SlideShare a Scribd company logo
1 of 120
LUẬN VĂN:
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành
trong thi hành án dân sự tại Việt Nam
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu đối với công cuộc đổi mới của
Đảng và Nhà nước là tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, thực sự của dân, do dân, vì dân, vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nói đến Nhà nước pháp quyền là nói đến nội
dung, bản chất dân chủ của chính quyền, cũng như phương thức tổ chức quyền lực nhà
nước, trong đó vai trò của pháp luật trực tiếp thể hiện ý chí của Nhà nước, kết tinh quyền
lực của nhân dân; pháp luật phải được tôn trọng và bảo đảm thực hiện. Vì vậy, yêu cầu
hàng đầu là phải coi trọng pháp luật và pháp chế trong quản lý xã hội, quản lý nhà nước,
pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh. Trong đó, các phán quyết của Tòa án và của các
cơ quan tài phán đưa ra phải được chấp hành nghiêm chỉnh. Điều 136 Hiến pháp năm
1992, khẳng định : Các bản án và quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp
luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị lực
lượng vũ trang và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm
chỉnh chấp hành. Phán quyết của Tòa án được chấp hành, phần lớn thông qua hoạt động
thi hành án, đã tác động trực tiếp đến lòng tin của nhân dân đối với tính nghiêm minh
của pháp luật. Cho nên, hoạt động thi hành án dân sự có một ý nghĩa thực sự quan trọng
đó là trực tiếp góp phần giữ vững kỷ cương phép nước, bản án, quyết định của Tòa án và
các quyết định của cơ quan tài phán khác được thi hành nghiêm chỉnh chính là lúc công
lý được thực hiện trong cuộc sống.
Thực trạng công tác thi hành án dân sự ở nước ta trong những năm qua, bên cạnh
những cố gắng đã đạt được, vẫn còn một số tồn tại như, số việc không có điều kiện thi
hành tồn lại qua các năm đang ngày càng gia tăng, hiện tượng tiêu cực, vô tâm, tắc trách,
vi phạm những nghĩa vụ hoặc lạm dụng những quyền hạn theo quy định của pháp luật
của một số Chấp hành viên, cán bộ thi hành án dân sự đang gây nên sự bất bình của dư
luận xã hội… Còn về phía Nhà nước cũng chưa tạo được hành lang pháp lý đầy đủ cho
Chấp hành viên chủ động thực thi nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định của Tòa án
và các quyết định của cơ quan tài phán khác một cách có hiệu quả. Chẳng hạn, muốn tổ
chức cưỡng chế thi hành án phải có lực lượng công an bảo vệ những người tham gia công
tác cưỡng chế, nếu cơ quan công an không phối hợp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ sự an
toàn về người và tài sản thì cơ quan thi hành án dân sự cũng không thể tổ chức cưỡng
chế thi hành án…Việc tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Chấp hành viên nói
riêng và của cơ quan thi hành án dân sự nói chung còn phụ thuộc nhiều vào sự phối hợp
của các ngành, các cấp có liên quan như chính quyền địa phương, cơ quan công an và
một số cơ quan chuyên môn khác…. Chấp hành viên chưa có đủ các điều kiên về pháp
luật để tự mình chủ động tiến hành thi hành triệt để các bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật. Đây chính là một trong những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt
động của công tác thi hành án dân sự, làm công tác thi hành án dân sự trong những năm
qua chưa đạt được kết quả như sự mong đợi của xã hội.
Nhận thức được tình hình này, Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tám
(Khóa VII) đã chủ trương “sớm xây dựng và hoàn thiện pháp luật về thi hành án theo
hướng tiến tới tập trung nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác thi hành án vào Bộ Tư
pháp”. Trong đó cũng cần phải nghiên cứu và xây dựng các quy định pháp luật về Chấp
hành viên trong thi hành án dân sự.
Vì vậy, việc nghiên cứu nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về địa vị pháp lý
của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam có ý nghĩa cấp thiết trong công
cuộc cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.
Cho đến nay, mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau
liên quan đến vấn đề địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong hoạt động thi hành án dân
sự, nhưng chưa có công trình nào ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học nghiên cứu sâu và
toàn diện hệ thống pháp luật về địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân
sự.
Thực tiễn đòi hỏi phải làm sáng tỏ hơn về mặt lý luận những quy đinh của về địa
vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự. Đồng thời thực tiễn cũng đặt ra
yêu cầu phân tích, đánh giá các quy định pháp luật hiện hành về địa vị pháp lý của Chấp
hành viên trong thi hành án dân sự và thực trạng áp dụng các quy định này. Trên cơ sở đó
đưa ra giải pháp khắc phục những bất cập, thiếu sót và tiếp tục hoàn thiện pháp luật về
địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam hiện nay.
Là người đã nhiều năm trực tiếp làm công tác thi hành án dân sự ở địa phương và
hiện nay đang đảm nhiệm nhiệm vụ giảng dạy về nghiệp vụ thi hành án dân sự (đào tạo
nguồn bổ nhiệm Chấp hành viên) cho các cán bộ đang làm công tác thi hành án dân sự
trong các cơ quan thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp, tôi luôn trăn trở làm thế nào để
các Chấp hành viên chủ động tổ chức thi hành các bản án, quyết định một cách hiệu quả
nhất, góp phần giảm án tồn đọng như hiện nay. Đó là lý do tôi lựa chọn nghiên cứu đề
tài: "Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự tại Việt
Nam".
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay, ở Việt Nam chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu về địa vị pháp
lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự. Cũng đã có những công trình liên quan
đến đề tài luận văn ở cấp độ rộng hơn. Có thể kể đến các công trình nghiên cứu về đổi
mới hoạt động tổ chức thi hành án của đề tài nghiên cứu cấp nhà nước "Luận cứ khoa học
và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt nam trong giai
đoạn mới" mã số đề tài: 2000-58-198 do TS. Nguyễn Đình Lộc làm Chủ nhiệm đề tài; Đề
tài nghiên cứu khoa học cấp bộ “Mô hình quản lý thống nhất công tác thi hành án” của
Cục Quản lý thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện; Luận văn thạc sỹ Luật
học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh năm 2003 “Đổi mới tổ chức thi hành án
dân sự ở Việt Nam” của Nguyễn Quang Thái; Luận văn thạc sỹ Luật học tại Trường Đại
học Luật Hà Nội của tác giả Nguyễn Công Long với đề tài “Các biện pháp cưỡng chế thi
hành án dân sự”; Luận văn thạc sỹ, của tác giả Trần Văn Quảng với đề tài “Một số vấn
đề về tổ chức thi hành án dân sự ở Việt Nam”; Luận văn thạc sỹ, trường Đại học Luật Hà
Nội của tác giả Lê Xuân Hồng, với đề tài “Xã hội hóa một số nội dung thi hành án dân
sự”; Luận văn thạc sỹ, trường Đại học Luật Hà Nội năm 2004 của tác giả Lê Anh Tuấn,
với đề tài “Đổi mới thủ tục thi hành dân sự Việt Nam”; Luận văn thạc sỹ, Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh năm 2005 của tác giả Nguyễn Đức Nghĩa, với đề tài “Cơ sở lý
luận và thực tiễn khắc phục án tồn đọng trong thi hành án dân sự ở Việt nam hiện nay”;
Luận văn thạc sỹ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh năm 2005 của tác giả Hoàng
Thế Anh, với đề tài “Giám sát thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay”; Luận văn tiến sỹ
luật học tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh của tác giả Nguyễn
Thanh Thủy với đề tài “Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay”.
Luận văn thạc sỹ luật học tại Học viện tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ
Chí Minh của tác giả Đặng Đình Quyền với đề tài "Năng lực của Chấp hành viên trong thi
hành án dân sự ở Việt Nam”.
Với đề tài “Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân
sự tại Việt Nam”, ngoài chương cơ sở lý luận của đề tài, luận văn sẽ tập trung nghiên cứu
một cách chi tiết, những nhiệm vụ cụ thể của Chấp hành viên trong quá trình tổ chức thi
hành các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định khác do pháp luật quy định.
Nghiên cứu thực trạng việc áp dụng các quy định hiện hành về quyền hạn, nhiệm vụ của
Chấp hành viên, trên cơ sở đó luận văn chỉ ra những nguyên nhân của những hạn chế trong
quá trình tổ chức thi hành án của Chấp hành viên và đưa ra các kiến nghị hoàn thiện các quy
định pháp luật về địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam
góp phần nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự tại Việt Nam.
Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực hiện
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, vấn đề địa vị pháp lý của Chấp hành viên
trong thi hành án dân sự cần được làm sáng tỏ hơn về mặt lý luận và thực tiễn, làm cơ sở
cho việc hoàn thiện các quy định về quyền và nghĩa vụ của Chấp hành viên trong thi
hành án dân sự tại Việt Nam hiện nay đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp
đến năm 2020.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng pháp luật về địa vị pháp lý của Chấp
hành viên trong thi hành án dân sự, luận văn đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm
hoàn thiện các quy định về quyền và nghĩa vụ của Chấp hành viên trong thi hành án dân
sự tại Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích nói trên, luận văn có một số nhiệm vụ sau:
- Phân tích cơ sở lý luận về thi hành án dân sự, pháp luật về địa vị pháp lý của
Chấp hành viên trong thi hành án dân sự;
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về địa vị pháp lý của Chấp hành viên
và thực tiễn áp dụng các quy định đó trong việc tổ chức thi hành các bản án, quyết định ở
Việt Nam từ năm 2004 đến nay.
- Đưa ra một số quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp
hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuân khổ luận văn thạc sỹ Luật học, với đề tài Hoàn thiện địa vị pháp lý
của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam, luận văn tập trung nghiên
cứu làm sáng tỏ cơ sở lý luận về thi hành án dân sự, về địa vị pháp lý của Chấp hành viên
trong hoạt động thi hành án dân sự; Những quy định về địa vị pháp lý của Chấp hành
viên và thực trạng thực hiện những quy định đó trong hoạt động thi hành án dân sự tại
Việt Nam từ năm 2004 đến nay; đưa ra những kiến nghị hoàn thiện về địa vị pháp lý của
Chấp hành viên trong thi hành án dân sự ở Việt Nam.
Trên cơ sở đó, luận văn nghiên cứu làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm, nội dung, địa
vị pháp lý của Chấp hành viên, xác định các tiêu chí hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp
hành viên, đưa ra các quan điểm và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện địa vị pháp lý
của Chấp hành viên nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự tại Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cải cách tư
pháp.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong luận văn là phương pháp
hệ thống, phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp lịch sử - cụ thể, phương pháp
luật học so sánh.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu sâu về địa vị pháp lý của Chấp hành
viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam.
- Luận văn đã đưa ra được khái niệm địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi
hành án dân sự; chỉ ra và phân tích các yếu tố quy định và chi phối việc xác định địa vị
pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự;
- Luận văn đã phân tích, làm rõ địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành
án dân sự thể hiện trong các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành, chỉ ra những điểm
tiến bộ so với các quy định trước đây và những điểm còn bất cập. Luận văn cũng đưa ra
những đánh giá, nhận định khách quan về thực trạng thực hiện quyền và nghĩa vụ của
Chấp hành viên trong thực tiễn hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam từ năm 2004
đến nay, chỉ rõ những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân của chúng.
- Dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn, luận văn đưa ra được những kiến nghị cụ
thể để hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt
Nam theo yêu cầu cải cách tư pháp, bao gồm các kiến nghị về hoàn thiện pháp luật cũng
như về các biện pháp bảo đảm cho Chấp hành viên thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ
của mình trong việc tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định
khác do pháp luật quy định.
6. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên cứu
hoàn thiện các quy định pháp luật về thi hành án dân sự, góp phần nâng cao hiệu quả thi
hành án dân sự ở Việt Nam.
Luận văn cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu
và học tập các môn học thi hành án dân sự, Luật tố tụng dân sự v.v… tại các cơ sở đào
tạo Luật.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA CHẤP HÀNH VIÊN TRONG THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI VIỆT NAM
1.1. KHÁI NIỆM, VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA CHẤP HÀNH VIÊN TRONG
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI VIỆT NAM
1.1.1. Khái niệm, bản chất của thi hành án dân sự
1.1.1.1. Khái niệm thi hành án dân sự
Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức xã hội và Nhà nước là một
trong những nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp. Mọi hành vi vi phạm pháp luật, mọi
tranh chấp xảy ra khi có yêu cầu đều được Tòa án xem xét giải quyết theo thẩm quyền và
theo trình tự tố tụng. Khi một người bị người khác xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp
của mình, họ có quyền làm đơn yêu cầu Tòa án bảo vệ. Việc xem xét giải quyết của Tòa
án là giai đoạn đầu của quá trình bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự (cá
nhân, tổ chức, Nhà nước). Ở giai đoạn này, Tòa án mới chỉ giải quyết về nội dung vụ việc
và xác định rõ các quyền và nghĩa vụ của các đương sự. Các quyền và nghĩa vụ này
muốn trở thành hiện thực thì phải thông qua việc thi hành án. Thực chất, việc thi hành án
là hoạt động làm cho các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định của cơ quan tài
phán khác được thực hiện trên thực tế. Điều 136 Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định: Các
bản án và quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan
Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn
trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành.
Về nguyên tắc, bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án được những
người, đơn vị liên quan, còn gọi là những người được thi hành án và người phải thi hành
án tự nguyện thi hành. Trường hợp các đương sự không tự nguyện, bản án, quyết định có
hiệu lực pháp luật sẽ được cơ quan thi hành án dân sự thi hành theo quy định của pháp
luật thi hành án dân sự. Các bản án, quyết định được cơ quan thi hành án dân sự đưa ra
thi hành đó là: Bản án, quyết định dân sự; hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài
sản thu lợi bất chính xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản án,
quyết định hình sự; phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính của Tòa án và Quyết
định xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành án của Hội
đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và Quyết định của Trọng tài thương mại (gọi chung là bản
án, quyết định) quy định tại Điều 1 Luật thi hành án dân sự. Ngoài ra, Điều 2 Luật thi
hành án dân sự còn quy định các bản án, quyết định được cơ quan thi hành án dân sự đưa
ra thi hành, bao gồm các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và một số bản án,
quyết định của Tòa án tuy chưa có hiệu lực pháp luật (có thể vẫn bị kháng cáo hoặc
kháng nghị) nhưng vẫn được đưa ra thi hành để bảo vệ quyền lợi cấp thiết của người
được thi hành án đó là, bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao động,
trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động hoặc bồi thường thiệt
hại về tính mạng, sức khỏe, tổn thất về tinh thần, nhận người lao động trở lại làm việc
và Quyết định khẩn cấp tạm thời của Tòa án. Bản án, quyết định của Tòa án là văn
bản pháp lý nhân danh Nhà nước giải quyết về các vấn đề trong vụ án hình sự, dân sự,
kinh doanh thương mại và hành chính. Quyết định của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh
tranh và Trọng tài thương mại Việt Nam cũng là những văn bản pháp lý do các tổ
chức phi chính phủ (cơ quan tài phán) giải quyết các việc dân sự hoặc kinh doanh
thương mại theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức có quyền lợi bị xâm hại. Những phán
quyết của Tòa án cũng như những phán quyết của các cơ quan tài phán muốn được thực thi
trên thực tế phải qua giai đoạn thi hành án dân sự.
Có thể nói thi hành án dân sự là giai đoạn độc lập, giai đoạn kết thúc quá trình bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, bao gồm tổng hợp các hành vi pháp lý nhằm thi
hành các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định của cơ quan khác do Nhà nước
quy định.
Theo Từ điển Luật học, thi hành án là: “Hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, được tiến hành theo thủ tục, trình tự được pháp luật quy định nhằm thực hiện các
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án” [41, tr.705]. Công tác thi hành án
dân sự thuộc về chức năng, nhiệm vụ của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền là cơ quan
thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp.
Công tác thi hành án dân sự là loại việc có những nét đặc trưng riêng xuất phát từ
việc các bản án, quyết định được đưa ra thi hành tuy rất đa dạng, nhưng chủ yếu là những
quyết định mang tính tài sản - đặc trưng của quan hệ dân sự; xuất phát từ nguyên tắc tôn
trọng quyền tự định đoạt của các đương sự trong quá trình giải quyết tranh chấp dân sự.
Người được thi hành án giữ vai trò chủ động trong thi hành án và họ có quyền quyết định
đưa ra những yêu cầu thi hành các quyết định trong các bản án, quyết định dân sự có liên
quan đến việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ, như: quyền yêu cầu cơ quan thi hành án
dân sự thi hành án hay không yêu cầu thi hành án; quyền yêu cầu không tiếp tục thi hành án,
quyền cho người phải thi hành án hoãn việc thi hành án...
Trong quá trình thi hành án, các bên đương sự (người được thi hành án và người phải
thi hành án) có thể tự thỏa thuận với nhau về việc thi hành án, tuy nhiên việc thỏa thuận này
phải phù hợp với pháp luật và không trái với đạo đức xã hội (Điều 6 Luật Thi hành án dân sự
năm 2008). Theo đó, các đương sự thỏa thuận về các vấn đề như: thời gian, địa điểm,
phương thức thi hành án... Cơ quan thi hành án dân sự nói chung, Chấp hành viên nói riêng
có trách nhiệm theo dõi, giám sát và chứng kiến ghi nhận sự thỏa thuận thi hành của các bên
đương sự. Về phía Nhà nước, luôn luôn khuyến khích các đương sự tự nguyện thi hành án
hoặc thỏa thuận với nhau về việc thi hành các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết
định của Trọng tài và Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh.
Do các bản án, quyết định dân sự rất đa dạng, mặc dù phải thực hiện theo trình tự,
thủ tục do luật định, song thi hành án dân sự cũng đòi hỏi rất cao tính linh hoạt. Tùy từng
trường hợp cụ thể, cơ quan thi hành án lựa chọn biện pháp thích hợp, chủ động giải quyết các
vấn đề nảy sinh trong quá trình tổ chức thi hành án, sao cho việc thi hành án đạt được mục
đích và hiệu quả cao nhất.
Trong cơ quan thi hành án dân sự, chỉ có cơ quan thi hành án và Chấp hành viên là
người được Nhà nước giao trách nhiệm thi hành và tổ chức thi hành các bản án, quyết
định. Khi thực thi nhiệm vụ, Chấp hành viên chỉ tuân theo pháp luật và chịu trách nhiệm
trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ.
Vì những đặc trưng trên, pháp luật hiện hành quy định việc tổ chức thi hành các
bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật chỉ thuộc thẩm quyền của cơ quan
nhà nước là các cơ quan thi hành án dân sự. Từ đó, hoạt động thi hành án dân sự hiện
nay được hiểu là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền được tiến hành theo
một thủ tục, trình tự nhất định được pháp luật quy định nhằm thực hiện các bản án,
quyết định của Tòa án hoặc quyết định khác do pháp luật quy định.
Tuy nhiên, Nghị quyết của Quốc hội Khoá XII, kỳ họp thứ 4 ngày 14/11/2008 về
việc thi hành Luật thi hành án dân sự đã chủ trương xã hội hoá một số công việc liên
quan đến thi hành án dân sự, cụ thể như sau:
Thực hiện chiến lược cải cách tư pháp, cải cách hành chính trong lĩnh vực tư pháp
nói chung, lĩnh vực thi hành án dân sự nói riêng nhằm từng bước giảm bớt gánh nặng cho
bộ máy, biên chế, ngân sách của Nhà nước phục vụ công tác thi hành án dân sự thì chủ
trương xã hội hoá một số công việc về thi hành án dân sự được coi là một trong những
giải pháp hữu hiệu nhất hiện nay. Chủ trương này đã được quy định tại Nghị quyết 49-
NQ/TW của Bộ Chính trị đó là “Từng bước thực hiện việc xã hội hoá và quy định những
hình thức, thủ tục để giao cho tổ chức không phải là cơ quan Nhà nước thực hiện một số
công việc thi hành án…; nghiên cứu chế định Thừa phát lại (Thừa hành viên), trước mắt
có thể tổ chức thí điểm tại một số địa phương, sau vài năm trên cơ sở tổng kết, đánh giá
thực tiễn sẽ có bước đi tiếp theo”. Trong quá trình thảo luận tại các kỳ họp của Quốc hội
cũng có ý kiến đại biểu cho rằng nên đưa quy định xã hội hoá hoạt động thi hành án dân
sự thành một điều trong Luật thi hành án dân sự để có cơ sở pháp lý triển khai thực hiện
trong thời gian tới. Tuy nhiên, theo đa số ý kiến của đại biểu Quốc hội thì để thực hiện có
hiệu quả chủ trương này cần phải có bước đi thích hợp, trên cơ sở làm thí điểm sau đó
tiến hành sơ kết, tổng kết để đánh giá khả năng thực hiện và hiệu quả của việc thực hiện
xã hội hoá hoạt động thi hành án. Hơn nữa, do hiện nay việc thực hiện xã hội hoá hoạt
động thi hành án (cụ thể là việc tổ chức thí điểm chế định Thừa phát lại) chưa được triển
khai nên chưa có cơ sở thực tiễn để đánh giá và áp dụng. Do vậy, nhiều quy định về xã
hội hoá một số công việc về thi hành án dân sự chưa nên đưa vào trong Luật thi hành án
dân sự mà chỉ nên quy định tại Nghị quyết của Quốc hội về việc thi hành Luật thi hành
án dân sự. Cuối cùng, Quốc hội đã nhất trí quy định trong Nghị quyết về việc thi hành
Luật thi hành án dân sự, giao cho Chính phủ quy định và tổ chức thực hiện thí điểm chế
định Thừa phát lại (Thừa hành viên) tại một số địa phương. Việc thí điểm được thực hiện
từ ngày Luật thi hành án dân sự có hiệu lực thi hành (từ ngày 01/7/2009 đến ngày
01/7/2012). Từ kết quả thí điểm, Chính phủ tổng kết, đánh giá thực tiễn, báo cáo Quốc
hội xem xét, quyết định. Thực hiện Nghị quyết của Quốc Hội, Bộ Tư Pháp đã khẩn
trương xây dựng và trình Chính phủ xem xét phê duyệt Nghị định về “Tổ chức và hoạt
động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh”[39]. Và ngày
24/7/2009, Thủ tướng Chính phủ đã ký Nghị định về tổ chức và hoạt động Thừa phát lại
thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh*
, trong đó quy định những công việc của
Thừa phát lại (Điều 3 của Nghị định) gồm:.Thực hiện việc tống đạt theo yêu cầu của Tòa
án hoặc cơ quan thi hành án dân sự; Lập vi bằng theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ
chức; Xác minh điều kiện thi hành án theo yêu cầu của đương sự và trực tiếp tổ chức thi
hành các bản án, quyết định của Tòa án theo yêu cầu của đương sự. Như vậy, việc tổ
chức thi hành án dân sự không chỉ giao cho cơ quan Nhà nước mà còn giao cho tổ chức
khác đó là Tổ chức Thừa phát lại, tuy nhiên đây mới chỉ hoạt động thí điểm tại Thành
phố Hồ Chí Minh trong thời gian 03 năm kể từ ngày 01/7/2009 đến ngày 01/7/2012.
Như vậy, có thể khái quát về thi hành án dân sự trong điều kiện mới như sau: Thi
hành án dân sự là hoạt động có định hướng của Nhà nước được thực hiện bởi các chủ
thể do pháp luật quy định, nhằm mục đích thực hiện trên thực tế các quyết định dân sự có
hiệu lực thi hành bằng cách áp dụng các biện pháp tác động phù hợp với pháp luật và
tuân thủ các trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.
2.1.1.2. Bản chất của thi hành án dân sự
Trong khoa học pháp lý cho đến nay vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau về khái
niệm, bản chất của thi hành án dân sự. Có ý kiến cho rằng, thi hành án là một giai đoạn
của quá trình tố tụng, diễn ra ngay sau giai đoạn xét xử, được pháp luật tố tụng quy định.
Thi hành án dân sự là hoạt động bảo vệ pháp luật, phù hợp với hoạt động của tố tụng tư
pháp, với hai lý do cơ bản như sau: thứ nhất, có xét xử thì phải có thi hành án, thi hành án
dựa trên cơ sở và kết quả của công tác xét xử. Xét xử và thi hành án là hai mặt thống nhất
của quá trình bảo vệ lợi ích của đương sự; thi hành án dân sự là nhằm mục đích thực thi
*
Nghị định về tổ chức và hoạt động thừa phát lại thực hiện thí điểm tại TP. Hồ Chí Minh có hiệu lực thi hành ngày
09/9/2009.
các phán quyết của Tòa án, bảo đảm triệt để các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ
chức và Nhà nước. Không có hoạt động thi hành án thì mọi phán quyết của Tòa án cũng
như các các quyết định khác chỉ là trên bản giấy mà thôi. Hoạt động thi hành án gắn liền
với quá trình xét xử và chịu sự chi phối của quá trình xét xử. Cho nên thi hành án không
thể tách ra khỏi quá trình tố tụng mà phải coi nó là giai đoạn tố tụng*
; Thứ hai, thủ tục tố
tụng do nhiều cơ quan tiến hành, chẳng hạn như hoạt động điều tra vụ án hình sự do cơ
quan Kiểm lâm, Hải quan tiến hành được coi là hoạt động tố tụng hình sự, trong khi các
cơ quan này chỉ là các cơ quan hành chính được giao quyền điều tra cho nên hoạt động
của cơ quan thi hành án dân sự cũng cần được coi là cơ quan tiến hành tố tụng dân sự.
Quan điểm thứ hai lại cho rằng: Thi hành án dân sự là một dạng hoạt động có
tính chấp hành, vì thi hành án chỉ được tiến hành trong khuôn khổ pháp luật quy định
nhằm thực hiện các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên,
tính chất chấp hành trong thi hành án dân sự có những nét riêng thể hiện ở chỗ: Thứ nhất,
nó chủ yếu do cơ quan tư pháp hay đối tượng phải thi hành tiến hành; Thứ hai, cơ sở để
tiến hành các hoạt động thi hành án bao gồm các quy định của pháp luật (được thể hiện
trong các văn bản quy phạm pháp luật) và bản án, quyết định (văn bản áp dụng pháp luật)
của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật được thực thi chứ không phải là ra các văn bản áp
dụng pháp luật hoặc các quyết định có tính điều hành*
.
Quan điểm thứ ba cho rằng, thi hành án là dân sự một hoạt động hành chính - tư
pháp, thi hành án dân sự không thể là giai đoạn của tố tụng bởi vì thi hành án có mục
đích khác với bản chất và mục đích của tố tụng. Điều này thể hiện ở chỗ, mục đích của tố
tụng là xác định các chứng cứ để xác lập lại trạng thái ban đầu của sự việc. Nói cách khác
tố tụng là quá trình đi tìm sự thật của các vụ việc đã diễn ra để trên cơ sở đó đưa ra cách
giải quyết theo đúng các quy định của pháp luật. Với mục đích đó, toàn bộ quá trình tố
tụng diễn ra theo một quy trình hết sức chặt chẽ và phải bảo đảm các nguyên tắc như bình
đẳng, công khai, dân chủ, tôn trọng quyền và lợi ích của người tham gia tố tụng ... và khi
đã có phán quyết của Tòa án thì quá trình tố tụng kết thúc. Trong khi đó, thi hành án là
*
Tạp chí Luật học số 5/1998 trang 43,44 Bài viết Mấy vấn đề về thi hành án trong việc soạn thảo Bộ luật tố tụng
dân sự của Nguyễn Công Bình.và giao trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật.
*
Chuyên đề một số vấn đề lý luận về thi hành án của PGS.TS. Lê Minh Tâm, Trường Đại học luật Hà Nội.
quá trình tiến hành các hoạt động nhằm thực hiện các bản án, quyết định của Tòa án, và
quyết định khác do luật định đã có hiệu lực thi hành. Vì vậy, có thể nói tố tụng là quá
trình đi tìm chân lý để áp dụng công lý (pháp luật); còn thi hành án là quá trình thực thi
chân lý bằng công lý. Ở đây chân lý đã rõ, có tội hay không có tội, đúng hay sai đã được
phân xử rõ ràng, thi hành án chỉ nhằm thực hiện các bản án , quyết định của Tòa án và
các quyết định của cơ quan tài phán khác. Quá trình này có thể do chính các chủ thể bị thi
hành án tự giác thi hành hoặc do cơ quan có thẩm quyền buộc các chủ thể đó phải thi
hành án theo đúng nội dung bản án, quyết định. Do đó, thi hành án là hoạt động hành
chính - tư pháp bởi:, căn cứ để thi hành án chính là các bản án, quyết định của Tòa án và
các quyết định của Trọng tài thương mại Việt Nam, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh.
Cá nhân tôi cho rằng thi hành án dân sự là một hoạt động hành chính - tư pháp là
quan điểm hợp lý nhất bởi những lý do sau: Thứ nhất, thi hành án dân sự chỉ được tiến
hành trên cơ sở các bản án, quyết định của Tòa án hoặc các quyết định khác do pháp luật
quy định đã có hiệu lực pháp luật và trong khuôn khổ luật định; toàn thể quá trình thi
hành án với những hoạt động, biện pháp, cách thức khác nhau đều nhằm thực hiện những
nội dung đã được thể hiện trong các bản án, quyết định của tòa án và cơ quan tài phán
khác và tuân theo các quy định cụ thể của pháp luật; Thứ hai, hoạt động thi hành án là
dạng hoạt động quản lý, vì thi hành án là sự tác động tới đối tượng phải thi hành để họ tự
giác thi hành hoặc áp dụng các biện pháp buộc họ phải thi hành nghĩa vụ đã được xác
định trong các bản án, quyết định. Thi hành án là quá trình diễn ra sau quá trình xét xử
của Tòa án hoặc cơ quan tài phán khác, các bản án, quyết định của tòa án và cơ quan tài
phán khác là cơ sở để tiến hành các hoạt động thi hành án, như chỉ khi có bản án, quyết
định thì cơ quan thi hành án dân sự mới ra quyết định thi hành án ... Vì vậy, có thể nói
không có hoạt động xét xử thì cũng không có hoạt động thi hành án dân sự. Tuy nhiên thi
hành án dân sự không phải là hoạt động tố tụng cuối cùng; bản án và quyết định có hiệu
lực pháp luật không phải là cơ sở duy nhất để tiến hành các hoạt động thi hành án; thi
hành án đòi hỏi những nguyên tắc thủ tục và cách thức hoạt động riêng, chẳng hạn, Tại
Điều 4 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 đã quy định căn cứ để đưa ra thi hành án
“Bản án, quyết định được đưa ra thi hành khi có các căn cứ sau đây: Bản án, quyết định
dân sự và Quyết định thi hành án của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự”. Các bản
án, quyết định mới chỉ là “điều kiện cần” để tiến hành các hoạt động thi hành án. Nhưng
để tổ chức thi hành các bản án, quyết định thì phải có các “điều kiện đủ” đó là các
nguyên tắc, thủ tục, trình tự thi hành án dân sự. Vì vậy, thi hành án dân sự không phải là
giai đoạn tố tụng và không chỉ chịu sự điều chỉnh của pháp luật tố tụng mà còn chịu sự
điều chỉnh của Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 nay là Luật thi hành án dân sự
năm 2008. Bản chất của hoạt động thi hành án được thể hiện trên ba phương diện chủ yếu
sau:
Thứ nhất, xác định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quá trình thi hành
án dân sự;
Thứ hai, tính đặc thù trong tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự;
Thứ ba, đặc thù trong các quan hệ thủ tục về thi hành án dân sự (đây là vấn đề có
thể dẫn đến sự nhầm lẫn với quan hệ tố tụng). Quan hệ thủ tục thi hành án có thể bao gồm cả
quan hệ tố tụng và quan hệ khác mang tính hành chính - tư pháp, nhưng cần khẳng định rằng
các quan hệ hành chính chủ yếu hơn.
Việc xác định thi hành án dân sự là hoạt động tố tụng hay là hoạt động hành
chính - tư pháp có ý nghĩa rất quan trọng, nó làm sáng tỏ bản chất thi hành án dân sự
cũng như bản chất về địa vị pháp lý của Chấp hành viên. Nhưng dù là quan hệ tố tụng
hay quan hệ hành chính - Tư pháp, dù là người của cơ quan tiến hành tố tụng hay là
người có chức danh hành chính thì nhiệm vụ của Chấp hành viên được quy định trong
Luật là phải thi hành các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định khác do pháp
luật quy định. Vậy, điều quan trọng nhất là để Chấp hành viên thực hiện tốt nhiệm vụ thi
hành các bản án, quyết định thì pháp luật phải tạo đủ điều kiện cho Chấp hành viên thực
hiện.
1.1.2. Khái niệm Chấp hành viên trong thi hành án dân sự
Trong mỗi cơ quan khác nhau thì có những chức danh khác nhau để thực thi
nhiệm vụ của cơ quan đó. Chẳng hạn, đối với cơ quan Tòa án thì người thực hiện chức
năng xét xử là Thẩm phán, hay đối với cơ quan Viện kiểm sát thì người thực hiện chức
năng công tố là Kiểm sát viên, đối với cơ quan công an, người thực hiện nhiệm vụ điều
tra các vụ án là các Điều tra viên...Tại các Cơ quan thi hành án dân sự đều có các cán bộ
làm nhiệm vụ thi hành án và các cán bộ làm các nhiệm vụ khác liên quan đến việc thi
hành án, như thủ quỹ, kế toán, thủ kho... Nhưng người có nhiệm vụ, quyền hạn trực tiếp
tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định khác do pháp luật
quy định được gọi là Chấp hành viên.
Tại Điều 17 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, quy định: Chấp hành viên là
người được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định quy định tại Điều 2
Luật thi hành án dân sự và Điều 18 Luật Thi hành án dân sự, quy định tiêu chuẩn bổ
nhiệm Chấp hành viên như sau:
1. Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, trung thực, liêm khiết, có phẩm chất
đạo đức tốt, có trình độ cử nhân luật trở lên, có sức khỏe để hoàn thành nhiệm vụ được giao
thì có thể được bổ nhiệm làm Chấp hành viên.
2. Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều này và có đủ các điều kiện
sau đây thì được bổ nhiệm làm Chấp hành viên sơ cấp:
a) Có thời gian làm công tác pháp luật từ 03 năm trở lên;
b) Đã được đào tạo nghiệp vụ thi hành án dân sự;
c) Trúng tuyển kỳ thi tuyển Chấp hành viên sơ cấp;
3. Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại Khoản 1 Điều này và có đủ các điều kiện
sau thì được bổ nhiệm làm Chấp hành viên trung cấp:
a) Có thời gian làm Chấp hành viên sơ cấp từ 05 năm trở lên;
b) Trúng tuyển kỳ thi tuyển Chấp hành viên trung cấp;
4. Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại Khoản 1 Điều này và có đủ các điều kiện
sau thì được bổ nhiệm làm Chấp hành viên cao cấp:
a) Có thời gian làm Chấp hành viên trung cấp từ 05 năm trở lên;
b) Trúng tuyển kỳ thi tuyển Chấp hành viên cao cấp;
5. Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại Khoản 2 Điều này, là sỹ quan quân đội tại
ngũ thì được bổ nhiệm làm Chấp hành viên trong quân đội
Tiêu chuẩn để được bổ nhiệm Chấp hành viên sơ cấp, Chấp hành viên trung cấp
và Chấp hành viên cao cấp trong quân đội được thực hiện theo quy định tại các khoản 2,3
và khoản 4 Điều này.
6. Người đang là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên chuyển công tác đến cơ
quan thi hành án dân sự có thể được bổ nhiệm làm Chấp hành viên ở ngạch tương đương
mà không qua thi tuyển
7. Trường hợp đặc biệt do Chính phủ quy định, người có đủ tiêu chuẩn quy định
tại Khoản 1 Điều này, đã có thời gia làm công tác pháp luật từ 10 năm trở lên thì có thể
được bổ nhiệm Chấp hành viên trung cấp hoặc đã có thời gian làm công tác pháp luật từ
15 năm trở lên thì có thể được bổ nhiệm Chấp hành viên cao cấp”.
Theo quy định của pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 thì ngạch Chấp hành
viên gồm có Chấp hành viên cấp tỉnh và Chấp hành viên cấp huyện và được bổ nhiệm
theo nhiệm kỳ là 05 năm. Việc quy định ngạch bậc của Chấp hành viên theo hai cấp đã
phát sinh nhiều bất cập trong việc sắp xếp, điều động, luân chuyển Chấp hành viên giữa
các cơ quan thi hành án dân sự trong phạm vi toàn quốc, không thu hút được cán bộ về
công tác ở cơ quan thi hành án dân sự và cũng chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách tư
pháp. Hơn nữa, việc quy định Chấp hành viên theo hai cấp với mức chênh lệch về bậc
lương khởi điểm khá cao (Chấp hành viên cấp huyện có mức lương khởi điểm là 2,16 và
Chấp hành viên cấp tỉnh có mức lương khởi điểm là 3,62, như hiện nay là chưa có cơ sở
khoa học rõ ràng để phân loại năng lực, trình độ của Chấp hành viên cấp tỉnh và Chấp
hành viên cấp huyện nên không động viên, khuyến khích được những người có tài năng
và kinh nghiệm đã dẫn đến nhiều bất cập trong thời gian qua [51].
Thực tế hoạt động thi hành án dân sự cho thấy tính chất, mức độ phức tạp của các vụ
việc thi hành án cũng khác nhau: có những vụ việc đơn giản nhưng cũng có nhiều vụ việc
phức tạp, số tiền, tài sản phải thi hành rất lớn, việc thi hành liên quan đến nhiều địa phương,
nhiều cấp, nhiều ngành, vụ việc có yếu tố nước ngoài.v.v… đòi hỏi phải có những Chấp hành
viên có năng lực chuyên môn, có trình độ ngoại ngữ nhất định và giàu kinh nghiệm thực tiễn
để tổ chức thi hành.
Để khắc phục tình trạng trên, bảo đảm sự công bằng giữa công sức mà các Chấp
hành viên bỏ ra với tính chất, yêu cầu công việc của họ thì Luật Thi hành án dân sự năm
2008 (Điều 17) đã quy định chấp hành viên có ba ngạch: sơ cấp, trung cấp và cao cấp dựa
trên tiêu chuẩn về chuyên môn, trình độ, năng lực, nghiệp vụ, thâm niên, kinh nghiệm
công tác mà không phụ thuộc vào đơn vị công tác (cơ quan thi hành án cấp huyện hay cơ
quan thi hành án cấp tỉnh) là rất hợp lý.
* Về tiêu chuẩn bổ nhiệm Chấp hành viên, pháp luật quy định có 03 ngạch Chấp
hành viên cho nên mỗi ngạch Chấp hành viên có những tiêu chuẩn bổ nhiệm khác nhau.
Theo quy định của Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 thì tiêu chuẩn để được
bổ nhiệm Chấp hành viên bao gồm các yêu cầu chung về đạo đức, có trình độ cử nhân
luật trở lên, đã được đào tạo về nghiệp vụ thi hành án, có đủ sức khoẻ và thời gian làm
công tác pháp luật theo quy định (từ bốn năm trở lên đối với Chấp hành viên cấp huyện
và đã làm Chấp hành viên cấp huyện từ năm năm trở lên đối với Chấp hành viên cấp
tỉnh).
Những người đủ tiêu chuẩn nêu trên sẽ được Bộ trưởng Bộ Tư pháp xem xét,
quyết định bổ nhiệm chấp hành viên trên cơ sở Tờ trình đề nghị của Hội đồng tuyển chọn
Chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự địa phương (mỗi một tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương có một Hội đồng tuyển chọn Chấp hành viên).
Theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị “Cán
bộ có chức danh tư pháp phải có trình độ đại học luật và được đào tạo về kỹ năng nghề
nghiệp tư pháp theo chức danh”. Do đó, Luật thi hành án dân sự đã giữ nguyên tiêu
chuẩn bổ nhiệm Chấp hành viên là phải có trình độ cử nhân luật. Tuy nhiên, điểm mới
nổi bật trong tiêu chuẩn bổ nhiệm Chấp hành viên đó là quy định về thời gian làm công
tác pháp luật và phải trúng tuyển kỳ thi tuyển Chấp hành viên. Theo đó, tuỳ vào từng cấp
bậc Chấp hành viên và thời gian công tác pháp luật để được xem xét bổ nhiệm Chấp hành
viên cũng khác nhau, Một trong các tiêu chuẩn bắt buộc để được bổ nhiệm làm Chấp
hành viên đó là phải qua kỳ thi và trúng tuyển kỳ thi tuyển Chấp hành viên ở các ngạch
tương ứng. Quy định mới về thi tuyển Chấp hành viên này nhằm khắc phục hạn chế trong
quy trình, thủ tục tuyển chọn để bổ nhiệm Chấp hành viên theo quy định của pháp luật
hiện hành. Việc bổ nhiệm Chấp hành viên thông qua thi tuyển sẽ cho phép lựa chọn được
người có đủ tiêu chuẩn, năng lực để bổ nhiệm Chấp hành viên, tạo khả năng thu hút cán
bộ hoạt động ở những lĩnh vực khác, phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp, cải cách hành
chính. Hơn nữa, việc bổ nhiệm Chấp hành viên thông qua thi tuyển cũng là phù hợp với
định hướng tại Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị: “Nghiên cứu thực hiện cơ chế
thi tuyển để chọn người bổ nhiệm vào các chức danh tư pháp”.
* Về thời hạn bổ nhiệm Chấp hành viên
Quy định về việc bổ nhiệm Chấp hành viên có nhiệm kỳ 05 năm theo Pháp lệnh
thi hành án dân sự 2004 có những ưu điểm như: giúp cho lãnh đạo Bộ Tư pháp rà soát,
đánh giá lại số liệu, chất lượng đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự trên phạm vi cả
nước, đồng thời đòi hỏi Chấp hành viên phải tự nhìn nhận, đánh giá, kiểm điểm lại chính
mình, cả về phẩm chất, lẫn năng lực chuyên môn; mỗi Chấp hành viên phải tự hoàn thiện
mình, trau dồi đạo đức, không ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn nhằm hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ mà Nhà nước giao phó, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác thi hành án.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm đó thì công tác bổ nhiệm Chấp hành viên theo
nhiệm kỳ đã phát sinh nhiều bất cập như: quy trình, thủ tục xét bổ nhiệm Chấp hành viên
thường phức tạp, kéo dài, đặc biệt khi thay đổi hoặc khuyết thành viên của Hội đồng
tuyển chọn Chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự thì thủ tục bổ nhiệm phải dừng lại
để chờ kiện toàn cho đúng thành phần của Hội đồng tuyển chọn. Mặt khác, việc bổ nhiệm
Chấp hành viên theo nhiệm kỳ cũng tạo cho các Chấp hành viên có tâm lý không thật sự
yên tâm công tác mỗi khi sắp đến kỳ phải xem xét bổ nhiệm lại. Vì mỗi khi xem xét hồ
sơ bổ nhiệm lại có nhiều trường hợp các đương sự đã “trả thù” Chấp hành viên bằng cách
viết đơn thư tố cáo Chấp hành viên, hoặc chính trong nội bộ cơ quan cũng có đơn thư
khiếu nại, tố cáo nặc danh gây hoang mang cho các Chấp hành viên và đôi khi Chấp hành
viên còn có tâm lý “ngại” thi hành, nhất là “ngại” tổ chức cưỡng chế thi hành án vì mỗi
vụ việc tổ chức cưỡng chế thường va chạm, liên quan đến quyền lợi của nhiều người …
Việc bổ nhiệm Chấp hành viên theo nhiệm kỳ như quy định của pháp luật hiện hành phần
nào đã ảnh hưởng đến tính độc lập trong hoạt động thi hành án của Chấp hành viên nói
riêng, của cơ quan thi hành dân sự nói chung. Do đó, Luật thi hành án dân sự đã đưa ra
những quy định mới về việc bổ nhiệm Chấp hành viên không kỳ hạn vừa kế thừa được
những ưu điểm, vừa khắc phục được những hạn chế của việc bổ nhiệm chấp hành viên có
kỳ hạn. Chấp hành viên là một chức danh tư pháp gắn với việc thực hiện nhiệm vụ
chuyên môn về thi hành án dân sự, nên việc bổ nhiệm Chấp hành viên không theo nhiệm
kỳ sẽ tạo ra sự yên tâm để Chấp hành viên làm tốt công tác thi hành án, điều này cũng
không hạn chế đến việc xử lý kỷ luật nếu Chấp hành viên có vi phạm hoặc miễn nhiệm
nếu Chấp hành viên không đủ năng lực, điều kiện làm Chấp hành viên. Hơn nữa, quy
định mới về việc bổ nhiệm Chấp hành viên không kỳ hạn cũng phù hợp với định hướng
đã được quy định tại Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị, đó là: “Tăng thời hạn bổ
nhiệm chức danh tư pháp hoặc thực hiện chế độ bổ nhiệm không có kỳ hạn”.
* Về vị trí pháp lý của chức danh Chấp hành viên trong tổ chức bộ máy nhà
nước ta, hiện có những quan điểm khác nhau. Quan điểm cho rằng Chấp hành viên là
chức danh hành chính xuất phát từ quan niệm chỉ những người nào trực tiếp thực hiện
hoặc để thực hiện quyền lực tư pháp mới là chức danh tư pháp, do vậy chức danh tư pháp
chỉ bao gồm: Kiểm sát viên, Thẩm phán, Thư ký tòa án, Hội thẩm nhân dân, Thẩm tra
viên … còn các chức danh thực hiện hoạt động thi hành án dân sự là chức danh hành
chính. Quan điểm khác cho rằng đây là chức danh tư pháp vì quan niệm chức danh tư
pháp bao gồm những người thực thi nhiệm vụ trong các cơ quan tư pháp (điều tra, truy
tố, xét xử, thi hành án) được đào tạo kỹ năng thực hành và hành nghề theo một chuyên
môn nhất định, có danh xưng, được bổ nhiệm hoặc thừa nhận theo pháp luật khi đáp ứng
đầy đủ các tiêu chuẩn và điều kiện xác định theo quy định của pháp luật [45]. Sở dĩ có
những quan điểm như vậy là do bản chất của hoạt động thi hành án nói chung và thi hành
án dân sự nói riêng chưa được xác định một cách rõ ràng trong lý luận cũng như trên thực
tiễn (như phân tích ở trên). Tuy nhiên, nên xác định chức danh Chấp hành viên trong thi
hành án dân sự là một chức danh tư pháp vì những lý do sau đây:
Thứ nhất, về khái niệm hoạt động tư pháp, mặc dù chưa có một quy phạm pháp
luật nào quy định cụ thể thế nào là hoạt động tư pháp, nhưng có thể hiểu được nội hàm
của nó trong Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân và
các văn bản pháp quy khác về tư pháp. Hoạt động tư pháp là hoạt động điều tra, truy tố,
xét xử các hành vi phạm pháp và giải quyết các vụ kiện tụng trong nhân dân. Cụ thể là
điều tra, truy tố và xét xử các vụ án hình sự; giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia
đình, hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật; thi
hành bản án, quyết định của Tòa án Nhân dân. Theo pháp luật hiện hành, hoạt động điều
tra hình sự được giao cho hệ thống cơ quan điều tra thuộc Bộ Công an, hoạt động thi
hành án dân sự được giao cho hệ thống cơ quan thi hành án thuộc Bộ Tư pháp đảm
nhiệm, việc thi hành án hình sự (phạt tù, tử hình…) được giao cho Bộ Công an, Bộ Quốc
phòng đảm nhiệm. Do đó, ngoài hoạt động xét xử, công tố (truy tố), thì hoạt động điều
tra hình sự và hoạt động thi hành án, cả trong lĩnh vực hình sự và dân sự đều được coi là
hoạt động tư pháp. Cơ quan điều tra và cơ quan thi hành án, với chức năng, nhiệm vụ
được giao, đều được xem là cơ quan tư pháp trong hệ thống các cơ quan tư pháp ở nước ta.
Vì vậy, chức danh của những người được Nhà nước bổ nhiệm để thực thi nhiệm vụ trong các
cơ quan tư pháp là chức danh tư pháp.
Thứ hai, hoạt động tổ chức thi hành án của Chấp hành viên thể hiện đầy đủ
những đặc trưng cơ bản của hoạt động tư pháp, đó là:
+ Được trực tiếp sử dụng quyền lực Nhà nước trong khi thi hành công vụ;
+ Trực tiếp bảo vệ công lý, bảo vệ pháp luật và trật tự pháp luật;
+ Có ảnh hưởng hoặc quyết định trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân và của tổ chức có liên quan;
+ Thực hiện theo một quy trình chặt chẽ, không được đảo lộn và không được làm
tắt (trình tự, thủ tục thi hành án dân sự được quy định chặt chẽ theo Pháp lệnh thi hành án
Dân Sự năm 2004 và đến ngày 01/7/2009 thì được thực hiện theo các quy định của Luật
thi hành án dân sự năm 2008).
+ Mục đích của hoạt động thi hành án là bảo đảm các nội dung của các bản án,
quyết định của Tòa án và các quyết định do pháp luật quy định được thực thi trên thực tế;
+ Thể hiện tính độc lập, tính chuyên môn hóa cao, chế độ chịu trách nhiệm cá nhân và
chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt động của các chức danh tư pháp.
Từ sự phân tích trên, có thể khẳng định Chấp hành viên là một chức danh tư
pháp, thể hiện cấp bậc, quyền hạn, nghĩa vụ của một người được Nhà nước bổ nhiệm nếu
đáp ứng các tiêu chuẩn do pháp luật quy định và được Nhà nước giao trách nhiệm thi
hành các bản án, quyết định dân sự của Tòa án và các bản án, quyết định khác do pháp
luật quy định.
1.1.3. Vị trí, vai trò của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự
Một là, Chấp hành viên là người duy nhất được Nhà nước giao trách nhiệm thi
hành các bản án, quyết định dân sự của Tòa án và các quyết định khác do pháp luật quy
định, nói cách khác Chấp hành viên là người nhân danh Nhà nước tổ chức thi hành án
dân sự. Khi thực hiện nhiệm vụ Chấp hành viên chỉ tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm
trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ. Chấp hành viên là người có vai trò quan trọng
trong quá trình tổ chức thi hành án, là người giữ vị trí trung tâm trong hoạt động thi hành
án. Tư cách đạo đức, ý thức pháp luật, trình độ nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp của Chấp
hành viên là những tiêu chí để người dân, dư luận xã hội đánh giá về bộ máy nhà nước,
tính nghiêm minh của pháp luật trong lĩnh vực thi hành án. Chấp hành viên khi tiến hành
hoạt động thi hành án chỉ được làm những gì pháp luật cho phép và phải tuân theo đúng
trình tự, thủ tục, thời hạn do pháp luật quy định và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật
về quá trình thi hành. Không ai, không cơ quan nào được can thiệp, tác động để buộc
Chấp hành viên làm trái pháp luật. Bên cạnh đó tùy từng tình huống cụ thể, Chấp hành
viên có thể lựa chọn phương án xử lý thích hợp để bảo đảm kết quả tốt nhất cho hoạt
động thi hành án.
Trong hệ thống những chức danh của bộ máy Nhà nước, chức danh Chấp hành
viên là chức danh đặc thù, chỉ do Nhà nước quy định và bổ nhiệm trong lĩnh vực thi hành
án dân sự để làm nhiệm vụ tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết
định khác do pháp luật quy định. Tương tự như chức danh Thẩm phán chỉ có trong cơ quan
Tòa án để làm nhiệm vụ xét xử, chức danh Kiểm sát viên chỉ có trong hệ thống Viện Kiểm
sát để thực hiện quyền công tố... Vì vậy, khi nói đến Chấp hành viên là nói đến người duy
nhất có thẩm quyền thay mặt Nhà nước tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án
và các quyết định của Trong tài và Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh.
Trong quá trình tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết
định khác do pháp luật quy định, Nhà nước trao cho Chấp hành viên quyền được trực tiếp
sử dụng quyền lực Nhà nước để:
- Kịp thời tổ chức thi hành vụ việc được phân công; ra các quyết định về thi hành
án theo thẩm quyền.
- Thi hành đúng nội dung bản án, quyết định; áp dụng đúng các quy định của pháp
luật về trình tự, thủ tục thi hành án, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp
của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; Thực hiện nghiêm chỉnh chuẩn mực
đạo đức nghề nghiệp chấp hành viên.
- Triệu tập đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để giải quyết việc
thi hành án;
- Xác minh tài sản, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án; yêu cầu
cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp tài liệu để xác minh địa chỉ, tài sản
của người phải thi hành án hoặc phối hợp với cơ quan có liên quan xử lý vật chứng,
tài sản và những việc khác liên quan đến thi hành án;
- Quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp cưỡng chế thi hành
án; Lập kế hoạch cưỡng chế thi hành án; Thu giữ tài sản thi hành án.
- Yêu cầu cơ quan Công an tạm giữ người chống đối việc thi hành án theo quy
định của pháp luật.
- Lập biên bản về hành vi vi phạm pháp luật về thi hành án; xử phạt vi phạm
hành chính theo thẩm quyền; Kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý kỷ luật, xử phạt
vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người vi phạm.
- Quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế để thu hồi tiền, tài sản đã chi trả
cho đương sự không đúng quy định của pháp luật, thu phí thi hành án và các khoản
phải nộp khác;
- Sử dụng công cụ hỗ trợ trong khi thi hành công vụ theo quy định của Chính
phủ (quy định tại Điều 20 Luật thi hành án dân sự) [33].
Những quyền hạn trên chỉ được Nhà nước trao cho Chấp hành viên để tổ chức thi
hành các bản án, quyết định mà không trao cho bất cứ một chức danh nào khác trong bộ máy
Nhà nước và cũng không trao cho Chấp hành viên để làm những việc không phải là việc tổ
chức thi hành án. Vì vậy, người không phải là Chấp hành viên thì không có quyền tổ chức thi
hành án dân sự. Nói một cách khác, không ai được phép sử dụng quyền lực Nhà nước để buộc
người khác phải thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án ngoài người duy nhất là Chấp
hành viên.
Hai là, Chấp hành viên có vị trí mang tính độc lập cả về nhiệm vụ lẫn quyền hạn
trong khi tổ chức thi hành án. Chấp hành viên cũng như Thẩm phán trong quá trình thực
thi nhiệm vụ không có một sự can thiệp nào từ bên ngoài có thể buộc Chấp hành viên
phải tổ chức thi hành án trái pháp luật, trừ khi Chấp hành viên cố tình vi phạm pháp luật.
Điều đó được thể hiện ở việc Chấp hành viên có nghĩa vụ phải:
- Chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao;
kịp thời, chủ động, tích cực tổ chức thi hành án đúng nội dung bản án, quyết định của Tòa án
và theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định.
- Khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn mà gây thiệt hại thì cơ quan thi hành án
dân sự nơi Chấp hành viên công tác phải có trách nhiệm bồi thường. Chấp hành viên
đã gây ra thiệt hại nếu có lỗi thì tùy từng trường hợp cụ thể có trách nhiệm bồi hoàn
cho cơ quan thi hành án dân sự theo quy định của pháp luật.
- Chấp hành viên có nghĩa vụ từ chối thực hiện nhiệm vụ được giao khi có căn cứ
cho rằng việc đó là trái pháp luật. Nếu Thủ trưởng cơ quan thi hành án vẫn quyết định thì
Chấp hành viên phải chấp hành, nhưng Thủ trưởng cơ quan thi hành án phải chịu trách
nhiệm về quyết định của mình. Trong trường hợp này, Chấp hành viên có nghĩa vụ báo
cáo lên Trưởng Thi hành án dân sự cấp tỉnh (đối với Thi hành án dân sự cấp huyện), báo
cáo lên Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp (đối với Thi hành án dân
sự cấp tỉnh), báo cáo lên Cục trưởng Cục Thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng (đối với Thi
hành án cấp quân khu) và không phải chịu trách nhiệm về hậu quả của việc thi hành
quyết định đó [8].
- Ngoài ra, pháp luật còn quy định nghĩa vụ của Chấp hành viên không được làm
một số công việc nhất định, cụ thể:
+ Chấp hành viên không được tư vấn cho đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan dẫn đến việc thi hành án trái pháp luật.
+ Chấp hành viên không được can thiệp trái pháp luật vào việc giải quyết vụ việc
thi hành án hoặc lợi dụng ảnh hưởng của mình tác động đến người có trách nhiệm thi
hành án.
+ Chấp hành viên không được sử dụng trái phép vật chứng, tiền, tài sản thi hành
án.
+ Chấp hành viên không được thực hiện việc thi hành án liên quan đến quyền,
lợi ích của bản thân và những người thân thích như: Vợ, chồng, con đẻ, con nuôi; Cha
đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, ông bà nội, ngoại, bác, chú, cậu, cô,dì và anh, chị em
ruột của Chấp hành viên, của vợ hoặc chồng của Chấp hành viên; Cháu ruột mà Chấp
hành viên là ông, bà, bác, chú, cậu, cô, dì.
+ Chấp hành viên không được sử dụng thẻ chấp hành viên, trang phục, phù hiệu
thi hành án, công cụ hỗ trợ để làm những việc không thuộc quyền hạn, nhiệm vụ được
giao.
+ Chấp hành viên không được sách nhiễu, gây phiền hà cho cá nhân, cơ quan, tổ
chức trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thi hành án.
+ Chấp hành viên không được cố ý thi hành trái nội dung bản án, quyết định, trì
hoãn hoặc kéo dài thời gian giải quyết việc thi hành án được giao không có căn cứ pháp
luật [33].
Ba là, Chấp hành viên là hạt nhân của hoạt động thi hành án dân sự, tạo dựng lên
uy tín của cơ quan thi hành án dân sự.
Nếu như hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự là trung tâm của việc tổ chức
thi hành án các bản án, quyết định của Tòa án và quyết định của cơ quan Tài phán khác,
thì có thể nói hoạt động của Chấp hành viên là hạt nhân của cơ quan thi hành án dân sự.
Hoạt động của Chấp hành viên tạo lên sức mạnh, uy tín của cơ quan thi hành án dân sự.
Hiệu quả hoạt động của Chấp hành viên cũng chính là hiệu quả hoạt động của cơ quan thi
hành án dân sự. Một cơ quan thi hành án dân sự có thể có rất nhiều cán bộ, công chức
như Chấp hành viên, Thẩm tra viên, chuyên viên, kế toán, thủ quỹ, văn thư, lái xe...,
nhưng chỉ có Chấp hành viên là người có thẩm quyền tổ chức thi hành án, những người
còn lại chỉ thực hiện những công việc nhằm mục đích bổ trợ, phục vụ cho Chấp hành
viên tổ chức thi hành án. Chính vì vậy, Chấp hành viên có vai trò đặc biệt quan trọng
trong cơ quan thi hành án dân sự vì hoạt động của họ mang tính chất quyết định kết quả
công việc của đơn vị. Cơ quan thi hành án dân sự mạnh hay yếu, hoạt động có hiệu quả
hay không có hiệu quả, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên đương sự và của Nhà
nước đến mức độ nào phụ thuộc hoàn toàn vào hoạt động của Chấp hành viên. Vì, hầu
hết các hoạt động của Chấp hành viên đều trực tiếp tác động các quyền và nghĩa vụ cả về
nhân thân và tài sản của người được thi hành án, người phải thi hành án và những người
có quyền, nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án, thường được dư luận xã hội quan tâm,
chú ý nên hoạt động tổ chức thi hành án của Chấp hành viên có hiệu quả sẽ tạo lên dư
luận xã hội tốt, tạo dựng được uy tín của cơ quan thi hành án dân sự trong nhân dân mà
cao hơn là sự tin tưởng vào tính nghiêm minh, công bằng của pháp luật, và ngược lại nếu
hiệu quả hoạt động của Chấp hành viên kém, không bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp
của Nhà nước, tổ chức và cá nhân đã được Tòa án hoặc cơ quan tài phán khác quyết định
nghĩa là các bản án, quyết định không được Chấp hành viên tổ chức thi hành một cách
triệt để sẽ gây nên dư luận bất bình của xã hội và mất lòng tin của nhân dân đối với cơ
quan thi hành án dân sự nói riêng và đối với nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói
chung.
Bốn là, hoạt động của Chấp hành viên góp phần quan trọng trong việc bảo vệ trật
tự pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Áp dụng đúng các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục thi hành án và thi
hành đúng nội dung bản án, quyết định của Tòa án để bảo đảm quyền, lợi ích của người
được thi hành án và người phải thi hành án; không xâm phạm đến quyền, lợi ích của
những người liên quan đến việc thi hành án là yêu cầu quan trọng nhất đối với một Chấp
hành viên thi hành án dân sự. Vì khi bản án, quyết định được Chấp hành viên tổ chức thi
hành nghiêm chỉnh, đúng pháp luật thì tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật
phải chấm dứt các hành vi đó và thực hiện các nghĩa vụ của mình theo quyết định của
Tòa án; quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể bị xâm phạm được khôi phục, bảo đảm thực
hiện được mục đích xét xử của tòa án, bảo vệ được lợi ích của Nhà nước, bảo vệ được
các quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và công dân. Đồng
thời, việc thi hành án có hiệu quả sẽ củng cố hiệu lực của pháp luật, tăng cường pháp chế
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ một cách vững chắc các quyền tự do của công dân, nâng cao uy
tín của bộ máy Nhà nước mà đại diện là các cơ quan bảo vệ pháp luật và chính là các cơ
quan thi hành án dân sự.
Như vậy, Chấp hành viên của cơ quan thi hành án dân sự có vị trí, vai trò rất
quan trọng trong bộ máy Nhà nước. Không có hoạt động của Chấp hành viên thì các bản
án, quyết định của Tòa án nhân danh Nhà nước sẽ chỉ là những quyết định trên giấy do
không được tổ chức thi hành hoặc thi hành không đầy đủ trên thực tế. Do Chấp hành viên
có vị trí, vai trò quan trọng như vậy nên trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta
đã hết sức chú trọng đến đội ngũ này. Vì vậy, đội ngũ Chấp hành viên không chỉ được
tăng cường về số lượng mà còn tăng cả về chất lượng nhằm nâng cao chất lượng, hiệu
quả của công tác thi hành án dân sự. Tuy nhiên, theo báo cáo chính thức hàng năm của
các cơ quan có thẩm quyền, công tác thi hành án dân sự hiện vẫn là một vấn đề rất bức
xúc trong lĩnh vực tư pháp, số lượng án tồn đọng chưa được thi hành còn nhiều, số lượng
đơn thư khiếu nại vượt cấp còn lớn. Điều này có nhiều nguyên nhân, nhưng một trong
những nguyên nhân cơ bản là quyền và nghĩa vụ của Chấp hành viên trong thi hành án
dân sự còn bị hạn chế. Bởi vậy, trong tiến trình cải cách tư pháp hiện nay, vấn đề đặt ra là
làm thế nào để tạo được hành lang pháp lý trong đó quy định đầy đủ về quyền và nghĩa
vụ cho Chấp hành viên trong thi hành án dân sự, giúp cho họ có đủ điều kiện hoàn thành
tốt nhiệm vụ mà nhà nước giao phó và đáp ứng được yêu cầu do thực tiễn đặt ra.
1.2. KHÁI NIỆM ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CHẤP HÀNH VIÊN
Chấp hành viên là người được Nhà nước giao nhiệm vụ tổ chức thi hành các bản
án, quyết định của Tòa án và các quyết định của Trọng tài thương mại Việt Nam, Hội đồng
xử lý vụ việc cạnh tranh, nên khi đặt vấn đề cải cách tư pháp thì không thể không nói đến
việc đổi mới chính hoạt động của Chấp hành viên, cụ thể là phải xác định rõ địa vị pháp lý
của Chấp hành viên trong hoạt động thi hành án dân sự, đồng thời xác định một cơ chế tổ
chức khoa học, hợp lý để Chấp hành viên thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình.
Vậy, địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự được hiểu như thế
nào? Trước hết, cần làm rõ khái niệm địa vị pháp lý. Theo quan niệm chung, địa vị pháp lý
là vị trí của chủ thể pháp luật trong mối quan hệ với những chủ thể khác trên cơ sở các
quy định pháp luật; địa vị pháp lý của chủ thể pháp luật thể hiện thành một tổng thể các
quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể, qua đó xác lập cũng như giới hạn khả năng của
chủ thể trong các hoạt động của mình. Thông qua địa vị pháp lý có thể phân biệt chủ thể
pháp luật này với chủ thể pháp luật khác, đồng thời, cũng có thể xem xét vị trí và tầm
quan trọng của chủ thể pháp luật trong các mối quan hệ pháp luật [42]. Như vậy, "địa vị
pháp lý" khác với "địa vị xã hội" ở chỗ nó được pháp luật quy định và nó biểu hiện ở các
quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể.
Vận dụng khái niệm trên vào lĩnh vực thi hành án dân sự, thì địa vị pháp lý của
Chấp hành viên trong thi hành án dân sự được hiểu là tổng thể các quyền và nghĩa vụ tổ
chức thi hành án của Chấp hành viên phát sinh trong quá trình thi hành các bản án,
quyết định đã có hiệu lực thi hành, thể hiện vị trí của Chấp hành viên trong mối quan hệ
với các chủ thể khác của quan hệ pháp luật thi hành án dân sự. Trong đó, các quyền thi
hành án dân sự của Chấp hành viên là phạm vi những việc mà Chấp hành viên được quyền
quyết định, thực hiện trong quá trình thực thi nhiệm vụ của mình, còn các nghĩa vụ thi
hành án của Chấp hành viên được hiểu là những việc mà Chấp hành viên phải thực hiện
trong quá trình tổ chức thi hành án, nhằm bảo đảm cho việc thi hành bản án, quyết định
được nhanh chóng và hiệu quả. Quyền và nghĩa vụ của Chấp hành viên luôn đi liền với
trách nhiệm. Thi hành án là hoạt động làm cho các bản án, quyết định được trở thành
hiện thực trong cuộc sống nhằm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức
chính trị xã hội và của nhà nước. Do đó, việc xác định trách nhiệm của Chấp hành viên
gắn liền với quyền và nghĩa vụ của chủ thể này trong hoạt động thi hành án dân sự là rất
cần thiết.
Chấp hành viên không chỉ là chủ thể của quan hệ pháp luật thi hành án dân sự mà
còn là chủ thể của nhiều loại quan hệ pháp luật khác như quan hệ pháp luật hành chính
(ví dụ: Chấp hành viên phải chịu sự quản lý, điều hành về mặt tổ chức của người đứng
đầu cơ quan thi hành án nơi mình công tác và chịu sự quản lý của lãnh đạo ngành thi
hành án dân sự). Vì vậy, ngoài pháp luật thi hành án dân sự, hành vi của Chấp hành viên
còn chịu sự điều chỉnh của nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau. Nhưng nói đến địa vị
pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự là chỉ nói đến các quyền và nghĩa vụ
trong thi hành án dân sự của Chấp hành viên với tư cách là người trực tiếp tổ chức thi
hành các bản án, quyết định dân sự, phát sinh trong quá trình thi hành án dân sự. Các
quyền và nghĩa vụ này trước hết được quy định bởi Pháp lệnh thi hành án dân sự năm
2004, nay là Luật thi hành án dân sự năm 2008 và các văn bản hướng dẫn thi hành Pháp
lệnh thi hành án dân sự năm 2004 nay là các văn bản hướng dẫn thi hành Luật thi hành án
dân sự năm 2008.
Tóm lại, Chấp hành viên là người tổ chức thi hành các bản án, quyết định của
Tòa án và các quyết định khác do pháp luật quy định. Tổng thể các quyền và nghĩa vụ
của Chấp hành viên phát sinh trong quá trình thi hành các bản án, quyết định đã có hiệu
lực thi hành thể hiện vị trí của Chấp hành viên trong mối quan hệ với các chủ thể khác
của quan hệ pháp luật thi hành án dân sự tạo thành địa vị pháp lý của Chấp hành viên
trong thi hành án dân sự. Việc xác định địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành
án dân sự chịu sự quy định và chi phối của nhiều yếu tố khác nhau như, đặc thù của hoạt
động thi hành án, bản chất của thi hành án dân sự và vị trí, vai trò của Chấp hành viên
trong thi hành án dân sự.
Với những phân tích, lập luận trên, để xác định rõ địa vị pháp lý của Chấp hành
viên trong thi hành án dân sự, pháp luật phải thể hiện được một cách rõ ràng, đầy đủ và toàn
diện các quyền và nghĩa vụ của Chấp hành viên cũng như các mối quan hệ của Chấp hành
viên trong các nhóm quy định sau đây:
Trước hết, địa vị pháp lý của Chấp hành viên phải được thể hiện ở các quy định
chung về nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự.
Thứ hai, địa vị pháp lý của Chấp hành viên còn phải được thể hiện thông qua các
quy định về trình tự, thủ tục thi hành án các bản án, quyết định bao gồm: (a) giai đoạn tự
nguyện thi hành án, (b) giai đoạn cưỡng chế thi hành án, (c) giai đoạn kết thúc thi hành
án.
1.3. TIÊU CHÍ HOÀN THIỆN ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CHẤP HÀNH VIÊN
TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI VIỆT NAM
Thứ nhất, hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành viên phải xuất phát từ yêu cầu
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đã đề ra nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân ta
là “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân dưới sự lãnh đạo của Đảng”. Đồng thời, lần đầu tiên trong Hiến pháp 1992 đã ghi rõ:
“Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Đây chính là sự tiếp tục phát triển tư
tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền trong điều kiện mới. Thực tiễn của công
cuộc đổi mới những năm qua ngày càng khẳng định yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng là một tất yếu khách quan, mang tính quy luật của quá
trình đi lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, mở rộng giao lưu quốc tế và hội nhập quốc tế của nước ta. Xây dựng
Nhà nước pháp quyền chính là xây dựng một nhà nước dựa trên nền tảng các tư tưởng
pháp lý tiến bộ của nhân loại: công bằng, nhân đạo, dân chủ và pháp chế. Đây là những
giá trị to lớn của các dân tộc đã trở thành tư tưởng pháp lý tiến bộ làm mục tiêu cho việc
xây dựng Nhà nước pháp quyền.
Quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tạo ra tiền
đề, đồng thời cũng đòi hỏi phải không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật, trong đó có
pháp luật thi hành án dân sự nói chung và pháp luật về địa vị pháp lý Chấp hành viên
nói riêng. Pháp luật địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong Nhà nước pháp quyền phải
được xây dựng với hướng mở rộng quyền năng cho các Chấp hành viên tạo hành lang
pháp lý cho các Chấp hành viên thực sự có quyền chủ động thi hành các bản án, quyết
định để góp phần thực hiện dân chủ và công bằng xã hội, góp phần giữ gìn kỷ cương
pháp luật, bảo vệ triệt để quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân khi
bị xâm hại.
Thứ hai, việc hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành viên phải nhằm mục đích
làm tăng hiệu quả công tác thi hành án dân sự, bảo vệ lợi ích Nhà nước, các quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức và công dân, góp phần giải quyết tình trạng án tồn đọng đang là
vấn đề bức xúc hiện nay, đồng thời phải tạo ra cơ chế pháp lý hữu hiệu để bảo đảm thực
thi các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.
Thứ ba, việc hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành viên phải được đặt trong
tổng thể hệ thống pháp luật, bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ giữa pháp luật tố tụng và
pháp luật nội dung; giữa pháp luật thi hành án với các lĩnh vực pháp luật có liên quan...
giữa chúng phải có sự phối hợp, bổ sung cho nhau trong điều chỉnh các quan hệ xã hội
mà không có sự chồng chéo, mâu thuẫn, thậm chí làm vô hiệu lẫn nhau.
Thứ tư, tổng kết một cách toàn diện, sâu sắc thực tiễn công tác thi hành án nói
chung, thi hành án dân sự nói riêng ở nước ta trong từng giai đoạn, trong đó chú trọng
tổng kết công tác xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật về quyền và nghĩa vụ của Chấp
hành viên trong thi hành án dân sự; giải quyết bất cập về pháp luật, thực tiễn xét xử và
thực tiễn thi hành án; kế thừa, phát triển và pháp điển hoá các quy định còn phù hợp, tiến
bộ phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước, trình độ văn hoá pháp lý của nhân
dân cũng như đạo đức, tập quán, truyền thống tốt đẹp của dân tộc và bản sắc văn hoá Việt
Nam. Đồng thời trong bối cảnh toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, việc
xây dựng và hoàn thiện pháp luật địa vị pháp lý của Chấp hành viên cần phải tiếp thu, kế
thừa có chọn lọc những thành tựu mà nhân loại đã đạt được về xây dựng Nhà nước pháp
quyền, tổ chức và thi hành pháp luật của các nước, bảo đảm kết hợp hài hòa tính truyền
thống và tính hiện đại của hệ thống pháp luật; tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của các
nước về xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật thi hành án; thực hiện đầy đủ các điều
ước quốc tế mà nước ta đã ký kết hoặc gia nhập.
Thứ năm, Thể hiện rõ quan điểm cải cách hành chính, cải cách tư pháp, bảo đảm
sự quản lý tập trung, thống nhất công tác thi hành án, đặc biệt, để nâng cao hiệu quả công
tác thi hành án dân sự, cần tạo ra cơ chế gắn kết liên thông giữa các loại hình thi hành án,
khắc phục tình trạng phân tán, cắt khúc hiện nay, nhất là giữa thi hành án hình sự và thi
hành án dân sự, đồng thời từng bước xã hội hoá thi hành án với lộ trình hợp lý và bước đi
vững chắc, phù hợp với tình hình kinh tế- xã hội của đất nước và yêu cầu hội nhập quốc
tế. Ngày 24/7/2009, Thủ tướng Chính Phủ đã ký Nghị định về tổ chức và hoạt động của
Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian từ ngày
01/7/2009 đến ngày 01/7/2012. Nhưng đến nay vẫn chưa được thực hiện, vấn đề nay cần
sớm được triển khai thí điểm và tổng kết, đánh giá để nhân rộng mô hình này.
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA CHẤP HÀNH VIÊN VÀ
VIỆC ÁP DỤNG NHỮNG QUY ĐỊNH ĐÓ TRONG
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI VIỆT NAM
2.1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÔNG TÁC THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM
2.1.1. Thời kỳ từ năm 1945 đến năm 1949
Trước cách mạng tháng tám, ở nước ta tồn tại chế độ Thừa phát lại.Căn cứ Luật tố
tụng dân sự ban hành theo Nghị định ngày 16/3/1910 của toàn quyền Đông Dương, Thừa
phát lại được tổ chức ở Việt Nam, với nhiệm vụ thông báo Toà khai mạc và bế mạc, gọi
các đương sự, nhân chứng, thi hành lệnh giữ trật tự phiên toà, tống đạt giấy tờ theo yêu
cầu của Tòa án, thi hành án văn có hiệu lực pháp luật, triệu tập đương sự, lập các vi bằng
theo quy định của pháp luật. Như vậy, một trong những nhiệm vụ chính của Thừa phát lại
là thi hành án dân sự. Chế định thừa phát lại đã hình thành, tồn tại ở Việt Nam trước cách
mạng tháng Tám năm 1945 cho đến năm 1950 và sau đó còn tiếp tục tồn tại dưới chế độ
ngụy quyền Sài gòn cho đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (năm 1975).
Thừa phát lại là công lại do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm và quản lý, hành
nghề trên cơ sở quy định của pháp luật được hưởng thù lao của khách hàng theo biểu giá
quy định. Khác với Luật sư, Thừa phát lại không có quyền từ chối thi hành nhiệm vụ khi
được yêu cầu. Trong quá trình thực thi nhiệm vụ Thừa phát lại chịu sự chỉ đạo trực tiếp
của những công chức có trách nhiệm của Tòa án như Chưởng lý, biện lý, Thẩm phán,
Lục sự...Tổ chức thừa phát lại chủ yếu tồn tại, hoạt động ở những thành phố lớn, còn ở
những vùng nông thôn việc thi hành án do chính quyền cơ sở đảm nhiệm.
Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà nước Việt nam dân chủ cộng hòa ra
đời, hệ thống cơ quan tư pháp mới được thiết lập trong cả nước. Trên cơ sở Sắc lệnh ngày
10/10/1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc cho giữ tạm thời các luật lệ hiện hành ở
Bắc, Trung, Nam bộ cho đến khi ban hành những Bộ luật chung thống nhất cho toàn
quốc, nếu những đạo luật ấy không trái với các nguyên độc lập của Nhà nước Việt Nam
và chính thể dân chủ cộng hòa. Chế định thừa phát lại tiếp tục được duy trì và chịu sự
quản lý của Ban Công lại thuộc phòng giám đốc hộ của Bộ Tư pháp. Tuy nhiên, tổ chức
Thừa phát lại - hình thức tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự đầu tiên của chế độ mới
không còn mang ý nghĩa là công cụ của chính quyền thực dân phong kiến như trước đây,
mà có nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân
dân.
Đến năm 1946, tại sắc lệnh số 13 ngày 20/11/1946 của chủ tịch Chính phủ lâm thời
Việt Nam dân chủ cộng hòa về tổ chức các Tòa án và các ngạch Thẩm phán đã đặt cơ sở đầu
tiên cho tổ chức thi hành án dân sự Việt Nam. Tại Khoản 3 Điều 3 của Sắc lệnh quy định
“Ban Tư pháp xã có quyền thi hành những mệnh lệnh của thẩm phán cấp trên” bao gồm các
bản án, quyết định của Tòa án. Và tại Điều 3 Lệnh số 130 ngày 19/7/1946 của Chủ tịch
Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa đã quy định “Trong các xã, thị xã hoặc khu phố Chủ
tịch, Phó chủ tịch và Thư ký đều chịu trách nhiệm thi hành các mệnh lệnh hoặc án”. Ở nơi
nào có Thừa phát lại riêng thì đương sự có quyền nhờ Thừa phát lại riêng thi hành mệnh lệnh
(trích tại Việt Nam dân quốc công báo năm 1946).
Như vậy, tổ chức thi hành án dân sự đã được hình thành ngay trong những năm
đầu sau cách mạng tháng Tám thành công và tồn tại dưới hai hình thức là Thừa phát lại
và Ban tư pháp xã. Tuy tồn tại hai lực lượng thi hành án, nhưng việc thi hành án dù do
Thừa phát lại hay Ban Tư pháp xã tiến hành đều được thể hiện quyền lực nhà nước và
được bảo đảm bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước.
Về trình tự thi hành án, Thông tư số 24-BK ngày 26/4/1949 của Bộ Trưởng Bộ Tư
pháp về việc thi hành án Hình và Hộ đã quy định cụ thể những nguyên tắc chấp hành, thể
thức chấp hành, cách thức thi hành các bản án và quyết định của Tòa án. Về cách thức thi
hành: Pháp luật đặt ra những công lại riêng để thi hành các án hộ và thương mại, được
gọi là các Thừa phát lại. Tuy nhiên Thừa phát lại trước năm 1945 là Lý trưởng thì nay
trong tổ chức tư pháp mới là tư pháp xã. Chức năng này của Ban tư pháp xã đã được
chính thức quy định trong Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946 về tổ chức tòa án và các ngạch
thẩm phán. Khi cần thiết các vị chỉ huy binh lực sẽ can thiệp vào việc thi hành án. Tuy
nhiên việc dân sự không có một cách thức duy nhất, tùy theo bản chất mỗi loại án hộ có
một cách thức thi hành riêng. Các Thẩm phán phải thấu triệt những thủ tục chấp hành và
phải theo dõi công việc xem có đạt được kết quả không. Nếu cần thẩm phán nên đến
chứng kiến việc làm của các cơ quan thừa hành. Mỗi khi có trở lực trong việc chấp hành,
ông biện lý có bổn phận can thiệp để tỏ rõ nhiệm vụ làm cho pháp luật được tôn trọng.
Thông tư trên đã xác định trách nhiệm thi hành án của Thừa phát lại, Ban tư pháp
xã và nhấn mạnh vai trò của Ủy ban nhân dân xã, thị trấn, khu phố và các cơ quan có liên
quan trong việc hỗ trợ thi hành án. Nhà nước không chỉ tôn trọng quyền tự định đoạt của các
đương sự trong giao lưu dân sự, thương sự và tố tụng mà còn bảo đảm quyền tự định đoạt
của đương sự trong việc bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình bằng sự cưỡng chế của Nhà nước.
Tóm lại, có thể nói rằng ngay từ những năm đầu của chính quyền cách mạng, Nhà
nước đã từng bước xác định cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự
nhằm thể hiện bản chất của nền tư pháp nhân dân, công cụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của nhân dân.
2.1.2. Thời kỳ từ năm 1950 đến năm 1980
Theo sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 về “Cải cách bộ máy tư pháp và luật tố
tụng” thì Thẩm phán huyện dưới sự kiểm soát của biện lý có nhiệm vụ đem chấp hành
các án hình về khoản bồi thường hay bồi hoàn và các án hộ mà chính Tòa án huyện hay
Tòa án trên đã tuyên (Điều 19), việc phát mại bất động sản và phân phối tiền bán được
cũng do Thẩm phán huyện phụ trách. Trong trường hợp có nhiều bất động sản rải rác
trong nhiều huyện khác nhau thì Biện lý sẽ chỉ định một Thẩm phán huyện để việc phát
mại vừa có lợi cho chủ nợ lẫn người mắc nợ. Theo quy định này, việc thi hành án dân sự
do Thừa phát lại và Ban tư pháp xã thực hiện trước đây được thay thế bằng Thẩm phán
huyện dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chánh án. Sự kiện này đã làm thay đổi căn bản cơ
chế tổ chức hoạt động thi hành án dân sự. Thi hành án dân sự từ chỗ căn cứ vào yêu cầu
của đương sự đã trở thành trách nhiệm của Nhà nước. Tòa án chủ động thi hành án dân
sự mà không chờ yêu cầu của người được thi hành án, các bản án, quyết định của Tòa án
khi có hiệu lực pháp luật là được tổ chức thi hành. Trên cơ sở Hiến pháp năm 1959, Quốc
hội đã ban hành Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 1960. Điều 24 của Luật này đã xác định
“Tại các Tòa án nhân dân địa phương có nhân viên chấp hành án làm nhiệm vụ thi hành các
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự

More Related Content

What's hot

Báo cáo thực tập kiểm sát viên viện kiểm sát huyện Phú Riềng, Bình Phước
Báo cáo thực tập kiểm sát viên viện kiểm sát huyện Phú Riềng, Bình PhướcBáo cáo thực tập kiểm sát viên viện kiểm sát huyện Phú Riềng, Bình Phước
Báo cáo thực tập kiểm sát viên viện kiểm sát huyện Phú Riềng, Bình PhướcDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Liệt Kê 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Tại Chi Cục Thi Hành Án Từ Các Trường Luật
Liệt Kê 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Tại Chi Cục Thi Hành Án Từ Các Trường LuậtLiệt Kê 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Tại Chi Cục Thi Hành Án Từ Các Trường Luật
Liệt Kê 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Tại Chi Cục Thi Hành Án Từ Các Trường LuậtDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

What's hot (20)

Luận văn: Biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự theo pháp luật
Luận văn: Biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự theo pháp luậtLuận văn: Biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự theo pháp luật
Luận văn: Biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự theo pháp luật
 
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sựLuận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
 
Luận văn: Pháp luật về chi ngân sách Nhà nước tại Tp Đà Nẵng, 9đ
Luận văn: Pháp luật về chi ngân sách Nhà nước tại Tp Đà Nẵng, 9đLuận văn: Pháp luật về chi ngân sách Nhà nước tại Tp Đà Nẵng, 9đ
Luận văn: Pháp luật về chi ngân sách Nhà nước tại Tp Đà Nẵng, 9đ
 
Luận văn: Cơ quan Cảnh sát điều tra trong tố tụng hình sự
Luận văn: Cơ quan Cảnh sát điều tra trong tố tụng hình sự Luận văn: Cơ quan Cảnh sát điều tra trong tố tụng hình sự
Luận văn: Cơ quan Cảnh sát điều tra trong tố tụng hình sự
 
Báo cáo thực tập kiểm sát viên viện kiểm sát huyện Phú Riềng, Bình Phước
Báo cáo thực tập kiểm sát viên viện kiểm sát huyện Phú Riềng, Bình PhướcBáo cáo thực tập kiểm sát viên viện kiểm sát huyện Phú Riềng, Bình Phước
Báo cáo thực tập kiểm sát viên viện kiểm sát huyện Phú Riềng, Bình Phước
 
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Kê biên tài sản trong thi hành án dân sự theo Luật thi hành án dân ...
Luận văn: Kê biên tài sản trong thi hành án dân sự theo Luật thi hành án dân ...Luận văn: Kê biên tài sản trong thi hành án dân sự theo Luật thi hành án dân ...
Luận văn: Kê biên tài sản trong thi hành án dân sự theo Luật thi hành án dân ...
 
Luận văn: Pháp luật về hành nghề luật sư ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về hành nghề luật sư ở Việt Nam, HAYLuận văn: Pháp luật về hành nghề luật sư ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về hành nghề luật sư ở Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Xác minh điều kiện thi hành án theo pháp luật, HOT
Luận văn: Xác minh điều kiện thi hành án theo pháp luật, HOTLuận văn: Xác minh điều kiện thi hành án theo pháp luật, HOT
Luận văn: Xác minh điều kiện thi hành án theo pháp luật, HOT
 
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAYLuận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
 
Luận văn: Quản lý trong lĩnh vực khai sinh tại tỉnh Bến Tre, HAY
Luận văn: Quản lý trong lĩnh vực khai sinh tại tỉnh Bến Tre, HAYLuận văn: Quản lý trong lĩnh vực khai sinh tại tỉnh Bến Tre, HAY
Luận văn: Quản lý trong lĩnh vực khai sinh tại tỉnh Bến Tre, HAY
 
200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Luật Tại Tòa Án, 9 Điểm
200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Luật Tại Tòa Án, 9 Điểm200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Luật Tại Tòa Án, 9 Điểm
200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Luật Tại Tòa Án, 9 Điểm
 
Liệt Kê 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Tại Chi Cục Thi Hành Án Từ Các Trường Luật
Liệt Kê 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Tại Chi Cục Thi Hành Án Từ Các Trường LuậtLiệt Kê 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Tại Chi Cục Thi Hành Án Từ Các Trường Luật
Liệt Kê 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Tại Chi Cục Thi Hành Án Từ Các Trường Luật
 
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt NamLuận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
 
Luận văn: Cưỡng chế thi hành án dân sự tại tỉnh Đắk Nông
Luận văn: Cưỡng chế thi hành án dân sự tại tỉnh Đắk NôngLuận văn: Cưỡng chế thi hành án dân sự tại tỉnh Đắk Nông
Luận văn: Cưỡng chế thi hành án dân sự tại tỉnh Đắk Nông
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về công chứng tại tỉnh Quảng Ngãi, 9đ
Luận văn: Quản lý nhà nước về công chứng tại tỉnh Quảng Ngãi, 9đLuận văn: Quản lý nhà nước về công chứng tại tỉnh Quảng Ngãi, 9đ
Luận văn: Quản lý nhà nước về công chứng tại tỉnh Quảng Ngãi, 9đ
 
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng NaiLuận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
 
Luận văn: Hoàn thiện quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩm
Luận văn: Hoàn thiện quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩmLuận văn: Hoàn thiện quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩm
Luận văn: Hoàn thiện quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩm
 
Luận văn: Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự, HOT Luận văn: Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Luật La Mã trong xây dựng chế định vật quyền, HOT
Luận văn: Luật La Mã trong xây dựng chế định vật quyền, HOTLuận văn: Luật La Mã trong xây dựng chế định vật quyền, HOT
Luận văn: Luật La Mã trong xây dựng chế định vật quyền, HOT
 

Similar to Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự

BÁO CÁO TỐT NGHIỆP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰBÁO CÁO TỐT NGHIỆP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰOnTimeVitThu
 
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông NôLuận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông NôViết Thuê Luận Văn Luanvanpanda.com
 
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông NôLuận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông NôViết Thuê Luận Văn Luanvanpanda.com
 
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông NôLuận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông NôNhận Viết Đề Tài Thuê trangluanvan.com
 
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: ...
 TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH  >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: ... TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH  >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: ...
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: ...OnTimeVitThu
 

Similar to Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự (20)

Luận văn: Địa vị pháp lý của Thẩm tra viên thi hành án dân sự
Luận văn: Địa vị pháp lý của Thẩm tra viên thi hành án dân sựLuận văn: Địa vị pháp lý của Thẩm tra viên thi hành án dân sự
Luận văn: Địa vị pháp lý của Thẩm tra viên thi hành án dân sự
 
Luận văn: Địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng hành chính
Luận văn: Địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng hành chínhLuận văn: Địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng hành chính
Luận văn: Địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng hành chính
 
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAIGIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI
 
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰBÁO CÁO TỐT NGHIỆP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
 
Pháp luật hình sự của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án
Pháp luật hình sự của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa ánPháp luật hình sự của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án
Pháp luật hình sự của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án
 
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông NôLuận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
 
Luận án: Pháp luật về kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố
Luận án: Pháp luật về kiểm sát viên trong thực hành quyền công tốLuận án: Pháp luật về kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố
Luận án: Pháp luật về kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố
 
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông NôLuận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
 
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông NôLuận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
 
Luận văn: Địa vị pháp lý của thư ký tòa án theo pháp luật, HAY
Luận văn: Địa vị pháp lý của thư ký tòa án theo pháp luật, HAYLuận văn: Địa vị pháp lý của thư ký tòa án theo pháp luật, HAY
Luận văn: Địa vị pháp lý của thư ký tòa án theo pháp luật, HAY
 
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: ...
 TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH  >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: ... TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH  >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: ...
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: ...
 
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sựNâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
 
Luận văn: Tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự tại Hà Nội
Luận văn: Tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự tại Hà NộiLuận văn: Tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự tại Hà Nội
Luận văn: Tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự tại Hà Nội
 
Vai trò của tòa án cấp huyện trong giải quyết các vụ án hành chính
Vai trò của tòa án cấp huyện trong giải quyết các vụ án hành chínhVai trò của tòa án cấp huyện trong giải quyết các vụ án hành chính
Vai trò của tòa án cấp huyện trong giải quyết các vụ án hành chính
 
Giải Quyết Vụ Án Hành Chính Tại Tòa Án Tỉnh Đồng Nai
Giải Quyết Vụ Án Hành Chính Tại Tòa Án Tỉnh Đồng NaiGiải Quyết Vụ Án Hành Chính Tại Tòa Án Tỉnh Đồng Nai
Giải Quyết Vụ Án Hành Chính Tại Tòa Án Tỉnh Đồng Nai
 
Luận văn: Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án, HOT
Luận văn: Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án, HOTLuận văn: Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án, HOT
Luận văn: Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án, HOT
 
Luận văn: Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại quận Sơn Trà
Luận văn: Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại quận Sơn TràLuận văn: Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại quận Sơn Trà
Luận văn: Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại quận Sơn Trà
 
Đề tài: Thẩm quyền của Viện Kiểm sát trong xét xử vụ án, HAY
Đề tài: Thẩm quyền của Viện Kiểm sát trong xét xử vụ án, HAYĐề tài: Thẩm quyền của Viện Kiểm sát trong xét xử vụ án, HAY
Đề tài: Thẩm quyền của Viện Kiểm sát trong xét xử vụ án, HAY
 
Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân
Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dânTổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân
Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân
 
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sựLuận văn: Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...hoangtuansinh1
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...ChuThNgnFEFPLHN
 
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptPhamThiThuThuy1
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnpmtiendhti14a5hn
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngYhoccongdong.com
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfXem Số Mệnh
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhdangdinhkien2k4
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhdtlnnm
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiNgocNguyen591215
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxDungxPeach
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 

Recently uploaded (20)

Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
 
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 

Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự

  • 1. LUẬN VĂN: Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự tại Việt Nam
  • 2. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu đối với công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước là tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực sự của dân, do dân, vì dân, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nói đến Nhà nước pháp quyền là nói đến nội dung, bản chất dân chủ của chính quyền, cũng như phương thức tổ chức quyền lực nhà nước, trong đó vai trò của pháp luật trực tiếp thể hiện ý chí của Nhà nước, kết tinh quyền lực của nhân dân; pháp luật phải được tôn trọng và bảo đảm thực hiện. Vì vậy, yêu cầu hàng đầu là phải coi trọng pháp luật và pháp chế trong quản lý xã hội, quản lý nhà nước, pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh. Trong đó, các phán quyết của Tòa án và của các cơ quan tài phán đưa ra phải được chấp hành nghiêm chỉnh. Điều 136 Hiến pháp năm 1992, khẳng định : Các bản án và quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị lực lượng vũ trang và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành. Phán quyết của Tòa án được chấp hành, phần lớn thông qua hoạt động thi hành án, đã tác động trực tiếp đến lòng tin của nhân dân đối với tính nghiêm minh của pháp luật. Cho nên, hoạt động thi hành án dân sự có một ý nghĩa thực sự quan trọng đó là trực tiếp góp phần giữ vững kỷ cương phép nước, bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định của cơ quan tài phán khác được thi hành nghiêm chỉnh chính là lúc công lý được thực hiện trong cuộc sống. Thực trạng công tác thi hành án dân sự ở nước ta trong những năm qua, bên cạnh những cố gắng đã đạt được, vẫn còn một số tồn tại như, số việc không có điều kiện thi hành tồn lại qua các năm đang ngày càng gia tăng, hiện tượng tiêu cực, vô tâm, tắc trách, vi phạm những nghĩa vụ hoặc lạm dụng những quyền hạn theo quy định của pháp luật của một số Chấp hành viên, cán bộ thi hành án dân sự đang gây nên sự bất bình của dư luận xã hội… Còn về phía Nhà nước cũng chưa tạo được hành lang pháp lý đầy đủ cho Chấp hành viên chủ động thực thi nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định của Tòa án
  • 3. và các quyết định của cơ quan tài phán khác một cách có hiệu quả. Chẳng hạn, muốn tổ chức cưỡng chế thi hành án phải có lực lượng công an bảo vệ những người tham gia công tác cưỡng chế, nếu cơ quan công an không phối hợp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ sự an toàn về người và tài sản thì cơ quan thi hành án dân sự cũng không thể tổ chức cưỡng chế thi hành án…Việc tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Chấp hành viên nói riêng và của cơ quan thi hành án dân sự nói chung còn phụ thuộc nhiều vào sự phối hợp của các ngành, các cấp có liên quan như chính quyền địa phương, cơ quan công an và một số cơ quan chuyên môn khác…. Chấp hành viên chưa có đủ các điều kiên về pháp luật để tự mình chủ động tiến hành thi hành triệt để các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Đây chính là một trong những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của công tác thi hành án dân sự, làm công tác thi hành án dân sự trong những năm qua chưa đạt được kết quả như sự mong đợi của xã hội. Nhận thức được tình hình này, Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tám (Khóa VII) đã chủ trương “sớm xây dựng và hoàn thiện pháp luật về thi hành án theo hướng tiến tới tập trung nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác thi hành án vào Bộ Tư pháp”. Trong đó cũng cần phải nghiên cứu và xây dựng các quy định pháp luật về Chấp hành viên trong thi hành án dân sự. Vì vậy, việc nghiên cứu nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam có ý nghĩa cấp thiết trong công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay. Cho đến nay, mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau liên quan đến vấn đề địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong hoạt động thi hành án dân sự, nhưng chưa có công trình nào ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học nghiên cứu sâu và toàn diện hệ thống pháp luật về địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự. Thực tiễn đòi hỏi phải làm sáng tỏ hơn về mặt lý luận những quy đinh của về địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự. Đồng thời thực tiễn cũng đặt ra yêu cầu phân tích, đánh giá các quy định pháp luật hiện hành về địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự và thực trạng áp dụng các quy định này. Trên cơ sở đó
  • 4. đưa ra giải pháp khắc phục những bất cập, thiếu sót và tiếp tục hoàn thiện pháp luật về địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam hiện nay. Là người đã nhiều năm trực tiếp làm công tác thi hành án dân sự ở địa phương và hiện nay đang đảm nhiệm nhiệm vụ giảng dạy về nghiệp vụ thi hành án dân sự (đào tạo nguồn bổ nhiệm Chấp hành viên) cho các cán bộ đang làm công tác thi hành án dân sự trong các cơ quan thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp, tôi luôn trăn trở làm thế nào để các Chấp hành viên chủ động tổ chức thi hành các bản án, quyết định một cách hiệu quả nhất, góp phần giảm án tồn đọng như hiện nay. Đó là lý do tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài: "Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự tại Việt Nam". 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Cho đến nay, ở Việt Nam chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu về địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự. Cũng đã có những công trình liên quan đến đề tài luận văn ở cấp độ rộng hơn. Có thể kể đến các công trình nghiên cứu về đổi mới hoạt động tổ chức thi hành án của đề tài nghiên cứu cấp nhà nước "Luận cứ khoa học và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt nam trong giai đoạn mới" mã số đề tài: 2000-58-198 do TS. Nguyễn Đình Lộc làm Chủ nhiệm đề tài; Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ “Mô hình quản lý thống nhất công tác thi hành án” của Cục Quản lý thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện; Luận văn thạc sỹ Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh năm 2003 “Đổi mới tổ chức thi hành án dân sự ở Việt Nam” của Nguyễn Quang Thái; Luận văn thạc sỹ Luật học tại Trường Đại học Luật Hà Nội của tác giả Nguyễn Công Long với đề tài “Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự”; Luận văn thạc sỹ, của tác giả Trần Văn Quảng với đề tài “Một số vấn đề về tổ chức thi hành án dân sự ở Việt Nam”; Luận văn thạc sỹ, trường Đại học Luật Hà Nội của tác giả Lê Xuân Hồng, với đề tài “Xã hội hóa một số nội dung thi hành án dân sự”; Luận văn thạc sỹ, trường Đại học Luật Hà Nội năm 2004 của tác giả Lê Anh Tuấn, với đề tài “Đổi mới thủ tục thi hành dân sự Việt Nam”; Luận văn thạc sỹ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh năm 2005 của tác giả Nguyễn Đức Nghĩa, với đề tài “Cơ sở lý luận và thực tiễn khắc phục án tồn đọng trong thi hành án dân sự ở Việt nam hiện nay”;
  • 5. Luận văn thạc sỹ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh năm 2005 của tác giả Hoàng Thế Anh, với đề tài “Giám sát thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay”; Luận văn tiến sỹ luật học tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh của tác giả Nguyễn Thanh Thủy với đề tài “Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay”. Luận văn thạc sỹ luật học tại Học viện tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh của tác giả Đặng Đình Quyền với đề tài "Năng lực của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự ở Việt Nam”. Với đề tài “Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam”, ngoài chương cơ sở lý luận của đề tài, luận văn sẽ tập trung nghiên cứu một cách chi tiết, những nhiệm vụ cụ thể của Chấp hành viên trong quá trình tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định khác do pháp luật quy định. Nghiên cứu thực trạng việc áp dụng các quy định hiện hành về quyền hạn, nhiệm vụ của Chấp hành viên, trên cơ sở đó luận văn chỉ ra những nguyên nhân của những hạn chế trong quá trình tổ chức thi hành án của Chấp hành viên và đưa ra các kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật về địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam góp phần nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự tại Việt Nam. Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, vấn đề địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự cần được làm sáng tỏ hơn về mặt lý luận và thực tiễn, làm cơ sở cho việc hoàn thiện các quy định về quyền và nghĩa vụ của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam hiện nay đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp đến năm 2020. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích của luận văn Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng pháp luật về địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự, luận văn đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về quyền và nghĩa vụ của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam. 3.2. Nhiệm vụ của luận văn
  • 6. Để đạt được mục đích nói trên, luận văn có một số nhiệm vụ sau: - Phân tích cơ sở lý luận về thi hành án dân sự, pháp luật về địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự; - Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về địa vị pháp lý của Chấp hành viên và thực tiễn áp dụng các quy định đó trong việc tổ chức thi hành các bản án, quyết định ở Việt Nam từ năm 2004 đến nay. - Đưa ra một số quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam. 3.3. Phạm vi nghiên cứu Trong khuân khổ luận văn thạc sỹ Luật học, với đề tài Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam, luận văn tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ cơ sở lý luận về thi hành án dân sự, về địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong hoạt động thi hành án dân sự; Những quy định về địa vị pháp lý của Chấp hành viên và thực trạng thực hiện những quy định đó trong hoạt động thi hành án dân sự tại Việt Nam từ năm 2004 đến nay; đưa ra những kiến nghị hoàn thiện về địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, luận văn nghiên cứu làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm, nội dung, địa vị pháp lý của Chấp hành viên, xác định các tiêu chí hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành viên, đưa ra các quan điểm và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành viên nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự tại Việt Nam. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cải cách tư pháp. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong luận văn là phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp lịch sử - cụ thể, phương pháp luật học so sánh. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
  • 7. - Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu sâu về địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam. - Luận văn đã đưa ra được khái niệm địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự; chỉ ra và phân tích các yếu tố quy định và chi phối việc xác định địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự; - Luận văn đã phân tích, làm rõ địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự thể hiện trong các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành, chỉ ra những điểm tiến bộ so với các quy định trước đây và những điểm còn bất cập. Luận văn cũng đưa ra những đánh giá, nhận định khách quan về thực trạng thực hiện quyền và nghĩa vụ của Chấp hành viên trong thực tiễn hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam từ năm 2004 đến nay, chỉ rõ những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân của chúng. - Dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn, luận văn đưa ra được những kiến nghị cụ thể để hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam theo yêu cầu cải cách tư pháp, bao gồm các kiến nghị về hoàn thiện pháp luật cũng như về các biện pháp bảo đảm cho Chấp hành viên thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình trong việc tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định khác do pháp luật quy định. 6. Ý nghĩa của luận văn Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên cứu hoàn thiện các quy định pháp luật về thi hành án dân sự, góp phần nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự ở Việt Nam. Luận văn cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và học tập các môn học thi hành án dân sự, Luật tố tụng dân sự v.v… tại các cơ sở đào tạo Luật. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
  • 8. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA CHẤP HÀNH VIÊN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI VIỆT NAM 1.1. KHÁI NIỆM, VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA CHẤP HÀNH VIÊN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI VIỆT NAM 1.1.1. Khái niệm, bản chất của thi hành án dân sự 1.1.1.1. Khái niệm thi hành án dân sự Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức xã hội và Nhà nước là một trong những nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp. Mọi hành vi vi phạm pháp luật, mọi tranh chấp xảy ra khi có yêu cầu đều được Tòa án xem xét giải quyết theo thẩm quyền và theo trình tự tố tụng. Khi một người bị người khác xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình, họ có quyền làm đơn yêu cầu Tòa án bảo vệ. Việc xem xét giải quyết của Tòa án là giai đoạn đầu của quá trình bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự (cá nhân, tổ chức, Nhà nước). Ở giai đoạn này, Tòa án mới chỉ giải quyết về nội dung vụ việc và xác định rõ các quyền và nghĩa vụ của các đương sự. Các quyền và nghĩa vụ này muốn trở thành hiện thực thì phải thông qua việc thi hành án. Thực chất, việc thi hành án là hoạt động làm cho các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định của cơ quan tài phán khác được thực hiện trên thực tế. Điều 136 Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định: Các bản án và quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành. Về nguyên tắc, bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án được những người, đơn vị liên quan, còn gọi là những người được thi hành án và người phải thi hành án tự nguyện thi hành. Trường hợp các đương sự không tự nguyện, bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật sẽ được cơ quan thi hành án dân sự thi hành theo quy định của pháp luật thi hành án dân sự. Các bản án, quyết định được cơ quan thi hành án dân sự đưa ra thi hành đó là: Bản án, quyết định dân sự; hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản án,
  • 9. quyết định hình sự; phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính của Tòa án và Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành án của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và Quyết định của Trọng tài thương mại (gọi chung là bản án, quyết định) quy định tại Điều 1 Luật thi hành án dân sự. Ngoài ra, Điều 2 Luật thi hành án dân sự còn quy định các bản án, quyết định được cơ quan thi hành án dân sự đưa ra thi hành, bao gồm các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và một số bản án, quyết định của Tòa án tuy chưa có hiệu lực pháp luật (có thể vẫn bị kháng cáo hoặc kháng nghị) nhưng vẫn được đưa ra thi hành để bảo vệ quyền lợi cấp thiết của người được thi hành án đó là, bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tổn thất về tinh thần, nhận người lao động trở lại làm việc và Quyết định khẩn cấp tạm thời của Tòa án. Bản án, quyết định của Tòa án là văn bản pháp lý nhân danh Nhà nước giải quyết về các vấn đề trong vụ án hình sự, dân sự, kinh doanh thương mại và hành chính. Quyết định của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và Trọng tài thương mại Việt Nam cũng là những văn bản pháp lý do các tổ chức phi chính phủ (cơ quan tài phán) giải quyết các việc dân sự hoặc kinh doanh thương mại theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức có quyền lợi bị xâm hại. Những phán quyết của Tòa án cũng như những phán quyết của các cơ quan tài phán muốn được thực thi trên thực tế phải qua giai đoạn thi hành án dân sự. Có thể nói thi hành án dân sự là giai đoạn độc lập, giai đoạn kết thúc quá trình bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, bao gồm tổng hợp các hành vi pháp lý nhằm thi hành các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định của cơ quan khác do Nhà nước quy định. Theo Từ điển Luật học, thi hành án là: “Hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, được tiến hành theo thủ tục, trình tự được pháp luật quy định nhằm thực hiện các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án” [41, tr.705]. Công tác thi hành án dân sự thuộc về chức năng, nhiệm vụ của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền là cơ quan thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp.
  • 10. Công tác thi hành án dân sự là loại việc có những nét đặc trưng riêng xuất phát từ việc các bản án, quyết định được đưa ra thi hành tuy rất đa dạng, nhưng chủ yếu là những quyết định mang tính tài sản - đặc trưng của quan hệ dân sự; xuất phát từ nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự trong quá trình giải quyết tranh chấp dân sự. Người được thi hành án giữ vai trò chủ động trong thi hành án và họ có quyền quyết định đưa ra những yêu cầu thi hành các quyết định trong các bản án, quyết định dân sự có liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ, như: quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự thi hành án hay không yêu cầu thi hành án; quyền yêu cầu không tiếp tục thi hành án, quyền cho người phải thi hành án hoãn việc thi hành án... Trong quá trình thi hành án, các bên đương sự (người được thi hành án và người phải thi hành án) có thể tự thỏa thuận với nhau về việc thi hành án, tuy nhiên việc thỏa thuận này phải phù hợp với pháp luật và không trái với đạo đức xã hội (Điều 6 Luật Thi hành án dân sự năm 2008). Theo đó, các đương sự thỏa thuận về các vấn đề như: thời gian, địa điểm, phương thức thi hành án... Cơ quan thi hành án dân sự nói chung, Chấp hành viên nói riêng có trách nhiệm theo dõi, giám sát và chứng kiến ghi nhận sự thỏa thuận thi hành của các bên đương sự. Về phía Nhà nước, luôn luôn khuyến khích các đương sự tự nguyện thi hành án hoặc thỏa thuận với nhau về việc thi hành các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định của Trọng tài và Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh. Do các bản án, quyết định dân sự rất đa dạng, mặc dù phải thực hiện theo trình tự, thủ tục do luật định, song thi hành án dân sự cũng đòi hỏi rất cao tính linh hoạt. Tùy từng trường hợp cụ thể, cơ quan thi hành án lựa chọn biện pháp thích hợp, chủ động giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quá trình tổ chức thi hành án, sao cho việc thi hành án đạt được mục đích và hiệu quả cao nhất. Trong cơ quan thi hành án dân sự, chỉ có cơ quan thi hành án và Chấp hành viên là người được Nhà nước giao trách nhiệm thi hành và tổ chức thi hành các bản án, quyết định. Khi thực thi nhiệm vụ, Chấp hành viên chỉ tuân theo pháp luật và chịu trách nhiệm trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ. Vì những đặc trưng trên, pháp luật hiện hành quy định việc tổ chức thi hành các bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật chỉ thuộc thẩm quyền của cơ quan
  • 11. nhà nước là các cơ quan thi hành án dân sự. Từ đó, hoạt động thi hành án dân sự hiện nay được hiểu là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền được tiến hành theo một thủ tục, trình tự nhất định được pháp luật quy định nhằm thực hiện các bản án, quyết định của Tòa án hoặc quyết định khác do pháp luật quy định. Tuy nhiên, Nghị quyết của Quốc hội Khoá XII, kỳ họp thứ 4 ngày 14/11/2008 về việc thi hành Luật thi hành án dân sự đã chủ trương xã hội hoá một số công việc liên quan đến thi hành án dân sự, cụ thể như sau: Thực hiện chiến lược cải cách tư pháp, cải cách hành chính trong lĩnh vực tư pháp nói chung, lĩnh vực thi hành án dân sự nói riêng nhằm từng bước giảm bớt gánh nặng cho bộ máy, biên chế, ngân sách của Nhà nước phục vụ công tác thi hành án dân sự thì chủ trương xã hội hoá một số công việc về thi hành án dân sự được coi là một trong những giải pháp hữu hiệu nhất hiện nay. Chủ trương này đã được quy định tại Nghị quyết 49- NQ/TW của Bộ Chính trị đó là “Từng bước thực hiện việc xã hội hoá và quy định những hình thức, thủ tục để giao cho tổ chức không phải là cơ quan Nhà nước thực hiện một số công việc thi hành án…; nghiên cứu chế định Thừa phát lại (Thừa hành viên), trước mắt có thể tổ chức thí điểm tại một số địa phương, sau vài năm trên cơ sở tổng kết, đánh giá thực tiễn sẽ có bước đi tiếp theo”. Trong quá trình thảo luận tại các kỳ họp của Quốc hội cũng có ý kiến đại biểu cho rằng nên đưa quy định xã hội hoá hoạt động thi hành án dân sự thành một điều trong Luật thi hành án dân sự để có cơ sở pháp lý triển khai thực hiện trong thời gian tới. Tuy nhiên, theo đa số ý kiến của đại biểu Quốc hội thì để thực hiện có hiệu quả chủ trương này cần phải có bước đi thích hợp, trên cơ sở làm thí điểm sau đó tiến hành sơ kết, tổng kết để đánh giá khả năng thực hiện và hiệu quả của việc thực hiện xã hội hoá hoạt động thi hành án. Hơn nữa, do hiện nay việc thực hiện xã hội hoá hoạt động thi hành án (cụ thể là việc tổ chức thí điểm chế định Thừa phát lại) chưa được triển khai nên chưa có cơ sở thực tiễn để đánh giá và áp dụng. Do vậy, nhiều quy định về xã hội hoá một số công việc về thi hành án dân sự chưa nên đưa vào trong Luật thi hành án dân sự mà chỉ nên quy định tại Nghị quyết của Quốc hội về việc thi hành Luật thi hành án dân sự. Cuối cùng, Quốc hội đã nhất trí quy định trong Nghị quyết về việc thi hành Luật thi hành án dân sự, giao cho Chính phủ quy định và tổ chức thực hiện thí điểm chế
  • 12. định Thừa phát lại (Thừa hành viên) tại một số địa phương. Việc thí điểm được thực hiện từ ngày Luật thi hành án dân sự có hiệu lực thi hành (từ ngày 01/7/2009 đến ngày 01/7/2012). Từ kết quả thí điểm, Chính phủ tổng kết, đánh giá thực tiễn, báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định. Thực hiện Nghị quyết của Quốc Hội, Bộ Tư Pháp đã khẩn trương xây dựng và trình Chính phủ xem xét phê duyệt Nghị định về “Tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh”[39]. Và ngày 24/7/2009, Thủ tướng Chính phủ đã ký Nghị định về tổ chức và hoạt động Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh* , trong đó quy định những công việc của Thừa phát lại (Điều 3 của Nghị định) gồm:.Thực hiện việc tống đạt theo yêu cầu của Tòa án hoặc cơ quan thi hành án dân sự; Lập vi bằng theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức; Xác minh điều kiện thi hành án theo yêu cầu của đương sự và trực tiếp tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án theo yêu cầu của đương sự. Như vậy, việc tổ chức thi hành án dân sự không chỉ giao cho cơ quan Nhà nước mà còn giao cho tổ chức khác đó là Tổ chức Thừa phát lại, tuy nhiên đây mới chỉ hoạt động thí điểm tại Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian 03 năm kể từ ngày 01/7/2009 đến ngày 01/7/2012. Như vậy, có thể khái quát về thi hành án dân sự trong điều kiện mới như sau: Thi hành án dân sự là hoạt động có định hướng của Nhà nước được thực hiện bởi các chủ thể do pháp luật quy định, nhằm mục đích thực hiện trên thực tế các quyết định dân sự có hiệu lực thi hành bằng cách áp dụng các biện pháp tác động phù hợp với pháp luật và tuân thủ các trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. 2.1.1.2. Bản chất của thi hành án dân sự Trong khoa học pháp lý cho đến nay vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm, bản chất của thi hành án dân sự. Có ý kiến cho rằng, thi hành án là một giai đoạn của quá trình tố tụng, diễn ra ngay sau giai đoạn xét xử, được pháp luật tố tụng quy định. Thi hành án dân sự là hoạt động bảo vệ pháp luật, phù hợp với hoạt động của tố tụng tư pháp, với hai lý do cơ bản như sau: thứ nhất, có xét xử thì phải có thi hành án, thi hành án dựa trên cơ sở và kết quả của công tác xét xử. Xét xử và thi hành án là hai mặt thống nhất của quá trình bảo vệ lợi ích của đương sự; thi hành án dân sự là nhằm mục đích thực thi * Nghị định về tổ chức và hoạt động thừa phát lại thực hiện thí điểm tại TP. Hồ Chí Minh có hiệu lực thi hành ngày 09/9/2009.
  • 13. các phán quyết của Tòa án, bảo đảm triệt để các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức và Nhà nước. Không có hoạt động thi hành án thì mọi phán quyết của Tòa án cũng như các các quyết định khác chỉ là trên bản giấy mà thôi. Hoạt động thi hành án gắn liền với quá trình xét xử và chịu sự chi phối của quá trình xét xử. Cho nên thi hành án không thể tách ra khỏi quá trình tố tụng mà phải coi nó là giai đoạn tố tụng* ; Thứ hai, thủ tục tố tụng do nhiều cơ quan tiến hành, chẳng hạn như hoạt động điều tra vụ án hình sự do cơ quan Kiểm lâm, Hải quan tiến hành được coi là hoạt động tố tụng hình sự, trong khi các cơ quan này chỉ là các cơ quan hành chính được giao quyền điều tra cho nên hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự cũng cần được coi là cơ quan tiến hành tố tụng dân sự. Quan điểm thứ hai lại cho rằng: Thi hành án dân sự là một dạng hoạt động có tính chấp hành, vì thi hành án chỉ được tiến hành trong khuôn khổ pháp luật quy định nhằm thực hiện các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, tính chất chấp hành trong thi hành án dân sự có những nét riêng thể hiện ở chỗ: Thứ nhất, nó chủ yếu do cơ quan tư pháp hay đối tượng phải thi hành tiến hành; Thứ hai, cơ sở để tiến hành các hoạt động thi hành án bao gồm các quy định của pháp luật (được thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật) và bản án, quyết định (văn bản áp dụng pháp luật) của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật được thực thi chứ không phải là ra các văn bản áp dụng pháp luật hoặc các quyết định có tính điều hành* . Quan điểm thứ ba cho rằng, thi hành án là dân sự một hoạt động hành chính - tư pháp, thi hành án dân sự không thể là giai đoạn của tố tụng bởi vì thi hành án có mục đích khác với bản chất và mục đích của tố tụng. Điều này thể hiện ở chỗ, mục đích của tố tụng là xác định các chứng cứ để xác lập lại trạng thái ban đầu của sự việc. Nói cách khác tố tụng là quá trình đi tìm sự thật của các vụ việc đã diễn ra để trên cơ sở đó đưa ra cách giải quyết theo đúng các quy định của pháp luật. Với mục đích đó, toàn bộ quá trình tố tụng diễn ra theo một quy trình hết sức chặt chẽ và phải bảo đảm các nguyên tắc như bình đẳng, công khai, dân chủ, tôn trọng quyền và lợi ích của người tham gia tố tụng ... và khi đã có phán quyết của Tòa án thì quá trình tố tụng kết thúc. Trong khi đó, thi hành án là * Tạp chí Luật học số 5/1998 trang 43,44 Bài viết Mấy vấn đề về thi hành án trong việc soạn thảo Bộ luật tố tụng dân sự của Nguyễn Công Bình.và giao trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật. * Chuyên đề một số vấn đề lý luận về thi hành án của PGS.TS. Lê Minh Tâm, Trường Đại học luật Hà Nội.
  • 14. quá trình tiến hành các hoạt động nhằm thực hiện các bản án, quyết định của Tòa án, và quyết định khác do luật định đã có hiệu lực thi hành. Vì vậy, có thể nói tố tụng là quá trình đi tìm chân lý để áp dụng công lý (pháp luật); còn thi hành án là quá trình thực thi chân lý bằng công lý. Ở đây chân lý đã rõ, có tội hay không có tội, đúng hay sai đã được phân xử rõ ràng, thi hành án chỉ nhằm thực hiện các bản án , quyết định của Tòa án và các quyết định của cơ quan tài phán khác. Quá trình này có thể do chính các chủ thể bị thi hành án tự giác thi hành hoặc do cơ quan có thẩm quyền buộc các chủ thể đó phải thi hành án theo đúng nội dung bản án, quyết định. Do đó, thi hành án là hoạt động hành chính - tư pháp bởi:, căn cứ để thi hành án chính là các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định của Trọng tài thương mại Việt Nam, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh. Cá nhân tôi cho rằng thi hành án dân sự là một hoạt động hành chính - tư pháp là quan điểm hợp lý nhất bởi những lý do sau: Thứ nhất, thi hành án dân sự chỉ được tiến hành trên cơ sở các bản án, quyết định của Tòa án hoặc các quyết định khác do pháp luật quy định đã có hiệu lực pháp luật và trong khuôn khổ luật định; toàn thể quá trình thi hành án với những hoạt động, biện pháp, cách thức khác nhau đều nhằm thực hiện những nội dung đã được thể hiện trong các bản án, quyết định của tòa án và cơ quan tài phán khác và tuân theo các quy định cụ thể của pháp luật; Thứ hai, hoạt động thi hành án là dạng hoạt động quản lý, vì thi hành án là sự tác động tới đối tượng phải thi hành để họ tự giác thi hành hoặc áp dụng các biện pháp buộc họ phải thi hành nghĩa vụ đã được xác định trong các bản án, quyết định. Thi hành án là quá trình diễn ra sau quá trình xét xử của Tòa án hoặc cơ quan tài phán khác, các bản án, quyết định của tòa án và cơ quan tài phán khác là cơ sở để tiến hành các hoạt động thi hành án, như chỉ khi có bản án, quyết định thì cơ quan thi hành án dân sự mới ra quyết định thi hành án ... Vì vậy, có thể nói không có hoạt động xét xử thì cũng không có hoạt động thi hành án dân sự. Tuy nhiên thi hành án dân sự không phải là hoạt động tố tụng cuối cùng; bản án và quyết định có hiệu lực pháp luật không phải là cơ sở duy nhất để tiến hành các hoạt động thi hành án; thi hành án đòi hỏi những nguyên tắc thủ tục và cách thức hoạt động riêng, chẳng hạn, Tại Điều 4 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 đã quy định căn cứ để đưa ra thi hành án “Bản án, quyết định được đưa ra thi hành khi có các căn cứ sau đây: Bản án, quyết định
  • 15. dân sự và Quyết định thi hành án của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự”. Các bản án, quyết định mới chỉ là “điều kiện cần” để tiến hành các hoạt động thi hành án. Nhưng để tổ chức thi hành các bản án, quyết định thì phải có các “điều kiện đủ” đó là các nguyên tắc, thủ tục, trình tự thi hành án dân sự. Vì vậy, thi hành án dân sự không phải là giai đoạn tố tụng và không chỉ chịu sự điều chỉnh của pháp luật tố tụng mà còn chịu sự điều chỉnh của Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 nay là Luật thi hành án dân sự năm 2008. Bản chất của hoạt động thi hành án được thể hiện trên ba phương diện chủ yếu sau: Thứ nhất, xác định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quá trình thi hành án dân sự; Thứ hai, tính đặc thù trong tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự; Thứ ba, đặc thù trong các quan hệ thủ tục về thi hành án dân sự (đây là vấn đề có thể dẫn đến sự nhầm lẫn với quan hệ tố tụng). Quan hệ thủ tục thi hành án có thể bao gồm cả quan hệ tố tụng và quan hệ khác mang tính hành chính - tư pháp, nhưng cần khẳng định rằng các quan hệ hành chính chủ yếu hơn. Việc xác định thi hành án dân sự là hoạt động tố tụng hay là hoạt động hành chính - tư pháp có ý nghĩa rất quan trọng, nó làm sáng tỏ bản chất thi hành án dân sự cũng như bản chất về địa vị pháp lý của Chấp hành viên. Nhưng dù là quan hệ tố tụng hay quan hệ hành chính - Tư pháp, dù là người của cơ quan tiến hành tố tụng hay là người có chức danh hành chính thì nhiệm vụ của Chấp hành viên được quy định trong Luật là phải thi hành các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định khác do pháp luật quy định. Vậy, điều quan trọng nhất là để Chấp hành viên thực hiện tốt nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định thì pháp luật phải tạo đủ điều kiện cho Chấp hành viên thực hiện. 1.1.2. Khái niệm Chấp hành viên trong thi hành án dân sự Trong mỗi cơ quan khác nhau thì có những chức danh khác nhau để thực thi nhiệm vụ của cơ quan đó. Chẳng hạn, đối với cơ quan Tòa án thì người thực hiện chức năng xét xử là Thẩm phán, hay đối với cơ quan Viện kiểm sát thì người thực hiện chức năng công tố là Kiểm sát viên, đối với cơ quan công an, người thực hiện nhiệm vụ điều
  • 16. tra các vụ án là các Điều tra viên...Tại các Cơ quan thi hành án dân sự đều có các cán bộ làm nhiệm vụ thi hành án và các cán bộ làm các nhiệm vụ khác liên quan đến việc thi hành án, như thủ quỹ, kế toán, thủ kho... Nhưng người có nhiệm vụ, quyền hạn trực tiếp tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định khác do pháp luật quy định được gọi là Chấp hành viên. Tại Điều 17 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, quy định: Chấp hành viên là người được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự và Điều 18 Luật Thi hành án dân sự, quy định tiêu chuẩn bổ nhiệm Chấp hành viên như sau: 1. Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, trung thực, liêm khiết, có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ cử nhân luật trở lên, có sức khỏe để hoàn thành nhiệm vụ được giao thì có thể được bổ nhiệm làm Chấp hành viên. 2. Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều này và có đủ các điều kiện sau đây thì được bổ nhiệm làm Chấp hành viên sơ cấp: a) Có thời gian làm công tác pháp luật từ 03 năm trở lên; b) Đã được đào tạo nghiệp vụ thi hành án dân sự; c) Trúng tuyển kỳ thi tuyển Chấp hành viên sơ cấp; 3. Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại Khoản 1 Điều này và có đủ các điều kiện sau thì được bổ nhiệm làm Chấp hành viên trung cấp: a) Có thời gian làm Chấp hành viên sơ cấp từ 05 năm trở lên; b) Trúng tuyển kỳ thi tuyển Chấp hành viên trung cấp; 4. Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại Khoản 1 Điều này và có đủ các điều kiện sau thì được bổ nhiệm làm Chấp hành viên cao cấp: a) Có thời gian làm Chấp hành viên trung cấp từ 05 năm trở lên; b) Trúng tuyển kỳ thi tuyển Chấp hành viên cao cấp; 5. Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại Khoản 2 Điều này, là sỹ quan quân đội tại ngũ thì được bổ nhiệm làm Chấp hành viên trong quân đội
  • 17. Tiêu chuẩn để được bổ nhiệm Chấp hành viên sơ cấp, Chấp hành viên trung cấp và Chấp hành viên cao cấp trong quân đội được thực hiện theo quy định tại các khoản 2,3 và khoản 4 Điều này. 6. Người đang là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên chuyển công tác đến cơ quan thi hành án dân sự có thể được bổ nhiệm làm Chấp hành viên ở ngạch tương đương mà không qua thi tuyển 7. Trường hợp đặc biệt do Chính phủ quy định, người có đủ tiêu chuẩn quy định tại Khoản 1 Điều này, đã có thời gia làm công tác pháp luật từ 10 năm trở lên thì có thể được bổ nhiệm Chấp hành viên trung cấp hoặc đã có thời gian làm công tác pháp luật từ 15 năm trở lên thì có thể được bổ nhiệm Chấp hành viên cao cấp”. Theo quy định của pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 thì ngạch Chấp hành viên gồm có Chấp hành viên cấp tỉnh và Chấp hành viên cấp huyện và được bổ nhiệm theo nhiệm kỳ là 05 năm. Việc quy định ngạch bậc của Chấp hành viên theo hai cấp đã phát sinh nhiều bất cập trong việc sắp xếp, điều động, luân chuyển Chấp hành viên giữa các cơ quan thi hành án dân sự trong phạm vi toàn quốc, không thu hút được cán bộ về công tác ở cơ quan thi hành án dân sự và cũng chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp. Hơn nữa, việc quy định Chấp hành viên theo hai cấp với mức chênh lệch về bậc lương khởi điểm khá cao (Chấp hành viên cấp huyện có mức lương khởi điểm là 2,16 và Chấp hành viên cấp tỉnh có mức lương khởi điểm là 3,62, như hiện nay là chưa có cơ sở khoa học rõ ràng để phân loại năng lực, trình độ của Chấp hành viên cấp tỉnh và Chấp hành viên cấp huyện nên không động viên, khuyến khích được những người có tài năng và kinh nghiệm đã dẫn đến nhiều bất cập trong thời gian qua [51]. Thực tế hoạt động thi hành án dân sự cho thấy tính chất, mức độ phức tạp của các vụ việc thi hành án cũng khác nhau: có những vụ việc đơn giản nhưng cũng có nhiều vụ việc phức tạp, số tiền, tài sản phải thi hành rất lớn, việc thi hành liên quan đến nhiều địa phương, nhiều cấp, nhiều ngành, vụ việc có yếu tố nước ngoài.v.v… đòi hỏi phải có những Chấp hành viên có năng lực chuyên môn, có trình độ ngoại ngữ nhất định và giàu kinh nghiệm thực tiễn để tổ chức thi hành.
  • 18. Để khắc phục tình trạng trên, bảo đảm sự công bằng giữa công sức mà các Chấp hành viên bỏ ra với tính chất, yêu cầu công việc của họ thì Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (Điều 17) đã quy định chấp hành viên có ba ngạch: sơ cấp, trung cấp và cao cấp dựa trên tiêu chuẩn về chuyên môn, trình độ, năng lực, nghiệp vụ, thâm niên, kinh nghiệm công tác mà không phụ thuộc vào đơn vị công tác (cơ quan thi hành án cấp huyện hay cơ quan thi hành án cấp tỉnh) là rất hợp lý. * Về tiêu chuẩn bổ nhiệm Chấp hành viên, pháp luật quy định có 03 ngạch Chấp hành viên cho nên mỗi ngạch Chấp hành viên có những tiêu chuẩn bổ nhiệm khác nhau. Theo quy định của Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 thì tiêu chuẩn để được bổ nhiệm Chấp hành viên bao gồm các yêu cầu chung về đạo đức, có trình độ cử nhân luật trở lên, đã được đào tạo về nghiệp vụ thi hành án, có đủ sức khoẻ và thời gian làm công tác pháp luật theo quy định (từ bốn năm trở lên đối với Chấp hành viên cấp huyện và đã làm Chấp hành viên cấp huyện từ năm năm trở lên đối với Chấp hành viên cấp tỉnh). Những người đủ tiêu chuẩn nêu trên sẽ được Bộ trưởng Bộ Tư pháp xem xét, quyết định bổ nhiệm chấp hành viên trên cơ sở Tờ trình đề nghị của Hội đồng tuyển chọn Chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự địa phương (mỗi một tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có một Hội đồng tuyển chọn Chấp hành viên). Theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị “Cán bộ có chức danh tư pháp phải có trình độ đại học luật và được đào tạo về kỹ năng nghề nghiệp tư pháp theo chức danh”. Do đó, Luật thi hành án dân sự đã giữ nguyên tiêu chuẩn bổ nhiệm Chấp hành viên là phải có trình độ cử nhân luật. Tuy nhiên, điểm mới nổi bật trong tiêu chuẩn bổ nhiệm Chấp hành viên đó là quy định về thời gian làm công tác pháp luật và phải trúng tuyển kỳ thi tuyển Chấp hành viên. Theo đó, tuỳ vào từng cấp bậc Chấp hành viên và thời gian công tác pháp luật để được xem xét bổ nhiệm Chấp hành viên cũng khác nhau, Một trong các tiêu chuẩn bắt buộc để được bổ nhiệm làm Chấp hành viên đó là phải qua kỳ thi và trúng tuyển kỳ thi tuyển Chấp hành viên ở các ngạch tương ứng. Quy định mới về thi tuyển Chấp hành viên này nhằm khắc phục hạn chế trong quy trình, thủ tục tuyển chọn để bổ nhiệm Chấp hành viên theo quy định của pháp luật
  • 19. hiện hành. Việc bổ nhiệm Chấp hành viên thông qua thi tuyển sẽ cho phép lựa chọn được người có đủ tiêu chuẩn, năng lực để bổ nhiệm Chấp hành viên, tạo khả năng thu hút cán bộ hoạt động ở những lĩnh vực khác, phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp, cải cách hành chính. Hơn nữa, việc bổ nhiệm Chấp hành viên thông qua thi tuyển cũng là phù hợp với định hướng tại Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị: “Nghiên cứu thực hiện cơ chế thi tuyển để chọn người bổ nhiệm vào các chức danh tư pháp”. * Về thời hạn bổ nhiệm Chấp hành viên Quy định về việc bổ nhiệm Chấp hành viên có nhiệm kỳ 05 năm theo Pháp lệnh thi hành án dân sự 2004 có những ưu điểm như: giúp cho lãnh đạo Bộ Tư pháp rà soát, đánh giá lại số liệu, chất lượng đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự trên phạm vi cả nước, đồng thời đòi hỏi Chấp hành viên phải tự nhìn nhận, đánh giá, kiểm điểm lại chính mình, cả về phẩm chất, lẫn năng lực chuyên môn; mỗi Chấp hành viên phải tự hoàn thiện mình, trau dồi đạo đức, không ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn nhằm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Nhà nước giao phó, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thi hành án. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm đó thì công tác bổ nhiệm Chấp hành viên theo nhiệm kỳ đã phát sinh nhiều bất cập như: quy trình, thủ tục xét bổ nhiệm Chấp hành viên thường phức tạp, kéo dài, đặc biệt khi thay đổi hoặc khuyết thành viên của Hội đồng tuyển chọn Chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự thì thủ tục bổ nhiệm phải dừng lại để chờ kiện toàn cho đúng thành phần của Hội đồng tuyển chọn. Mặt khác, việc bổ nhiệm Chấp hành viên theo nhiệm kỳ cũng tạo cho các Chấp hành viên có tâm lý không thật sự yên tâm công tác mỗi khi sắp đến kỳ phải xem xét bổ nhiệm lại. Vì mỗi khi xem xét hồ sơ bổ nhiệm lại có nhiều trường hợp các đương sự đã “trả thù” Chấp hành viên bằng cách viết đơn thư tố cáo Chấp hành viên, hoặc chính trong nội bộ cơ quan cũng có đơn thư khiếu nại, tố cáo nặc danh gây hoang mang cho các Chấp hành viên và đôi khi Chấp hành viên còn có tâm lý “ngại” thi hành, nhất là “ngại” tổ chức cưỡng chế thi hành án vì mỗi vụ việc tổ chức cưỡng chế thường va chạm, liên quan đến quyền lợi của nhiều người … Việc bổ nhiệm Chấp hành viên theo nhiệm kỳ như quy định của pháp luật hiện hành phần nào đã ảnh hưởng đến tính độc lập trong hoạt động thi hành án của Chấp hành viên nói
  • 20. riêng, của cơ quan thi hành dân sự nói chung. Do đó, Luật thi hành án dân sự đã đưa ra những quy định mới về việc bổ nhiệm Chấp hành viên không kỳ hạn vừa kế thừa được những ưu điểm, vừa khắc phục được những hạn chế của việc bổ nhiệm chấp hành viên có kỳ hạn. Chấp hành viên là một chức danh tư pháp gắn với việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn về thi hành án dân sự, nên việc bổ nhiệm Chấp hành viên không theo nhiệm kỳ sẽ tạo ra sự yên tâm để Chấp hành viên làm tốt công tác thi hành án, điều này cũng không hạn chế đến việc xử lý kỷ luật nếu Chấp hành viên có vi phạm hoặc miễn nhiệm nếu Chấp hành viên không đủ năng lực, điều kiện làm Chấp hành viên. Hơn nữa, quy định mới về việc bổ nhiệm Chấp hành viên không kỳ hạn cũng phù hợp với định hướng đã được quy định tại Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị, đó là: “Tăng thời hạn bổ nhiệm chức danh tư pháp hoặc thực hiện chế độ bổ nhiệm không có kỳ hạn”. * Về vị trí pháp lý của chức danh Chấp hành viên trong tổ chức bộ máy nhà nước ta, hiện có những quan điểm khác nhau. Quan điểm cho rằng Chấp hành viên là chức danh hành chính xuất phát từ quan niệm chỉ những người nào trực tiếp thực hiện hoặc để thực hiện quyền lực tư pháp mới là chức danh tư pháp, do vậy chức danh tư pháp chỉ bao gồm: Kiểm sát viên, Thẩm phán, Thư ký tòa án, Hội thẩm nhân dân, Thẩm tra viên … còn các chức danh thực hiện hoạt động thi hành án dân sự là chức danh hành chính. Quan điểm khác cho rằng đây là chức danh tư pháp vì quan niệm chức danh tư pháp bao gồm những người thực thi nhiệm vụ trong các cơ quan tư pháp (điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án) được đào tạo kỹ năng thực hành và hành nghề theo một chuyên môn nhất định, có danh xưng, được bổ nhiệm hoặc thừa nhận theo pháp luật khi đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn và điều kiện xác định theo quy định của pháp luật [45]. Sở dĩ có những quan điểm như vậy là do bản chất của hoạt động thi hành án nói chung và thi hành án dân sự nói riêng chưa được xác định một cách rõ ràng trong lý luận cũng như trên thực tiễn (như phân tích ở trên). Tuy nhiên, nên xác định chức danh Chấp hành viên trong thi hành án dân sự là một chức danh tư pháp vì những lý do sau đây: Thứ nhất, về khái niệm hoạt động tư pháp, mặc dù chưa có một quy phạm pháp luật nào quy định cụ thể thế nào là hoạt động tư pháp, nhưng có thể hiểu được nội hàm của nó trong Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân và
  • 21. các văn bản pháp quy khác về tư pháp. Hoạt động tư pháp là hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các hành vi phạm pháp và giải quyết các vụ kiện tụng trong nhân dân. Cụ thể là điều tra, truy tố và xét xử các vụ án hình sự; giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật; thi hành bản án, quyết định của Tòa án Nhân dân. Theo pháp luật hiện hành, hoạt động điều tra hình sự được giao cho hệ thống cơ quan điều tra thuộc Bộ Công an, hoạt động thi hành án dân sự được giao cho hệ thống cơ quan thi hành án thuộc Bộ Tư pháp đảm nhiệm, việc thi hành án hình sự (phạt tù, tử hình…) được giao cho Bộ Công an, Bộ Quốc phòng đảm nhiệm. Do đó, ngoài hoạt động xét xử, công tố (truy tố), thì hoạt động điều tra hình sự và hoạt động thi hành án, cả trong lĩnh vực hình sự và dân sự đều được coi là hoạt động tư pháp. Cơ quan điều tra và cơ quan thi hành án, với chức năng, nhiệm vụ được giao, đều được xem là cơ quan tư pháp trong hệ thống các cơ quan tư pháp ở nước ta. Vì vậy, chức danh của những người được Nhà nước bổ nhiệm để thực thi nhiệm vụ trong các cơ quan tư pháp là chức danh tư pháp. Thứ hai, hoạt động tổ chức thi hành án của Chấp hành viên thể hiện đầy đủ những đặc trưng cơ bản của hoạt động tư pháp, đó là: + Được trực tiếp sử dụng quyền lực Nhà nước trong khi thi hành công vụ; + Trực tiếp bảo vệ công lý, bảo vệ pháp luật và trật tự pháp luật; + Có ảnh hưởng hoặc quyết định trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và của tổ chức có liên quan; + Thực hiện theo một quy trình chặt chẽ, không được đảo lộn và không được làm tắt (trình tự, thủ tục thi hành án dân sự được quy định chặt chẽ theo Pháp lệnh thi hành án Dân Sự năm 2004 và đến ngày 01/7/2009 thì được thực hiện theo các quy định của Luật thi hành án dân sự năm 2008). + Mục đích của hoạt động thi hành án là bảo đảm các nội dung của các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định do pháp luật quy định được thực thi trên thực tế; + Thể hiện tính độc lập, tính chuyên môn hóa cao, chế độ chịu trách nhiệm cá nhân và chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt động của các chức danh tư pháp.
  • 22. Từ sự phân tích trên, có thể khẳng định Chấp hành viên là một chức danh tư pháp, thể hiện cấp bậc, quyền hạn, nghĩa vụ của một người được Nhà nước bổ nhiệm nếu đáp ứng các tiêu chuẩn do pháp luật quy định và được Nhà nước giao trách nhiệm thi hành các bản án, quyết định dân sự của Tòa án và các bản án, quyết định khác do pháp luật quy định. 1.1.3. Vị trí, vai trò của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự Một là, Chấp hành viên là người duy nhất được Nhà nước giao trách nhiệm thi hành các bản án, quyết định dân sự của Tòa án và các quyết định khác do pháp luật quy định, nói cách khác Chấp hành viên là người nhân danh Nhà nước tổ chức thi hành án dân sự. Khi thực hiện nhiệm vụ Chấp hành viên chỉ tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ. Chấp hành viên là người có vai trò quan trọng trong quá trình tổ chức thi hành án, là người giữ vị trí trung tâm trong hoạt động thi hành án. Tư cách đạo đức, ý thức pháp luật, trình độ nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp của Chấp hành viên là những tiêu chí để người dân, dư luận xã hội đánh giá về bộ máy nhà nước, tính nghiêm minh của pháp luật trong lĩnh vực thi hành án. Chấp hành viên khi tiến hành hoạt động thi hành án chỉ được làm những gì pháp luật cho phép và phải tuân theo đúng trình tự, thủ tục, thời hạn do pháp luật quy định và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về quá trình thi hành. Không ai, không cơ quan nào được can thiệp, tác động để buộc Chấp hành viên làm trái pháp luật. Bên cạnh đó tùy từng tình huống cụ thể, Chấp hành viên có thể lựa chọn phương án xử lý thích hợp để bảo đảm kết quả tốt nhất cho hoạt động thi hành án. Trong hệ thống những chức danh của bộ máy Nhà nước, chức danh Chấp hành viên là chức danh đặc thù, chỉ do Nhà nước quy định và bổ nhiệm trong lĩnh vực thi hành án dân sự để làm nhiệm vụ tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định khác do pháp luật quy định. Tương tự như chức danh Thẩm phán chỉ có trong cơ quan Tòa án để làm nhiệm vụ xét xử, chức danh Kiểm sát viên chỉ có trong hệ thống Viện Kiểm sát để thực hiện quyền công tố... Vì vậy, khi nói đến Chấp hành viên là nói đến người duy nhất có thẩm quyền thay mặt Nhà nước tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định của Trong tài và Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh.
  • 23. Trong quá trình tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định khác do pháp luật quy định, Nhà nước trao cho Chấp hành viên quyền được trực tiếp sử dụng quyền lực Nhà nước để: - Kịp thời tổ chức thi hành vụ việc được phân công; ra các quyết định về thi hành án theo thẩm quyền. - Thi hành đúng nội dung bản án, quyết định; áp dụng đúng các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục thi hành án, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; Thực hiện nghiêm chỉnh chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp chấp hành viên. - Triệu tập đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để giải quyết việc thi hành án; - Xác minh tài sản, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp tài liệu để xác minh địa chỉ, tài sản của người phải thi hành án hoặc phối hợp với cơ quan có liên quan xử lý vật chứng, tài sản và những việc khác liên quan đến thi hành án; - Quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp cưỡng chế thi hành án; Lập kế hoạch cưỡng chế thi hành án; Thu giữ tài sản thi hành án. - Yêu cầu cơ quan Công an tạm giữ người chống đối việc thi hành án theo quy định của pháp luật. - Lập biên bản về hành vi vi phạm pháp luật về thi hành án; xử phạt vi phạm hành chính theo thẩm quyền; Kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người vi phạm. - Quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế để thu hồi tiền, tài sản đã chi trả cho đương sự không đúng quy định của pháp luật, thu phí thi hành án và các khoản phải nộp khác; - Sử dụng công cụ hỗ trợ trong khi thi hành công vụ theo quy định của Chính phủ (quy định tại Điều 20 Luật thi hành án dân sự) [33]. Những quyền hạn trên chỉ được Nhà nước trao cho Chấp hành viên để tổ chức thi hành các bản án, quyết định mà không trao cho bất cứ một chức danh nào khác trong bộ máy
  • 24. Nhà nước và cũng không trao cho Chấp hành viên để làm những việc không phải là việc tổ chức thi hành án. Vì vậy, người không phải là Chấp hành viên thì không có quyền tổ chức thi hành án dân sự. Nói một cách khác, không ai được phép sử dụng quyền lực Nhà nước để buộc người khác phải thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án ngoài người duy nhất là Chấp hành viên. Hai là, Chấp hành viên có vị trí mang tính độc lập cả về nhiệm vụ lẫn quyền hạn trong khi tổ chức thi hành án. Chấp hành viên cũng như Thẩm phán trong quá trình thực thi nhiệm vụ không có một sự can thiệp nào từ bên ngoài có thể buộc Chấp hành viên phải tổ chức thi hành án trái pháp luật, trừ khi Chấp hành viên cố tình vi phạm pháp luật. Điều đó được thể hiện ở việc Chấp hành viên có nghĩa vụ phải: - Chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao; kịp thời, chủ động, tích cực tổ chức thi hành án đúng nội dung bản án, quyết định của Tòa án và theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định. - Khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn mà gây thiệt hại thì cơ quan thi hành án dân sự nơi Chấp hành viên công tác phải có trách nhiệm bồi thường. Chấp hành viên đã gây ra thiệt hại nếu có lỗi thì tùy từng trường hợp cụ thể có trách nhiệm bồi hoàn cho cơ quan thi hành án dân sự theo quy định của pháp luật. - Chấp hành viên có nghĩa vụ từ chối thực hiện nhiệm vụ được giao khi có căn cứ cho rằng việc đó là trái pháp luật. Nếu Thủ trưởng cơ quan thi hành án vẫn quyết định thì Chấp hành viên phải chấp hành, nhưng Thủ trưởng cơ quan thi hành án phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Trong trường hợp này, Chấp hành viên có nghĩa vụ báo cáo lên Trưởng Thi hành án dân sự cấp tỉnh (đối với Thi hành án dân sự cấp huyện), báo cáo lên Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp (đối với Thi hành án dân sự cấp tỉnh), báo cáo lên Cục trưởng Cục Thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng (đối với Thi hành án cấp quân khu) và không phải chịu trách nhiệm về hậu quả của việc thi hành quyết định đó [8]. - Ngoài ra, pháp luật còn quy định nghĩa vụ của Chấp hành viên không được làm một số công việc nhất định, cụ thể:
  • 25. + Chấp hành viên không được tư vấn cho đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan dẫn đến việc thi hành án trái pháp luật. + Chấp hành viên không được can thiệp trái pháp luật vào việc giải quyết vụ việc thi hành án hoặc lợi dụng ảnh hưởng của mình tác động đến người có trách nhiệm thi hành án. + Chấp hành viên không được sử dụng trái phép vật chứng, tiền, tài sản thi hành án. + Chấp hành viên không được thực hiện việc thi hành án liên quan đến quyền, lợi ích của bản thân và những người thân thích như: Vợ, chồng, con đẻ, con nuôi; Cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, ông bà nội, ngoại, bác, chú, cậu, cô,dì và anh, chị em ruột của Chấp hành viên, của vợ hoặc chồng của Chấp hành viên; Cháu ruột mà Chấp hành viên là ông, bà, bác, chú, cậu, cô, dì. + Chấp hành viên không được sử dụng thẻ chấp hành viên, trang phục, phù hiệu thi hành án, công cụ hỗ trợ để làm những việc không thuộc quyền hạn, nhiệm vụ được giao. + Chấp hành viên không được sách nhiễu, gây phiền hà cho cá nhân, cơ quan, tổ chức trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thi hành án. + Chấp hành viên không được cố ý thi hành trái nội dung bản án, quyết định, trì hoãn hoặc kéo dài thời gian giải quyết việc thi hành án được giao không có căn cứ pháp luật [33]. Ba là, Chấp hành viên là hạt nhân của hoạt động thi hành án dân sự, tạo dựng lên uy tín của cơ quan thi hành án dân sự. Nếu như hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự là trung tâm của việc tổ chức thi hành án các bản án, quyết định của Tòa án và quyết định của cơ quan Tài phán khác, thì có thể nói hoạt động của Chấp hành viên là hạt nhân của cơ quan thi hành án dân sự. Hoạt động của Chấp hành viên tạo lên sức mạnh, uy tín của cơ quan thi hành án dân sự. Hiệu quả hoạt động của Chấp hành viên cũng chính là hiệu quả hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự. Một cơ quan thi hành án dân sự có thể có rất nhiều cán bộ, công chức như Chấp hành viên, Thẩm tra viên, chuyên viên, kế toán, thủ quỹ, văn thư, lái xe...,
  • 26. nhưng chỉ có Chấp hành viên là người có thẩm quyền tổ chức thi hành án, những người còn lại chỉ thực hiện những công việc nhằm mục đích bổ trợ, phục vụ cho Chấp hành viên tổ chức thi hành án. Chính vì vậy, Chấp hành viên có vai trò đặc biệt quan trọng trong cơ quan thi hành án dân sự vì hoạt động của họ mang tính chất quyết định kết quả công việc của đơn vị. Cơ quan thi hành án dân sự mạnh hay yếu, hoạt động có hiệu quả hay không có hiệu quả, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên đương sự và của Nhà nước đến mức độ nào phụ thuộc hoàn toàn vào hoạt động của Chấp hành viên. Vì, hầu hết các hoạt động của Chấp hành viên đều trực tiếp tác động các quyền và nghĩa vụ cả về nhân thân và tài sản của người được thi hành án, người phải thi hành án và những người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án, thường được dư luận xã hội quan tâm, chú ý nên hoạt động tổ chức thi hành án của Chấp hành viên có hiệu quả sẽ tạo lên dư luận xã hội tốt, tạo dựng được uy tín của cơ quan thi hành án dân sự trong nhân dân mà cao hơn là sự tin tưởng vào tính nghiêm minh, công bằng của pháp luật, và ngược lại nếu hiệu quả hoạt động của Chấp hành viên kém, không bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và cá nhân đã được Tòa án hoặc cơ quan tài phán khác quyết định nghĩa là các bản án, quyết định không được Chấp hành viên tổ chức thi hành một cách triệt để sẽ gây nên dư luận bất bình của xã hội và mất lòng tin của nhân dân đối với cơ quan thi hành án dân sự nói riêng và đối với nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói chung. Bốn là, hoạt động của Chấp hành viên góp phần quan trọng trong việc bảo vệ trật tự pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Áp dụng đúng các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục thi hành án và thi hành đúng nội dung bản án, quyết định của Tòa án để bảo đảm quyền, lợi ích của người được thi hành án và người phải thi hành án; không xâm phạm đến quyền, lợi ích của những người liên quan đến việc thi hành án là yêu cầu quan trọng nhất đối với một Chấp hành viên thi hành án dân sự. Vì khi bản án, quyết định được Chấp hành viên tổ chức thi hành nghiêm chỉnh, đúng pháp luật thì tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật phải chấm dứt các hành vi đó và thực hiện các nghĩa vụ của mình theo quyết định của Tòa án; quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể bị xâm phạm được khôi phục, bảo đảm thực
  • 27. hiện được mục đích xét xử của tòa án, bảo vệ được lợi ích của Nhà nước, bảo vệ được các quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và công dân. Đồng thời, việc thi hành án có hiệu quả sẽ củng cố hiệu lực của pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ một cách vững chắc các quyền tự do của công dân, nâng cao uy tín của bộ máy Nhà nước mà đại diện là các cơ quan bảo vệ pháp luật và chính là các cơ quan thi hành án dân sự. Như vậy, Chấp hành viên của cơ quan thi hành án dân sự có vị trí, vai trò rất quan trọng trong bộ máy Nhà nước. Không có hoạt động của Chấp hành viên thì các bản án, quyết định của Tòa án nhân danh Nhà nước sẽ chỉ là những quyết định trên giấy do không được tổ chức thi hành hoặc thi hành không đầy đủ trên thực tế. Do Chấp hành viên có vị trí, vai trò quan trọng như vậy nên trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã hết sức chú trọng đến đội ngũ này. Vì vậy, đội ngũ Chấp hành viên không chỉ được tăng cường về số lượng mà còn tăng cả về chất lượng nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác thi hành án dân sự. Tuy nhiên, theo báo cáo chính thức hàng năm của các cơ quan có thẩm quyền, công tác thi hành án dân sự hiện vẫn là một vấn đề rất bức xúc trong lĩnh vực tư pháp, số lượng án tồn đọng chưa được thi hành còn nhiều, số lượng đơn thư khiếu nại vượt cấp còn lớn. Điều này có nhiều nguyên nhân, nhưng một trong những nguyên nhân cơ bản là quyền và nghĩa vụ của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự còn bị hạn chế. Bởi vậy, trong tiến trình cải cách tư pháp hiện nay, vấn đề đặt ra là làm thế nào để tạo được hành lang pháp lý trong đó quy định đầy đủ về quyền và nghĩa vụ cho Chấp hành viên trong thi hành án dân sự, giúp cho họ có đủ điều kiện hoàn thành tốt nhiệm vụ mà nhà nước giao phó và đáp ứng được yêu cầu do thực tiễn đặt ra. 1.2. KHÁI NIỆM ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CHẤP HÀNH VIÊN Chấp hành viên là người được Nhà nước giao nhiệm vụ tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định của Trọng tài thương mại Việt Nam, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, nên khi đặt vấn đề cải cách tư pháp thì không thể không nói đến việc đổi mới chính hoạt động của Chấp hành viên, cụ thể là phải xác định rõ địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong hoạt động thi hành án dân sự, đồng thời xác định một cơ chế tổ chức khoa học, hợp lý để Chấp hành viên thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình.
  • 28. Vậy, địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự được hiểu như thế nào? Trước hết, cần làm rõ khái niệm địa vị pháp lý. Theo quan niệm chung, địa vị pháp lý là vị trí của chủ thể pháp luật trong mối quan hệ với những chủ thể khác trên cơ sở các quy định pháp luật; địa vị pháp lý của chủ thể pháp luật thể hiện thành một tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể, qua đó xác lập cũng như giới hạn khả năng của chủ thể trong các hoạt động của mình. Thông qua địa vị pháp lý có thể phân biệt chủ thể pháp luật này với chủ thể pháp luật khác, đồng thời, cũng có thể xem xét vị trí và tầm quan trọng của chủ thể pháp luật trong các mối quan hệ pháp luật [42]. Như vậy, "địa vị pháp lý" khác với "địa vị xã hội" ở chỗ nó được pháp luật quy định và nó biểu hiện ở các quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể. Vận dụng khái niệm trên vào lĩnh vực thi hành án dân sự, thì địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự được hiểu là tổng thể các quyền và nghĩa vụ tổ chức thi hành án của Chấp hành viên phát sinh trong quá trình thi hành các bản án, quyết định đã có hiệu lực thi hành, thể hiện vị trí của Chấp hành viên trong mối quan hệ với các chủ thể khác của quan hệ pháp luật thi hành án dân sự. Trong đó, các quyền thi hành án dân sự của Chấp hành viên là phạm vi những việc mà Chấp hành viên được quyền quyết định, thực hiện trong quá trình thực thi nhiệm vụ của mình, còn các nghĩa vụ thi hành án của Chấp hành viên được hiểu là những việc mà Chấp hành viên phải thực hiện trong quá trình tổ chức thi hành án, nhằm bảo đảm cho việc thi hành bản án, quyết định được nhanh chóng và hiệu quả. Quyền và nghĩa vụ của Chấp hành viên luôn đi liền với trách nhiệm. Thi hành án là hoạt động làm cho các bản án, quyết định được trở thành hiện thực trong cuộc sống nhằm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức chính trị xã hội và của nhà nước. Do đó, việc xác định trách nhiệm của Chấp hành viên gắn liền với quyền và nghĩa vụ của chủ thể này trong hoạt động thi hành án dân sự là rất cần thiết. Chấp hành viên không chỉ là chủ thể của quan hệ pháp luật thi hành án dân sự mà còn là chủ thể của nhiều loại quan hệ pháp luật khác như quan hệ pháp luật hành chính (ví dụ: Chấp hành viên phải chịu sự quản lý, điều hành về mặt tổ chức của người đứng đầu cơ quan thi hành án nơi mình công tác và chịu sự quản lý của lãnh đạo ngành thi
  • 29. hành án dân sự). Vì vậy, ngoài pháp luật thi hành án dân sự, hành vi của Chấp hành viên còn chịu sự điều chỉnh của nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau. Nhưng nói đến địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự là chỉ nói đến các quyền và nghĩa vụ trong thi hành án dân sự của Chấp hành viên với tư cách là người trực tiếp tổ chức thi hành các bản án, quyết định dân sự, phát sinh trong quá trình thi hành án dân sự. Các quyền và nghĩa vụ này trước hết được quy định bởi Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004, nay là Luật thi hành án dân sự năm 2008 và các văn bản hướng dẫn thi hành Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 nay là các văn bản hướng dẫn thi hành Luật thi hành án dân sự năm 2008. Tóm lại, Chấp hành viên là người tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định khác do pháp luật quy định. Tổng thể các quyền và nghĩa vụ của Chấp hành viên phát sinh trong quá trình thi hành các bản án, quyết định đã có hiệu lực thi hành thể hiện vị trí của Chấp hành viên trong mối quan hệ với các chủ thể khác của quan hệ pháp luật thi hành án dân sự tạo thành địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự. Việc xác định địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự chịu sự quy định và chi phối của nhiều yếu tố khác nhau như, đặc thù của hoạt động thi hành án, bản chất của thi hành án dân sự và vị trí, vai trò của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự. Với những phân tích, lập luận trên, để xác định rõ địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự, pháp luật phải thể hiện được một cách rõ ràng, đầy đủ và toàn diện các quyền và nghĩa vụ của Chấp hành viên cũng như các mối quan hệ của Chấp hành viên trong các nhóm quy định sau đây: Trước hết, địa vị pháp lý của Chấp hành viên phải được thể hiện ở các quy định chung về nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự. Thứ hai, địa vị pháp lý của Chấp hành viên còn phải được thể hiện thông qua các quy định về trình tự, thủ tục thi hành án các bản án, quyết định bao gồm: (a) giai đoạn tự nguyện thi hành án, (b) giai đoạn cưỡng chế thi hành án, (c) giai đoạn kết thúc thi hành án.
  • 30. 1.3. TIÊU CHÍ HOÀN THIỆN ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CHẤP HÀNH VIÊN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI VIỆT NAM Thứ nhất, hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành viên phải xuất phát từ yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đã đề ra nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân ta là “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng”. Đồng thời, lần đầu tiên trong Hiến pháp 1992 đã ghi rõ: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Đây chính là sự tiếp tục phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền trong điều kiện mới. Thực tiễn của công cuộc đổi mới những năm qua ngày càng khẳng định yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng là một tất yếu khách quan, mang tính quy luật của quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng giao lưu quốc tế và hội nhập quốc tế của nước ta. Xây dựng Nhà nước pháp quyền chính là xây dựng một nhà nước dựa trên nền tảng các tư tưởng pháp lý tiến bộ của nhân loại: công bằng, nhân đạo, dân chủ và pháp chế. Đây là những giá trị to lớn của các dân tộc đã trở thành tư tưởng pháp lý tiến bộ làm mục tiêu cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền. Quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tạo ra tiền đề, đồng thời cũng đòi hỏi phải không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật, trong đó có pháp luật thi hành án dân sự nói chung và pháp luật về địa vị pháp lý Chấp hành viên nói riêng. Pháp luật địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong Nhà nước pháp quyền phải được xây dựng với hướng mở rộng quyền năng cho các Chấp hành viên tạo hành lang pháp lý cho các Chấp hành viên thực sự có quyền chủ động thi hành các bản án, quyết định để góp phần thực hiện dân chủ và công bằng xã hội, góp phần giữ gìn kỷ cương pháp luật, bảo vệ triệt để quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân khi bị xâm hại. Thứ hai, việc hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành viên phải nhằm mục đích làm tăng hiệu quả công tác thi hành án dân sự, bảo vệ lợi ích Nhà nước, các quyền và lợi
  • 31. ích hợp pháp của tổ chức và công dân, góp phần giải quyết tình trạng án tồn đọng đang là vấn đề bức xúc hiện nay, đồng thời phải tạo ra cơ chế pháp lý hữu hiệu để bảo đảm thực thi các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Thứ ba, việc hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành viên phải được đặt trong tổng thể hệ thống pháp luật, bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ giữa pháp luật tố tụng và pháp luật nội dung; giữa pháp luật thi hành án với các lĩnh vực pháp luật có liên quan... giữa chúng phải có sự phối hợp, bổ sung cho nhau trong điều chỉnh các quan hệ xã hội mà không có sự chồng chéo, mâu thuẫn, thậm chí làm vô hiệu lẫn nhau. Thứ tư, tổng kết một cách toàn diện, sâu sắc thực tiễn công tác thi hành án nói chung, thi hành án dân sự nói riêng ở nước ta trong từng giai đoạn, trong đó chú trọng tổng kết công tác xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật về quyền và nghĩa vụ của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự; giải quyết bất cập về pháp luật, thực tiễn xét xử và thực tiễn thi hành án; kế thừa, phát triển và pháp điển hoá các quy định còn phù hợp, tiến bộ phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước, trình độ văn hoá pháp lý của nhân dân cũng như đạo đức, tập quán, truyền thống tốt đẹp của dân tộc và bản sắc văn hoá Việt Nam. Đồng thời trong bối cảnh toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật địa vị pháp lý của Chấp hành viên cần phải tiếp thu, kế thừa có chọn lọc những thành tựu mà nhân loại đã đạt được về xây dựng Nhà nước pháp quyền, tổ chức và thi hành pháp luật của các nước, bảo đảm kết hợp hài hòa tính truyền thống và tính hiện đại của hệ thống pháp luật; tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của các nước về xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật thi hành án; thực hiện đầy đủ các điều ước quốc tế mà nước ta đã ký kết hoặc gia nhập. Thứ năm, Thể hiện rõ quan điểm cải cách hành chính, cải cách tư pháp, bảo đảm sự quản lý tập trung, thống nhất công tác thi hành án, đặc biệt, để nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự, cần tạo ra cơ chế gắn kết liên thông giữa các loại hình thi hành án, khắc phục tình trạng phân tán, cắt khúc hiện nay, nhất là giữa thi hành án hình sự và thi hành án dân sự, đồng thời từng bước xã hội hoá thi hành án với lộ trình hợp lý và bước đi vững chắc, phù hợp với tình hình kinh tế- xã hội của đất nước và yêu cầu hội nhập quốc tế. Ngày 24/7/2009, Thủ tướng Chính Phủ đã ký Nghị định về tổ chức và hoạt động của
  • 32. Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian từ ngày 01/7/2009 đến ngày 01/7/2012. Nhưng đến nay vẫn chưa được thực hiện, vấn đề nay cần sớm được triển khai thí điểm và tổng kết, đánh giá để nhân rộng mô hình này.
  • 33. Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA CHẤP HÀNH VIÊN VÀ VIỆC ÁP DỤNG NHỮNG QUY ĐỊNH ĐÓ TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI VIỆT NAM 2.1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÔNG TÁC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM 2.1.1. Thời kỳ từ năm 1945 đến năm 1949 Trước cách mạng tháng tám, ở nước ta tồn tại chế độ Thừa phát lại.Căn cứ Luật tố tụng dân sự ban hành theo Nghị định ngày 16/3/1910 của toàn quyền Đông Dương, Thừa phát lại được tổ chức ở Việt Nam, với nhiệm vụ thông báo Toà khai mạc và bế mạc, gọi các đương sự, nhân chứng, thi hành lệnh giữ trật tự phiên toà, tống đạt giấy tờ theo yêu cầu của Tòa án, thi hành án văn có hiệu lực pháp luật, triệu tập đương sự, lập các vi bằng theo quy định của pháp luật. Như vậy, một trong những nhiệm vụ chính của Thừa phát lại là thi hành án dân sự. Chế định thừa phát lại đã hình thành, tồn tại ở Việt Nam trước cách mạng tháng Tám năm 1945 cho đến năm 1950 và sau đó còn tiếp tục tồn tại dưới chế độ ngụy quyền Sài gòn cho đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (năm 1975). Thừa phát lại là công lại do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm và quản lý, hành nghề trên cơ sở quy định của pháp luật được hưởng thù lao của khách hàng theo biểu giá quy định. Khác với Luật sư, Thừa phát lại không có quyền từ chối thi hành nhiệm vụ khi được yêu cầu. Trong quá trình thực thi nhiệm vụ Thừa phát lại chịu sự chỉ đạo trực tiếp của những công chức có trách nhiệm của Tòa án như Chưởng lý, biện lý, Thẩm phán, Lục sự...Tổ chức thừa phát lại chủ yếu tồn tại, hoạt động ở những thành phố lớn, còn ở những vùng nông thôn việc thi hành án do chính quyền cơ sở đảm nhiệm. Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà nước Việt nam dân chủ cộng hòa ra đời, hệ thống cơ quan tư pháp mới được thiết lập trong cả nước. Trên cơ sở Sắc lệnh ngày 10/10/1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc cho giữ tạm thời các luật lệ hiện hành ở Bắc, Trung, Nam bộ cho đến khi ban hành những Bộ luật chung thống nhất cho toàn quốc, nếu những đạo luật ấy không trái với các nguyên độc lập của Nhà nước Việt Nam
  • 34. và chính thể dân chủ cộng hòa. Chế định thừa phát lại tiếp tục được duy trì và chịu sự quản lý của Ban Công lại thuộc phòng giám đốc hộ của Bộ Tư pháp. Tuy nhiên, tổ chức Thừa phát lại - hình thức tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự đầu tiên của chế độ mới không còn mang ý nghĩa là công cụ của chính quyền thực dân phong kiến như trước đây, mà có nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân. Đến năm 1946, tại sắc lệnh số 13 ngày 20/11/1946 của chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa về tổ chức các Tòa án và các ngạch Thẩm phán đã đặt cơ sở đầu tiên cho tổ chức thi hành án dân sự Việt Nam. Tại Khoản 3 Điều 3 của Sắc lệnh quy định “Ban Tư pháp xã có quyền thi hành những mệnh lệnh của thẩm phán cấp trên” bao gồm các bản án, quyết định của Tòa án. Và tại Điều 3 Lệnh số 130 ngày 19/7/1946 của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa đã quy định “Trong các xã, thị xã hoặc khu phố Chủ tịch, Phó chủ tịch và Thư ký đều chịu trách nhiệm thi hành các mệnh lệnh hoặc án”. Ở nơi nào có Thừa phát lại riêng thì đương sự có quyền nhờ Thừa phát lại riêng thi hành mệnh lệnh (trích tại Việt Nam dân quốc công báo năm 1946). Như vậy, tổ chức thi hành án dân sự đã được hình thành ngay trong những năm đầu sau cách mạng tháng Tám thành công và tồn tại dưới hai hình thức là Thừa phát lại và Ban tư pháp xã. Tuy tồn tại hai lực lượng thi hành án, nhưng việc thi hành án dù do Thừa phát lại hay Ban Tư pháp xã tiến hành đều được thể hiện quyền lực nhà nước và được bảo đảm bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. Về trình tự thi hành án, Thông tư số 24-BK ngày 26/4/1949 của Bộ Trưởng Bộ Tư pháp về việc thi hành án Hình và Hộ đã quy định cụ thể những nguyên tắc chấp hành, thể thức chấp hành, cách thức thi hành các bản án và quyết định của Tòa án. Về cách thức thi hành: Pháp luật đặt ra những công lại riêng để thi hành các án hộ và thương mại, được gọi là các Thừa phát lại. Tuy nhiên Thừa phát lại trước năm 1945 là Lý trưởng thì nay trong tổ chức tư pháp mới là tư pháp xã. Chức năng này của Ban tư pháp xã đã được chính thức quy định trong Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946 về tổ chức tòa án và các ngạch thẩm phán. Khi cần thiết các vị chỉ huy binh lực sẽ can thiệp vào việc thi hành án. Tuy nhiên việc dân sự không có một cách thức duy nhất, tùy theo bản chất mỗi loại án hộ có
  • 35. một cách thức thi hành riêng. Các Thẩm phán phải thấu triệt những thủ tục chấp hành và phải theo dõi công việc xem có đạt được kết quả không. Nếu cần thẩm phán nên đến chứng kiến việc làm của các cơ quan thừa hành. Mỗi khi có trở lực trong việc chấp hành, ông biện lý có bổn phận can thiệp để tỏ rõ nhiệm vụ làm cho pháp luật được tôn trọng. Thông tư trên đã xác định trách nhiệm thi hành án của Thừa phát lại, Ban tư pháp xã và nhấn mạnh vai trò của Ủy ban nhân dân xã, thị trấn, khu phố và các cơ quan có liên quan trong việc hỗ trợ thi hành án. Nhà nước không chỉ tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự trong giao lưu dân sự, thương sự và tố tụng mà còn bảo đảm quyền tự định đoạt của đương sự trong việc bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình bằng sự cưỡng chế của Nhà nước. Tóm lại, có thể nói rằng ngay từ những năm đầu của chính quyền cách mạng, Nhà nước đã từng bước xác định cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự nhằm thể hiện bản chất của nền tư pháp nhân dân, công cụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân. 2.1.2. Thời kỳ từ năm 1950 đến năm 1980 Theo sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 về “Cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng” thì Thẩm phán huyện dưới sự kiểm soát của biện lý có nhiệm vụ đem chấp hành các án hình về khoản bồi thường hay bồi hoàn và các án hộ mà chính Tòa án huyện hay Tòa án trên đã tuyên (Điều 19), việc phát mại bất động sản và phân phối tiền bán được cũng do Thẩm phán huyện phụ trách. Trong trường hợp có nhiều bất động sản rải rác trong nhiều huyện khác nhau thì Biện lý sẽ chỉ định một Thẩm phán huyện để việc phát mại vừa có lợi cho chủ nợ lẫn người mắc nợ. Theo quy định này, việc thi hành án dân sự do Thừa phát lại và Ban tư pháp xã thực hiện trước đây được thay thế bằng Thẩm phán huyện dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chánh án. Sự kiện này đã làm thay đổi căn bản cơ chế tổ chức hoạt động thi hành án dân sự. Thi hành án dân sự từ chỗ căn cứ vào yêu cầu của đương sự đã trở thành trách nhiệm của Nhà nước. Tòa án chủ động thi hành án dân sự mà không chờ yêu cầu của người được thi hành án, các bản án, quyết định của Tòa án khi có hiệu lực pháp luật là được tổ chức thi hành. Trên cơ sở Hiến pháp năm 1959, Quốc hội đã ban hành Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 1960. Điều 24 của Luật này đã xác định “Tại các Tòa án nhân dân địa phương có nhân viên chấp hành án làm nhiệm vụ thi hành các