SlideShare a Scribd company logo
1 of 114
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN ĐỨC CHÍNH
THÈM QUYÒN XÐT Xö CñA TßA HµNH CHÝNH
THEO LUËT Tè TôNG HµNH CHÝNH VIÖT NAM
Chuyên ngành: Lí luận lịch sử Nhà nước và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN HOÀNG ANH
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan kết quả nghiên cứu trong luận văn này là
do chính bản thân tôi thực hiện, được xuất phát từ nhu cầu học tập
và nghiên cứu của bản thân và được hoàn thành dưới sự hướng dẫn
của PGS . TS. Nguyễn Hoàng Anh . Tôi cũng xin cam đoan rằng
mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và
các thông tin trích dẫn trong luận văn là trung thực và đã được chỉ
rõ nguồn gốc.
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Đức Chính
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN XÉT
XỬ CỦA TÒA HÀNH CHÍNH.......................................................... 7
1.1. Khái niệm thẩm quyền xét xử của tòa hành chính .......................... 7
1.1.1. Khái niệm thẩm quyền xét xử của Tòa án ............................................ 7
1.1.2. Khái niệm Tòa hành chính.................................................................... 9
1.1.3. Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính.............................................11
1.2. Những căn cứ để xác định thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính...12
1.2.1. Căn cứ vào tính đặc thù của đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử
của Tòa hành chính .............................................................................12
1.2.2. Căn cứ vào mục tiêu, định hướng của Nhà nước trong phát triển
tư pháp, quản lý hành chính................................................................13
1.3. Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính trước khi ban hành
luật tố tụng hành chính.....................................................................14
1.3.1. Giai đoạn 1996 đến 1998 ....................................................................15
1.3.2. Giai đoạn 1998 đến 2006 ....................................................................20
1.3.3. Giai đoạn 2006 đến khi ban hành Luật tố tụng hành chính ................22
1.4. Vài nét về luật tố tụng hành chính Việt Nam.................................24
1.4.1. Sự cần thiết ban hành Luật tố tụng hành chính...................................25
1.4.2. Bố cục Luật tố tụng hành chính ..........................................................27
1.4.3. Vai trò của Luật tố tụng hành chính....................................................28
Chương 2: THẨM QUYỀN XÉT XỬ CỦA TÒA HÀNH CHÍNH
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH VÀ THỰC TIỄN
ÁP DỤNG...........................................................................................30
2.1. Đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính.............30
2.1.1. Quyết định hành chính, hành vi hành chính .......................................31
2.1.2. Danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu
cử đại biểu Hội đồng nhân dân ...........................................................44
2.1.3. Quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức giữ chức vụ từ Tổng
Cục trưởng và tương đương trở xuống ...............................................47
2.1.4. Quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc
cạnh tranh ...........................................................................................50
2.2. Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính theo địa giới hành chính...56
2.3. Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính theo cấp xét xử .............60
2.3.1. Xét xử theo thủ tục sơ thẩm ................................................................60
2.3.2. Xét xử theo thủ tục phúc thẩm............................................................63
2.3.3. Xét lại Bản án, Quyết định theo thủ tục Giám đốc thẩm, Tái thẩm.........64
2.3.4. Thủ tục đặc biệt xem xét lại Quyết định của Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao ......................................................................65
2.4. Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính trong một số trường
hợp cụ thể...........................................................................................66
2.4.1. Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính trong trường hợp người
khởi kiện vừa có khiếu nại đến người có thẩm quyền, vừa có
khiếu kiện tại Tòa án...........................................................................66
2.4.2. Sự mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính theo Luật tố
tụng hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai ..................................69
2.5. So sánh với thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính một số
nước trên thế giới ..............................................................................73
2.5.1. Về đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử...............................................74
2.5.2. Về phân định thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính........................75
2.6. Thực tiễn áp dụng quy định của luật tố tụng hành chính về
thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính..........................................76
2.6.1. Tình hình xét xử khiếu kiện hành chính nói chung ............................76
2.6.2. Bước phát triển trong xác định thẩm quyền xét xử của Tòa hành
chính từ sau khi ban hành Luật tố tụng hình sự..................................78
2.6.3. Một vài hạn chế trong xác định thẩm quyền xét xử của Tòa hành
chính theo Luật tố tụng hình sự ..........................................................80
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH
CỦA LUẬT TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH VỀ THẨM QUYỀN
XÉT XỬ CỦA TÒA HÀNH CHÍNH ..............................................85
3.1. Khắc phục những nội dung còn hạn chế trong luật tố tụng
hành chính..........................................................................................86
3.2. Đảm bảo sự phù hợp với các quy định pháp luật có liên quan ....92
3.3. Đảm bảo khả năng xét xử độc lập của Tòa hành chính ................95
KẾT LUẬN....................................................................................................99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................100
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BHXH: Bảo hiểm xã hội
HVHC: Hành vi hành chính
QĐHC: Quyết định hành chính
TTHC: Tố tụng hành chính
UBND: Ủy ban nhân dân
WTO: Tổ chức thương mại thế giới
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính được Uỷ ban
thường vụ Quốc hội thông qua ngày 21/5/1996, có hiệu lực thi hành ngày
01/7/1996; được sửa đổi, bổ sung lần thứ nhất ngày 25/12/1998 và sửa đổi,
bổ sung lần thứ hai ngày 5/4/2006. Việc ban hành Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án hành chính và các Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung đã tạo điều
kiện cho việc giải quyết các khiếu kiện hành chính, góp phần bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; tăng cường pháp
chế xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, qua thực tiễn 14 năm áp dụng Pháp lệnh
đã bộc lộ những hạn chế và bất cập; có những quy định trong Pháp lệnh
mâu thuẫn với các văn bản khác (như Luật đất đai, Luật khiếu nại tố
cáo...); có những quy định chưa phù hợp hoặc không còn phù hợp, chưa
đầy đủ, thiếu rõ ràng và còn có nhiều cách hiểu khác nhau. Những hạn chế,
bất cập của Pháp lệnh nêu trên đã làm giảm hiệu quả giải quyết các vụ án
hành chính của Tòa án, gây trở ngại cho người dân khởi kiện vụ án hành
chính để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình.
Với chính sách mở cửa, hội nhập kinh tế, cùng với việc Việt Nam đã
là thành viên của nhiều điều ước quốc tế và đã gia nhập Tổ chức thương
mại thế giới (WTO) thì việc pháp điển hóa quy định của pháp luật tố tụng
để giải quyết các khiếu kiện hành chính, cụ thể hóa các cam kết của Việt
Nam là rất cần thiết.
Ngày 02/6/2005, Bộ chính trị đã ban hành Nghị quyết số 49 – NQ/TW
về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2010; trong đó một trong các nhiệm
vụ được xác định là: “Mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với các
khiếu kiện hành chính tại Tòa án; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham
2
gia tố tụng, đảm bảo sự bình đẳng giữa công dân với các cơ quan công quyền
trước Tòa án” [6].
Để phù hợp với Nghị quyết của Bộ chính trị, Quốc hội đã ban hành Luật
tố tụng hành chính (sau đây viết là Luật TTHC), có hiệu lực thi hành từ ngày
01/7/2011. Khác với Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính trong
việc xác định những loại việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, nay
Luật TTHC không quy định theo hướng liệt kê 21 loại vụ việc thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án mà quy định theo hướng loại trừ những vụ việc
không thuộc thẩm quyền của Tòa án, số còn lại sẽ do Tòa án giải quyết. Theo
đó, thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính đã được mở rộng rất nhiều, về
nguyên tắc tất cả các Quyết định hành chính (sau đây viết là QĐHC), hành vi
hành chính (sau đây viết là HVHC) đều có thể trở thành đối tượng xét xử của
Tòa hành chính, trừ một vài ngoại lệ - những loại việc không thuộc thẩm quyền
của Tòa án bao gồm: các QĐHC, HVHC thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong
các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo danh mục do Chính phủ quy
định và các QĐHC, HVHC mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức.
Quy định như trên của Luật TTHC là bước ngoặt trong việc ghi nhận
và hiện thực hóa quyền được khởi kiện của công dân đối với QĐHC, HVHC
mà theo họ các QĐHC, HVHC đó xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp của họ.
Tuy nhiên, để việc hiểu và áp dụng đúng quy định trên trên thực tế
không phải lúc nào cũng được dễ dàng và thuận lợi cho mỗi công dân, tổ chức
khi thực hiện quyền khởi kiện của mình. Mặt khác, quy định trên cũng chưa
được hướng dẫn, xác định rõ ràng, cụ thể các QĐHC, HVHC nào thuộc phạm
vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao và các
QĐHC, HVHC mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức? Tại sao chỉ được khiếu
kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân mà không được khiếu kiện danh sách ứng cử?...
3
Để trả lời các câu hỏi đó, rất cần những nghiên cứu cập nhật về thẩm
quyền xét xử của Tòa hành chính ở Việt Nam. Nói cách khác, việc nghiên cứu
vấn đề này sẽ góp phần nhất định cho việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn
và hoàn thiện pháp luật trong tương lai. Do đó tác giả chọn “Thẩm quyền xét
xử của Tòa hành chính theo Luật Tố tụng hành chính Việt Nam” làm đề
tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu về thẩm quyền xét xử vụ án hành chính là
một đề tài không mới, thậm chí còn được các học giả đặt ra từ trước khi Tòa
hành chính được thành lập. Có thể kể đến các công trình nghiên cứu: “Một số
vấn đề về tài phán hành chính ở Việt Nam” - PTS. Lê Bình Vọng, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 1994; “Tài phán hành chính ở Việt Nam”- PTS. Đinh
Văn Mậu và PTS. Phạm Hồng Thái, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1995.
Những công trình nghiên cứu này chủ yếu phân tích và đưa ra những nhận
định về việc xây dựng một mô hình thích hợp để giải quyết khiếu kiện hành
chính ở Việt Nam.
Sau khi Tòa hành chính được thành lập vào năm 1995, các công trình
nghiên cứu tập trung vào việc đánh giá tính hiệu quả, sự phù hợp của thiết chế
Tòa án trong việc giải quyết các khiếu kiện hành chính. Tiêu biểu là một số
công trình nghiên cứu như: “Một số vấn đề về đổi mới cơ chế giải quyết khiếu
kiện hành chính ở Việt Nam”- TS. Nguyễn Văn Thanh và LG. Đinh Văn
Minh, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2004; “Tài phán hành chính trong bối cảnh xây
dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay” -
Nguyễn Cảnh Hợp, chủ biên PGS.TS Nguyễn Như Phát, Nxb. Khoa học Xã
hội, Hà Nội, 2010. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu này nghiên cứu về
tổng thể quy chế giải quyết khiếu nại, khiếu kiện hành chính, bao gồm cả
trình tự, thủ tục và kỹ năng giải quyết vụ việc hành chính; và cả hệ thống tài
4
phán hành chính, mà Tòa án là cơ quan giải quyết các khiếu kiện, cùng với
các cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại hành chính.
Một số công trình chỉ tập trung nghiên cứu về thẩm quyền xét xử vụ án
hành chính của Tòa án, như: “Thẩm quyền xét xử khiếu kiện hành chính của
Tòa án” - Nguyễn Thanh Bình, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2004; Luận văn thạc sĩ
luật học của tác giả Nguyễn Mạnh Hùng về “Thẩm quyền xét xử hành chính
của Tòa án nhân dân”.
Ngoài các công trình nghiên cứu tiêu biểu kể trên, vấn đề thẩm quyền
xét xử vụ án hành chính của Tòa án cũng được đặt ra trong các bài đăng trên
báo, tạp chí. Tuy nhiên các công trình trên hoặc là nghiên cứu về quy chế xét
xử hành chính một cách chung, toàn diện; hoặc nghiên cứu về thẩm quyền xét
xử hành chính của Tòa án nhưng không đảm bảo tính mới vì đã được nghiên
cứu, công bố trước khi Luật TTHC được ban hành.
Do vậy, tác giả tin tưởng rằng công trình nghiên cứu về “Thẩm quyền
xét xử của Tòa hành chính theo Luật tố tụng hành chính Việt Nam” này là
một đóng góp mới vào hoạt động nghiên cứu trong lĩnh vực này tại Việt Nam.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật TTHC, thực tiễn xét
xử của Tòa án, mục đích của luận văn nhằm làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực
tiễn, bản chất, nội dung của chế định thẩm quyền của Tòa hành chính, chỉ ra
những điểm không hợp lý, những vướng mắc khi áp dụng chúng, qua đó đề
xuất những giải pháp hoàn thiện các quy định của Luật TTHC về thẩm quyền
của Tòa hành chính trong hoạt động xét xử vụ án hành chính.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên luận văn có nhiệm vụ:
- Phân tích những vấn đề lý luận để làm rõ các quan niệm, quan điểm
khoa học, nhận thức chung về thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính trong
TTHC; lý giải những căn cứ để quy định thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính;
5
- Phân tích các quy định pháp luật về thẩm quyền xét xử của Tòa hành
chính trước khi ban hành Luật TTHC và đặc biệt kể từ năm 2010 – sau khi
Luật TTHC ra đời;
- Đánh giá thực tiễn áp dụng các quy đi ̣nh pháp lý này trong ho ạt động
giải quyết vụ án hành chính ở Việt Nam, đưa ra những đề xuất nhằm ứ ng dụng
tốt hơn cácquy đi ̣nh pháp lý này;
- Đề xuất những giải pháp hoàn thiện và bảo đảm thực hiện các quy
định của Luật TTHC về thẩm quyền của Tòa hành chính.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở các quy định của pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật
về hành chính nói riêng, đề tài tập trung phân tích và làm rõ về thẩm quyền xét
xử của Tòa hành chính theo Luật TTHC Việt Nam.
Trong phạm vi nghiên cứu, đề tài nghiên cứu về thẩm quyền xét xử của
Tòa hành chính, không nghiên cứu về cơ cấu tổ chức, quản lý, hoạt động của
Tòa hành chính, cũng không nghiên cứu về trình tự, thủ tục giải quyết, xét xử
của Tòa hành chính hay thẩm quyền của Hội đồng xét xử trong giải quyết vụ án
hành chính. Đồng thời, đề tài chủ yếu tập trung làm rõ thẩm quyền xét xử của
Tòa hành chính được quy định trong Luật TTHC, theo đó, phân tích làm rõ các
quy định trong Luật TTHC và các văn bản hướng dẫn Luật TTHC, không đi
sâu nghiên cứu các quy phạm pháp luật khác. Việc phân tích, đánh giá các quy
phạm pháp luật khác có liên quan chỉ nhằm làm rõ về thẩm quyền xét xử của
Tòa hành chính theo quy định của Luật TTHC.
6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn là triết học Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, những quan điểm
của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền về cải cách tư
pháp và cải cách nền hành chính quốc gia.
6
Việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào quy định của pháp luật về thẩm
quyền của Tòa án trong xét xử hành chính, các số liệu thống kê về xét xử,
v.v... để đánh giá, chỉ rõ những bất cập trong các quy định của pháp luật để
kiến nghị bổ sung, sửa đổi cho phù hợp.
Một cách khái quát, đề tài sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng
để làm rõ đối tượng nghiên cứu của đề tài. Trên cơ sở đó, đối tượng nghiên cứu
của đề tài được nghiên cứu một cách khách quan, theo đúng bản chất vốn có
của nó, trong mối liên hệ của nó với các nội dung khác có liên quan. Để làm rõ
các nội dung cần nghiên cứu, đề tài sử dụng phương pháp tổng hợp và phương
pháp phân tích, để từ các quy định pháp luật về hành chính nói chung và Luật
TTHC nói riêng, có được cái nhìn tổng quát cũng như chi tiết về thẩm quyền
xét xử của Tòa hành chính.
Phương pháp phán đoán và phương pháp suy luận cũng được sử dụng để
làm rõ những vấn đề có tính logic, hoặc chứng minh một giả thuyết được đặt ra
để làm sáng tỏ các vấn đề liên quan đến đối tượng nghiên cứu của đề tài.
Đồng thời đề tài cũng sử dụng phương pháp so sánh để làm rõ những
điểm mới trong Luật TTHC quy định về thẩm quyền xét xử của Tòa hành
chính, so với các văn bản ban hành trước đây.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần Lời nói đầu, phần thống kê các thuật ngữ thường gặp trong
đề tài, danh mục các tài liệu tham khảo và phần kết luận cuối cùng, nội dung
chính của đề tài gồm ba phần được chia thành 3 chương cụ thể như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính.
Chương 2: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính theo Luật tố tụng
hành chính Việt Nam và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện Luật tố tụng hành chính về thẩm
quyền xét xử của Tòa hành chính.
7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ
CỦA TÒA HÀNH CHÍNH
1.1. Khái niệm thẩm quyền xét xử của tòa hành chính
1.1.1. Khái niệm thẩm quyền xét xử của Tòa án
1.1.1.1. Thẩm quyền
Theo Từ điển tiếng Việt “Thẩm quyền là quyền xem xét để kết luận và
định đoạt một vấn đề theo pháp luật” [82, tr.922]
Theo Từ điển Luật học thì Thẩm quyền được hiểu là: “Quyền chính thức
được xem xét để kết luận và định đoạt, quyết định một vấn đề” [79, tr.701].
Theo các khái niệm này, thẩm quyển gắn liền với quyền và nghĩa vụ
mà pháp luật quy định cho cơ quan nhà nước, người nắm giữ những chức vụ
lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan đó để thực hiện chức năng và nhiệm vụ
của họ. Mỗi cơ quan Nhà nước có chức năng và thẩm quyền được phân định
theo lĩnh vực, ngành, khu vực hành chính, cấp hành chính. Thực hiện chức
năng này, Tòa án có thẩm quyền xét xử.
1.1.1.2. Thẩm quyền xét xử của Tòa án
Trước hết, xét xử là hoạt động xem xét, đánh giá bản chất pháp
lý của vụ việc nhằm đưa ra một phán xét về tính chất, mức độ pháp
lý của vụ việc, từ đó nhân danh Nhà nước đưa ra một phán quyết
phù hợp với bản chất, mức độ trái hay không trái pháp luật của vụ
việc.... Theo pháp luật hiện hành, Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án
nhân dân các địa phương, các Tòa án quân sự và các Tòa án khác
do luật định là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam [79, tr.869-870].
Nghĩa là, thẩm quyền xét xử là thẩm quyền chuyên biệt của Tòa án mà
8
không thuộc bất kỳ một cơ quan Nhà nước nào khác. Đó là quyền của Tòa án
được xem xét, đánh giá, đưa ra phán xét về tính chất, mức độ pháp lý của một
vụ việc, nhưng quan trọng nhất chính là được nhân danh Nhà nước đưa ra một
phán quyết để giải quyết vụ việc về mặt pháp lý.
Theo Từ điển Luật học “Thẩm quyền xét xử của Tòa án là quyền xem
xét và định đoạt trong hoạt động xét xử của Tòa án theo quy định của pháp
luật” [79, tr.701].
Để làm rõ khái niệm này, Từ điển Luật học đưa ra hai cách hiểu cụ thể:
Thứ nhất, “thẩm quyền xét xử của Tòa án” được hiểu là một quyền
chuyên biệt được trao riêng cho Tòa án, khác với thẩm quyền của các cơ quan
khác. Thẩm quyền xét xử là quyền chung của các Tòa án không phân biệt
phân cấp, phân vùng lãnh thổ.
Theo cách hiểu này, thẩm quyền xét xử được khẳng định là thẩm quyền
chuyên biệt của Tòa án, mà không một cơ quan Nhà nước nào khác có thẩm
quyền này.
Thứ hai, “thẩm quyền xét xử của Tòa án” còn được hiểu là thẩm
quyền riêng của từng Tòa án cụ thể được phân định theo cấp, theo lãnh thổ
và theo vụ việc.
Theo đó, phân định theo cấp xét xử có: thẩm quyền xét xử sơ thẩm và
thẩm quyền xét xử phúc thẩm; phân định theo vụ việc có thẩm quyền của Tòa
án xét xử vụ án, vụ việc dân sự, hình sự, hành chính, hôn nhân gia đình...;
phân định theo lãnh thổ có vụ án, vụ việc thuộc thẩm quyền xét xử của từng
Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, của từng tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương theo địa giới hành chính [79, tr.701-702].
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài “Thẩm quyền xét xử của Tòa
hành chính theo Luật tố tụng hành chính Việt Nam”, tác giả làm rõ thẩm
quyền xét xử của Tòa hành chính theo cách hiểu thứ hai. Nghĩa là ở đây,
9
khái niệm “thẩm quyền xét xử” được phân tích dựa trên các quy định của
pháp luật nhằm làm rõ thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính theo vụ việc,
theo cấp (có thẩm quyền xét xử theo thủ tục sơ thẩm và phúc thẩm), theo
lãnh thổ (phân biệt thẩm quyền của các Tòa hành chính trong phạm vi địa
giới hành chính).
Như vậy, một cách khái quát, thẩm quyền xét xử của Tòa án có thể hiểu
là quyền của Tòa án được xác định trên cơ sở phân định vụ việc, cấp xét xử,
trong phạm vi địa giới hành chính nhất định, nhằm thực hiện việc xem xét,
đánh giá, đưa ra kết luận và định đoạt các vấn đề pháp lý của vụ việc thông
qua hoạt động xét xử.
1.1.2. Khái niệm Tòa hành chính
Ngày 28/10/1995, Tòa hành chính được thành lập trong hệ thống Tòa
án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp tỉnh bên cạnh các Tòa hình sự, Tòa
dân sự, Tòa kinh tế, Tòa lao động, trên cơ sở việc Quốc hội nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam khóa IX thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật tổ chức Tòa án nhân dân. Trải qua quá trình hoạt động từ khi thành
lập cho đến nay, việc thành lập Tòa hành chính đã góp phần thúc đẩy quá
trình cải cách nền hành chính Nhà nước, buộc các cơ quan Nhà nước phải tự
nâng cao năng lực quản lý và ý thức trách nhiệm; làm cho các cơ quan quản
lý hành chính phải cân nhắc, thận trọng hơn khi ban hành một Quyết định
hành chính hay thực hiện hành vi hành chính.
Tòa hành chính là “Tòa chuyên trách của Tòa án nhân dân tối cao, tòa
án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có nhiệm vụ giải quyết
các vụ án hành chính theo quy định của pháp luật” [79, tr.775].
Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 không đưa ra định nghĩa thế
nào là Tòa hành chính, nhưng quy định về việc Tòa hành chính tại Điều 18 về
cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân tối cao và Điều 27 về cơ cấu tổ chức của
Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương [35].
10
Bằng khái niệm được giải thích trong Từ điển Luật học như nêu trên
và quy định tại Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 [35, Điều 18, 27],
Tòa hành chính có những đặc điểm cơ bản như sau:
- Tòa hành chính là tòa chuyên trách của Tòa án nhân dân tối cao, Tòa
án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, mà không có ở Tòa án
quân sự, Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;
- Tòa hành chính có nhiệm vụ giải quyết các vụ án hành chính. Ở đây
cần làm rõ, thế nào là vụ án hành chính. Có quan điểm cho rằng, vụ án hành
chính là vụ án phát sinh tại Tòa hành chính do cá nhân, cơ quan, tổ chức
khởi kiện ra Tòa án để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Song, cách
hiểu này chưa thể hiện được đặc điểm của vụ án hành chính, đồng thời cho
rằng việc vụ án hành chính phát sinh tại “Tòa hành chính” là khá phiến diện,
chưa đầy đủ.
Theo khái niệm “vụ án” được định nghĩa trong Từ điển Luật học thì
vụ án là:
Một vụ việc có dấu hiệu trái pháp luật mang tính chất hình sự
hoặc tranh chấp giữa các chủ thể pháp luật được đưa ra tòa án hoặc cơ
quan trọng tài giải quyết. Vụ việc thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án;
tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan trọng tài. Theo
Luật tổ chức tòa án nhân dân, tòa xét xử những vụ án hình sự, dân sự,
hôn nhân và gia đình, lao động, kinh doanh, thương mại, hành chính và
giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật [79, tr.860].
Theo đó, vụ án hành chính là loại vụ án phát sinh trong lĩnh vực quản
lý hành chính Nhà nước, do các cá nhân, tổ chức khởi kiện tại Tòa án nhằm
bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Như vậy, một cách khái quát, Tòa hành chính là các tòa chuyên trách của
Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương, có nhiệm vụ giải quyết các vụ án hành chính.
11
Trong khoa học pháp lý, khái niệm Tòa hành chính thường được hiểu
một cách “tương đối”: nghĩa là, thông thường khi nói “Tòa hành chính” các
học giả thường nhằm đến các Tòa án có thẩm quyền xét xử vụ án hành chính.
Theo đó, bao gồm cả hệ thống các Tòa án nhân dân cấp huyện, quận, thị xã –
cũng có thẩm quyền xét xử vụ án hành chính.
Khi nghiên cứu Luận văn này, tác giả cũng nghiên cứu về thẩm quyền
xét xử của Tòa hành chính theo cách hiểu thông thường.
Do vậy, trong Luận văn này, khái niệm Tòa hành chính được hiểu là hệ
thống Tòa án được tổ chức ở các cấp (Tòa án nhân dân cấp huyện, cấp tỉnh và
Tòa án nhân dân tối cao) có thẩm quyền xét xử vụ án hành chính.
1.1.3. Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính
Theo khái niệm thẩm quyền xét xử của Tòa án đã được phân tích trên
đây, cũng hiểu rằng, thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính cũng mang đặc
tính chuyên biệt so với các cơ quan Nhà nước khác không thuộc hệ thống Tòa
án nhân dân.
Với chức năng là một tòa chuyên trách trong hệ thống tổ chức Tòa án
nhân dân, thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính có thể được tiếp cận ở nhiều
bình diện khác nhau như sau:
Thứ nhất, theo tiêu chí về vụ việc: Tòa hành chính có thẩm quyền xét
xử các vụ án hành chính. Điều này đã được làm rõ trong khái niệm về Tòa
hành chính. Trong các nội dung dưới đây của luận văn phân tích và làm rõ
nhiều nhóm đối tượng khác nhau thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa hành
chính, gồm: Quyết định hành chính, hành vi hành chính, danh sách cử tri bầu
cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân,
Quyết định kỷ luật buộc thôi việc… Nhưng một cách khái quát thì các nhóm
đối tượng này đều được coi là những vụ án hành chính. Cho nên, thẩm quyền
xét xử của Tòa hành chính theo phân loại vụ việc, chính là quyền của Tòa
12
hành chính được xem xét, đánh giá, đưa ra kết luận và định đoạt các vấn đề
pháp lý trong vụ án hành chính.
Thứ hai, theo tiêu chí về cấp xét xử: Tòa hành chính có thẩm quyền xét
xử theo thủ tục sơ thẩm và thủ tục phúc thẩm các vụ án hành chính. Tòa hành
chính xét xử theo thủ tục sơ thẩm những loại vụ việc nào và xét xử theo thủ
tục phúc thẩm những loại vụ việc nào sẽ được làm rõ trong những phần sau
của luận văn, song cần khẳng định rằng, Tòa hành chính có thẩm quyền xét
xử theo cả thủ tục sơ thẩm và thủ tục phúc thẩm các vụ án hành chính.
Thứ ba, theo địa giới hành chính: Tòa án nhân dân cấp huyện và cấp
tỉnh xét xử những vụ án hành chính phát sinh trên cùng địa giới hành chính
nơi Tòa án có trụ sở [44, Điều 29, 30]), Tòa án nhân dân tối cao xét xử những
vụ án hành chính trong phạm vi cả nước.
Như vậy, thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính cũng được hiểu là
quyền của Tòa hành chính được xác định theo cấp xét xử, trong phạm vi địa
giới hành chính nhất định, nhằm thực hiện việc xem xét, đánh giá, đưa ra kết
luận và định đoạt các vấn đề pháp lý của vụ án hành chính thông qua hoạt
động xét xử.
1.2. Những căn cứ để xác định thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính
1.2.1. Căn cứ vào tính đặc thù của đối tượng thuộc thẩm quyền xét
xử của Tòa hành chính
Đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính (sẽ được làm
rõ trong Chương 2 của Luận văn) là những QĐHC, HVHC, Quyết định kỷ
luật buộc thôi việc cán bộ công chức, khiếu kiện giải quyết khiếu nại về quyết
định xử lý vụ việc cạnh tranh.
Nghĩa là, về bản chất, đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa hành
chính là những hoạt động trong hoạt động quản lý hành chính Nhà nước.
Hầu hết các đối tượng này cũng đồng thời là đối tượng trong giải quyết
13
khiếu nại hành chính. Trong đó, các cơ quan Nhà nước là chủ thể ban hành,
thực hiện các đối tượng này, đồng thời lại cũng là chủ thể giải quyết các vấn
đề, tranh chấp phát sinh từ các đối tượng đó, mà như người ta vẫn nói nôm na
là “vừa đá bóng vừa thổi còi”. Điều này tạo ra những bất cập, không đảm bảo
tính khách quan, minh bạch, cũng như đảm bảo được các quyền và lợi ích hợp
pháp cho các chủ thể trong quan hệ hành chính.
Theo đó, đặt ra vấn đề là khi các chủ thể phát hiện ra những nội dung
của các đối tượng này xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ, thì
các đối tượng này cần phải được xem xét, giải quyết bằng một cơ chế độc lập
hơn, khách quan hơn, theo một trình tự thủ tục riêng biệt. Và hình thức tài
phán đáp ứng được các yêu cầu cần thiết để xem xét, giải quyết các vụ việc
liên quan đến các đối tượng này, chính là giải quyết tại Tòa án.
Do vậy mà các đối tượng này (QĐHC, HVHC, Quyết định kỷ luật buộc
thôi việc cán bộ công chức…) trở thành đối tượng xét xử trong vụ án hành
chính, thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính.
Tính đặc thù của các đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa hành
chính có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định thẩm quyền của Tòa hành
chính. Bởi các đối tượng này chính là yếu tố chủ yếu để xác định một vụ việc
là một khiếu kiện hành chính, chứ không phải loại vụ án nào khác. Và theo
đó, là đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, chứ không phải
Tòa dân sự, hình sự, kinh tế, lao động…
1.2.2. Căn cứ vào mục tiêu, định hướng của Nhà nước trong phát
triển tư pháp, quản lý hành chính
Trong văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, tại mục 2 “Kiện
toàn hợp lý tổ chức bộ máy nhà nước” thuộc phần VII về “Đẩy mạnh cải cách
hành chính, xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh”, Đảng đã
khẳng định cần “nâng cao vai trò của Tòa hành chính trong việc giải quyết
khiếu kiện hành chính” [3, mục 2].
14
Ngày 02/6/2005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW
về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó một trong các nhiệm
vụ được xác định đó là:
... mở rộng thẩm quyền xét xử của Toà án đối với các khiếu
kiện hành chính; đổi mới mạnh mẽ thủ tục giải quyết các khiếu kiện
hành chính tại Toà án; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham
gia tố tụng, bảo đảm sự bình đẳng giữa công dân và cơ quan công
quyền trước Toà án... [6].
Theo những quan điểm chỉ đạo này thì thẩm quyền xét xử các vụ án
hành chính của Tòa án nhân dân có xu hướng được mở rộng, đồng thời tạo
thuận lợi cho công dân tham gia Tố tụng hành chính, bảo đảm sự bình đẳng
giữa công dân và cơ quan công quyền trước Tòa án. Xuất phát từ những ưu
thế của cơ chế giải quyết tranh chấp hành chính tại Tòa án so với các cơ chế
giải quyết khác, quan điểm chỉ đạo về việc mở rộng thẩm quyền xét xử các
tranh chấp hành chính của Tòa án nhân dân là quan điểm đúng đắn trong
thời kỳ hiện nay.
1.3. Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính trước khi ban hành
luật tố tụng hành chính
Trước đây, việc giải quyết khiếu nại do các cấp quản lý hành chính và
tổ chức Thanh tra giải quyết. Các cơ quan hành chính Nhà nước, công chức
Nhà nước vừa là người bị khiếu kiện, vừa là người giải quyết (xét xử) nên
không đảm bảo tính khách quan, dân chủ và có hiệu quả. Vì vậy, đơn thư
khiếu nại bị đùn đẩy, tồn đọng, người khiếu nại bị oan ức kéo dài. Nên đặt ra
vấn đề cần phải tổ chức Toà án hành chính để xét xử những khiếu kiện hành
chính, đảm bảo xét xử nhanh chóng, có hiệu quả để củng cố lòng tin của
nhân dân đối với chính quyền, đồng thời góp phần chống quan liêu, cửa
quyền, tham nhũng trong bộ máy hành chính nhà nước.
15
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khoá VII (23/01/1995) đã quyết định về việc thành lập Toà hành chính trong hệ
thống Toà án nhân dân. Ngày 28/10/1995, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam, khoá IX, kỳ họp thứ 8 đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một
số Điều của Luật tổ chức Toà án nhân dân, trong đó giao cho Toà án nhân dân
chức năng xét xử những vụ án hành chính. Như vậy, một thiết chế tài phán mới
- thiết chế bảo vệ hữu hiệu quyền hợp pháp của công dân trong mối quan hệ
giữa Nhà nước và công dân đã chính thức được thành lập [2].
Do vậy, với mục đích nghiên cứu về thẩm quyền xét xử của Tòa hành
chính, tác giả chỉ tập trung phân tích những quy định, những đặc trưng của
các quy phạm pháp luật từ năm 1996 đến nay. Cùng với sự thành lập Tòa
hành chính, Ủy ban thường vụ quốc hội cũng ban hành Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án hành chính làm cơ sở cho hoạt động xét xử các vụ án hành
chính. Trên cơ sở các lần sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ
án hành chính, tác giả chia thành 03 giai đoạn:
1.3.1. Giai đoạn 1996 đến 1998
Khái niệm Tòa hành chính ở Việt Nam xuất hiện lần đầu trong Luật sửa
đổi, bổ sung Luật tổ chức Tòa án nhân dân do Quốc hội thông qua ngày
28.5.1995 [32]. Tại khoản 3 Điều 1 (bổ sung khoản 2 Điều 17) và khoản 6
Điều 1 (bổ sung khoản 1 Điều 27) của Luật này thể hiện Tòa hành chính là
một tòa chuyên trách của Tòa án nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân cấp
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương [32, Điều 1].
Cũng theo quy định tại Điều 1 của Luật sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức
Tòa án nhân dân được Quốc hội thông qua năm 1995 thì thẩm quyền của Tòa
hành chính Tòa án nhân dân tối cao là:
Sơ thẩm đồng thời chung thẩm những vụ án theo quy định
của pháp luật tố tụng; Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản
16
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo quy định
của pháp luật tố tụng; thẩm quyền của Tòa hành chính Tòa án nhân
dân cấp tỉnh là: Sơ thẩm những vụ án theo quy định của pháp luật tố
tụng; Phúc thẩm những vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa
có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp dưới bị kháng cáo, kháng nghị
theo quy định của pháp luật tố tụng [32, Điều 1];
còn thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện thì vẫn giữ nguyên như
trong Điều 32 Luật tổ chức Tòa án nhân dân được ban hành năm 1992 “Toà
án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có thẩm quyền sơ thẩm
những vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng” [31, Điều 32]. Nghĩa là,
thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính theo Luật này được phân định theo
cấp xét xử. Theo đó, Tòa hành chính Tòa án nhân dân tối cao có thẩm quyền
xét xử sơ thẩm, chung thẩm, thẩm quyền xét lại Bản án, quyết định đã có hiệu
lực theo thủ tục Giám đốc thẩm, Tái thẩm; Tòa hành chính Tòa án nhân dân
cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có thẩm quyền xét xử sơ thẩm, xét
xử phúc thẩm; và Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền xét xử sơ thẩm.
Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính trong giai đoạn này còn được
quy định trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính do Ủy ban
thường vụ Quốc hội ban hành ngày 21/5/1996 [74] (sau đây gọi là Pháp lệnh
năm 1996). Chương II của Pháp lệnh này quy định về thẩm quyền của Tòa án
trong việc giải quyết các vụ án hành chính. Cụ thể:
Tại Điều 11 Pháp lệnh năm 1996 quy định về những vụ án hành chính
thuộc thẩm quyền của Tòa án, gồm:
1- Khiếu kiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính, quyết
định áp dụng biện pháp buộc tháo gỡ công trình xây dựng trái phép
đối với nhà ở, công trình, vật kiến trúc kiên cố; 2- Khiếu kiện quyết
định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính với hình thức giáo dục
17
tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở
giáo dục, đưa vào cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính; 3- Khiếu
kiện quyết định về buộc thôi việc, trừ các quyết định về buộc thôi
việc trong Quân đội nhân dân và các quyết định về sa thải theo quy
định của Bộ luật lao động; 4- Khiếu kiện quyết định hành chính,
hành vi hành chính trong việc cấp giấy phép, thu hồi giấy phép
trong lĩnh vực về xây dựng cơ bản, hoạt động sản xuất, kinh doanh,
quản lý đất đai; 5- Khiếu kiện quyết định trưng dụng, trưng mua tài
sản, quyết định tịch thu tài sản; 6- Khiếu kiện quyết định về thu
thuế, truy thu thuế; 7- Khiếu kiện quyết định về thu phí, lệ phí; 8-
Khiếu kiện các quyết định hành chính, hành vi hành chính khác
theo quy định của pháp luật [74, Điều 11].
Tại Điều 12 Pháp lệnh năm 1996 quy định về thẩm quyền xét xử theo
địa giới hành chính:
1- Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
(gọi chung là Toà án cấp huyện) giải quyết theo thủ tục sơ thẩm
những khiếu kiện hành chính đối với quyết định hành chính của cơ
quan nhà nước từ cấp huyện trở xuống trên cùng lãnh thổ và quyết
định hành chính, hành vi hành chính của cán bộ, viên chức của cơ
quan nhà nước đó.
2- Toà án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
(gọi chung là Toà án cấp tỉnh) giải quyết theo thủ tục sơ thẩm
những khiếu kiện hành chính đối với: a) Quyết định hành chính của
Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Văn phòng Chủ
tịch nước, Văn phòng Quốc hội, Toà án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao và quyết định hành chính, hành vi hành
chính của Thủ trưởng các cơ quan đó mà người khởi kiện có nơi cư
18
trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng một lãnh thổ; b) Quyết định
hành chính của cơ quan nhà nước cấp tỉnh trên cùng lãnh thổ và
quyết định hành chính, hành vi hành chính của cán bộ, viên chức
của cơ quan nhà nước đó; c) Quyết định hành chính của các đơn vị
chức năng của cơ quan nhà nước quy định tại điểm a khoản 2 Điều
này và quyết định hành chính, hành vi hành chính của cán bộ, viên
chức của các đơn vị chức năng đó mà người khởi kiện có nơi cư trú,
nơi làm việc hoặc trụ sở trên cũng lãnh thổ; Trong trường hợp cần
thiết, Toà án cấp tỉnh có thể lấy lên để giải quyết vụ án hành chính
thuộc thẩm quyền của Toà án cấp huyện đối với khiếu kiện quyết
định hành chính của Uỷ ban nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
cấp huyện có liên quan đến nhiều đối tượng, phức tạp hoặc trong
trường hợp các Thẩm phán của Toà án cấp huyện đó đều thuộc
trường hợp phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi.
3- Toà án nhân dân tối cao giải quyết theo thủ tục sơ thẩm
đồng thời chung thẩm những khiếu kiện hành chính thuộc thẩm
quyền của Toà án cấp tỉnh mà Toà án nhân dân tối cao lấy lên để
giải quyết đối với khiếu kiện quyết định hành chính của cơ quan
nhà nước quy định tại điểm a khoản 2 Điều này và quyết định hành
chính, hành vi hành chính của Thủ trưởng các cơ quan đó liên quan
đến nhiều tỉnh, phức tạp hoặc trong trường hợp khó xác định được
thẩm quyền của Toà án cấp tỉnh nào; khiếu kiện quyết định hành
chính của Uỷ ban nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh liên
quan đến nhiều đối tượng, phức tạp hoặc trong trường hợp các
Thẩm phán của Toà án cấp tỉnh đó đều thuộc trường hợp phải từ
chối tiến hành tố tung hoặc bị thay đổi [74, Điều 12].
19
Theo đó, tác giả có một vài nhận định về các quy định về thẩm quyền
xét xử của Tòa hành chính trong Pháp lệnh năm 1996 như sau:
- Một là, các nhóm vụ việc được coi là thuộc thẩm quyền xét xử của
Tòa hành chính được quy định bằng phương pháp liệt kê. Cụ thể, theo Điều
11 của Pháp lệnh năm 1996 được trích dẫn trên đây, có 08 nhóm vụ việc
thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính. Ưu điểm của phương pháp liệt
kê nói chung và đối với quy định tại Điều 11 nêu trên nói riêng, đó là, từng
nhóm vụ việc hành chính thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án được quy định
một cách cụ thể, được gọi tên một cách chính xác, dẫn đến việc rất dễ dàng để
xác định một vụ việc có thuộc thẩm quyền của Tòa hành chính hay không.
Tuy nhiên, hạn chế của việc liệt kê các nhóm vụ việc thuộc thẩm quyền xét
xử của Tòa hành chính, đó là, làm giới hạn thẩm quyền xét xử của Tòa hành
chính. Rất nhiều vụ việc thuộc lĩnh vực hành chính nhưng không thuộc thẩm
quyền xét xử của Tòa án. Việc qua hai lần sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh năm
1996 đều điều chỉnh tăng số nhóm vụ việc thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa
hành chính chính là minh chứng cho hạn chế này.
- Hai là, Tòa án chỉ có thẩm quyền xét xử vụ án hành chính khi vụ
việc đã được giải quyết khiếu nại bởi cơ quan Nhà nước, người có QĐHC
hoặc có HVHC được cho là trái pháp luật (theo Điều 2 của Pháp lệnh năm
1996 [74, Điều 2]).
- Ba là, không chỉ giới hạn thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính
trong một số nhóm vụ việc cụ thể, Pháp lệnh năm 1996 có những quy định
nhằm chuyển giao thẩm quyền thụ lý, xét xử của Tòa án đối với các vụ án
hành chính sang cơ quan hành chính Nhà nước:
Nếu có nhiều người, trong đó có người khởi kiện vụ án
hành chính tại Tòa án có thẩm quyền, có người khiếu nại đến
người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo thì việc giải
20
quyết thuộc thẩm quyền của người có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại tiếp theo [74, Điều 13].
Quy định này không những làm cho việc thụ lý, xét xử của Tòa án bị
hạn chế mà còn xâm phạm đến quyền được yêu cầu Tòa án bảo vệ của công
dân, tổ chức.
Tuy nhiên, dù còn tồn tại nhiều hạn chế, song cần phải nhìn nhận một
cách khách quan, việc ban hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành
chính đã tạo điều kiện tốt cho các Tòa án giải quyết các vụ án hành chính, góp
phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân,
bảo vệ quyền con người, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Trong ba
năm 1996, 1997, 1998, ngành Tòa án đã thụ lý, giải quyết nhiều vụ án hành
chính hơn so với giai đoạn trước đây. Cụ thể: Năm 1996, thụ lý 535 vụ án
hành chính; Năm 1997, thụ lý 645 vụ án hành chính [1, tr.85]; Năm 1998, thụ
lý mới 282 vụ, đã xét xử 227 vụ, đạt tỷ lệ 80,5% [69, tr.104].
1.3.2. Giai đoạn 1998 đến 2006
Ngày 25/12/1998, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh sửa
đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành
chính [75] (sau đây gọi là Pháp lệnh năm 1998). Theo đó, thẩm quyền xét xử
của Tòa hành chính được quy định trong 10 nhóm vụ việc, thay vì 08 nhóm
vụ việc như quy định tại Điều 11 Pháp lệnh năm 1996.
Tuy nhiên, về bản chất, thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính theo
Pháp lệnh năm 1998 không hề được mở rộng thêm. Bởi lẽ, thẩm quyền xét xử
của Tòa hành chính đối với nhóm vụ việc tại khoản 1 Điều 11 Pháp lệnh năm
1996 thì được tách thành hai nhóm vụ việc tại khoản 1 và khoản 2 Điều 11
Pháp lệnh năm 1998 “1-Khiếu kiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính”
và “2-Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp
dụng biện pháp buộc tháo dỡ nhà ở, công trình, vật kiến trúc kiên cố khác”
[75, Điều 11]. Tương tự như vậy, nhóm vụ việc quy định tại khoản 4 Pháp
21
lệnh năm 1996 thì được tách thành hai nhóm vụ việc tại khoản 5 và khoản 6
Điều 11 Pháp lệnh năm 1998 “5-Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi
hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai” và “6-Khiếu kiện quyết định hành
chính, hành vi hành chính trong việc cấp giấy phép,thu hồi giấy phép về xây
dựng cơ bản, sản xuất, kinh doanh” [75, Điều 11].
Do vậy, dù về hình thức, nhóm các vụ việc thuộc thẩm quyền xét xử
của Tòa hành chính đã tăng từ 08 nhóm vụ việc lên 10 nhóm vụ việc qua lần
sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính vào năm
1998. Nhưng thực chất thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính không hề được
mở rộng hơn.
Mặc dù thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính ở giai đoạn này vẫn bị
giới hạn, không được mở rộng thêm so với từ năm 1996, nhưng đối tượng
thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính lại được giải thích một cách chi
tiết hơn. Sự chi tiết, rõ ràng hơn của các đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử
của Tòa hành chính không chỉ biểu hiện ở việc sửa đổi, bổ sung các khái niệm
về QĐHC, HVHC... tại Điều 4 của Pháp lệnh. Mà còn bởi việc ban hành Nghị
quyết số 03/2003/NQ-HĐTP ngày 18/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán Toà
án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
hành chính [17]. Sự ra đời của văn bản này đã làm giảm đi đáng kể những khó
khăn, lúng túng của các Tòa án trong quá trình thụ lý, giải quyết các vụ án
hành chính. Đặc biệt, bằng việc quy định rõ tại mục 3 của Nghị quyết về việc
“quyết định hành chính là đối tượng khiếu kiện để yêu cầu Toà án giải quyết
vụ án hành chính phải là quyết định hành chính lần đầu” [17, mục 3]. Quy
định này đã làm rõ về QĐHC là đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa
hành chính. Bởi, khi giải quyết, xử lý những việc cụ thể thuộc thẩm quyền của
mình, cơ quan, tổ chức hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức
thường ra nhiều quyết định trên cơ sở tự nhận thấy cần thiết hoặc trên cơ sở
22
có khiếu nại của công dân, quyết định sau hủy bỏ hoặc thay thế quyết định
trước. Vì thế, cả về phía người khiếu kiện, cả về phía Tòa án đều gặp khó
khăn trong việc xác định đâu là đối tượng khiếu kiện vụ án hành chính và
những quyết định nào cần phải được Tòa án xem xét tính hợp pháp. Theo đó,
trên cơ sở hướng dẫn cụ thể tại mục 3 nghị quyết nêu trên, xác định được
QĐHC là đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính phải là
quyết định được ban hành để xử lý, giải quyết vụ việc cụ thể, chứ không phải
các Quyết định giải quyết khiếu nại.
Cho nên, không khó để lý giải nguyên nhân số vụ án hành chính được
Tòa án thụ lý, giải quyết trong những năm đầu của giai đoạn này ít có sự
chuyển biến so với giai đoạn trước (Năm 1999, giải quyết 319 vụ án trong
tổng số 408 vụ án hành chính đã thụ lý; Năm 2000, 419/539 vụ... [58]), nhưng
lại gia tăng mạnh mẽ kể từ năm 2003 (Năm 2004, Các Toà án cấp sơ thẩm đã
thụ lý 1.172 vụ, đã giải quyết 1.006 vụ; Các Toà án cấp phúc thẩm đã thụ lý
552 vụ, đã giải quyết được 498 vụ; xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm, đã thụ lý 22 vụ; đã giải quyết 20 vụ [59]; Năm 2005, Toà án nhân dân
các cấp đã giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm và giám đốc thẩm được
1.201 vụ trong tổng số 1.361 vụ [60]...).
1.3.3. Giai đoạn 2006 đến khi ban hành Luật tố tụng hành chính
Ngày 05/4/2006, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh sửa
đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành
chính [78] (sau đây gọi là Pháp lệnh năm 2006). Qua lần sửa đổi, bổ sung
này, thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính đã thực sự được mở rộng cả về
lượng và chất. Cụ thể, theo quy định tại Điều 11 của Pháp lệnh năm 2006 thì
có 22 nhóm vụ việc thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, tăng thêm
12 nhóm vụ việc gồm:
23
2. Khiếu kiện quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn và
bảo đảm việc xử lý vi phạm hành chính;
3. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính
trong việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt
vi phạm hành chính;
7. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính liên
quan đến thương mại hàng hoá quốc tế hoặc trong nước;
8. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính liên
quan đến chuyển giao tài chính trong nước và quốc tế, dịch vụ và
cung ứng dịch vụ;
12. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính
trong quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ;
13. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính
trong quản lý nhà nước về đầu tư;
14. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính
của cơ quan hải quan, công chức hải quan;
15. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính về
quản lý hộ tịch;
16. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính đối
với việc từ chối công chứng, chứng thực;
18. Khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội,
danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân;
20. Khiếu kiện quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải quyết khiếu nại đối với
quyết định của Ban Chủ nhiệm, Hội đồng khen thưởng, kỷ luật của
Đoàn luật sư;
21. Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định
xử lý vụ việc cạnh tranh [78, Điều 11].
24
Không những vậy, nhóm “các khiếu kiện khác” cũng có sự thay đổi
đáng kể. Nếu như theo Pháp lệnh năm 1996, Pháp lệnh năm 1998 thì các
khiếu kiện khác được hiểu các khiếu kiện hành chính thuộc thẩm quyền xét
xử của Tòa án theo các văn bản pháp luật khác của Việt Nam, thì theo Pháp
lệnh năm 2006, thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính còn được mở rộng
thêm đối với các khiếu kiện hành chính thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa
hành chính theo các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Do việc mở rộng một cách đáng kể thẩm quyền xét xử của Tòa hành
chính, nên tình hình thụ lý, giải quyết các vụ án hành chính của ngành Tòa án
cũng có sự chuyển biến rõ rệt so với giai đoạn trước. Trong năm 2007, toàn
ngành Tòa án đã thụ lý 1.926 vụ án hành chính (tăng 694 vụ so với năm 2006)
[64]. Năm 2008, Toà án nhân dân các cấp đã thụ lý 1.399 vụ án hành chính;
đã giải quyết, xét xử được 1.234 vụ [66].
Tuy nhiên, những hạn chế của Pháp lệnh năm 1996, Pháp lệnh năm
1998 về thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính thì vẫn còn tồn tại trong các
quy định của Pháp lệnh năm 2006. Cụ thể: (1) các nhóm vụ việc được coi là
thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính được quy định bằng phương
pháp liệt kê; (2) thủ tục khiếu nại vẫn là thủ tục bắt buộc trước khi khiếu kiện
hành chính tại Tòa án; (3) chuyển giao thẩm quyền thụ lý, xét xử của Tòa án
đối với các vụ án hành chính sang cơ quan hành chính Nhà nước, khi cùng
một vụ việc mà vừa có yêu cầu giải quyết khiếu nại lần hai tại cơ quan hành
chính vừa có yêu cầu khởi kiện tại Tòa án.
1.4. Vài nét về luật tố tụng hành chính Việt Nam
Trong giới hạn nghiên cứu của luận văn về “Thẩm quyền xét xử của Tòa
hành chính theo Luật tố tụng hành chính Việt Nam”, tác giả không đi sâu vào
việc phân tích cụ thể về Luật TTHC mà chỉ làm rõ một vài nội dung mà theo tác
giả là cần thiết và liên quan đến đối tượng, mục đích nghiên cứu của luận văn.
25
1.4.1. Sự cần thiết ban hành Luật tố tụng hành chính
Có thể nói, từ khi thành lập hệ thống Tòa hành chính và ban hành Pháp
lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, số lượng vụ án hành chính mà
hệ thống Tòa án nhân dân ở nước ta thụ lý và giải quyết có xu hướng tăng lên,
năm sau cao hơn năm trước (như các số liệu thống kê trên đây). Tuy nhiên, số
vụ việc khiếu kiện hành chính được thụ lý và giải quyết còn rất khiêm tốn so
với số lượng đơn thư khiếu nại, tố cáo mà các cơ quan hành chính nhà nước
thụ lý giải quyết. Mỗi năm, cơ quan hành chính nhà nước các cấp phải tiếp
nhận và giải quyết hàng chục nghìn vụ khiếu nại. Chỉ tính riêng 03 năm từ
2006 - 2008, các cơ quan hành chính đã nhận được 303 nghìn đơn khiếu nại
về gần 235 nghìn vụ việc. Cụ thể, Uỷ ban nhân dân các cấp đã tiếp nhận hơn
214.000 đơn khiếu nại về hơn 182 nghìn vụ việc, các Bộ ngành tiếp nhận gần
89.000 đơn về khoảng 53.000 vụ việc [20]. Điều này cho thấy, pháp luật về tố
tụng hành chính, cơ chế tố tụng hành chính cũng như chất lượng giải quyết
các vụ án hành chính chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn, chưa
tạo được niềm tin cho người dân.
Kể từ khi được ban hành và qua hai lần được sửa đổi, bổ sung, Pháp lệnh
thủ tục giải quyết các vụ án hành chính bộc lộ nhiều hạn chế. Một trong các
hạn chế có thể kể đến là việc quy định của Pháp lệnh có sự mâu thuẫn với một
số văn bản quy phạm pháp luật khác. Chẳng hạn, trong lĩnh vực quản lý đất
đai: theo quy định của Pháp lệnh năm 2006 thì đối với khiếu nại các QĐHC,
HVHC về quản lý đất đai, nếu khiếu nại do Ủy ban nhân dân cấp huyện giải
quyết lần đầu mà không đồng ý thì người khiếu nại chỉ được chọn một trong
hai phương thức, hoặc là khởi kiện ra Tòa án, hoặc là khiếu nại tiếp tục đến Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh. Nếu tiếp tục khiếu nại thì Tòa án sẽ từ chối thụ lý giải
quyết. Trong khi đó, theo quy định của Luật khiếu nại, tố cáo thì người khiếu
nại được khiếu nại lần hai trước khi khởi kiện vụ án hành chính ra Tòa án.
26
Bên cạnh đó, với việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ
chức thương mại thế giới (WTO) vào đầu năm 2007, cũng như là thành viên
của nhiều Điều ước quốc tế khác nhau đã khiến cho bối cảnh kinh tế - chính
trị - xã hội của Việt Nam có nhiều chuyển biến, các quy định trong Pháp lệnh
thủ tục giải quyết các vụ án hành chính không còn phù hợp để điều chỉnh hoạt
động giải quyết các vụ án hành chính nữa. Một trong những điều kiện để Việt
Nam được chấp nhận trong liên minh khu vực, cũng như các tổ chức quốc tế,
đó là sự phù hợp của pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật về tố tụng
hành chính của Việt Nam nói riêng với pháp luật quốc tế. Theo Báo cáo ngày
27/10/2006 của Ban công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO thì:
Đại diện của Việt Nam xác nhận thêm rằng sẽ sửa đổi các luật
và các quy định trong nước sao cho phù hợp với các yêu cầu của hiệp
định WTO về thủ tục và rà soát pháp lý đối với các quyết định hành
chính, trong đó bao gồm cả khoản X:3(b) của Hiệp định GATT
1994. Đại diện của Việt Nam cho biết thêm rằng các Toà án chịu
trách nhiệm rà soát phải có quan điểm công bằng và độc lập với cơ
quan có thẩm quyền ra quyết định hành chính và không có quyền lợi
thực chất nào liên quan tới kết quả của vụ việc [4, đoạn 135, tr.66].
Trong khi đó, xét về việc thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính trong
các văn bản Pháp lệnh được quy định bằng hình thức liệt kê đã bộc lộ sự lạc
hậu, thiếu sót, không phù hợp với bối cảnh mới của đất nước, cũng như hình
thức quy định của nhiều nước trên thế giới.
Do vậy, việc ban hành Luật TTHC thay thế Pháp lệnh thủ tục giải quyết
các vụ án hành chính, nhằm bảo đảm tính đồng bộ và thống nhất của hệ thống
pháp luật, đảm bảo sự phù hợp hơn nữa của pháp luật về tố tụng hành chính
Việt Nam với pháp luật quốc tế, góp phần bảo vệ các quyền và lợi ích chính
đáng của cá nhân, cơ quan, tổ chức là hết sức cần thiết.
27
1.4.2. Bố cục Luật tố tụng hành chính
Luật TTHC gồm 18 chương với 265 Điều, cụ thể như sau:
Chương I: "Những quy định chung" (27 Điều từ Điều 1 đến Điều 27);
Chương II: "Thẩm quyền của Tòa án" (6 Điều từ Điều 28 đến Điều 33);
Chương III: "Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và
việc thay đổi người tiến hành tố tụng", (13 Điều từ Điều 34 đến Điều 46);
Chương IV: "Người tham gia tố tụng, quyền và nghĩa vụ của người
tham gia tố tụng" (13 Điều từ Điều 47 đến Điều 59);
Chương V: "Các biện pháp khẩn cấp tạm thời" (12 Điều từ Điều 60
đến Điều 71);
Chương VI: "Chứng minh và chứng cứ" (20 Điều từ Điều 72 đến Điều
91); Chương VII: "Cấp tống đạt thông báo văn bản tố tụng" (11 Điều từ Điều
92 đến Điều l02);
Chương VIII: "Khởi kiện, thụ lý vụ án" (14 Điều từ Điều 103 đến Điều 116);
Chương IX: "Chuẩn bị xét xử” (8 Điều từ Điều 117 đến Điều 124);
Chương X: "Phiên tòa sơ thẩm" (43 Điều từ Điều 125 đến Điều 167);
Chương XI: "Thủ tục giải quyết kiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử
đại biểu Quốc hội hoặc danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân"
(5 Điều từ Điều 168 đến Điều 172);
Chương XII: “Thủ tục phúc thẩm” (36 Điều từ Điều 173 đến Điều 208);
Chương XIII: "Thủ tục giám đốc thẩm" (23 Điều từ Điều 209 đến Điều 231);
Chương XIV: "Thủ tục tái thẩm" (7 Điều từ Điêu 232 đến Điều 238);
Chương XV: "Thủ tục đặc biệt xem xét lại quyết định của Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao" (2 Điều - Điều 239 và Điều 240);
Chương XVI: "Thủ tục thi hành bản án, quyết định của Tòa án về vụ
án hành chính" (8 Điều từ Điều 241 đến Điều 248);
Chương XVII: "Khiếu nại, tố cáo trong Tố tụng hành chính" (14 Điều
từ Điều 249 đến Điều 262);
Chương XVIII "Điều khoản thi hành” (3 Điều từ Điều 263 đến Điều 265).
28
Theo đó, thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với các vụ án hành chính
được quy định thành một chương riêng biệt (Chương II), với 6 điều từ Điều
28 đến Điều 33. Việc quy định những khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án theo hướng loại trừ, thay vì phương pháp liệt kê như trong Pháp
lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính. Việc quy định như vậy không
những khắc phục được những hạn chế khi quy định bằng cách liệt kê như trước
đây, mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc
xác định quyền khởi kiện các vụ án hành chính, đảm bảo sự công bằng cho
người dân và đáp ứng được yêu cầu của cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế
quốc tế của nước ta. Về mặt kỹ thuật lập pháp, việc quy định theo phương pháp
loại trong trường hợp này là rất hợp lý và bảo đảm tính ổn định của điều luật.
1.4.3. Vai trò của Luật tố tụng hành chính
Xét về bản chất, Tố tụng hành chính là một phương thức giải quyết các
khiếu kiện hành chính, nó tồn tại song song với cơ chế giải quyết các khiếu nại,
tố cáo hành chính bằng thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo. So với cơ chế giải
quyết các khiếu kiện hành chính bằng thủ tục giải quyết khiếu nại hành chính,
Tố tụng hành chính có ưu điểm lớn đó là các khiếu kiện được giải quyết bởi
một hệ thống cơ quan chuyên trách độc lập – đó là các Tòa hành chính thuộc
Tòa án nhân dân. Không những thế, thủ tục tụng hành chính còn bảo đảm sự
bình đẳng giữa công dân và cơ quan công quyền trước Toà án, đây là điều
không thể có được khi giải quyết theo thủ tục hành chính các khiếu kiện hành
chính. Chính vì vậy, đây là một cơ chế hữu hiệu góp phần bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức khi những quyền lợi của họ bị xâm
phạm bởi các QĐHC, HVHC của các cơ quan công quyền.
Tuy nhiên, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính chưa thực
sự giải quyết được trọn vẹn vai trò này của tố tụng hành chính nói chung cũng
như của Tòa hành chính nói riêng. Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành
29
chính có những quy định chưa phù hợp hoặc không còn phù hợp, chưa đầy đủ,
thiếu rõ ràng và còn có những cách hiểu khác nhau, đặc biệt là các quy định về
thẩm quyền giải quyết các khiếu kiện hành chính của Toà án nhân dân, điều
kiện khởi kiện, thời hiệu khởi kiện, nghĩa vụ chứng minh và cung cấp chứng
cứ.... Bên cạnh đó, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính cũng
chưa có quy định cụ thể về thi hành bản án, quyết định của Toà án về vụ án
hành chính và cũng chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định về vấn
đề này dẫn đến thực trạng có nhiều bản án, quyết định của Toà án về vụ án
hành chính không được thi hành hoặc không được thi hành đầy đủ.
Do vậy, sự ra đời của Luật TTHC thay thế Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án hành chính, nhằm bảo đảm tính đồng bộ và thống nhất của
hệ thống pháp luật.
Việc mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính cũng chính là tạo
cho các tổ chức, cá nhân khi nhận thấy các QĐHC, HVHC… xâm phạm đến
các quyền và lợi ích hợp pháp của mình sẽ có nhiều phương án lựa chọn cơ
chế giải quyết hơn, thay vì chỉ được yêu cầu giải quyết theo thủ tục khiếu nại,
hoặc phải qua giai đoạn giải quyết khiếu nại lần đầu mới được khiếu kiện tại
Tòa án. Điều này góp phần bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của cá
nhân, cơ quan, tổ chức trong vụ án hành chính. Luật TTHC cũng như quy
định rõ ràng hơn, đầy đủ hơn về thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính (nội
dung này sẽ được phân tích cụ thể hơn trong những phần sau của Luận văn).
30
Chương 2
THẨM QUYỀN XÉT XỬ CỦA TÒA HÀNH CHÍNH
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
2.1. Đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính
Luật TTHC quy định những khiếu kiện sau đây thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án:
(1) Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính, trừ
các quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc phạm vi bí mật
nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo
danh mục do Chính phủ quy định và các quyết định hành chính, hành
vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức; (2) Khiếu kiện
về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử
đại biểu Hội đồng nhân dân; (3) Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc
thôi việc công chức giữ chức vụ từ Tổng Cục trưởng và tương đương
trở xuống; (4) Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết
định xử lý vụ việc cạnh tranh [44, Điều 28].
Trước hết, sự khác biệt về mặt hình thức của quy định về các nhóm vụ
việc thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính theo Luật TTHC so với các
văn bản Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, đó là: việc quy
định các nhóm vụ việc này trong Luật TTHC kết hợp cả phương thức liệt kê
và phương thức loại trừ. Mà cụ thể là đối với nhóm vụ việc “khiếu kiện quyết
định hành chính, hành vi hành chính…”. Thay vì liệt kê từng loại QĐHC,
HVHC như trong các văn bản Pháp lệnh, dẫn đến những thiếu sót, hạn chế
như đã phân tích trong Chương 1, thì quy định trong Luật TTHC đã khắc
phục được những hạn chế này.
Tuy nhiên, để làm rõ khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa
31
hành chính theo Luật TTHC thì điều căn bản là cần làm rõ khái niệm và phạm
vi của bốn nhóm đối tượng này.
2.1.1. Quyết định hành chính, hành vi hành chính
2.1.1.1. Quyết định hành chính
a) Khái niệm “quyết định hành chính” và đặc điểm:
Luật TTHC đã định nghĩa:
Quyết định hành chính là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước,
cơ quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền trong các cơ quan, tổ
chức đó ban hành, quyết định về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý
hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể
[44, Điều 3, Khoản 1].
Theo định nghĩa này, QĐHC phải thỏa mãn ba đặc điểm:
- (1) về chủ thể ban hành: do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ
chức khác hoặc người có thẩm quyền trong các cơ quan, tổ chức đó ban hành;
- (2) về nội dung: quyết định về một vấn đề cụ thể trong hoạt động
quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng
cụ thể;
- (3) về hình thức: là một văn bản.
Theo đó, để có thể hiểu một cách chính xác thế nào là QĐHC thì cần
làm rõ ba yếu tố nêu trên.
Thứ nhất, xét về chủ thể ban hành QĐHC.
Theo định nghĩa nêu trên, có ba nhóm chủ thể có thẩm quyền ban hành
QĐHC, bao gồm:
Một là, cơ quan hành chính Nhà nước.
Theo Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013
[48, Điều 94] và Luật tổ chức Chính phủ năm 2001 thì “Chính phủ là cơ quan hành
chính cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” [34, Điều 1]. Điều
32
2 Luật tổ chức Chính phủ năm 2001 quy định cơ cấu tổ chức của Chính
phủ gồm các bộ và các cơ quan ngang bộ (hiện nay gồm 18 bộ và 04 cơ
quan ngang bộ).
Theo Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003
thì “Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu là cơ quan chấp hành của
Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu
trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và cơ quan nhà nước cấp
trên” [36, Điều 2]. Nghị định 24/2014/NĐ-CP ngày 04/04/2014 của Chính
phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương quy định rằng, “các sở và các cơ quan
tương đương sở là các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương” [14, Điều 1, Khoản 2]. Tại Nghị định
14/2008/NĐ-CP ngày 04/02/2008 của Chính phủ quy định “tổ chức các cơ
quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh quy định về các Phòng, Ban là các cơ quan chuyên môn thuộc
Ủy ban nhân dân cấp huyện” [12, Điều 7,8].
Từ các quy định trên, nhận định rằng, các cơ quan hành chính Nhà
nước bao gồm: Chính phủ, các bộ và cơ quan ngang bộ, các cơ quan của
Trung ương được tổ chức theo ngành dọc; Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, các sở
và cơ quan tương đương sở, cơ quan của sở và cơ quan tương đương sở đặt tại
huyện; Ủy ban nhân dân cấp huyện, các Phòng, Ban là cơ quan chuyên môn
thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện; Ủy ban nhân dân cấp xã.
Hai là, cơ quan, tổ chức khác.
Theo Luật TTHC, thuật ngữ “cơ quan, tổ chức” trong Luật này được
hiểu là bao gồm “cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị -
xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã
hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân
dân” [44, Điều 3, Khoản 9].
33
Trên cơ sở đó, vì các cơ quan hành chính Nhà nước cũng thuộc các cơ
quan Nhà nước, nên “cơ quan, tổ chức khác” được nêu trong khái niệm QĐHC
được hiểu là: các cơ quan Nhà nước không phải là cơ quan hành chính Nhà
nước và các tổ chức được liệt kê trong khoản 9 Điều 3 Luật TTHC.
Ba là, người có thẩm quyền trong các cơ quan, tổ chức đó.
Với khái niệm “thẩm quyền” như đã phân tích tại Chương 1, “người có
thẩm quyền” ở đây hiểu là người có quyền chính thức được ban hành QĐHC.
Theo Nghị quyết 02/2011/NQ-HĐTP thì người có thẩm quyền phải
là “người có chức vụ, chức danh cụ thể và theo quy định của pháp luật thì
người có chức vụ, chức danh đó mới có thẩm quyền ra quyết định hành
chính” [19, Điều 2, Khoản 2]. Nghĩa là, xét về vấn đề ai là người có quyền
chính thức được ban hành QĐHC thì phụ thuộc vào từng cơ quan, từng tổ
chức, trong từng ngành, từng lĩnh vực cụ thể theo quy định của pháp luật,
hoặc theo sự phân công của người đứng đầu cơ quan tổ chức đó, hoặc của cơ
quan cấp trên.
Như vậy, chủ thể ban hành QĐHC bao gồm: các cơ quan hành chính
Nhà nước, các cơ quan Nhà nước không phải cơ quan hành chính, các tổ chức
được nêu tại khoản 9 Điều 3 Luật TTHC và những người có thẩm quyền trong
các cơ quan, tổ chức đó.
Thứ hai, xét về nội dung của QĐHC, có hai vấn đề cần làm rõ như sau:
Một là, QĐHC quyết định về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản
lý hành chính.
Có thể hiểu rằng, quản lý hành chính nhà nước là hoạt động thực thi
quyền hành pháp của Nhà nước, đó là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh
bằng quyền lực nhà nước trên cơ sở pháp luật đối với hành vi hoạt động của
con người và các quá trình xã hội, do các cơ quan trong hệ thống hành chính
Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện những mục tiêu,
chức năng và nhiệm vụ của nhà nước.
34
Trên cơ sở đó, QĐHC được ban hành để thực thi quyền hành pháp của
Nhà nước, do các cơ quan trong hệ thống hành chính Nhà nước tiến hành.
Một vấn đề đặt ra là, điều này liệu có mâu thuẫn với quy định về chủ thể ban
hành QĐHC đã phân tích ở trên. Bởi chủ thể ban hành QĐHC có thể bao gồm
các cơ quan quyền lực Nhà nước (Hội đồng nhân dân các cấp), cơ quan tư
pháp (Tòa án nhân dân các cấp, Viện kiểm sát nhân dân các cấp)… Những cơ
quan này có thẩm quyền ban hành một văn bản trong hoạt động quản lý hành
chính Nhà nước hay không?
Theo quan điểm của tác giả thì điều này không có sự mâu thuẫn. Bởi
cần hiểu theo nghĩa rộng rằng, hoạt động quản lý hành chính Nhà nước không
chỉ là hoạt động của cơ quan hành chính Nhà nước, mà là hoạt động của tất cả
các cơ quan Nhà nước, các cơ quan, tổ chức khác nhằm thực thi quyền lực
Nhà nước trên cơ sở pháp luật đối với hành vi hoạt động của con người và các
quá trình xã hội.
Hai là, QĐHC được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối
tượng cụ thể.
Nghĩa là, QĐHC là loại quyết định cá biệt chỉ được áp dụng trong một
vụ việc cụ thể, áp dụng với một hoặc một số đối tượng cụ thể, không thể được
dùng để áp dụng lặp đi lặp lại cho những loại vụ việc khác nhau, hoặc những
chủ thể khác nhau.
Đặc tính này để phân biệt QĐHC với các văn bản quy phạm pháp luật,
bởi, theo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 văn bản quy
phạm pháp luật là những văn bản chứa đựng những “quy tắc xử sự chung, có
hiệu lực bắt buộc chung, được Nhà nước bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các
quan hệ xã hội” [41, Điều 1, Khoản 1].
Thứ ba, về hình thức của QĐHC.
QĐHC được biểu hiện dưới hình thức văn bản.
35
Cần lưu ý rằng, không chỉ những văn bản được ban hành dưới hình
thức “Quyết định” mới được coi là QĐHC. Mà những văn bản chứa đựng các
nội dung như đã phân tích trên đây (ban hành trong hoạt động quản lý hành
chính Nhà nước, áp dụng một lần với một hoặc một số đối tượng cụ thể) thì
đều được coi là QĐHC.
Vấn đề đặt ra là, những hình thức được coi là tương đương văn bản như
thư tín, điện tín, fax, dữ liệu điện tử... chứa đựng đầy đủ nội dung của QĐHC
như đã phân tích ở trên, thì có được coi là QĐHC hay không?
Theo hướng dẫn tại khoản 8 Điều 3 Nghị định 64/2007/NĐ-CP ngày
10/4/2007 của Chính phủ về Ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động
của cơ quan Nhà nước thì “Văn bản điện tử là văn bản được thể hiện dưới
dạng thông điệp dữ liệu” [11, Điều 3], theo đó, văn bản dưới hình thức dữ
liệu điện tử cũng được coi là hình thức văn bản hợp pháp của các cơ quan
Nhà nước. Khoản 2 Điều 18 Nghị định 110/2004/NĐ-CP ngày 08/4/2004 của
Chính phủ về công tác văn thư quy định về việc “Văn bản đi có thể được
chuyển cho nơi nhận bằng Fax hoặc chuyển qua mạng để thông tin nhanh”
[10, Điều 18], theo đó, văn bản do cơ quan Nhà nước ban hành được gửi đi
dưới hình thức fax hoặc hình thức khác cũng được coi là văn bản hợp pháp
của các cơ quan Nhà nước.
Cho nên, tác giả cho rằng, văn bản hoặc hình thức tương đương văn
bản chứa đựng đầy đủ các nội dung cần thiết gồm: ban hành trong hoạt động
quản lý hành chính Nhà nước, áp dụng một lần với một hoặc một số đối tượng
cụ thể, đều được coi là QĐHC.
Cách hiểu về QĐHC đều đã được khái quát một cách tương đối đầy đủ
tại Nghị quyết 02/2011/NQ-HĐTP ngày 29/7/2011 của Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao:
Quyết định hành chính thuộc đối tượng khởi kiện để yêu cầu
Toà án giải quyết vụ án hành chính là văn bản được thể hiện dưới hình
36
thức quyết định hoặc dưới hình thức khác như thông báo, kết luận,
công văn do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác
hoặc người có thẩm quyền trong các cơ quan, tổ chức đó ban hành có
chứa đựng nội dung của quyết định hành chính được áp dụng một lần
đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể trong
hoạt động quản lý hành chính... [19, Điều 1, Khoản 1].
b) Những QĐHC thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính:
Theo quy định tại Điều 28 Luật TTHC thì những văn bản thỏa mãn các
tiêu chí về QĐHC đã phân tích ở trên, và không thuộc các trường hợp loại trừ,
thì thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính. Những trường hợp loại trừ
thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính cụ thể như sau:
Một là, QĐHC thuộc phạm vi bí mật Nhà nước trong các lĩnh vực quốc
phòng, an ninh, ngoại giao theo danh mục do Chính phủ quy định.
Theo quy định này, không phải mọi QĐHC ban hành trong các lĩnh vực
quốc phòng, an ninh, ngoại giao đều thuộc trường hợp loại trừ thẩm quyền xét
xử của Tòa hành chính. Mà chỉ những QĐHC trong các lĩnh vực này thuộc
phạm vi bí mật Nhà nước, theo một danh mục cụ thể do Chính phủ quy định
mới rơi vào những trường hợp loại trừ thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính.
Năm 2000, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh bảo vệ bí
mật Nhà nước. Theo quy định tại Pháp lệnh này thì:
Bí mật Nhà nước là những tin về vụ, việc, tài liệu, vật, địa
điểm, thời gian, lời nói có nội dung quan trọng thuộc lĩnh vực chính
trị, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, kinh tế, khoa học, công nghệ,
các lĩnh vực khác mà Nhà nước không công bố hoặc chưa công bố
và nếu bị tiết lộ thì gây nguy hại cho Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam [76, Điều 1],
trên cơ sở đó, các Bộ, cơ quan ngang Bộ của Chính phủ đều có nghĩa
vụ công bố danh mục bí mật Nhà nước trong lĩnh vực của mình.
37
Tuy nhiên, Điều 28 Luật TTHC chỉ loại trừ thẩm quyền xét xử của Tòa
hành chính đối với những QĐHC liên quan đến lĩnh vực quốc phòng, an ninh,
ngoại giao. Trên cơ sở Pháp lệnh bảo vệ bí mật Nhà nước năm 2000 và các
văn bản hướng dẫn, Chính phủ đã ban hành Quyết định về danh mục bí mật
Nhà nước trong một số lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực ngoại giao. Cụ thể, theo
Quyết định số 17/2014/QĐ-TTg ngày 25/02/2014 của Thủ tướng Chính phủ
về danh mục bí mật Nhà nước độ tuyệt mật và tối mật của ngành ngoại giao
[57] thì có 07 nhóm bí mật Nhà nước độ tuyệt mật (Điều 1) và 15 nhóm bí
mật Nhà nước độ tối mật (Điều 2) trong lĩnh vực ngoại giao.
Song, bên cạnh văn bản trên do Chính phủ ban hành, Bộ Công an cũng
ban hành Thông tư số 12/2014/TT-BCA-A81 ngày 19/3/2014 quy định danh
mục bí mật Nhà nước độ mật của ngành ngoại giao [7]. Vấn đề đặt ra là, danh
mục này không do Chính phủ ban hành thì có thuộc trường hợp loại trừ thẩm
quyền xét xử của Tòa hành chính theo điều 28 Luật TTHC hay không? Cần
làm rõ rằng, Điều 28 Luật TTHC quy định về trường hợp danh mục bí mật
Nhà nước theo quy định của Chính phủ, chứ không mặc định đó phải là danh
mục do Chính phủ ban hành. Tại khoản 2 Điều 3 Nghị định 33/2002/NĐ-CP
ngày 28/3/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh bảo vệ bí
mật Nhà nước quy định rằng, người có trách nhiệm lập danh mục bí mật Nhà
nước của các Bộ, cơ quan ngang Bộ có nhiệm vụ “Lập danh mục bí mật nhà
nước thuộc độ Mật gửi Bộ trưởng Bộ Công an” [9, Điều 3]. Theo đó, việc Bộ
Công an ban hành danh mục bí mật Nhà nước độ mật của các ngành nói
chung và của ngành ngoại giao nói riêng, là phù hợp quy định của Chính phủ.
Do vậy, các QĐHC liên quan đến danh mục bí mật Nhà nước độ mật của
ngành ngoại giao do Bộ Công an ban hành theo văn bản nêu trên, cũng thuộc
trường hợp loại trừ thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính.
Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh Chính phủ, Bộ Công an, Bộ Quốc
38
phòng chưa công bố danh mục bí mật Nhà nước trong lĩnh vực này, hoặc
không công bố (theo quy định tại Điều 5 Nghị định 33/2002/NĐ-CP ngày
28/3/2002 của Chính phủ [9, Điều 5]). Tuy nhiên, danh mục bí mật Nhà nước
trong các lĩnh vực khác được công bố theo quy định của Chính phủ đều có nội
dung liên quan đến an ninh, quốc phòng. Chẳng hạn: các bí mật Nhà nước của
ngành Tài chính về tài liệu, số liệu về tài sản, dự toán, quyết toán ngân sách
cho an ninh, quốc phòng theo Quyết định số 59/2013/QĐ-TTg ngày
15/10/2013 của Thủ tướng Chính phủ quy định danh mục bí mật Nhà nước độ
Tuyệt mật và Tối mật của ngành Tài chính [56]; các bí mật Nhà nước trong
linh vực Tài nguyên môi trường về bản đồ, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất,
tài nguyên khác liên quan đến quốc phòng, an ninh theo Quyết định
21/2013/QĐ-TTg ngày 24/4/2013 của Thủ tướng Chính phủ [55]; các bí mật
Nhà nước trong lĩnh vực Công thương về các công trình khoa học, công nghệ
mới, phát minh sáng chế có ý nghĩa đặc biệt trong hoạt động an ninh, quốc
phòng theo Quyết định 106/2008/QĐ-TTg ngày 21/7/2008 của Thủ tướng
Chính phủ [54]….
Trong khi Chính phủ, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng chưa công bố hoặc
không công bố danh mục bí mật Nhà nước trong lĩnh vực quốc phòng, an
ninh, thì các nội dung liên quan đến lĩnh vực an ninh, quốc phòng của các
ngành khác được công bố theo quy định của Chính phủ, cũng là những nội
dung loại trừ thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính.
Vấn đề đặt ra là: (1) tại sao những QĐHC thuộc phạm vi bí mật Nhà
nước trong các lĩnh vực này lại loại trừ thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính?
(2) tại sao những vấn đề thuộc phạm vi bí mật Nhà nước trong các ngành, lĩnh
vực khác lại không loại trừ thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính?
Đối với (1), tác giả cho rằng, có một số lý do như sau dẫn đến việc loại
trừ thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính đối với các QĐHC thuộc phạm vi
bí mật Nhà nước trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao:
39
- Về bản chất, theo Pháp lệnh bảo vệ bí mật Nhà nước năm 2000 thì
“Bí mật Nhà nước là những vấn đề mà Nhà nước không công bố hoặc chưa
công bố và nếu bị tiết lộ sẽ gây nguy hại cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam” [76, Điều 1]). Đặc biệt, các lĩnh vực quốc phòng, an ninh,
ngoại giao không chỉ có vai trò quan trọng trong Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, mà còn gắn bó mật thiết và có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng đối với chủ quyền Quốc gia, một vấn đề thiêng liêng, có ý nghĩa sống
còn đối với bất kỳ Quốc gia nào. Nghĩa là, các bí mật Nhà nước trong các lĩnh
vực này cần phải bảo vệ một cách tuyệt đối, không thể để lộ dưới bất kỳ hình
thức nào. Trong khi đó, việc xét xử vụ án hành chính theo quy định của Luật
TTHC là xét xử công khai, trường hợp cần thiết có thể xét xử kín nhưng phải
tuyên án công khai [44, Điều 17]). Theo đó, các QĐHC thuộc phạm vi bí mật
Nhà nước trong các lĩnh vực này không thể là đối tượng xét xử trong vụ án
hành chính được, bởi bất kể việc xét xử kín, nhưng việc tuyên án công khai
cũng có thể gây ảnh hưởng đến vấn đề chủ quyền thiêng liêng của đất nước.
- Có cơ chế giải quyết khác đối với những QĐHC thuộc lĩnh vực này.
Chẳng hạn, trong lĩnh vực an ninh quốc phòng có thể được giải quyết tại Tòa
án Quân sự thông qua việc xét xử kín [77, Điều 10].
Đối với (2), tác giả cho rằng, các QĐHC thuộc phạm vi bí mật Nhà
nước trong các lĩnh vực khác (không phải lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại
giao) vẫn có thể là đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, là
bởi: tuy các vấn đề này cũng thuộc phạm vi bí mật Nhà nước cần được bảo
mật, nhưng việc xét xử kín, chỉ tuyên án công khai cũng đã đủ để giữ gìn sự
ổn định của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nên không cần
phải loại trừ thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính.
Hai là, QĐHC mang tính chất nội bộ của cơ quan, tổ chức.
Cần hiểu rằng, các QĐHC này, về bản chất, vẫn là QĐHC cá biệt,
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT

More Related Content

What's hot

BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.14...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.14...BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.14...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.14...OnTimeVitThu
 
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
 BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777... BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...OnTimeVitThu
 
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Thi hành án dân sự
Thi hành án dân sựThi hành án dân sự
Thi hành án dân sựTé Lầu
 

What's hot (20)

BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.14...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.14...BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.14...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.14...
 
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sựLuận văn: Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
 
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAYLuận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
 
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án Luật Tố tụng, HOT
Luận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án Luật Tố tụng, HOTLuận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án Luật Tố tụng, HOT
Luận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án Luật Tố tụng, HOT
 
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOTLuận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
 
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng
 
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAYLuận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
 
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
 BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777... BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
 
Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
 
Liệt Kê 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Tại Tòa Án, Điểm Cao
Liệt Kê 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Tại Tòa Án, Điểm CaoLiệt Kê 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Tại Tòa Án, Điểm Cao
Liệt Kê 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Tại Tòa Án, Điểm Cao
 
Luận án: Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, HAY
Luận án: Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, HAYLuận án: Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, HAY
Luận án: Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sự
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sựLuận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sự
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sự
 
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
 
Đề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
Đề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOTĐề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
Đề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Chế độ thi hành án phạt tù ở Việt Nam hiện nay, HAY
Luận văn: Chế độ thi hành án phạt tù ở Việt Nam hiện nay, HAYLuận văn: Chế độ thi hành án phạt tù ở Việt Nam hiện nay, HAY
Luận văn: Chế độ thi hành án phạt tù ở Việt Nam hiện nay, HAY
 
Thi hành án dân sự
Thi hành án dân sựThi hành án dân sự
Thi hành án dân sự
 
Luận văn: Thụ lý vụ án dân sự theo trình tự sơ thẩm, HAY
Luận văn: Thụ lý vụ án dân sự theo trình tự sơ thẩm, HAYLuận văn: Thụ lý vụ án dân sự theo trình tự sơ thẩm, HAY
Luận văn: Thụ lý vụ án dân sự theo trình tự sơ thẩm, HAY
 
Luận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Xử lý tài sản thế chấp ngân hàng để thu hồi nợ, HAY
Luận văn: Xử lý tài sản thế chấp ngân hàng để thu hồi nợ, HAYLuận văn: Xử lý tài sản thế chấp ngân hàng để thu hồi nợ, HAY
Luận văn: Xử lý tài sản thế chấp ngân hàng để thu hồi nợ, HAY
 

Similar to Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT

Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông NôLuận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông NôViết Thuê Luận Văn Luanvanpanda.com
 
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông NôLuận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông NôViết Thuê Luận Văn Luanvanpanda.com
 
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông NôLuận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông NôNhận Viết Đề Tài Thuê trangluanvan.com
 
Luận văn: Xây dựng và áp dụng án lệ giải quyết tranh chấp dân sự ở Việt Nam h...
Luận văn: Xây dựng và áp dụng án lệ giải quyết tranh chấp dân sự ở Việt Nam h...Luận văn: Xây dựng và áp dụng án lệ giải quyết tranh chấp dân sự ở Việt Nam h...
Luận văn: Xây dựng và áp dụng án lệ giải quyết tranh chấp dân sự ở Việt Nam h...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 

Similar to Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT (20)

Giải Quyết Vụ Án Hành Chính Tại Tòa Án Tỉnh Đồng Nai
Giải Quyết Vụ Án Hành Chính Tại Tòa Án Tỉnh Đồng NaiGiải Quyết Vụ Án Hành Chính Tại Tòa Án Tỉnh Đồng Nai
Giải Quyết Vụ Án Hành Chính Tại Tòa Án Tỉnh Đồng Nai
 
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOTQuyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
 
Thi hành bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính, HAY
Thi hành bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính, HAYThi hành bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính, HAY
Thi hành bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính, HAY
 
Luận văn: Giải quyết khiếu kiện hành chính tại Hải Phòng, HAY
Luận văn: Giải quyết khiếu kiện hành chính tại Hải Phòng, HAYLuận văn: Giải quyết khiếu kiện hành chính tại Hải Phòng, HAY
Luận văn: Giải quyết khiếu kiện hành chính tại Hải Phòng, HAY
 
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAIGIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI
 
Luận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOT
Luận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOTLuận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOT
Luận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOT
 
Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật
Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật
Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật
 
Luận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sựLuận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
 
Đề tài: Xây dựng mô hình Tòa án khu vực trong cải cách tư pháp
Đề tài: Xây dựng mô hình Tòa án khu vực trong cải cách tư pháp Đề tài: Xây dựng mô hình Tòa án khu vực trong cải cách tư pháp
Đề tài: Xây dựng mô hình Tòa án khu vực trong cải cách tư pháp
 
Luận văn: Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng dân sự, HOTLuận văn: Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng dân sự, HOT
 
Luận văn: Địa vị pháp lý Thẩm phán trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Địa vị pháp lý Thẩm phán trong tố tụng dân sự, HOTLuận văn: Địa vị pháp lý Thẩm phán trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Địa vị pháp lý Thẩm phán trong tố tụng dân sự, HOT
 
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông NôLuận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
 
Luận văn: Biện pháp khẩn cấp tạm thời tiền tố tụng, HOT, HAY
Luận văn: Biện pháp khẩn cấp tạm thời tiền tố tụng, HOT, HAYLuận văn: Biện pháp khẩn cấp tạm thời tiền tố tụng, HOT, HAY
Luận văn: Biện pháp khẩn cấp tạm thời tiền tố tụng, HOT, HAY
 
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông NôLuận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
 
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOTĐề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
 
Luận văn: Các nguyên tắc liên quan đến hoạt động xét xử, HOT
Luận văn: Các nguyên tắc liên quan đến hoạt động xét xử, HOTLuận văn: Các nguyên tắc liên quan đến hoạt động xét xử, HOT
Luận văn: Các nguyên tắc liên quan đến hoạt động xét xử, HOT
 
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOTLuận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
 
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông NôLuận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
 
Luận văn: Xây dựng và áp dụng án lệ giải quyết tranh chấp dân sự ở Việt Nam h...
Luận văn: Xây dựng và áp dụng án lệ giải quyết tranh chấp dân sự ở Việt Nam h...Luận văn: Xây dựng và áp dụng án lệ giải quyết tranh chấp dân sự ở Việt Nam h...
Luận văn: Xây dựng và áp dụng án lệ giải quyết tranh chấp dân sự ở Việt Nam h...
 
Luận văn: Xây dựng và áp dụng án lệ giải quyết tranh chấp dân sự
Luận văn: Xây dựng và áp dụng án lệ giải quyết tranh chấp dân sựLuận văn: Xây dựng và áp dụng án lệ giải quyết tranh chấp dân sự
Luận văn: Xây dựng và áp dụng án lệ giải quyết tranh chấp dân sự
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Recently uploaded

Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 

Recently uploaded (19)

Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 

Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN ĐỨC CHÍNH THÈM QUYÒN XÐT Xö CñA TßA HµNH CHÝNH THEO LUËT Tè TôNG HµNH CHÝNH VIÖT NAM Chuyên ngành: Lí luận lịch sử Nhà nước và pháp luật Mã số: 60 38 01 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN HOÀNG ANH HÀ NỘI - 2014
  • 2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan kết quả nghiên cứu trong luận văn này là do chính bản thân tôi thực hiện, được xuất phát từ nhu cầu học tập và nghiên cứu của bản thân và được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của PGS . TS. Nguyễn Hoàng Anh . Tôi cũng xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn là trung thực và đã được chỉ rõ nguồn gốc. NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyễn Đức Chính
  • 3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ CỦA TÒA HÀNH CHÍNH.......................................................... 7 1.1. Khái niệm thẩm quyền xét xử của tòa hành chính .......................... 7 1.1.1. Khái niệm thẩm quyền xét xử của Tòa án ............................................ 7 1.1.2. Khái niệm Tòa hành chính.................................................................... 9 1.1.3. Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính.............................................11 1.2. Những căn cứ để xác định thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính...12 1.2.1. Căn cứ vào tính đặc thù của đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính .............................................................................12 1.2.2. Căn cứ vào mục tiêu, định hướng của Nhà nước trong phát triển tư pháp, quản lý hành chính................................................................13 1.3. Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính trước khi ban hành luật tố tụng hành chính.....................................................................14 1.3.1. Giai đoạn 1996 đến 1998 ....................................................................15 1.3.2. Giai đoạn 1998 đến 2006 ....................................................................20 1.3.3. Giai đoạn 2006 đến khi ban hành Luật tố tụng hành chính ................22 1.4. Vài nét về luật tố tụng hành chính Việt Nam.................................24 1.4.1. Sự cần thiết ban hành Luật tố tụng hành chính...................................25 1.4.2. Bố cục Luật tố tụng hành chính ..........................................................27 1.4.3. Vai trò của Luật tố tụng hành chính....................................................28
  • 4. Chương 2: THẨM QUYỀN XÉT XỬ CỦA TÒA HÀNH CHÍNH THEO LUẬT TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG...........................................................................................30 2.1. Đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính.............30 2.1.1. Quyết định hành chính, hành vi hành chính .......................................31 2.1.2. Danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân ...........................................................44 2.1.3. Quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức giữ chức vụ từ Tổng Cục trưởng và tương đương trở xuống ...............................................47 2.1.4. Quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh ...........................................................................................50 2.2. Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính theo địa giới hành chính...56 2.3. Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính theo cấp xét xử .............60 2.3.1. Xét xử theo thủ tục sơ thẩm ................................................................60 2.3.2. Xét xử theo thủ tục phúc thẩm............................................................63 2.3.3. Xét lại Bản án, Quyết định theo thủ tục Giám đốc thẩm, Tái thẩm.........64 2.3.4. Thủ tục đặc biệt xem xét lại Quyết định của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ......................................................................65 2.4. Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính trong một số trường hợp cụ thể...........................................................................................66 2.4.1. Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính trong trường hợp người khởi kiện vừa có khiếu nại đến người có thẩm quyền, vừa có khiếu kiện tại Tòa án...........................................................................66 2.4.2. Sự mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính theo Luật tố tụng hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai ..................................69 2.5. So sánh với thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính một số nước trên thế giới ..............................................................................73
  • 5. 2.5.1. Về đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử...............................................74 2.5.2. Về phân định thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính........................75 2.6. Thực tiễn áp dụng quy định của luật tố tụng hành chính về thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính..........................................76 2.6.1. Tình hình xét xử khiếu kiện hành chính nói chung ............................76 2.6.2. Bước phát triển trong xác định thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính từ sau khi ban hành Luật tố tụng hình sự..................................78 2.6.3. Một vài hạn chế trong xác định thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính theo Luật tố tụng hình sự ..........................................................80 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH VỀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ CỦA TÒA HÀNH CHÍNH ..............................................85 3.1. Khắc phục những nội dung còn hạn chế trong luật tố tụng hành chính..........................................................................................86 3.2. Đảm bảo sự phù hợp với các quy định pháp luật có liên quan ....92 3.3. Đảm bảo khả năng xét xử độc lập của Tòa hành chính ................95 KẾT LUẬN....................................................................................................99 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................100
  • 6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BHXH: Bảo hiểm xã hội HVHC: Hành vi hành chính QĐHC: Quyết định hành chính TTHC: Tố tụng hành chính UBND: Ủy ban nhân dân WTO: Tổ chức thương mại thế giới
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 21/5/1996, có hiệu lực thi hành ngày 01/7/1996; được sửa đổi, bổ sung lần thứ nhất ngày 25/12/1998 và sửa đổi, bổ sung lần thứ hai ngày 5/4/2006. Việc ban hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính và các Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung đã tạo điều kiện cho việc giải quyết các khiếu kiện hành chính, góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, qua thực tiễn 14 năm áp dụng Pháp lệnh đã bộc lộ những hạn chế và bất cập; có những quy định trong Pháp lệnh mâu thuẫn với các văn bản khác (như Luật đất đai, Luật khiếu nại tố cáo...); có những quy định chưa phù hợp hoặc không còn phù hợp, chưa đầy đủ, thiếu rõ ràng và còn có nhiều cách hiểu khác nhau. Những hạn chế, bất cập của Pháp lệnh nêu trên đã làm giảm hiệu quả giải quyết các vụ án hành chính của Tòa án, gây trở ngại cho người dân khởi kiện vụ án hành chính để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình. Với chính sách mở cửa, hội nhập kinh tế, cùng với việc Việt Nam đã là thành viên của nhiều điều ước quốc tế và đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) thì việc pháp điển hóa quy định của pháp luật tố tụng để giải quyết các khiếu kiện hành chính, cụ thể hóa các cam kết của Việt Nam là rất cần thiết. Ngày 02/6/2005, Bộ chính trị đã ban hành Nghị quyết số 49 – NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2010; trong đó một trong các nhiệm vụ được xác định là: “Mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với các khiếu kiện hành chính tại Tòa án; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham
  • 8. 2 gia tố tụng, đảm bảo sự bình đẳng giữa công dân với các cơ quan công quyền trước Tòa án” [6]. Để phù hợp với Nghị quyết của Bộ chính trị, Quốc hội đã ban hành Luật tố tụng hành chính (sau đây viết là Luật TTHC), có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2011. Khác với Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính trong việc xác định những loại việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, nay Luật TTHC không quy định theo hướng liệt kê 21 loại vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án mà quy định theo hướng loại trừ những vụ việc không thuộc thẩm quyền của Tòa án, số còn lại sẽ do Tòa án giải quyết. Theo đó, thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính đã được mở rộng rất nhiều, về nguyên tắc tất cả các Quyết định hành chính (sau đây viết là QĐHC), hành vi hành chính (sau đây viết là HVHC) đều có thể trở thành đối tượng xét xử của Tòa hành chính, trừ một vài ngoại lệ - những loại việc không thuộc thẩm quyền của Tòa án bao gồm: các QĐHC, HVHC thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo danh mục do Chính phủ quy định và các QĐHC, HVHC mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức. Quy định như trên của Luật TTHC là bước ngoặt trong việc ghi nhận và hiện thực hóa quyền được khởi kiện của công dân đối với QĐHC, HVHC mà theo họ các QĐHC, HVHC đó xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp của họ. Tuy nhiên, để việc hiểu và áp dụng đúng quy định trên trên thực tế không phải lúc nào cũng được dễ dàng và thuận lợi cho mỗi công dân, tổ chức khi thực hiện quyền khởi kiện của mình. Mặt khác, quy định trên cũng chưa được hướng dẫn, xác định rõ ràng, cụ thể các QĐHC, HVHC nào thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao và các QĐHC, HVHC mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức? Tại sao chỉ được khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân mà không được khiếu kiện danh sách ứng cử?...
  • 9. 3 Để trả lời các câu hỏi đó, rất cần những nghiên cứu cập nhật về thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính ở Việt Nam. Nói cách khác, việc nghiên cứu vấn đề này sẽ góp phần nhất định cho việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn và hoàn thiện pháp luật trong tương lai. Do đó tác giả chọn “Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính theo Luật Tố tụng hành chính Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Ở Việt Nam, việc nghiên cứu về thẩm quyền xét xử vụ án hành chính là một đề tài không mới, thậm chí còn được các học giả đặt ra từ trước khi Tòa hành chính được thành lập. Có thể kể đến các công trình nghiên cứu: “Một số vấn đề về tài phán hành chính ở Việt Nam” - PTS. Lê Bình Vọng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994; “Tài phán hành chính ở Việt Nam”- PTS. Đinh Văn Mậu và PTS. Phạm Hồng Thái, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1995. Những công trình nghiên cứu này chủ yếu phân tích và đưa ra những nhận định về việc xây dựng một mô hình thích hợp để giải quyết khiếu kiện hành chính ở Việt Nam. Sau khi Tòa hành chính được thành lập vào năm 1995, các công trình nghiên cứu tập trung vào việc đánh giá tính hiệu quả, sự phù hợp của thiết chế Tòa án trong việc giải quyết các khiếu kiện hành chính. Tiêu biểu là một số công trình nghiên cứu như: “Một số vấn đề về đổi mới cơ chế giải quyết khiếu kiện hành chính ở Việt Nam”- TS. Nguyễn Văn Thanh và LG. Đinh Văn Minh, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2004; “Tài phán hành chính trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay” - Nguyễn Cảnh Hợp, chủ biên PGS.TS Nguyễn Như Phát, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2010. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu này nghiên cứu về tổng thể quy chế giải quyết khiếu nại, khiếu kiện hành chính, bao gồm cả trình tự, thủ tục và kỹ năng giải quyết vụ việc hành chính; và cả hệ thống tài
  • 10. 4 phán hành chính, mà Tòa án là cơ quan giải quyết các khiếu kiện, cùng với các cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại hành chính. Một số công trình chỉ tập trung nghiên cứu về thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của Tòa án, như: “Thẩm quyền xét xử khiếu kiện hành chính của Tòa án” - Nguyễn Thanh Bình, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2004; Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Mạnh Hùng về “Thẩm quyền xét xử hành chính của Tòa án nhân dân”. Ngoài các công trình nghiên cứu tiêu biểu kể trên, vấn đề thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của Tòa án cũng được đặt ra trong các bài đăng trên báo, tạp chí. Tuy nhiên các công trình trên hoặc là nghiên cứu về quy chế xét xử hành chính một cách chung, toàn diện; hoặc nghiên cứu về thẩm quyền xét xử hành chính của Tòa án nhưng không đảm bảo tính mới vì đã được nghiên cứu, công bố trước khi Luật TTHC được ban hành. Do vậy, tác giả tin tưởng rằng công trình nghiên cứu về “Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính theo Luật tố tụng hành chính Việt Nam” này là một đóng góp mới vào hoạt động nghiên cứu trong lĩnh vực này tại Việt Nam. 3. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật TTHC, thực tiễn xét xử của Tòa án, mục đích của luận văn nhằm làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn, bản chất, nội dung của chế định thẩm quyền của Tòa hành chính, chỉ ra những điểm không hợp lý, những vướng mắc khi áp dụng chúng, qua đó đề xuất những giải pháp hoàn thiện các quy định của Luật TTHC về thẩm quyền của Tòa hành chính trong hoạt động xét xử vụ án hành chính. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên luận văn có nhiệm vụ: - Phân tích những vấn đề lý luận để làm rõ các quan niệm, quan điểm khoa học, nhận thức chung về thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính trong TTHC; lý giải những căn cứ để quy định thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính;
  • 11. 5 - Phân tích các quy định pháp luật về thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính trước khi ban hành Luật TTHC và đặc biệt kể từ năm 2010 – sau khi Luật TTHC ra đời; - Đánh giá thực tiễn áp dụng các quy đi ̣nh pháp lý này trong ho ạt động giải quyết vụ án hành chính ở Việt Nam, đưa ra những đề xuất nhằm ứ ng dụng tốt hơn cácquy đi ̣nh pháp lý này; - Đề xuất những giải pháp hoàn thiện và bảo đảm thực hiện các quy định của Luật TTHC về thẩm quyền của Tòa hành chính. 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Trên cơ sở các quy định của pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật về hành chính nói riêng, đề tài tập trung phân tích và làm rõ về thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính theo Luật TTHC Việt Nam. Trong phạm vi nghiên cứu, đề tài nghiên cứu về thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, không nghiên cứu về cơ cấu tổ chức, quản lý, hoạt động của Tòa hành chính, cũng không nghiên cứu về trình tự, thủ tục giải quyết, xét xử của Tòa hành chính hay thẩm quyền của Hội đồng xét xử trong giải quyết vụ án hành chính. Đồng thời, đề tài chủ yếu tập trung làm rõ thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính được quy định trong Luật TTHC, theo đó, phân tích làm rõ các quy định trong Luật TTHC và các văn bản hướng dẫn Luật TTHC, không đi sâu nghiên cứu các quy phạm pháp luật khác. Việc phân tích, đánh giá các quy phạm pháp luật khác có liên quan chỉ nhằm làm rõ về thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính theo quy định của Luật TTHC. 6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn là triết học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền về cải cách tư pháp và cải cách nền hành chính quốc gia.
  • 12. 6 Việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào quy định của pháp luật về thẩm quyền của Tòa án trong xét xử hành chính, các số liệu thống kê về xét xử, v.v... để đánh giá, chỉ rõ những bất cập trong các quy định của pháp luật để kiến nghị bổ sung, sửa đổi cho phù hợp. Một cách khái quát, đề tài sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng để làm rõ đối tượng nghiên cứu của đề tài. Trên cơ sở đó, đối tượng nghiên cứu của đề tài được nghiên cứu một cách khách quan, theo đúng bản chất vốn có của nó, trong mối liên hệ của nó với các nội dung khác có liên quan. Để làm rõ các nội dung cần nghiên cứu, đề tài sử dụng phương pháp tổng hợp và phương pháp phân tích, để từ các quy định pháp luật về hành chính nói chung và Luật TTHC nói riêng, có được cái nhìn tổng quát cũng như chi tiết về thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính. Phương pháp phán đoán và phương pháp suy luận cũng được sử dụng để làm rõ những vấn đề có tính logic, hoặc chứng minh một giả thuyết được đặt ra để làm sáng tỏ các vấn đề liên quan đến đối tượng nghiên cứu của đề tài. Đồng thời đề tài cũng sử dụng phương pháp so sánh để làm rõ những điểm mới trong Luật TTHC quy định về thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, so với các văn bản ban hành trước đây. 7. Kết cấu của đề tài Ngoài phần Lời nói đầu, phần thống kê các thuật ngữ thường gặp trong đề tài, danh mục các tài liệu tham khảo và phần kết luận cuối cùng, nội dung chính của đề tài gồm ba phần được chia thành 3 chương cụ thể như sau: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính. Chương 2: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính theo Luật tố tụng hành chính Việt Nam và thực tiễn áp dụng. Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện Luật tố tụng hành chính về thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính.
  • 13. 7 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ CỦA TÒA HÀNH CHÍNH 1.1. Khái niệm thẩm quyền xét xử của tòa hành chính 1.1.1. Khái niệm thẩm quyền xét xử của Tòa án 1.1.1.1. Thẩm quyền Theo Từ điển tiếng Việt “Thẩm quyền là quyền xem xét để kết luận và định đoạt một vấn đề theo pháp luật” [82, tr.922] Theo Từ điển Luật học thì Thẩm quyền được hiểu là: “Quyền chính thức được xem xét để kết luận và định đoạt, quyết định một vấn đề” [79, tr.701]. Theo các khái niệm này, thẩm quyển gắn liền với quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định cho cơ quan nhà nước, người nắm giữ những chức vụ lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan đó để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của họ. Mỗi cơ quan Nhà nước có chức năng và thẩm quyền được phân định theo lĩnh vực, ngành, khu vực hành chính, cấp hành chính. Thực hiện chức năng này, Tòa án có thẩm quyền xét xử. 1.1.1.2. Thẩm quyền xét xử của Tòa án Trước hết, xét xử là hoạt động xem xét, đánh giá bản chất pháp lý của vụ việc nhằm đưa ra một phán xét về tính chất, mức độ pháp lý của vụ việc, từ đó nhân danh Nhà nước đưa ra một phán quyết phù hợp với bản chất, mức độ trái hay không trái pháp luật của vụ việc.... Theo pháp luật hiện hành, Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân các địa phương, các Tòa án quân sự và các Tòa án khác do luật định là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam [79, tr.869-870]. Nghĩa là, thẩm quyền xét xử là thẩm quyền chuyên biệt của Tòa án mà
  • 14. 8 không thuộc bất kỳ một cơ quan Nhà nước nào khác. Đó là quyền của Tòa án được xem xét, đánh giá, đưa ra phán xét về tính chất, mức độ pháp lý của một vụ việc, nhưng quan trọng nhất chính là được nhân danh Nhà nước đưa ra một phán quyết để giải quyết vụ việc về mặt pháp lý. Theo Từ điển Luật học “Thẩm quyền xét xử của Tòa án là quyền xem xét và định đoạt trong hoạt động xét xử của Tòa án theo quy định của pháp luật” [79, tr.701]. Để làm rõ khái niệm này, Từ điển Luật học đưa ra hai cách hiểu cụ thể: Thứ nhất, “thẩm quyền xét xử của Tòa án” được hiểu là một quyền chuyên biệt được trao riêng cho Tòa án, khác với thẩm quyền của các cơ quan khác. Thẩm quyền xét xử là quyền chung của các Tòa án không phân biệt phân cấp, phân vùng lãnh thổ. Theo cách hiểu này, thẩm quyền xét xử được khẳng định là thẩm quyền chuyên biệt của Tòa án, mà không một cơ quan Nhà nước nào khác có thẩm quyền này. Thứ hai, “thẩm quyền xét xử của Tòa án” còn được hiểu là thẩm quyền riêng của từng Tòa án cụ thể được phân định theo cấp, theo lãnh thổ và theo vụ việc. Theo đó, phân định theo cấp xét xử có: thẩm quyền xét xử sơ thẩm và thẩm quyền xét xử phúc thẩm; phân định theo vụ việc có thẩm quyền của Tòa án xét xử vụ án, vụ việc dân sự, hình sự, hành chính, hôn nhân gia đình...; phân định theo lãnh thổ có vụ án, vụ việc thuộc thẩm quyền xét xử của từng Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, của từng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương theo địa giới hành chính [79, tr.701-702]. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài “Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính theo Luật tố tụng hành chính Việt Nam”, tác giả làm rõ thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính theo cách hiểu thứ hai. Nghĩa là ở đây,
  • 15. 9 khái niệm “thẩm quyền xét xử” được phân tích dựa trên các quy định của pháp luật nhằm làm rõ thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính theo vụ việc, theo cấp (có thẩm quyền xét xử theo thủ tục sơ thẩm và phúc thẩm), theo lãnh thổ (phân biệt thẩm quyền của các Tòa hành chính trong phạm vi địa giới hành chính). Như vậy, một cách khái quát, thẩm quyền xét xử của Tòa án có thể hiểu là quyền của Tòa án được xác định trên cơ sở phân định vụ việc, cấp xét xử, trong phạm vi địa giới hành chính nhất định, nhằm thực hiện việc xem xét, đánh giá, đưa ra kết luận và định đoạt các vấn đề pháp lý của vụ việc thông qua hoạt động xét xử. 1.1.2. Khái niệm Tòa hành chính Ngày 28/10/1995, Tòa hành chính được thành lập trong hệ thống Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp tỉnh bên cạnh các Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa kinh tế, Tòa lao động, trên cơ sở việc Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa IX thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Tòa án nhân dân. Trải qua quá trình hoạt động từ khi thành lập cho đến nay, việc thành lập Tòa hành chính đã góp phần thúc đẩy quá trình cải cách nền hành chính Nhà nước, buộc các cơ quan Nhà nước phải tự nâng cao năng lực quản lý và ý thức trách nhiệm; làm cho các cơ quan quản lý hành chính phải cân nhắc, thận trọng hơn khi ban hành một Quyết định hành chính hay thực hiện hành vi hành chính. Tòa hành chính là “Tòa chuyên trách của Tòa án nhân dân tối cao, tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có nhiệm vụ giải quyết các vụ án hành chính theo quy định của pháp luật” [79, tr.775]. Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 không đưa ra định nghĩa thế nào là Tòa hành chính, nhưng quy định về việc Tòa hành chính tại Điều 18 về cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân tối cao và Điều 27 về cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương [35].
  • 16. 10 Bằng khái niệm được giải thích trong Từ điển Luật học như nêu trên và quy định tại Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 [35, Điều 18, 27], Tòa hành chính có những đặc điểm cơ bản như sau: - Tòa hành chính là tòa chuyên trách của Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, mà không có ở Tòa án quân sự, Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; - Tòa hành chính có nhiệm vụ giải quyết các vụ án hành chính. Ở đây cần làm rõ, thế nào là vụ án hành chính. Có quan điểm cho rằng, vụ án hành chính là vụ án phát sinh tại Tòa hành chính do cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện ra Tòa án để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Song, cách hiểu này chưa thể hiện được đặc điểm của vụ án hành chính, đồng thời cho rằng việc vụ án hành chính phát sinh tại “Tòa hành chính” là khá phiến diện, chưa đầy đủ. Theo khái niệm “vụ án” được định nghĩa trong Từ điển Luật học thì vụ án là: Một vụ việc có dấu hiệu trái pháp luật mang tính chất hình sự hoặc tranh chấp giữa các chủ thể pháp luật được đưa ra tòa án hoặc cơ quan trọng tài giải quyết. Vụ việc thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án; tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan trọng tài. Theo Luật tổ chức tòa án nhân dân, tòa xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh doanh, thương mại, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật [79, tr.860]. Theo đó, vụ án hành chính là loại vụ án phát sinh trong lĩnh vực quản lý hành chính Nhà nước, do các cá nhân, tổ chức khởi kiện tại Tòa án nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Như vậy, một cách khái quát, Tòa hành chính là các tòa chuyên trách của Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, có nhiệm vụ giải quyết các vụ án hành chính.
  • 17. 11 Trong khoa học pháp lý, khái niệm Tòa hành chính thường được hiểu một cách “tương đối”: nghĩa là, thông thường khi nói “Tòa hành chính” các học giả thường nhằm đến các Tòa án có thẩm quyền xét xử vụ án hành chính. Theo đó, bao gồm cả hệ thống các Tòa án nhân dân cấp huyện, quận, thị xã – cũng có thẩm quyền xét xử vụ án hành chính. Khi nghiên cứu Luận văn này, tác giả cũng nghiên cứu về thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính theo cách hiểu thông thường. Do vậy, trong Luận văn này, khái niệm Tòa hành chính được hiểu là hệ thống Tòa án được tổ chức ở các cấp (Tòa án nhân dân cấp huyện, cấp tỉnh và Tòa án nhân dân tối cao) có thẩm quyền xét xử vụ án hành chính. 1.1.3. Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính Theo khái niệm thẩm quyền xét xử của Tòa án đã được phân tích trên đây, cũng hiểu rằng, thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính cũng mang đặc tính chuyên biệt so với các cơ quan Nhà nước khác không thuộc hệ thống Tòa án nhân dân. Với chức năng là một tòa chuyên trách trong hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân, thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính có thể được tiếp cận ở nhiều bình diện khác nhau như sau: Thứ nhất, theo tiêu chí về vụ việc: Tòa hành chính có thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính. Điều này đã được làm rõ trong khái niệm về Tòa hành chính. Trong các nội dung dưới đây của luận văn phân tích và làm rõ nhiều nhóm đối tượng khác nhau thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, gồm: Quyết định hành chính, hành vi hành chính, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, Quyết định kỷ luật buộc thôi việc… Nhưng một cách khái quát thì các nhóm đối tượng này đều được coi là những vụ án hành chính. Cho nên, thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính theo phân loại vụ việc, chính là quyền của Tòa
  • 18. 12 hành chính được xem xét, đánh giá, đưa ra kết luận và định đoạt các vấn đề pháp lý trong vụ án hành chính. Thứ hai, theo tiêu chí về cấp xét xử: Tòa hành chính có thẩm quyền xét xử theo thủ tục sơ thẩm và thủ tục phúc thẩm các vụ án hành chính. Tòa hành chính xét xử theo thủ tục sơ thẩm những loại vụ việc nào và xét xử theo thủ tục phúc thẩm những loại vụ việc nào sẽ được làm rõ trong những phần sau của luận văn, song cần khẳng định rằng, Tòa hành chính có thẩm quyền xét xử theo cả thủ tục sơ thẩm và thủ tục phúc thẩm các vụ án hành chính. Thứ ba, theo địa giới hành chính: Tòa án nhân dân cấp huyện và cấp tỉnh xét xử những vụ án hành chính phát sinh trên cùng địa giới hành chính nơi Tòa án có trụ sở [44, Điều 29, 30]), Tòa án nhân dân tối cao xét xử những vụ án hành chính trong phạm vi cả nước. Như vậy, thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính cũng được hiểu là quyền của Tòa hành chính được xác định theo cấp xét xử, trong phạm vi địa giới hành chính nhất định, nhằm thực hiện việc xem xét, đánh giá, đưa ra kết luận và định đoạt các vấn đề pháp lý của vụ án hành chính thông qua hoạt động xét xử. 1.2. Những căn cứ để xác định thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính 1.2.1. Căn cứ vào tính đặc thù của đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính Đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính (sẽ được làm rõ trong Chương 2 của Luận văn) là những QĐHC, HVHC, Quyết định kỷ luật buộc thôi việc cán bộ công chức, khiếu kiện giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh. Nghĩa là, về bản chất, đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính là những hoạt động trong hoạt động quản lý hành chính Nhà nước. Hầu hết các đối tượng này cũng đồng thời là đối tượng trong giải quyết
  • 19. 13 khiếu nại hành chính. Trong đó, các cơ quan Nhà nước là chủ thể ban hành, thực hiện các đối tượng này, đồng thời lại cũng là chủ thể giải quyết các vấn đề, tranh chấp phát sinh từ các đối tượng đó, mà như người ta vẫn nói nôm na là “vừa đá bóng vừa thổi còi”. Điều này tạo ra những bất cập, không đảm bảo tính khách quan, minh bạch, cũng như đảm bảo được các quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể trong quan hệ hành chính. Theo đó, đặt ra vấn đề là khi các chủ thể phát hiện ra những nội dung của các đối tượng này xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ, thì các đối tượng này cần phải được xem xét, giải quyết bằng một cơ chế độc lập hơn, khách quan hơn, theo một trình tự thủ tục riêng biệt. Và hình thức tài phán đáp ứng được các yêu cầu cần thiết để xem xét, giải quyết các vụ việc liên quan đến các đối tượng này, chính là giải quyết tại Tòa án. Do vậy mà các đối tượng này (QĐHC, HVHC, Quyết định kỷ luật buộc thôi việc cán bộ công chức…) trở thành đối tượng xét xử trong vụ án hành chính, thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính. Tính đặc thù của các đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định thẩm quyền của Tòa hành chính. Bởi các đối tượng này chính là yếu tố chủ yếu để xác định một vụ việc là một khiếu kiện hành chính, chứ không phải loại vụ án nào khác. Và theo đó, là đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, chứ không phải Tòa dân sự, hình sự, kinh tế, lao động… 1.2.2. Căn cứ vào mục tiêu, định hướng của Nhà nước trong phát triển tư pháp, quản lý hành chính Trong văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, tại mục 2 “Kiện toàn hợp lý tổ chức bộ máy nhà nước” thuộc phần VII về “Đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh”, Đảng đã khẳng định cần “nâng cao vai trò của Tòa hành chính trong việc giải quyết khiếu kiện hành chính” [3, mục 2].
  • 20. 14 Ngày 02/6/2005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó một trong các nhiệm vụ được xác định đó là: ... mở rộng thẩm quyền xét xử của Toà án đối với các khiếu kiện hành chính; đổi mới mạnh mẽ thủ tục giải quyết các khiếu kiện hành chính tại Toà án; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng, bảo đảm sự bình đẳng giữa công dân và cơ quan công quyền trước Toà án... [6]. Theo những quan điểm chỉ đạo này thì thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân có xu hướng được mở rộng, đồng thời tạo thuận lợi cho công dân tham gia Tố tụng hành chính, bảo đảm sự bình đẳng giữa công dân và cơ quan công quyền trước Tòa án. Xuất phát từ những ưu thế của cơ chế giải quyết tranh chấp hành chính tại Tòa án so với các cơ chế giải quyết khác, quan điểm chỉ đạo về việc mở rộng thẩm quyền xét xử các tranh chấp hành chính của Tòa án nhân dân là quan điểm đúng đắn trong thời kỳ hiện nay. 1.3. Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính trước khi ban hành luật tố tụng hành chính Trước đây, việc giải quyết khiếu nại do các cấp quản lý hành chính và tổ chức Thanh tra giải quyết. Các cơ quan hành chính Nhà nước, công chức Nhà nước vừa là người bị khiếu kiện, vừa là người giải quyết (xét xử) nên không đảm bảo tính khách quan, dân chủ và có hiệu quả. Vì vậy, đơn thư khiếu nại bị đùn đẩy, tồn đọng, người khiếu nại bị oan ức kéo dài. Nên đặt ra vấn đề cần phải tổ chức Toà án hành chính để xét xử những khiếu kiện hành chính, đảm bảo xét xử nhanh chóng, có hiệu quả để củng cố lòng tin của nhân dân đối với chính quyền, đồng thời góp phần chống quan liêu, cửa quyền, tham nhũng trong bộ máy hành chính nhà nước.
  • 21. 15 Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII (23/01/1995) đã quyết định về việc thành lập Toà hành chính trong hệ thống Toà án nhân dân. Ngày 28/10/1995, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, khoá IX, kỳ họp thứ 8 đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật tổ chức Toà án nhân dân, trong đó giao cho Toà án nhân dân chức năng xét xử những vụ án hành chính. Như vậy, một thiết chế tài phán mới - thiết chế bảo vệ hữu hiệu quyền hợp pháp của công dân trong mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân đã chính thức được thành lập [2]. Do vậy, với mục đích nghiên cứu về thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, tác giả chỉ tập trung phân tích những quy định, những đặc trưng của các quy phạm pháp luật từ năm 1996 đến nay. Cùng với sự thành lập Tòa hành chính, Ủy ban thường vụ quốc hội cũng ban hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính làm cơ sở cho hoạt động xét xử các vụ án hành chính. Trên cơ sở các lần sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, tác giả chia thành 03 giai đoạn: 1.3.1. Giai đoạn 1996 đến 1998 Khái niệm Tòa hành chính ở Việt Nam xuất hiện lần đầu trong Luật sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức Tòa án nhân dân do Quốc hội thông qua ngày 28.5.1995 [32]. Tại khoản 3 Điều 1 (bổ sung khoản 2 Điều 17) và khoản 6 Điều 1 (bổ sung khoản 1 Điều 27) của Luật này thể hiện Tòa hành chính là một tòa chuyên trách của Tòa án nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương [32, Điều 1]. Cũng theo quy định tại Điều 1 của Luật sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức Tòa án nhân dân được Quốc hội thông qua năm 1995 thì thẩm quyền của Tòa hành chính Tòa án nhân dân tối cao là: Sơ thẩm đồng thời chung thẩm những vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng; Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản
  • 22. 16 án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng; thẩm quyền của Tòa hành chính Tòa án nhân dân cấp tỉnh là: Sơ thẩm những vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng; Phúc thẩm những vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp dưới bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng [32, Điều 1]; còn thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện thì vẫn giữ nguyên như trong Điều 32 Luật tổ chức Tòa án nhân dân được ban hành năm 1992 “Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có thẩm quyền sơ thẩm những vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng” [31, Điều 32]. Nghĩa là, thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính theo Luật này được phân định theo cấp xét xử. Theo đó, Tòa hành chính Tòa án nhân dân tối cao có thẩm quyền xét xử sơ thẩm, chung thẩm, thẩm quyền xét lại Bản án, quyết định đã có hiệu lực theo thủ tục Giám đốc thẩm, Tái thẩm; Tòa hành chính Tòa án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có thẩm quyền xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm; và Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền xét xử sơ thẩm. Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính trong giai đoạn này còn được quy định trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính do Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành ngày 21/5/1996 [74] (sau đây gọi là Pháp lệnh năm 1996). Chương II của Pháp lệnh này quy định về thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết các vụ án hành chính. Cụ thể: Tại Điều 11 Pháp lệnh năm 1996 quy định về những vụ án hành chính thuộc thẩm quyền của Tòa án, gồm: 1- Khiếu kiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính, quyết định áp dụng biện pháp buộc tháo gỡ công trình xây dựng trái phép đối với nhà ở, công trình, vật kiến trúc kiên cố; 2- Khiếu kiện quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính với hình thức giáo dục
  • 23. 17 tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục, đưa vào cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính; 3- Khiếu kiện quyết định về buộc thôi việc, trừ các quyết định về buộc thôi việc trong Quân đội nhân dân và các quyết định về sa thải theo quy định của Bộ luật lao động; 4- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc cấp giấy phép, thu hồi giấy phép trong lĩnh vực về xây dựng cơ bản, hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản lý đất đai; 5- Khiếu kiện quyết định trưng dụng, trưng mua tài sản, quyết định tịch thu tài sản; 6- Khiếu kiện quyết định về thu thuế, truy thu thuế; 7- Khiếu kiện quyết định về thu phí, lệ phí; 8- Khiếu kiện các quyết định hành chính, hành vi hành chính khác theo quy định của pháp luật [74, Điều 11]. Tại Điều 12 Pháp lệnh năm 1996 quy định về thẩm quyền xét xử theo địa giới hành chính: 1- Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là Toà án cấp huyện) giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những khiếu kiện hành chính đối với quyết định hành chính của cơ quan nhà nước từ cấp huyện trở xuống trên cùng lãnh thổ và quyết định hành chính, hành vi hành chính của cán bộ, viên chức của cơ quan nhà nước đó. 2- Toà án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là Toà án cấp tỉnh) giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những khiếu kiện hành chính đối với: a) Quyết định hành chính của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và quyết định hành chính, hành vi hành chính của Thủ trưởng các cơ quan đó mà người khởi kiện có nơi cư
  • 24. 18 trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng một lãnh thổ; b) Quyết định hành chính của cơ quan nhà nước cấp tỉnh trên cùng lãnh thổ và quyết định hành chính, hành vi hành chính của cán bộ, viên chức của cơ quan nhà nước đó; c) Quyết định hành chính của các đơn vị chức năng của cơ quan nhà nước quy định tại điểm a khoản 2 Điều này và quyết định hành chính, hành vi hành chính của cán bộ, viên chức của các đơn vị chức năng đó mà người khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cũng lãnh thổ; Trong trường hợp cần thiết, Toà án cấp tỉnh có thể lấy lên để giải quyết vụ án hành chính thuộc thẩm quyền của Toà án cấp huyện đối với khiếu kiện quyết định hành chính của Uỷ ban nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện có liên quan đến nhiều đối tượng, phức tạp hoặc trong trường hợp các Thẩm phán của Toà án cấp huyện đó đều thuộc trường hợp phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi. 3- Toà án nhân dân tối cao giải quyết theo thủ tục sơ thẩm đồng thời chung thẩm những khiếu kiện hành chính thuộc thẩm quyền của Toà án cấp tỉnh mà Toà án nhân dân tối cao lấy lên để giải quyết đối với khiếu kiện quyết định hành chính của cơ quan nhà nước quy định tại điểm a khoản 2 Điều này và quyết định hành chính, hành vi hành chính của Thủ trưởng các cơ quan đó liên quan đến nhiều tỉnh, phức tạp hoặc trong trường hợp khó xác định được thẩm quyền của Toà án cấp tỉnh nào; khiếu kiện quyết định hành chính của Uỷ ban nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh liên quan đến nhiều đối tượng, phức tạp hoặc trong trường hợp các Thẩm phán của Toà án cấp tỉnh đó đều thuộc trường hợp phải từ chối tiến hành tố tung hoặc bị thay đổi [74, Điều 12].
  • 25. 19 Theo đó, tác giả có một vài nhận định về các quy định về thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính trong Pháp lệnh năm 1996 như sau: - Một là, các nhóm vụ việc được coi là thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính được quy định bằng phương pháp liệt kê. Cụ thể, theo Điều 11 của Pháp lệnh năm 1996 được trích dẫn trên đây, có 08 nhóm vụ việc thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính. Ưu điểm của phương pháp liệt kê nói chung và đối với quy định tại Điều 11 nêu trên nói riêng, đó là, từng nhóm vụ việc hành chính thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án được quy định một cách cụ thể, được gọi tên một cách chính xác, dẫn đến việc rất dễ dàng để xác định một vụ việc có thuộc thẩm quyền của Tòa hành chính hay không. Tuy nhiên, hạn chế của việc liệt kê các nhóm vụ việc thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, đó là, làm giới hạn thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính. Rất nhiều vụ việc thuộc lĩnh vực hành chính nhưng không thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án. Việc qua hai lần sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh năm 1996 đều điều chỉnh tăng số nhóm vụ việc thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính chính là minh chứng cho hạn chế này. - Hai là, Tòa án chỉ có thẩm quyền xét xử vụ án hành chính khi vụ việc đã được giải quyết khiếu nại bởi cơ quan Nhà nước, người có QĐHC hoặc có HVHC được cho là trái pháp luật (theo Điều 2 của Pháp lệnh năm 1996 [74, Điều 2]). - Ba là, không chỉ giới hạn thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính trong một số nhóm vụ việc cụ thể, Pháp lệnh năm 1996 có những quy định nhằm chuyển giao thẩm quyền thụ lý, xét xử của Tòa án đối với các vụ án hành chính sang cơ quan hành chính Nhà nước: Nếu có nhiều người, trong đó có người khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án có thẩm quyền, có người khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo thì việc giải
  • 26. 20 quyết thuộc thẩm quyền của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo [74, Điều 13]. Quy định này không những làm cho việc thụ lý, xét xử của Tòa án bị hạn chế mà còn xâm phạm đến quyền được yêu cầu Tòa án bảo vệ của công dân, tổ chức. Tuy nhiên, dù còn tồn tại nhiều hạn chế, song cần phải nhìn nhận một cách khách quan, việc ban hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã tạo điều kiện tốt cho các Tòa án giải quyết các vụ án hành chính, góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo vệ quyền con người, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Trong ba năm 1996, 1997, 1998, ngành Tòa án đã thụ lý, giải quyết nhiều vụ án hành chính hơn so với giai đoạn trước đây. Cụ thể: Năm 1996, thụ lý 535 vụ án hành chính; Năm 1997, thụ lý 645 vụ án hành chính [1, tr.85]; Năm 1998, thụ lý mới 282 vụ, đã xét xử 227 vụ, đạt tỷ lệ 80,5% [69, tr.104]. 1.3.2. Giai đoạn 1998 đến 2006 Ngày 25/12/1998, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính [75] (sau đây gọi là Pháp lệnh năm 1998). Theo đó, thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính được quy định trong 10 nhóm vụ việc, thay vì 08 nhóm vụ việc như quy định tại Điều 11 Pháp lệnh năm 1996. Tuy nhiên, về bản chất, thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính theo Pháp lệnh năm 1998 không hề được mở rộng thêm. Bởi lẽ, thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính đối với nhóm vụ việc tại khoản 1 Điều 11 Pháp lệnh năm 1996 thì được tách thành hai nhóm vụ việc tại khoản 1 và khoản 2 Điều 11 Pháp lệnh năm 1998 “1-Khiếu kiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính” và “2-Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng biện pháp buộc tháo dỡ nhà ở, công trình, vật kiến trúc kiên cố khác” [75, Điều 11]. Tương tự như vậy, nhóm vụ việc quy định tại khoản 4 Pháp
  • 27. 21 lệnh năm 1996 thì được tách thành hai nhóm vụ việc tại khoản 5 và khoản 6 Điều 11 Pháp lệnh năm 1998 “5-Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai” và “6-Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc cấp giấy phép,thu hồi giấy phép về xây dựng cơ bản, sản xuất, kinh doanh” [75, Điều 11]. Do vậy, dù về hình thức, nhóm các vụ việc thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính đã tăng từ 08 nhóm vụ việc lên 10 nhóm vụ việc qua lần sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính vào năm 1998. Nhưng thực chất thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính không hề được mở rộng hơn. Mặc dù thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính ở giai đoạn này vẫn bị giới hạn, không được mở rộng thêm so với từ năm 1996, nhưng đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính lại được giải thích một cách chi tiết hơn. Sự chi tiết, rõ ràng hơn của các đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính không chỉ biểu hiện ở việc sửa đổi, bổ sung các khái niệm về QĐHC, HVHC... tại Điều 4 của Pháp lệnh. Mà còn bởi việc ban hành Nghị quyết số 03/2003/NQ-HĐTP ngày 18/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính [17]. Sự ra đời của văn bản này đã làm giảm đi đáng kể những khó khăn, lúng túng của các Tòa án trong quá trình thụ lý, giải quyết các vụ án hành chính. Đặc biệt, bằng việc quy định rõ tại mục 3 của Nghị quyết về việc “quyết định hành chính là đối tượng khiếu kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án hành chính phải là quyết định hành chính lần đầu” [17, mục 3]. Quy định này đã làm rõ về QĐHC là đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính. Bởi, khi giải quyết, xử lý những việc cụ thể thuộc thẩm quyền của mình, cơ quan, tổ chức hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức thường ra nhiều quyết định trên cơ sở tự nhận thấy cần thiết hoặc trên cơ sở
  • 28. 22 có khiếu nại của công dân, quyết định sau hủy bỏ hoặc thay thế quyết định trước. Vì thế, cả về phía người khiếu kiện, cả về phía Tòa án đều gặp khó khăn trong việc xác định đâu là đối tượng khiếu kiện vụ án hành chính và những quyết định nào cần phải được Tòa án xem xét tính hợp pháp. Theo đó, trên cơ sở hướng dẫn cụ thể tại mục 3 nghị quyết nêu trên, xác định được QĐHC là đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính phải là quyết định được ban hành để xử lý, giải quyết vụ việc cụ thể, chứ không phải các Quyết định giải quyết khiếu nại. Cho nên, không khó để lý giải nguyên nhân số vụ án hành chính được Tòa án thụ lý, giải quyết trong những năm đầu của giai đoạn này ít có sự chuyển biến so với giai đoạn trước (Năm 1999, giải quyết 319 vụ án trong tổng số 408 vụ án hành chính đã thụ lý; Năm 2000, 419/539 vụ... [58]), nhưng lại gia tăng mạnh mẽ kể từ năm 2003 (Năm 2004, Các Toà án cấp sơ thẩm đã thụ lý 1.172 vụ, đã giải quyết 1.006 vụ; Các Toà án cấp phúc thẩm đã thụ lý 552 vụ, đã giải quyết được 498 vụ; xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, đã thụ lý 22 vụ; đã giải quyết 20 vụ [59]; Năm 2005, Toà án nhân dân các cấp đã giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm và giám đốc thẩm được 1.201 vụ trong tổng số 1.361 vụ [60]...). 1.3.3. Giai đoạn 2006 đến khi ban hành Luật tố tụng hành chính Ngày 05/4/2006, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính [78] (sau đây gọi là Pháp lệnh năm 2006). Qua lần sửa đổi, bổ sung này, thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính đã thực sự được mở rộng cả về lượng và chất. Cụ thể, theo quy định tại Điều 11 của Pháp lệnh năm 2006 thì có 22 nhóm vụ việc thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, tăng thêm 12 nhóm vụ việc gồm:
  • 29. 23 2. Khiếu kiện quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm việc xử lý vi phạm hành chính; 3. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính; 7. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính liên quan đến thương mại hàng hoá quốc tế hoặc trong nước; 8. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính liên quan đến chuyển giao tài chính trong nước và quốc tế, dịch vụ và cung ứng dịch vụ; 12. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ; 13. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong quản lý nhà nước về đầu tư; 14. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hải quan, công chức hải quan; 15. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý hộ tịch; 16. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính đối với việc từ chối công chứng, chứng thực; 18. Khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân; 20. Khiếu kiện quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải quyết khiếu nại đối với quyết định của Ban Chủ nhiệm, Hội đồng khen thưởng, kỷ luật của Đoàn luật sư; 21. Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh [78, Điều 11].
  • 30. 24 Không những vậy, nhóm “các khiếu kiện khác” cũng có sự thay đổi đáng kể. Nếu như theo Pháp lệnh năm 1996, Pháp lệnh năm 1998 thì các khiếu kiện khác được hiểu các khiếu kiện hành chính thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án theo các văn bản pháp luật khác của Việt Nam, thì theo Pháp lệnh năm 2006, thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính còn được mở rộng thêm đối với các khiếu kiện hành chính thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính theo các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Do việc mở rộng một cách đáng kể thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, nên tình hình thụ lý, giải quyết các vụ án hành chính của ngành Tòa án cũng có sự chuyển biến rõ rệt so với giai đoạn trước. Trong năm 2007, toàn ngành Tòa án đã thụ lý 1.926 vụ án hành chính (tăng 694 vụ so với năm 2006) [64]. Năm 2008, Toà án nhân dân các cấp đã thụ lý 1.399 vụ án hành chính; đã giải quyết, xét xử được 1.234 vụ [66]. Tuy nhiên, những hạn chế của Pháp lệnh năm 1996, Pháp lệnh năm 1998 về thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính thì vẫn còn tồn tại trong các quy định của Pháp lệnh năm 2006. Cụ thể: (1) các nhóm vụ việc được coi là thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính được quy định bằng phương pháp liệt kê; (2) thủ tục khiếu nại vẫn là thủ tục bắt buộc trước khi khiếu kiện hành chính tại Tòa án; (3) chuyển giao thẩm quyền thụ lý, xét xử của Tòa án đối với các vụ án hành chính sang cơ quan hành chính Nhà nước, khi cùng một vụ việc mà vừa có yêu cầu giải quyết khiếu nại lần hai tại cơ quan hành chính vừa có yêu cầu khởi kiện tại Tòa án. 1.4. Vài nét về luật tố tụng hành chính Việt Nam Trong giới hạn nghiên cứu của luận văn về “Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính theo Luật tố tụng hành chính Việt Nam”, tác giả không đi sâu vào việc phân tích cụ thể về Luật TTHC mà chỉ làm rõ một vài nội dung mà theo tác giả là cần thiết và liên quan đến đối tượng, mục đích nghiên cứu của luận văn.
  • 31. 25 1.4.1. Sự cần thiết ban hành Luật tố tụng hành chính Có thể nói, từ khi thành lập hệ thống Tòa hành chính và ban hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, số lượng vụ án hành chính mà hệ thống Tòa án nhân dân ở nước ta thụ lý và giải quyết có xu hướng tăng lên, năm sau cao hơn năm trước (như các số liệu thống kê trên đây). Tuy nhiên, số vụ việc khiếu kiện hành chính được thụ lý và giải quyết còn rất khiêm tốn so với số lượng đơn thư khiếu nại, tố cáo mà các cơ quan hành chính nhà nước thụ lý giải quyết. Mỗi năm, cơ quan hành chính nhà nước các cấp phải tiếp nhận và giải quyết hàng chục nghìn vụ khiếu nại. Chỉ tính riêng 03 năm từ 2006 - 2008, các cơ quan hành chính đã nhận được 303 nghìn đơn khiếu nại về gần 235 nghìn vụ việc. Cụ thể, Uỷ ban nhân dân các cấp đã tiếp nhận hơn 214.000 đơn khiếu nại về hơn 182 nghìn vụ việc, các Bộ ngành tiếp nhận gần 89.000 đơn về khoảng 53.000 vụ việc [20]. Điều này cho thấy, pháp luật về tố tụng hành chính, cơ chế tố tụng hành chính cũng như chất lượng giải quyết các vụ án hành chính chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn, chưa tạo được niềm tin cho người dân. Kể từ khi được ban hành và qua hai lần được sửa đổi, bổ sung, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính bộc lộ nhiều hạn chế. Một trong các hạn chế có thể kể đến là việc quy định của Pháp lệnh có sự mâu thuẫn với một số văn bản quy phạm pháp luật khác. Chẳng hạn, trong lĩnh vực quản lý đất đai: theo quy định của Pháp lệnh năm 2006 thì đối với khiếu nại các QĐHC, HVHC về quản lý đất đai, nếu khiếu nại do Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết lần đầu mà không đồng ý thì người khiếu nại chỉ được chọn một trong hai phương thức, hoặc là khởi kiện ra Tòa án, hoặc là khiếu nại tiếp tục đến Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Nếu tiếp tục khiếu nại thì Tòa án sẽ từ chối thụ lý giải quyết. Trong khi đó, theo quy định của Luật khiếu nại, tố cáo thì người khiếu nại được khiếu nại lần hai trước khi khởi kiện vụ án hành chính ra Tòa án.
  • 32. 26 Bên cạnh đó, với việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) vào đầu năm 2007, cũng như là thành viên của nhiều Điều ước quốc tế khác nhau đã khiến cho bối cảnh kinh tế - chính trị - xã hội của Việt Nam có nhiều chuyển biến, các quy định trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính không còn phù hợp để điều chỉnh hoạt động giải quyết các vụ án hành chính nữa. Một trong những điều kiện để Việt Nam được chấp nhận trong liên minh khu vực, cũng như các tổ chức quốc tế, đó là sự phù hợp của pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật về tố tụng hành chính của Việt Nam nói riêng với pháp luật quốc tế. Theo Báo cáo ngày 27/10/2006 của Ban công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO thì: Đại diện của Việt Nam xác nhận thêm rằng sẽ sửa đổi các luật và các quy định trong nước sao cho phù hợp với các yêu cầu của hiệp định WTO về thủ tục và rà soát pháp lý đối với các quyết định hành chính, trong đó bao gồm cả khoản X:3(b) của Hiệp định GATT 1994. Đại diện của Việt Nam cho biết thêm rằng các Toà án chịu trách nhiệm rà soát phải có quan điểm công bằng và độc lập với cơ quan có thẩm quyền ra quyết định hành chính và không có quyền lợi thực chất nào liên quan tới kết quả của vụ việc [4, đoạn 135, tr.66]. Trong khi đó, xét về việc thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính trong các văn bản Pháp lệnh được quy định bằng hình thức liệt kê đã bộc lộ sự lạc hậu, thiếu sót, không phù hợp với bối cảnh mới của đất nước, cũng như hình thức quy định của nhiều nước trên thế giới. Do vậy, việc ban hành Luật TTHC thay thế Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, nhằm bảo đảm tính đồng bộ và thống nhất của hệ thống pháp luật, đảm bảo sự phù hợp hơn nữa của pháp luật về tố tụng hành chính Việt Nam với pháp luật quốc tế, góp phần bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của cá nhân, cơ quan, tổ chức là hết sức cần thiết.
  • 33. 27 1.4.2. Bố cục Luật tố tụng hành chính Luật TTHC gồm 18 chương với 265 Điều, cụ thể như sau: Chương I: "Những quy định chung" (27 Điều từ Điều 1 đến Điều 27); Chương II: "Thẩm quyền của Tòa án" (6 Điều từ Điều 28 đến Điều 33); Chương III: "Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và việc thay đổi người tiến hành tố tụng", (13 Điều từ Điều 34 đến Điều 46); Chương IV: "Người tham gia tố tụng, quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng" (13 Điều từ Điều 47 đến Điều 59); Chương V: "Các biện pháp khẩn cấp tạm thời" (12 Điều từ Điều 60 đến Điều 71); Chương VI: "Chứng minh và chứng cứ" (20 Điều từ Điều 72 đến Điều 91); Chương VII: "Cấp tống đạt thông báo văn bản tố tụng" (11 Điều từ Điều 92 đến Điều l02); Chương VIII: "Khởi kiện, thụ lý vụ án" (14 Điều từ Điều 103 đến Điều 116); Chương IX: "Chuẩn bị xét xử” (8 Điều từ Điều 117 đến Điều 124); Chương X: "Phiên tòa sơ thẩm" (43 Điều từ Điều 125 đến Điều 167); Chương XI: "Thủ tục giải quyết kiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội hoặc danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân" (5 Điều từ Điều 168 đến Điều 172); Chương XII: “Thủ tục phúc thẩm” (36 Điều từ Điều 173 đến Điều 208); Chương XIII: "Thủ tục giám đốc thẩm" (23 Điều từ Điều 209 đến Điều 231); Chương XIV: "Thủ tục tái thẩm" (7 Điều từ Điêu 232 đến Điều 238); Chương XV: "Thủ tục đặc biệt xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao" (2 Điều - Điều 239 và Điều 240); Chương XVI: "Thủ tục thi hành bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính" (8 Điều từ Điều 241 đến Điều 248); Chương XVII: "Khiếu nại, tố cáo trong Tố tụng hành chính" (14 Điều từ Điều 249 đến Điều 262); Chương XVIII "Điều khoản thi hành” (3 Điều từ Điều 263 đến Điều 265).
  • 34. 28 Theo đó, thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với các vụ án hành chính được quy định thành một chương riêng biệt (Chương II), với 6 điều từ Điều 28 đến Điều 33. Việc quy định những khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo hướng loại trừ, thay vì phương pháp liệt kê như trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính. Việc quy định như vậy không những khắc phục được những hạn chế khi quy định bằng cách liệt kê như trước đây, mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc xác định quyền khởi kiện các vụ án hành chính, đảm bảo sự công bằng cho người dân và đáp ứng được yêu cầu của cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. Về mặt kỹ thuật lập pháp, việc quy định theo phương pháp loại trong trường hợp này là rất hợp lý và bảo đảm tính ổn định của điều luật. 1.4.3. Vai trò của Luật tố tụng hành chính Xét về bản chất, Tố tụng hành chính là một phương thức giải quyết các khiếu kiện hành chính, nó tồn tại song song với cơ chế giải quyết các khiếu nại, tố cáo hành chính bằng thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo. So với cơ chế giải quyết các khiếu kiện hành chính bằng thủ tục giải quyết khiếu nại hành chính, Tố tụng hành chính có ưu điểm lớn đó là các khiếu kiện được giải quyết bởi một hệ thống cơ quan chuyên trách độc lập – đó là các Tòa hành chính thuộc Tòa án nhân dân. Không những thế, thủ tục tụng hành chính còn bảo đảm sự bình đẳng giữa công dân và cơ quan công quyền trước Toà án, đây là điều không thể có được khi giải quyết theo thủ tục hành chính các khiếu kiện hành chính. Chính vì vậy, đây là một cơ chế hữu hiệu góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức khi những quyền lợi của họ bị xâm phạm bởi các QĐHC, HVHC của các cơ quan công quyền. Tuy nhiên, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính chưa thực sự giải quyết được trọn vẹn vai trò này của tố tụng hành chính nói chung cũng như của Tòa hành chính nói riêng. Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành
  • 35. 29 chính có những quy định chưa phù hợp hoặc không còn phù hợp, chưa đầy đủ, thiếu rõ ràng và còn có những cách hiểu khác nhau, đặc biệt là các quy định về thẩm quyền giải quyết các khiếu kiện hành chính của Toà án nhân dân, điều kiện khởi kiện, thời hiệu khởi kiện, nghĩa vụ chứng minh và cung cấp chứng cứ.... Bên cạnh đó, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính cũng chưa có quy định cụ thể về thi hành bản án, quyết định của Toà án về vụ án hành chính và cũng chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định về vấn đề này dẫn đến thực trạng có nhiều bản án, quyết định của Toà án về vụ án hành chính không được thi hành hoặc không được thi hành đầy đủ. Do vậy, sự ra đời của Luật TTHC thay thế Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, nhằm bảo đảm tính đồng bộ và thống nhất của hệ thống pháp luật. Việc mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính cũng chính là tạo cho các tổ chức, cá nhân khi nhận thấy các QĐHC, HVHC… xâm phạm đến các quyền và lợi ích hợp pháp của mình sẽ có nhiều phương án lựa chọn cơ chế giải quyết hơn, thay vì chỉ được yêu cầu giải quyết theo thủ tục khiếu nại, hoặc phải qua giai đoạn giải quyết khiếu nại lần đầu mới được khiếu kiện tại Tòa án. Điều này góp phần bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong vụ án hành chính. Luật TTHC cũng như quy định rõ ràng hơn, đầy đủ hơn về thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính (nội dung này sẽ được phân tích cụ thể hơn trong những phần sau của Luận văn).
  • 36. 30 Chương 2 THẨM QUYỀN XÉT XỬ CỦA TÒA HÀNH CHÍNH THEO LUẬT TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG 2.1. Đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính Luật TTHC quy định những khiếu kiện sau đây thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án: (1) Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính, trừ các quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo danh mục do Chính phủ quy định và các quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức; (2) Khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân; (3) Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức giữ chức vụ từ Tổng Cục trưởng và tương đương trở xuống; (4) Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh [44, Điều 28]. Trước hết, sự khác biệt về mặt hình thức của quy định về các nhóm vụ việc thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính theo Luật TTHC so với các văn bản Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, đó là: việc quy định các nhóm vụ việc này trong Luật TTHC kết hợp cả phương thức liệt kê và phương thức loại trừ. Mà cụ thể là đối với nhóm vụ việc “khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính…”. Thay vì liệt kê từng loại QĐHC, HVHC như trong các văn bản Pháp lệnh, dẫn đến những thiếu sót, hạn chế như đã phân tích trong Chương 1, thì quy định trong Luật TTHC đã khắc phục được những hạn chế này. Tuy nhiên, để làm rõ khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa
  • 37. 31 hành chính theo Luật TTHC thì điều căn bản là cần làm rõ khái niệm và phạm vi của bốn nhóm đối tượng này. 2.1.1. Quyết định hành chính, hành vi hành chính 2.1.1.1. Quyết định hành chính a) Khái niệm “quyết định hành chính” và đặc điểm: Luật TTHC đã định nghĩa: Quyết định hành chính là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền trong các cơ quan, tổ chức đó ban hành, quyết định về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể [44, Điều 3, Khoản 1]. Theo định nghĩa này, QĐHC phải thỏa mãn ba đặc điểm: - (1) về chủ thể ban hành: do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền trong các cơ quan, tổ chức đó ban hành; - (2) về nội dung: quyết định về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể; - (3) về hình thức: là một văn bản. Theo đó, để có thể hiểu một cách chính xác thế nào là QĐHC thì cần làm rõ ba yếu tố nêu trên. Thứ nhất, xét về chủ thể ban hành QĐHC. Theo định nghĩa nêu trên, có ba nhóm chủ thể có thẩm quyền ban hành QĐHC, bao gồm: Một là, cơ quan hành chính Nhà nước. Theo Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 [48, Điều 94] và Luật tổ chức Chính phủ năm 2001 thì “Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” [34, Điều 1]. Điều
  • 38. 32 2 Luật tổ chức Chính phủ năm 2001 quy định cơ cấu tổ chức của Chính phủ gồm các bộ và các cơ quan ngang bộ (hiện nay gồm 18 bộ và 04 cơ quan ngang bộ). Theo Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003 thì “Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và cơ quan nhà nước cấp trên” [36, Điều 2]. Nghị định 24/2014/NĐ-CP ngày 04/04/2014 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định rằng, “các sở và các cơ quan tương đương sở là các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương” [14, Điều 1, Khoản 2]. Tại Nghị định 14/2008/NĐ-CP ngày 04/02/2008 của Chính phủ quy định “tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quy định về các Phòng, Ban là các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện” [12, Điều 7,8]. Từ các quy định trên, nhận định rằng, các cơ quan hành chính Nhà nước bao gồm: Chính phủ, các bộ và cơ quan ngang bộ, các cơ quan của Trung ương được tổ chức theo ngành dọc; Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, các sở và cơ quan tương đương sở, cơ quan của sở và cơ quan tương đương sở đặt tại huyện; Ủy ban nhân dân cấp huyện, các Phòng, Ban là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện; Ủy ban nhân dân cấp xã. Hai là, cơ quan, tổ chức khác. Theo Luật TTHC, thuật ngữ “cơ quan, tổ chức” trong Luật này được hiểu là bao gồm “cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân” [44, Điều 3, Khoản 9].
  • 39. 33 Trên cơ sở đó, vì các cơ quan hành chính Nhà nước cũng thuộc các cơ quan Nhà nước, nên “cơ quan, tổ chức khác” được nêu trong khái niệm QĐHC được hiểu là: các cơ quan Nhà nước không phải là cơ quan hành chính Nhà nước và các tổ chức được liệt kê trong khoản 9 Điều 3 Luật TTHC. Ba là, người có thẩm quyền trong các cơ quan, tổ chức đó. Với khái niệm “thẩm quyền” như đã phân tích tại Chương 1, “người có thẩm quyền” ở đây hiểu là người có quyền chính thức được ban hành QĐHC. Theo Nghị quyết 02/2011/NQ-HĐTP thì người có thẩm quyền phải là “người có chức vụ, chức danh cụ thể và theo quy định của pháp luật thì người có chức vụ, chức danh đó mới có thẩm quyền ra quyết định hành chính” [19, Điều 2, Khoản 2]. Nghĩa là, xét về vấn đề ai là người có quyền chính thức được ban hành QĐHC thì phụ thuộc vào từng cơ quan, từng tổ chức, trong từng ngành, từng lĩnh vực cụ thể theo quy định của pháp luật, hoặc theo sự phân công của người đứng đầu cơ quan tổ chức đó, hoặc của cơ quan cấp trên. Như vậy, chủ thể ban hành QĐHC bao gồm: các cơ quan hành chính Nhà nước, các cơ quan Nhà nước không phải cơ quan hành chính, các tổ chức được nêu tại khoản 9 Điều 3 Luật TTHC và những người có thẩm quyền trong các cơ quan, tổ chức đó. Thứ hai, xét về nội dung của QĐHC, có hai vấn đề cần làm rõ như sau: Một là, QĐHC quyết định về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính. Có thể hiểu rằng, quản lý hành chính nhà nước là hoạt động thực thi quyền hành pháp của Nhà nước, đó là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước trên cơ sở pháp luật đối với hành vi hoạt động của con người và các quá trình xã hội, do các cơ quan trong hệ thống hành chính Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện những mục tiêu, chức năng và nhiệm vụ của nhà nước.
  • 40. 34 Trên cơ sở đó, QĐHC được ban hành để thực thi quyền hành pháp của Nhà nước, do các cơ quan trong hệ thống hành chính Nhà nước tiến hành. Một vấn đề đặt ra là, điều này liệu có mâu thuẫn với quy định về chủ thể ban hành QĐHC đã phân tích ở trên. Bởi chủ thể ban hành QĐHC có thể bao gồm các cơ quan quyền lực Nhà nước (Hội đồng nhân dân các cấp), cơ quan tư pháp (Tòa án nhân dân các cấp, Viện kiểm sát nhân dân các cấp)… Những cơ quan này có thẩm quyền ban hành một văn bản trong hoạt động quản lý hành chính Nhà nước hay không? Theo quan điểm của tác giả thì điều này không có sự mâu thuẫn. Bởi cần hiểu theo nghĩa rộng rằng, hoạt động quản lý hành chính Nhà nước không chỉ là hoạt động của cơ quan hành chính Nhà nước, mà là hoạt động của tất cả các cơ quan Nhà nước, các cơ quan, tổ chức khác nhằm thực thi quyền lực Nhà nước trên cơ sở pháp luật đối với hành vi hoạt động của con người và các quá trình xã hội. Hai là, QĐHC được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể. Nghĩa là, QĐHC là loại quyết định cá biệt chỉ được áp dụng trong một vụ việc cụ thể, áp dụng với một hoặc một số đối tượng cụ thể, không thể được dùng để áp dụng lặp đi lặp lại cho những loại vụ việc khác nhau, hoặc những chủ thể khác nhau. Đặc tính này để phân biệt QĐHC với các văn bản quy phạm pháp luật, bởi, theo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 văn bản quy phạm pháp luật là những văn bản chứa đựng những “quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được Nhà nước bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội” [41, Điều 1, Khoản 1]. Thứ ba, về hình thức của QĐHC. QĐHC được biểu hiện dưới hình thức văn bản.
  • 41. 35 Cần lưu ý rằng, không chỉ những văn bản được ban hành dưới hình thức “Quyết định” mới được coi là QĐHC. Mà những văn bản chứa đựng các nội dung như đã phân tích trên đây (ban hành trong hoạt động quản lý hành chính Nhà nước, áp dụng một lần với một hoặc một số đối tượng cụ thể) thì đều được coi là QĐHC. Vấn đề đặt ra là, những hình thức được coi là tương đương văn bản như thư tín, điện tín, fax, dữ liệu điện tử... chứa đựng đầy đủ nội dung của QĐHC như đã phân tích ở trên, thì có được coi là QĐHC hay không? Theo hướng dẫn tại khoản 8 Điều 3 Nghị định 64/2007/NĐ-CP ngày 10/4/2007 của Chính phủ về Ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan Nhà nước thì “Văn bản điện tử là văn bản được thể hiện dưới dạng thông điệp dữ liệu” [11, Điều 3], theo đó, văn bản dưới hình thức dữ liệu điện tử cũng được coi là hình thức văn bản hợp pháp của các cơ quan Nhà nước. Khoản 2 Điều 18 Nghị định 110/2004/NĐ-CP ngày 08/4/2004 của Chính phủ về công tác văn thư quy định về việc “Văn bản đi có thể được chuyển cho nơi nhận bằng Fax hoặc chuyển qua mạng để thông tin nhanh” [10, Điều 18], theo đó, văn bản do cơ quan Nhà nước ban hành được gửi đi dưới hình thức fax hoặc hình thức khác cũng được coi là văn bản hợp pháp của các cơ quan Nhà nước. Cho nên, tác giả cho rằng, văn bản hoặc hình thức tương đương văn bản chứa đựng đầy đủ các nội dung cần thiết gồm: ban hành trong hoạt động quản lý hành chính Nhà nước, áp dụng một lần với một hoặc một số đối tượng cụ thể, đều được coi là QĐHC. Cách hiểu về QĐHC đều đã được khái quát một cách tương đối đầy đủ tại Nghị quyết 02/2011/NQ-HĐTP ngày 29/7/2011 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao: Quyết định hành chính thuộc đối tượng khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án hành chính là văn bản được thể hiện dưới hình
  • 42. 36 thức quyết định hoặc dưới hình thức khác như thông báo, kết luận, công văn do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền trong các cơ quan, tổ chức đó ban hành có chứa đựng nội dung của quyết định hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính... [19, Điều 1, Khoản 1]. b) Những QĐHC thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính: Theo quy định tại Điều 28 Luật TTHC thì những văn bản thỏa mãn các tiêu chí về QĐHC đã phân tích ở trên, và không thuộc các trường hợp loại trừ, thì thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính. Những trường hợp loại trừ thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính cụ thể như sau: Một là, QĐHC thuộc phạm vi bí mật Nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo danh mục do Chính phủ quy định. Theo quy định này, không phải mọi QĐHC ban hành trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao đều thuộc trường hợp loại trừ thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính. Mà chỉ những QĐHC trong các lĩnh vực này thuộc phạm vi bí mật Nhà nước, theo một danh mục cụ thể do Chính phủ quy định mới rơi vào những trường hợp loại trừ thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính. Năm 2000, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh bảo vệ bí mật Nhà nước. Theo quy định tại Pháp lệnh này thì: Bí mật Nhà nước là những tin về vụ, việc, tài liệu, vật, địa điểm, thời gian, lời nói có nội dung quan trọng thuộc lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, kinh tế, khoa học, công nghệ, các lĩnh vực khác mà Nhà nước không công bố hoặc chưa công bố và nếu bị tiết lộ thì gây nguy hại cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam [76, Điều 1], trên cơ sở đó, các Bộ, cơ quan ngang Bộ của Chính phủ đều có nghĩa vụ công bố danh mục bí mật Nhà nước trong lĩnh vực của mình.
  • 43. 37 Tuy nhiên, Điều 28 Luật TTHC chỉ loại trừ thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính đối với những QĐHC liên quan đến lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao. Trên cơ sở Pháp lệnh bảo vệ bí mật Nhà nước năm 2000 và các văn bản hướng dẫn, Chính phủ đã ban hành Quyết định về danh mục bí mật Nhà nước trong một số lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực ngoại giao. Cụ thể, theo Quyết định số 17/2014/QĐ-TTg ngày 25/02/2014 của Thủ tướng Chính phủ về danh mục bí mật Nhà nước độ tuyệt mật và tối mật của ngành ngoại giao [57] thì có 07 nhóm bí mật Nhà nước độ tuyệt mật (Điều 1) và 15 nhóm bí mật Nhà nước độ tối mật (Điều 2) trong lĩnh vực ngoại giao. Song, bên cạnh văn bản trên do Chính phủ ban hành, Bộ Công an cũng ban hành Thông tư số 12/2014/TT-BCA-A81 ngày 19/3/2014 quy định danh mục bí mật Nhà nước độ mật của ngành ngoại giao [7]. Vấn đề đặt ra là, danh mục này không do Chính phủ ban hành thì có thuộc trường hợp loại trừ thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính theo điều 28 Luật TTHC hay không? Cần làm rõ rằng, Điều 28 Luật TTHC quy định về trường hợp danh mục bí mật Nhà nước theo quy định của Chính phủ, chứ không mặc định đó phải là danh mục do Chính phủ ban hành. Tại khoản 2 Điều 3 Nghị định 33/2002/NĐ-CP ngày 28/3/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh bảo vệ bí mật Nhà nước quy định rằng, người có trách nhiệm lập danh mục bí mật Nhà nước của các Bộ, cơ quan ngang Bộ có nhiệm vụ “Lập danh mục bí mật nhà nước thuộc độ Mật gửi Bộ trưởng Bộ Công an” [9, Điều 3]. Theo đó, việc Bộ Công an ban hành danh mục bí mật Nhà nước độ mật của các ngành nói chung và của ngành ngoại giao nói riêng, là phù hợp quy định của Chính phủ. Do vậy, các QĐHC liên quan đến danh mục bí mật Nhà nước độ mật của ngành ngoại giao do Bộ Công an ban hành theo văn bản nêu trên, cũng thuộc trường hợp loại trừ thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính. Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh Chính phủ, Bộ Công an, Bộ Quốc
  • 44. 38 phòng chưa công bố danh mục bí mật Nhà nước trong lĩnh vực này, hoặc không công bố (theo quy định tại Điều 5 Nghị định 33/2002/NĐ-CP ngày 28/3/2002 của Chính phủ [9, Điều 5]). Tuy nhiên, danh mục bí mật Nhà nước trong các lĩnh vực khác được công bố theo quy định của Chính phủ đều có nội dung liên quan đến an ninh, quốc phòng. Chẳng hạn: các bí mật Nhà nước của ngành Tài chính về tài liệu, số liệu về tài sản, dự toán, quyết toán ngân sách cho an ninh, quốc phòng theo Quyết định số 59/2013/QĐ-TTg ngày 15/10/2013 của Thủ tướng Chính phủ quy định danh mục bí mật Nhà nước độ Tuyệt mật và Tối mật của ngành Tài chính [56]; các bí mật Nhà nước trong linh vực Tài nguyên môi trường về bản đồ, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, tài nguyên khác liên quan đến quốc phòng, an ninh theo Quyết định 21/2013/QĐ-TTg ngày 24/4/2013 của Thủ tướng Chính phủ [55]; các bí mật Nhà nước trong lĩnh vực Công thương về các công trình khoa học, công nghệ mới, phát minh sáng chế có ý nghĩa đặc biệt trong hoạt động an ninh, quốc phòng theo Quyết định 106/2008/QĐ-TTg ngày 21/7/2008 của Thủ tướng Chính phủ [54]…. Trong khi Chính phủ, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng chưa công bố hoặc không công bố danh mục bí mật Nhà nước trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, thì các nội dung liên quan đến lĩnh vực an ninh, quốc phòng của các ngành khác được công bố theo quy định của Chính phủ, cũng là những nội dung loại trừ thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính. Vấn đề đặt ra là: (1) tại sao những QĐHC thuộc phạm vi bí mật Nhà nước trong các lĩnh vực này lại loại trừ thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính? (2) tại sao những vấn đề thuộc phạm vi bí mật Nhà nước trong các ngành, lĩnh vực khác lại không loại trừ thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính? Đối với (1), tác giả cho rằng, có một số lý do như sau dẫn đến việc loại trừ thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính đối với các QĐHC thuộc phạm vi bí mật Nhà nước trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao:
  • 45. 39 - Về bản chất, theo Pháp lệnh bảo vệ bí mật Nhà nước năm 2000 thì “Bí mật Nhà nước là những vấn đề mà Nhà nước không công bố hoặc chưa công bố và nếu bị tiết lộ sẽ gây nguy hại cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” [76, Điều 1]). Đặc biệt, các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao không chỉ có vai trò quan trọng trong Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà còn gắn bó mật thiết và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với chủ quyền Quốc gia, một vấn đề thiêng liêng, có ý nghĩa sống còn đối với bất kỳ Quốc gia nào. Nghĩa là, các bí mật Nhà nước trong các lĩnh vực này cần phải bảo vệ một cách tuyệt đối, không thể để lộ dưới bất kỳ hình thức nào. Trong khi đó, việc xét xử vụ án hành chính theo quy định của Luật TTHC là xét xử công khai, trường hợp cần thiết có thể xét xử kín nhưng phải tuyên án công khai [44, Điều 17]). Theo đó, các QĐHC thuộc phạm vi bí mật Nhà nước trong các lĩnh vực này không thể là đối tượng xét xử trong vụ án hành chính được, bởi bất kể việc xét xử kín, nhưng việc tuyên án công khai cũng có thể gây ảnh hưởng đến vấn đề chủ quyền thiêng liêng của đất nước. - Có cơ chế giải quyết khác đối với những QĐHC thuộc lĩnh vực này. Chẳng hạn, trong lĩnh vực an ninh quốc phòng có thể được giải quyết tại Tòa án Quân sự thông qua việc xét xử kín [77, Điều 10]. Đối với (2), tác giả cho rằng, các QĐHC thuộc phạm vi bí mật Nhà nước trong các lĩnh vực khác (không phải lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao) vẫn có thể là đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, là bởi: tuy các vấn đề này cũng thuộc phạm vi bí mật Nhà nước cần được bảo mật, nhưng việc xét xử kín, chỉ tuyên án công khai cũng đã đủ để giữ gìn sự ổn định của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nên không cần phải loại trừ thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính. Hai là, QĐHC mang tính chất nội bộ của cơ quan, tổ chức. Cần hiểu rằng, các QĐHC này, về bản chất, vẫn là QĐHC cá biệt,