội phạm ở nước ta. Tuy vậy do nhiều
24
nguyên nhân khác nhau, vấn đề pháp lý và lý luận còn nhiều hạn chế, chưa
tương xứng với tầm quan trọng mà BPNC này mang lại. Do vậy, việc tìm
hiểu, làm sáng tỏ bản chất khái niệm truy nã tội phạm đang đặt ra trước yêu
cầu hoàn thiện lý luận về truy nã tội phạm.
Bằng cách hiểu thông thường, truy nã tội phạm được coi là hoạt động
"Truy lùng, dò theo để bắt" [51]. Với quan niệm này, truy nã tội phạm được
coi như việc truy đuổi, tìm kiếm, tầm nã để bắt những kẻ gian phi không để
chúng trốn thoát. Như vậy, ý tưởng ban đầu về truy nã tội phạm có ý nghĩa là
những hành vi tự vệ, có tính tự phát của cộng đồng mà chưa phản ánh tính
pháp lý với tính chất là một hoạt động thực thi quyền lực nhà nước để bắt giữ
người phạm tội. Hiện nay pháp luật nhiều nước trên thế giới và kể cả ở nước
ta cho phép bất kỳ người nào cũng có quyền bắt giữ người đang bị truy nã đều
bắt nguồn từ quan niệm, tập quán đó.
Cùng với những tiến bộ của văn minh nhân loại và sự phát triển của
khoa học pháp lý, truy nã tội phạm đã dần trở thành vấn đề pháp lý gắn với
hoạt động bảo vệ pháp luật của những cơ quan chức năng. Với quan điểm nêu
trên, các nhà nghiên cứu cũng đã xuất phát từ lý luận pháp lý, khoa học điều
tra tội phạm để xây dựng nên những khái niệm về truy nã tội phạm ngày càng
chính xác hơn.
Theo Từ điển Luật học thì:
Truy nã tội phạm là hoạt động tố tụng hình sự - nghiệp vụ
của lực lượng Công an nhân dân trong đấu tranh phòng, chống tội
phạm nhằm phát hiện, tìm kiếm, bắt giữ người có hành vi phạm tội
đang lẩn trốn theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền, phục vụ
cho công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án phạt tù hoặc tử
hình [48].
25
Theo Từ điển nghiệp vụ phổ thông: "Truy nã tội phạm là tìm bắt kẻ
phạm tội đang lẩn trốn mà chưa biết kẻ đó trốn ở đâu theo lệnh truy nã của cơ
quan có thẩm quyền" [44].
Theo Từ điển bách khoa Công an nhân dân Việt Nam thì:
Truy nã tội phạm là truy bắt người phạm tội đang lẩn trốn
theo quyết định truy nã của cơ quan có thẩm quyền. Truy nã tội
phạm là một hoạt động điều tra trong tố tụng hình sự, được thực
hiện bằng cách áp dụng tổng hợp các biện pháp công tác, nhằm phát
hiện, bắt giữ bị can, bị cáo, người bị kết án phạt tù hoặc tử hình,
phạm nhân đang lẩn trốn phục vụ cho công tác điều tra, truy tố, xét
xử và thi hành án [43].
Còn theo tác giả Đỗ Hùng thì "Truy nã tội phạm là một hoạt động nghiệp
vụ pháp lý rất quan trọng và là một bộ phận không thể thiếu được trong cuộc
đấu tranh chống tội phạm nhằm phát hiện, bắt giữ người phạm tội bỏ trốn,
phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử tội phạm và thi hành án phạt tù"
[21].
Trong Giáo trình truy nã - truy tìm của trường Đại học Cảnh sát nhân
dân thì: "Truy nã tội phạm là một công tác nghiệp vụ của cơ quan Công an
được tiến hành bằng mọi biện pháp cần thiết nhằm bắt lại những kẻ đang trốn
tránh pháp luật theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền" [40].
Theo Giáo trình Luật TTHS, trường Đại học Luật Hà Nội thì: "Người
đang có lệnh truy nã là người thực hiện hành vi phạm tội đã có lệnh bắt hoặc
đã bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang thi hành án phạt tù tại trại giam thì
bỏ trốn" [41].
Mỗi quan niệm nêu trên tuy có chứa đựng một số yếu tố của BPNC
bắt người đang bị truy nã nhưng chưa thể hiện tập trung, đầy đủ nhất những
yếu tố cấu thành, đặc trưng và tính chất của BPNC này. Nhằm hoàn thiện lý
26
luận về BPNC bắt người đang bị truy nã cần có một khái niệm hoàn chỉnh,
đáp ứng những nhiệm vụ nghiên cứu mà luận văn đã đề ra. Qua nghiên cứu
điều luật và quá trình thực hiện Luật TTHS, theo tôi biện pháp bắt người đang
bị truy nã được hiểu như sau:
Bắt người đang bị truy nã là một trường hợp của BPNC bắt trong
Luật TTHS Việt Nam do CQĐT áp dụng bằng toàn bộ các biện pháp pháp
luật và nghiệp vụ nhằm phát hiện, bắt giữ bị can, bị cáo, người bị kết án phạt
tù hoặc tử hình, phạm nhân khi những người này bỏ trốn hoặc không họ biết
đang ở đâu nhằm phục vụ cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án
hình sự.
1.1.2.2. Mục đích, ý nghĩa của việc quy định và áp dụng biện pháp
bắt người đang bị truy nã
Yêu cầu của cuộc đấu tranh chống tội phạm ở các nước nói chung và
ở nước ta nói riêng là phòng ngừa không để tội phạm xảy ra, phát hiện tội
phạm và xử lý nghiêm minh người phạm tội trước pháp luật, giáo dục, cải tạo
người phạm tội và đưa họ tái hòa nhập cộng đồng. Vì thế, người phạm tội còn
lẩn trốn ngoài vòng pháp luật thì vẫn còn điều kiện và tiếp tục gây ra những
hậu quả xấu đối với xã hội và làm cho các mặt của hoạt điều tra, truy tố, xét
xử và thi hành án bị kéo dài, bế tắc đồng thời gây ra những tốn kém đáng kể,
việc truy nã càng thêm khó khăn, phức tạp. Vì thế mục đích của BPNC bắt
người đang bị truy nã là phát hiện và bắt giữ người đang bị truy nã bỏ trốn
hoặc không biết đang ở đâu theo quyết định tố tụng của CQĐT để tiếp tục
điều tra, xác định hành vi phạm tội của họ, truy tố, xét xử, tiếp tục thi hành
hình phạt và cải tạo giáo dục họ, đưa họ tái hòa nhập với cộng đồng xã hội.
Quá trình giải quyết một vụ án hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng
phải tiến hành nhiều hành vi tố tụng khác nhau nhằm thu thập chứng cứ
chứng minh tội phạm và người phạm tội; áp dụng hình phạt và buộc người đã
thực hiện hành vi phạm tội phải chịu hình phạt hoặc các chế tài pháp lý khác.
27
Quá trình này không những đòi hỏi sự hoạt động tích cực của người tiến hành
tố tụng mà còn là những hoạt động của những người tham gia tố tụng khác
với những quyền và nghĩa vụ nhất định. Tuy vậy trên thực tế không phải bao
giờ và khi nào bị can, bị cáo, người bị kết án phạt tù cũng thực hiện nghĩa vụ
của mình một cách tự giác; nhiều trường hợp họ cố tình trốn tránh hòng thoát
khỏi sự trừng trị của pháp luật. Do đó, để ngăn chặn và phòng ngừa họ không
thực hiện nghĩa vụ, việc BLTTHS quy định và cho phép các cơ quan tiến
hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng, những người khác theo luật định
được áp dụng BPNC bắt người đang bị truy nã là hết sức cần thiết và có ý
nghĩa lớn trong việc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm ở nước ta thể
hiện trên các khía cạnh sau:
Một là, quy định và áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã
trong TTHS Việt Nam bảo đảm cho các hoạt động của các cơ quan tiến hành
tố tụng được thuận lợi; góp phần quan trọng, nâng cao hiệu quả của công
cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm
Sau khi thực hiện hành vi phạm tội, thông thường người phạm tội đã ý
thức rất rõ về trách nhiệm hình sự mà mình phải gánh chịu. Chính vì vậy mà
bị can, bị cáo, người bị kết án phạt tù sau khi phạm tội, đang chấp hành hình
phạt tù luôn tìm đủ mọi cách, lợi dụng sự sơ hở trong công tác quản lý, canh
gác, các giai đoạn tố tụng, các quy định của pháp luật để trốn tránh được sự
phát hiện và trừng phạt của pháp luật. Việc áp dụng biện pháp bắt người đang
bị truy nã là cần thiết nhằm ngăn chặn kịp thời và có hiệu quả hành vi bỏ trốn,
gây khó khăn cho việc xử lý người phạm tội là một tất yếu khách quan.
Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình, CQĐT, Viện kiểm sát
và Tòa án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án
một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định
có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình
tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Trách nhiệm chứng minh
28
tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó nếu như người phạm
tội còn lẩn trốn ngoài vòng pháp luật không những chúng còn tiếp tục tụ tập
đồng bọn để gây án, thậm chí phạm tội lần sau còn nguy hiểm, nghiêm trọng
hơn so với lần trước mà những phương tiện, công cụ gây án, tài sản do người
phạm tội sử dụng và chiếm đoạt được chúng luôn tìm mọi cách che giấu, phân
tán. Nếu sớm bắt lại được người đang bị truy nã, thu hồi nhanh chóng những
tài sản, đồ vật, phương tiện có liên quan đến hành vi phạm tội sẽ có tác dụng
phòng ngừa ngăn chặn trực tiếp những hành vi phạm tội, thúc đẩy quá trình
điều tra xử lý tội phạm, thi hành án, góp phần bảo vệ trật tự pháp luật. Mặt
khác, việc người có hành vi phạm tội bỏ trốn làm cho một lượng lớn các vụ
án bị rơi vào tình trạng khó khăn, bế tắc, câu dầm.
Hai là, quy định và áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã thể
hiện sự chuyên chính của Nhà nước xã hội chủ nghĩa trong việc đấu tranh
chống tội phạm
Tội phạm với bản chất là hành vi nguy hiểm cho xã hội, gây ra hoặc đe
dọa gây ra những thiệt hại cho những quan hệ xã hội quan trọng được Luật hình
sự bảo vệ. Tội phạm trực tiếp hoặc gián tiếp xâm hại đến sự bền vững và ổn định
của chế độ nhà nước, chế độ kinh tế - chính trị và xã hội, đến tính mạng, sức
khỏe, tự do, danh dự, nhân phẩm và tài sản của công dân cũng như các quy tắc
của cuộc sống xã hội - xã hội chủ nghĩa. Do đó, Nhà nước ta coi việc đấu tranh
phòng, chống tội phạm, ngăn chặn kịp thời, xử lý nghiêm minh nhằm tiến tới
loại trừ hiện tượng phạm tội ra khỏi đời sống cộng đồng là một trong những
nhiệm vụ quan trọng nhất phải được tiến hành một cách kiên quyết, triệt để,
không khoan nhượng. Việc quy định và đảm bảo thực hiện BPNC bắt người
đang bị truy nã trong BLTTHS là biểu hiện cụ thể của các quan điểm nêu trên
của Nhà nước.
29
Ba là, Việc quy định và áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã
là góp phần bảo đảm sự dân chủ, tôn trọng các quyền cơ bản của công dân,
thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa
Hiến pháp 1992 tại Điều 50 ghi nhận rõ: "Ở nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và
xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong
Hiến pháp và luật" [30]. Cũng tại Điều 71 Hiến pháp 1992 quy định:
Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp
luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không
ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định
hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm
tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người phải đúng pháp luật [30].
Quyết định bắt người đang bị truy nã tác động trực tiếp đến quyền tự
do về thân thể, tính mạng, sức khỏe của công dân, một trong các quyền nhân
thân quan trọng nhất của con người được quy định trong Hiến pháp. Vì vậy
lực lượng tiến hành bắt và tham gia bắt cần phải có sự thận trọng khi quyết
định việc bắt. Việc bắt đúng pháp luật sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của
công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, ngăn chặn kịp thời hành vi trốn
tránh pháp luật, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án của người phạm tội,
bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được thuận lợi.
Quy định và áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã không chỉ
đơn thuần là tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
thực hiện tốt nhiệm vụ theo chức năng của mình mà còn nhằm đảm bảo sự tôn
trọng và thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đã được
quy định trong Hiến pháp. Điều này thể hiện ở chỗ việc áp dụng hay không áp
dụng BPNC bắt người đang bị truy nã không phải xuất phát từ ý muốn chủ
quan, bởi sự áp đặt từ phía cơ quan Nhà nước có thẩm quyền mà là từ các quy
định của pháp luật, đáp ứng sự đòi hỏi của thực tiễn về các phương diện như:
30
sự cần thiết phải áp dụng, thay đổi, hủy bỏ, đối tượng áp dụng, căn cứ áp
dụng, thẩm quyền áp dụng, trình tự thủ tục bắt... trước hết là xuất phát từ sự
tôn trọng các quyền và lợi ích hợp pháp của con người (bị can, bị cáo bỏ
trốn). Mọi trường hợp thực hiện không đúng các quy định pháp luật trong
việc áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã đều phải phát hiện và khắc
phục kịp thời. Mọi hành vi trái pháp luật khi áp dụng gây hậu quả nghiêm
trọng về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân phải bị xử lý
nghiêm minh.
Như vậy, xét một cách toàn diện, quy định và đảm bảo áp dụng
nghiêm chỉnh biện pháp bắt người đang bị truy nã trong TTHS Việt Nam là
sự thể hiện tập trung và rõ nét nhất tính dân chủ, ưu việt của chế độ xã hội chủ
nghĩa của Nhà nước ta.
1.1.2.3. Nguyên tắc áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã
Khi thực hiện các hoạt động tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng và
người tiến hành tố tụng ngoài việc phải tuân theo các nguyên tắc được quy
định trong BLTTHS như nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền cơ bản của
công dân; nguyên tắc đảm bảo quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công
dân; nguyên tắc không ai có thể bị coi là có tội nếu chưa có bản án kết tội đã
có hiệu lực pháp luật của Tòa án; nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường
thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan và nguyên tắc bảo
đảm quyền được bồi thường của người bị thiệt hại do cơ quan hoặc người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng... còn phải tuân theo những nguyên tắc đặc thù
áp dụng đối với hoạt động bắt người đang bị truy nã.
Nguyên tắc áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã là những
quan điểm, tư tưởng chỉ đạo trong quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện bắt
người bị truy nã. Những nguyên tắc này là kim chỉ nam cho hoạt động bắt người
đang bị truy nã. Việc thực hiện đúng hay sai có ảnh hưởng trực tiếp tới uy tín
của Đảng và Nhà nước, có liên quan đến sinh mệnh chính trị của mỗi con
31
người. Vì vậy yêu cầu đặt ra là trong quá trình tiến hành áp dụng biện pháp
bắt người đang bị truy nã phải đúng người, đúng tội, đúng chính sách pháp
luật quy định. Để đảm bảo các yêu cầu đó cần thiết phải quán triệt các nguyên
tắc sau:
Một là, truy nã đúng người, thông báo đúng hành vi phạm tội của
người lẩn trốn.
Công tác truy nã người phạm tội lẩn trốn là một trong những hoạt
động của cơ quan bảo vệ pháp luật thực hiện trên cơ sở quy định của pháp
luật TTHS, có liên quan trực tiếp đến quyền và những lợi ích hợp pháp của
công dân và cũng là những yêu cầu quan trọng bảo đảm để công tác truy nã
được đúng đắn và đem lại kết quả. Vì vậy, việc thực hiện đúng quy định của
pháp luật trong công tác truy nã là một nguyên tắc quan trọng xuyên suốt
trong công tác truy nã. Cơ quan ra QĐTN phải thông báo đúng người, đúng
tội trạng của người có hành vi phạm tội lẩn trốn. Cần phải đảm bảo đảm
những yếu tố để xác định sự đồng nhất giữa người bị bắt và người đang bị
truy nã.
Ra QĐTN đúng đối tượng là khi có đủ thông tin cần thiết như: tên,
tuổi, địa chỉ, đặc điểm nhận dạng, ảnh để trên cơ sở đó, mọi người bằng trực
quan khi gặp người có QĐTN cũng có thể xác định rõ ràng người bị bắt đúng
là người đang có QĐTN. Khi QĐTN một con người cụ thể phải đảm bảo xác
định rõ người đó đã có hành vi phạm tội theo quy định của Bộ luật Hình sự
(BLHS), đã bị các cơ quan có thẩm quyền khởi tố là bị can vì tội danh đó
hoặc đã bị kết án tù, có án tử hình đang bị tạm giam, phạm nhân đang thi hành
án bỏ trốn. Những người tuy có dấu hiệu phạm tội nhưng họ chưa bị khởi tố
là bị can, những người đang bị tạm giữ bỏ trốn, nếu xét thấy cần thiết phải
truy nã thì phải xem xét có đủ yếu tố để khởi tố họ theo tội danh "Trốn khỏi
nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử" theo Điều 311
BLHS năm 1999 sau đó mới ra QĐTN.
32
Về hành vi lẩn trốn: Người có hành vi phạm tội lẩn trốn tức là hiện tại
không biết họ đang có mặt ở đâu. Người có hành vi phạm tội (như đã nêu
trên) lẩn trốn bao gồm: Những người đang bị tạm giam, đang chấp hành hình
phạt nhưng đã trốn khỏi nơi giam, những người trốn thi hành lệnh bắt giữ của
những cơ quan có thẩm quyền hoặc đang bị dẫn giải trên đường mà bỏ trốn.
Việc lẩn trốn của những người trên đây đã trực tiếp gây khó khăn cho
việc giam giữ, cải tạo thi hành án của những cơ quan chức năng. Cần lưu ý
rằng để xác định một người nào đó có phải cố ý lẩn trốn hay không cần phải
có sự xác minh. Nếu có căn cứ cho rằng việc họ không có mặt tại một địa
điểm nào đó theo lệnh, quyết định của CQĐT, truy tố, xét xử nhưng qua xác
minh của cơ quan chức năng họ có lý do rõ ràng như: Đi công tác, khám chữa
bệnh, thăm người thân... thì chưa cần thiết phải truy nã. Chỉ ra QĐTN khi có
đủ căn cứ chứng tỏ người có hành vi phạm tội đã cố tình trốn tránh pháp luật,
làm cho việc thi hành các quyết định TTHS không có kết quả. Cần khắc phục
tình trạng khi thấy đối tượng không đến thi hành án hình sự hoặc không có
mặt tại địa điểm bắt buộc đã vội vã ra quyết định hoặc yêu cầu truy nã hoặc vì
lý do hết thời hạn điều tra, ngại truy bắt, hoặc lấy việc đối tượng vắng mặt để
làm căn cứ tạm đình chỉ điều tra.
Hai là, khi bắt người đang bị truy nã phải thận trọng, chính xác, linh
hoạt và an toàn, nếu phát hiện sai phải sửa ngay.
Tổ chức công tác truy nã thực chất là một hoạt động điều tra theo kế
hoạch, với mục đích nhằm tìm kiếm bắt giữ người có hành vi phạm tội lẩn
trốn. Vì vậy tổ chức công tác truy nã phải thận trọng, chính xác, linh hoạt và
an toàn. Nguyên tắc này đòi hỏi những cơ quan chức năng và quần chúng
nhân dân trước hết phải nêu cao tinh thần cảnh giác, kiên quyết phát hiện bắt
giữ bọn tội phạm lẩn trốn, phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, chấp hành pháp
luật trong bắt giữ người đang bị truy nã nói riêng. Phải luôn luôn chủ động
tích cực, tấn công tội phạm, khi phát hiện đối tượng truy nã cần tổ chức bắt
33
giữ chúng kịp thời, không để đối tượng có điều kiện tiếp tục lẩn trốn. Tuy
nhiên không vì thế mà chủ quan, nóng vội trong những trường hợp việc nhận
dạng, nhận diện đối tượng còn ghi ngờ cần phải kiểm tra, xác minh trước khi
bắt. Thực tiễn cho thấy đối tượng lẩn trốn đã sử dụng thủ đoạn ngụy trang,
che giấu đặc điểm nhận dạng, thay đổi hình dáng. Ngược lại có những trường
hợp ngẫu nhiên trùng hợp giữa đặc điểm nhận dạng đối tượng truy nã với một
người nào đó, nhất là trong trường hợp anh chị em sinh đôi hoặc những người
có khuyết tật nào đó trên cơ thể tương tự đối tượng truy nã như đi cà nhắc, rỗ
mặt, đeo kính cận, cụt chân, tay... Trong trường hợp đó trước khi bắt giữ cần
kết hợp, kiểm tra nhiều thông tin như: Đặc điểm nhận dạng, thái độ, địa điểm
xuất hiện... của đối tượng nghi vấn. Có như vậy mới nhanh chóng loại trừ
những sự trùng hợp ngẫu nhiên, khẳng định đối tượng để có những quyết định
chính xác. Với những trường hợp ghi ngờ, chưa thể xác định ngay có phải là
đối tượng truy nã hay không cần có biện pháp giám sát, theo dõi chặt chẽ, tìm
cách thông báo với cơ quan, đơn vị có trách nhiệm để xác định thật chính xác,
nếu đúng đối tượng truy nã thì phải kịp thời bắt giữ.
Sau khi bắt giữ người đang bị truy nã hoặc tiếp nhận người bị bắt, các
cơ quan có thẩm quyền phải áp dụng các biện pháp kiểm tra, xác minh ngay
như: Đối chiếu, xác định lại người bị bắt với Quyết định, lệnh truy nã, lấy lời
khai, kiểm tra người, báo cáo cho cơ quan đã ra Quyết định, Lệnh truy nã...
Khi đã xác định chính xác người bị bắt là đối tượng đang bị truy nã mới áp
dụng các biện pháp cưỡng chế cần thiết theo luật định như khám xét, giam
giữ, dẫn giải... Trường hợp đã bắt nhưng phát hiện còn ghi ngờ phải áp dụng
những biện pháp tiếp tục xác minh ngay và phải tuân thủ quy định của pháp
luật đảm bảo quyền tự do cho họ. Tuyệt đối không xâm phạm đến tính mạng,
sức khỏe của người bị bắt trong quá trình giam hoặc giữ họ. Trường hợp tiếp
nhận người bị bắt mà họ đã có những thương tích trước đó hoặc có lý do về
sức khỏe phải lập hồ sơ chặt chẽ, xác định rõ lý do.
Ba là, quyết định truy nã (Lệnh truy nã) phải được chấp hành nghiêm chỉnh.
34
QĐTN hay Lệnh truy nã là văn bản pháp lý trong hoạt động TTHS do
cơ quan có thẩm quyền ban hành, được áp dụng đối với:
- Bị can (người đã bị khởi tố về hình sự) bỏ trốn hoặc không biết đang
ở đâu;
- Bị cáo (người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử) bỏ trốn hoặc
không biết đang ở đâu;
- Người bị kết án tù hoặc tử hình (người đã bị Tòa án kết án tù có thời
hạn, tù chung thân hoặc tử hình đang chờ thi hành án - có thể đang bị tạm
giam hoặc tại ngoại) bỏ trốn;
- Phạm nhân (người đang chấp hành hình phạt tù trong các trại giam,
trại tạm giam và nhà tạm giữ) trốn trại [5].
Quyết định truy nã là cơ sở pháp lý để bắt giữ kịp thời người có hành
vi phạm tội lẩn trốn, đảm bảo thi hành pháp luật, đồng thời nhằm phát huy
sức mạnh tổng hợp của các lực lượng và biện pháp để truy nã tội phạm có kết
quả. Bộ Công an đã quy định quyết định, lệnh truy nã là mệnh lệnh chiến đấu
với mọi tập thể và cá nhân cán bộ, chiến sĩ Công an. Điều đó có nghĩa là tất cả
các lực lượng, các đơn vị, các cấp Công an và cán bộ, chiến sĩ khi nhận được
quyết định, lệnh truy nã đều phải thi hành và tạo những điều kiện cần thiết để
truy bắt bọn tội phạm lẩn trốn. Tùy theo chức năng, nhiệm vụ của mình, các
đơn vị và cá nhân cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân đều có trách nhiệm tổ
chức hoặc tham gia công tác truy nã tội phạm.
Với ý nghĩa như vậy quyết định, lệnh truy nã không chỉ đảm bảo thực
hiện bằng quyền lực nhà nước mà còn thể hiện tính kỷ luật cao, phù hợp với
tính chất vũ trang hoạt động của Công an nhân dân. Mọi biểu hiện thờ ơ, thiếu
trách nhiệm hoặc ỷ lại lẫn nhau trong việc thi hành quyết định, lệnh truy nã
đều có thể hạn chế đến kết quả công tác truy nã, vi phạm nguyên tắc công tác
của ngành Công an.
35
Bốn là, khi bắt được đối tượng, hoặc đối tượng đã chết, đã đầu thú, đã
được thanh loại, cơ quan đó phải ra quyết định đình nã và gửi tới những nơi
đã gửi quyết định truy nã.
Pháp luật TTHS đã quy định rõ:
Trong thời hạn 48 giờ kể từ khi bắt được, tiếp nhận đối
tượng truy nã ra đầu thú, cơ quan đã ra quyết định truy nã phải ra
quyết định đình nã và gửi quyết định đình nã đó đến những nơi đã
gửi quyết định truy nã, thông báo trên các phương tiện thông tin đại
chúng và niêm yết ở những nơi công cộng để mọi người biết [5].
Nếu như QĐTN là văn bản pháp lý đánh dấu sự kiện bắt đầu truy nã
một con người thì quyết định đình nã là văn bản kết thúc truy nã đối với con
người đó. Việc thực hiện tốt nguyên tắc này, thể hiện tinh thần trách nhiệm
đến cùng khi truy nã một đối tượng cụ thể, tránh những lãng phí về sức người
và kinh phí, giúp cho công tác truy nã tội phạm được khách quan, thận trọng,
đảm bảo tính thống nhất trong việc thi hành pháp luật cũng như tạo điều kiện
thuận lợi trong theo dõi, kiểm tra đánh giá hiệu quả công tác truy nã người có
hành vi phạm tội. Cần tránh tình trạng một số đơn vị, cá nhân chỉ quan tâm
đến việc ra quyết định, lệnh, phổ biến quyết định, lệnh truy nã mà xem
thường việc ra và phổ biến quyết định đình nã. Đây là một trong những
nguyên nhân làm cho số lượng đối tượng truy nã tăng lên giả tạo hoặc gây
nên những lãng phí không cần thiết.
Năm là, nghiêm cấm dùng quyết định truy nã thay lệnh bắt người
trong những trường hợp khác hoặc làm những việc sai trái pháp luật.
Pháp luật TTHS đã quy định rất chặt chẽ và phân biệt các trường hợp bắt
khác nhau như: Bắt người phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã, bắt
người trong trường hợp khẩn cấp; bắt bị can, bị cáo để tạm giam... Tương ứng
với các trường hợp bắt như vậy, thì các căn cứ thủ tục, thẩm quyền, ra lệnh
trong từng trường hợp cũng khác nhau. Đối với trường hợp bắt người phạm
36
pháp quả tang và người đang bị truy nã, mọi công dân đều có quyền bắt và
tước vũ khí của người bị bắt. Do vậy, việc sử dụng quyền, lạm quyền để ra
quyết định, lệnh truy nã để thay lệnh bắt người chẳng những vi phạm pháp luật
mà còn kéo theo những hậu quả khác như oan sai, sót lọt, vi phạm quyền tự do
của công dân...
Trong thực tiễn hoạt động TTHS, đã có những trường hợp vì những lý
do khác nhau như: Ngại làm thủ tục (lệnh bắt); để khép kín hồ sơ, nôn nóng
muốn bắt nhanh... Đã có một số cá nhân hoặc đơn vị công an đã lạm quyền sử
dụng quyết định, lệnh truy nã để thay thế lệnh bắt như: dùng quyết định, lệnh
truy nã thay lệnh bắt khẩn cấp hoặc để đe dọa đối tượng; hoặc chạy theo
thành tích... đều không đúng với tinh thần nguyên tắc của công tác truy nã tội
phạm. Nguyên tắc này phải được quán triệt trong toàn bộ hoạt động TTHS nói
chung và trong hoạt động điều tra tội phạm nói riêng.
Sáu là, sử dụng tổng hợp sức mạnh các lực lượng, các tổ chức, các
ngành và công dân trong công tác truy nã tội phạm.
Sự phối hợp này không chỉ là trách nhiệm dựa trên cơ sở pháp luật,
bổn phận của mỗi công dân trước sự yên ổn của cộng đồng mà là từ yêu cầu
đòi hỏi của công tác truy nã. Lực lượng Công an nhân dẫn phải chủ động làm
nòng cốt để tập hợp, phối hợp các lực lượng, các ngành và công dân theo kế
hoạch thống nhất nhằm phát hiện, bắt giữ đối tượng truy nã. Thông tin về đối
tượng truy nã phải được thường xuyên thông báo công khai trên các phương
tiện thông tin đại chúng, đặc biệt ở địa bàn công cộng để nhân dân phát hiện
truy bắt. Hoạt động truy nã tội phạm phải đảm bảo thông suốt, nhịp nhàng
trong tất cả các khâu, các bước, các hoạt động cụ thể. Các lực lượng phải phối
hợp sử dụng đồng bộ các biện pháp nghiệp vụ trong kế hoạch và sự chỉ đạo
thống nhất. CQĐT và các lực lượng có liên quan phải tập trung điều tra, xác
minh thu nhập tài liệu chứng cứ, truy bắt ngay đối tượng trốn để hạn chế thấp
nhất đối tượng phạm tội bỏ trốn. Cơ quan điều tra phải phối hợp chặt chẽ với
37
Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân đẩy nhanh tiến độ điều tra, giải
quyết những vụ án đang thụ lý, thống nhất quan điểm về áp dụng hoặc thay
đổi BPNC, khẩn trương đưa ra truy tố xét xử và thi hành án, không để kéo
dài, để đối tượng trốn trong giai đoạn truy tố, xét xử, thống nhất áp dụng chính
sách với đối tượng trốn ra đầu thú. Tất cả cán bộ, chiến sĩ phải nêu cao tinh
thần trách nhiệm để phát hiện, bắt giữ kịp thời đối tượng truy nã. Tránh tư
tưởng ỷ lại lẫn nhau hoặc ngại khó, ngại khổ, thậm chí sợ sệt khi truy nã đối
tượng.
Việc quán triệt và thực hiện những nguyên tắc nêu trên nhằm đảm bảo
cho công tác truy nã tội phạm được chính xác, có hiệu quả, có tổ chức chặt
chẽ, thống nhất tạo sức mạnh tổng hợp tấn công tội phạm cả về tư tưởng lẫn
hành động.
1.1.2.3. Đặc điểm của biện pháp bắt người đang bị truy nã
Mục đích của hoạt động truy nã là tiến hành tìm kiếm, xác định phát
hiện người có hành vi phạm tội lẩn trốn còn mục đích của công tác điều tra là
chứng minh tội phạm... Truy nã người phạm tội lẩn trốn là một loại hình hoạt
động cụ thể trong quá trình điều tra tội phạm vừa chứa đựng những đặc trưng
của công tác điều tra vừa mang đặc điểm riêng. Sự phân biệt nêu trên làm cơ
sở xác định đặc điểm của hoạt động truy nã cũng như sự giống và khác nhau
giữa hoạt động truy nã và hoạt động điều tra. Ngoài những đặc điểm chung
của công tác điều tra tội phạm, công tác truy nã còn mang những đặc điểm
riêng đó là:
- Công tác truy nã tội phạm vừa là hoạt động tố tụng hình sự được
tiến hành công khai, thông báo cho mọi công dân biết, nhưng trong tổ chức
công tác truy nã phải sử dụng các hoạt động nghiệp vụ bí mật.
Đặc điểm này thể hiện hình thức tiến hành công tác truy nã tội phạm,
xét trên những phương diện của những biện pháp, lực lượng, phương tiện tiến
hành. Tính công khai của công tác truy nã tội phạm thể hiện ở chỗ nó được
38
quy định cụ thể, rõ ràng trong các văn bản, quy phạm pháp luật của Nhà nước.
Với tính chất công khai, công tác truy nã có thể và cần sử dụng các nguồn tài
liệu, lực lượng, phương tiện, biện pháp công khai như: kiểm tra hành chính,
tuần tra kiểm soát, bắt, khám xét, hỏi cung... Mọi hoạt động trong quá trình
tiến hành công tác truy nã tội phạm một mặt được đảm bảo thực hiện bằng
pháp luật, nhưng đồng thời chịu sự giám sát của Viện kiểm sát nhân dân. Kết
quả công tác truy nã tội phạm và những tài liệu, chứng cứ thu thập được có
giá trị chứng minh tội phạm, xử lý kẻ phạm tội trước pháp luật.
Biện pháp trinh sát với những hoạt động nghiệp vụ bí mật trong công
tác truy nã trước hết đó là một yêu cầu khách quan do thủ đoạn lẩn trốn tinh
vi của đối tượng và những khó khăn, nguy hiểm trong quá trình truy bắt
chúng, mặt khác còn thể hiện tính chủ động, tính sáng tạo trong việc sử dụng
tổng hợp các lực lượng, phương tiện và biện pháp truy nã.
Nội dung những hoạt động bí mật được xác định trên cơ sở mục đích
tìm kiếm, phát hiện, bắt giữ người phạm tội lẩn trốn. Đây hoạt động quan
trọng đặc biệt, chủ yếu do lực lượng trinh sát tiến hành, nó giống với hoạt
động trinh sát và phối hợp hoạt động trinh sát với hoạt động điều tra tội phạm
theo Luật TTHS là hình thức. Phương pháp sử dụng các lực lượng, phương
tiện, chiến thuật trinh sát phải phù hợp với tính chất, đặc điểm của đối tượng.
Hoạt động nghiệp vụ trinh sát để truy nã người phạm tội lẩn trốn tuy không
chịu sự giám sát của Viện Kiểm sát nhân dân, không bị ràng buộc về thời hạn,
nhưng cần phải tuân thủ các nguyên tắc nghiệp vụ của Bộ Công an quy định,
đảm bảo tính chính xác, nhanh chóng khẩn trương và có hiệu quả. Thực tế
cho thấy hoạt động trinh sát chiếm vị trí quan trọng trong công tác truy nã,
đặc biệt trong những trường hợp người phạm tội đã lẩn trốn lâu hoặc đối
tượng sử dụng những thủ đoạn tinh vi để lẩn trốn hoặc khi bắt giữ những tên
tội phạm nguy hiểm, ngoan cố có sử dụng vũ khí. Nhưng cần chú ý, dù có tác
dụng và quan trọng đến đâu thì những thông tin tài liệu thu thập được từ việc
39
tiến hành các hoạt động nghiệp vụ bí mật trong công tác truy nã vẫn cần phải
chuyển hóa thành chứng cứ phục vụ các hoạt động điều tra công khai.
Kết hợp chặt chẽ, hợp lý giữa hoạt động công khai và hoạt động bí
mật trong công tác truy nã vừa là đặc điểm vừa là nghệ thuật của khoa học
điều tra và của công tác tìm kiếm, bắt giữ tội phạm. Từ đó cần tránh việc coi
nhẹ các hoạt động công khai hoặc quá coi trọng các hoạt động bí mật trong
truy nã tội phạm dẫn đến lạm dụng sử dụng biện pháp nghiệp vụ, "thần bí"
hóa công tác truy nã, không chú ý đến việc kết hợp với các biện pháp hành
chính, vận động quần chúng trong hoạt động truy nã.
- Hoạt động truy nã chỉ tiến hành sau khi đã xác định hành vi phạm
tội và những yếu tố cơ bản về đặc điểm, nhân thân đối tượng.
Đây là một đặc điểm nổi bật phản ánh tính chất đặc thù của công tác
truy nã so với một số công tác khác như: Công tác điều tra vụ án hình sự;
công tác truy xét, truy tìm...Thông thường các mặt công tác này khi tiến hành
chưa xác định rõ hoặc chỉ mới xác định được ở một mức độ nhất định về tên,
tuổi, địa chỉ, tính chất của hành vi phạm tội... thậm chí còn chưa biết kẻ phạm
tội là ai. Ngược lại trong công tác truy nã để có căn cứ ra QĐTN người có
hành vi phạm tội thì hành vi phạm tội và nhân thân đối tượng đã xác định rõ,
được khắc họa bởi các yếu tố cơ bản như: Hành vi phạm tội và tính chất của
tội phạm, tên tuổi, địa chỉ, quan hệ, đặc điểm, nhân dạng, ảnh của đối tượng.
Tuy nhiên không phải lúc nào cũng có ngay, có đủ những thông tin đó khi đối
tượng có hành vi phạm tội trốn. Hầu hết các trường hợp trốn dù đã có hồ sơ
điều tra nhưng vẫn phải xác minh, thu thập, khai thác thêm thông tin nhất là
những quan hệ về nhân thân của đối tượng và thông qua bước điều tra, xác
minh trước. Trong thực tế không ít trường hợp, khi ra QĐTN và lệnh truy nã
nhưng vẫn thiếu những thông tin cần thiết về đối tượng. Vì vậy, để đảm bảo
truy nã đúng người, đúng tội, điều quan trọng trong công tác truy nã là phải
có bước điều tra xác minh, để có đủ thông tin cơ bản ra quyết định, cần tăng
40
cường sự phối hợp, trao đổi thông tin lẫn nhau giữa các lực lượng, các cơ
quan có trách nhiệm để phát hiện, bắt giữ người có quyết định, lệnh truy nã.
- Truy nã người phạm tội lẩn trốn tội phạm là công việc nguy hiểm,
phức tạp đòi hỏi tính tổ chức kỷ luật cao.
Điều tra tội phạm đã là công việc khó khăn, phức tạp, nguy hiểm,
nhưng công tác truy nã tội phạm trong nhiều trường hợp còn khó khăn, nguy
hiểm hơn. Bởi vì người có hành vi phạm tội thường là những đối tượng đã
gây ra những vụ án nghiêm trọng, những đối tượng lưu manh chuyên nghiệp,
côn đồ hung hãn, hoặc có nhiều tiền án, tiền sự tìm cách lẩn trốn. Trong số đó
có nhiều đối tượng ngoan cố, quyết tâm lẩn trốn hoặc có sử dụng vũ khí sẵn
sàng chống trả quyết liệt các lực lượng truy bắt hòng trốn tránh pháp luật. Địa
bàn lẩn trốn của đối tượng thường là những nơi xa xôi, hẻo lánh, những nơi
rừng núi, khu vực biên giới hoặc những nơi phức tạp về trật tự xã hội, tập
trung hoạt động của tội phạm và tệ nạn xã hội... ở những nơi đó điều kiện môi
trường thiên nhiên và xã gội khắc nghiệt, điều kiện đi lại, gặp nhiều khó khăn,
phức tạp. Trong những điều kiện như vậy dễ làm cho lực lượng truy bắt nảy
sinh tư tưởng bi quan, ngại khó, ngại khổ dễ bị tác động bởi những thủ đoạn
đe dọa, mua chuộc, lôi kéo của bọn tội phạm hoặc từ phía môi trường công
tác. Thêm vào đó là quá trình tìm kiếm, bắt giữ bọn tội phạm thường nảy sinh
những tình huống bất ngờ, gay cấn làm cho cán bộ, chiến sĩ phải căng thẳng
về tâm lý, đòi hỏi tính kỷ luật chặt chẽ, tinh thần quyết tâm cao, nhanh nhạy
trong tư duy và hành động. Đặc điểm này nói lên những yêu cầu về tuyển
chọn, xây dựng lực lượng truy nã và những phẩm chất cần có của cá nhân,
cán bộ, chiến sĩ làm công tác truy nã tội phạm.
- Khi phát hiện chính xác đối tượng có Quyết định, Lệnh truy nã mọi
công dân đều có quyền bắt giữ.
Căn cứ Điều 82 BLTTHS thì ai cũng có quyền bắt người đang bị truy
nã và tước vũ khí của người bị bắt. Như vậy với đặc thù là một trong những
41
BPNC trong luật TTHS, bắt người đang bị truy nã với tính cấp thiết của nó
phù hợp với tinh thần toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, phòng chống tội
phạm nhằm phát huy mọi nguồn lực trong nhân dân để truy bắt người đang bị
truy nã. Quy định đó thể hiện quyết tâm của Nhà nước trong việc sử dụng mọi
lực lượng và biện pháp xã hội để truy bắt đến cùng đối tượng lẩn trốn. Đây
cũng là sự thể hiện tính chất xã hội rộng rãi trong công tác đấu tranh chống tội
phạm và đó cũng chính là một biện pháp tác động mạnh mẽ đến tư tưởng của
đối tượng đang lẩn trốn; Một sự bảo đảm quan trọng để phát huy tinh thần
làm chủ, ý thức tự giác hạn chế những cơ sở xã hội mà tội phạm có thể lợi
dụng để lẩn trốn, ẩn náu. Do đó, trong quá trình thực hiện, công dân cũng phải
có ý thức, tránh trường hợp bắt giữ không đúng đối tượng, nhầm lẫn.
Vấn đề có ý nghĩa chiến lược đó là phải vận động và tổ chức được
phong trào quần chúng, rộng rãi, đều khắp trong công tác đấu tranh chống tội
phạm nói chung và công tác truy nã tội phạm nói riêng. Để làm tốt công tác
này thì cơ quan chức năng đặc biệt là cơ quan chuyên trách về truy bắt người
đang bị truy nã cần đa dạng hóa các hoạt động tuyên truyền, xây dựng phong
trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, tranh thủ sự ủng hộ, đồng tình của nhân
dân giúp đỡ lực lượng Công an nhân dân trong phong trào đấu tranh phòng
chống tội phạm nói chung và phát hiện, bắt giữ người đang bị truy nã nói
riêng. Cần phát huy cao độ tinh thần tố giác, giúp đỡ và phối hợp của quần
chúng với cơ quan Công an. Đồng thời cần kết hợp với các cơ quan bảo vệ
pháp luật và các cấp, các ngành để tuyên truyền đầy đủ, nâng cao ý thức pháp
luật trong nhân dân, xây dựng và phát triển các mô hình tổ chức quần chúng
cơ sở; Khi ra quyết định, lệnh truy nã phải đảm bảo chính xác, đầy đủ để nhân
dân dễ phát hiện.
1.2. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
QUY ĐỊNH VỀ BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI ĐANG BỊ TRUY NÃ
1.2.1. Trong thời kỳ phong kiến
42
Lịch sử phát triển của chế định bắt người đang bị truy nã trong Luật
TTHS Việt Nam gắn liền với từng thời kỳ, giai đoạn của đất nước và tiến
trình cải cách tư pháp. Ngay từ thời kỳ phong kiến, việc bắt giữ những kẻ
phạm tội đang lẩn trốn đã trở thành một tập quán của đời sống cộng đồng. Thể
hiện rõ nét nhất là trong Bộ Quốc triều hình luật (hay còn gọi là Bộ luật Hồng
Đức), được coi là hoàn chỉnh nhất của chế độ phong kiến Việt Nam. Thể hiện rõ
nét nhất tại:
Điều 36, Quyển I, chương Danh lệ:
Nhiều người cùng phạm một tội mà có người trốn tránh,
hiện còn người bắt được xưng ra người đang trốn tránh đứng đầu,
mà không đủ người làm chứng, thì định tội người bị bắt là a tòng.
Khi bắt được người trốn, xưng ra người bị bắt trước là đứng đầu, tra
hỏi đúng thực, thì định tội người bị bắt trước là đứng đầu, tra hỏi
đúng thực, thì định tội người bị bắt trước là đứng đầu [53];
Điều 646, Quyển VI, chương Bộ vong:
Đi bắt tội nhân mà tội nhân chống cự bị người đi bắt đánh
chết, hay là vì tội nhân bỏ chạy, đuổi mà đánh chết, hay là tội nhân
cùng quẫn quá mà tự sát, thì người đi bắt đều được miễn tội. Đã bắt
được tội nhân rồi mà còn đánh chết, thì xử nhẹ hơn tội đánh nhau
chết bốn bậc; dùng đồ sắc nhọn mà đánh chết chỉ giảm một bậc. Tội
nhân vốn phạm tội chết mà (người đi bắt) đánh chết, thì xử tội biếm
một tư. Tội nhân chống cự đánh người đến bắt, thì xử nặng hơn tội
trước một bậc; đánh bị thương thì xử nặng hơn tội đánh nhau bị
thương hai bậc; đánh chết thì xử chém. Nếu người ngoài giúp kẻ tội
nhân chống cự người đến bắt, mà người đến bắt đánh chết ngay tại
chỗ thì không bị xử tội [53];
Điều 650: Những tù nhân bị lưu hay đồ, ở nơi lưu hay nơi
đồ chưa đến hạn tha, mà đã bỏ trốn, thì đều phải tội chém; người
43
coi giữ cố ý để mất tù lưu đồ, thì bị xử nhẹ đi trốn ba bậc; quan ty
giám đương bị xử tội biếm hay phạt; cố ý thả cho tù đi trốn, thì xử
cùng một tội; nếu lại tự bắt được, thì được trừ tội. Kẻ tù phạm trốn
đến làng xã nào, thì xã quan nơi ấy phải bắt trói đem nộp quan; nếu
dung túng giấu giếm, thì xử tội nhẹ hơn kẻ tù trốn ấy một bậc [53];
Điều 652: "Những tù bị giam chống cự ngục quan, ngục lại mà chạy
trốn, thì xử nặng hơn tội cũ một bậc; chống cự mà đánh người, bị thương, thì
xử nặng hơn hai bậc; đánh chết người thì xử chém" [53];
Chương Đoán ngục, Điều 671: "... Nếu người bị cáo đã đến hầu kiện
mà phân trần, mà nguyên cáo lại trốn tránh quá hai mươi ngày không đến hầu
kiện, thì quan án khép y vào tội vu cáo, và cho nã bắt để trị tội (nếu có việc đi
xa, trở về không kịp, thì cho phép trần tấu lên, xin xử lại" [53];
Điều 702: Ngục giám đi bắt người bị kiện, thì đến quan
huyện, quan lộ sở tại trình trát để họ bắt giải giao cho mình. Nếu
người bị bắt đã trốn đi không ở đó, thì quan huyện, quan xã liên
danh làm tờ cam kết rằng người ấy đã trốn không ở đó, sau này thấy
trở về, sẽ bắt giải ngay, không dám ẩn giấu. Ngục giám đem tờ cam
kết về trình ngục quan, để tùy liệu xét xử. Làm trái luật, quan
huyện, quan xã bị xử tội biếm hoặc tội đồ...[53];
Điều 704:... Nếu không có trát nã đóng dấu của bản ty, mà
tự tiện bắt người, thì xử biếm hai tư;... nếu trong trát truy nã đã kê
rõ tên họ người bị bắt, ngoài ra lại bắt bừa người khác, cũng là sách
nhiễu tài vật, để đến nỗi người ta bị phá sản, thì cũng bị xử tội như
thế. Ngục lại viết trát nã, kê tên không đúng phép, thì bị đồ làm
khao đinh; ngục quan vô tình không xem đến, thì bị phạt...[53];
Hay trong Bộ Quốc triều khám tụng điều lệ gồm 30 lệ (chương) trong
đó có một chương riêng là chương 7 gồm 5 điều quy định về việc giải quyết
đối với trường hợp đương sự không đến hầu kiện, hay bỏ trốn (đương sự đáo
túng lệ).
44
Có thể thấy rằng, những quan niệm, tập quán về bắt giữ kẻ phạm tội
bỏ trốn đã tồn tại, gắn liền cùng với lịch sử tồn tại của Nhà nước phong kiến
Việt Nam, góp phần vào sự yên ổn của đời sống cộng đồng. Mặc dù còn
những tồn tại, nhược điểm do đặc điểm lịch sử nhất định nhưng những giá trị
của pháp luật trong thời kỳ này đã có ảnh hưởng nhất định, làm nền móng,
tiền đề cho việc hình thành và phát triển pháp luật về truy nã tội phạm trong
các giai đoạn, thời kỳ về sau này.
1.2.2. Thời kỳ từ năm 1945 đến trước khi có Bộ luật Tố tụng hình
sự năm 1988
Cách mạng tháng Tám 1945 mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt
Nam, kỷ nguyên độc lập. Ngay từ những ngày đầu mới thành lập nước thì một
số cơ quan tư pháp được ra đời liên quan đến việc bắt, giam giữ như: Sắc lệnh
số 13/SL ngày 24/01/1946 về tổ chức Tòa án và ngạch Thẩm phán; Sắc lệnh
23/SL ngày 21/02/1946 thành lập "Việt Nam Công an vụ". Theo Sắc lệnh này
thì lực lượng Công an vụ có nhiệm vụ "Điều tra về những hành động trái phép
và truy tìm người can phạm để giúp Tòa án trong sự trừng trị" [13]. Hoặc Sắc
lệnh số 131/SL ngày 20/7/1946 về tổ chức bộ máy Tư pháp Công an tại Điều
thứ 2: "Tư pháp Công an có nhiệm vụ truy tầm tất cả các sự phạm pháp (đại
hình, tiểu hình hoặc vi cảnh), sưu tập các tang chứng, bắt giao người phạm
pháp cho các tòa án xét xử trong phạm vi luật pháp ấn định" [12]; Sắc lệnh số
85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp. Theo văn bản trên thì "Tư
pháp Công an có nhiệm vụ bắt người phạm pháp và giao cho các Tòa án xét xử";
"Quyền ký lệnh tạm giam bị cáo thuộc về ông Giám đốc ty Liêm phóng" [14].
Miền Bắc bước vào công cuộc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội
sau hiệp định Giơnevơ. Đáp ứng yêu cầu cách mạng trong giai đoạn mới,
Quốc hội khóa I, kỳ họp thứ VI đã vạch ra phương hướng cho việc xây dựng
những luật về các quyền tự do dân chủ như Sắc luật số 103/SL-L005 ngày
20/5/1957 về đảm bảo quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối
45
với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân được ban hành theo đó: "Đối với
những người phạm pháp quả tang, bất cứ người nào cũng có quyền bắt và
phải giải ngay đến Ủy ban Hành chính, Tòa án nhân dân hoặc đồn Công an
nơi gần nhất" [27]. Sắc lệnh 002/SLT ngày 18/6/1957 quy định những trường
hợp phạm pháp quả tang, khẩn cấp và những trường hợp khám người phạm
pháp quả tang trong đó quy định:
Để kịp thời giữ kẻ phạm pháp đã gây thiệt hại đến an toàn
của Nhà nước, đến trật tự xã hội, đến tài sản của Nhà nước, đến tính
mệnh tài sản của nhân dân, nay quy định những trường hợp sau đây
là phạm pháp quả tang mà người công dân nào cũng có quyền bắt
và giải ngay đến ủy ban hành chính, Tòa án nhân dân hoặc đồn
Công an nơi gần nhất:
1- Đang làm việc phạm pháp hoặc sau khi phạm pháp thì bị
phát giác ngay.
2- Đang bị đuổi bắt sau khi phạm pháp.
3- Đang bị giam giữ mà lẩn trốn.
4- Đang có lệnh truy nã [15].
Ngày 10/7/1957, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số
301/TTg quy định chi tiết thi hành Luật số 103/SL-L005 ngày 20/5/1957 bảo
đảm quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật,
thư tín của nhân dân; Ngày 16/7/1962 ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban
hành Pháp lệnh quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Cảnh sát nhân dân... Sau
khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, ngày 15/3/1976 Chính phủ cách
mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban hành Sắc luật số 02/SL-76
quy định về việc bắt giam giữ. Về cơ bản việc bắt giam giữ quy định trong
Sắc luật này giống luật 103/SL-L005, tuy vậy thẩm quyền bắt bình thường
(bắt để tạm giam) được mở rộng đến cấp huyện. Tại kỳ họp thứ nhất, khóa VI
46
ngày 02/7/1976, Quốc hội đã ra Nghị quyết về việc áp dụng pháp luật thống
nhất trong cả nước và giao cho Hội đồng Chính phủ hướng dẫn việc áp dụng.
Có thể nói rằng, trước khi BLTTHS được ban hành, thì các quy định
trên đây trong một thời gian dài đã có những tác dụng to lớn trong cuộc đấu
tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Việc sử dụng chúng đã góp phần kịp
thời ngăn chặn các tội phạm nguy hiểm, xâm phạm an ninh quốc gia, xâm
phạm đến tính mạng, tài sản của nhân dân. Tuy nhiên, do sự phát triển của đất
nước, các quan hệ xã hội có nhiều thay đổi. Trước tình hình mới nảy sinh đó,
các quy định về những trường hợp bắt khẩn cấp cũng đã bộc lộ những sơ hở
nhất định (như sự thiếu chặt chẽ, tính chưa cụ thể trong các quy định của pháp
luật...) cho nên dễ dẫn đến tình trạng bắt khẩn cấp tràn lan. Có thể nói, việc
quá lạm dụng bắt khẩn cấp đã có những ảnh hưởng không tốt trong dư luận
quần chúng nhân dân. Mặt khác, nó còn làm mất đi tính đặc biệt của biện
pháp này và biến nó thành một trường hợp được áp dụng phổ biến. Tình trạng
đó đã làm cho các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân bị xâm hại, đi
ngược lại những lợi ích của việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa mà
Đảng mà Nhà nước ta đã và đang đặc biệt quan tâm.
1.2.3. Quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 đến trước
khi có Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của cuộc đấu tranh chống và phòng
ngừa tội phạm, cũng như yêu cầu của việc tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa và việc bảo đảm các quyền dân chủ của công dân, kế thừa có chọn lọc
các quy định về bắt người đang bị truy nã trong các văn bản pháp luật trước
đây, nhất là quy định của BLTTHS năm 1988. Có thể nói đây là một bước
ngoặt quan trọng trong lịch sử phát triển của pháp luật TTHS, là kết quả tổng
kết kinh nghiệm của hơn 40 năm hoạt động tư pháp trong đó có rất nhiều điều
khoản quy định về BPNC bắt người đang bị truy nã như Điều 64 Việc bắt
người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã:
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự

More Related Content

What's hot

LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019
LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019
LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019PinkHandmade
 
Bài tập thương mại
Bài tập thương mại Bài tập thương mại
Bài tập thương mại Bee Bee
 
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 

What's hot (20)

Luận văn: Tái thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT, HAY
Luận văn: Tái thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT, HAYLuận văn: Tái thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT, HAY
Luận văn: Tái thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT, HAY
 
Luận văn: Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật TTHS Việt Nam
Luận văn: Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật TTHS Việt NamLuận văn: Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật TTHS Việt Nam
Luận văn: Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật TTHS Việt Nam
 
LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019
LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019
LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019
 
Đề tài: Kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự, HAY
Đề tài: Kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự, HAYĐề tài: Kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự, HAY
Đề tài: Kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự, HAY
 
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOTLuận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
 
Phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiPhân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOTLuận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Chế độ thi hành án phạt tù ở Việt Nam hiện nay, HAY
Luận văn: Chế độ thi hành án phạt tù ở Việt Nam hiện nay, HAYLuận văn: Chế độ thi hành án phạt tù ở Việt Nam hiện nay, HAY
Luận văn: Chế độ thi hành án phạt tù ở Việt Nam hiện nay, HAY
 
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấnĐề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
 
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tộiLuận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
 
Bài tập thương mại
Bài tập thương mại Bài tập thương mại
Bài tập thương mại
 
Luận văn: Phòng vệ chính đáng theo pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Phòng vệ chính đáng theo pháp luật hình sự, HAYLuận văn: Phòng vệ chính đáng theo pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Phòng vệ chính đáng theo pháp luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sựLuận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về hộ tịch ở Quận 10 TPHCM, HOT
Luận văn: Quản lý nhà nước về hộ tịch ở Quận 10 TPHCM, HOTLuận văn: Quản lý nhà nước về hộ tịch ở Quận 10 TPHCM, HOT
Luận văn: Quản lý nhà nước về hộ tịch ở Quận 10 TPHCM, HOT
 
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
 
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đai
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đaiLuận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đai
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đai
 
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Đề tài: Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo luật, HOT
Đề tài: Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo luật, HOTĐề tài: Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo luật, HOT
Đề tài: Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo luật, HOT
 
Luận văn: Quản lý và xử lý tài sản phá sản theo luật phá sản
Luận văn: Quản lý và xử lý tài sản phá sản theo luật phá sảnLuận văn: Quản lý và xử lý tài sản phá sản theo luật phá sản
Luận văn: Quản lý và xử lý tài sản phá sản theo luật phá sản
 
Luận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí Minh
Luận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí MinhLuận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí Minh
Luận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí Minh
 

Similar to Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự

CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...phamhieu56
 
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...TiLiu5
 
Luận văn thạc sĩ các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự việt ...
Luận văn thạc sĩ các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự việt ...Luận văn thạc sĩ các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự việt ...
Luận văn thạc sĩ các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự việt ...jackjohn45
 

Similar to Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự (20)

Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAYLuận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
 
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAYLuận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAYLuận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
 
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOTBiện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
 
Luận văn: Chế định án tích trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Chế định án tích trong luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Chế định án tích trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Chế định án tích trong luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Vấn đề về chế định án tích trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Vấn đề về chế định án tích trong luật hình sự, HAYLuận văn: Vấn đề về chế định án tích trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Vấn đề về chế định án tích trong luật hình sự, HAY
 
Thi hành án phạt tù đối với người bị kết án là người chưa thành niên
Thi hành án phạt tù đối với người bị kết án là người chưa thành niênThi hành án phạt tù đối với người bị kết án là người chưa thành niên
Thi hành án phạt tù đối với người bị kết án là người chưa thành niên
 
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAYĐề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAYLuận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
 
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAYLuận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Bắt người trong trường hợp khẩn cấp theo pháp luật
Luận văn: Bắt người trong trường hợp khẩn cấp theo pháp luậtLuận văn: Bắt người trong trường hợp khẩn cấp theo pháp luật
Luận văn: Bắt người trong trường hợp khẩn cấp theo pháp luật
 
Bảo đảm quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niên
Bảo đảm quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niênBảo đảm quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niên
Bảo đảm quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niên
 
Bảo đảm quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Bảo đảm quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niên, HAYBảo đảm quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Bảo đảm quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niên, HAY
 
Luận văn: Bảo đảm quyền bị can, bị cáo là người chưa thành niên
Luận văn: Bảo đảm quyền bị can, bị cáo là người chưa thành niênLuận văn: Bảo đảm quyền bị can, bị cáo là người chưa thành niên
Luận văn: Bảo đảm quyền bị can, bị cáo là người chưa thành niên
 
Luận văn: Áp dụng pháp luật về đặc xá ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Áp dụng pháp luật về đặc xá ở Việt Nam, HAYLuận văn: Áp dụng pháp luật về đặc xá ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Áp dụng pháp luật về đặc xá ở Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật Việt Nam tại Vĩnh Phúc
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật Việt Nam tại Vĩnh PhúcLuận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật Việt Nam tại Vĩnh Phúc
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật Việt Nam tại Vĩnh Phúc
 
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...
 
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...
 
Luận văn thạc sĩ các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự việt ...
Luận văn thạc sĩ các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự việt ...Luận văn thạc sĩ các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự việt ...
Luận văn thạc sĩ các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự việt ...
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxTrnHiYn5
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiNgocNguyen591215
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnpmtiendhti14a5hn
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...ChuThNgnFEFPLHN
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...Nguyen Thanh Tu Collection
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdfltbdieu
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngYhoccongdong.com
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...hoangtuansinh1
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfhoangtuansinh1
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoidnghia2002
 
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptPhamThiThuThuy1
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạowindcances
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
 
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 

Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự

  • 1. 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM THỊ HỢP BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI ĐANG BỊ TRUY NÃ TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2012
  • 2. 2 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM THỊ HỢP BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI ĐANG BỊ TRUY NÃ TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN Chuyên ngành : Luật hình sự Mã số : 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Trịnh Quốc Toản HÀ NỘI - 2012
  • 3. 3 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn bảo đảm độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Phạm Thị Hợp
  • 4. 4 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI ĐANG BỊ TRUY NÃ TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 6 1.1. Cơ sở lý luận về biện pháp bắt người đang bị truy nã trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam 6 1.1.1. Quan niệm về biện pháp ngăn chặn và biện pháp bắt người 6 1.1.2. Biện pháp bắt người đang bị truy nã 15 1.2. Khái quát lịch sử pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam quy định về biện pháp bắt người đang bị truy nã 33 1.2.1. Trong thời kỳ phong kiến 33 1.2.2. Thời kỳ từ năm 1945 đến trước khi có Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 35 1.2.3. Quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 đến trước khi có Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 37 1.3. Biện pháp bắt người đang bị truy nã ở một số nước 40 Chương 2: Những quy định của Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự NĂM 2003 về biện pháp bắt người đang bị truy nã Và Thực Tiễn áp dụng 45 2.1. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về biện pháp bắt người đang bị truy nã 45
  • 5. 5 2.2. Thực tiễn áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã 54 2.2.1. Tình hình tội phạm 54 2.2.2. Tình hình tội phạm bỏ trốn 55 2.2.3. Kết quả bắt người đang bị truy nã 56 2.3. Những tồn tại, hạn chế trong quá trình áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã và nguyên nhân 63 2.3.1. Những tồn tại, hạn chế trong quá trình áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã 63 2.3.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế nêu trên 85 Chương 3: một số kiến nghị VÀ Giải pháp NHằM nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã trong luật tố tụng hình sự việt nam 89 3.1. Nhu cầu hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về bắt người đang bị truy nã và nâng cao hiệu quả áp dụng 89 3.1.1. Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và công cuộc cải cách tư pháp 89 3.1.2. Nhu cầu bảo vệ quyền con người 91 3.1.3. Đòi hỏi nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm, tình hình tội phạm phức tạp bỏ trốn 92 3.2. Những kiến nghị tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật 93 3.2.1. Những kiến nghị hoàn thiện các quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về biện pháp bắt người đang bị truy nã 94 3.2.2. Những kiến nghị hoàn thiện các quy định trong Bộ luật hình sự 102 3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành về bắt người đang bị truy 103
  • 6. 6 nã 3.3.1. Tăng cường công tác giải thích pháp luật của cơ quan chức năng 103 3.3.2. Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn và phẩm chất đạo đức của chủ thể áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã 105 3.3.3. Nâng cao tinh thần trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc chủ động ngăn chặn tình trạng người phạm tội lẩn trốn, hạn chế đầu vào 108 3.3.4. Xử lý nghiêm minh, kịp thời các trường hợp vi phạm trong quá trình áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã 111 3.3.5. Tăng cường mối quan hệ phối hợp, trao đổi giữa các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như các cơ quan, tổ chức hữu quan 112 3.3.6. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ hoạt động bắt người đang bị truy nã 115 3.3.7. Tăng cường công tác tuyên truyền, phát động phong trào quần chúng nhân dân tham gia phát hiện và bắt giữ người đang bị truy nã 116 3.3.8. Đẩy mạnh việc vận động người đang bị truy nã ra đầu thú 117 3.3.9. Tăng cường hợp tác quốc tế trong công tác bắt người đang bị truy nã 118 KẾT LUẬN 120 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 122
  • 7. 7 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật Hình sự BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự BPNC : Biện pháp ngăn chặn CQĐT : Cơ quan điều tra NCTN : Người chưa thành niên QĐTN : Quyết định truy nã TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao TTHS : Tố tụng hình sự VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao
  • 8. 8 DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang 2.1 Số liệu về đối tượng truy nã phát sinh theo từng năm 58 2.2 Số vụ, bị cáo bị Tòa án xét xử về tội trốn khỏi nơi giam giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử từ năm 2006 - 2010 59 2.3 Số liệu kết quả xử lý đối tượng truy nã đã bị bắt và vận động đầu thú 60 2.4 Số liệu các trường hợp trốn 76 2.5 Số liệu các trường hợp trốn do thay đổi biện pháp ngăn chặn 83
  • 9. 9 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu Bản chất của người phạm tội là luôn tìm cách lẩn trốn hòng thoát khỏi sự trừng trị của pháp luật. Vì thế việc tìm kiếm, bắt giữ người phạm tội bỏ trốn luôn là một yêu cầu khách quan, một nhiệm vụ thường xuyên của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Nếu người phạm tội còn lẩn trốn, chẳng những pháp luật không được thi hành, mà quan trọng hơn các đối tượng này vẫn có thể tiếp tục hoạt động phạm tội và gây ra tội ác cho xã hội. Việc tìm kiếm, bắt giữ lại người có hành vi phạm tội đang lẩn trốn có cơ sở xuất phát từ nguyên tắc: đã phạm tội thì không tránh khỏi bị trừng trị. Về vấn đề này V.I. Lênin đã chỉ rõ: "Tác dụng ngăn ngừa của hình phạt không phải ở chỗ hình phạt đó phải nặng mà vấn đề cơ bản ở chỗ không một kẻ phạm tội nào không bị trừng trị, không một hành vi phạm tội nào không bị phát hiện ra" [24]. Tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội phạm lẩn trốn nói riêng ở nước ta và nhiều nước trên thế giới vẫn diễn biến phức tạp. Do những nguyên nhân khác nhau mà mỗi năm trong cả nước có hàng ngàn người phạm tội lẩn trốn phải ra quyết định truy nã (QĐTN) và số đối tượng chưa bắt được cũng còn khá nhiều. Điều này gây ra những khó khăn cho các cơ quan thi hành pháp luật trong các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Tuy nhiên thực tiễn pháp luật về biện pháp ngăn chặn (BPNC) bắt người nói chung và bắt người đang bị truy nã nói riêng vẫn còn những hạn chế, bất cập như các quy định của pháp luật hiện hành về truy nã không đầy đủ, nhiều quy định không còn phù hợp, chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh chống tội phạm thể hiện như: quy định về đối tượng truy nã, trình tự, thủ tục, phạm vi truy nã, việc áp dụng các BPNC sau khi truy bắt được đối tượng truy nã... dẫn đến chất lượng và hiệu quả của BPNC không đạt được. Trước tình
  • 10. 10 hình trên, tác giả nhận thấy việc nghiên cứu đề tài: "Biện pháp bắt người đang bị truy nã trong luật tố tụng hình sự Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" là cần thiết, khách quan, đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu Trong khoa học pháp lý, dưới những góc độ khác nhau, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về BPNC nói chung và biện pháp bắt người nói riêng như: Nguyễn Vạn Nguyên (1995), Các biện pháp ngăn chặn và những vấn đề nâng cao hiệu quả của chúng, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Nguyễn Duy Thuân (1999), Các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự - Những vấn đề về lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Lê Cảm (2005), "Sự bất đắc dĩ phải gây thiệt hại để bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã", Sách chuyên khảo sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật Hình sự Việt Nam (phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội; Mai Bộ (2006), Áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam đối với người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí Tòa án nhân dân; Ban chỉ đạo Chương trình quốc gia phòng chống tội phạm - Bộ Công an (2002), Công tác truy nã - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Nguyễn Văn Điệp (2005), Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam. Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp, Luận án Tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội... Tuy nhiên qua nghiên cứu, khảo sát nội dung các sách chuyên khảo, các luận án, các bài báo khoa học cho thấy, hầu hết đó là các công trình nghiên cứu cơ bản về các BPNC nói chung, còn đối với chế định bắt người đang bị truy nã, nhìn một cách tổng quan, chưa được quan tâm một cách đúng mức. Những nghiên cứu về biện pháp bắt người đang bị truy nã chỉ dừng lại ở những công trình nghiên cứu đơn lẻ chuyên ngành của cơ quan Công an là chủ yếu hoặc là một phần nội dung của biện pháp bắt người nói chung. Có thể
  • 11. 11 nói hiện nay ở Việt Nam chưa triển khai nghiên cứu có hệ thống, toàn diện và sâu sắc về biện pháp bắt người đang bị truy nã dưới góc độ lý luận và thực tiễn áp dụng. Do đó, nguyên nhân của những tồn tại, bất cập trong thực tiễn áp dụng những quy định về biện pháp bắt người đang bị truy nã chưa được phân tích có hệ thống để đưa ra những kiến nghị, giải pháp đồng bộ. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Tác giả nghiên cứu đề tài với những mục đích sau: - Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về biện pháp bắt người đang bị truy nã trong luật tố tụng hình sự (TTHS) Việt Nam; - Nghiên cứu, phân tích pháp luật Việt Nam quy định về biện pháp bắt người đang bị truy nã và thực tiễn áp dụng từ đó rút ra những tồn tại, hạn chế của việc quy định và áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã và những nguyên nhân của nó. 3.2. Nhiệm vụ của luận văn Để có thể đạt được mục đích nêu trên, trong phạm vi đề tài, tác giả tập trung vào những nhiệm vụ sau: + Nghiên cứu những vấn đề chung dưới góc độ lý luận và pháp lý để làm rõ khái niệm, mục đích, ý nghĩa, nguyên tắc, đặc điểm... của biện pháp bắt người đang bị truy nã trong luật TTHS Việt Nam; + Nghiên cứu, phân tích làm sáng tỏ thực trạng áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã qua đó đưa ra những nhận xét về ưu điểm và những tồn tại của biện pháp bắt người đang bị truy nã trong luật TTHS Việt Nam; + Tổng hợp kết quả nghiên cứu và đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả của việc áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã trong luật TTHS Việt Nam trong thời gian tới.
  • 12. 12 4. Phương pháp nghiên cứu - Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đấu tranh phòng, chống tội phạm; - Đồng thời được tiến hành bằng những phương pháp nghiên cứu khoa học cơ bản như: phân tích, tổng hợp, so sánh, hệ thống, logic, đối chiếu thực tiễn, thống kê... nhờ vậy những vấn đề liên quan tới biện pháp bắt người đang bị truy nã được xem xét, đánh giá từ nhiều góc độ khác nhau, bảo đảm tính đầy đủ, toàn diện, có hệ thống và xác thực. 5. Ý nghĩa của luận văn Kết quả nghiên cứu và những đề xuất được nêu trong luận văn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Thông qua công trình nghiên cứu này, tác giả mong muốn đóng góp vào việc hoàn thiện pháp luật TTHS. Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ làm công tác nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật TTHS, tội phạm học và cán bộ làm công tác tại các cơ quan bảo vệ pháp luật... 6. Những điểm mới của luận văn Đây là công trình chuyên khảo nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện về biện pháp bắt người đang bị truy nã trong luật TTHS Việt Nam. Những điểm mới của luận văn là: - Làm sáng tỏ hệ thống những vấn đề lý luận về chế định bắt người đang bị truy nã trong luật TTHS Việt Nam;
  • 13. 13 - Phân tích một cách sâu sắc và đánh giá toàn diện về sự thể hiện của biện pháp bắt người đang bị truy nã trong Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) Việt Nam hiện hành; - Phân tích, đánh giá một cách toàn diện thực trạng áp dụng pháp luật về biện pháp bắt người đang bị truy nã trong luật TTHS Việt Nam; nêu ra những hạn chế, bất cập về mặt lập pháp, những tồn tại trong thực tiễn áp dụng pháp luật cũng như nguyên nhân của những hạn chế, bất cập đó. Trên cơ sở đó, luận văn đề xuất các giải pháp khả thi để hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả của việc áp dụng pháp luật TTHS về BPNC bắt người đang bị truy nã. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về biện pháp bắt người đang bị truy nã trong luật tố tụng hình sự Việt Nam Chương 2: Những quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về biện pháp bắt người đang bị truy nã và thực tiễn áp dụng Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm phần nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã trong luật tố tụng hình sự Việt Nam.
  • 14. 14 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI ĐANG BỊ TRUY NÃ TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI ĐANG BỊ TRUY NÃ TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1.1. Quan niệm về biện pháp ngăn chặn và biện pháp bắt người 1.1.1.1. Quan niệm về biện pháp ngăn chặn Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân là quan điểm cơ bản của Đảng và nhà nước ta. Tuy nhiên khi có hành vi đi ngược lại với lợi ích của xã hội, lợi ích của nhà nước, nhà nước ta cũng cho phép áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần thiết để hạn chế quyền và lợi ích của chủ thể thực hiện hành vi đó. Điều này hoàn toàn không mâu thuẫn với nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân mà trái lại nó còn góp phần bảo vệ được lợi ích của cộng đồng, của xã hội, đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ kinh tế - xã hội của đất nước. Nhằm mục đích ngăn chặn và phòng ngừa việc không thực hiện các nghĩa vụ của những người tham gia TTHS, pháp luật cho phép Cơ quan điều tra (CQĐT), Viện kiểm sát và Tòa án áp dụng đối với những người đó các biện pháp cưỡng chế TTHS. Các biện pháp cưỡng chế TTHS có khác nhau về tính chất và chức năng. Một số biện pháp cưỡng chế TTHS chỉ được áp dụng trong những trường hợp một người thực hiện những vi phạm pháp luật nhất định. Chẳng hạn trong khi tiến hành xét xử, Tòa án có thể áp dụng biện pháp buộc những người vi phạm trật tự phiên tòa rời khỏi phòng xử án hoặc phạt tiền đối với họ. Biện pháp cưỡng chế này là những biện pháp trách nhiệm tố tụng.
  • 15. 15 Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc đấu tranh phòng, chống tội phạm, BLTTHS của Nhà nước ta đã quy định hàng loạt các biện pháp cưỡng chế khác nhau nhằm những mục đích tố tụng nhất định. "Biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự bao gồm các biện pháp được luật tố tụng hình sự quy định, do cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng nhằm thực hiện những mục đích tố tụng nhất định" [42]. Căn cứ vào mục đích của chúng, có thể chia thành ba nhóm sau: - Nhóm 1: Gồm những biện pháp nhằm mục đích ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa người có hành vi phạm tội bỏ trốn hoặc gây khó khăn cho quá trình giải quyết vụ án như: Bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh và đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm; - Nhóm 2: Gồm những biện pháp bảo đảm cho việc thu thập và ghi nhận chứng cứ như: Khám xét người, khám xét chỗ ở, địa điểm nơi làm việc, khám nghiệm hiện trường, xem xét dấu vết trên thân thể...; - Nhóm 3: Gồm những biện pháp bảo đảm thuận lợi cho quá trình tiến hành tố tụng được diễn ra bình thường và thuận lợi như: Kê biên tài sản, áp giải bị can, bị cáo, người bị kết án, dẫn giải người làm chứng, những biện pháp xử lý do Thẩm phán chủ tọa phiên tòa áp dụng đối với người có hành vi vi phạm nội quy phiên tòa [41]. Trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế nêu trên thì BPNC là một chế định pháp lý quan trọng. Toàn bộ quy phạm pháp luật xác định cơ sở, mục đích của các BPNC, các loại BPNC cụ thể, trình tự áp dụng, thay thế và hủy bỏ chúng cũng như những bảo đảm pháp chế trong việc áp dụng các biện pháp này hợp thành một chế định pháp luật TTHS - những BPNC. Chức năng của chế định pháp luật này được thể hiện trong việc điều chỉnh các quan hệ pháp luật phát sinh khi cần thiết phải hạn chế tự do của bị can, bị cáo nhằm ngăn ngừa khả năng tiếp tục thực hiện tội phạm, trốn tránh việc điều tra, xét xử, cản trở việc xác định sự thật về vụ án hình sự của họ. Áp
  • 16. 16 dụng các BPNC không thể loại trừ hoàn toàn nhưng có thể hạn chế một cách có hiệu quả khả năng thực hiện các hành vi nói trên của bị can, bị cáo. BLTTHS dành một chương riêng trong phần Những quy định chung nói về BPNC, chứng tỏ sự quan tâm đặc biệt của nhà nước ta đối với việc sử dụng các biện pháp này trong cuộc đấu tranh chống tội phạm. Nhìn lại công tác lập pháp trong mấy chục năm qua cho thấy, những quy định của pháp luật TTHS về các BPNC luôn có sự thay đổi, phát triển cùng với sự phát triển đi lên của nhà nước và xã hội Việt Nam. Đó là một hiện tượng hợp quy luật. Trong lịch sử phát triển của luật TTHS Việt Nam, nội dung và các loại BPNC có sự thay đổi theo hướng ngày càng hoàn thiện. Vậy thế nào là BPNC trong TTHS? Trong pháp luật thực định chưa có một khái niệm pháp lý về BPNC rõ ràng. Cho nên trong các tài liệu, sách báo Việt Nam các học giả đã có những khái niệm khác nhau về các BPNC. Theo Từ điển thuật ngữ pháp lý phổ thông của Nhà xuất bản "Sách pháp lý" Matxcơva năm 1973 thì: Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế về mặt tố tụng hình sự do Điều tra viên, Dự thẩm viên, Kiểm sát viên và Tòa án áp dụng đối với bị can (người bị tình nghi) nếu có đủ căn cứ cho rằng bị can trốn tránh việc điều tra, dự thẩm hoặc hoặc trốn tránh Tòa án, cản trở việc xác minh sự thật về vụ án hay sẽ tiếp tục hoạt động phạm tội, cũng như để đảm bảo việc thi hành án [1]. Theo Giáo trình Luật TTHS Việt Nam - Khoa Luật trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn cho rằng: Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự áp dụng đối với bị can, bị cáo, người phạm tội quả tang và người cần bắt trong trường hợp khẩn cấp để kịp thời ngăn chặn tội phạm của họ, ngăn chặn những người đó gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử và tiếp tục phạm tội hoặc trốn [23].
  • 17. 17 Cuốn Giáo trình Luật TTHS Việt Nam - Trường Đại học Luật Hà Nội thì: Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự áp dụng đối với bị can, bị cáo, người bị truy nã hoặc đối với những người chưa bị khởi tố (trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang) nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự [41]. Còn theo cuốn "Tội phạm học, Luật hình sự và Luật tố tụng hình sự" thì BPNC là một loạt biện pháp do CQĐT, Viện kiểm sát và Tòa án áp dụng đối với người bị tình nghi phạm tội, đối với bị can, bị cáo và cả người bị kết án khi các cơ quan này có căn cứ cho rằng những người này sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hoặc tiếp tục phạm tội [42]. Có thể thấy các khái niệm trên chỉ phản ánh được phần nào của BPNC. Nhằm xây dựng một khái niệm hoàn chỉnh trong đó bao hàm những dấu hiệu đặc trưng như mục đích áp dụng, thẩm quyền áp dụng, đối tượng áp dụng, căn cứ và mục đích áp dụng để từ đó hiểu và vận dụng đúng đắn trong thực tiễn. Vì vậy, có thể hiểu rằng: BPNC là những biện pháp cưỡng chế trong TTHS do các chủ thể có thẩm quyền được áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc người chưa bị khởi tố khi có căn cứ do BLTTHS quy định, nhằm ngăn chặn kịp thời những hành vi nguy hiểm cho xã hội, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. BPNC bao gồm: Bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Tóm lại, các BPNC là những biện pháp được áp dụng để ngăn ngừa bị can, bị cáo gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc tiếp tục phạm
  • 18. 18 tội. Chúng không phải là những biện pháp trừng trị, trấn áp bị can, bị cáo hoặc được áp dụng để răn đe người khác, bởi vì chúng không phải là hình phạt. Về bản chất pháp lý, các BPNC trong luật TTHS có tính phòng ngừa, được áp dụng để chặn đứng hoặc ngăn ngừa hành vi phạm tội cũng như hành vi trốn tránh pháp luật của bị can, bị cáo. Áp dụng đúng đắn và kịp thời các BPNC tạo điều kiện cho việc giải quyết đúng đắn và có kết quả các nhiệm vụ của TTHS. Ý nghĩa trực tiếp của chúng là tạo điều kiện thuận lợi cho việc làm rõ sự thật của vụ án hình sự, bảo đảm thực hiện nguyên tắc người có tội phải chịu trách nhiệm hình sự và ngăn chặn bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội. Việc quy định những BPNC trong BLTTHS góp phần tích cực vào việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ sự an toàn và vững mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ tài sản, tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của công dân; bảo đảm việc thực hiện dân chủ, tôn trọng và bảo đảm các quyền và tự do của công dân được Hiến pháp ghi nhận, không để một công dân nào bị hạn chế các quyền công dân, bị bắt, bị giam, giữ một cách trái pháp luật. 1.1.1.2. Quan niệm về biện pháp bắt người Biện pháp bắt người có một vị trí quan trọng trong số những BPNC mà BLTTHS quy định, bởi lẽ đây là BPNC có tính chất cưỡng chế rất nghiêm khắc, trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến các quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp quy định. Đây là cơ sở pháp lý để nhận thức quyền bất khả về thân thể của công dân có thể bị tác động trong những trường hợp cần thiết do yêu cầu của cuộc đấu tranh chống tội phạm và trong khuôn khổ pháp luật quy định. Bắt người trong TTHS là việc bắt người phạm tội theo các quy định của pháp luật TTHS. Bắt người trong trường hợp này do chủ thể sử dụng quyền lực nhà nước nhằm đạt được mục đích tố tụng. Theo Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách khoa thì: Bắt là một trong những biện pháp ngăn chặn mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án áp dụng khi có căn cứ chứng tỏ
  • 19. 19 bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội cũng như khi thấy cần thiết để đảm bảo thi hành án [48]. Trong giáo trình Luật TTHS Việt Nam của trường Đại học Luật Hà Nội thì: Bắt người là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự được áp dụng đối với bị can, bị cáo, người đang bị truy nã và trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang thì áp dụng cả đối với người chưa bị khởi tố về hình sự nhằm kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội của họ, ngăn ngừa họ trốn tránh pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự [41]. Có thể thấy, cả hai cách hiểu như trên về bắt người trong TTHS là chưa đầy đủ. Theo cách hiểu thứ nhất chưa bao hàm hết mục đích, phạm vi đối tượng áp dụng của biện pháp này đồng thời cũng không xác định thẩm quyền quyết định áp dụng, thẩm quyền bắt, không phù hợp với tinh thần các Điều 79, 80, 81, 82 BLTTHS. Còn theo cách hiểu thứ hai cũng chưa xác định được thẩm quyền quyết định bắt. Theo tôi, khái niệm bắt người trong Luật TTHS phải thể hiện đầy đủ bản chất, nội dung, căn cứ áp dụng, mục đích, thẩm quyền áp dụng, phạm vi áp dụng, đối tượng áp dụng biện pháp này. Với quan niệm nêu trên, tôi xin đưa ra khái niệm bắt người trong TTHS như sau: Bắt người là một BPNC trong TTHS do người có thẩm quyền quyết định áp dụng và thực hiện theo trình tự tố tụng đối với bị can, bị cáo hoặc đối với người chưa bị khởi tố về hình sự khi có đầy đủ căn cứ theo luật định, nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa không để họ tiếp tục phạm tội, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và bảo đảm việc thi hành án.
  • 20. 20 Bắt người cũng như các BPNC khác đều là những biện pháp cưỡng chế tố tụng được thực hiện bằng sức mạnh của quyền lực nhà nước, luôn gắn liền với sự tác động và hạn chế các quyền tự do cá nhân của đối tượng bị áp dụng trong TTHS nhằm mục đích chung là ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa người phạm tội trốn tránh pháp luật hoặc có hành vi gây khó khăn, cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự hoặc tiếp tục phạm tội. Do đó khi thực hiện quyết định bắt cần phải có sự cân nhắc hết sức thận trọng, tuân thủ chặt chẽ các quy định của pháp luật về căn cứ, trình tự, thủ tục, thẩm quyền. Với biện pháp này, buộc người bị bắt phải có mặt tại địa điểm quy định để làm việc với Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán. Biện pháp bắt người được tính từ thời điểm người có chức vụ theo luật định ra lệnh bắt đến khi kết thúc là người bị bắt được dẫn giải đến nơi để tạm giữ, tạm giam. Biện pháp bắt người luôn có quan hệ tác động qua lại với các BPNC khác. Trong mối quan hệ với các BPNC khác, bắt người thường là tiền đề cho việc áp dụng các BPNC khác. Ở phương diện quan hệ này có thể nói trong luật TTHS nếu xác định bắt người là BPNC độc lập có lẽ cũng chỉ nhằm xác định ranh giới về mặt hình thức của sự tác động đến các quyền tự do cá nhân của đối tượng bị áp dụng BPNC mà thôi. Nếu nghiên cứu đầy đủ, cụ thể các quy định của BLTTHS về các BPNC như đối tượng, căn cứ, mục đích cụ thể của việc áp dụng, chúng ta có thể đưa ra một kết luận chắc chắn rằng sẽ không có bắt người độc lập (bắt chỉ để bắt) mà thường gắn với một mục đích nhất định nào đó, từ đó cho thấy bắt người thường là BPNC đi liền trước hoặc là tiền đề cho việc áp dụng BPNC khác. Việc quy định biện pháp bắt người trong TTHS thể hiện đường lối, chính sách của Nhà nước ta trong việc xử lý những hành vi phạm tội. Bắt người cùng với các BPNC khác góp phần nâng cao hiệu quả quản lý xã hội bằng pháp luật, là cơ sở pháp lý để cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tác động đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân trong
  • 21. 21 những trường hợp cần thiết, nhằm mục đích của TTHS. Mặt khác, việc quy định biện pháp bắt người còn thể hiện thái độ kiên quyết, triệt để của Nhà nước trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Quy định và áp dụng biện pháp bắt người có ý nghĩa rất lớn trong thực tiễn. Việc bắt người sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết được những nhiệm vụ đặt ra trong các giai đoạn tố tụng một cách chính xác, nhanh chóng. Thông thường khi thực hiện tội phạm hoặc ngay cả trường hợp đang chuẩn bị thực hiện tội phạm, người phạm tội đã ít nhiều nhận thức được những hậu quả mà mình phải gánh chịu, do vậy họ thư- ờng tính toán những phương án cần thiết để trốn tránh pháp luật hoặc gây khó khăn cho việc điều tra, xử lý tội phạm mà họ thực hiện. Việc bắt các đối t- ượng này để hạn chế tự do của họ, làm rõ hành vi phạm tội của họ một cách khách quan là cần thiết và trong nhiều trường hợp là cấp bách không thể trì hoãn (trường hợp phạm tội quả tang, khẩn cấp), nó giúp cơ quan có thẩm quyền không chỉ kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa người có hành vi phạm tội bỏ trốn mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Việc quy định một cách cụ thể, rõ ràng các trường hợp bắt người về đối tượng, thẩm quyền, căn cứ, thủ tục bắt là cơ sở pháp lý vững chắc để xử lý hành vi vi phạm pháp luật khi áp dụng biện pháp bắt người. Việc bắt người hầu hết đều do người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện, các quy định của pháp luật TTHS về biện pháp này là những quy định có tính chất lựa chọn, tức là chỉ áp dụng trong những trường hợp cần thiết, không phải là biện pháp bắt buộc đối với tất cả tội phạm. Việc bắt người trong thực tế không chỉ là đòi hỏi của công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự, liên quan trực tiếp đến đối tượng bị áp dụng mà còn ảnh hưởng đến tình hình an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội. Việc áp dụng BPNC này là một việc rất phức tạp và hệ trọng. Do đó, để đảm bảo được hiệu quả cao nhất, bảo
  • 22. 22 đảm được sự đồng tình của dư luận xã hội, tạo được niềm tin của quần chúng nhân dân vào tính đúng đắn của việc áp dụng biện pháp này, việc bắt người trong TTHS phải được xem xét, cân nhắc, đánh giá một cách thận trọng, đầy đủ. Khi áp dụng phải đảm bảo được các yêu cầu về chính trị, pháp luật và nghiệp vụ. Bắt người đúng pháp luật sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, ngăn chặn kịp thời những hành vi phạm tội cũng như hành vi trốn tránh pháp luật, gây khó khăn cho tiến trình giải quyết vụ án hình sự, bảo đảm việc thực thi pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng. Ngược lại bắt người không đúng pháp luật (không đúng căn cứ áp, thủ tục, trình tự, thẩm quyền, bắt nhầm, bắt oan, bắt sai...) sẽ gây tác hại to lớn đến nhiều mặt, không những xâm phạm quyền tự do thân thể của công dân mà còn làm giảm uy tín của Nhà nước và các cơ quan bảo vệ pháp luật, gây hoang mang trong dư luận, dễ bị các thế lực phản động, thù địch trong và ngoài nước lợi dụng để xuyên tạc nói xấu chế độ, chống phá lại Nhà nước ta. Với ý nghĩa và tầm quan trọng to lớn của việc bắt người nêu trên nên Nhà nước ta đã ban hành một hệ thống văn bản pháp luật TTHS quy định chi tiết về vấn đề này. Quá trình tổ chức thực hiện các văn bản trên đây đã phát huy được tác dụng to lớn trong cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, việc vận dụng các quy định nói trên trong một thời gian dài mà ít có sự thay đổi đã không tránh khỏi những hạn chế, vướng mắc do sự thay đổi của tình hình kinh tế - xã hội và những diễn biến phức tạp của tình hình tội phạm. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm cũng như yêu cầu của việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và việc bảo đảm các quyền dân chủ của công dân, kế thừa có chọn lọc các quy định về bắt người trong các văn bản pháp luật trước đây, nhất là quy định của BLTTHS năm 1988, BLTTHS năm 2003 quy định ba trường hợp bắt người sau:
  • 23. 23 - Bắt bị can, bị cáo để tạm giam; - Bắt người trong trường hợp khẩn cấp; - Bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã. Với ba trường hợp nêu trên là quy định chung để khi có căn cứ thuộc trường hợp nào thì cơ quan, người có thẩm quyền do luật định có thể áp dụng. Song căn cứ vào Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, các quy định đối với người chưa thành niên, các quy định đối với người nước ngoài, khi chủ thể thuộc các trường hợp này còn phải vận dụng thêm các quy định mang tính cá biệt để áp dụng BPNC cũng như áp dụng các quy định trong BLTTHS được đúng đắn. Việc áp dụng các biện pháp bắt cũng phải quán triệt các nguyên tắc chung, các chủ trương, đường lối chỉ đạo của Đảng và Nhà nước trong mỗi giai đoạn xây dựng và phát triển nền kinh tế - xã hội của đất nước ta. 1.1.2. Biện pháp bắt người đang bị truy nã 1.1.2.1. Khái niệm biện pháp bắt người đang bị truy nã Để đảm bảo tính chính xác, khách quan, nhanh chóng và xử lý nghiêm minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, với phương châm "không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội", các cơ quan và người có thẩm quyền theo quy định của BLTTHS được phép áp dụng BPNC quy định tại Điều 79 BLTTHS. Nội dung của điều luật là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc bắt người trong đó có trường hợp bắt người đang bị truy nã. Mặc dù Điều 82 BLTTHS quy định tương đối đầy đủ việc bắt người đang bị truy nã nhưng không giải thích thế nào là bắt người đang bị truy nã. Về lịch sử, truy nã là một tập quán phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới xuất phát từ yêu cầu bảo vệ cuộc sống yên ổn của cộng đồng và trừng trị kẻ gây ra tội ác. Truy nã tội phạm từ lâu đã gắn liền và trở thành một bộ phận quan trọng trong cuộc đấu tranh chống tội phạm ở nước ta. Tuy vậy do nhiều
  • 24. 24 nguyên nhân khác nhau, vấn đề pháp lý và lý luận còn nhiều hạn chế, chưa tương xứng với tầm quan trọng mà BPNC này mang lại. Do vậy, việc tìm hiểu, làm sáng tỏ bản chất khái niệm truy nã tội phạm đang đặt ra trước yêu cầu hoàn thiện lý luận về truy nã tội phạm. Bằng cách hiểu thông thường, truy nã tội phạm được coi là hoạt động "Truy lùng, dò theo để bắt" [51]. Với quan niệm này, truy nã tội phạm được coi như việc truy đuổi, tìm kiếm, tầm nã để bắt những kẻ gian phi không để chúng trốn thoát. Như vậy, ý tưởng ban đầu về truy nã tội phạm có ý nghĩa là những hành vi tự vệ, có tính tự phát của cộng đồng mà chưa phản ánh tính pháp lý với tính chất là một hoạt động thực thi quyền lực nhà nước để bắt giữ người phạm tội. Hiện nay pháp luật nhiều nước trên thế giới và kể cả ở nước ta cho phép bất kỳ người nào cũng có quyền bắt giữ người đang bị truy nã đều bắt nguồn từ quan niệm, tập quán đó. Cùng với những tiến bộ của văn minh nhân loại và sự phát triển của khoa học pháp lý, truy nã tội phạm đã dần trở thành vấn đề pháp lý gắn với hoạt động bảo vệ pháp luật của những cơ quan chức năng. Với quan điểm nêu trên, các nhà nghiên cứu cũng đã xuất phát từ lý luận pháp lý, khoa học điều tra tội phạm để xây dựng nên những khái niệm về truy nã tội phạm ngày càng chính xác hơn. Theo Từ điển Luật học thì: Truy nã tội phạm là hoạt động tố tụng hình sự - nghiệp vụ của lực lượng Công an nhân dân trong đấu tranh phòng, chống tội phạm nhằm phát hiện, tìm kiếm, bắt giữ người có hành vi phạm tội đang lẩn trốn theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền, phục vụ cho công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án phạt tù hoặc tử hình [48].
  • 25. 25 Theo Từ điển nghiệp vụ phổ thông: "Truy nã tội phạm là tìm bắt kẻ phạm tội đang lẩn trốn mà chưa biết kẻ đó trốn ở đâu theo lệnh truy nã của cơ quan có thẩm quyền" [44]. Theo Từ điển bách khoa Công an nhân dân Việt Nam thì: Truy nã tội phạm là truy bắt người phạm tội đang lẩn trốn theo quyết định truy nã của cơ quan có thẩm quyền. Truy nã tội phạm là một hoạt động điều tra trong tố tụng hình sự, được thực hiện bằng cách áp dụng tổng hợp các biện pháp công tác, nhằm phát hiện, bắt giữ bị can, bị cáo, người bị kết án phạt tù hoặc tử hình, phạm nhân đang lẩn trốn phục vụ cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án [43]. Còn theo tác giả Đỗ Hùng thì "Truy nã tội phạm là một hoạt động nghiệp vụ pháp lý rất quan trọng và là một bộ phận không thể thiếu được trong cuộc đấu tranh chống tội phạm nhằm phát hiện, bắt giữ người phạm tội bỏ trốn, phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử tội phạm và thi hành án phạt tù" [21]. Trong Giáo trình truy nã - truy tìm của trường Đại học Cảnh sát nhân dân thì: "Truy nã tội phạm là một công tác nghiệp vụ của cơ quan Công an được tiến hành bằng mọi biện pháp cần thiết nhằm bắt lại những kẻ đang trốn tránh pháp luật theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền" [40]. Theo Giáo trình Luật TTHS, trường Đại học Luật Hà Nội thì: "Người đang có lệnh truy nã là người thực hiện hành vi phạm tội đã có lệnh bắt hoặc đã bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang thi hành án phạt tù tại trại giam thì bỏ trốn" [41]. Mỗi quan niệm nêu trên tuy có chứa đựng một số yếu tố của BPNC bắt người đang bị truy nã nhưng chưa thể hiện tập trung, đầy đủ nhất những yếu tố cấu thành, đặc trưng và tính chất của BPNC này. Nhằm hoàn thiện lý
  • 26. 26 luận về BPNC bắt người đang bị truy nã cần có một khái niệm hoàn chỉnh, đáp ứng những nhiệm vụ nghiên cứu mà luận văn đã đề ra. Qua nghiên cứu điều luật và quá trình thực hiện Luật TTHS, theo tôi biện pháp bắt người đang bị truy nã được hiểu như sau: Bắt người đang bị truy nã là một trường hợp của BPNC bắt trong Luật TTHS Việt Nam do CQĐT áp dụng bằng toàn bộ các biện pháp pháp luật và nghiệp vụ nhằm phát hiện, bắt giữ bị can, bị cáo, người bị kết án phạt tù hoặc tử hình, phạm nhân khi những người này bỏ trốn hoặc không họ biết đang ở đâu nhằm phục vụ cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. 1.1.2.2. Mục đích, ý nghĩa của việc quy định và áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã Yêu cầu của cuộc đấu tranh chống tội phạm ở các nước nói chung và ở nước ta nói riêng là phòng ngừa không để tội phạm xảy ra, phát hiện tội phạm và xử lý nghiêm minh người phạm tội trước pháp luật, giáo dục, cải tạo người phạm tội và đưa họ tái hòa nhập cộng đồng. Vì thế, người phạm tội còn lẩn trốn ngoài vòng pháp luật thì vẫn còn điều kiện và tiếp tục gây ra những hậu quả xấu đối với xã hội và làm cho các mặt của hoạt điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án bị kéo dài, bế tắc đồng thời gây ra những tốn kém đáng kể, việc truy nã càng thêm khó khăn, phức tạp. Vì thế mục đích của BPNC bắt người đang bị truy nã là phát hiện và bắt giữ người đang bị truy nã bỏ trốn hoặc không biết đang ở đâu theo quyết định tố tụng của CQĐT để tiếp tục điều tra, xác định hành vi phạm tội của họ, truy tố, xét xử, tiếp tục thi hành hình phạt và cải tạo giáo dục họ, đưa họ tái hòa nhập với cộng đồng xã hội. Quá trình giải quyết một vụ án hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng phải tiến hành nhiều hành vi tố tụng khác nhau nhằm thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm và người phạm tội; áp dụng hình phạt và buộc người đã thực hiện hành vi phạm tội phải chịu hình phạt hoặc các chế tài pháp lý khác.
  • 27. 27 Quá trình này không những đòi hỏi sự hoạt động tích cực của người tiến hành tố tụng mà còn là những hoạt động của những người tham gia tố tụng khác với những quyền và nghĩa vụ nhất định. Tuy vậy trên thực tế không phải bao giờ và khi nào bị can, bị cáo, người bị kết án phạt tù cũng thực hiện nghĩa vụ của mình một cách tự giác; nhiều trường hợp họ cố tình trốn tránh hòng thoát khỏi sự trừng trị của pháp luật. Do đó, để ngăn chặn và phòng ngừa họ không thực hiện nghĩa vụ, việc BLTTHS quy định và cho phép các cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng, những người khác theo luật định được áp dụng BPNC bắt người đang bị truy nã là hết sức cần thiết và có ý nghĩa lớn trong việc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm ở nước ta thể hiện trên các khía cạnh sau: Một là, quy định và áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã trong TTHS Việt Nam bảo đảm cho các hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng được thuận lợi; góp phần quan trọng, nâng cao hiệu quả của công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm Sau khi thực hiện hành vi phạm tội, thông thường người phạm tội đã ý thức rất rõ về trách nhiệm hình sự mà mình phải gánh chịu. Chính vì vậy mà bị can, bị cáo, người bị kết án phạt tù sau khi phạm tội, đang chấp hành hình phạt tù luôn tìm đủ mọi cách, lợi dụng sự sơ hở trong công tác quản lý, canh gác, các giai đoạn tố tụng, các quy định của pháp luật để trốn tránh được sự phát hiện và trừng phạt của pháp luật. Việc áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã là cần thiết nhằm ngăn chặn kịp thời và có hiệu quả hành vi bỏ trốn, gây khó khăn cho việc xử lý người phạm tội là một tất yếu khách quan. Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình, CQĐT, Viện kiểm sát và Tòa án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Trách nhiệm chứng minh
  • 28. 28 tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó nếu như người phạm tội còn lẩn trốn ngoài vòng pháp luật không những chúng còn tiếp tục tụ tập đồng bọn để gây án, thậm chí phạm tội lần sau còn nguy hiểm, nghiêm trọng hơn so với lần trước mà những phương tiện, công cụ gây án, tài sản do người phạm tội sử dụng và chiếm đoạt được chúng luôn tìm mọi cách che giấu, phân tán. Nếu sớm bắt lại được người đang bị truy nã, thu hồi nhanh chóng những tài sản, đồ vật, phương tiện có liên quan đến hành vi phạm tội sẽ có tác dụng phòng ngừa ngăn chặn trực tiếp những hành vi phạm tội, thúc đẩy quá trình điều tra xử lý tội phạm, thi hành án, góp phần bảo vệ trật tự pháp luật. Mặt khác, việc người có hành vi phạm tội bỏ trốn làm cho một lượng lớn các vụ án bị rơi vào tình trạng khó khăn, bế tắc, câu dầm. Hai là, quy định và áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã thể hiện sự chuyên chính của Nhà nước xã hội chủ nghĩa trong việc đấu tranh chống tội phạm Tội phạm với bản chất là hành vi nguy hiểm cho xã hội, gây ra hoặc đe dọa gây ra những thiệt hại cho những quan hệ xã hội quan trọng được Luật hình sự bảo vệ. Tội phạm trực tiếp hoặc gián tiếp xâm hại đến sự bền vững và ổn định của chế độ nhà nước, chế độ kinh tế - chính trị và xã hội, đến tính mạng, sức khỏe, tự do, danh dự, nhân phẩm và tài sản của công dân cũng như các quy tắc của cuộc sống xã hội - xã hội chủ nghĩa. Do đó, Nhà nước ta coi việc đấu tranh phòng, chống tội phạm, ngăn chặn kịp thời, xử lý nghiêm minh nhằm tiến tới loại trừ hiện tượng phạm tội ra khỏi đời sống cộng đồng là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất phải được tiến hành một cách kiên quyết, triệt để, không khoan nhượng. Việc quy định và đảm bảo thực hiện BPNC bắt người đang bị truy nã trong BLTTHS là biểu hiện cụ thể của các quan điểm nêu trên của Nhà nước.
  • 29. 29 Ba là, Việc quy định và áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã là góp phần bảo đảm sự dân chủ, tôn trọng các quyền cơ bản của công dân, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa Hiến pháp 1992 tại Điều 50 ghi nhận rõ: "Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật" [30]. Cũng tại Điều 71 Hiến pháp 1992 quy định: Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người phải đúng pháp luật [30]. Quyết định bắt người đang bị truy nã tác động trực tiếp đến quyền tự do về thân thể, tính mạng, sức khỏe của công dân, một trong các quyền nhân thân quan trọng nhất của con người được quy định trong Hiến pháp. Vì vậy lực lượng tiến hành bắt và tham gia bắt cần phải có sự thận trọng khi quyết định việc bắt. Việc bắt đúng pháp luật sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, ngăn chặn kịp thời hành vi trốn tránh pháp luật, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án của người phạm tội, bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được thuận lợi. Quy định và áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã không chỉ đơn thuần là tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện tốt nhiệm vụ theo chức năng của mình mà còn nhằm đảm bảo sự tôn trọng và thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đã được quy định trong Hiến pháp. Điều này thể hiện ở chỗ việc áp dụng hay không áp dụng BPNC bắt người đang bị truy nã không phải xuất phát từ ý muốn chủ quan, bởi sự áp đặt từ phía cơ quan Nhà nước có thẩm quyền mà là từ các quy định của pháp luật, đáp ứng sự đòi hỏi của thực tiễn về các phương diện như:
  • 30. 30 sự cần thiết phải áp dụng, thay đổi, hủy bỏ, đối tượng áp dụng, căn cứ áp dụng, thẩm quyền áp dụng, trình tự thủ tục bắt... trước hết là xuất phát từ sự tôn trọng các quyền và lợi ích hợp pháp của con người (bị can, bị cáo bỏ trốn). Mọi trường hợp thực hiện không đúng các quy định pháp luật trong việc áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã đều phải phát hiện và khắc phục kịp thời. Mọi hành vi trái pháp luật khi áp dụng gây hậu quả nghiêm trọng về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân phải bị xử lý nghiêm minh. Như vậy, xét một cách toàn diện, quy định và đảm bảo áp dụng nghiêm chỉnh biện pháp bắt người đang bị truy nã trong TTHS Việt Nam là sự thể hiện tập trung và rõ nét nhất tính dân chủ, ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa của Nhà nước ta. 1.1.2.3. Nguyên tắc áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã Khi thực hiện các hoạt động tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng ngoài việc phải tuân theo các nguyên tắc được quy định trong BLTTHS như nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền cơ bản của công dân; nguyên tắc đảm bảo quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân; nguyên tắc không ai có thể bị coi là có tội nếu chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án; nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan và nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường của người bị thiệt hại do cơ quan hoặc người có thẩm quyền tiến hành tố tụng... còn phải tuân theo những nguyên tắc đặc thù áp dụng đối với hoạt động bắt người đang bị truy nã. Nguyên tắc áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã là những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo trong quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện bắt người bị truy nã. Những nguyên tắc này là kim chỉ nam cho hoạt động bắt người đang bị truy nã. Việc thực hiện đúng hay sai có ảnh hưởng trực tiếp tới uy tín của Đảng và Nhà nước, có liên quan đến sinh mệnh chính trị của mỗi con
  • 31. 31 người. Vì vậy yêu cầu đặt ra là trong quá trình tiến hành áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã phải đúng người, đúng tội, đúng chính sách pháp luật quy định. Để đảm bảo các yêu cầu đó cần thiết phải quán triệt các nguyên tắc sau: Một là, truy nã đúng người, thông báo đúng hành vi phạm tội của người lẩn trốn. Công tác truy nã người phạm tội lẩn trốn là một trong những hoạt động của cơ quan bảo vệ pháp luật thực hiện trên cơ sở quy định của pháp luật TTHS, có liên quan trực tiếp đến quyền và những lợi ích hợp pháp của công dân và cũng là những yêu cầu quan trọng bảo đảm để công tác truy nã được đúng đắn và đem lại kết quả. Vì vậy, việc thực hiện đúng quy định của pháp luật trong công tác truy nã là một nguyên tắc quan trọng xuyên suốt trong công tác truy nã. Cơ quan ra QĐTN phải thông báo đúng người, đúng tội trạng của người có hành vi phạm tội lẩn trốn. Cần phải đảm bảo đảm những yếu tố để xác định sự đồng nhất giữa người bị bắt và người đang bị truy nã. Ra QĐTN đúng đối tượng là khi có đủ thông tin cần thiết như: tên, tuổi, địa chỉ, đặc điểm nhận dạng, ảnh để trên cơ sở đó, mọi người bằng trực quan khi gặp người có QĐTN cũng có thể xác định rõ ràng người bị bắt đúng là người đang có QĐTN. Khi QĐTN một con người cụ thể phải đảm bảo xác định rõ người đó đã có hành vi phạm tội theo quy định của Bộ luật Hình sự (BLHS), đã bị các cơ quan có thẩm quyền khởi tố là bị can vì tội danh đó hoặc đã bị kết án tù, có án tử hình đang bị tạm giam, phạm nhân đang thi hành án bỏ trốn. Những người tuy có dấu hiệu phạm tội nhưng họ chưa bị khởi tố là bị can, những người đang bị tạm giữ bỏ trốn, nếu xét thấy cần thiết phải truy nã thì phải xem xét có đủ yếu tố để khởi tố họ theo tội danh "Trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử" theo Điều 311 BLHS năm 1999 sau đó mới ra QĐTN.
  • 32. 32 Về hành vi lẩn trốn: Người có hành vi phạm tội lẩn trốn tức là hiện tại không biết họ đang có mặt ở đâu. Người có hành vi phạm tội (như đã nêu trên) lẩn trốn bao gồm: Những người đang bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt nhưng đã trốn khỏi nơi giam, những người trốn thi hành lệnh bắt giữ của những cơ quan có thẩm quyền hoặc đang bị dẫn giải trên đường mà bỏ trốn. Việc lẩn trốn của những người trên đây đã trực tiếp gây khó khăn cho việc giam giữ, cải tạo thi hành án của những cơ quan chức năng. Cần lưu ý rằng để xác định một người nào đó có phải cố ý lẩn trốn hay không cần phải có sự xác minh. Nếu có căn cứ cho rằng việc họ không có mặt tại một địa điểm nào đó theo lệnh, quyết định của CQĐT, truy tố, xét xử nhưng qua xác minh của cơ quan chức năng họ có lý do rõ ràng như: Đi công tác, khám chữa bệnh, thăm người thân... thì chưa cần thiết phải truy nã. Chỉ ra QĐTN khi có đủ căn cứ chứng tỏ người có hành vi phạm tội đã cố tình trốn tránh pháp luật, làm cho việc thi hành các quyết định TTHS không có kết quả. Cần khắc phục tình trạng khi thấy đối tượng không đến thi hành án hình sự hoặc không có mặt tại địa điểm bắt buộc đã vội vã ra quyết định hoặc yêu cầu truy nã hoặc vì lý do hết thời hạn điều tra, ngại truy bắt, hoặc lấy việc đối tượng vắng mặt để làm căn cứ tạm đình chỉ điều tra. Hai là, khi bắt người đang bị truy nã phải thận trọng, chính xác, linh hoạt và an toàn, nếu phát hiện sai phải sửa ngay. Tổ chức công tác truy nã thực chất là một hoạt động điều tra theo kế hoạch, với mục đích nhằm tìm kiếm bắt giữ người có hành vi phạm tội lẩn trốn. Vì vậy tổ chức công tác truy nã phải thận trọng, chính xác, linh hoạt và an toàn. Nguyên tắc này đòi hỏi những cơ quan chức năng và quần chúng nhân dân trước hết phải nêu cao tinh thần cảnh giác, kiên quyết phát hiện bắt giữ bọn tội phạm lẩn trốn, phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, chấp hành pháp luật trong bắt giữ người đang bị truy nã nói riêng. Phải luôn luôn chủ động tích cực, tấn công tội phạm, khi phát hiện đối tượng truy nã cần tổ chức bắt
  • 33. 33 giữ chúng kịp thời, không để đối tượng có điều kiện tiếp tục lẩn trốn. Tuy nhiên không vì thế mà chủ quan, nóng vội trong những trường hợp việc nhận dạng, nhận diện đối tượng còn ghi ngờ cần phải kiểm tra, xác minh trước khi bắt. Thực tiễn cho thấy đối tượng lẩn trốn đã sử dụng thủ đoạn ngụy trang, che giấu đặc điểm nhận dạng, thay đổi hình dáng. Ngược lại có những trường hợp ngẫu nhiên trùng hợp giữa đặc điểm nhận dạng đối tượng truy nã với một người nào đó, nhất là trong trường hợp anh chị em sinh đôi hoặc những người có khuyết tật nào đó trên cơ thể tương tự đối tượng truy nã như đi cà nhắc, rỗ mặt, đeo kính cận, cụt chân, tay... Trong trường hợp đó trước khi bắt giữ cần kết hợp, kiểm tra nhiều thông tin như: Đặc điểm nhận dạng, thái độ, địa điểm xuất hiện... của đối tượng nghi vấn. Có như vậy mới nhanh chóng loại trừ những sự trùng hợp ngẫu nhiên, khẳng định đối tượng để có những quyết định chính xác. Với những trường hợp ghi ngờ, chưa thể xác định ngay có phải là đối tượng truy nã hay không cần có biện pháp giám sát, theo dõi chặt chẽ, tìm cách thông báo với cơ quan, đơn vị có trách nhiệm để xác định thật chính xác, nếu đúng đối tượng truy nã thì phải kịp thời bắt giữ. Sau khi bắt giữ người đang bị truy nã hoặc tiếp nhận người bị bắt, các cơ quan có thẩm quyền phải áp dụng các biện pháp kiểm tra, xác minh ngay như: Đối chiếu, xác định lại người bị bắt với Quyết định, lệnh truy nã, lấy lời khai, kiểm tra người, báo cáo cho cơ quan đã ra Quyết định, Lệnh truy nã... Khi đã xác định chính xác người bị bắt là đối tượng đang bị truy nã mới áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần thiết theo luật định như khám xét, giam giữ, dẫn giải... Trường hợp đã bắt nhưng phát hiện còn ghi ngờ phải áp dụng những biện pháp tiếp tục xác minh ngay và phải tuân thủ quy định của pháp luật đảm bảo quyền tự do cho họ. Tuyệt đối không xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của người bị bắt trong quá trình giam hoặc giữ họ. Trường hợp tiếp nhận người bị bắt mà họ đã có những thương tích trước đó hoặc có lý do về sức khỏe phải lập hồ sơ chặt chẽ, xác định rõ lý do. Ba là, quyết định truy nã (Lệnh truy nã) phải được chấp hành nghiêm chỉnh.
  • 34. 34 QĐTN hay Lệnh truy nã là văn bản pháp lý trong hoạt động TTHS do cơ quan có thẩm quyền ban hành, được áp dụng đối với: - Bị can (người đã bị khởi tố về hình sự) bỏ trốn hoặc không biết đang ở đâu; - Bị cáo (người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử) bỏ trốn hoặc không biết đang ở đâu; - Người bị kết án tù hoặc tử hình (người đã bị Tòa án kết án tù có thời hạn, tù chung thân hoặc tử hình đang chờ thi hành án - có thể đang bị tạm giam hoặc tại ngoại) bỏ trốn; - Phạm nhân (người đang chấp hành hình phạt tù trong các trại giam, trại tạm giam và nhà tạm giữ) trốn trại [5]. Quyết định truy nã là cơ sở pháp lý để bắt giữ kịp thời người có hành vi phạm tội lẩn trốn, đảm bảo thi hành pháp luật, đồng thời nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng và biện pháp để truy nã tội phạm có kết quả. Bộ Công an đã quy định quyết định, lệnh truy nã là mệnh lệnh chiến đấu với mọi tập thể và cá nhân cán bộ, chiến sĩ Công an. Điều đó có nghĩa là tất cả các lực lượng, các đơn vị, các cấp Công an và cán bộ, chiến sĩ khi nhận được quyết định, lệnh truy nã đều phải thi hành và tạo những điều kiện cần thiết để truy bắt bọn tội phạm lẩn trốn. Tùy theo chức năng, nhiệm vụ của mình, các đơn vị và cá nhân cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân đều có trách nhiệm tổ chức hoặc tham gia công tác truy nã tội phạm. Với ý nghĩa như vậy quyết định, lệnh truy nã không chỉ đảm bảo thực hiện bằng quyền lực nhà nước mà còn thể hiện tính kỷ luật cao, phù hợp với tính chất vũ trang hoạt động của Công an nhân dân. Mọi biểu hiện thờ ơ, thiếu trách nhiệm hoặc ỷ lại lẫn nhau trong việc thi hành quyết định, lệnh truy nã đều có thể hạn chế đến kết quả công tác truy nã, vi phạm nguyên tắc công tác của ngành Công an.
  • 35. 35 Bốn là, khi bắt được đối tượng, hoặc đối tượng đã chết, đã đầu thú, đã được thanh loại, cơ quan đó phải ra quyết định đình nã và gửi tới những nơi đã gửi quyết định truy nã. Pháp luật TTHS đã quy định rõ: Trong thời hạn 48 giờ kể từ khi bắt được, tiếp nhận đối tượng truy nã ra đầu thú, cơ quan đã ra quyết định truy nã phải ra quyết định đình nã và gửi quyết định đình nã đó đến những nơi đã gửi quyết định truy nã, thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng và niêm yết ở những nơi công cộng để mọi người biết [5]. Nếu như QĐTN là văn bản pháp lý đánh dấu sự kiện bắt đầu truy nã một con người thì quyết định đình nã là văn bản kết thúc truy nã đối với con người đó. Việc thực hiện tốt nguyên tắc này, thể hiện tinh thần trách nhiệm đến cùng khi truy nã một đối tượng cụ thể, tránh những lãng phí về sức người và kinh phí, giúp cho công tác truy nã tội phạm được khách quan, thận trọng, đảm bảo tính thống nhất trong việc thi hành pháp luật cũng như tạo điều kiện thuận lợi trong theo dõi, kiểm tra đánh giá hiệu quả công tác truy nã người có hành vi phạm tội. Cần tránh tình trạng một số đơn vị, cá nhân chỉ quan tâm đến việc ra quyết định, lệnh, phổ biến quyết định, lệnh truy nã mà xem thường việc ra và phổ biến quyết định đình nã. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho số lượng đối tượng truy nã tăng lên giả tạo hoặc gây nên những lãng phí không cần thiết. Năm là, nghiêm cấm dùng quyết định truy nã thay lệnh bắt người trong những trường hợp khác hoặc làm những việc sai trái pháp luật. Pháp luật TTHS đã quy định rất chặt chẽ và phân biệt các trường hợp bắt khác nhau như: Bắt người phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã, bắt người trong trường hợp khẩn cấp; bắt bị can, bị cáo để tạm giam... Tương ứng với các trường hợp bắt như vậy, thì các căn cứ thủ tục, thẩm quyền, ra lệnh trong từng trường hợp cũng khác nhau. Đối với trường hợp bắt người phạm
  • 36. 36 pháp quả tang và người đang bị truy nã, mọi công dân đều có quyền bắt và tước vũ khí của người bị bắt. Do vậy, việc sử dụng quyền, lạm quyền để ra quyết định, lệnh truy nã để thay lệnh bắt người chẳng những vi phạm pháp luật mà còn kéo theo những hậu quả khác như oan sai, sót lọt, vi phạm quyền tự do của công dân... Trong thực tiễn hoạt động TTHS, đã có những trường hợp vì những lý do khác nhau như: Ngại làm thủ tục (lệnh bắt); để khép kín hồ sơ, nôn nóng muốn bắt nhanh... Đã có một số cá nhân hoặc đơn vị công an đã lạm quyền sử dụng quyết định, lệnh truy nã để thay thế lệnh bắt như: dùng quyết định, lệnh truy nã thay lệnh bắt khẩn cấp hoặc để đe dọa đối tượng; hoặc chạy theo thành tích... đều không đúng với tinh thần nguyên tắc của công tác truy nã tội phạm. Nguyên tắc này phải được quán triệt trong toàn bộ hoạt động TTHS nói chung và trong hoạt động điều tra tội phạm nói riêng. Sáu là, sử dụng tổng hợp sức mạnh các lực lượng, các tổ chức, các ngành và công dân trong công tác truy nã tội phạm. Sự phối hợp này không chỉ là trách nhiệm dựa trên cơ sở pháp luật, bổn phận của mỗi công dân trước sự yên ổn của cộng đồng mà là từ yêu cầu đòi hỏi của công tác truy nã. Lực lượng Công an nhân dẫn phải chủ động làm nòng cốt để tập hợp, phối hợp các lực lượng, các ngành và công dân theo kế hoạch thống nhất nhằm phát hiện, bắt giữ đối tượng truy nã. Thông tin về đối tượng truy nã phải được thường xuyên thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt ở địa bàn công cộng để nhân dân phát hiện truy bắt. Hoạt động truy nã tội phạm phải đảm bảo thông suốt, nhịp nhàng trong tất cả các khâu, các bước, các hoạt động cụ thể. Các lực lượng phải phối hợp sử dụng đồng bộ các biện pháp nghiệp vụ trong kế hoạch và sự chỉ đạo thống nhất. CQĐT và các lực lượng có liên quan phải tập trung điều tra, xác minh thu nhập tài liệu chứng cứ, truy bắt ngay đối tượng trốn để hạn chế thấp nhất đối tượng phạm tội bỏ trốn. Cơ quan điều tra phải phối hợp chặt chẽ với
  • 37. 37 Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân đẩy nhanh tiến độ điều tra, giải quyết những vụ án đang thụ lý, thống nhất quan điểm về áp dụng hoặc thay đổi BPNC, khẩn trương đưa ra truy tố xét xử và thi hành án, không để kéo dài, để đối tượng trốn trong giai đoạn truy tố, xét xử, thống nhất áp dụng chính sách với đối tượng trốn ra đầu thú. Tất cả cán bộ, chiến sĩ phải nêu cao tinh thần trách nhiệm để phát hiện, bắt giữ kịp thời đối tượng truy nã. Tránh tư tưởng ỷ lại lẫn nhau hoặc ngại khó, ngại khổ, thậm chí sợ sệt khi truy nã đối tượng. Việc quán triệt và thực hiện những nguyên tắc nêu trên nhằm đảm bảo cho công tác truy nã tội phạm được chính xác, có hiệu quả, có tổ chức chặt chẽ, thống nhất tạo sức mạnh tổng hợp tấn công tội phạm cả về tư tưởng lẫn hành động. 1.1.2.3. Đặc điểm của biện pháp bắt người đang bị truy nã Mục đích của hoạt động truy nã là tiến hành tìm kiếm, xác định phát hiện người có hành vi phạm tội lẩn trốn còn mục đích của công tác điều tra là chứng minh tội phạm... Truy nã người phạm tội lẩn trốn là một loại hình hoạt động cụ thể trong quá trình điều tra tội phạm vừa chứa đựng những đặc trưng của công tác điều tra vừa mang đặc điểm riêng. Sự phân biệt nêu trên làm cơ sở xác định đặc điểm của hoạt động truy nã cũng như sự giống và khác nhau giữa hoạt động truy nã và hoạt động điều tra. Ngoài những đặc điểm chung của công tác điều tra tội phạm, công tác truy nã còn mang những đặc điểm riêng đó là: - Công tác truy nã tội phạm vừa là hoạt động tố tụng hình sự được tiến hành công khai, thông báo cho mọi công dân biết, nhưng trong tổ chức công tác truy nã phải sử dụng các hoạt động nghiệp vụ bí mật. Đặc điểm này thể hiện hình thức tiến hành công tác truy nã tội phạm, xét trên những phương diện của những biện pháp, lực lượng, phương tiện tiến hành. Tính công khai của công tác truy nã tội phạm thể hiện ở chỗ nó được
  • 38. 38 quy định cụ thể, rõ ràng trong các văn bản, quy phạm pháp luật của Nhà nước. Với tính chất công khai, công tác truy nã có thể và cần sử dụng các nguồn tài liệu, lực lượng, phương tiện, biện pháp công khai như: kiểm tra hành chính, tuần tra kiểm soát, bắt, khám xét, hỏi cung... Mọi hoạt động trong quá trình tiến hành công tác truy nã tội phạm một mặt được đảm bảo thực hiện bằng pháp luật, nhưng đồng thời chịu sự giám sát của Viện kiểm sát nhân dân. Kết quả công tác truy nã tội phạm và những tài liệu, chứng cứ thu thập được có giá trị chứng minh tội phạm, xử lý kẻ phạm tội trước pháp luật. Biện pháp trinh sát với những hoạt động nghiệp vụ bí mật trong công tác truy nã trước hết đó là một yêu cầu khách quan do thủ đoạn lẩn trốn tinh vi của đối tượng và những khó khăn, nguy hiểm trong quá trình truy bắt chúng, mặt khác còn thể hiện tính chủ động, tính sáng tạo trong việc sử dụng tổng hợp các lực lượng, phương tiện và biện pháp truy nã. Nội dung những hoạt động bí mật được xác định trên cơ sở mục đích tìm kiếm, phát hiện, bắt giữ người phạm tội lẩn trốn. Đây hoạt động quan trọng đặc biệt, chủ yếu do lực lượng trinh sát tiến hành, nó giống với hoạt động trinh sát và phối hợp hoạt động trinh sát với hoạt động điều tra tội phạm theo Luật TTHS là hình thức. Phương pháp sử dụng các lực lượng, phương tiện, chiến thuật trinh sát phải phù hợp với tính chất, đặc điểm của đối tượng. Hoạt động nghiệp vụ trinh sát để truy nã người phạm tội lẩn trốn tuy không chịu sự giám sát của Viện Kiểm sát nhân dân, không bị ràng buộc về thời hạn, nhưng cần phải tuân thủ các nguyên tắc nghiệp vụ của Bộ Công an quy định, đảm bảo tính chính xác, nhanh chóng khẩn trương và có hiệu quả. Thực tế cho thấy hoạt động trinh sát chiếm vị trí quan trọng trong công tác truy nã, đặc biệt trong những trường hợp người phạm tội đã lẩn trốn lâu hoặc đối tượng sử dụng những thủ đoạn tinh vi để lẩn trốn hoặc khi bắt giữ những tên tội phạm nguy hiểm, ngoan cố có sử dụng vũ khí. Nhưng cần chú ý, dù có tác dụng và quan trọng đến đâu thì những thông tin tài liệu thu thập được từ việc
  • 39. 39 tiến hành các hoạt động nghiệp vụ bí mật trong công tác truy nã vẫn cần phải chuyển hóa thành chứng cứ phục vụ các hoạt động điều tra công khai. Kết hợp chặt chẽ, hợp lý giữa hoạt động công khai và hoạt động bí mật trong công tác truy nã vừa là đặc điểm vừa là nghệ thuật của khoa học điều tra và của công tác tìm kiếm, bắt giữ tội phạm. Từ đó cần tránh việc coi nhẹ các hoạt động công khai hoặc quá coi trọng các hoạt động bí mật trong truy nã tội phạm dẫn đến lạm dụng sử dụng biện pháp nghiệp vụ, "thần bí" hóa công tác truy nã, không chú ý đến việc kết hợp với các biện pháp hành chính, vận động quần chúng trong hoạt động truy nã. - Hoạt động truy nã chỉ tiến hành sau khi đã xác định hành vi phạm tội và những yếu tố cơ bản về đặc điểm, nhân thân đối tượng. Đây là một đặc điểm nổi bật phản ánh tính chất đặc thù của công tác truy nã so với một số công tác khác như: Công tác điều tra vụ án hình sự; công tác truy xét, truy tìm...Thông thường các mặt công tác này khi tiến hành chưa xác định rõ hoặc chỉ mới xác định được ở một mức độ nhất định về tên, tuổi, địa chỉ, tính chất của hành vi phạm tội... thậm chí còn chưa biết kẻ phạm tội là ai. Ngược lại trong công tác truy nã để có căn cứ ra QĐTN người có hành vi phạm tội thì hành vi phạm tội và nhân thân đối tượng đã xác định rõ, được khắc họa bởi các yếu tố cơ bản như: Hành vi phạm tội và tính chất của tội phạm, tên tuổi, địa chỉ, quan hệ, đặc điểm, nhân dạng, ảnh của đối tượng. Tuy nhiên không phải lúc nào cũng có ngay, có đủ những thông tin đó khi đối tượng có hành vi phạm tội trốn. Hầu hết các trường hợp trốn dù đã có hồ sơ điều tra nhưng vẫn phải xác minh, thu thập, khai thác thêm thông tin nhất là những quan hệ về nhân thân của đối tượng và thông qua bước điều tra, xác minh trước. Trong thực tế không ít trường hợp, khi ra QĐTN và lệnh truy nã nhưng vẫn thiếu những thông tin cần thiết về đối tượng. Vì vậy, để đảm bảo truy nã đúng người, đúng tội, điều quan trọng trong công tác truy nã là phải có bước điều tra xác minh, để có đủ thông tin cơ bản ra quyết định, cần tăng
  • 40. 40 cường sự phối hợp, trao đổi thông tin lẫn nhau giữa các lực lượng, các cơ quan có trách nhiệm để phát hiện, bắt giữ người có quyết định, lệnh truy nã. - Truy nã người phạm tội lẩn trốn tội phạm là công việc nguy hiểm, phức tạp đòi hỏi tính tổ chức kỷ luật cao. Điều tra tội phạm đã là công việc khó khăn, phức tạp, nguy hiểm, nhưng công tác truy nã tội phạm trong nhiều trường hợp còn khó khăn, nguy hiểm hơn. Bởi vì người có hành vi phạm tội thường là những đối tượng đã gây ra những vụ án nghiêm trọng, những đối tượng lưu manh chuyên nghiệp, côn đồ hung hãn, hoặc có nhiều tiền án, tiền sự tìm cách lẩn trốn. Trong số đó có nhiều đối tượng ngoan cố, quyết tâm lẩn trốn hoặc có sử dụng vũ khí sẵn sàng chống trả quyết liệt các lực lượng truy bắt hòng trốn tránh pháp luật. Địa bàn lẩn trốn của đối tượng thường là những nơi xa xôi, hẻo lánh, những nơi rừng núi, khu vực biên giới hoặc những nơi phức tạp về trật tự xã hội, tập trung hoạt động của tội phạm và tệ nạn xã hội... ở những nơi đó điều kiện môi trường thiên nhiên và xã gội khắc nghiệt, điều kiện đi lại, gặp nhiều khó khăn, phức tạp. Trong những điều kiện như vậy dễ làm cho lực lượng truy bắt nảy sinh tư tưởng bi quan, ngại khó, ngại khổ dễ bị tác động bởi những thủ đoạn đe dọa, mua chuộc, lôi kéo của bọn tội phạm hoặc từ phía môi trường công tác. Thêm vào đó là quá trình tìm kiếm, bắt giữ bọn tội phạm thường nảy sinh những tình huống bất ngờ, gay cấn làm cho cán bộ, chiến sĩ phải căng thẳng về tâm lý, đòi hỏi tính kỷ luật chặt chẽ, tinh thần quyết tâm cao, nhanh nhạy trong tư duy và hành động. Đặc điểm này nói lên những yêu cầu về tuyển chọn, xây dựng lực lượng truy nã và những phẩm chất cần có của cá nhân, cán bộ, chiến sĩ làm công tác truy nã tội phạm. - Khi phát hiện chính xác đối tượng có Quyết định, Lệnh truy nã mọi công dân đều có quyền bắt giữ. Căn cứ Điều 82 BLTTHS thì ai cũng có quyền bắt người đang bị truy nã và tước vũ khí của người bị bắt. Như vậy với đặc thù là một trong những
  • 41. 41 BPNC trong luật TTHS, bắt người đang bị truy nã với tính cấp thiết của nó phù hợp với tinh thần toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, phòng chống tội phạm nhằm phát huy mọi nguồn lực trong nhân dân để truy bắt người đang bị truy nã. Quy định đó thể hiện quyết tâm của Nhà nước trong việc sử dụng mọi lực lượng và biện pháp xã hội để truy bắt đến cùng đối tượng lẩn trốn. Đây cũng là sự thể hiện tính chất xã hội rộng rãi trong công tác đấu tranh chống tội phạm và đó cũng chính là một biện pháp tác động mạnh mẽ đến tư tưởng của đối tượng đang lẩn trốn; Một sự bảo đảm quan trọng để phát huy tinh thần làm chủ, ý thức tự giác hạn chế những cơ sở xã hội mà tội phạm có thể lợi dụng để lẩn trốn, ẩn náu. Do đó, trong quá trình thực hiện, công dân cũng phải có ý thức, tránh trường hợp bắt giữ không đúng đối tượng, nhầm lẫn. Vấn đề có ý nghĩa chiến lược đó là phải vận động và tổ chức được phong trào quần chúng, rộng rãi, đều khắp trong công tác đấu tranh chống tội phạm nói chung và công tác truy nã tội phạm nói riêng. Để làm tốt công tác này thì cơ quan chức năng đặc biệt là cơ quan chuyên trách về truy bắt người đang bị truy nã cần đa dạng hóa các hoạt động tuyên truyền, xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, tranh thủ sự ủng hộ, đồng tình của nhân dân giúp đỡ lực lượng Công an nhân dân trong phong trào đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và phát hiện, bắt giữ người đang bị truy nã nói riêng. Cần phát huy cao độ tinh thần tố giác, giúp đỡ và phối hợp của quần chúng với cơ quan Công an. Đồng thời cần kết hợp với các cơ quan bảo vệ pháp luật và các cấp, các ngành để tuyên truyền đầy đủ, nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân, xây dựng và phát triển các mô hình tổ chức quần chúng cơ sở; Khi ra quyết định, lệnh truy nã phải đảm bảo chính xác, đầy đủ để nhân dân dễ phát hiện. 1.2. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM QUY ĐỊNH VỀ BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI ĐANG BỊ TRUY NÃ 1.2.1. Trong thời kỳ phong kiến
  • 42. 42 Lịch sử phát triển của chế định bắt người đang bị truy nã trong Luật TTHS Việt Nam gắn liền với từng thời kỳ, giai đoạn của đất nước và tiến trình cải cách tư pháp. Ngay từ thời kỳ phong kiến, việc bắt giữ những kẻ phạm tội đang lẩn trốn đã trở thành một tập quán của đời sống cộng đồng. Thể hiện rõ nét nhất là trong Bộ Quốc triều hình luật (hay còn gọi là Bộ luật Hồng Đức), được coi là hoàn chỉnh nhất của chế độ phong kiến Việt Nam. Thể hiện rõ nét nhất tại: Điều 36, Quyển I, chương Danh lệ: Nhiều người cùng phạm một tội mà có người trốn tránh, hiện còn người bắt được xưng ra người đang trốn tránh đứng đầu, mà không đủ người làm chứng, thì định tội người bị bắt là a tòng. Khi bắt được người trốn, xưng ra người bị bắt trước là đứng đầu, tra hỏi đúng thực, thì định tội người bị bắt trước là đứng đầu, tra hỏi đúng thực, thì định tội người bị bắt trước là đứng đầu [53]; Điều 646, Quyển VI, chương Bộ vong: Đi bắt tội nhân mà tội nhân chống cự bị người đi bắt đánh chết, hay là vì tội nhân bỏ chạy, đuổi mà đánh chết, hay là tội nhân cùng quẫn quá mà tự sát, thì người đi bắt đều được miễn tội. Đã bắt được tội nhân rồi mà còn đánh chết, thì xử nhẹ hơn tội đánh nhau chết bốn bậc; dùng đồ sắc nhọn mà đánh chết chỉ giảm một bậc. Tội nhân vốn phạm tội chết mà (người đi bắt) đánh chết, thì xử tội biếm một tư. Tội nhân chống cự đánh người đến bắt, thì xử nặng hơn tội trước một bậc; đánh bị thương thì xử nặng hơn tội đánh nhau bị thương hai bậc; đánh chết thì xử chém. Nếu người ngoài giúp kẻ tội nhân chống cự người đến bắt, mà người đến bắt đánh chết ngay tại chỗ thì không bị xử tội [53]; Điều 650: Những tù nhân bị lưu hay đồ, ở nơi lưu hay nơi đồ chưa đến hạn tha, mà đã bỏ trốn, thì đều phải tội chém; người
  • 43. 43 coi giữ cố ý để mất tù lưu đồ, thì bị xử nhẹ đi trốn ba bậc; quan ty giám đương bị xử tội biếm hay phạt; cố ý thả cho tù đi trốn, thì xử cùng một tội; nếu lại tự bắt được, thì được trừ tội. Kẻ tù phạm trốn đến làng xã nào, thì xã quan nơi ấy phải bắt trói đem nộp quan; nếu dung túng giấu giếm, thì xử tội nhẹ hơn kẻ tù trốn ấy một bậc [53]; Điều 652: "Những tù bị giam chống cự ngục quan, ngục lại mà chạy trốn, thì xử nặng hơn tội cũ một bậc; chống cự mà đánh người, bị thương, thì xử nặng hơn hai bậc; đánh chết người thì xử chém" [53]; Chương Đoán ngục, Điều 671: "... Nếu người bị cáo đã đến hầu kiện mà phân trần, mà nguyên cáo lại trốn tránh quá hai mươi ngày không đến hầu kiện, thì quan án khép y vào tội vu cáo, và cho nã bắt để trị tội (nếu có việc đi xa, trở về không kịp, thì cho phép trần tấu lên, xin xử lại" [53]; Điều 702: Ngục giám đi bắt người bị kiện, thì đến quan huyện, quan lộ sở tại trình trát để họ bắt giải giao cho mình. Nếu người bị bắt đã trốn đi không ở đó, thì quan huyện, quan xã liên danh làm tờ cam kết rằng người ấy đã trốn không ở đó, sau này thấy trở về, sẽ bắt giải ngay, không dám ẩn giấu. Ngục giám đem tờ cam kết về trình ngục quan, để tùy liệu xét xử. Làm trái luật, quan huyện, quan xã bị xử tội biếm hoặc tội đồ...[53]; Điều 704:... Nếu không có trát nã đóng dấu của bản ty, mà tự tiện bắt người, thì xử biếm hai tư;... nếu trong trát truy nã đã kê rõ tên họ người bị bắt, ngoài ra lại bắt bừa người khác, cũng là sách nhiễu tài vật, để đến nỗi người ta bị phá sản, thì cũng bị xử tội như thế. Ngục lại viết trát nã, kê tên không đúng phép, thì bị đồ làm khao đinh; ngục quan vô tình không xem đến, thì bị phạt...[53]; Hay trong Bộ Quốc triều khám tụng điều lệ gồm 30 lệ (chương) trong đó có một chương riêng là chương 7 gồm 5 điều quy định về việc giải quyết đối với trường hợp đương sự không đến hầu kiện, hay bỏ trốn (đương sự đáo túng lệ).
  • 44. 44 Có thể thấy rằng, những quan niệm, tập quán về bắt giữ kẻ phạm tội bỏ trốn đã tồn tại, gắn liền cùng với lịch sử tồn tại của Nhà nước phong kiến Việt Nam, góp phần vào sự yên ổn của đời sống cộng đồng. Mặc dù còn những tồn tại, nhược điểm do đặc điểm lịch sử nhất định nhưng những giá trị của pháp luật trong thời kỳ này đã có ảnh hưởng nhất định, làm nền móng, tiền đề cho việc hình thành và phát triển pháp luật về truy nã tội phạm trong các giai đoạn, thời kỳ về sau này. 1.2.2. Thời kỳ từ năm 1945 đến trước khi có Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 Cách mạng tháng Tám 1945 mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam, kỷ nguyên độc lập. Ngay từ những ngày đầu mới thành lập nước thì một số cơ quan tư pháp được ra đời liên quan đến việc bắt, giam giữ như: Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 về tổ chức Tòa án và ngạch Thẩm phán; Sắc lệnh 23/SL ngày 21/02/1946 thành lập "Việt Nam Công an vụ". Theo Sắc lệnh này thì lực lượng Công an vụ có nhiệm vụ "Điều tra về những hành động trái phép và truy tìm người can phạm để giúp Tòa án trong sự trừng trị" [13]. Hoặc Sắc lệnh số 131/SL ngày 20/7/1946 về tổ chức bộ máy Tư pháp Công an tại Điều thứ 2: "Tư pháp Công an có nhiệm vụ truy tầm tất cả các sự phạm pháp (đại hình, tiểu hình hoặc vi cảnh), sưu tập các tang chứng, bắt giao người phạm pháp cho các tòa án xét xử trong phạm vi luật pháp ấn định" [12]; Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp. Theo văn bản trên thì "Tư pháp Công an có nhiệm vụ bắt người phạm pháp và giao cho các Tòa án xét xử"; "Quyền ký lệnh tạm giam bị cáo thuộc về ông Giám đốc ty Liêm phóng" [14]. Miền Bắc bước vào công cuộc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội sau hiệp định Giơnevơ. Đáp ứng yêu cầu cách mạng trong giai đoạn mới, Quốc hội khóa I, kỳ họp thứ VI đã vạch ra phương hướng cho việc xây dựng những luật về các quyền tự do dân chủ như Sắc luật số 103/SL-L005 ngày 20/5/1957 về đảm bảo quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối
  • 45. 45 với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân được ban hành theo đó: "Đối với những người phạm pháp quả tang, bất cứ người nào cũng có quyền bắt và phải giải ngay đến Ủy ban Hành chính, Tòa án nhân dân hoặc đồn Công an nơi gần nhất" [27]. Sắc lệnh 002/SLT ngày 18/6/1957 quy định những trường hợp phạm pháp quả tang, khẩn cấp và những trường hợp khám người phạm pháp quả tang trong đó quy định: Để kịp thời giữ kẻ phạm pháp đã gây thiệt hại đến an toàn của Nhà nước, đến trật tự xã hội, đến tài sản của Nhà nước, đến tính mệnh tài sản của nhân dân, nay quy định những trường hợp sau đây là phạm pháp quả tang mà người công dân nào cũng có quyền bắt và giải ngay đến ủy ban hành chính, Tòa án nhân dân hoặc đồn Công an nơi gần nhất: 1- Đang làm việc phạm pháp hoặc sau khi phạm pháp thì bị phát giác ngay. 2- Đang bị đuổi bắt sau khi phạm pháp. 3- Đang bị giam giữ mà lẩn trốn. 4- Đang có lệnh truy nã [15]. Ngày 10/7/1957, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 301/TTg quy định chi tiết thi hành Luật số 103/SL-L005 ngày 20/5/1957 bảo đảm quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân; Ngày 16/7/1962 ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Cảnh sát nhân dân... Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, ngày 15/3/1976 Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban hành Sắc luật số 02/SL-76 quy định về việc bắt giam giữ. Về cơ bản việc bắt giam giữ quy định trong Sắc luật này giống luật 103/SL-L005, tuy vậy thẩm quyền bắt bình thường (bắt để tạm giam) được mở rộng đến cấp huyện. Tại kỳ họp thứ nhất, khóa VI
  • 46. 46 ngày 02/7/1976, Quốc hội đã ra Nghị quyết về việc áp dụng pháp luật thống nhất trong cả nước và giao cho Hội đồng Chính phủ hướng dẫn việc áp dụng. Có thể nói rằng, trước khi BLTTHS được ban hành, thì các quy định trên đây trong một thời gian dài đã có những tác dụng to lớn trong cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Việc sử dụng chúng đã góp phần kịp thời ngăn chặn các tội phạm nguy hiểm, xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm đến tính mạng, tài sản của nhân dân. Tuy nhiên, do sự phát triển của đất nước, các quan hệ xã hội có nhiều thay đổi. Trước tình hình mới nảy sinh đó, các quy định về những trường hợp bắt khẩn cấp cũng đã bộc lộ những sơ hở nhất định (như sự thiếu chặt chẽ, tính chưa cụ thể trong các quy định của pháp luật...) cho nên dễ dẫn đến tình trạng bắt khẩn cấp tràn lan. Có thể nói, việc quá lạm dụng bắt khẩn cấp đã có những ảnh hưởng không tốt trong dư luận quần chúng nhân dân. Mặt khác, nó còn làm mất đi tính đặc biệt của biện pháp này và biến nó thành một trường hợp được áp dụng phổ biến. Tình trạng đó đã làm cho các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân bị xâm hại, đi ngược lại những lợi ích của việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa mà Đảng mà Nhà nước ta đã và đang đặc biệt quan tâm. 1.2.3. Quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 đến trước khi có Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, cũng như yêu cầu của việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và việc bảo đảm các quyền dân chủ của công dân, kế thừa có chọn lọc các quy định về bắt người đang bị truy nã trong các văn bản pháp luật trước đây, nhất là quy định của BLTTHS năm 1988. Có thể nói đây là một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử phát triển của pháp luật TTHS, là kết quả tổng kết kinh nghiệm của hơn 40 năm hoạt động tư pháp trong đó có rất nhiều điều khoản quy định về BPNC bắt người đang bị truy nã như Điều 64 Việc bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã: