Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận văn thạc sĩ ngành luật hiến pháp với đề tài: Trình tự, thủ tục xét xử vụ án hành chính từ thực tiễn tỉnh Đăk Lăk, cho các bạn làm luận văn tham khảo
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Luận văn: Trình tự, thủ tục xét xử vụ án hành chính tỉnh Đăk Lăk
1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
------------------
VÕ THỊ HƯƠNG TRÀ
TRÌNH TỰ, THỦ TỤC XÉT XỬ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐẮK LẮK
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
ĐĂK LĂK - NĂM 2019
2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
------------------
VÕ THỊ HƯƠNG TRÀ
TRÌNH TỰ, THỦ TỤC XÉT XỬ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐẮK LẮK
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8.38.01.02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS VŨ VĂN NHIÊM
ĐĂK LĂK - NĂM 2019
3. LỜI CAM ĐOAN
Bằng văn bản này, tác giả xin cam đoan rằng các nội dung được trình bày
trong Luận văn “Trình tự, thủ tục xét xử vụ án hành chính từ thực tiễn tỉnh Đăk
Lăk” là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của tác giả.
Tác giả xin cam đoan là công trình nghiên cứu do chính tác giả thực hiện.
Các số liệu trích dẫn nêu trong luận văn là trung thực và được tác giả chú thích
rõ ràng.
Tác giả
Võ Thị Hương Trà
4. LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Học viện khoa học xã hội, các quý Thầy
Cô đã trang bị tri thức cho tôi, tạo môi trường thuận lợi, điều kiện tốt nhất trong suốt
quá trình học tập và thực hiện luận văn này.
Với lòng kính trọng và biết ơn, tôi xin được bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới
PGS. TS Vũ Văn Nhiêm đã khuyến khích, chỉ dẫn tận tình cho tôi trong suốt thời gian
thực hiện nghiên cứu này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến gia đình và những người bạn đã động viên, hỗ trợ
tôi rất nhiều trong suốt quá trình học tập, làm việc và hoàn thành luận văn.
Tác giả luận văn
Võ Thị Hương Trà
5. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TA : Tòa án
LTTHC : Luật Tố tụng hành chính
TAND : Tòa án nhân dân
THC : Tòa Hành chính
VKS : Viện kiểm sát
HĐXX : Hội đồng xét xử
HTND : Hội thẩm nhân dân
QĐHC : Quyết định hành chính
HVHC : Hành vi hành chính
VAHC : Vụ án hành chính
BLTTDS : Bộ luật Tố tụng dân sự
UBND : Ủy ban nhân dân
QSDĐ : Quyền sử dụng đất
6. MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG
MỞ ĐẦU.........................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài ...........................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn................................................3
3. Đối tượng nghiên cứu của luận văn .........................................................................6
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn .................................7
CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÌNH TỰ, THỦ TỤC XÉT XỬ
VỤ ÁN HÀNH CHÍNH.................................................................................................8
1.1 Khái niệm trình tự, thủ tục xét xử vụ án hành chính .............................................8
1.2 Đặc điểm của trình tự, thủ tục xét xử vụ án hành chính ........................................9
1.2.1 Cơ sở pháp lý để tiến hành hoạt động tố tụng ...............................................10
1.2.2 Người tham gia tố tụng..................................................................................10
1.2.3 Về các hoạt động cụ thể được tiến hành trong hoạt động tố tụng .................11
1.2.4 Điểm khác biệt cơ bản giữa trình tự, thủ tục tố tụng hành chính và trình tự,
thủ tục tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm, phúc
thẩm ........................................................................................................................12
1.3 Trình tự, thủ tục xét xử vụ án hành chính tại cấp sơ thẩm...................................16
1.3.1 Trình tự, thủ tục thụ lý vụ án .........................................................................16
1.3.2 Trình tự thủ tục chuẩn bị xét xử ....................................................................19
1.3.3 Trình tự xét xử sơ thẩm vụ án hành chính.....................................................25
1.4 Trình tự xét xử vụ án hành chính tại cấp phúc thẩm............................................27
1.4.1 Điểm khác biệt giữa trình tự, thủ tục xét xử vụ án hành chính tại cấp sơ thẩm
và trình tự, thủ tục xét xử vụ án hành chính tại cấp phúc thẩm..............................27
1.4.2 Trình tự, thủ tục thụ lý vụ án xét xử phúc thẩm và thời hạn chuẩn bị xét xử28
1.4.3 Trình tự, thủ tục xét xử vụ án hành chính phúc thẩm....................................30
7. Tiễn kết chương 1 ...................................................................................................33
CHƯƠNG 2 TRÌNH TỰ, THỦ TỤC XÉT XỬ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA
ÁN NHÂN DÂN Ở TỈNH ĐẮK LẮK........................................................................34
2.1 Trình tự, thủ tục xét xử VAHC tại TAND ở tỉnh Đắk Lắk..................................34
2.2 Đánh giá thực hiện trình tự, thủ tục xét xử VAHC cấp sơ thẩm tại TAND ở tỉnh
Đắk Lắk......................................................................................................................36
2.2.1 Những kết quả đạt được trong việc thực hiện trình tự, thủ tục xét xử VAHC
cấp sơ thẩm tại TAND ở tỉnh Đắk Lắk...................................................................36
2.2.2 Những hạn chế thiếu sót trong việc thực hiện trình tự, thủ tục xét xử VAHC
cấp sơ thẩm của TAND ở tỉnh Đắk Lắk .................................................................41
2.3 Đánh giá việc thực hiện trình tự, thủ tục xét xử VAHC cấp phúc thẩm tại TAND
ở tỉnh Đắk Lắk............................................................................................................48
2.3.1 Những kết quả đạt được trong việc thực hiện trình tự, thủ tục xét xử VAHC
cấp phúc thẩm tại Tòa án nhân dân ở tỉnh Đắk Lắk ...............................................48
2.3.2 Những hạn chế, thiếu sót trong việc thực hiện trình tự, thủ tục xét xử VAHC
cấp phúc thẩm tại Tòa án nhân dân ở tỉnh Đắk Lắk ...............................................50
2.4 Nguyên nhân của kết quả đạt được về thực hiện trình tự, thủ tục xét xử VAHC
tại TAND ở tỉnh Đắk Lắk từ năm 2014 – 2018 .........................................................51
2.5 Nguyên nhân của hạn chế, thiếu sót trong việc thực hiện trình tự, thủ tục xét xử
VAHC tại TAND ở tỉnh Đắk Lắk từ năm 2014 – 2018.............................................53
2.5.1 Nguyên nhân chủ quan ..................................................................................54
2.5.2 Nguyên nhân khách quan...............................................................................56
Tiễn kết chương 2 ...................................................................................................58
CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP NÂNG CAO TRÌNH TỰ, THỦ TỤC XÉT XỬ VỤ ÁN
HÀNH CHÍNH TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐẮK LẮK ...............................................59
3.1 Hoàn thiện về pháp luật trình tự, thủ tục xét xử VAHC ......................................59
3.1.1 Hoàn thiện pháp luật trình tự, thủ tục xét xử VAHC cấp sơ thẩm:...............59
3.1.2 Hoàn thiện pháp luật trình tự, thủ tục xét xử VAHC cấp phúc thẩm............63
3.2 Tăng cường nhận thức về ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác xét xửVAHC64
8. 3.3 Nâng cao năng lực, trình độ, rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp, kinh nghiệm và bản
lĩnh công tác của đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân........................................65
3.4 Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa xét xử VAHC ...............................67
3.5 Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật...........69
3.6 Tăng cường công tác quản lý, hướng dẫn đối với việc thực hiện trình tự, thủ tục
xét xử VAHC của TAND cấp trên đối với TAND cấp dưới .....................................70
3.7 Đảm bảo cơ sở vật chất và chế độ đãi ngộ đối với Thẩm phán, Hội thẩm nhân
dân..............................................................................................................................72
Tiễn kết chương 3......................................................................................................74
KẾT LUẬN ..................................................................................................................75
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................1
9. DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Thống kê số lượng thụ lý vụ án Hành chính sơ thẩm – phúc thẩm của TAND
ở tỉnh Đắk Lắk từ năm 2014 - 2018 ..............................................................................36
Bảng 2.2. Thống kê kết quả xét xử sơ thẩm VAHC của TAND ở tỉnh Đắk Lắk
.......................................................................................................................................39
10. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giải quyết tranh chấp hành chính bằng con đường tư pháp là vấn đề đang được
Đảng, Nhà nước và xã hội đặc biệt quan tâm, nhất là trong giai đoạn xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và dân chủ hoá mọi mặt đời sống xã hội hiện nay.
Hiến pháp 2013 khẳng định “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” [12], quy định này đã xác định rõ
ràng, cụ thể vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân trong bộ máy nhà nước. Lần đầu tiên
Hiến pháp 2013 ghi nhận Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp – nhánh
quyền lực ngang bằng với quyền lập pháp và hành pháp, đây cũng là cơ sở hiến định
cho việc mở rộng thẩm quyền của Tòa án trong xét xử các loại án, trong đó có xét xử
án hành chính. Đảng và Nhà nước ta cũng xác định rõ quan điểm về cải cách tư pháp
trong Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 02/6/2005 về “Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020”, Nghị quyết nêu rõ: Mở rộng thẩm quyền xét xử của tòa án đối với các
khiếu kiện hành chính. Đổi mới mạnh mẽ thủ tục giải quyết các khiếu kiện hành chính
tại tòa án; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng, bảo đảm sự bình
đẳng giữa công dân và cơ quan công quyền trước tòa án. Từng bước thực hiện việc
công khai hóa các bản án, trừ những bản án hình sự về tội xâm phạm an ninh quốc gia
hoặc liên quan đến thuần phong mỹ tục. Xây dựng cơ chế bảo đảm mọi bản án của tòa
án có hiệu lực pháp luật phải được thi hành, các cơ quan hành chính vi phạm bị xử lý
theo phán quyết của tòa án phải nghiêm chỉnh chấp hành.[3]
Tuy nhiên, để bảo vệ quyền lợi chính đáng của người dân, giữ gìn kỷ cương
trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, thì còn rất cần một cơ chế hữu hiệu giải
quyết các khiếu kiện hành chính trong hoạt động xét xử của Tòa án.
Thẩm quyền xét xử đối với quyết định hành chính (QĐHC), hành vi hành chính
(HVHC) trao cho Tòa án nhân dân (TAND) - được đặt nền móng từ ngày 21/5/1996 -
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành
chính. Đây là văn bản đầu tiên ghi nhận Toà án (TA) có thẩm quyền giải quyết các
khiếu kiện hành chính và người dân chính thức có quyền khởi kiện vụ án hành chính
(VAHC) để yêu cầu Toà án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên, qua
11. 2
14 năm áp dụng, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã bộc lộ những
hạn chế bất cập. Một số quy định trong Pháp lệnh mâu thuẫn với quy định của Luật
Khiếu nại, tố cáo; Luật đất đai, một số quy định không phù hợp, chưa đầy đủ, thiếu rõ
ràng dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau. Ngày 24/11/2010, Quốc hội khoá XII, Kỳ
họp thứ 8 đã thông qua Luật Tố tụng hành chính năm 2010 (LTTHC), có hiệu lực thi
hành kể từ ngày 01/7/2011. Luật tố tụng hành chính 2010 đã tạo cơ sở pháp lý thuận
lợi hơn cho người dân trong việc khiếu kiện QĐHC, HVHC để bảo vệ quyền lợi chính
đáng của mình. Tuy nhiên, qua thực tiễn hơn 3 năm thi hành Luật TTHC 2010 cho
thấy, mặc dù số lượng các VAHC ngày càng gia tăng nhưng chất lượng giải quyết, xét
xử các VAHC chưa thực sự bảo đảm; số lượng các bản án, quyết định về VAHC bị
huỷ, sửa vẫn còn; thời hạn giải quyết, xét xử còn bị vi phạm; việc thi hành các bản án,
quyết định của TA chưa thực sự hiệu quả. Do đó, ngày 25/11/2015, Quốc hội khoá
XIII, Kỳ họp thứ 10 đã thông qua LTTHC năm 2015, có hiệu lực thi hành kể từ ngày
01/7/2016. LTTHC 2015 gồm có 23 chương, 372 điều, trong đó sửa đổi, bổ sung 198
điều, giữ nguyên 63 điều của LTTHC 2010 và bổ sung 111 điều mới. Ngoài việc sửa
đổi, bổ sung một số khái niệm của LTTHC 2010 như: quyết định hành chính, hành vi
hành chính, quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan,
tổ chức, LTTHC 2015 đã bổ sung quy định việc giải thích một số khái niệm như
“quyết định hành chính bị kiện”, “hành vi hành chính bị kiện”, “vụ án phức tạp”, “trở
ngại khách quan”, sự kiện bất khả kháng; bổ sung các quy định để cụ thể hoá nguyên
tắc tranh tụng trong xét xử; bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự.
Mặc dù quy định của pháp luật về xét xử các VAHC không ngừng được hoàn
thiện. Tuy nhiên, các TA hiện nay vẫn còn gặp những khó khăn, vướng mắc trong quá
trình áp dụng các quy định của luật trong thực tiễn, nguyên nhân là vì có những quy
định của LTTHC chưa phù hợp với thực tiễn; có những quy định còn chưa rõ, có cách
hiểu và vận dụng khác nhau trong việc áp dụng các quy định của pháp luật khi xét xử
VAHC, nhất là đối với các địa phương miền núi, biên giới đang trong quá trình phát
triển mạnh như tỉnh Đắk Lắk. Thực tiễn cho thấy việc giải quyết các VAHC còn gặp
không ít khó khăn như: vấn đề xác định đối tượng khởi kiện, xác định người tham gia
12. 3
tố tụng trong VAHC; về thủ tục đối thoại trong tố tụng hành chính, về căn cứ đánh giá
tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính, về cơ chế đảm bảo thi
hành bản án còn nhiều bất cập...
Vì vậy, việc nghiên cứu những trình tự, thủ tục xét xử các VAHC tại địa phương
vẫn đang là vấn đề cấp thiết. Với lý do đó, đồng thời là người đang công tác trong
ngành Tòa án, học viên lựa chọn đề tài “Trình tự, thủ tục xét xử vụ án hành chính – Từ
thực tiễn tỉnh Đắk Lắk” làm đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành Luật Hiến pháp và
Luật Hành chính.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Trước khi Pháp lệnh thủ tục giải quyết các VAHC ra đời đã có rất nhiều bài viết,
đề tài nghiên cứu liên quan đến tài phán hành chính và thực tế giải quyết khiếu kiện
hành chính ở Việt Nam như:
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ:“Tài phán hành chính - thể chế bảo vệ các
quyền tự do, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức” của Hoàng Thị Kim Quế. Qua
nghiên cứu công trình này, tác giả có được sự đánh giá tổng quan nhất về vị trí, vai trò
của Tòa hành chính (THC) trong cơ chế giải quyết các khiếu kiện hành chính ở nước ta.
Vai trò của Tòa án trong việc kiểm soát quyền lực nhà nước, bảo vệ các quyền và lợi ích
hợp pháp của con người. Mối liên hệ giữa thiết chế THC với tài phán hành chính, giữa
thiết chế giải quyết khiếu nại hành chính với xét xử hành chính thông qua con đường tư
pháp. Mặt khác, cũng tham khảo được một số điểm khái quát về khiếu nại, khiếu kiện
hành chính ở nước ta thời kỳ phong kiến và từ năm 1945 đến trước đổi mới năm 1986.
Sự hình thành và phát triển của Tòa án trong cơ chế tổ chức quyền lực nhà nước, nguyên
tắc tổ chức quyền lực nhà nước trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền Việt
Nam, những nguyên tắc hoạt động của Tòa án. Trên cơ sở đó, xác định rõ hơn về vị trí,
vai trò, chức năng của THC nói chung và THC thuộc hệ thống TAND.
Sách chuyên khảo: “Những điểm mới của của Luật Tố tụng hành chính năm
2015” của Nguyễn Văn Cường. Đây là cuốn sách mà tác giả đã thống kê đầy đủ những
điểm mới được Luật Tố tụng hành chính (LTTHC) năm 2015 bổ sung, sửa đổi so với
LTTHC năm 2010. Luật đã sửa đổi, bổ sung 198 Điều/372 Điều; bổ sung 111 Điều
mới; giữ nguyên 63 Điều của LTTHC năm 2010. Chẳng hạn sửa đổi, bổ sung các
13. 4
nguyên tắc tranh tụng, nguyên tắc đối thoại, thẩm quyền xét xử của Tòa án, quyền,
nghĩa vụ của Chánh án, Thẩm phán, kiểm sát viên, người đại diện, người bảo vệ…
Những thông tin và luận giải trong cuốn sách có giá trị so sánh, giá trị tham khảo về
những căn cứ thay đổi, sửa đổi, bổ sung những quy định mới. Đồng thời lý giải được
tại sao phải sửa đổi, sự cần thiết sửa đổi và nhằm đáp ứng những yêu cầu gì về mô
hình tổ chức cũng như chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của THC và trong quá trình
xét xử các VAHC.
Luận án Tiến sĩ: “Tòa hành chính trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân, vì dân” của Trần Kim Liễu. Luận án đã làm rõ được những vấn đề về
lý luận liên quan đến THC trong hệ thống TAND. Đồng thời chỉ ra những bất cập của
mô hình tổ chức, bất cập về phạm vi thẩm quyền xét xử các VAHC của TAND, trong
đó có TAND cấp tỉnh. Tuy nhiên, nhiều vấn đề luận án đặt ra cũng đã được giải quyết
trong LTTHC năm 2015. Mặc dù vậy, giá trị của những vấn đề về lý luận, về mô hình
tổ chức, chức năng nhiệm vụ, cũng như một số bất cập về bảo đảm tính độc lập của
TA trong xét xử các VAHC chưa được giải quyết một cách cơ bản trong LTTHC năm
2015, như thành lập THC khu vực. Luận án đã tập trung phân tích vị trí, vai trò THC
trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Đặc biệt luận án
cũng đã đưa ra được một số đảm bảo pháp lý cho tổ chức và hoạt động của THC; phân
tích, đánh giá, bình luận thực trạng tổ chức, hoạt động của THC, những ưu điểm trong
hoạt động, một số hạn chế, nguyên nhân của hạn chế về bảo đảm pháp lý đối với việc
tổ chức và hoạt động của THC. Tuy nhiên luận án chỉ đề cập và giải quyết những vấn
đề chung về THC, chưa chuyên sâu về THC trong TAND cấp tỉnh với chức năng xét
xử sơ thẩm và phúc thẩm các bản án, quyết định của Tòa án cấp huyện khi có kháng
cáo, kháng nghị.
Ngoài ra, còn có “Thiết lập tài phán hành chính ở nước Tòa án nhân dân” –
GS.TS Nguyễn Duy Gia (chủ biên), Nxb Giáo dục, Hà Nội, năm 1995 – tác giả phân
tích những vấn đề lý luận, các quan điểm, nguyên tắc tổ chức Toà án hành chính ở
Việt Nam; “Một số vấn đề về tài phán hành chính ở Việt Nam”- PTS. Lê Bình Vọng,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, tác giả phân tích vị trí của tài phán hành chính
trong nền hành chính quốc gia và sự cần thiết phải thiết lập hệ thống toà án hành chính
14. 5
ở Việt Nam; “Tài phán hành chính ở Việt Nam”- PTS. Đinh Văn Mậu và PTS. Phạm
Hồng Thái, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1995, các tác giả phân tích những vấn đề
chung về tài phán hành chính và vấn đề xác định thẩm quyền của toà án hành chính;
“Một số vấn đề về đổi mới cơ chế giải quyết khiếu kiện hành chính ở Việt Nam”- TS.
Nguyễn Văn Thanh và LG. Đinh Văn Minh, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2004, nghiên cứu
về vị trí, vai trò của thiết chế toà hành chính trong cơ chế giải quyết khiếu kiện hành
chính ở Việt Nam hiện nay; “Tài phán hành chính trong bối cảnh xây dựng nhà nước
pháp quyền và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay” – Nguyễn Cảnh Hợp, chủ biên
PGS.TS Nguyễn Như Phát, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội 2010; Luận án tiến sĩ luật
học của tác giả Nguyễn Thanh Bình về “Thẩm quyền của Tòa án nhân dân trong việc
giải quyết các khiếu kiện hành chính”; Luận văn Tiến sĩ Luật học của tác giả Hoàng
Quốc Hồng “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa hành chính đáp ứng yêu cầu xây
dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay”; Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả
Nguyễn Mạnh Hùng về “Thẩm quyền xét xử hành chính của Tòa án nhân dân”. Những
công trình nói trên tập trung nghiên cứu ở khía cạnh có liên quan tới những vấn đề
chung về tài phán hành chính, thẩm quyền xét xử án hành chính của Tòa án, cơ cấu tổ
chức và hoạt động của THC. Kết quả các công trình nghiên cứu trên được sử dụng làm
nguồn tài liệu tham khảo bổ ích cho luận văn. Tuy nhiên kể từ khi LTTHC 2015 ra đời
cho đến nay, vẫn chưa có nghiên cứu thực sự cập nhật những vấn đề liên quan đến
trình tự, thủ tục xét xử VAHC và đặc biệt là thông qua thực tế một địa phương. Việc
nghiên cứu chuyên sâu về trình tự, thủ tục xét xử VAHC là rất cần thiết bởi từ khi
LTTHC ra đời đã đặt ra rất nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn nhất là trong bối cảnh
một địa bàn cụ thể như tỉnh Đắk Lắk. Đối với TA các địa phương, hoạt động xét xử
VAHC cũng đang gặp nhiều vấn đề bất cập trong quá trình áp dụng pháp luật cũng
như thiếu nguồn lực và các phương tiện vật chất khác, đặt ra những thách thức cần
được quan tâm, giải quyết kịp thời.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1 Mục đích nghiên cứu đề tài:
Trên cơ sở làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn, đặc biệt là phân tích quy định pháp
luật hiện hành về xét xử VAHC, luận văn đi sâu vào nghiên cứu, trình tự, thủ tục xét
15. 6
xử VAHC trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, từ đó đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn
thiện pháp luật và nâng cao chất lượng xét xử VAHC trên địa bàn các tỉnh nói chung
và tỉnh Đắk Lắk nói riêng.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài:
Với mục đích nghiên cứu như trên, luận văn phải hoàn thành những nhiệm vụ
sau đây:
+ Nghiên cứu, phân tích làm rõ những vấn đề lý luận về trình tự, thủ tục xét xử
vụ án hành chính cấp sơ thẩm và phúc thẩm.
+ Phân tích, đánh giá các quy định pháp luật hiện hành về trình tự, thủ tục xét xử
VAHC giai đoạn sơ thẩm và giai đoạn phúc thẩm, qua Luật tố tụng Hành chính 2015
và các văn bản quy phạm pháp luật đang có hiệu lực thi hành.
+ Phân tích và đánh giá thực trạng trình tự, thủ tục xét xử VAHC tại tỉnh Đắk
Lắk – từ đó rút ra những ưu điểm, kết quả đạt được, những hạn chế, bất cập, và nguyên
nhân của những kết quả và hạn chế, bất cập trong thực tiễn giải quyết VAHC tại địa
phương hiện nay.
+ Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đề xuất quan điểm và giải
pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về trình tự, thủ tục xét xử VAHC cũng như nâng cao
chất lượng giải quyết VAHC, nhằm bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân, tổ chức, nâng cao vị thế, uy tín của Tòa án theo đúng tinh thần cải cách tư pháp
và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu:
Trong khuôn khổ của luận văn Thạc sĩ luật học, luận văn tập trung nghiên cứu
quy định cụ thể của pháp luật về trình tự, thủ tục xét xử VAHC ở cấp sơ thẩm, cấp
phúc thẩm, và hoạt động xét xử VAHC của Tòa án nhân dân cấp huyện, cấp tỉnh.
- Phạm vi nghiên cứu;
+ Phạm vi nghiên cứu về không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động
thực hiện trình tự, thủ tục xét xử VAHC trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
+ Phạm vi thời gian: Luận văn nghiên cứu hoạt động thực hiện trình tự, thủ tục
xét xử VAHC trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk từ năm 2014 đến năm 2018.
16. 7
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Phương pháp luận:
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của triết
học Mác - Lê nin; Tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, chủ trương của Đảng và pháp
luật của Nhà nước về trình tự, thủ tục xét xử VAHC.
- Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu cụ thể: tổng hợp, phân tích khái quát
những vấn đề cơ bản nhất về lý luận và thực tiễn xét xử VAHC trên cơ sở trình tự, thủ
tục xét xử VAHC được quy định tại LTTHC 2015. Luận văn cũng nghiên cứu thực
tiễn, tổng kết số liệu từ năm 2014 đến năm 2018 trong hoạt động thực hiện trình tự,
thủ tục xét xử VAHC của Tòa án nhân dân tại tỉnh Đắk Lắk.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn tập trung phân tích những vấn đề lý luận và pháp luật về trình tự, thủ
tục xét xử VAHC một cách cập nhật nhất; Phân tích và đánh giá thực tế giải quyết
VAHC thông qua các vụ án cụ thể đã giải quyết tại địa bàn tỉnh Đắk Lắk, trên cơ sở
những quy định của LTTHC 2015 và các văn bản pháp luật liên quan được áp dụng
trong hoạt động xét xử VAHC. Luận văn đưa ra những phương hướng và giải pháp cụ
thể nhằm nâng cao chất lượng trình tự, thủ tục xét xử VAHC trong bối cảnh hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về trình tự, thủ tục xét xử vụ án hành chính.
Chương 2: Trình tự, thủ tục xét xử vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân ở tỉnh
Đắk Lắk.
Chương 3: Giải pháp nâng cao trình tự, thủ tục xét xử vụ án hành chính ở địa
phương từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk.
17. 8
CHƯƠNG 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÌNH TỰ, THỦ TỤC
XÉT XỬ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
1.1 Khái niệm trình tự, thủ tục xét xử vụ án hành chính
Thủ tục hành chính được xem là một dạng của hoạt động tài phán tư pháp. Theo
nghĩa rộng thì tài phán là quyền lực của Chính phủ trong việc xem xét tính đúng sai
của các hoạt động diễn ra trên phạm vi lãnh thổ nhất định; theo nghĩa hẹp thì thuật ngữ
này dùng để chỉ thẩm quyền của Tòa án trong việc xem xét, đánh giá và ra các phán
quyết đối với vụ việc cụ thể và với các đối tượng xác định. Theo khái niệm này thì tài
phán được hiểu bao gồm hoạt động giải quyết tranh chấp của Tòa án và hoạt động giải
quyết tranh chấp thuộc thẩm quyền của cơ quan hành chính. Chúng ta thừa nhận cơ
chế giải quyết tranh chấp hành chính bằng thủ tục tố tụng, tuy nhiên không thành lập
một hệ thống THC độc lập mà thành lập các THC với tư cách là tòa chuyên trách
thuộc hệ thống TAND. Như vậy, xét xử VAHC là việc giải quyết các khiếu kiện hành
chính bằng các trình tự, thủ tục tố tụng theo một cơ chế riêng được điều chỉnh bởi
ngành LTTHC.
Nói đến trình tự, thủ tục là nói đến quy trình và cách thức giải quyết công việc.
Theo từ điển Tiếng Việt thì “Trình tự” có nghĩa là “ thứ tự trước sau”; “ Thủ tục” có
nghĩa là “ những việc cụ thể phải làm theo một trật tự quy định để tiến hành một công
việc có tính chất chính thức” [20].
Thực tế, để thực hiện có hiệu quả một công việc nhất định cần tiến hành một loạt
các hoạt động theo thứ tự trước sau và cách thức thực hiện từng bước theo những quy
định chặt chẽ, thống nhất. Theo nghĩa chung nhất, thủ tục là phương thức, cách thức
giải quyết công việc theo một trình tự nhất định, một thể lệ thống nhất, gồm một loạt
nhiệm vụ liên quan chặt chẽ với nhau nhằm đạt được kết quả mong muốn. Hoạt động
tố tụng Hành chính tại TA muốn tiến hành một cách có hiệu quả, TA phải đảm bảo
tuân thủ một cách nghiêm túc những quy tắc, quy định được LTTHC quy định. Những
quy tắc, quy định đó chính là những quy định về trình tự, thủ tục, cách thức sử dụng
thẩm quyền của Tòa án khi thực hiện chức năng xét xử của mình. Như vậy, nội dung
18. 9
của thủ tục đã bao gồm các việc cụ thể mà những chủ thể có trách nhiệm phải làm, cụ
thể cách làm và thứ tự thực hiện các công việc.
Theo Từ điển Luật học, “xét xử” là “hoạt động xem xét, đánh giá bản chất pháp
lý của vụ việc nhằm đưa ra một phán xét về tính chất, mức độ pháp lý của vụ việc, từ
đó nhân danh nhà nước đưa ra một phán quyết tương ứng với bản chất, mức độ trái
hay không trái pháp luật của vụ việc” [20]. Khiến kiện hành chính mang là hành vi tự
vệ và tự định đoạt của cơ quan, tổ chức, cá nhân trước quyết định hành chính, hành vi
hành chính mà họ cho rằng trái pháp luật. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác –Lê nin,
khiếu nại hành chính là mâu thuẫn cần được giải quyết để duy trì sự ổn định xã hội và
là động lực cho sự phát triển. Giải quyết khiếu kiện hành chính giúp cho cơ quan nhà
nước nhận ra và khắc phục những thiếu sót, bất cập nhằm nâng cao năng lực quản lý
của bộ máy hành chính, thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Vì vậy, thẩm quyền và trách
nhiệm của TAND là phải giải quyết khiếu kiện hành chính một cách khách quan, công
bằng.
Trình tự giải quyết vụ án hành chính trải qua các bước: Nhận đơn khởi kiện, thụ
lý vụ án, thu thập chứng cứ, tổ chức đối thoại, giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm,
kháng cáo, kháng nghị và giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm, xét lại bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo quy định của pháp luật. Quy
định này nhằm bảo đảm cho các bản án, quyết định của TA được xem xét một cách
thận trọng để vụ án được giải quyết khách quan, công bằng. Như vậy, có thể khái niệm
“trình tự, thủ tục xét xử vụ án hành chính” là thông qua các giai đoạn của Tố tụng
hành chính bao gồm: thụ lý vụ án; chuẩn bị xét xử và xét xử VAHC, các cơ quan,
người tiến hành tố tụng hành chính trên cơ sở thực thi quyền tư pháp, xem xét và phán
quyết về tính hợp pháp của QĐHC, HVHC có liên quan, ảnh hưởng trực tiếp đến
quyền, lợi ích hợp pháp của đối tượng quản lý hành chính nhà nước theo các trình tự,
thủ tục được quy định trong LTTHC
1.2 Đặc điểm của trình tự, thủ tục xét xử vụ án hành chính
Trình tự, thủ tục giải quyết các VAHC được thể hiện ở một số đặc điểm sau đây:
Về cơ sở pháp lý để tiến hành các hoạt động tố tụng; Về người tham gia tố tụng; Về
19. 10
các hoạt động cụ thể được tiến hành trong hoạt động tố tụng và Điểm khác biệt cơ bản
giữa trình tự, thủ tục tố tụng Hành chính và trình tự, thủ tục tố tụng Dân sự trong giải
quyết các vụ án theo thủ tục sơ thẩm và phúc thẩm.
1.2.1 Cơ sở pháp lý để tiến hành hoạt động tố tụng
Ở Việt Nam, trước khi THC được thành lập thì vấn đề giải quyết khiếu nại đối
với quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan công quyền cũng đã
được quan tâm ở mức độ nhất định. Tuy nhiên, do chịu ảnh hưởng của các nước xã
hội chủ nghĩa trước đây nên trong thời kỳ này các tranh chấp hành chính chủ yếu
được giải quyết theo thủ tục giải quyết khiếu nại hành chính mà ít được giải quyết
theo thủ tục tố tụng tại Tòa án.
Từ những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX nhu cầu của thực tiễn đòi hỏi phải
thiết lập một hệ thống cơ quan tài phán độc lập để giải quyết các tranh chấp hành
chính bằng con đường tư pháp. Đáp ứng nhu cầu đó, các chuyên gia pháp lý đã tiến
hành nghiên cứu và khảo sát các mô hình tài phán hành chính cũng như kinh nghiệm
thực tế giải quyết khiếu kiện hành chính trên thế giới để đưa ra mô hình phù hợp với
điều kiện thực tế của Việt Nam. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 của Ban chấp hành
trung ương Đảng khóa VII ngày 23/01/1995 đã quyết định về việc thành lập Tòa hành
chính trong hệ thống Tòa án nhân dân. Ngày 28/10/1995 Quốc hội nước Cộng hòa xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa IX, kỳ họp thứ 8 đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật tổ chức Tòa án nhân dân, trong đó giao cho TAND chức năng xét
xử các VAHC.
Như vậy, cơ sở pháp lý mà cơ quan Tòa án được quyền tiến hành các hoạt động
tố tụng hành chính là các quy định về chức năng nhiệm vụ của Tòa án tại Luật tổ chức
Tòa án nhân dân và các quy định về thẩm quyền giải quyết các vụ việc hành chính của
THC tại LTTHC.
1.2.2 Người tham gia tố tụng
Người tham gia tố tụng hành chính là cá nhân hoặc tổ chức có quyền và nghĩa vụ
tố tụng nhất định, tham gia vào quá trình tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình hay của người khác hoặc hỗ trợ cơ quan tiến hành tố tụng trong việc giải
20. 11
quyết VAHC. Tuy nhiên, đặc điểm của VAHC là người bị kiện trong VAHC chủ yếu
là cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước. Điều này xuất
phát từ lý do đối tượng tranh chấp trong VAHC luôn là tính hợp pháp của QĐHC,
HVHC mà các quyết định, hành vi này chỉ được ban hành hoặc thực hiện bởi những
chủ thể có thẩm quyền là cơ quan nhà nước và người thực hiện nhiệm vụ công vụ được
giao. Chính vì vậy thì người ra các QĐHC hay có HVHC đa số là những người có
chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan nhà nước. Theo như các số liệu thống kê, thì đa
số các vụ khiếu kiện hành chính ở Việt Nam đều liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến
cơ quan quản lý hành chính nhà nước ở địa phương. Nếu xét về tổ chức trong bộ máy
nhà nước, TAND nói chung và THC nói riêng không phụ thuộc nào vào cơ quan hành
chính nhà nước ở địa phương. Tuy nhiên, với vai trò là một cơ quan quản lý hành
chính nhà nước tại địa phương thì thẩm quyền của Ủy ban nhân dân bao trùm lên rất
nhiều mặt, lĩnh vực trong đời sống xã hội tại địa phương. Với vị trí, vai trò to lớn như
vậy, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương có ảnh hưởng lớn lao đến đội ngũ cán
bộ công chức nói chung và đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân (HTND) trong địa
phương mình nói riêng. Do đó, phát sinh những đặc thù về người khởi kiện và người
bị kiện trong VAHC, cho nên, trong quá trình giải quyết các VAHC có nhiều nguy cơ
tiềm ẩn ảnh hưởng đến sự vô tư, khách quan của Thẩm phán và Hội thẩm nói riêng
cũng như sự độc lập của Tòa án nói chung.
1.2.3 Về các hoạt động cụ thể được tiến hành trong hoạt động tố tụng
Xét về mặt thuật ngữ, khi nói đến trình tự, thủ tục xét xử VAHC là nói đến một
quá trình được quy định trong LTTHC để thực hiện nhiệm vụ của Tòa án nhân dân,
hiểu theo nghĩa rộng, trình tự, thủ tục xét xử vụ án hành chính là bao gồm các giai
đoạn của Tố tụng hành chính là: Thụ lý vụ án; Chuẩn bị xét xử và Xét xử vụ án hành
chính. Tuy nhiên, giai đoạn thụ lý vụ án, theo quan điểm của nhiều học giả, thì không
được xem như một giai đoạn của TTHC, bởi việc thụ lý VAHC chỉ là hành vi tố tụng
đầu tiên mà Tòa án phải tiến hành, là tiền đề có hay không có các giai đoạn tiếp theo
của VAHC mà thôi, nên hiểu theo nghĩa hẹp thì trình tự, thủ tục xét xử VAHC chỉ bao
gồm hai giai đoạn là Chuẩn bị xét xử và Xét xử VAHC.
21. 12
Tuy nhiên, để đáp ứng những yêu cầu mà Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
2/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” đề ra
là: “…đổi mới thủ tục hành chính trong các cơ quan tư pháp nhằm tạo điều kiện thuận
lợi cho người dân tiếp cận công lý; người dân chỉ nộp đơn đến Tòa án, Tòa án có trách
nhiệm nhận và thụ lý đơn” [3], thì Ban cán sự Đảng, lãnh đạo TANDTC, đã đưa ra
nhiều giải pháp, trong đó, việc thành lập tại mỗi TAND một tổ hành chính tư pháp
nhằm tập trung vào việc đổi mới các quy trình, thủ tục tiếp nhận và xử lý công văn,
đơn khởi kiện, hồ sơ kháng cáo, kháng nghị, hồ sơ do Viện kiểm sát (VKS) chuyển
đến,...đã cho thấy tầm quan trọng của giai đoạn thụ lý vụ án. Thụ lý vụ án là hành vi tố
tụng của TA có thẩm quyền, sau khi xem xét Đơn khởi kiện, kiểm tra toàn bộ yêu cầu,
các tài liệu kèm theo, và chỉ thụ lý khi đảm bảo đầy đủ các điều kiện mà pháp luật quy
định. Như vậy, Thụ lý vụ án là một giai đoạn có tính tiền đề, làm cơ sở cho các giai
đoạn tố tụng sau, và bắt buộc tại giai đoạn thụ lý vụ án, người tiến hành tố tụng phải
tuân thủ một loạt các trình tự, thủ tục được quy định tại LTTHC thì mới phát sinh hành
vi thụ lý vụ án. Do đó, “ trình tự, thủ tục xét xử vụ án hành chính” theo quan điểm của
học viên bao gồm ba giai đoạn là Thụ lý vụ án; Chuẩn bị xét xử và Xét xử vụ án hành
chính.
1.2.4 Điểm khác biệt cơ bản giữa trình tự, thủ tục tố tụng hành chính và trình
tự, thủ tục tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm,
phúc thẩm
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, Luật hành chính và Luật dân sự có mối quan
hệ rất chặt chẽ, bởi trong nhiều trường hợp mặc dù là ngành luật công nhưng Luật
hành chính vẫn điều chỉnh các quan hệ về tài sản như Luật dân sự. Tuy nhiên, cùng
một loại quan hệ, hai ngành luật lại sử dụng phương pháp điều chỉnh không giống
nhau: một bên là phương pháp quyền uy - phục tùng đặc trưng bởi quan hệ bất bình
đẳng về ý chí giữa các bên trong quan hệ pháp luật hành chính còn luật dân sự xuất
phát từ đặc trưng bình đẳng trong quan hệ giữa các bên nên sử dụng phương pháp thỏa
thuận. Do đó, trình tự, thủ tục xét xử vụ án Hành chính và trình tự, thủ tục xét xử vụ án
22. 13
Dân sự (là trình tự xét xử chung của các loại án Dân sự, Kinh doanh thương mại, Hôn
nhân gia đình, Lao động) cũng có sự khác nhau nhất định.
+ Về trình tư, thủ tục thụ lý vụ án:
Về thời hạn xem xét đơn khởi kiện của thẩm phán: Điều 121 LTTHC 2015 quy
định trong thời hạn 3 ngày làm việc, kể từ khi Tòa án nhận được đơn khởi kiện, Chánh
án Tòa án phân công một Thẩm phán xem xét đơn khởi kiện, và kể từ khi được phân
công, trong thời hạn 3 ngày làm việc, Thẩm phán phải xem xét đơn khởi kiện và các
tài liệu kèm theo để thực hiện một trong các thủ tục: Tiến hành thụ lý vụ án nếu vụ án
thuộc thẩm quyền giải quyết; Yêu cầu sửa đổi bổ sung đơn khởi kiện; Chuyển đơn
khởi kiện cho Tòa án có thẩm quyền và báo cho người khởi kiện, nếu vụ án thuộc
thẩm quyền của Tòa án khác; Trả lại đơn khởi kiện, nếu thuộc một trong các quy định
tại khoản 1 Điều 123 LTTHC. Tuy nhiên, trong Bộ luật Tố tụng dân sự 2015
(BLTTDS) thì thời hạn Thẩm phán xem xét Đơn khởi kiện là 5 ngày làm việc (Điều
191 Bộ luật TTDS 2015).
Về các trường hợp trả lại đơn khởi kiện: Trong BLTTDS có quy định việc Tòa án
trả lại đơn khởi kiện trong trường hợp người khởi kiện rút lại đơn khởi kiện (Điều 192
BLTTDS) nhưng LTTHC không quy định trường hợp này (Điều 123 LTTHC) mà quy
định Tòa án trả lại đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ cho đương sự nếu có yêu cầu khi
ra Quyết định đình chỉ vụ án (Khoản 2, Điều 143 LTTHC). Để khắc phục hạn chế này,
theo ý kiến của người viết khi người khởi kiện rút đơn khởi kiện thì Tòa án cần phải có
văn bản trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện để đương sự thực hiện quyền khiếu
nại của mình (nếu có).
Về khiếu nại, kiến nghị đối với việc trả lại đơn khởi kiện: Thời hạn khiếu nại,
kiến nghị đối với việc trả lại đơn khởi kiện và thời hạn khiếu nại, kiến nghị đối với
quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện trong TTHC là
7 ngày kể từ ngày nhận được văn bản trả lại đơn khởi kiện hoặc nhận được quyết định
giải quyết khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện. (Điều 124 LTTHC).
Trong LTTHC chỉ có 2 cấp giải quyết khiếu nại, kiến nghị. Quyết định giải quyết
khiếu nại, kiến nghị của Chánh án Tòa án trên một cấp trực tiếp là quyết định cuối
23. 14
cùng. (Điều 124 LTTHC).
Còn đối với thời hạn khiếu nại, kiến nghị đối với việc trả lại đơn khởi kiện và
thời hạn khiếu nại, kiến nghị đối với quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị về việc
trả lại đơn khởi kiện trong BLTTDS là 10 ngày kể từ ngày nhận được văn bản trả lại
đơn khởi kiện hoặc nhận được quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại
đơn khởi kiện. (Điều 194 BLTTDS). Trong BLTTDS việc giải quyết khiếu nại, kiến
nghị được thực hiện theo 3 cấp. Quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị của Chánh
án Tòa án trên một cấp trực tiếp chỉ là quyết định có hiệu lực thi hành, đương sự hoặc
VKS vẫn có quyền khiếu nại, kiến nghị đến Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao. Quyết
định giải quyết khiếu nại, kiến nghị của Chánh án Tòa án Tòa án nhân dân cấp cao mới
là quyết định cuối cùng. (Điều 194 BLTTDS).
+ Về những người tham gia tố tụng: Đối với quy định tại Khoản 11, Điều 3 và
Khoản 3, Điều 60 LTTHC 2015 thì các cơ quan, tổ chức không có tư cách pháp nhân
sẽ không được tham gia tố tụng với tư cách là đương sự trong tố tụng hành chính.
Tuy nhiên với quy định tại Khoản 5, Điều 74 BLTTDS 2015 thì các cơ quan, tổ
chức không có tư cách pháp nhân vẫn có thể là đương sự trong tố tụng dân
sự: “Trường hợp tổ chức không có tư cách pháp nhân tham gia quan hệ dân sự mà
người đại diện đang tham gia tố tụng chết thì tổ chức đó phải cử người khác làm đại
diện để tham gia tố tụng; nếu không cử được người đại diện hoặc tổ chức đó phải
chấm dứt hoạt động, bị giải thể thì các cá nhân là thành viên của tổ chức đó tham gia
tố tụng”.
Trong LTTHC, cán bộ, công chức trong các cơ quan Thanh tra, Thi hành án, sĩ
quan, hạ sĩ quan trong ngành Công an không được làm người đại diện, trừ trường hợp
họ tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện cho cơ quan của họ hoặc với tư cách
là người đại diện theo pháp luật (Điều 60 Luật TTHC). Nhưng trong BLTTDS thì cán
bộ, công chức trong các cơ quan Thanh tra, Thi hành án vẫn được làm người đại diện.
Theo LTTHC quy định đại diện được ủy quyền không được ủy quyền lại cho người
thứ 3 (Khoản 5 Điều 60 LTTHC 2015), trong BLTTDS không có quy định này. Riêng
đối với việc ly hôn, đương sự không được ủy quyền cho người khác thay mặt mình
24. 15
tham gia tố tụng (Điều 85 BLTTDS).
+ Về thẩm quyền kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm
pháp luật: Trong LTTHC thì Chánh án Tòa án cấp huyện có quyền kiến nghị sửa đổi,
bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước từ cấp huyện
trở xuống; đề nghị Chánh án Tòa án cấp tỉnh kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ
văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp tỉnh; báo cáo Chánh án Tòa án
cấp tỉnh đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc bãi
bỏ văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước ở trung ương.
Chánh án Tòa án cấp tỉnh, Tòa án nhân dân tối cao có quyền kiến nghị sửa đổi,
bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước từ cấp tỉnh trở
xuống; đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc bãi
bỏ văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước ở trung ương. Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao tự mình hoặc theo đề nghị của Chánh án Tòa án cấp dưới kiến nghị
sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước ở
trung ương. (Điều 112 LTTHC 2015). Trong BLTTDS thì chỉ có Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao mới có quyền kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy
phạm pháp luật còn chánh án các Tòa án khác chỉ có quyền đề nghị Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao kiến nghị (Điều 221 BLTTDS 2015).
+ Về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, vụ án hành chính và thời hiệu yêu cầu
hủy quyết định hành chính:Theo quy định của LTTHC, Tòa án sẽ đình chỉ giải quyết
VAHC nếu thời hiệu khởi kiện đã hết (Điểm g, Khoản 1, Điều 143 LTTHC
2015) nhưng theo quy định của BLTTDS thì Tòa án chỉ đình chỉ giải quyết vụ án dân
sự do hết thời hiệu khởi kiện khi đương sự có yêu cầu áp dụng thời hiệu trước khi Tòa
án cấp sơ thẩm ra bản án hoặc quyết định giải quyết vụ án và thời hiệu khởi kiện đã
hết (Điểm e, Khoản 1, Điều 217 BLTTDS 2015 (Áp dụng từ ngày 01/01/2017).
Theo quy định của LTTHC đương sự chỉ có quyền yêu cầu hủy QĐHC nếu thời
hiệu khởi kiện vẫn còn. Tòa án sẽ đình chỉ giải quyết vụ án nếu thời hiệu khởi kiện đã
hết nhưng theo quy định của BLTTDS thì đương sự vẫn có quyền yêu cầu hủy QĐHC
theo BLTTDS cho dù thời hiệu yêu cầu hủy QĐHC theo LTTHC đã hết.
25. 16
+ Về căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ án và việc tham gia phiên tòa của đại
diện Viện kiểm sát: Trong LTTHC có quy định việc Tòa án tạm đình chỉ giải quyết vụ
án trong trường hợp đã hết thời hạn chuẩn bị xét xử mà một trong các đương sự không
thể có mặt vì lý do chính đáng, trừ trường hợp có thể xét xử vắng mặt đương sự (Điểm
c, Khoản 1, Điều 141 LTTHC 2015) nhưng BLTTDS không có quy định về việc Tòa
án tạm đình chỉ giải quyết vụ án trong trường hợp này (Điều 214 BLTTDS). Do vậy
nếu xảy ra trường hợp này thì việc giải quyết vụ án của Tòa án chắc chắn sẽ quá hạn vì
Tòa án không thể mở phiên tòa hoặc tạm đình chỉ giải quyết vụ án được.
Trong LTTHC đại diện Viện kiểm sát tham gia tất cả các phiên tòa sơ thẩm hoặc
phúc thẩm (Điều 25 LTTHC 2015). Trong BLTTDS đại diện Viện kiểm sát chỉ tham
gia phiên tòa sơ thẩm hoặc phúc thẩm trong một số trường hợp mà pháp luật có quy
định (Điều 21 BLTTDS).
1.3 Trình tự, thủ tục xét xử vụ án hành chính tại cấp sơ thẩm
Trình tự, thủ tục xét xử VAHC cấp sơ thẩm là một chuỗi hoạt động tổng hợp, gắn
liền các hoạt động của Thẩm phán với các cơ quan hành chính có QĐHC cá biệt hoặc
người thi hành công vụ có HVHC bị khiếu kiện. Cuối cùng là kết quả chấp nhận hay
bác yêu cầu khởi kiện của công dân, và đưa ra phán quyết về QĐHC, HVHC đó đúng
hay sai.
Trình tự, thủ tục xét xử vụ án hành chính cấp sơ thẩm bao gồm: Thụ lý vụ án;
Chuẩn bị xét xử và Xét xử sơ thẩm VAHC.
1.3.1 Trình tự, thủ tục thụ lý vụ án
Thụ lý vụ án là hành vi tố tụng của Tòa án có thẩm quyền chấp nhận giải quyết
khiếu kiện, được xác định bằng hành vi ghi vào sổ thụ lý vụ án, ra Thông báo về việc
thụ lý vụ án gửi cho VKS, đương sự trong vụ án biết việc Tòa án đã thụ lý sau khi Tòa
án đã xem xét điều kiện khởi kiện và điều kiện thụ lý vụ án. Như vậy, hành vi khởi
kiện VAHC thể hiện quyền của người khởi kiện. Còn việc thụ lý VAHC là quyền,
nghĩa vụ của Tòa án. Đó là những hành vi tố tụng đầu tiên mà Tòa án phải tiến hành,
là tiền đề để xác định có hay không có giai đoạn tiếp theo của VAHC. Việc xem xét
26. 17
đơn khởi kiện trên cơ sở quy định của pháp luật tố tụng hành chính sẽ giúp Tòa án
quyết định thụ lý hay không.
Để thụ lý hành chính, Tòa án nhân dân có thẩm quyền tiến hành kiểm tra các
điều kiện khởi kiện sau:
+ Người khởi kiện phải là cá nhân, cơ quan, tổ chức phải có năng lực chủ thể
tham gia quan hệ pháp luật tố tụng hành chính (Cá nhân là người từ đủ 18 tuổi trở lên
có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng hành chính, trừ người mất năng lực hành vi dân sự
hoặc pháp luật có quy định khác có quyền khởi kiện vụ án hành chính độc lập. Cá
nhân là người chưa thành niên (chưa đủ 18 tuổi) hoặc người mất năng lực hành vi dân
sự thực hiện quyền khởi kiện vụ án hành chính thông qua người đại diện theo pháp
luật. Trường hợp người khởi kiện là cá nhân đã chết thì người thừa kế của họ sẽ thực
hiện quyền khởi kiện vụ án hành chính. Tổ chức - chủ thể khởi kiện vụ án hành chính,
phải là pháp nhân) và người khởi kiện phải là người bị ảnh hưởng trực tiếp bởi QĐHC,
HVHC, quyết định kỷ luật buộc thôi việc hoặc quyết định giải quyết khiếu nại về
quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh;
+ Đối tượng khởi kiện: Theo LTTHC thì đối tượng khởi kiện VAHC là QĐHC,
HVHC, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết
định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử
tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, danh sách trưng cầu ý dân; đồng thời phải liên
quan trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện và bị khởi kiện;
+ Khiếu nại tiền tố tụng: Điều kiện khiếu nại tiền tố tụng chỉ xem xét đối với
khiếu nại về danh sách cử tri, còn các khiếu kiện khác không là điều kiện bắt buộc;
+ Điều kiện về tố tụng: Sự việc mà người khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết
phải là sự việc chưa được Tòa án giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật;
+ Điều kiện về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Theo quy định của LTTHC thì
thẩm quyền của Tòa án là thẩm quyền bắt buộc. Khác với pháp luật tố tụng dân sự,
trong tố tụng hành chính không có thẩm quyền theo sự lựa chọn, thỏa thuận của đương
27. 18
sự. Thẩm quyền giải quyết của Tòa án quy định tại Điều 30, Điều 31 và Điều 32 của
LTTHC 2015;
+ Điều kiện cuối cùng là hình thức và nội dung đơn khởi kiện phải đúng theo quy
định tại Khoản 1 Điều 118 của LTTHC 2015, tức phải đầy đủ các nội dung chính:
Ngày, tháng, năm làm đơn; Tòa án được yêu cầu giải quyết vụ án hành chính; Tên, địa
chỉ của người khởi kiện, người bị kiện; Nội dung quyết định hành chính, quyết định kỷ
luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại, về quyết định xử lý vụ việc cạnh
tranh, nội dung giải quyết khiếu nại về danh sách cử tri hoặc tóm tắt diễn biến của
hành vi hành chính; Nội dung quyết định giải quyết khiếu nại (nếu có); Các yêu cầu đề
nghị Tòa án giải quyết và cam đoan về việc không đồng thời khiếu nại đến người có
thẩm quyền giải quyết khiếu nại.
Điều kiện thụ lý: Việc khởi kiện ngoài đáp ứng đầy đủ các điều kiện khởi kiện
còn đáp ứng các điều kiện khác như điều kiện nộp tiền tạm ứng án phí, tức người khởi
kiện phải hoàn thành nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng án phí, trừ trường hợp được miễn nộp
tiền tạm ứng án phí theo quy định của pháp luật.
Thời điểm thụ lý vụ án: Tòa án thụ lý vụ án vào ngày người khởi kiện xuất trình
biên lai nộp tiền tạm ứng án phí. Trường hợp được miễn nộp tạm ứng án phí thì ngày
thụ lý vụ án là ngày Thẩm phán thông báo cho người khởi kiện biết việc thụ lý.
Thủ tục thụ lý: khi nhận được đơn khởi kiện tại Tòa án có thẩm quyền thì xác
định ngày khởi kiện là ngày nộp đơn. Khi nhận đơn khởi kiện nộp trực tiếp, Tòa án có
trách nhiệm cấp ngay giấy xác nhận đã nhận đơn cho người khởi kiện. Trường hợp
nhận đơn trực tuyến thì Tòa án trả lời cho người khởi kiện biết qua thư điện tử. Trường
hợp nhận đơn qua dịch vụ bưu chính thì trong thời hạn 02 ngày làm việc kể từ ngày
nhận đơn, Tòa án phải gửi thông báo nhận đơn cho người khởi kiện.Trong thời hạn 03
ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, Chánh án Tòa án phân công một
Thẩm phán xem xét đơn khởi kiện.
Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày được phân công, Thẩm phán phải
xem xét đơn khởi kiện và có một trong các quyết định sau đây: Yêu cầu sửa đổi, bổ
sung đơn khởi kiện; Tiến hành thủ tục thụ lý vụ án theo thủ tục thông thường hoặc
28. 19
theo thủ tục rút gọn nếu vụ án có đủ điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 246 của
LTTHC 2015; Chuyển đơn khởi kiện cho Tòa án có thẩm quyền và thông báo cho
người khởi kiện nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án khác; Trả lại đơn
khởi kiện cho người khởi kiện, nếu thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản
1 Điều 123 của LTTHC 2015. Kết quả xử lý đơn của Thẩm phán phải được thông báo
cho người khởi kiện, phải ghi chú vào sổ nhận đơn và thông báo trên Cổng thông tin
điện tử của Tòa án (nếu có).
Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được văn bản trả lại đơn khởi kiện,
người khởi kiện có quyền khiếu nại, VKS có quyền kiến nghị với Tòa án đã trả lại đơn
khởi kiện.Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được quyết định trả lời khiếu nại,
kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện của Thẩm phán, người khởi kiện có quyền khiếu
nại, VKS có quyền kiến nghị với Chánh án Tòa án trên một cấp trực tiếp xem xét, giải
quyết. Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại, kiến nghị về việc trả
lại đơn khởi kiện, Chánh án Tòa án trên một cấp trực tiếp phải ra một trong các quyết
định sau đây: Giữ nguyên việc trả lại đơn khởi kiện; Yêu cầu Tòa án cấp sơ thẩm nhận
lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo để tiến hành việc thụ lý vụ án. Quyết
định giải quyết khiếu nại, kiến nghị của Chánh án Tòa án trên một cấp trực tiếp là
quyết định cuối cùng. Quyết định này phải được gửi ngay cho người khởi kiện, VKS
cùng cấp, VKS đã kiến nghị và Tòa án đã ra quyết định trả lại đơn khởi kiện.
1.3.2 Trình tự thủ tục chuẩn bị xét xử
Sau khi thụ lý, giai đoạn tiếp theo là Chuẩn bị xét xử, đây là một giai đoạn của
quá trình tố tụng, được thực hiện trước khi mở phiên tòa sơ thẩm. Chuẩn bị xét xử là
một giai đoạn tố tụng quan trọng, nhiệm vụ của giai đoạn này không nhằm đưa ra một
phán quyết mà chỉ nhằm kiểm tra, chuẩn bị những điều kiện cần thiết trong việc đưa ra
các Quyết định của Tòa án. Nếu vụ án được đưa ra xét xử, thì những điều kiện về tố
tụng và nội dung là điều kiện cần thiết để xét xử được vụ án. Nhiệm vụ của giai đoạn
này bao gồm:
Thứ nhất, trình tự phân công Thẩm phán và Thông báo về việc thụ lý vụ án:
Trên cơ sở báo cáo thụ lý vụ án của Thẩm phán được phân công thụ lý vụ án, Chánh
29. 20
án Tòa án quyết định phân công Thẩm phán giải quyết vụ án bảo đảm đúng nguyên tắc
vô tư, khách quan, ngẫu nhiên. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày thụ lý vụ
án, Chánh án Tòa án quyết định phân công Thẩm phán giải quyết vụ án. Đối với vụ án
phức tạp, việc giải quyết có thể phải kéo dài thì Chánh án Tòa án phân công Thẩm
phán dự khuyết để bảo đảm xét xử theo đúng thời hạn quy định của LTTHC 2015.
Trong quá trình giải quyết vụ án, nếu Thẩm phán được phân công không thể tiếp tục
tiến hành được nhiệm vụ thì Chánh án Tòa án phân công Thẩm phán khác tiếp tục
nhiệm vụ; trường hợp đang xét xử mà không có Thẩm phán dự khuyết thì vụ án phải
được xét xử lại từ đầu và thông báo cho đương sự, VKS cùng cấp.
Thẩm phán kiểm tra lại các điều kiện của việc khởi kiện và thụ lý vụ án. Việc
kiểm tra điều kiện của việc khởi kiện và thụ lý vụ án không chỉ là nhiệm vụ trong giai
đoạn chuẩn bị xét xử mà nó được thực hiện khi Tòa án giải quyết VAHC theo thủ tục
sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm. Tuy nhiên trong giai đoạn này xem xét một cách
toàn diện và đầy đủ tất cả các điều kiện khởi kiện và thụ lý vụ án là nhiệm vụ trọng
tâm của Tòa án. Kiểm tra điều kiện khởi kiện và thụ lý vụ án là việc Tòa án đối chiếu
quy định của pháp luật tố tụng hành chính với thực tế việc thực hiện quyền khởi kiện
của cá nhân, tổ chức và việc thụ lý của Tòa án xem có phù hợp không với những quy
định đó hay không? Khi người khởi kiện nộp đơn khởi kiện thì Tòa án đã xem xét đơn
khởi kiện và các điều kiện khởi kiện, nếu thuộc một trong các trường hợp phải trả lại
đơn khởi kiện theo quy định của pháp luật tố tụng hành chính thì Tòa án phải trả lại
đơn khởi kiện. Tuy nhiên đối với những đơn khởi kiện mà Tòa án đã thụ lý vẫn phải
tiến hành kiểm tra lại như xem xét điều kiện về thời hiệu khởi kiện, chủ thể khởi kiện,
thẩm quyền của Tòa án thụ lý; thủ tục khởi kiện, chủ thể khởi kiện hoặc có thuộc các
trường hợp trả lại đơn khởi kiện hoặc chuyển vụ án sang Tòa án khác có thẩm quyền
không? Nhiệm vụ này giúp Tòa án bảo đảm xét xử vụ án đúng quy định pháp luật mà
còn tránh những sai sót trong việc khởi kiện, và thụ lý vụ án. Sau khi được phân công,
Thẩm phán ra Thông báo về việc thụ lý vụ án.
Theo quy định tại Điều 126, thì Thông báo về việc thụ lý vụ án phải đảm bảo các
nội dung sau:
30. 21
“ Điều 126. Thông báo về việc thụ lý vụ án
1. …
2. Văn bản thông báo phải có các nội dung chính sau đây:
a) Ngày, tháng, năm làm văn bản thông báo;
b) Tên, địa chỉ Tòa án đã thụ lý vụ án;
c) Tên, địa chỉ của người khởi kiện, người bị kiện;
d) Những vấn đề cụ thể người khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết;
đ) Vụ án được thụ lý theo thủ tục thông thường hoặc thủ tục rút gọn;
e) Danh mục tài liệu, chứng cứ người khởi kiện nộp kèm theo đơn khởi kiện;
g) Thời hạn người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải nộp ý kiến
bằng văn bản về yêu cầu của người khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo hoặc yêu
cầu độc lập (nếu có) cho Tòa án;
h) Hậu quả pháp lý của việc người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
không nộp cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình về yêu cầu của người khởi kiện”.
Thứ hai, xác định thành phần, tư cách đương sự: Thành phần tham gia tố tụng
trong việc giải quyết VAHC tùy thuộc vào sự cần thiết và yêu cầu của việc giải quyết
VAHC cụ thể. Ngoài đương sự bao gồm người khởi kiện, người bị kiện, người có quyền
lợi nghĩa vụ liên quan, còn cần xác định những người tham gia tố tụng khác như người
phiên dịch, người làm chứng, người giám định,… Ngoài ra, Tòa án còn cần xác định cả
tư cách pháp lý của họ, ví dụ như xác định người đại diện của đương sự thì xần xem xét
họ tham gia đúng thủ tục chưa, có đủ tư cách đại diện hay không. Việc xác định đủ
thành phần, tư cách của đương sự không những làm rõ nội dung vụ án, mà còn tránh
được những lỗi vi phạm tố tụng, giúp hoạt động xét xử và thi hành án đạt hiệu quả.
Thứ ba, xác định yêu cầu của đương sự, làm rõ nội dung vụ việc trong vụ án
hành chính: Muốn làm rõ nội dung vụ việc thì phải xác định yêu cầu của đương sự,
xem xét người khởi kiện, người bị kiện, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có ý
kiến, yêu cầu gì đối với QĐHC, HVHC. Từ đó, Tòa án sẽ làm rõ nội dung QĐHC,
HVHC bị kiện, xác định các thiệt hại vật chất, các yêu cầu bồi thường… Khi đã xác
định được yêu cầu của từng đương sự, Tòa án cần xem xét yêu cầu đó có căn cứ pháp
31. 22
luật hay không, có căn cứ thực tế để đưa ra yêu cầu đó hay không để định hướng nội
dung cần làm rõ trong vụ án hành chính.
Thứ tư, xác định những vấn đề cần chứng minh: Những vấn đề cần chứng
minh, bao gồm: những tình tiết, sự kiện chưa rõ ràng mà mọi người chưa biết, Tòa án
chưa chấp nhận; những tình tiết, sự kiện chưa được công chứng, chứng thực hoặc tình
tiết, sự kiện mà một trong các bên đương sự không thừa nhận,.. Xác định đúng, đầy đủ
những vấn đề cần phải chứng minh có tác dụng to lớn trong việc xác định hệ thống
chứng cứ cần phải xác minh, thu thập trong quá trình giải quyết vụ án hành chính,
thông qua đó mà Thẩm phán yêu cầu đương sự, các bên liên quan cung cấp tài liệu
chứng cứ hoặc tự mình xác minh thu thập chứng cứ khi thấy cần thiết.
Thứ năm, thu thập các văn bản pháp luật có liên quan đến nội dung QĐHC,
HVHC bị khiếu kiện: Việc thu thập các văn bản pháp luật liên quan đến QĐHC,
HVHC bị khiếu kiện làm căn cứ, cơ sở để xem xét tính hợp pháp của QĐHC, HVHC
bị khiếu kiện. Thu thập đúng và đầy đủ các văn bản pháp luật làm cho việc giải quyết
VAHC và bản án, quyết định của Tòa án có căn cứ và đúng pháp luật.
Thứ sáu, xác minh, thu thập chứng cứ, nghiên cứu hồ sơ, bước đầu xác định
hướng giải quyết vụ án: Đây là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong giai đoạn chuẩn
bị xét xử VAHC. Hoạt động này chủ yếu được thực hiện bởi Thẩm phán được phân
công giải quyết vụ án, vì vậy, nó đòi hỏi tính độc lập và nghiệp vụ chuyên môn của
Thẩm phán.
Thứ bảy, các quyết định của Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Trong
phạm vi giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, Tòa án ra một trong các quyết định: Đưa
vụ án ra xét xử, Tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án, Đình chỉ việc giải quyết vụ án.
+ Tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án là việc Tòa án có thẩm quyền tạm dừng việc
giải quyết vụ án hành chính khi có căn cứ tạm đình chỉ do LTTHC quy định, vụ án sẽ
tiếp tục khi căn cứ để tạm đình chỉ không còn. Căn cứ để quyết định tạm đình chỉ việc
giải quyết vụ án được quy định tại Điều 141 LTTHC 2015:
“ 1. Tòa án quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án khi thuộc một trong các
trường hợp sau đây:
32. 23
a) Đương sự là cá nhân đã chết, cơ quan, tổ chức đã giải thể hoặc tuyên bố phá
sản mà chưa có cá nhân, cơ quan, tổ chức kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng;
b) Đương sự là người mất năng lực hành vi dân sự, người chưa thành niên mà
chưa xác định được người đại diện theo pháp luật;
c) Đã hết thời hạn chuẩn bị xét xử mà một trong các đương sự không thể có mặt
vì lý do chính đáng, trừ trường hợp có thể xét xử vắng mặt đương sự;
d) Cần đợi kết quả giải quyết của cơ quan khác hoặc kết quả giải quyết vụ việc
khác có liên quan;
đ) Cần đợi kết quả giám định bổ sung, giám định lại; cần đợi kết quả thực hiện
ủy thác tư pháp, ủy thác thu thập chứng cứ hoặc đợi cơ quan, tổ chức cung cấp tài
liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án mới giải quyết được vụ án;
e) Cần đợi kết quả xử lý văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến việc giải
quyết vụ án có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, văn bản quy phạm pháp luật của cơ
quan nhà nước cấp trên mà Tòa án đã có văn bản kiến nghị với cơ quan có thẩm
quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản đó.
2. Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo
thủ tục phúc thẩm”
Như vậy, việc giải quyết vụ án chỉ tạm dừng, chứ chưa chấm dứt. Vì vậy, Tòa án
sẽ không xóa tên VAHC bị tạm đình chỉ giải quyết trong sổ thụ lý mà chỉ ghi chú vào
sổ thụ lý số và ngày tháng năm ra quyết định tạm đình chỉ. Đối với trường hợp này,
tiền tạm ứng án phí mà đương sự đã nộp sẽ được xử lý khi Tòa án tiếp tục giải quyết
vụ án.
+ Đình chỉ việc giải quyết vụ án là việc Tòa án có thẩm quyền sau khi thụ lý vụ
án và phát hiện những căn cứ theo quy định của LTTHC 2015 đã ra quyết định chấm
dứt việc giải quyết vụ án. Căn cứ để đình chỉ vụ án được quy định tại Điều 143
LTTHC 2015
“1. Tòa án quyết định đình chỉ giải quyết vụ án trong các trường hợp sau đây:
33. 24
a) Người khởi kiện là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không được
thừa kế; cơ quan, tổ chức đã giải thể hoặc tuyên bố phá sản mà không có cơ quan, tổ
chức, cá nhân kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng;
b) Người khởi kiện rút đơn khởi kiện trong trường hợp không có yêu cầu độc lập
của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trường hợp có yêu cầu độc lập của người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mà người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vẫn giữ
nguyên yêu cầu độc lập của mình thì Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án
đối với yêu cầu của người khởi kiện đã rút;
c) Người khởi kiện rút đơn khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan rút
đơn yêu cầu độc lập;
d) Người khởi kiện không nộp tạm ứng chi phí định giá tài sản và chi phí tố tụng
khác theo quy định của pháp luật.
Trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập mà không
nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản và chi phí tố tụng khác theo quy định của
Luật này thì Tòa án đình chỉ việc giải quyết yêu cầu độc lập của họ;
đ) Người khởi kiện đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt trừ
trường hợp họ đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt hoặc trường hợp có sự kiện bất khả
kháng, trở ngại khách quan;
e) Người bị kiện hủy bỏ quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc,
quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh hoặc chấm dứt
hành vi hành chính bị khởi kiện và người khởi kiện đồng ý rút đơn khởi kiện, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập đồng ý rút yêu cầu;
g) Thời hiệu khởi kiện đã hết;
h) Các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 123 của Luật này mà Tòa án đã
thụ lý.
Hậu quả của việc đình chỉ được quy định tại Điều 144 LTTHC 2015
“ 1. Khi có quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, đương sự không có quyền khởi
kiện yêu cầu Tòa án giải quyết lại vụ án đó, nếu việc khởi kiện này không có gì khác
với vụ án đã bị đình chỉ về người khởi kiện, người bị kiện và quan hệ pháp luật có
34. 25
tranh chấp, trừ các trường hợp bị đình chỉ theo quy định tại các điểm b, c và e khoản 1
Điều 123, điểm b và điểm đ khoản 1 Điều 143 của Luật này và trường hợp khác theo
quy định của pháp luật.
2. Tiền tạm ứng án phí, lệ phí mà đương sự đã nộp được xử lý theo quy định của
pháp luật về án phí, lệ phí Tòa án”
+ Quyết định đưa vụ án ra xét xử là khi không thấy có căn cứ để đình chỉ, tạm
đình chỉ giải quyết vụ án thì Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án ra Quyết
định đưa vụ án ra xét xử. Quyết định đưa vụ án ra xét xử là một thủ tục bắt buộc trước
khi mở phiên tòa xét xử vụ án theo thủ tục sơ thẩm. Theo quy định tại Điều 146
LTTHC 2015 thì :
“ 1. Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải có các nội dung chính sau đây:
a) Ngày, tháng, năm, địa điểm mở phiên tòa;
b) Việc xét xử được tiến hành công khai hay xét xử kín;
c) Tên, địa chỉ của người tham gia tố tụng;
d) Nội dung việc khởi kiện;
đ) Họ, tên của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án, Kiểm sát viên;
Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án, Kiểm sát viên dự khuyết (nếu có).
2. Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải được gửi cho đương sự, Viện kiểm sát
cùng cấp ngay sau khi ra quyết định”
Như vậy, nội dung quyết định thể hiện sự công khai minh bạch trong quá trình
giải quyết VAHC. Khi nhận được quyết định này thì đương sự có quyền yêu cầu thay
đổi người tiến hành tố tụng.
Nhìn chung, các trình tự, thủ tục ở giai đoạn chuẩn bị xét xử đều được tiến hành
bởi Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án và nếu vụ án được đưa ra xét xử
Thẩm phán đó sẽ là Thẩm phán chủ tọa phiên tòa.
1.3.3 Trình tự xét xử sơ thẩm vụ án hành chính
Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày có Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án
phải mở phiên tòa; trong trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn mở phiên tòa có
thể kéo dài nhưng không quá 30 ngày (Điều 149 LTTHC 2015). Như vậy, việc tiến
35. 26
hành phiên tòa sơ thẩm là thủ tục bắt buộc trong trình tự tố tụng hành chính để giải
quyết vụ án khi không có căn cứ tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định
pháp luật.
Phiên tòa xét xử sơ thẩm VAHC có thể được tiến hành sau khi khởi kiện và thụ
lý vụ án lần đầu tiên (xét xử sơ thẩm lần đầu) hoặc cũng có thể được tiến hành sau khi
bản án, quyết định sơ thẩm bị Tòa án cấp phúc thẩm hoặc Hội đồng giám đốc thẩm, tái
thẩm hủy và giao cho Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại.
Trình tự, thủ tục xét xử VAHC như khởi kiện, xem xét đơn khởi kiện, thụ lý vụ
án, xác minh, thu thập chứng cứ, mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công
khai chứng cứ và đối thoại đều phục vụ cho hoạt động xét xử sơ thẩm. Do đó, quyền
và nghĩa vụ tố tụng của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng được thực hiện
công khai, đầy đủ nhất ở phiên tòa sơ thẩm. Mục đích của phiên tòa sơ thẩm là xem
xét tính hợp pháp hay không hợp pháp của QĐHC, HVHC và xác định có hay không
thiệt hại về vật chất do QĐHC, HVHC đó gây ra đối với cá nhân, tổ chức. Bên cạnh
đó, thông qua hoạt động xét xử, HĐXX sơ thẩm còn xem xét yêu cầu của người
khởi kiện, chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của họ. Tòa án sẽ căn cứ vào thực
tế vụ án và dựa vào cơ sở pháp lý là các văn bản pháp luật để ra phán quyết bằng
bản án nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức.
Trong quá trình xét xử sơ thẩm, mọi chứng cứ và tài liệu mà các đương sự cung cấp
hoặc TA thông qua điều tra, xác minh được xem xét một cách công khai tại phiên tòa.
Các bên được bình đẳng tranh luận với nhau do trước đó họ không có điều kiện
thực hiện nhằm làm sáng tỏ bản chất vụ án để rút ra kết luận làm cơ sở cho quyết
định của vụ án. Sau khi xét xử sơ thẩm, bản án hoặc quyết định sơ thẩm có thể trải qua
những thủ tục hành chính tiếp theo như xét xử phúc thẩm (đối với những bản án, quyết
định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị); thi hành án; giám
đốc thẩm, tái thẩm (đối với những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng
nghị). Xét xử sơ thẩm là cơ sở cho các giai đoạn tố tụng tiếp sau và các giai đoạn này
được tiến hành thuận lợi hay không phụ thuộc một phần quan trọng vào chất lượng của
xét xử sơ thẩm.Vì thế, xét xử sơ thẩm có một vị trí đặc biệt quan trọng trong trình tự
36. 27
giải quyết vụ án hành chính.
1.4 Trình tự xét xử vụ án hành chính tại cấp phúc thẩm
1.4.1 Điểm khác biệt giữa trình tự, thủ tục xét xử vụ án hành chính tại cấp sơ
thẩm và trình tự, thủ tục xét xử vụ án hành chính tại cấp phúc thẩm
Cùng là hoạt động xét xử của Tòa án đối với một vụ án hành chính, song trình tự,
thủ tục xét xử VAHC ở cấp sơ thẩm và ở cấp phúc thẩm có những đặc điểm khác nhau.
Thứ nhất, cơ sở phát sinh trình tự, thủ tục xét xử VAHC ở cấp sơ thẩm là đơn
khởi kiện được tòa án thụ lý. Bởi sơ thẩm là cấp xét xử lần đầu vụ án hành chính, Tòa
án xem xét tất cả các nội dung của vụ án trên cơ sở đơn khởi kiện của người khởi kiện,
các yêu cầu khác của các đương sự như yêu cầu phản tố và yêu cầu độc lập. Còn xét
xử ở cấp phúc thẩm là xét xử lại vụ án được xét xử ở sơ thẩm mà bản án, quyết định bị
kháng cáo, kháng nghị. Việc xét xử phúc thẩm phải dựa trên bản án, quyết định của
Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử. Do đó, căn cứ để phát sinh trình tự, thủ tục xét xử
VAHC cấp phúc thẩm là đơn kháng cáo của người tham gia tố tụng hoặc kháng nghị
của VKS.
Thứ hai, việc xét xử sơ thẩm là giải quyết các vấn đề của vụ án, xem xét tính hợp
pháp của QĐHC, HVHC,…. Trong khi đó, mục đích của việc xét xử phúc thẩm là
nhằm khắc phục, sửa chữa những sai lầm có thể có trong những bản án, quyết định
chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp sơ thẩm, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp
của cá nhân, cơ quan, tổ chức.
Thứ ba, về thẩm quyền giải quyết: Ở cấp sơ thẩm, Tòa án thụ lý là Tòa án đảm
bảo có đủ thẩm quyền theo các quy định về thẩm quyền tại các Điều 30, Điều 31, Điều
32 LTTHC 2015. Còn ở cấp phúc thẩm, thì chỉ tòa án cấp trên trực tiếp mới có thẩm
quyền giải quyết.
Thứ tư, hậu quả của đình chỉ xét xử: Trường hợp VAHC ở cấp sơ thẩm bị đình
chỉ, thì Quyết định đình chỉ có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, và
sẽ chấm dứt giải quyết toàn bộ vụ án, TA sẽ trả lại đơn khởi kiện và tài liệu chứng cứ
kèm theo Đơn khởi kiện cho đương sự khi có yêu cầu. Tại cấp phúc thẩm: nếu thuộc
các trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 229 LTTHC 2015 thì bản án quyết định của
37. 28
Tòa án cấp sơ thẩm sẽ có hiệu lực từ ngày Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định đình
chỉ xét xử phúc thẩm.
Thứ năm, thủ tục hỏi và tranh luận tại phiên tòa: Ở cấp sơ thẩm: thủ tục hỏi và
tranh luận là những vấn đề liên quan đến vụ án, đến yêu cầu khởi kiện, còn ở cấp phúc
thẩm, thủ tục hỏi và tranh luận chỉ liên quan đến những vấn đề thuộc phạm vi kháng
cáo, kháng nghị.
Thứ sáu, về hiệu lực của bản án: Ở cấp sơ thẩm nhằm đảm bảo quyền kháng cáo,
kháng nghị của đương sự nên Bản án chưa có hiệu lực ngay, mà phải sau 30 ngày, kể
từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị mà không có kháng cáo, kháng nghị thì
bản án mới có hiệu lực, còn tại cấp phúc thẩm, bản án có hiệu lực pháp luật ngay.
1.4.2 Trình tự, thủ tục thụ lý vụ án để xét xử phúc thẩm và thời hạn chuẩn bị
xét xử
Kháng cáo là một quyền đặc biệt quan trọng thuộc nội dung của nguyên tắc bảo
đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Sau khi xét xử sơ thẩm thì
đương sự được thông báo về quyền này. Điều 204 LTTHC 2015 quy định chủ thể
được quyền kháng cáo gồm đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự.
Điều 205 LTTHC quy định cụ thể các nội dung chính của Đơn kháng cáo như sau:
“ 1. Khi thực hiện quyền kháng cáo, người kháng cáo phải làm đơn kháng cáo.
Đơn kháng cáo phải có các nội dung chính sau đây:
a) Ngày, tháng, năm làm đơn kháng cáo;
b) Tên, địa chỉ; số điện thoại, fax, địa chỉ thư điện tử (nếu có) của người
kháng cáo;
c) Kháng cáo toàn bộ hoặc một phần của bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ
thẩm chưa có hiệu lực pháp luật;
d) Lý do của việc kháng cáo và yêu cầu của người kháng cáo;
đ) Chữ ký hoặc điểm chỉ của người kháng cáo.”
Sau khi chấp nhận đơn kháng cáo hợp lệ, Tòa án cấp sơ thẩm phải thông báo cho
người kháng cáo biết để họ nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm theo quy định của pháp
38. 29
luật, nếu họ không thuộc trường hợp được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án
phí phúc thẩm.
Ngoài kháng cáo, thì bản án sơ thẩm còn có thể bị kháng nghị của VKS. Kháng
nghị là quyền của Viện kiểm sát nhân dân theo thủ tục phúc thẩm – bởi đây là cơ quan
có chức năng kiểm soát hoạt động tư pháp. Điều 211 và Điều 212 LTTHC 2015 quy
định cụ thể về đối tượng kháng nghị cũng như hình thức kháng nghị:
“ Điều 211. Kháng nghị của Viện kiểm sát
Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp và cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị
bản án, quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp
sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm.
Điều 212. Quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát
1. Quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát phải bằng văn bản và có các nội
dung chính sau đây:
a) Ngày, tháng, năm ra quyết định kháng nghị và số của quyết định kháng nghị;
b) Tên của Viện kiểm sát ra quyết định kháng nghị;
c) Kháng nghị toàn bộ hoặc một phần của bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ
thẩm chưa có hiệu lực pháp luật;
d) Lý do và căn cứ của việc kháng nghị và yêu cầu của Viện kiểm sát;
đ) Họ, tên của người ký quyết định kháng nghị và đóng dấu của Viện kiểm sát ra
quyết định kháng nghị”
Trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ ngày hết thời hạn kháng nghị và hết thời
hạn kháng cáo, người kháng cáo nộp cho Tòa án cấp sơ thẩm biên lai thu tiền tạm ứng
án phí phúc thẩm thì Tòa án cấp sơ thẩm phải gửi hồ sơ vụ án, kháng cáo, kháng nghị
và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho Tòa án cấp phúc thẩm.
Ngay sau khi nhận được hồ sơ vụ án, đơn kháng cáo, quyết định kháng nghị và
tài liệu, chứng cứ kèm theo, Tòa án cấp phúc thẩm phải vào sổ thụ lý. Trong thời hạn 3
ngày làm việc kể từ ngày thụ lý vụ án, Tòa án phải thông báo bằng văn bản cho các
đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp về việc Tòa án đã thụ lý vụ án và thông báo trên
Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có). Chánh án Tòa án cấp phúc thẩm thành lập
39. 30
Hội đồng xét xử (HĐXX) phúc thẩm và phân công một Thẩm phán làm Chủ tọa phiên
tòa, phiên họp.
Trừ vụ án xét xử phúc thẩm theo thủ tục rút gọn hoặc vụ án có yếu tố nước ngoài,
thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm là 60 ngày kể từ ngày thụ lý vụ án. Trường hợp vụ
án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì Chánh án Tòa án cấp phúc
thẩm có thể quyết định kéo dài thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không được quá 30
ngày kể từ ngày thụ lý vụ án. Tùy từng trường hợp, Thẩm phán được phân công làm
Chủ tọa phiên tòa phải ra một trong các quyết định là: Tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm
vụ án; Đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án; Đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm.
Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án
phải mở phiên tòa phúc thẩm; trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là 60
ngày. Trường hợp có quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án thì thời hạn
chuẩn bị xét xử phúc thẩm được tính lại kể từ ngày quyết định tiếp tục giải quyết vụ án
của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
1.4.3 Trình tự, thủ tục xét xử vụ án hành chính phúc thẩm
Chánh án Tòa án cấp phúc thẩm hoặc Chánh tòa Tòa phúc thẩm TAND tối cao
thành lập Hội đồng xét xử phúc thẩm và phân công một Thẩm phán làm Chủ tọa phiên
tòa (Khoản 2 Điều 127 LTTHC 2015)
Thành phần HĐXX gồm ba Thẩm phán, không có Hội thẩm nhân dân tham gia.
Sở dĩ như vậy vì đây là cấp xét xử lại, bản án, quyết định phúc thẩm sẽ có hiệu lực
pháp luật nên xét xử phúc thẩm đòi hỏi Thẩm phán phải có tính chuyên nghiệp, kiến
thức chuyên môn và pháp luật cao hơn trong việc xem xét, đánh giá các chứng cứ và
tình tiết vụ án cũng như áp dụng pháp luật.
Cũng giống như cấp sơ thẩm, trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày thụ lý vụ án,
Thẩm phán được phân công làm Chủ tọa phiên tòa phải ra một trong các quyết định:
Tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án; Đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án; Đưa vụ án ra
xét xử phúc thẩm. Trong trường hợp, không có căn cứ để Tạm đình chỉ hoặc đình chỉ
giải quyết vụ án, Thẩm phán phải ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử, thủ tục xét xử
phúc thẩm được quy định rất chi tiết tại Điều 233 LTTHC 2015:
40. 31
“1. Chuẩn bị khai mạc phiên tòa, thủ tục bắt đầu phiên tòa phúc thẩm, thủ tục
công bố tài liệu, xem xét vật chứng tại phiên tòa phúc thẩm, nghị án và tuyên án, sửa
chữa, bổ sung bản án phúc thẩm được thực hiện tương tự thủ tục xét xử sơ thẩm theo
quy định của Luật này.
2. Sau khi kết thúc thủ tục bắt đầu phiên tòa phúc thẩm thì một thành viên của
Hội đồng xét xử phúc thẩm công bố nội dung vụ án, quyết định của bản án sơ thẩm và
nội dung kháng cáo, kháng nghị.
3. Chủ tọa phiên tòa hỏi về vấn đề sau đây:
a) Hỏi người khởi kiện có rút đơn khởi kiện hay không;
b) Hỏi người kháng cáo, Kiểm sát viên có thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo,
kháng nghị hay không;
c) Hỏi đương sự có thống nhất được với nhau về việc giải quyết vụ án hay không.
4. Trường hợp người kháng cáo rút một phần kháng cáo, Kiểm sát viên rút một
phần kháng nghị thì Tòa án chấp nhận việc rút kháng cáo, kháng nghị. Trường hợp
người kháng cáo, Kiểm sát viên bổ sung nội dung mới không thuộc phạm vi kháng cáo,
kháng nghị ban đầu thì Tòa án không xem xét nội dung đó.
5. Việc hỏi đương sự, Kiểm sát viên về việc thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo,
kháng nghị tại phiên tòa được Chủ tọa phiên tòa thực hiện như sau:
a) Hỏi người khởi kiện có rút đơn khởi kiện hay không;
b) Hỏi người kháng cáo, Kiểm sát viên có thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo,
kháng nghị hay không.
6. Trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị thì Kiểm sát viên phát biểu quan điểm
kháng nghị của Viện kiểm sát đối với quyết định của bản án sơ thẩm bị kháng nghị”.
Thẩm quyền của Hội đồng xét xử được quy định tại Điều 241 LTTHC 2015, dựa
trên cơ sở kế thừa và phát triển quy định tại Điều 205 của LTTHC 2010:
“ 1. Bác kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
2. Sửa một phần hoặc toàn bộ bản án sơ thẩm nếu Tòa án cấp sơ thẩm quyết
định không đúng pháp luật trong các trường hợp sau đây:
41. 32
a) Việc chứng minh, thu thập chứng cứ đã thực hiện đầy đủ và theo đúng quy
định tại Chương VI của Luật này;
b) Việc chứng minh, thu thập chứng cứ chưa thực hiện đầy đủ ở cấp sơ thẩm
nhưng tại phiên tòa phúc thẩm đã được bổ sung đầy đủ.
3. Hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại
trong trường hợp có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng hoặc phải thu thập
chứng cứ mới quan trọng mà Tòa án cấp phúc thẩm không thể bổ sung ngay được.
4. Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ việc giải quyết vụ án nếu trong quá trình xét
xử sơ thẩm có một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 143 của Luật này.
5. Đình chỉ xét xử phúc thẩm, nếu việc xét xử phúc thẩm vụ án cần phải có mặt
người kháng cáo và họ đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt.
Trường hợp này bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật.
6. Trường hợp cần phải yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền xem xét, xử lý văn
bản hành chính quy định tại khoản 1 Điều 6 của Luật này thì Hội đồng xét xử có
quyền tạm ngừng phiên tòa để chờ kết quả giải quyết của cơ quan, người có thẩm
quyền và báo cáo Chánh án Tòa án có văn bản yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền
xem xét, xử lý văn bản hành chính đó. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được
văn bản của Tòa án thì cơ quan, người có thẩm quyền phải trả lời bằng văn bản về kết
quả xử lý cho Tòa án biết để làm căn cứ cho việc giải quyết vụ án. Quá thời hạn này
mà không nhận được văn bản trả lời của cơ quan, người có thẩm quyền thì Hội đồng
xét xử có quyền áp dụng văn bản của cơ quan quản lý nhà nước cấp trên để giải quyết
vụ án.
7. Trường hợp phát hiện văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến việc giải
quyết vụ án hành chính có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, văn bản quy phạm pháp
luật của cơ quan nhà nước cấp trên thì Hội đồng xét xử đề nghị Chánh án Tòa án đang
giải quyết vụ án đó thực hiện việc kiến nghị hoặc đề nghị người có thẩm quyền theo quy
định tại Điều 112 của Luật này thực hiện việc kiến nghị. Trường hợp này, Hội đồng xét
xử tạm ngừng phiên tòa để chờ ý kiến của Chánh án Tòa án hoặc tạm đình chỉ giải
quyết vụ án khi có văn bản kiến nghị của Chánh án Tòa án có thẩm quyền”