SlideShare a Scribd company logo
1 of 89
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐỖ MINH HOÀNG
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HOÀNG THỊ THANH HUYỀN
TIỂU THUYẾT CỦA ĐỖ PHẤN TỪ GÓC NHÌN SINH THÁI
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM
HÀ NỘI, 2018
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐỖ MINH HOÀNG
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HOÀNG THỊ THANH HUYỀN
TIỂU THUYẾT CỦA ĐỖ PHẤN TỪ GÓC NHÌN SINH THÁI
Ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. LÊ THỊ HƯƠNG THỦY
HÀ NỘI, 2018
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...............................................................................................................1
Chương 1. VẤN ĐỀ SINH THÁI QUA CÁC THỜI KÌ VĂN HỌC VÀ
TRONG SÁNG TÁC CỦA ĐỖ PHẤN ..............................................................7
1.1. Vấn đề sinh thái trong văn học Việt Nam...............................................................7
1.2. Đỗ Phấn trong đời sống văn học Việt Nam đương đại và cảm quan sinh thái
trong tiểu thuyết Đỗ Phấn..............................................................................................15
Chương 2. CẢM QUAN VỀ SINH THÁI TỰ NHIÊN TRONG TIỂU
THUYẾT CỦA ĐỖ PHẤN................................................................................20
2.1. Kí ức và sự tái hiện vẻ đẹp tự nhiên (nguyên sơ) của Hà Nội.............................20
2.2. Tự nhiên bị tàn phá và những ám ảnh sinh thái....................................................30
2.3. Các hình tượng sinh thái - thẩm mĩ.......................................................................42
Chương 3. CON NGƯỜI TRONG KHÔNG GIAN SINH THÁI ĐÔ THỊ
TRONG TIỂU THUYẾT CỦA ĐỖ PHẤN .....................................................59
3.1. Đô thị hóa và những chấn thương sinh thái..........................................................59
3.2. Hành vi, lối sống của con người trong không gian sinh thái đô thị.....................63
3.3. Cảm thức nơi chốn, không gian và thời gian nhìn từ cảm quan sinh thái...........71
KẾT LUẬN.........................................................................................................79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................81
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tự nhiên và con người có mối quan hệ mật thiết với nhau. Con người có thể sống
hài hòa với tự nhiên, sống thuận theo tự nhiên, lấy thiên nhiên làm nguồn vui, làm lẽ
sống của cuộc đời. Ngược lại, thiên nhiên cũng có thể tác động lại với con người, nếu
như con người khai thác thiên nhiên một cách cạn kiệt. Ngày nay, khi khoa học kĩ thuật
phát triển, xã hội ngày càng tiến bộ, văn minh thì nhu cầu của con người ngày càng đầy
đủ hơn về mọi mặt. Đồng thời, nó cũng kéo theo nhiều hệ lụy của cuộc sống như làm
mất cân bằng sinh thái, khí hậu biến đổi, bão lũ, sạt lở vào mùa mưa, hạn hán vào mùa
hè, triều cường tăng nhanh, khủng hoảng môi trường tự nhiên, con người phải đối mặt
với nhiều nguy cơ sinh thái. Đây đang là vấn đề đáng quan tâm của nhiều ngành khoa
học, trong đó có văn học.
Việt Nam là một nước có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nằm trong khu vực Đông Nam
Á. Với con người Việt Nam, thiên nhiên luôn là người bạn thân thiết. Vì vậy, tình yêu
thiên nhiên luôn là một nội dung quan trọng của văn học Việt Nam từ xưa tới nay. Trong
văn học dân gian, thiên nhiên là đối tượng nhận thức, cải tạo, chinh phục. Thiên nhiên tươi
đẹp thể hiện qua cánh cò, dòng suối, vầng trăng và thiên nhiên hiện ra ở vẻ đẹp phong phú
ở các vùng quê khác nhau. Trong văn học trung đại, hình tượng thiên nhiên gắn liền với lý
tưởng đạo đức, thẩm mĩ, thiên nhiên tượng trưng cho nhân cách cao thượng của các nhà
Nho, thiên nhiên còn là nơi thể hiện lý tưởng thanh cao, sống ẩn dật, không màng danh lợi
của các nhà nho đương thời. Trong văn học hiện đại, thiên nhiên thường gắn liền với tình
yêu quêhương đấtnướcvà tình cảm lứa đôi. Văn học đương đại, thiên nhiên đang dần mất
đi vẻ đẹp vốn có của nó, do nhu cầu của con người, do quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Con người đã tác động vào thiên nhiên, mặc sức khai thác thiên nhiên mà không nghĩ
đến hậu quả khôn lường của nó. Môi trường tự nhiên bị đe dọa, con người đang phải đối
mặt với nhiều thách thức: sự nóng lên toàn cầu, chất thải công nghiệp, ô nhiễm môi
trường, đặc biệt là do sự thiếu ý thức của con người nên tỉ lệ rác thải công nghiệp, rác thải
sinh hoạt gia tăng. Cùng với sự thay đổi nhanh chóng của quá trình đô thị hóa, diện tích
2
trồng trọt ở nông thôn, diện tích cây xanh bị thu hẹp dần thay vào đó là các phố phường
chật hẹp, đông đúc. Tất cả những điều đó đang diễn ra hàng ngày trong đời sống xã hội.
Đứng trước sự khủng hoảng môi trường sinh thái, nhiều nhà văn gần đây đã bày tỏ quan
điểm và tháiđộ trướcnhững vấn đề củađời sống và môi sinh.
Đỗ Phấn đến với văn chương khá muộn mằn, ở tuổi 50 Đỗ Phấn đã có những dấu ấn
thành công trong lĩnh vực hội họa. Cũng chính ở tuổi này Đỗ Phấn bắt đầu chuyển sang
sáng tác văn học. Đến 55 tuổi nhà văn mới có cuốn tiểu thuyết đầu tay ra đời và sau đó liên
tục cho ra mắt bạn đọc nhiều tác phẩm ở nhiều thể loại: tản văn, truyện ngắn và tiểu thuyết.
Với Đỗ Phấn cầm bút trước hết là thú tiêu dao “một cách nghỉ ngơi thư giãn có ích” nhưng
từ trong sâu thẳm có thể nhận thấy nhà văn đang rất lo lắng về sự sống của con người
trước thực tại, nhất là ở thủ đô - mảnh đất ngàn năm văn hiến - nơi ông có quãng thời gian
dài gắn bó. Nhà văn đã say sưa ngắm nhìn mảnh đất kinh kì với tất cả tình yêu của mình.
Với sức sáng tạo mạnh mẽ, chỉ trong gần mười năm trở lại đây, nhà văn đã cho ra đời hơn
hai mươi đầu sách (21 tác phẩm) trong đó có đủ các thể loại: tiểu thuyết, truyện ngắn,
truyện dài, tản văn vàở thể loạinào Đỗ Phấn cũng đạtđược thành tựu nhất định, đặcbiệt là
tiểu thuyết. Đỗ Phấn luôn day dứt về một Hà Nội đã phôi pha theo thời gian, không còn vẻ
đẹp thanh lịch như xưa nữa, mà thay vào đó là sự nhốn nháo, bộn bề hỗn tạp của phố
phường. Sự “thay da đổi thịt” của một đô thị đang vặn mình theo thời kinh tế thị trường sẽ
kéo theo nhiều vấn nạn xã hội như dân số tăng nhanh, nhà ở, giao thông, môi trường, công
ăn việc làm, mối quan hệ giữa người với người, đặc biệt là chất lượng cuộc sống của số
dân ấy, họ trở thành nạn nhân của vấn nạn sinh thái. Trong từng trang sách của Đỗ Phấn,
người đọc không chỉ thấy được vẻ đẹp thiên nhiên đất Hà thành mà còn có thể nhận thấy
cuộc sống con người nơi đây đang ngập trong dòng người hối hả, trong khói bụi của môi
trường, đang âu lo với các tệ nạn xã hội, đang cô đơn lạc lõng giữa dòng đời. Trong sáng
tác của mình, Đỗ Phấn bộc lộ khát vọng về một không gian sống an lành, thanh bình của
cư dân thành phố, ở đó thành phố phát triển trong sự giao thoa, cân bằng với thế giới tự
nhiên. Đặc biệt, nhà văn đã dành sự quan tâm của mình đến môi trường sinh thái gắn liền
với những vấn đề của đời sống đô thị hiện đại. Có lẽ, đây là một trong những phương diện
3
khiến cho tác phẩm của Đỗ Phấn thu hút được sự quan tâm của người đọc, khiến mỗi
người khi đọc tác phẩm của ông không khỏi không suy ngẫm về cuộc sống mà chính mình
đang sống. Nằm trong mạch vận động của văn học đương đại, sáng tác của Đỗ Phấn có
những đóng góp đáng kể trong việc thể hiện tâm thế nhập cuộc vào cuộc sống đang diễn
ra, thểhiện một cảm quan sinh thái rõ rệt.
Tiếp cận với các tiểu thuyết của Đỗ Phấn chúng tôi mong muốn tìm hiểu những đặc
điểm trong tiểu thuyết Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, từ đó góp thêm tiếng nói nhằm ghi
nhận những đóng góp của nhà văn đối với nền văn học Việt Nam. Lựa chọn đề tài: “Tiểu
thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái”, luận văn hướng đến đánh giá giá trị độc đáo
của tác giảĐỗ Phấn trong mảng viết về vấn đề môi trường sinh thái.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đềtài
Đỗ Phấn không phải là một nhà văn chuyên nghiệp, bởi trước khi cầm bút viết văn
ông là một họa sĩ đã thành danh. Mới xuấthiện trên văn đàn, chỉ trong vòng mười năm gần
đây Đỗ Phấn đã cho ra đời liên tiếp nhiều tác phẩm, với nhiều thể loại khác nhau. Với lòng
say mê văn chương nghệ thuật và sự nỗ lực mạnh mẽ, Đỗ Phấn đã cho ra đời nhiều tác
phẩm được người đọc đón nhận và đánh giá cao. Từ những tác phẩm đầu tiên của nhà văn
đã được khá nhiều độc giả và giới phê bình quan tâm, với nhiều bài viết đánh giá khác
nhau. Các tác phẩm của Đỗ Phấn đã được người đọc đón nhận và trở thành đối tượng
nghiên cứu trong nhiều bài viết và các luận văn thạc sĩ. Nhà nghiên cứu Đoàn Ánh Dương,
đã đánh giá cao tài năng của Đỗ Phấn ở lời bạt in ở trang bìa cuốn tiểu thuyết Rừng người:
“Đỗ Phấn tiêu biểu hơn các nhà văn khác ở chỗ là mẫn cảm nghệ thuật, cùng với những
trải nghiệm cuộc sống ở đô thị nên nhà văn đã hiểu rất rõ cái bát nháo của đời sống thị dân
cả mới và cũ” [47].
Trong cuốn Phê bình sinh thái tiếng nói bản địa - tiếng nói toàn cầu (Kỷ yếu hội
thảo quốc tế) của Viện Văn học, với bài viết Kiểu nhân vật nạn nhân sinh thái trong tiểu
thuyết Việt Nam từ sau đổi mới đến nay ThS. Nguyễn Thùy Trang cho rằng: “Trong sáng
tác của Đỗ Phấn nhuốm màu biến đổi khí hậu và thiên tai... Cuộc sống của người dân ven
đê sông Hồng sống dở chết dở khi hàng năm con sông Hồng đến mùa nước cạn và mùa
4
nước lên. Họ sống dật dờ, bấp bênh, không ổn định, không công ăn việc làm. Nhà văn
nhận thấy trên khuôn mặt của họ suốt ngày nhàu nhĩ lo toan nhàu nhĩ sợ” [79, tr.690]. Bài
viết Cảm quan sinh thái trong sáng tác của Đỗ Phấn của TS. Lê Hương Thủy cho thấy:
“Đô thị hóa trong sáng tác của Đỗ Phấn được thể hiện như một thực tế tất yếu cùng với xu
thế phát triển của đời sống, tuy nhiên, đi cùng với nó là những hệ lụy, những “chấn thương
sinh thái”, những tácđộng đến môi trường và con người” [79, tr. 831].
Sáng tác của Đỗ Phấn cũng là đối tượng trong nhiều bài viết của các nhà văn, nhà
phê bình viết về Đỗ Phấn, có thể kể đến các bài viết của Trần Nhã Thụy, Nguyễn Xuân
Thủy, Nguyễn Việt Hà, Phạm Ngọc Tiến, Nguyễn Chí Hoan... Trong vài năm gần đây,
nhất là ở bậc đào tạo sau Đại học của một số trường Đại học, tiểu thuyết của Đỗ Phấn trở
thành đối tượng nghiên cứu trong một số luận văn, luận án. Theo tiến trình của thời gian có
thể kể đến: Năm 2013, đề tài nghiên cứu “Hiện thực đô thị trong tiểu thuyết của Đỗ
Phấn” của học viên Trần Kim Dũng ở Đại học Vinh, Nghệ An. Năm 2014, luận văn
nghiên cứu “Cảm thức phi lí trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn” của thạc sĩ Võ Thị Thanh
Hiền, Đại học Đà Nẵng và “Đề tài đô thị trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn” của học viên
Nguyễn Thị Hương, trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn thuộc Đại học Quốc gia
Hà Nội. Năm 2015, đề tài luận văn nghiên cứu “Đặc điểm tiểu thuyết của Đỗ Phấn” của
học viên Võ Hùng, trường Đại học Vinh, Nghệ An... Các bài viết, các đề tài nghiên cứu đã
có những phát hiện, đánh giá tài năng của Đỗ Phấn trong đó có những ghi nhận về dấu ấn
của Đỗ Phấn trong việc thể hiện những vấn đề về môi trường sinh thái thiên nhiên, cuộc
sống và con ngườinơiđô thị.
Với những thành tựu và đóng góp, sáng tác của Đỗ Phấn đã trở thành đối tượng quan
tâm trong nhiều bài viết, công trình nghiên cứu. Tuy nhiên, vấn đề về môi trường, về sinh
thái đô thị thì chưa có luận văn, luận án nào nghiên cứu một cách có hệ thống. Vì vậy,
chúng tôi lựa chọn đề tài “Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái” với mong
muốn đánh giá về tiểu thuyết củanhàvăn Đỗ Phấn một cách toàn diện hơn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
5
Lựa chọn đề tài nghiên cứu Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, luận văn
hướng tới mục đích cơ bản sau:
- Làm sáng tỏ vấn đềvềmôi trường,về sinh thái trong tiểu thuyết củaĐỗ Phấn.
- Phân tích, lí giải những đặc điểm về cảm quan sinh thái trong tiểu thuyết của Đỗ
Phấn.
- Chỉ ra được những đóng góp về phương diện thể hiện những vấn đề môi trường
sinh thái trong tiểu thuyếtcủa Đỗ Phấn trong bối cảnh văn họcViệt Nam đương đại.
3.2.Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn hướng đến banhiệm vụ sau:
- Vấn đề sinh tháiqua các thời kìvăn họcvà trong sáng tác củaĐỗ Phấn.
- Cảm quan về sinh thái tự nhiên trong tiểu thuyếtcủaĐỗ Phấn.
- Con người trong không gian sinh thái đô thị trong tiểu thuyết Đỗ Phấn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1.Đối tượng nghiên cứu
Đề tài hướng trọng tâm tìm hiểu những đặc điểm về tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc
nhìn sinh thái.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của đề tài, chúng tôi nghiên cứu các sáng tác ở thể loại tiểu thuyết
củaĐỗ Phấn:
- Vắng mặt (2010), Nxb Trẻ, Thành phố Hồ ChíMinh.
- Chảyqua bóng tối (2011),Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Rừng người (2011),Nxb Phụ nữ,Hà Nội.
- Gần như là sống (2013), Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Con mắt rỗng (2013),Nxb Văn học,Hà Nội.
- Ruồi là ruồi (2014), Nxb Trẻ,Thành phố Hồ ChíMinh.
- Rụng xuống ngàyhư ảo (2015), Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Vết gió (2016), Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Rong chơi miền kíức (2016), Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
6
Ngoài ra luận văn còn tìm hiểu một số truyện ngắn, truyện dài và tản văn của Đỗ
Phấn và một số tác giả khác cùng viết về sinh thái đô thị làm đối tượng nghiên cứu và
tham chiếu.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn chúng tôisử dụng cácphương pháp và thao tác nghiên cứu sau:
- Phương pháp nghiên cứu liên nghành văn học - văn hóa học: để xem xét vấn đề
sinh thái đô thị trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn quacác thời kì lịch sử.
- Phương pháp hệ thống: giúp người viết xâu chuỗi các mối quan hệ giữa con
người và tựnhiên để làm sáng tỏ vấn đề sinh thái trong tiểu thuyết củaĐỗ Phấn.
- Thao tác phân tích - tổng hợp: để xem xét một cách chi tiết và có cái nhìn khái
quát vềvấn đề sinh thái trong tiểu thuyết củaĐỗ Phấn.
- Thao tác so sánh, đối chiếu: để thấy được vấn đề sinh thái trong tiểu thuyết của
Đỗ Phấn so với các thể loại khác của ông và so với các nhà văn khác.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Luận văn là công trình chuyên biệt nghiên cứu những đặc trưng trong cảmquan nghệ
thuật của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái. Những kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp
phần làm sáng tỏ vấn đề sự thể hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, sự ảnh
hưởng tác động của con người đối với thiên nhiên ở đô thị hiện đại trong tiểu thuyết của
Đỗ Phấn. Qua đó, để thấy được những đóng góp của nhà văn trong sự phát triển của nền
văn họcViệt Nam nói chung và vấn đềvăn học sinh thái nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoàiphần mở đầu vàkết luận, nộidung chính của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Vấn đề sinh tháiqua các thời kì văn học và trong sáng tác của Đỗ Phấn.
Chương 2: Cảm quan vềsinh thái tự nhiên trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn.
Chương 3: Con người trong không gian sinh tháiđô thị trong tiểu thuyết Đỗ Phấn.
7
Chương 1
VẤN ĐỀ SINH THÁI QUA CÁC THỜI KÌ VĂN HỌC
VÀ TRONG SÁNG TÁC CỦA ĐỖ PHẤN
1.1. Vấn đề sinh thái trong văn học Việt Nam
1.1.1. Nghiên cứu, phê bình văn học từ góc nhìn sinh thái
Chúng ta đang sống trong thế kỉ XXI - thế kỉ mà nhiều nhà nghiên cứu cho rằng
con người phải đối mặt với nhiều nguy cơ sinh thái nhất. Trong xã hội văn minh, hiện
đại cùng với sự phát triển của tốc độ đô thị hóa thì con người đang ngày càng khai thác
tự nhiên quá mức, khiến cho nguồn tài nguyên thiên nhiên bị cạn kiệt không chỉ ở một
quốc gia mà trên toàn cầu. Chính vì vậy mà con người đang phải chịu rất nhiều hậu quả
của thiên nhiên gây ra: hạn hán, lũ lụt, ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, nước biển
tăng cao... Cùng với sự biến đổi ấy, các nhà văn ngày càng có ý thức khám phá về
những vấn đề sinh thái cũng như mối quan hệ giữa môi trường sống và con người.
Theo tiếng La tinh sinh thái có nghĩa là nhà ở, nơi cư trú. Bất kì sinh vật nào sinh
sống trên trái đất đều cần nơi cư trú [33, tr.9]. Thuật ngữ sinh thái học có thể hiểu đó là
bộ môn khoa học nghiên cứu về mối quan hệ giữa môi trường và sinh vật sống [28,
tr.13]. Bộ môn khoa học gắn liền với sinh học và dần dần được phát triển trong nhiều
ngành khoa học khác. Thuật ngữ sinh thái học ra đời vào năm 1869 do nhà nghiên cứu
sinh vật người Đức đưa ra [33, tr.9]. Đến nay, sinh thái không chỉ là đối tượng nghiên
cứu của bộ môn sinh học mà còn là đối tượng nghiên cứu của nhiều nghành khoa học
khác, trong đó có cả khoa học xã hội và nhân văn.
Phê bình sinh thái với tư cách là một khuynh hướng phê bình văn hóa văn học,
thực chất nó là nghiên cứu mối quan hệ giữa môi trường tự nhiên và con người được
thể hiện trong các tác phẩm văn học. Người dùng thuật ngữ “phê bình sinh thái” đầu
tiên là nhà phê bình người Mĩ tên là William Rueckert vào năm 1978 [28, tr.14]. Đến
những năm đầu của thập kỉ 90 phê bình sinh thái trở thành một phong trào phát triển
mạnh mẽ. Đến nay, phê bình sinh thái phát triển nhanh chóng ở nhiều quốc gia trên thế
giới. Các cuộc hội nghị khoa học về vấn đề môi trường trong văn học được tổ chức
8
thường xuyên. Có thể kể đến Hội nghiên cứu ngôn ngữ học hiện đại vào năm 1991,
với chủ đề “Phê bình sinh thái: Xanh hóa nghiên cứu văn học”. Những năm sau đó, các
chuyên luận được ra đời như những cột mốc của phê bình sinh thái: chuyên luận Phê
bình văn học sinh thái: tưởng tượng lãng mạn và sinh thái học tinh thần năm 1994;
Tưởng tượng môi trường: Thoreau, văn viết về tự nhiên và sự cấu thành của văn hóa
Mĩ vào năm 1995, cuốn Tuyển tập Phê bình sinh thái: Các mốc quan trọng trong Sinh
thái học Văn học của Cheryll Glotfelty năm 1996, cuốn Tuyển tập nghiên cứu xanh:
Từ chủ nghĩa lãng mạn tới phê bình sinh thái năm 2000 do Laurence Coupe biên tập;...
Sau này phê bình sinh thái phát triển sang nhiều nước ở Châu Âu, Nhật Bản, Hàn
Quốc, Trung Quốc... đã đem đến một diễn đàn nghiên cứu phê bình văn học, ở đó cho
thấy các nhà nghiên cứu, phê bình đã có sự quan tâm đặc biệt đến vấn đề môi trường
sinh thái trong sáng tác văn học.
Ở Việt Nam, công trình nghiên cứu về sinh thái Phê bình sinh thái - khuynh
hướng nghiên cứu văn học mang tính cách tân của Đỗ Văn Hiểu (2012) được coi là bài
viết công phu thể hiện tư tưởng nòng cốt về phê bình sinh thái từ trước đến nay. Một số
bài viết và công trình của các học giả nước ngoài đã được dịch bởi một số nhà nghiên
cứu Việt Nam như Hải Ngọc với công trình nghiên cứu Những tương lai của phê bình
sinh thái và văn học của Karen Thornber trong tập Phê bình sinh thái Đông Á: Tuyển
tập phê bình (2013), công trình nghiên cứu Phê bình sinh thái - nhìn từ lí thuyết giải
cấu trúc (2013) của Nguyễn Thị Tịnh Thy, công trình nghiên cứu Phê bình sinh thái
của Kate Rigby do Đặng Thị Thái Hà dịch (2014), công trình Nghiên cứu văn học
trong thời đại khủng hoảng môi trường của Cheryll Glotfelty do Trần Thị Ánh Nguyệt
dịch (2014), Phương Lựu trong bài Cần tìm hiểu sự chuyển hướng của phê bình sinh
thái (2015), bài giới thiệu Khuynh hướng phê bình sinh thái trong nghiên cứu văn học
của Lê Lưu Oanh, Trần Thị Ánh Nguyệt (2016), bài viết của giáo sư Trần Đình Sử
Chuyển hướng văn hóa trong nghiên cứu văn học. Gần đây nhất là cuốn Phê bình sinh
thái là gì? Viện Văn học dịch do Hoàng Tố Mai chủ biên và một số cuộc hội thảo khoa
học về phê bình sinh thái diễn ra như: cuộc hội thảo khoa học Phê bình sinh thái -
9
Tiếng nói bản địa, tiếng nói toàn cầu do Viện Văn học tổ chức (12/2017); tháng
01/2018 hội thảo khoa học Sinh thái học trong văn học Đông Nam Á: Lịch sử, Huyền
thoại và Xã hội của Hiệp hội Nghiên cứu liên ngành Văn học và Môi trường Đông
Nam Á tại Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội cho thấy
phê bình sinh thái đang là một hướng nghiên cứu được giới nghiên cứu quan tâm, đánh
dấu những bước chuyển quan trọng trong việc nghiên cứu phê bình sinh thái trong đời
sống văn học ở thời đại khủng hoảng môi trường.
Thời đại ngày nay mà chúng ta đang sống đặt ra một vấn đề nếu chúng ta không
thay đổi hành vi của mình thì sẽ phải đối mặt với thảm họa sinh thái. Trong văn học
vấn đề sinh thái trở thành một đề tài quan trọng mà các nhà văn cần khai thác. Qua các
tác phẩm văn học của mình, các nhà văn có thể thể hiện thái độ về văn hóa ứng xử của
con người đối với tự nhiên, phê phán những tư tưởng, những chính sách văn hóa xã hội
làm ảnh hưởng đến thế giới tự nhiên, dẫn đến tình trạng xấu đi của môi trường và nguy
cơ biến đổi sinh thái.
1.1.2. Một vài hình dung về vấn đề sinh thái trong văn học Việt Nam
Trong lịch sử văn học, con người là đối tượng trung tâm của văn học. Trong
nhiều tác phẩm văn học, con người vẫn thường được xây dựng và biểu hiện trong mối
quan hệ với thế giới tự nhiên. Trong văn học dân gian, con người luôn luôn đứng cao
hơn vũ trụ, con người tôn sùng tự nhiên qua những hành động lớn lao kiểu dời non lấp
bể, chống trời, tôn sùng tự nhiên qua việc nói đến kích thước thân thể khổng lồ trong
tác phẩm “Nữ oa vá trời”, “Thần trụ trời”... Trong nhiều câu ca dao, dân ca, hò vè các
tác giả dân gian đã khắc họa thiên nhiên vô cùng tươi đẹp, con người sống trong môi
trường ấy sẽ hưởng thụ và chiêm ngưỡng cảnh sắc thiên nhiên thanh bình, yên ả của
quê hương đất nước: “Đường vô xứ Nghệ quanh quanh/ Non xanh nước biếc như
tranh họa đồ” (Ca dao). Việt Nam là một nước nông nghiệp, dân số chủ yếu sống bằng
nghề nông, cuộc sống con người thường xuyên phải chịu những tác động của tự nhiên,
phụ thuộc rất nhiều vào tự nhiên. Thiên nhiên đóng vai trò rất lớn trong đời sống của
cư dân nông nghiệp. Nó vừa là nguồn lợi, là môi trường đồng thời cũng là nỗi lo âu của
10
người dân. Mỗi khi bước chân ra đồng người nông dân luôn phải lo lắng sao cho mưa
thuận gió hòa, thực tế này được phản ánh trong ca dao: “Trông trời trông đất trông
mây/ Trông mưa trông nắng trông ngày trông đêm/ Trông cho chân cứng đá mềm/
Trời yên bể lặng mới yên tấm lòng” (Ca dao).
Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu về khoa học kĩ thuật, song với tình trạng biến
đổi khí hậu bất thường do sự tàn phá của con người thì sự khắc nghiệt của tự nhiên càng
trở nên khủng khiếp hơn. Hạn hán, lũ lụt xảy ra nhiều hơn, tàn khốc hơn, những trận động
đất kinh thiên động địa đã làm cho con người ngày càng khốn đốn. Con người tồn tại và
phát triển cùng với môi trường tự nhiên bởi vậy khi chỉnh thể sinh thái bị hủy hoại thì sự
sống của con người cũng sẽ bị đe dọa. Từ xa xưa, tác giả dân gian đã ý thức về môi
trường tự nhiên và sự chống trả vất vả của con người với thiên tai, điều này được thể
hiện trong chi tiết nước lũ dâng lên hàng năm, nước dâng lên bao nhiêu thì đồi núi cũng
dâng lên bấy nhiêu (Sơn Tinh, Thủy Tinh) để nói rằng con người vẫn chế ngự được
thiên nhiên, vẫn làm chủ được thiên nhiên. Trong văn học trung đại, cảm thức về sinh
thái là cảm thức hòa điệu: ca tụng thiên nhiên, xem thiên nhiên là nơi lánh trú tâm hồn, lí
tưởng hóa mối tương tác giữa con người và môi trường. Điều đó được thể hiện rõ trong
thơ Thiền thời Lí Trần, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Khuyến... Thiên
nhiên trong mối quan hệ với con người chủ yếu thể hiện ở hai khía cạnh vừa là nơi lánh trú
ẩn dật, vừa là người bạn thân thiết. Khi cuộc đời không như ý con người thường trở về với
thiên nhiên, sống chan hòa với thiên nhiên, Nguyễn Trãi đã dành tất cả tấm lòng ưu ái của
mình cho thiên nhiên: “Côn Sơn suối chảy rì rầm/ Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai/
Côn Sơn có đá rêu phơi/ Ta ngồi trên đá như ngồi đệm êm” (Bài ca Côn Sơn - Nguyễn
Trãi). Dưới ngòi bút của Bạch Vân cư sĩ - Nguyễn Bỉnh Khiêm, những tứ thơ đã thể hiện
cảm xúc giao hòa giữa thiên nhiên với tâm hồn thanh thản của nhà thơ khi sống ẩn dật nơi
quê nhà: “Thu ăn măng trúc, đông ăn giá/ Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao” (Nhàn - Nguyễn
Bỉnh Khiêm).
Việt Nam là một nước trong suốt chiều dài lịch sử có nhiều thế lực xâm lược.
Trong thời chiến do sự hủy hoại của chiến tranh nên nguồn tài nguyên thiên nhiên bị
11
tàn phá khiến cho môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng. Các nhà thơ, nhà văn đã có cái
nhìn về vấn đề này. Trong Bình Ngô đại cáo nhà văn Nguyễn Trãi đau xót vô cùng khi
chứng kiến cảnh: “Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy đường/ Xương Giang, Bình
Than, máu trôi đỏ nước” (Bình Ngô đại cáo - Nguyễn Trãi)
Đầu thế kỉ XX, cùng với cảm quan sầu đô thị, sự tàn phá thiên nhiên chính là từ
các công cuộc đô thị hóa, công nghiệp hóa - hiện đại hóa, điện khí hóa... của con người.
Nhà thơ Tú Xương đã có dự cảm “Phố phường chật hẹp người đông đúc/ Bồng bế
nhau lên nó ở non” (Năm mới chúc nhau - Trần Tế Xương). Trong văn học hiện đại
các nhà văn đã có sự quan tâm hơn đến mối quan hệ giữa môi trường tự nhiên và con
người. Thời kì văn học lãng mạn 1930 - 1945 gắn liền với quá trình đô thị hóa, nhiều
nhà văn, nhà thơ đã quay lưng lại thực tế, tìm về thiên nhiên. Có khi là thiên nhiên tươi
đẹp thơ mộng, như thực như hư dưới con mắt của thi sĩ Hàn Mặc Tử, nơi có những khu
vườn nhỏ nhắn, xinh xinh, những ngôi nhà lấp ló sau những vườn cây xanh mướt như
ngọc của xứ Huế: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?/ Nhìn nắng hàng cau nắng mới
lên/ Vườn ai mướt quá xanh như ngọc/ Lá trúc che ngang mặt chữ điền” (Đây thôn Vĩ
Dạ - Hàn Mặc Tử). Dưới con mắt của thi sĩ đa tình, nhà thơ Xuân Diệu biểu lộ một
tình thơ thật đắm say, ngất ngây về sự giao hòa giữa thiên nhiên và con người rất gần
gũi, thân thiết: “Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên/ Cây me ríu rít cặp chim
chuyền/ Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá/ Thu đến nơi nơi động tiếng huyền” (Thơ
duyên - Xuân Diệu).
Văn học giai đoạn từ năm 1945 - 1975, thời kì diễn ra cuộc chiến tranh xâm lược của
đế quốc Mĩ và thực dân Pháp, này cũng có thể được xem xét dưới cái nhìn sinh thái, đó là
sự hủy hoại của môi trường trong chiến tranh, mỗi ngày có hàng nghìn, hàng vạn tấn bom
dội xuống đất nướcViệt Nam. Nhân dân Việt Nam phải chịu bao khói thuốc chiến tranh, ô
nhiễm môi trường đất, nước và không khí. Tuy nhiên, vẫn có những vần thơ, những tác
phẩm thể hiện mối quan hệ gần gũi giữa con người và thiên nhiên, nhân dân ta chiến đấu
bảo vệ Tổ quốc, cũng là chiến đấu cho mỗi nhành hoa, ngọn cỏ, tấc đất của quê hương:
“Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam/ Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng” (Hoan hô
12
chiến sĩ Điện Biên - Tố Hữu). Thời kì này cội nguồn của cảm quan sinh thái là tình yêu
quê hương đất nước: tình yêu với hương cỏ mật, với hoa bưởi nồng nàn, với hoa ổi,
hoa doi ngát hương (Hương cỏ mật - Đỗ Chu, Hương thầm - Phan Thị Thanh Nhàn,
Mùa hoa doi - Xuân Quỳnh...), những hình ảnh, âm thanh gần gũi với mỗi người dân
như hình ảnh bếp lửa, tiếng gà (Bếp lửa - Bằng Việt, Tiếng gà trưa - Xuân Quỳnh), với
dòng sông, cánh đồng thân thuộc (Đồng chí - Chính Hữu, Tây Tiến - Quang Dũng,
Những đứa con trong gia đình - Nguyễn Thi...). Trong giai đoạn văn học này các nhà
văn có nói đến thiên nhiên nhưng chủ yếu để biểu hiện cho sức sống vĩnh hằng, bất diệt
dẫu cho cuộc chiến tranh ác liệt đến mức nào (Mảnh trăng cuối rừng - Nguyễn Minh
Châu, Rừng xà nu - Nguyễn Trung Thành, Vòng cườm trên cổ chim cu - Chế Lan
Viên). Văn học có nói đến sự phá hoại của chiến tranh đối với tự nhiên nhưng chủ yếu
nghiêng về tố cáo tội ác của giặc (Dấu chân người lính - Nguyễn Minnh Châu, Cánh
đồng hoang - Nguyễn Quang Sáng...). Cụ thể trong tác phẩm Rừng xà nu Nguyễn
Trung Thành đã nói rất rõ sự phá hoại của bọn giặc khiến cho cả rừng xà nu trước cửa
làng Xô Man bị tàn phá khủng khiếp, cây nào cũng bị thương, có những cây xà nu bị
chặt đứt ngang nửa thân mình, nhựa ứa ra tràn trề.
Sau năm 1975, văn học đặc biệt chú ý hơn đến những vấn đề liên quan đến sinh
thái. Tính liên nghành cũng được nhấn mạnh, nhiều tác phẩm được viết theo hướng tố
cáo sự phá hoại thiên nhiên của chiến tranh như Miền cỏ cháy của Nguyễn Minh Châu,
hay dòng “văn học da cam”, di chứng của chất độc da cam tàn phá môi trường, chất
độc dioxin với những khu rừng xác xơ trụi lá, mái đầu rụng hết tóc của các nữ thanh
niên xung phong, rồi những đứa con dị hình, dị dạng, không lành lặn của các cựu chiến
binh trở về từ chiến trường (Người sót lại của rừng cười - Võ Thị Hảo, Mười ba bến
nước - Sương Nguyệt Minh...). Khi chiến tranh đã lùi xa, người ta mới nhận ra rằng nó
không chỉ tổn thất về vật chất, mà còn tổn thất về tinh thần, về môi trường chưa thể
khắc phục ngay được, những hậu quả của nó vẫn còn để lại âm ỉ sau bao thế hệ.
Văn học sinh thái truy tìm nguồn gốc của nguy cơ sinh thái. Có lẽ thế, mà nhiều
tác phẩm trong thời gian này đã phê phán mặt trái của văn minh như tác phẩm của
13
Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Ngọc Tư, Sương Nguyệt Minh...
Bên cạnh đó, văn học sinh thái còn chú trọng đến trách nhiệm của con người đối với tự
nhiên, khẩn thiết lên tiếng kêu gọi con người hãy bảo vệ vạn vật trong tự nhiên để duy
trì cân bằng sinh thái: (Thung mơ của Hà Nguyên Huyến, Sống mãi với cây xanh,
Khách ở quê ra - Nguyễn Minh Châu, Giải vía - Hà Thị Cẩm Anh...). Văn học sinh
thái còn đặt ra trách nhiệm của con người đối với tự nhiên. Con người cần trân trọng,
yêu thương, che chở tự nhiên, nhìn vào tự nhiên mà điều chỉnh hành vi của mình.
Trong các tác phẩm văn học, các nhà văn đã có sự quan tâm đến các vấn đề xã hội, dân
sinh, hướng về đô thị, những vấn đề nảy sinh trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, những mâu thuẫn nảy sinh trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên.
Sau năm 1975, các tác phẩm văn học đã chú ý nhiều hơn về mối quan hệ giữa
môi trường tự nhiên và con người sinh tồn trong môi trường ấy. Nhà văn Nguyễn Minh
Châu được coi là “người mở đường tinh anh” (Nguyên Ngọc) cũng đã có ý thức rất
sớm về vấn đề sinh thái. Tác giả để cho nhân vật của mình có những xử sự rất đỗi nhân
văn. Các tác phẩm cũng đề cập đến vấn đề lo âu về tương lai đô thị như Cỏ lau, Miền
cháy, Phiên chợ Giát, Sống mãi với cây xanh... Nguyễn Huy Thiệp, người đã tạo nên
“khúc ngoặt” (Lã Nguyên) cho văn xuôi Việt Nam sau 1975 cũng là người đưa ra được
những triết lí sinh thái thực sự có chiều sâu. Thời kì đầu, ông chưa khai thác sâu về mối
quan hệ giữa tự nhiên và con người nhưng cùng với quá trình phát triển đô thị, tác
phẩm của Nguyễn Huy Thiệp xuất hiện kiểu nhân vật phản ứng với văn minh đô thị.
Trong truyện ngắn Chuyện tình kể trong đêm mưa nhân vật Bạc Kì Sinh không thích
người Kinh lên Tây Bắc khai hóa văn minh, nhân vật Doanh trong Những người muôn
năm cũ phỉ báng kết quả của việc tiếp thu văn minh đô thị. Từ đó, Nguyễn Huy Thiệp
băn khoăn đi tìm câu trả lời làm thế nào để con người sống yên ổn và hạnh phúc. Nhiều
trang viết của Nguyễn Huy Thiệp thể hiện nỗi bất an và lo âu, ở đó nhân vật thường rơi
vào niềm cô độc, đau đớn, có khi dẫn đến cái chết (Con gái thủy thần, Chăn trâu cắt
cỏ, Thương nhớ đồng quê...). Nguyễn Huy Thiệp cũng như nhiều nhà văn đương đại
đang đi tìm câu trả lời cho vấn đề vẻ đẹp tự nhiên đang dần bị mai một, về những bất
14
ổn của đô thị hóa. Sau này, nhiều tác phẩm của một số nhà văn đã viết trực diện về
những vấn đề của môi trường như Trăm năm còn lại của Trần Duy Phiên, Sâm cầm Hồ
Tây, Chuyến đi săn cuối cùng của Sương Nguyệt Minh, Khách đến Nha Trang của
Hoàng Minh Tường, Giải vía, Đối thoại với bất tử của Hà Thị Cẩm Anh, Con chó và
vụ li hôn của Dạ Ngân, Đàn sẻ ri bay ngang rừng của Võ Thị Xuân Hà, Bóng của cây
sồi của Đỗ Bích Thúy, Miền cỏ hoang của Trần Thanh Hà, Cánh đồng bất tận của
Nguyễn Ngọc Tư,... Các tác phẩm của Đỗ Phấn như Vắng mặt, Chảy qua bóng tối,
Rừng người, Rong chơi miền kí ức, Ruồi là ruồi, Gần như là sống, Rụng xuống ngày
hư ảo, Vết gió, Con mắt rỗng cùng một số truyện ngắn, truyện dài, tản văn cũng đều đề
cập đến vấn đề sinh thái.
Nhiều tác phẩm sau 1975 đều viết về sự nếm trải của con người với những khủng
hoảng môi trường sinh thái. Có lẽ, Nguyễn Ngọc Tư là một trong số nhà văn viết có sự
ám ảnh nhất. Thời kì đầu, các tác phẩm chỉ xoay quanh vấn đề tình cảm, về sau lồng
trong các câu chuyện là vấn đề thời sự, cụ thể là vấn đề môi trường. Các nhân vật trong
truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư hầu hết là sống và lớn lên trên mảnh đất chôn rau cắt
rốn nên có cái nhìn của người trong cuộc, trước sự đổi thay của quê hương mà thấy xót
xa. Tác giả đã nhìn thấy sự bạc màu của đất, sự biến mất của tự nhiên tươi đẹp, những
thảm họa thiên nhiên trút lên cuộc sống của con người như mùa nước nổi, xâm ngập
mặn của đồng bằng sông Cửu Long, cuộc sống của họ cứ phải nay đây mai đó, di
chuyển khắp nơi để sinh sống qua mùa nước nổi, đến những vùng nước ngọt để tồn tại.
Sinh ra và lớn lên ở vùng sông nước, Nguyễn Ngọc Tư phát hiện ra rằng: nước được
coi là yếu tố vô cùng quan trọng đối với con người. Nó là yếu tố quan trọng nhất cấu
thành sự cân bằng sinh thái tự nhiên. Con người không thể sống thiếu nước, đặc biệt là
nước ngọt, nước sạch. Trong Cánh đồng bất tận hình ảnh người dân xếp hàng dài đi
mua nước ngọt, họ phải nín thở để nước khỏi sánh ra ngoài thùng đựng nước, họ phải
tụt xuống ao tắm rồi lên rửa lại bằng nước ngọt nhưng chỉ đúng hai gàu, nước vo gạo
dùng để rửa rau, rửa rau xong thì dùng để rửa cá, họ phải tiết kiệm từng gáo nước. Họ
chỉ ao ước rất đơn giản là bao giờ được tắm một bữa nước ngọt cho đã đời. Ở tiểu
15
thuyết Sông, một lần nữa nhà văn nhắc lại tình cảnh thiếu nước ngọt đến trầm trọng của
người dân vùng sông nước... Trong tác phẩm của mình, Nguyễn Ngọc Tư đã đặt ra
nhiều vấn đề về môi trường và số phận cá nhân trong chỉnh thể sinh thái, cảnh báo về
tình trạng biến đổi khí hậu trên từng dòng sông, mỗi ngôi nhà và từng số phận nhân
vật. Ngoài ra còn rất nhiều tác phẩm của các tác giả như: Con gái thủy thần, Chăn trâu
cắt cỏ, Những bài học ở nông thôn.... của Nguyễn Huy Thiệp, Kẻ ám sát cánh đồng
của Nguyễn Quang Thiều, Biển và chim bói cá của Bùi Ngọc Tấn, Chốn sơn khê,
Giường đôi xóm Chùa của Đoàn Lê và các truyện ngắn Khói trời lộng lẫy, Gió lẻ,
Ngọn đèn không tắt, Giao thừa, Sông... của Nguyễn Ngọc Tư.
Quá trình đô thị hóa đang phát triển hết sức nhanh chóng, nhất là những thành
phố đang trong quá trình phát triển theo hướng hiện đại văn minh không chỉ là trung
tâm văn hóa, chính trị, nhiều thành phố còn là nơi khủng hoảng về môi trường sinh
thái. Với một cái nhìn thấu suốt, nhiều tác phẩm viết về sinh thái đô thị thể hiện nỗi bất
an, lo âu của con người sống trong môi trường ấy. Có thể thấy, nhà văn Đỗ Phấn không
phải là người duy nhất viết về môi trường sinh thái đô thị mà đã có rất nhiều nhà văn
khác đã và đang viết về vấn đề này. Khi viết về vấn đề sinh thái đô thị, Đỗ Phấn có cái
nhìn và cảm quan đặc biệt, cái nhìn mẫn cảm của một nhà văn nhận thấy sự thay đổi
của thủ đô trước sự xâm lấn của văn minh đô thị.
1.2. Đỗ Phấn trong đời sống văn học Việt Nam đương đại và cảm quan sinh thái
trong tiểu thuyết Đỗ Phấn
1.2.1. Cuộc đời và sự nghiệp văn học của nhà văn Đỗ Phấn
Đỗ Phấn sinh năm 1956 trong một gia đình công chức tại Hà Nội. Năm 1980, ông
đỗ tốt nghiệp Đại học Mĩ thuật. Từ năm 1980 - 1989, ông là giảng viên giảng dạy Mĩ
thuật tại khoa Kiến trúc, trường Đại học Xây dựng Hà Nội. Hiện nay, Đỗ Phấn là một
họa sĩ tự do, là một nhà văn được nhiều độc giả biết đến. Đỗ Phấn là một người đi nhiều,
hiểu nhiều, biết rộng. Ông là “một giang hồ ham mê các hành trình dọc ngang nước Việt,
thi thoảng nổi hứng lại nhảy lên Tây Tạng, tạt ngang Paris... Chưa kịp gặp đã nghe bay
sang Bangkok hoặc vọt sang Australia...” [24]. Phải chăng, nhà văn đi khắp nơi trên đất
16
nướcvà thế giới đểdi dưỡng tinh thần và tìm nguồn cảm hứng sáng tác trong các tác phẩm
của mình.
Đỗ Phấn vẫn thường được nhắc đến với cương vị là một họa sĩ có tài, hơn 40 năm
cầm bút vẽ, Đỗ Phấn có một gia tài tranh đáng kể. Và hơn 10 năm nay ông gần như đã
ngừng bút vẽ, chỉ góp mặt trên báo chí với những minh họa và tranh Tết. Với Đỗ Phấn, vẽ
và viết đều có chung một mục đích là cái đẹp, sự lương thiện. Chất liệu để làm nên tác
phẩm của Đỗ Phấn chính là mảnh đất nơi nhà văn sinh ra và lớn lên. Chính nhà văn cũng
cho rằng: “Dù vẽ hay viết thì mục đích cuối cùng của tôi là tìm đến cái đẹp, cái thẩm mĩ,
cái nhân văn của cuộc sống. Nhất là Hà Nội hôm nay có phần mất mát, xô lệch quá chẳng
còn giữ được bao nhiêu. Là người con Hà Nội, tôi thấy mình cần có trách nhiệm phải lưu
giữ những nét đẹp của Hà Nội mà mình đã may mắn được trải qua, khi mà tình yêu làm
nó bị pha loãng bằng muôn nghìn cách” [68].
Trước khi cầm bút viết, Đỗ Phấn đã phải trải qua nhiều chức phận khác nhau. Đỗ
Phấn từng là thầy giáo đứng trên giảng đường đại học, là họa sĩ tài hoa. Ông đến với văn
chương khi tuổi đời không còn trẻ. Với sức sáng tạo dồi dào và cách làm việc nghiêm túc,
Đỗ Phấn liên tục cho ra đời nhiều tác phẩm với nhiều thể loại khác nhau, từ tản văn đến
truyện ngắn, truyện dài và tiểu thuyết và ở thể loại nào cũng có những dấu ấn. Các tác
phẩm của ông gần như viết duy nhất một đề tài là Hà Nội. Mỗi tác phẩm là một thế giới
khác nhau thể hiện một cảm quan sinh thái về Hà Nội, thành phố đang từng ngày thay đổi
trong bối cảnh đương đại.
Về sự nghiệp văn học, sau hơn 10 năm cầm bút viết Đỗ Phấn là nhà văn có sức sáng
tạo đáng kinh ngạc. Ông đã cho ra đời các tác phẩm với nhiều thể loại khác nhau, từ tiểu
thuyết đến truyện dài, truyện ngắn, tản văn. Năm 2010, tiểu thuyết Vắng mặt được lọt vào
chung khảo giải văn Bách Việt. Năm 2014, truyện dài Dằng dặc triền sông mưa của Đỗ
Phấn đã dành giải thưởng ở hạng mụcVăn xuôi của Hộinhàvăn HàNội.
Ở lĩnh vực tiểu thuyết là các sáng tác: Vắng mặt (Nxb Trẻ - 2010); Rừng người (Nxb
Phụ nữ - 2011); Chảy qua bóng tối (Nxb Trẻ - 2011); Gần như là sống (Nxb Trẻ - 2013);
17
Con mắt rỗng (Nxb Văn học - 2013); Ruồi là ruồi (Nxb Trẻ - 2014); Rụng xuống ngày hư
ảo (Nxb Trẻ - 2015); Vết gió (Nxb Trẻ - 2016); Rong chơi miền kí ức (Nxb Trẻ- 2016).
Ngoài ra, ông còn cho ra mắt bạn đọc các tập truyện ngắn và truyện dài: Đêm tiền sử
(Nxb Hội nhà văn - 2009); Thác hoa (Nxb Trẻ - 2010); Kiến đi đằng kiến (Nxb Phụ nữ -
2009); Dằng dặc triền sông mưa (Nxb Trẻ - 2013).
Ông cũng là người viết nhiều ở thể loại tản văn và đa phần là viết về thủ đô Hà Nội
với các tác phẩm: Chuyện vãn trước gương (Nxb Hội nhà văn - 2005); Ông ngoại hay
cười (Nxb Lao động - 2011); Phượng ơi (Nxb Dân Trí - 2012); Hà Nội thì không có tuyết
(Nxb Trẻ - 2013); Ngồi lê đôi mách với Hà Nội (Nxb Trẻ - 2015); Ngẫm ngợi phố
phường (Nxb Trẻ - 2015); Đi chơi bờ hồ (Nxb Trẻ - 2018); Bâng quơ một thời Hà Nội
(Nxb Trẻ - 2018).
1.2.2. Cảm quan sinh thái của nhà văn Đỗ Phấn.
Nghiên cứu về vấn đề sinh thái là một chủ đề mang tính thời sự từng được đặt ra
trong bối cảnh củađời sống xã hội vàđời sống văn học hơn một thập niên gần đây. Thời kì
văn học đương đại, vấn đề sinh thái mới được thể hiện một cách đa dạng trong nhiều tác
phẩm. Trong các sáng tác của mình, các nhà văn đã lên án sự hủy hoại môi trường của con
người, nhất là môi trường sinh thái đô thị. Giống như các nhà văn đương thời, Đỗ Phấn
cũng quan tâm đến vấn đề sinh thái. Ông sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Thăng Long văn
hiến lâu đời, ông hiểu rất rõ từng sự thay đổi, sự chuyển mình của đô thị nhất là những
năm gần đây khi quá trình đô thị diễn ra nhanh chóng, con người được tiếp cận với nền
văn minh tiến bộ nhưng cũng để lại nhiều hệ lụy khi tự nhiên bị phương hại, con người trở
nên bất an, con người muốn tìm về trạng thái cân bằng sinh thái. Ông viết về Hà Nội bằng
tất cả tấm lòng, bằng những chiêm nghiệm, những hồi ứcxa xưa của mình.
Đỗ Phấn luôn tâm niệm “cả đời, tôi sẽ chỉ viết sách về Hà Nội” [32]. Chỉ trong
khoảng thời gian ngắn, Đỗ Phấn đã cho ra đời nhiều tiểu thuyết viết về Hà Nội: Vắng mặt,
Chảy qua bóng tối, Rừng người, Rong chơi miền kí ức, Ruồi là ruồi, Rụng xuống ngày hư
ảo, Vết gió... Tất cả đều là một bức tranh chân thực về phố phường Hà Nội. Ở đó ta thấy
được con người sống trong đô thị ngột ngạt đến mức nào? Họ được sống đầy đủ hơn về
18
vật chất nhưng họ lại phải đối mặt với nhiều vấn đề về môi trường sinh thái trong cuộc
sống. Đối với người thành phố để hướng đến một đời sống an nhàn hòa hợp với thiên
nhiên cũng khó khăn. Mong mỏi của Đức trong Rụng xuống ngày hư ảo là một thực tế.
Muốn uống trà ngon thì cần phải có quá nhiều điều kiện. Chẳng hạn, mang trà Thái
Nguyên về thành phố pha với nước máy đun sôi thì thấy nhạt phèo, đắng ngắt, chẳng còn
là vị của trà Thái Nguyên nữa. Rồi đến việc ngắm một vùng trời bình yên ở thành phố mới
thật là khó khăn, xung quanh họ chỉ thấy nhà cao tầng mọc lên san sát, đường phố lúc nào
cũng đông nghịt người nhất là lúc tan tầm. Khói bụi xe thì mù mịt, rađường là phải đội mũ
bảo hiểm, đeo khẩu trang, bịt kín mít. Nhiều người phải sống trong một căn hộ tập thể chật
chội, trong các tòa nhà cao tầng quanh năm không nhìn thấy ánh sáng mặt trời. Sống trong
thành phố văn minh mà lúc nào cũng cảm thấy bất an. Có lẽ thế, mà cái cảm giác lạc loài,
cô đơn ngay chính trong “rừng người” của các nhân vật là không tránh khỏi. Nhân vật
chính thường phảng phất nỗi buồn khi những vẻ đẹp nguyên sơ của thủ đô không còn nữa
và rất muốn phục sinh lại nó. Những dòng sông, những làng mạc, những bờ ao tự nhiên
biến mất mà thay vào đó là những tòa nhà cao tầng, những khách sạn sang trọng hiện đại,
những hàng quán mọc lên san sát... chỉ trong một thời gian ngắn. Do cuộc sống bộn bề nên
tình người cũng ngày càng chia cắt. Không còn những bữa cơm anh em, bạn bè quây quần
trong những ngày Tết. Những ngày Tết họ rất ngại đến nhà nhau, họ đi du lịch khắp nơi để
thưởng thứckhông khí trong lành kháchẳn không khíngộtngạt trong thành phố.
Có lẽ, sự can thiệp của quá trình đô thị hóa, nông thôn dần mất đi những ruộng lúa,
bờ tre, những cánh đồng quê trong trẻo, thanh bình, những hồn người mộc mạc. Thay vào
đó là những ngôi nhà san sát, những lớp thị dân lạc lõng, bơ vơ. Nhiều nhân vật trong tiểu
thuyết của Đỗ Phấn không dễ giữ mình để khỏi bị tha hóa theo lối sống thành thị. Đọc tiểu
thuyết của Đỗ Phấn, có thể thấy rất nhiều nhân vật đã trốn chạy khỏi thành phố đô hội. Họ
lên rừng, xuống biển, đi đến một nơi nào đó thật xa, nơi đó họ có thể được hưởng thụ
những gì mà thiên nhiên ban tặng mà thành phố không có. Một niềm ao ước giản đơn đối
với cư dân thành phố: một chuyến đi xa để họ được sống là chính mình, được hòa với
19
thiên nhiên, được sống trong sự ưu ái của thiên nhiên, đồng thời cũng để cho họ thanh lọc
tâm hồn, tránh xa phố phường hỗn tạp, bất an.
Với cảm quan tinh tế, Đỗ Phấn có một cách nhìn mới mẻ về mối quan hệ giữa tự
nhiên và con người. Hà Nội trong tình cảm trân quý của nhà văn được hiện lên một cách
chân thực với vẻ đẹp xưa cũ, một vẻ đẹp hiện đại của những ngôi cao tầng kết hợp với nét
cổ kính của những ngôi nhà rêu phong nơi phố cổ vẻ đẹp yên bình, sâu lắng của một kinh
thành sầm uất xưa kia. Với nhịp sống hối hả, tấp nập ngày nay, người ta vẫn không quên
tìm về Hà Nội với nét đẹp xưa cũ, một vẻ đẹp thanh bình, tĩnh lặng. Tất cả những vẻ đẹp
đó được thểhiện một cách khéo léo và sâu sắc trong các tiểu thuyết củanhà văn Đỗ Phấn.
Tiểu kết chương
Cùng với dòng chảy viết về sinh thái trong văn học như các nhà văn đương thời, Đỗ
Phấn đã thể hiện một cảm quan nghệ thuật riêng, đó là cảm quan sinh thái đô thị. Gần như
ở tác phẩm nào Đỗ Phấn cũng đề cập đến cảnh quan thiên nhiên, cuộc sống và con người
thủ đô. Trong tâm trí của nhà văn, thủ đô Hà Nội ngày xưa đã để lại cho ông nhiều kỉ niệm
tuổi thơ, nhiều hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp, nhiều ấn tượng sâu sắc, còn thủ đô Hà Nội
ngày nay đã để lại cho ông nhiều lo âu, băn khoăn, trăn trở về cuộc sống, môi trường và
văn hóa đô thị. Thủ đô Hà Nội đang từng ngày phát triển về mọi mặt, người dân Hà thành
được hưởng thành quả của nền văn minh tiến bộ, song cũng để lại nhiều hệ lụy của sự phát
triển thủ đô, một trong những vấn đề đó là môi trường sinh thái. Nó không chỉ là nỗi trăn
trở của các nhà văn mà còn là nỗi trăn trở của nhiều ngành khoa học. Đỗ Phấn là nhà văn
có tình cảm đặc biệt với Hà Nội nên những lo âu, trăn trở về môi trường sinh thái ở thủ đô
được tácgiả thểhiện trong các sáng tác của mình, đặc biệt là trong các tiểu thuyết.
20
Chương 2
CẢM QUAN VỀ SINH THÁI TỰ NHIÊN TRONG TIỂU THUYẾT
CỦA ĐỖ PHẤN
2.1. Kí ức và sự tái hiện vẻ đẹp tự nhiên (nguyên sơ) của Hà Nội
Khi nói đến Hà Nội, chúng ta không khỏi tự hào về mảnh đất “nghìn năm văn
hiến”. Hà Nội là nơi đã trải qua bao biến cố, thăng trầm của lịch sử, cũng là nơi
lưu giữ nhiều giá trị văn hóa truyền thống lâu đời. Từ xa xưa, nhân dân ta đã có
câu “Thứ nhất kinh kì, thứ nhì phố Hiến”. Đó là trung tâm văn hóa, chính trị, kinh
tế, giáo dục, y tế... bậc nhất của cả nước, trong đó có cả vẻ đẹp của Hà Nội về mọi
mặt như văn hóa ẩm thực, về phố phường, cây cối, sông ngòi...
Trong văn học Việt Nam vẻ đẹp của thủ đô Hà Nội đã đi vào tâm thức của cả
người viết và người đọc. Từ xưa, qua các bài ca dao, tác giả dân gian đã ca ngợi
vẻ đẹp của kinh thành Thăng Long “ngàn năm văn hiến”: “Gió đưa cành trúc la
đà/ Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương/ Mịt mù khói tỏa ngàn sương/
Nhịp chày Yên Thái mặt gương Tây Hồ” (Ca dao). Vẻ đẹp của thủ đô Hà Nội
được nhiều văn nghệ sĩ lấy làm nguồn cảm hứng sáng bằng tất cả tấm lòng trân
trọng và nâng niu. Văn học trung đại, tác giả Trần Quang Khải có tác phẩm Phò
giá về kinh, Lê Hữu Trác (Thượng kinh kí sự), Nguyễn Du (Long Thành cầm giả
ca)... Văn học hiện đại, tác phẩm Những chiếc ấm đất, Chén trà sương của nhà
văn Nguyễn Tuân; Hà Nội 36 phố phường, Dưới bóng hoàng lan, Trở về của nhà
văn Thạch Lam; Món ngon Hà Nội của nhà văn Vũ Bằng... Văn học đương đại
các tác giả viết nhiều về vẻ đẹp của Hà Nội hiện tại như: Đỗ Phấn với tác phẩm
Dằng dặc triền sông mưa, Hà Nội thì không có tuyết, Vết gió, Rụng xuống ngày
hư ảo;... Nguyễn Trương Quý với tác phẩm Hà Nội là Hà Nội, Tự nhiên như
người Hà Nội, Mỗi góc phố một người đang sống;... Nguyễn Việt Hà với tác
phẩm Con giai phố cổ, Cơ hội của Chúa... Nguyễn Ngọc Tiến với Đi dọc Hà Nội,
Đi ngang Hà Nội, 5678 bước chân quanh Hồ Gươm... Ở mỗi tác phẩm, các nhà
21
văn, nhà thơ đã dành nhiều tình cảm trân quý của mình để tái hiện vẻ đẹp của Hà
Nội xưa và nay.
Đỗ Phấn là một trong những nhà văn đương đại viết nhiều về Hà Nội, bởi Hà
Nội luôn in dấu trong kí ức của nhà văn. Vẻ đẹp tự nhiên của Hà Nội được nhà
văn thể hiện ở nhiều góc nhìn về văn hóa, con người, xã hội cũ được bảo tồn và
lưu giữ qua thời gian và không gian trải dài trong suốt quá trình phát triển của
thành phố. Chúng tôi nhận thấy, trong sáng tác của Đỗ Phấn vẻ đẹp tự nhiên
(nguyên sơ) của Hà Nội được tái hiện qua sự thứ nhận của chính tác giả về cảnh
quan thủ đô (làng hoa, loài hoa), từ những con phố, khúc giao mùa đến các loài
động vật, cũng như âm thanh đặc trưng của Hà Nội, không gian của thủ đô “ngàn
năm văn hiến”.
Nhớ lại kí ức về vẻ đẹp của Hà Nội xưa, nhà văn Đỗ Phấn tái hiện lại hình
ảnh các làng hoa ở Hà Nội như làng hoa Nhật Tân, Ngọc Hà, Hữu Tiệp. Ngày
xưa, đây là những làng hoa nổi tiếng bậc nhất của Việt Nam, ngày nay các làng
hoa này tuy không còn nữa hoặc đã bị thu hẹp bởi các làng hoa đã dần trở thành
các khu phố nhưng vẫn gợi nhớ về giấc mơ hoa của người Hà Nội. Đỗ Phấn đã
tưởng tượng đến bầu không khí trong lành xưa kia của các làng hoa, nơi vốn đã
làm đẹp cho phố phường Hà Nội một thuở. Trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn có hình
ảnh những mảnh vườn đầy đủ các loài hoa xanh đỏ tím vàng đua nhau khoe sắc
rực rỡ dưới ánh nắng lung linh. Bước vào làng hoa người đọc thấy mình như đang
ở trong rừng hoa: hoa cẩm chướng, hoa bướm, hoa sushi, hoa hồng, hoa dã quỳ...
tạo nên một sắc màu quyến rũ: “những mảnh vườn trồng hoa cẩm chướng và hoa
bướm. Lung lay những cánh mỏng hồng tím đỏ như đàn bướm chao liệng giữa
ngời ngợi xanh. Phải có những ô vườn nhỏ trồng hoa sushi vàng rượi như đàn trẻ
ngoan ngoãn xếp hàng thấp lè tè bên những luống violet tím mỡ màng và đám
hồng ta đầy gai góc. Rồi cũng phải có đâu đây thoang thoảng mùi ngọc lan mùi
hoa hồng mùi dã quì” [49, tr.131].
22
Trong nhiều sáng tác của mình, Đỗ Phấn đã tái hiện lại kí ức về Hà Nội xưa
với vẻ thanh bình, nguyên sơ, không khí trong lành, cây cối trong phố tranh nhau
khoe sắc thắm. Mỗi con phố đặc trưng bởi từng loài cây, loài hoa. Môi trường sinh
thái ở mỗi góc phố thật đẹp khiến cho người đi đường chỉ muốn dừng lại để ngắm
các loài hoa. Vào khoảng tháng ba và tháng tám hàng năm là mùi hương thoang
thoảng của cánh đồng lúa đang thời kì trĩu hạt, “mùi ung ủng chua của hoa gạo”,
“mùi hoa dạ lan ngát hương vào ban đêm” [59, tr.75], vào tháng năm những con
phố rợp bóng “hoa bằng lăng phảng phất tím” [47, tr.202] và “những chùm nụ
chớm hồng” [47, tr.202] của hoa phượng bắt đầu lấp ló sau những tán lá xanh um.
Khám phá tiểu thuyết của Đỗ Phấn, có thể nhận thấy, vẻ đẹp của Hà Nội
được tác giả biểu hiện cụ thể qua từng con phố. Mỗi con phố có một vẻ đẹp riêng,
mang đậm sắc thái của thủ đô. Bước vào thế giới tiểu thuyết Rong chơi miền kí ức
của nhà văn, người đọc sẽ bắt gặp vẻ đẹp của con phố Hàng Hành, con phố này
xưa kia vốn nổi tiếng là một con phố êm đềm, thơ mộng, cả một con phố dài đều
rợp bóng hàng cây xà cừ cổ thụ. Từ xưa, con phố Hàng Hành cũng im ắng như
mọi con ngõ nhỏ Hà Nội. Những con đường dẫn vào phố vẫn còn lưu thông hai
chiều nhưng hầu như rất ít người đi vào con đường vắng vẻ ấy khiến cho con phố
tĩnh lặng, yên bình. Trong khu phố ấy chúng ta vẫn còn bắt gặp những ngôi nhà
kiến trúc Pháp nhỏ hẹp rêu phong và những mái nhà ngói một tầng rêu phong cũ
kĩ. Sống trong khu phố yên ả, tĩnh lặng như thế con người cảm thấy cuộc sống ở
giữa thủ đô giống như cuộc sống ở một thôn quê nào đó, với bầu khí quyển trong
lành, ít khói bụi của ô tô, xe máy.
Bằng tình cảm trân quý của mình đối với thủ đô, nhà văn tái hiện lại vẻ đẹp
của Hà Nội trong từng khoảnh khắc giao mùa. Thành phố Hà Nội có bốn mùa rõ
rệt trong năm, xuân hạ thu đông. Mùa nào cũng có những đặc trưng riêng, mùa
nào cũng quyến rũ lòng người. Trong sự cảm nhận của nhà văn, mùa xuân là mùa
của các loài cây đâm chồi nảy lộc, mùa của những con én gọi bầy sang xuân. Tiết
trời Hà Nội vào xuân như một bức tranh thủy mặc, thơ mộng, lãng mạn. Không
23
khí, sinh quyển trong lành ở thành phố khiến cho muôn loài sinh sống và tồn tại.
Trên phố là sắc màu của các loài hoa, dưới nước là hình ảnh của những “con chim
én chao liệng trên mặt hồ cất tiếng kêu như nới rộng thinh không” [47, tr.353]. Tất
cả hòa quyện vào nhau tạo nên một không gian thanh bình, yên tĩnh.
Trong lòng yêu mến của nhà văn, Đỗ Phấn nhận thấy thành phố Hà Nội có
những thời khắc giao mùa rất đáng chiêm ngưỡng và hưởng thụ. Không khí giao
mùa trong năm khiến cho người Hà Thành như nuối tiếc từng mùa thu qua. Cái rét
đầu đông đã đến, những cơn gió mùa bắt đầu về trên phố, vương trên mái tóc
người Hà Nội để lấy đi nốt những ẩm ướt của mưa dầm. Đỗ Phấn từng trải qua
nhiều năm ở Hà Nội, nhà văn cảm nhận được thời khắc cuối năm ở Hà Nội cũng
là lúc tiết trời khá lạnh nhưng lại là lúc phù hợp cho một số loài cây phát triển tươi
tốt. Không gian sống với nhiều cây xanh có thể xóa bớt những ưu phiền của cuộc
sống con người, nuôi dưỡng tâm hồn con người Hà Nội. Chẳng hạn như cây bồ đề
trên đường Trần Nhân Tông: “Hàng cây như một bức tường lá chắn ngang những
bon chen sôi sục phố phường. Chẳng hiểu sao cứ mỗi lần đi qua bức tường lá ấy
cũng thấy lòng thanh thản vợi đi rất nhiều những buồn phiền giăng mắc trong tâm
tưởng” [49, tr.39]. Nhìn những chiếc lá cây bồ đề đung đưa trong gió cuối năm,
con người như lạc vào cõi hư không, thấy tâm hồn mình thanh thản đến lạ thường:
“như có tiếng chuông chùa huyễn hoặc vọng về từ cõi thanh cao u tịch. Những
đứa trẻ tan trường ríu rít dưới gốc cây như những thiên thần bước ra từ lá. Những
người Hà Nội chẳng có việc gì cũng vòng xe qua đoạn phố đông mà chật chội, mà
hỗn hào đi đứng này chỉ để ngắm một chút sắc lá ngọt ngào như mật chảy”. [51,
tr.64].
Vào độ cuối mùa đông là lúc tiết trời lạnh nhất trong năm nhưng lại là lúc
giao thoa giữa đất trời và vạn vật. Cách đây mấy chục năm khi Hồ Hoàn Kiếm vẫn
còn rậm rạp đầy cây cỏ, khi dân số Hà Nội chưa đông như bây giờ, con người
chưa săn bắt các loài chim thì cứ đến cuối mùa đông, đầu mùa xuân là loài sâm
cầm và le le kéo nhau về hội tụ trên mặt hồ. Cảnh vật lúc này thật đẹp, ở trên phố,
24
dưới hồ cảnh vật hài hòa nên thơ vô cùng: “hàng cây cơm nguội trút hết lá chỉ còn
lại mớ cành khô ấy càng thêm mông lung huyễn hoặc. Mặt hồ xa xa loáng trắng
nổi lênh đàn le le, sâm cầm tụ lại dập dềnh trên sóng” [58, tr.230]. Theo sự quan
sát của nhà văn, cách đây mấy chục năm về trước, các loài chim di trú theo mùa ở
thành phố rất nhiều. Đó là lúc thiên nhiên thuận lợi cho việc sinh sôi nảy nở và
sinh sống của các loài chim. Lúc ấy, khi tự nhiên chưa tàn phá nhiều, vẫn còn
không gian cho thiên nhiên hoang dã, diện tích ao hồ chưa bị thu hẹp, muôn loài
chim vẫn bay về ao hồ của thủ đô vào mỗi mùa trong năm. Nhà văn hoài vọng về
hình ảnh của thế giới các loài chim xưa kia cũng là sự tiếc nuối cho môi trường tự
nhiên bị tàn phá, con người không còn được gần gũi với thiên nhiên, không còn
nhìn thấy các loài chim quý hiếm nữa. Trong trí nhớ của tác giả thì khoảnh khắc
thiên nhiên tươi đẹp luôn ẩn hiện: “Mùa di trú, chim sâm cầm, le le kéo về đậu
trên mặt nước Hồ Tây thành những mảng lớn lênh đênh trên sóng. Giữa sương
khói mặt hồ ẩn hiện thần tiên trong những lau lách lan man bên bờ. Cuối bãi sông
Hồng kéo dài về phía Hà Nam là những con giang, con sếu co ro một chân, im lìm
soi bóng nước như bức tượng xám. Những con quạ đen khề khà kêu khoái trá trên
những cây gạo ngoài bãi sông cùng với chim khách, chim cà cuống. Những con
chim trả quan hai màu đen trắng vẫy cánh ngó nghiêng rình mò dưới mặt nước
cồn cào đỏ. Thỉnh thoảng cất một tràng dài như gõ kẻng” [59, tr.156].
Không chỉ trong tiểu thuyết mà trong tản văn Bâng quơ một thời Hà Nội, Đỗ
Phấn cũng cho người đọc thấy được không gian sinh sống của các loài côn trùng,
gợi nhớ lại những kí ức ngày xưa, khi đô thị Hà Nội còn nhiều ao hồ, sông ngòi,
cây cối xanh tươi là nơi tồn tại của các loài sinh vật như xén tóc, bọ dừa, châu
chấu, cánh cam, sâu róm, chuồn chuồn... chúng chao liệng dưới bầu trời đầy nắng
và gió của thủ đô. Nhà văn đã quan sát tinh tế, miêu tả tỉ mỉ để nhận ra rằng chỉ có
bầu không khí trong lành thì các loài côn trùng mới sinh sôi nảy nở nhiều như thế.
Chúng như đang hòa mình không gian thiên nhiên tươi đẹp của thành phố, tạo cho
thành phố một sắc màu khó quên.
25
Vẻ đẹp của Hà Nội xưa còn được hiện lên trong kí ức của nhà văn Đỗ Phấn
với những âm thanh đặc trưng cho một thành phố êm đềm của những năm 60 ở
thế kỉ trước, đó là tiếng leng keng của tàu điện. Thuở ấy, đứa trẻ nào ở Hà Nội
cũng coi tàu điện là phương tiện đi lại thuận tiện nhất. Chúng đi chơi khắp Hà Nội
đều bằng tàu điện. Tiếng tàu điện leng keng rộn ràng trên sáu tuyến đường nội
thành dồn về ga chính Bờ Hồ bây giờ chỉ còn trong kí ức: “Phải đi tàu điện từ bờ
hồ Hoàn Kiếm theo tuyến Thụy Khuê - Bưởi. Xuống tàu ở chỗ đường Quán
Thánh đi bộ sang hồ. Từ đấy men theo bờ hồ mà đi mãi lên dốc đường Thanh
Niên rẽ sang Yên Phụ đón tàu điện bến cuối cùng về lại bờ hồ Hoàn Kiếm” [58,
tr.230].
Viết về vẻ đẹp của thủ đô Hà Nội, trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn còn là kí ức
của không gian Hà Nội xưa cũ. Theo nhà nghiên cứu Trần Đình Sử “không gian
nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của nghệ sĩ nhằm biểu hiện con người và thể hiện
một quan niệm nhất định về cuộc sống” [11]. Trong kí ức của nhà văn, không gian
Hà Nội là không gian của những gian hàng ở Bách hóa Tổng hợp. Ở đó, lũ trẻ tha
hồ dạo chơi cả ngày mà không chán. Thời bấy giờ, các dịch vụ kinh doanh còn ít,
nhu cầu mua bán của con người chưa nhiều nên bọn trẻ có thể bước chân vào
Bách hóa để chơi, ngồi, nằm tùy ý. Kí ức ấn tượng nhất đối với nhà văn lúc ấy là
chiếc lan can nơi “chúng có thể làm chiếc cầu trượt rất an toàn trơn tru... Dàn tủ
kính trưng bày đồng hồ, mĩ nghệ trên tầng hai trên sàn lát gỗ lim lau bóng là nơi tụ
tập thích thú nhất” [57, tr.312]. Ngoài ra, con đường Cổ Ngư xưa (đường Thanh
Niên) cũng là một thời thương nhớ kỉ niệm tuổi thơ của bọn trẻ thủ đô với trò
chơi: “dốc Yên Phụ là nơi thả xe đạp chạy xa hàng trăm mét mới hết đà... lũ lượt
kéo lên Yên Phụ vào làng mua cá chọi chơi dịp nghỉ hè” [55, tr.224].
Với cái nhìn vừa chân thực vừa hài hước nhưng cũng rất khách quan, trong
tiểu thuyết Rong chơi miền kí ức nhà văn đã tái hiện lại không gian Hồ Gươm của
mấy chục năm về trước khi nguồn nước trong hồ chưa bị ô nhiễm, chưa bị con
người vứt rác thải, túi ni lông xuống lòng hồ. Lúc ấy, Hồ Gươm, hồ Trúc Bạch
26
còn là sân chơi của trẻ con Hà Nội. Bọn trẻ được tắm ì õm vào những ngày hè oi
bức. Thậm chí chúng còn “ngâm mình cả ngày dưới hồ cũng không sao” [58,
tr.150]. Tuổi thơ của những đứa trẻ Hà Nội thường gắn liền với không gian Hồ
Gươm. Xưa kia, Hồ Gươm vẫn còn mang bóng dáng của một chiếc ao làng hoàn
toàn tự nhiên trong trẻo. Nguồn nước vẫn còn trong sạch, chưa bị ô nhiễm, nên
nhiều loài cây cỏ, động vật sinh sống như: tôm, cá, ba ba... Hồ Gươm thời bấy giờ
dưới cảm quan của Đỗ Phấn cảnh vật thiên nhiên và con người có mối quan hệ
mật thiết với nhau. Hồ Gươm là phong cảnh, là nguồn sống, là chỗ chơi của bọn
trẻ Hà Nội. Ngược lại, bọn trẻ gắn bó với Hồ Gươm suốt cả tuổi thơ với nhiều kỉ
niệm khó phai. Đến nay, Hồ Gươm vẫn là một trong những thắng cảnh nổi tiếng ở
Hà Nội, là nơi có nhiều ngôi đền, ngôi chùa linh thiêng, thơ mộng nhất thủ đô:
“Hồ Gươm nước xanh leo lẻo, cây cầu Thê Húc mới sơn đỏ rực như một nét chấm
phá tài tình trên bức tranh thủy mặc” [43, tr.76]. Từ xa nhìn lại, cảnh vật xung
quanh Hồ Gươm như một bức tranh thủy mặc vừa thơ mộng, vừa thanh tịnh. Ven
hồ có những búi cỏ lẫn vào rễ của cây đa rồi tỏa bóng xuống mặt nước. Trong tháp
Hòa Phong có người bán sáo thổi lên những khúc nhạc quê da diết lòng người.
Hàng năm cứ đến mùa hè, xung quanh bờ hồ có các loài hoa đua nhau khoe sắc:
“Tháng năm, hoa phượng che rợp thân cầu Thê Húc sơn đỏ chói. Tháng bảy,
những cây vông nem trổ hoa vàng như thắp lửa bên dưới chân tháp. Hoa lộc vừng
tí tách rơi kết bè đỏ rực trên mặt nước thẫm xanh tháng bảy” [58, tr.222]. Hồ
Gươm không chỉ là nơi gắn liền với truyền thuyết lịch sử mà nó còn mang trong
mình một vẻ đẹp của tự nhiên duyên dáng giữa lòng Hà Nội. Đúng vậy, cứ mỗi
mùa hè đến, từ trên cao nhìn xuống Hồ Gươm giống như một lẵng hoa giữa lòng
thành phố. Xung quanh hồ có đủ các loại hoa: hoa lộc vừng, hoa phượng, hoa
bằng lăng, hoa sữa... đan xen nhau đua nhau khoe sắc duyên dáng, thơ mộng
quanh hồ. Đỗ Phấn đã cảm nhận vẻ đẹp của các loài hoa ở Hà Nội một cách tinh
tế. Với khả năng quan sát và cảm nhận tinh tế, nhà văn thấy được chính bởi thiên
nhiên trên những con phố đang được hưởng bầu không khí trong lành nên đã đem
27
lại cho thành phố những bông hoa tuyệt đẹp, làm cho sắc hoa ở Hà Nội thêm rực
rỡ: “Những nụ bằng lăng trĩu chịt trên đường Thợ Nhuộm bắt đầu hé ra những
cánh tím hướng lên bầu trời ngơ ngác xanh” [49, tr.215].
Đỗ Phấn thấy người Hà Nội rất ít khi được ngắm thủ đô trong khoảng không
gian thanh bình, vắng lặng, không tiếng xe cộ ồn ào của phố phường, không bon
chen tấp nập. Cũng có lúc, người đọc được dõi theo từng bước chân của nhà văn
đi dọc con phố vào buổi sáng sớm của một ngày nào đó để thấy hết vẻ đẹp thiên
nhiên ở thành phố nghìn năm tuổi này. Cảnh thiên nhiên thơ mộng được Đỗ Phấn
cảm nhận vào lúc đêm khuya thanh tĩnh với không gian vắng lặng, người Hà
Thành mới cảm thấy được vẻ đẹp tự nhiên của thành phố. Đó là hình ảnh lấp lánh
của ánh trăng vàng trên mặt hồ tĩnh lặng gần chùa Trấn Quốc. Hình ảnh thiên
nhiên thật đẹp: “chứa chan trên sóng nước Hồ Tây là ánh trăng sao động khẽ rùng
mình trong heo may phảng phất mùi hoa huệ” [57, tr.89]. Đứng trước không gian
thơ mộng đó, con người dường như quên đi hết vẻ mệt mỏi của cuộc sống hàng
ngày ồn ào, náo nhiệt: “không còn vướng bận gì đến nhọc nhằn phố xá” [57,
tr.90]. Khi ánh trăng lặn xuống mặt hồ, chỉ còn vương vấn “trên những lùm cây xa
tít một vài đốm sáng lung lay nhung nhớ. Mặt hồ tím biếc dần hiện rõ. Đằng đông
ánh nắng đã xôn xao trên những ngọn xà cừ chót vót xanh. Những nhấp nhô mái
nhà, những ồn ào xe cộ đã bắt đầu phá vỡ không gian êm đềm” [57, tr.90].
Là người gắn bó và có nhiều kỉ niệm với mảnh đất Hà Thành, Đỗ Phấn cảm
nhận được khoảnh khắc của từng con phố êm đềm trong đêm. Trong khoảng thời
gian này, thành phố yên tĩnh đến bất ngờ. Mọi vật như được giao hòa với nhau tạo
nên bầu không khí vô cùng tĩnh lặng. Chỉ có vài ngọn gió lang thang trên bầu trời
kéo những chiếc lá khô xao xác cuốn. Xa xa thoang thoảng mùi dạ lan thơm đến
ngất ngây. Khi các cửa hàng ở phố đã tắt hết đèn, dòng người qua lại trên đường ít
đi, đôi khi còn tịnh không còn một bóng người, các đèn tín hiệu giao thông đã “uể
oải nhấp nháy” [57, tr.124] là lúc đường phố tĩnh lặng nhất trong ngày. Đến năm
28
giờ sáng, thành phố bắt đầu lại ồn ào, sôi động cho một ngày mới. Tất cả “lại lùi
vào kí ức nhường chỗ cho những lo toan kiếm tìm” [57, tr.125].
Trong hoài niệm của nhà văn, không gian Hà Nội còn là nỗi nhớ về cây cầu
Long Biên. Nó không chỉ là phương tiện qua lại mà nó còn là nhân chứng lịch sử,
là niềm tự hào của người dân Hà Nội. Đây là cây cầu thép đầu tiên nằm bắc ngang
qua sông Hồng, nối hai quận Long Biên và Hoàn Kiếm của thành phố Hà Nội
ngày nay. Nó được kĩ sư người Pháp thiết kế và xây dựng trong bốn năm từ 1898 -
1902 giống như một “con rồng hùng vĩ kiêu hãnh” [57, tr.297]. Với lũ trẻ Hà Nội
lúc bấy giờ cũng coi cây cầu là một chỗ chơi thú vị. Cây cầu chứng kiến nhiều trò
tinh nghịch của tuổi thơ. Lúc ấy, tự nhiên vẫn còn hoang dã, các loài động vật ở
khu vực ruộng đồng gần đấy còn tồn tại nhiều. Bọn trẻ có thể hòa mình với tự
nhiên mà sinh sống. Hạnh phúc nhất là vào những này hè oi bức đi bắt cà cuống
trên những cánh đồng, thời gian ấy “cà cuống bay về rợp dưới đèn tha hồ mà bắt”
[58, tr.297], rồi kỉ niệm về những chuyến vượt cầu, thả xe đạp xuống dốc đầy thú
vị.
Tuổi thơ của nhà văn gắn liền với không gian của Bờ Hồ Hà Nội. Trong sự
quan sát và tái hiện sinh động của tác giả, người đọc như được đắm mình vào
không gian thiên nhiên thơ mộng của Bờ Hồ. Không gian Bờ Hồ trong cảm nhận
của Đỗ Phấn có đủ cả: mây, gió, trăng, hoa, nước, sắc màu. Cảnh vật thiên nhiên
trên trời, dưới nước hòa quyện với nhau tạo nên một không gian tuyệt đẹp: “Mặt
trời lặn xuống sau những rặng cây cối um tùm chỉ còn lại vài ba đốm vàng lang
thang trên mặt hồ dậy sóng. Chim le le đạp nước cất cánh làm cho những ánh
vàng tan tác xôn xao. Những cơn gió quẩn quanh lên đám bèo bập bềnh sát bờ đưa
chiều vào đêm bằng đốm sáng của vài con đom đóm vẽ vòng vu vơ trên mặt nước
tối. Bầu trời cao rộng nhấp nháy những vì sao sớm” [50, tr.114].
Trong tâm thức của nhà văn, nói đến vẻ đẹp của Hà Nội xưa, người đọc
không thể quên vẻ đẹp của khu chợ Đồng Xuân và chợ Bưởi. Đây là hai khu chợ
nổi tiếng của Hà Nội đến tận bây giờ. Ngày xưa, khi con người chưa tàn phá thiên
29
nhiên, nhiều người có niềm yêu thích chăm sóc cây cối và động vật, các loài cây
được người ta bày bán rất nhiều ở chợ. Bọn trẻ Hà Nội sướng nhất là được ra chợ
ngắm nhìn muôn loài hoa và muôn loài thú. Chúng coi mỗi buổi đến chợ là bước
vào cả một thế giới thần tiên xem cả ngày không chán mắt. Cây cảnh được bày
bán khắp hai bên đường, có đủ các loại: “cây trồng trong chậu và cây ươm bầu
đất. Cây thế già cỗi và cây non tự nhiên. Các loài phong lan được khai thác từ
rừng. Đuôi cáo, quế lan hương, phi điệp. Nhiều khóm đã có hoa xếp rải trên mặt
đất như bán rau. Vài khóm móc lên thân cây xà cừ cổ thụ. Những bông phi điệp
ngỡ ngàng tím lấp ló trong vàng tươi những tay cành um tùm rủ xuống” [50,
tr.213].
Cũng viết về vẻ đẹp của thành phố Hà Nội, nhà thơ Trần Đăng Khoa đã viết
lên những câu thơ ca ngợi cảnh đẹp đặc trưng của thủ đô Thăng Long “ngàn năm
văn hiến”: “Hà Nội có Hồ Gươm/ Nước xanh như pha mực/ Bên hồ ngọn Tháp
Bút/ Viết thơ lên trời cao”. Hà Nội với không gian yên bình, với vẻ đẹp của các di
tích lịch sử đã tạo nên cho thủ đô có một vẻ đẹp và truyền thống lịch sử riêng biệt,
làm nên nét đẹp văn hóa của đất Thăng Long kinh kì.
Vẻ đẹp tự nhiên của Hà Nội được Đỗ Phấn thể hiện trong những cuốn tiểu
thuyết giống như một bức tranh đủ màu sắc. Đúng như đánh giá của nhà phê bình
văn học Hoài Nam: “Tiểu thuyết của Đỗ Phấn có những trang văn miêu tả thiên
nhiên tươi đẹp, chúng giống như những bữa tiệc của màu sắc, âm thanh và ánh
sáng, tràn đầy sức sống và chúng có đủ khả năng để thanh lọc tâm hồn cho những
ai yêu thiên nhiên nhưng đang phải chịu cảnh ngập chìm trong khói bụi ô nhiễm
môi trường đô thị. Điều đó, có khả năng mời gọi người đọc cùng suy ngẫm với tác
giả về cuộc sống mà ta đang sống, đang phải đối mặt” [30].
Đọc những trang tiểu thuyết của Đỗ Phấn, nhớ lại vẻ đẹp của một Hà Nội
xưa, người đọc có thể hình dung ra một không gian Hà Nội cách đây mấy chục
năm về trước với bao vẻ đẹp thơ mộng. Một Hà Nội thanh bình, yên lặng với từng
hàng cây, góc phố, khu chợ, Bờ Hồ... đã tạo nên nét văn hóa cổ kính của thủ đô.
30
Không gian thủ đô với bầu không khí trong lành đã trở đi trở lại trong những trang
tiểu thuyết của nhà văn. Không gian ấy bây giờ nhiều khi chỉ còn trong kí ức của
người Hà Nội. Vẻ đẹp của Hà Nội xưa thẫm đẫm tình cảm thiết tha, trìu mến và
trân quý của nhà văn.
2.2. Tự nhiên bị tàn phá và những ám ảnh sinh thái
Môi trường tự nhiên là bao gồm tất cả các sinh vật sống và không sống xảy
ra trên trái đất, là không gian chúng ta sinh sống, là nguồn nước chúng ta uống, là
bầu không khí chúng ta hít thở, là âm thanh chúng ta nghe, là khung trời trong ô
cửa sổ, là cái cây ở trước nhà, là khoảng không gian bao bọc chúng ta hằng ngày...
Ngày nay, con người đang tàn phá môi trường sống của chính mình bằng nhiều
cách, vô tình hay cố ý đều đã và đang làm biến dạng hành tinh. Chính sự thiếu ý
thức của con người sẽ hủy diệt môi trường tự nhiên mà chúng ta đang sống. Ở
Việt Nam, sự tàn phá thiên nhiên do nhiều nguyên nhân khác nhau, ảnh hưởng lớn
đến môi trường sống của con người, nhất là những người dân đang sinh sống trên
mảnh đất thủ đô Hà Nội. Đã có nhiều nhà văn đề cập đến vấn đề này trong các
sáng tác của mình. Trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn, tự nhiên bị tàn phá, bị hủy hoại
vừa do chiến tranh, vừa do chính con người gây nên. Sự tàn phá ấy đã làm mất đi
vẻ đẹp thanh bình vốn có xưa kia của thủ đô “ngàn năm văn hiến”.
2.2.1. Sự tàn phá tự nhiên do chiến tranh
Trong lịch sử dân tộc, Hà Nội là trung tâm phát triển về mọi mặt của nước
Việt Nam, đồng thời cũng là thành phố thường xuyên bị giặc ngoại bang xâm lược
tàn phá. Từ xa xưa, thành phố Hà Nội đã bị giặc Ân xâm chiếm, qua bốn nghìn
năm dựng nước và giữ nước kinh thành Thăng Long đã trải qua nhiều trận chiến
của triều đình Hán, Đường, Nguyên Mông, Minh, Thanh, Pháp, Nhật, Mĩ. Nhất là
những năm 60,70 của thế kỉ XX, Hà Nội đã phải quyết liệt đánh trả các cuộc chiến
tranh phá hoại bằng không quân của Mĩ. Đặc biệt năm 1972, mười hai ngày đêm
chiến đấu trên không của quân và dân Hà Nội đã khiến cho giặc Mĩ phải khiếp sợ.
Trong chiến tranh người dân Hà Nội bị thiệt hại nặng nề về người và của: cầu
31
Long Biên bị gãy đứt nhiều đoạn, phố Khâm Thiên bị xóa sạch trong một đêm,
bệnh viện Bạch Mai, sân bay, nhà ga, cầu đường ở Hà Nội đều là mục tiêu đánh
phá của đế quốc Mĩ, những trận mưa bom dội xuống Hà Nội đã làm chết hàng
nghìn người. Nỗi đau của người dân thành phố trong chiến tranh không sao kể
xiết.
Chiến tranh qua đi để lại bao nỗi đau về vật chất và tinh thần của người dân
Việt Nam. Các tác phẩm văn chương ra đời đã phản ánh nỗi đau đó. Từ văn học
dân gian đến văn học đương đại đều có những tác phẩm ghi lại ấn tượng sâu sắc
trong lòng người đọc. Trong văn học dân gian có thể kể đến các tác phẩm: Thánh
Gióng; An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy... Văn học trung đại, các tác
phẩm như : Bình Ngô đại cáo, Quân trung từ mệnh tập của Nguyễn Trãi; Chạy
giặc, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu,... Văn học hiện đại với
một số tác phẩm: Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc; Cỏ lau, Mảnh trăng cuối
rừng của Nguyễn Minh Châu; Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi của Nguyễn Tuân; Sống
mãi với thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng; Bất khuất của Nguyễn Đức Thuận; Biên
bản chiến tranh 1-2-3-4.75 của Trần Mai Hạnh... Văn học đương đại, tác phẩm
tiêu biểu như: Tàn đen đốm đỏ của Phạm Ngọc Tiến; Đỉnh khói của Phạm Ngọc
Thuần; Hà Nội, một thời tuổi trẻ của Trần Văn Thụ; Thương thế ngày xưa của Lê
Minh Hà;... đều tái hiện lại nỗi đau mất mát của người dân Việt Nam trong chiến
tranh.
Từng chứng kiến sự tàn phá bởi cuộc chiến tranh ác liệt của đế quốc Mĩ nên
trong những trang viết của mình, nhất là ở tiểu thuyết, nhà văn đã tái hiện lại sự
tàn phá khốc liệt của chiến tranh do đế quốc Mĩ gây ra. Tuổi thơ của nhà văn đã
trải qua thời kì chiến tranh ở thủ đô nên ông thấu hiểu sức tàn phá của chiến tranh,
nhất là sự tàn phá bởi bom B52 của đế quốc Mĩ. Trong tiểu thuyết nhà văn đã tái
hiện lại sự tàn phá khủng khiếp của những trận bom B52 ở cây xăng Đức Giang,
Cầu Long Biên, Bờ Hồ, Nhà Hát lớn... cụ thể như ở cây xăng Đức Giang bên kia
bờ sông Hồng sau hai tiếng đồng hồ oanh tạc của máy bay Mĩ vào năm 1972 xung
32
quanh khu vực ở cây xăng và những vùng lân cận bị thiêu cháy hết, nhà cửa,
ruộng vườn, làng mạc đều bị thiêu cháy hết. Sau chiến tranh không khí nơi đây ô
nhiễm khủng khiếp, những cuộn khói đen cao nghi ngút “phủ kín cả bầu trời ảm
đạm” [52, tr.204]. Chiến tranh không chỉ làm cho người dân thủ đô mất đi những
người thân, làm tan hoang nhà cửa, ruộng vườn mà còn làm cho đời sống tự nhiên
và con người bị đe dọa từng ngày, từng giờ. Chiến tranh đã làm cho bộ mặt phố
phường thay đổi nhiều. Với sự quan sát và chiêm nghiệm, nhà văn Đỗ Phấn đã
nhận thấy: chiến tranh không chỉ ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe, cuộc sống
của con người, đến môi trường sinh thái mà còn làm mất thẩm mĩ cảnh quan đô
thị. Hình ảnh của thành phố đã thay đổi quá nhiều sau mỗi lần chiến tranh tàn phá,
người dân thành phố lại sửa sang lại: “chiếc đồng hồ cổ La Mã ở ngoài sảnh chính
của sân ga Hà Nội” [57, tr.133], nhà Bách hóa Tổng hợp cứ sửa đi sửa lại nhiều
lần không còn dấu vết của vẻ đẹp xưa nữa. Không chỉ quan sát từ đời sống hiện
tại, nhà văn Đỗ Phấn đã có những cảm nghiệm về quá khứ, ở đó cuộc sống con
người và động vật bị đe dọa trong chiến tranh khiến “những chuồng thú ở Hà Nội
cũng không còn dấu vết” [51, tr.62].
Cùng một khu phố ở Hà Nội, theo thời gian dưới tác động của chiến tranh Đỗ
Phấn nhận thấy có sự khác biệt. Khi chưa có chiến tranh, ở ngoài mặt phố Khâm
Thiên vẫn còn tồn tại nhiều ngôi nhà lá thông sang tận Xã Đàn và Hàng Bột, là
nơi buôn bán sầm uất, là nơi sinh hoạt của người dân. Trong chiến tranh, khi
những trận bom B52 năm 1972 của Mĩ đi qua làm cho người dân phải đối mặt với
sự hủy diệt: “cả dãy phố đã bị xóa sạch không còn một dấu vết gì nữa” [57, tr.47]
trong đêm 26/12. Cuộc sống của người dân thủ đô lại một lần nữa phải đối mặt với
sự hủy diệt. Ngày nay, khu phố Khâm Thiên đã hoàn toàn đổi khác do quá trình
đô thị hóa, dân số tăng nhanh, diện tích ao hồ bị thu hẹp lại, cuộc sống của người
dân đã chuyển dần thành “phố” hóa, môi trường ngày càng ô nhiễm do sinh hoạt
của con người, bởi: “người nhập cư kéo về đông đúc chen chúc trong những mảnh
đất trống ngày một hẹp đi. Sông hồ ao ngòi bên trong bị lấp hết đi” [57, tr.47].
33
Mỗi lần bom B52 tàn phá, tài sản của nhân dân không còn nữa, nhà cửa, của cải,
trâu bò bị cháy rụi hết. Bên cạnh đó, bầu không khí cũng bị ô nhiễm nặng nề, bầu
trời nghi ngút khói, thậm chí người chết cũng không yên thân, bởi những chiếc
quan tài bị bom xới đi xới lại nhiều lần: “những chiếc quan tài dựng đứng cả trên
miệng hố bom. Có cái hở hoác cả tấm vải liệm ố vàng” [51, tr.266]. Chiến tranh
không chỉ hủy diệt sinh thái tự nhiên mà chiến tranh còn làm tổn hại nghiêm trọng
tinh thần của con người.
Viết về vấn đề chiến tranh tàn phá môi trường sinh thái, trong sáng tác của
Ngọc Giao là nỗi xót xa đau đớn hằn trên khuôn mặt của những người nông dân.
Đó là gia đình Xã Bèo vốn đã nghèo túng, nhờ chăm chỉ làm ăn gia đình anh tậu
được con trâu, mua được vài sào ruộng, tậu được thêm mảnh vườn bương nữa.
Niềm vui chưa kịp hưởng thì chiến tranh đã cướp đi hết: ruộng vườn, nhà cửa, trâu
bò bọn giặc đã “đạp séo tan tành” [16, tr.23] khiến cho Xã Bèo khiếp sợ, đau đớn
vô cùng: “Anh ngao ngán thấy rằng binh lửa rồi sẽ tới, thui trụi, tàn phế hết,
huống hồ là mấy chiếc măng non” [16, tr.13]. Còn trong tác phẩm Giấc mơ ông
lão vườn chim của Anh Đức, bom đạn của kẻ thù không chỉ tàn phá hàng ngàn
hecta rừng mà còn làm mất không gian quy tụ của chim chóc, mất chỗ ẩn náu của
đội quân du kích. Chứng kiến cảnh giặc tàn phá quê hương, nhà thơ Nguyễn Đình
Thi không khỏi xót xa về những mảnh ruộng, mảnh vườn của người dân bị giặc
giày xéo: “Ôi những cánh đồng quê chảy máu/ Dây thép gai đâm nát trời chiều”
[67]. Hoặc trong tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh sự khốc liệt của
chiến tranh khiến cho cả khu rừng phải gánh chịu những tổn thất nặng nề: “rừng bị
tưới đẫm xăng đặc, cuồn cuộn lửa luyện ngục... Trên đầu trực thăng rà rạp các
ngọn cây và gần như thúc họng đại liên vào gáy từng người một mà bắn. Máu
tung xối, chảy tóe, ồng ộc, nhoe nhoét. Trên cái trảng hình thoi ở giữa truông, cái
trảng mà nghe nói đến ngày nay cỏ cây vẫn chưa lại hồn để mọc lên nổi hồi đó la
liệt xác người bị đốn, thân thể dập vỡ, tanh bành” [31, tr.11].
34
Mỗi một tác phẩm là một thông điệp gửi đến người đọc về sự tàn phá hủy
diệt của chiến tranh. Nhà văn Đỗ Phấn đã tái hiện lại qua những trang tiểu thuyết
để người đọc thấy được những kí ức không thể nào quên về hậu quả của chiến
tranh. Chiến tranh đã tiêu diệt cả cuộc sống, tàn phá cả môi trường sinh thái của
cư dân thành phố. Vì vậy, sáng tác của Đỗ Phấn cảnh báo con người về vấn đề
sinh thái: vì sự sống bình yên của con người, của sinh vật trên trái đất loài người
hãy chấm dứt mọi sự hủy diệt, chấm dứt bom đạn chiến tranh.
2.2.2. Con người tàn phá tự nhiên đô thị
Từ lâu Hà Nội luôn là nguồn cảm hứng bất tận trong hội họa, thi ca. Mỗi
hàng cây, góc phố đã tạo nên vẻ đẹp cổ kính văn hóa cho Hà Nội. Ngày nay, ô
nhiễm môi trường đang hoành hành nghiêm trọng khiến cho nhiều vẻ đẹp tự nhiên
của Hà Nội chỉ còn trong kí ức. Theo các nhà nghiên cứu về môi trường thì Hà
Nội là một trong những thành phố ở nước ta đang bị ô nhiễm nghiêm trọng về mọi
mặt: ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm không khí đến mức báo động. Sự ô nhiễm này
chủ yếu là do con người tàn phá, tác động vào tự nhiên. Hà Nội là thành phố đang
phát triển và ngày càng đông đúc nên khói bụi tràn ngập khắp mọi nơi, tiếng ồn
diễn ra suốt ngày đêm. Thành phố đang dần vắng bóng những hàng cây xanh,
thêm vào đó nhiều nhà cao tầng, dần vắng bóng những mặt hồ trong vắt, thay vào
đó là những bãi rác khổng lồ. Thành phố chỉ cần nắng lên là mặt đường đã thấy
bỏng rát, hễ mưa to là nước ngập đến lưng thềm. Nhìn chung môi trường không
khí và nguồn nước nhiều nơi trong thành phố đang bị ô nhiễm nghiêm trọng.
Trong văn chương đã có nhiều tác phẩm viết về việc con người tàn phá tự
nhiên một cách không thương tiếc làm cho môi trường tự nhiên mất đi vẻ đẹp vốn
có xưa kia, đồng thời còn làm ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của con người
(Thập giá giữa rừng sâu của Nguyễn Khắc Phê; Ngổn ngang phố xá của Nguyễn
Nhật Ánh; Những khoảng xanh Sài Gòn của Huỳnh Như Phương; Khói trời lộng
lẫy của Nguyễn Ngọc Tư; Phố của làng của Dạ Ngân; Lên núi thả mây của Lê
Văn Thao;...)
35
Đỗ Phấn là nhà văn có tình cảm đặc biệt với Hà Nội, ông viết về Hà Nội
bằng tất cả tình yêu và sự trân quý của mình. Ông xót xa vô cùng khi thành phố
“ngàn năm văn hiến” đã bị con người tàn phá một cách nhanh chóng làm cho
thành phố mất đi vẻ đẹp tự nhiên, ảnh hưởng đến môi sinh và cuộc sống của con
người. Nghiên cứu tiểu thuyết của Đỗ Phấn, chúng tôi nhận thấy sự khai thác tự
nhiên quá mức đã làm cho Hà Nội mất đi diện tích canh tác, mất đi các làng hoa,
hệ thống cây xanh,... thay vào đó là những tòa nhà cao ốc, những chung cư hiện
đại, những trung tâm mua sắm, những dự án văn phòng... mọc lên san sát để phục
vụ cho nhu cầu cuộc sống hiện tại của người dân.
Theo dòng thời gian, nhà văn Đỗ Phấn nhận thấy: bắt đầu từ những năm đổi
mới, do quá trình đô thị hóa nên mọi thứ trong thành phố được người ta thay đổi,
xóa bỏ nhiều, thay vào đó là những ngôi biệt thự, những tòa nhà lớn mọc lên để
phục vụ nhu cầu cuộc sống ngày càng đông của cư dân thành phố. Xưa kia, khi
phố xá chưa phát triển, xung quanh thành phố còn nhiều cánh đồng lúa “trải rộng
từ Thanh Oai qua Mỗ Lao, Mễ Trì, Mĩ Đình, Dịch Vọng, Cổ Nhuế” [57, tr.206].
Ngày nay, khi đô thị phát triển “phố phường chật hẹp người đông đúc” (Trần Tế
Xương) thì các cánh đồng lúa đã bị thu hẹp dần, thay vào đó là chung cư cao cấp,
hiện đại, các dự án văn phòng mọc lên ngày càng nhiều, diện tích trồng lúa ngày
một thu hẹp dần khiến cho nhiệt độ ở khu vực này cũng ngày một nóng lên do hệ
thống bê tông, hiệu ứng nhà kính.
Những chiêm nghiệm của nhà văn Đỗ Phấn cho thấy: trong vòng khoảng hơn
chục năm lại đây do tốc độ đô thị hóa, các làng hoa Nhật Tân, Ngọc Hà, Hữu
Tiệp, Nghi Tàm... không còn nữa, bây giờ đã là các con phố trong nội thành Hà
Nội. Nhà cửa cao tầng, biệt thự mọc lên san sát, nhiều con đường được mở rộng
và đổ bê tông sạch sẽ, không còn dấu vết gì của các ngôi làng hoa ngày xưa nữa.
Ngoài ra, các ngôi làng ở quanh Hà Nội cũng có sự thay đổi rõ rệt làm mất dần vẻ
đẹp nguyên sơ vốn có của nó, không còn bóng dáng của những khóm chuối,
những bụi tre, bụi trúc mà thay vào đó là “những ngôi nhà cao tầng hiện đại với
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT

More Related Content

What's hot

Truyện trinh thám Việt Nam từ góc nhìn thi pháp thể loại 6793117.pdf
Truyện trinh thám Việt Nam từ góc nhìn thi pháp thể loại 6793117.pdfTruyện trinh thám Việt Nam từ góc nhìn thi pháp thể loại 6793117.pdf
Truyện trinh thám Việt Nam từ góc nhìn thi pháp thể loại 6793117.pdfNuioKila
 
Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...
Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...
Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh thái
Luận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh tháiLuận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh thái
Luận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh tháinataliej4
 
Thơ nữ việt nam sau 1975, những tìm tòi và cách tân 7774424
Thơ nữ việt nam sau 1975, những tìm tòi và cách tân 7774424Thơ nữ việt nam sau 1975, những tìm tòi và cách tân 7774424
Thơ nữ việt nam sau 1975, những tìm tòi và cách tân 7774424nataliej4
 
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260nataliej4
 
Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...
Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...
Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...nataliej4
 

What's hot (20)

Thơ Nguyễn Bình Phương từ góc nhìn của lí thuyết hậu hiện đại
Thơ Nguyễn Bình Phương từ góc nhìn của lí thuyết hậu hiện đạiThơ Nguyễn Bình Phương từ góc nhìn của lí thuyết hậu hiện đại
Thơ Nguyễn Bình Phương từ góc nhìn của lí thuyết hậu hiện đại
 
Luận văn: Truyện ngắn Nguyễn Dậu dưới góc nhìn văn hóa, HAY
Luận văn: Truyện ngắn Nguyễn Dậu dưới góc nhìn văn hóa, HAYLuận văn: Truyện ngắn Nguyễn Dậu dưới góc nhìn văn hóa, HAY
Luận văn: Truyện ngắn Nguyễn Dậu dưới góc nhìn văn hóa, HAY
 
Luận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAY, 9đ
Luận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAY, 9đLuận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAY, 9đ
Luận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAY, 9đ
 
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ nữ Việt Nam đầu thế kỉ XXI
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ nữ Việt Nam đầu thế kỉ XXILuận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ nữ Việt Nam đầu thế kỉ XXI
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ nữ Việt Nam đầu thế kỉ XXI
 
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAYLuận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
 
Luận án: Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975
Luận án: Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975Luận án: Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975
Luận án: Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975
 
Truyện trinh thám Việt Nam từ góc nhìn thi pháp thể loại 6793117.pdf
Truyện trinh thám Việt Nam từ góc nhìn thi pháp thể loại 6793117.pdfTruyện trinh thám Việt Nam từ góc nhìn thi pháp thể loại 6793117.pdf
Truyện trinh thám Việt Nam từ góc nhìn thi pháp thể loại 6793117.pdf
 
Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...
Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...
Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...
 
Luận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh thái
Luận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh tháiLuận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh thái
Luận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh thái
 
Luận văn: Dấu ấn văn hóa trong truyện ngắn Quế Hương, HAY
Luận văn: Dấu ấn văn hóa trong truyện ngắn Quế Hương, HAYLuận văn: Dấu ấn văn hóa trong truyện ngắn Quế Hương, HAY
Luận văn: Dấu ấn văn hóa trong truyện ngắn Quế Hương, HAY
 
Thơ nữ việt nam sau 1975, những tìm tòi và cách tân 7774424
Thơ nữ việt nam sau 1975, những tìm tòi và cách tân 7774424Thơ nữ việt nam sau 1975, những tìm tòi và cách tân 7774424
Thơ nữ việt nam sau 1975, những tìm tòi và cách tân 7774424
 
Luận văn: Nghệ thuật tự sự tiểu thuyết Murakami Haruki, HAY
Luận văn: Nghệ thuật tự sự tiểu thuyết Murakami Haruki, HAYLuận văn: Nghệ thuật tự sự tiểu thuyết Murakami Haruki, HAY
Luận văn: Nghệ thuật tự sự tiểu thuyết Murakami Haruki, HAY
 
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
 
Luận văn: Đặc điểm truyện ngắn Lưu Trọng Lư, HAY, 9đ
Luận văn: Đặc điểm truyện ngắn Lưu Trọng Lư, HAY, 9đLuận văn: Đặc điểm truyện ngắn Lưu Trọng Lư, HAY, 9đ
Luận văn: Đặc điểm truyện ngắn Lưu Trọng Lư, HAY, 9đ
 
Luận văn: Phương thức biểu hiện nhân vật anh hùng trong thủy hử
Luận văn: Phương thức biểu hiện nhân vật anh hùng trong thủy hửLuận văn: Phương thức biểu hiện nhân vật anh hùng trong thủy hử
Luận văn: Phương thức biểu hiện nhân vật anh hùng trong thủy hử
 
Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...
Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...
Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...
 
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp, HAY
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp, HAYLuận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp, HAY
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp, HAY
 
Luận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoá
Luận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoáLuận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoá
Luận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoá
 
Luận án: Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng trước năm 1945
Luận án: Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng trước năm 1945Luận án: Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng trước năm 1945
Luận án: Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng trước năm 1945
 
Luận văn: Quá trình tiếp nhận tác phẩm của Tô Hoài, 9đ
Luận văn: Quá trình tiếp nhận tác phẩm của Tô Hoài, 9đLuận văn: Quá trình tiếp nhận tác phẩm của Tô Hoài, 9đ
Luận văn: Quá trình tiếp nhận tác phẩm của Tô Hoài, 9đ
 

Similar to Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT

Luận văn: Kiểu nhân vật đi tìm bản ngã trong tiểu thuyết của Haruki Murakami
Luận văn: Kiểu nhân vật đi tìm bản ngã trong tiểu thuyết của Haruki MurakamiLuận văn: Kiểu nhân vật đi tìm bản ngã trong tiểu thuyết của Haruki Murakami
Luận văn: Kiểu nhân vật đi tìm bản ngã trong tiểu thuyết của Haruki MurakamiDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI CHUYÊN SÂU MÔN NGỮ VĂN 7 DÙNG CHUNG 3 BỘ SÁCH NĂM 202...
BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI CHUYÊN SÂU MÔN NGỮ VĂN 7 DÙNG CHUNG 3 BỘ SÁCH NĂM 202...BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI CHUYÊN SÂU MÔN NGỮ VĂN 7 DÙNG CHUNG 3 BỘ SÁCH NĂM 202...
BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI CHUYÊN SÂU MÔN NGỮ VĂN 7 DÙNG CHUNG 3 BỘ SÁCH NĂM 202...Nguyen Thanh Tu Collection
 
PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC
PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC
PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC nataliej4
 
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền L...
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền L...Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền L...
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền L...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Nông thôn và người nông dân trong tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma của...
Nông thôn và người nông dân trong tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma của...Nông thôn và người nông dân trong tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma của...
Nông thôn và người nông dân trong tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma của...nataliej4
 
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách nataliej4
 
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách nataliej4
 
20 tác phẩm chuyên thi vào lớp 10 phong cách hồ chí minh (lê anh trà)truong...
20 tác phẩm chuyên thi vào lớp 10   phong cách hồ chí minh (lê anh trà)truong...20 tác phẩm chuyên thi vào lớp 10   phong cách hồ chí minh (lê anh trà)truong...
20 tác phẩm chuyên thi vào lớp 10 phong cách hồ chí minh (lê anh trà)truong...Thế Giới Tinh Hoa
 

Similar to Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT (20)

Luận văn: Chất thơ trong Truyện đường rừng của Lan Khai, HAY
Luận văn: Chất thơ trong Truyện đường rừng của Lan Khai, HAYLuận văn: Chất thơ trong Truyện đường rừng của Lan Khai, HAY
Luận văn: Chất thơ trong Truyện đường rừng của Lan Khai, HAY
 
Luận văn: Sự chuyển biến trong văn học nửa cuối thế kỉ XIX, HAY
Luận văn: Sự chuyển biến trong văn học nửa cuối thế kỉ XIX, HAYLuận văn: Sự chuyển biến trong văn học nửa cuối thế kỉ XIX, HAY
Luận văn: Sự chuyển biến trong văn học nửa cuối thế kỉ XIX, HAY
 
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt Nam
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt NamLuận văn: Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt Nam
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt Nam
 
Luận văn: Kiểu nhân vật đi tìm bản ngã trong tiểu thuyết của Haruki Murakami
Luận văn: Kiểu nhân vật đi tìm bản ngã trong tiểu thuyết của Haruki MurakamiLuận văn: Kiểu nhân vật đi tìm bản ngã trong tiểu thuyết của Haruki Murakami
Luận văn: Kiểu nhân vật đi tìm bản ngã trong tiểu thuyết của Haruki Murakami
 
Luận văn: Phong cách truyện ngắn của nhà văn Phạm Duy Nghĩa
Luận văn: Phong cách truyện ngắn của nhà văn Phạm Duy NghĩaLuận văn: Phong cách truyện ngắn của nhà văn Phạm Duy Nghĩa
Luận văn: Phong cách truyện ngắn của nhà văn Phạm Duy Nghĩa
 
Luận văn: Phong cách truyện ngắn của Phạm Duy Nghĩa, HAY
Luận văn: Phong cách truyện ngắn của Phạm Duy Nghĩa, HAYLuận văn: Phong cách truyện ngắn của Phạm Duy Nghĩa, HAY
Luận văn: Phong cách truyện ngắn của Phạm Duy Nghĩa, HAY
 
BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI CHUYÊN SÂU MÔN NGỮ VĂN 7 DÙNG CHUNG 3 BỘ SÁCH NĂM 202...
BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI CHUYÊN SÂU MÔN NGỮ VĂN 7 DÙNG CHUNG 3 BỘ SÁCH NĂM 202...BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI CHUYÊN SÂU MÔN NGỮ VĂN 7 DÙNG CHUNG 3 BỘ SÁCH NĂM 202...
BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI CHUYÊN SÂU MÔN NGỮ VĂN 7 DÙNG CHUNG 3 BỘ SÁCH NĂM 202...
 
PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC
PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC
PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC
 
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền L...
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền L...Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền L...
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền L...
 
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu, HAY
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu, HAYLuận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu, HAY
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu, HAY
 
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ ngành lý luận văn học, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ ngành lý luận văn học, HAY, 9 ĐIỂMBÀI MẪU Luận văn thạc sĩ ngành lý luận văn học, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ ngành lý luận văn học, HAY, 9 ĐIỂM
 
Nông thôn và người nông dân trong tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma của...
Nông thôn và người nông dân trong tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma của...Nông thôn và người nông dân trong tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma của...
Nông thôn và người nông dân trong tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma của...
 
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách
 
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách
 
20 tác phẩm chuyên thi vào lớp 10 phong cách hồ chí minh (lê anh trà)truong...
20 tác phẩm chuyên thi vào lớp 10   phong cách hồ chí minh (lê anh trà)truong...20 tác phẩm chuyên thi vào lớp 10   phong cách hồ chí minh (lê anh trà)truong...
20 tác phẩm chuyên thi vào lớp 10 phong cách hồ chí minh (lê anh trà)truong...
 
Luận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAY
Luận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAYLuận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAY
Luận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAY
 
Luận văn: Cảm thức hiện sinh trong sáng tác của Banana Yoshimoto
Luận văn:  Cảm thức hiện sinh trong sáng tác của Banana YoshimotoLuận văn:  Cảm thức hiện sinh trong sáng tác của Banana Yoshimoto
Luận văn: Cảm thức hiện sinh trong sáng tác của Banana Yoshimoto
 
Luận văn: Cảm thức hiện sinh trong sáng tác của Banana Yoshimoto
Luận văn: Cảm thức hiện sinh trong sáng tác của Banana YoshimotoLuận văn: Cảm thức hiện sinh trong sáng tác của Banana Yoshimoto
Luận văn: Cảm thức hiện sinh trong sáng tác của Banana Yoshimoto
 
Luận văn: Song tính trữ tình, tự sự trong thơ Nôm Đường luật, HAY
Luận văn: Song tính trữ tình, tự sự trong thơ Nôm Đường luật, HAYLuận văn: Song tính trữ tình, tự sự trong thơ Nôm Đường luật, HAY
Luận văn: Song tính trữ tình, tự sự trong thơ Nôm Đường luật, HAY
 
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đLuận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (19)

Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 

Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT

  • 1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐỖ MINH HOÀNG VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HOÀNG THỊ THANH HUYỀN TIỂU THUYẾT CỦA ĐỖ PHẤN TỪ GÓC NHÌN SINH THÁI LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM HÀ NỘI, 2018
  • 2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐỖ MINH HOÀNG VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HOÀNG THỊ THANH HUYỀN TIỂU THUYẾT CỦA ĐỖ PHẤN TỪ GÓC NHÌN SINH THÁI Ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 8.22.01.21 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÊ THỊ HƯƠNG THỦY HÀ NỘI, 2018
  • 3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ...............................................................................................................1 Chương 1. VẤN ĐỀ SINH THÁI QUA CÁC THỜI KÌ VĂN HỌC VÀ TRONG SÁNG TÁC CỦA ĐỖ PHẤN ..............................................................7 1.1. Vấn đề sinh thái trong văn học Việt Nam...............................................................7 1.2. Đỗ Phấn trong đời sống văn học Việt Nam đương đại và cảm quan sinh thái trong tiểu thuyết Đỗ Phấn..............................................................................................15 Chương 2. CẢM QUAN VỀ SINH THÁI TỰ NHIÊN TRONG TIỂU THUYẾT CỦA ĐỖ PHẤN................................................................................20 2.1. Kí ức và sự tái hiện vẻ đẹp tự nhiên (nguyên sơ) của Hà Nội.............................20 2.2. Tự nhiên bị tàn phá và những ám ảnh sinh thái....................................................30 2.3. Các hình tượng sinh thái - thẩm mĩ.......................................................................42 Chương 3. CON NGƯỜI TRONG KHÔNG GIAN SINH THÁI ĐÔ THỊ TRONG TIỂU THUYẾT CỦA ĐỖ PHẤN .....................................................59 3.1. Đô thị hóa và những chấn thương sinh thái..........................................................59 3.2. Hành vi, lối sống của con người trong không gian sinh thái đô thị.....................63 3.3. Cảm thức nơi chốn, không gian và thời gian nhìn từ cảm quan sinh thái...........71 KẾT LUẬN.........................................................................................................79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................81
  • 4. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tự nhiên và con người có mối quan hệ mật thiết với nhau. Con người có thể sống hài hòa với tự nhiên, sống thuận theo tự nhiên, lấy thiên nhiên làm nguồn vui, làm lẽ sống của cuộc đời. Ngược lại, thiên nhiên cũng có thể tác động lại với con người, nếu như con người khai thác thiên nhiên một cách cạn kiệt. Ngày nay, khi khoa học kĩ thuật phát triển, xã hội ngày càng tiến bộ, văn minh thì nhu cầu của con người ngày càng đầy đủ hơn về mọi mặt. Đồng thời, nó cũng kéo theo nhiều hệ lụy của cuộc sống như làm mất cân bằng sinh thái, khí hậu biến đổi, bão lũ, sạt lở vào mùa mưa, hạn hán vào mùa hè, triều cường tăng nhanh, khủng hoảng môi trường tự nhiên, con người phải đối mặt với nhiều nguy cơ sinh thái. Đây đang là vấn đề đáng quan tâm của nhiều ngành khoa học, trong đó có văn học. Việt Nam là một nước có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nằm trong khu vực Đông Nam Á. Với con người Việt Nam, thiên nhiên luôn là người bạn thân thiết. Vì vậy, tình yêu thiên nhiên luôn là một nội dung quan trọng của văn học Việt Nam từ xưa tới nay. Trong văn học dân gian, thiên nhiên là đối tượng nhận thức, cải tạo, chinh phục. Thiên nhiên tươi đẹp thể hiện qua cánh cò, dòng suối, vầng trăng và thiên nhiên hiện ra ở vẻ đẹp phong phú ở các vùng quê khác nhau. Trong văn học trung đại, hình tượng thiên nhiên gắn liền với lý tưởng đạo đức, thẩm mĩ, thiên nhiên tượng trưng cho nhân cách cao thượng của các nhà Nho, thiên nhiên còn là nơi thể hiện lý tưởng thanh cao, sống ẩn dật, không màng danh lợi của các nhà nho đương thời. Trong văn học hiện đại, thiên nhiên thường gắn liền với tình yêu quêhương đấtnướcvà tình cảm lứa đôi. Văn học đương đại, thiên nhiên đang dần mất đi vẻ đẹp vốn có của nó, do nhu cầu của con người, do quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Con người đã tác động vào thiên nhiên, mặc sức khai thác thiên nhiên mà không nghĩ đến hậu quả khôn lường của nó. Môi trường tự nhiên bị đe dọa, con người đang phải đối mặt với nhiều thách thức: sự nóng lên toàn cầu, chất thải công nghiệp, ô nhiễm môi trường, đặc biệt là do sự thiếu ý thức của con người nên tỉ lệ rác thải công nghiệp, rác thải sinh hoạt gia tăng. Cùng với sự thay đổi nhanh chóng của quá trình đô thị hóa, diện tích
  • 5. 2 trồng trọt ở nông thôn, diện tích cây xanh bị thu hẹp dần thay vào đó là các phố phường chật hẹp, đông đúc. Tất cả những điều đó đang diễn ra hàng ngày trong đời sống xã hội. Đứng trước sự khủng hoảng môi trường sinh thái, nhiều nhà văn gần đây đã bày tỏ quan điểm và tháiđộ trướcnhững vấn đề củađời sống và môi sinh. Đỗ Phấn đến với văn chương khá muộn mằn, ở tuổi 50 Đỗ Phấn đã có những dấu ấn thành công trong lĩnh vực hội họa. Cũng chính ở tuổi này Đỗ Phấn bắt đầu chuyển sang sáng tác văn học. Đến 55 tuổi nhà văn mới có cuốn tiểu thuyết đầu tay ra đời và sau đó liên tục cho ra mắt bạn đọc nhiều tác phẩm ở nhiều thể loại: tản văn, truyện ngắn và tiểu thuyết. Với Đỗ Phấn cầm bút trước hết là thú tiêu dao “một cách nghỉ ngơi thư giãn có ích” nhưng từ trong sâu thẳm có thể nhận thấy nhà văn đang rất lo lắng về sự sống của con người trước thực tại, nhất là ở thủ đô - mảnh đất ngàn năm văn hiến - nơi ông có quãng thời gian dài gắn bó. Nhà văn đã say sưa ngắm nhìn mảnh đất kinh kì với tất cả tình yêu của mình. Với sức sáng tạo mạnh mẽ, chỉ trong gần mười năm trở lại đây, nhà văn đã cho ra đời hơn hai mươi đầu sách (21 tác phẩm) trong đó có đủ các thể loại: tiểu thuyết, truyện ngắn, truyện dài, tản văn vàở thể loạinào Đỗ Phấn cũng đạtđược thành tựu nhất định, đặcbiệt là tiểu thuyết. Đỗ Phấn luôn day dứt về một Hà Nội đã phôi pha theo thời gian, không còn vẻ đẹp thanh lịch như xưa nữa, mà thay vào đó là sự nhốn nháo, bộn bề hỗn tạp của phố phường. Sự “thay da đổi thịt” của một đô thị đang vặn mình theo thời kinh tế thị trường sẽ kéo theo nhiều vấn nạn xã hội như dân số tăng nhanh, nhà ở, giao thông, môi trường, công ăn việc làm, mối quan hệ giữa người với người, đặc biệt là chất lượng cuộc sống của số dân ấy, họ trở thành nạn nhân của vấn nạn sinh thái. Trong từng trang sách của Đỗ Phấn, người đọc không chỉ thấy được vẻ đẹp thiên nhiên đất Hà thành mà còn có thể nhận thấy cuộc sống con người nơi đây đang ngập trong dòng người hối hả, trong khói bụi của môi trường, đang âu lo với các tệ nạn xã hội, đang cô đơn lạc lõng giữa dòng đời. Trong sáng tác của mình, Đỗ Phấn bộc lộ khát vọng về một không gian sống an lành, thanh bình của cư dân thành phố, ở đó thành phố phát triển trong sự giao thoa, cân bằng với thế giới tự nhiên. Đặc biệt, nhà văn đã dành sự quan tâm của mình đến môi trường sinh thái gắn liền với những vấn đề của đời sống đô thị hiện đại. Có lẽ, đây là một trong những phương diện
  • 6. 3 khiến cho tác phẩm của Đỗ Phấn thu hút được sự quan tâm của người đọc, khiến mỗi người khi đọc tác phẩm của ông không khỏi không suy ngẫm về cuộc sống mà chính mình đang sống. Nằm trong mạch vận động của văn học đương đại, sáng tác của Đỗ Phấn có những đóng góp đáng kể trong việc thể hiện tâm thế nhập cuộc vào cuộc sống đang diễn ra, thểhiện một cảm quan sinh thái rõ rệt. Tiếp cận với các tiểu thuyết của Đỗ Phấn chúng tôi mong muốn tìm hiểu những đặc điểm trong tiểu thuyết Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, từ đó góp thêm tiếng nói nhằm ghi nhận những đóng góp của nhà văn đối với nền văn học Việt Nam. Lựa chọn đề tài: “Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái”, luận văn hướng đến đánh giá giá trị độc đáo của tác giảĐỗ Phấn trong mảng viết về vấn đề môi trường sinh thái. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đềtài Đỗ Phấn không phải là một nhà văn chuyên nghiệp, bởi trước khi cầm bút viết văn ông là một họa sĩ đã thành danh. Mới xuấthiện trên văn đàn, chỉ trong vòng mười năm gần đây Đỗ Phấn đã cho ra đời liên tiếp nhiều tác phẩm, với nhiều thể loại khác nhau. Với lòng say mê văn chương nghệ thuật và sự nỗ lực mạnh mẽ, Đỗ Phấn đã cho ra đời nhiều tác phẩm được người đọc đón nhận và đánh giá cao. Từ những tác phẩm đầu tiên của nhà văn đã được khá nhiều độc giả và giới phê bình quan tâm, với nhiều bài viết đánh giá khác nhau. Các tác phẩm của Đỗ Phấn đã được người đọc đón nhận và trở thành đối tượng nghiên cứu trong nhiều bài viết và các luận văn thạc sĩ. Nhà nghiên cứu Đoàn Ánh Dương, đã đánh giá cao tài năng của Đỗ Phấn ở lời bạt in ở trang bìa cuốn tiểu thuyết Rừng người: “Đỗ Phấn tiêu biểu hơn các nhà văn khác ở chỗ là mẫn cảm nghệ thuật, cùng với những trải nghiệm cuộc sống ở đô thị nên nhà văn đã hiểu rất rõ cái bát nháo của đời sống thị dân cả mới và cũ” [47]. Trong cuốn Phê bình sinh thái tiếng nói bản địa - tiếng nói toàn cầu (Kỷ yếu hội thảo quốc tế) của Viện Văn học, với bài viết Kiểu nhân vật nạn nhân sinh thái trong tiểu thuyết Việt Nam từ sau đổi mới đến nay ThS. Nguyễn Thùy Trang cho rằng: “Trong sáng tác của Đỗ Phấn nhuốm màu biến đổi khí hậu và thiên tai... Cuộc sống của người dân ven đê sông Hồng sống dở chết dở khi hàng năm con sông Hồng đến mùa nước cạn và mùa
  • 7. 4 nước lên. Họ sống dật dờ, bấp bênh, không ổn định, không công ăn việc làm. Nhà văn nhận thấy trên khuôn mặt của họ suốt ngày nhàu nhĩ lo toan nhàu nhĩ sợ” [79, tr.690]. Bài viết Cảm quan sinh thái trong sáng tác của Đỗ Phấn của TS. Lê Hương Thủy cho thấy: “Đô thị hóa trong sáng tác của Đỗ Phấn được thể hiện như một thực tế tất yếu cùng với xu thế phát triển của đời sống, tuy nhiên, đi cùng với nó là những hệ lụy, những “chấn thương sinh thái”, những tácđộng đến môi trường và con người” [79, tr. 831]. Sáng tác của Đỗ Phấn cũng là đối tượng trong nhiều bài viết của các nhà văn, nhà phê bình viết về Đỗ Phấn, có thể kể đến các bài viết của Trần Nhã Thụy, Nguyễn Xuân Thủy, Nguyễn Việt Hà, Phạm Ngọc Tiến, Nguyễn Chí Hoan... Trong vài năm gần đây, nhất là ở bậc đào tạo sau Đại học của một số trường Đại học, tiểu thuyết của Đỗ Phấn trở thành đối tượng nghiên cứu trong một số luận văn, luận án. Theo tiến trình của thời gian có thể kể đến: Năm 2013, đề tài nghiên cứu “Hiện thực đô thị trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn” của học viên Trần Kim Dũng ở Đại học Vinh, Nghệ An. Năm 2014, luận văn nghiên cứu “Cảm thức phi lí trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn” của thạc sĩ Võ Thị Thanh Hiền, Đại học Đà Nẵng và “Đề tài đô thị trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn” của học viên Nguyễn Thị Hương, trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội. Năm 2015, đề tài luận văn nghiên cứu “Đặc điểm tiểu thuyết của Đỗ Phấn” của học viên Võ Hùng, trường Đại học Vinh, Nghệ An... Các bài viết, các đề tài nghiên cứu đã có những phát hiện, đánh giá tài năng của Đỗ Phấn trong đó có những ghi nhận về dấu ấn của Đỗ Phấn trong việc thể hiện những vấn đề về môi trường sinh thái thiên nhiên, cuộc sống và con ngườinơiđô thị. Với những thành tựu và đóng góp, sáng tác của Đỗ Phấn đã trở thành đối tượng quan tâm trong nhiều bài viết, công trình nghiên cứu. Tuy nhiên, vấn đề về môi trường, về sinh thái đô thị thì chưa có luận văn, luận án nào nghiên cứu một cách có hệ thống. Vì vậy, chúng tôi lựa chọn đề tài “Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái” với mong muốn đánh giá về tiểu thuyết củanhàvăn Đỗ Phấn một cách toàn diện hơn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu
  • 8. 5 Lựa chọn đề tài nghiên cứu Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, luận văn hướng tới mục đích cơ bản sau: - Làm sáng tỏ vấn đềvềmôi trường,về sinh thái trong tiểu thuyết củaĐỗ Phấn. - Phân tích, lí giải những đặc điểm về cảm quan sinh thái trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn. - Chỉ ra được những đóng góp về phương diện thể hiện những vấn đề môi trường sinh thái trong tiểu thuyếtcủa Đỗ Phấn trong bối cảnh văn họcViệt Nam đương đại. 3.2.Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn hướng đến banhiệm vụ sau: - Vấn đề sinh tháiqua các thời kìvăn họcvà trong sáng tác củaĐỗ Phấn. - Cảm quan về sinh thái tự nhiên trong tiểu thuyếtcủaĐỗ Phấn. - Con người trong không gian sinh thái đô thị trong tiểu thuyết Đỗ Phấn. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1.Đối tượng nghiên cứu Đề tài hướng trọng tâm tìm hiểu những đặc điểm về tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Trong khuôn khổ của đề tài, chúng tôi nghiên cứu các sáng tác ở thể loại tiểu thuyết củaĐỗ Phấn: - Vắng mặt (2010), Nxb Trẻ, Thành phố Hồ ChíMinh. - Chảyqua bóng tối (2011),Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh. - Rừng người (2011),Nxb Phụ nữ,Hà Nội. - Gần như là sống (2013), Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh. - Con mắt rỗng (2013),Nxb Văn học,Hà Nội. - Ruồi là ruồi (2014), Nxb Trẻ,Thành phố Hồ ChíMinh. - Rụng xuống ngàyhư ảo (2015), Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh. - Vết gió (2016), Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh. - Rong chơi miền kíức (2016), Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
  • 9. 6 Ngoài ra luận văn còn tìm hiểu một số truyện ngắn, truyện dài và tản văn của Đỗ Phấn và một số tác giả khác cùng viết về sinh thái đô thị làm đối tượng nghiên cứu và tham chiếu. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Trong luận văn chúng tôisử dụng cácphương pháp và thao tác nghiên cứu sau: - Phương pháp nghiên cứu liên nghành văn học - văn hóa học: để xem xét vấn đề sinh thái đô thị trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn quacác thời kì lịch sử. - Phương pháp hệ thống: giúp người viết xâu chuỗi các mối quan hệ giữa con người và tựnhiên để làm sáng tỏ vấn đề sinh thái trong tiểu thuyết củaĐỗ Phấn. - Thao tác phân tích - tổng hợp: để xem xét một cách chi tiết và có cái nhìn khái quát vềvấn đề sinh thái trong tiểu thuyết củaĐỗ Phấn. - Thao tác so sánh, đối chiếu: để thấy được vấn đề sinh thái trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn so với các thể loại khác của ông và so với các nhà văn khác. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Luận văn là công trình chuyên biệt nghiên cứu những đặc trưng trong cảmquan nghệ thuật của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái. Những kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần làm sáng tỏ vấn đề sự thể hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, sự ảnh hưởng tác động của con người đối với thiên nhiên ở đô thị hiện đại trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn. Qua đó, để thấy được những đóng góp của nhà văn trong sự phát triển của nền văn họcViệt Nam nói chung và vấn đềvăn học sinh thái nói riêng. 7. Kết cấu của luận văn Ngoàiphần mở đầu vàkết luận, nộidung chính của luận văn gồm ba chương: Chương 1: Vấn đề sinh tháiqua các thời kì văn học và trong sáng tác của Đỗ Phấn. Chương 2: Cảm quan vềsinh thái tự nhiên trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn. Chương 3: Con người trong không gian sinh tháiđô thị trong tiểu thuyết Đỗ Phấn.
  • 10. 7 Chương 1 VẤN ĐỀ SINH THÁI QUA CÁC THỜI KÌ VĂN HỌC VÀ TRONG SÁNG TÁC CỦA ĐỖ PHẤN 1.1. Vấn đề sinh thái trong văn học Việt Nam 1.1.1. Nghiên cứu, phê bình văn học từ góc nhìn sinh thái Chúng ta đang sống trong thế kỉ XXI - thế kỉ mà nhiều nhà nghiên cứu cho rằng con người phải đối mặt với nhiều nguy cơ sinh thái nhất. Trong xã hội văn minh, hiện đại cùng với sự phát triển của tốc độ đô thị hóa thì con người đang ngày càng khai thác tự nhiên quá mức, khiến cho nguồn tài nguyên thiên nhiên bị cạn kiệt không chỉ ở một quốc gia mà trên toàn cầu. Chính vì vậy mà con người đang phải chịu rất nhiều hậu quả của thiên nhiên gây ra: hạn hán, lũ lụt, ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, nước biển tăng cao... Cùng với sự biến đổi ấy, các nhà văn ngày càng có ý thức khám phá về những vấn đề sinh thái cũng như mối quan hệ giữa môi trường sống và con người. Theo tiếng La tinh sinh thái có nghĩa là nhà ở, nơi cư trú. Bất kì sinh vật nào sinh sống trên trái đất đều cần nơi cư trú [33, tr.9]. Thuật ngữ sinh thái học có thể hiểu đó là bộ môn khoa học nghiên cứu về mối quan hệ giữa môi trường và sinh vật sống [28, tr.13]. Bộ môn khoa học gắn liền với sinh học và dần dần được phát triển trong nhiều ngành khoa học khác. Thuật ngữ sinh thái học ra đời vào năm 1869 do nhà nghiên cứu sinh vật người Đức đưa ra [33, tr.9]. Đến nay, sinh thái không chỉ là đối tượng nghiên cứu của bộ môn sinh học mà còn là đối tượng nghiên cứu của nhiều nghành khoa học khác, trong đó có cả khoa học xã hội và nhân văn. Phê bình sinh thái với tư cách là một khuynh hướng phê bình văn hóa văn học, thực chất nó là nghiên cứu mối quan hệ giữa môi trường tự nhiên và con người được thể hiện trong các tác phẩm văn học. Người dùng thuật ngữ “phê bình sinh thái” đầu tiên là nhà phê bình người Mĩ tên là William Rueckert vào năm 1978 [28, tr.14]. Đến những năm đầu của thập kỉ 90 phê bình sinh thái trở thành một phong trào phát triển mạnh mẽ. Đến nay, phê bình sinh thái phát triển nhanh chóng ở nhiều quốc gia trên thế giới. Các cuộc hội nghị khoa học về vấn đề môi trường trong văn học được tổ chức
  • 11. 8 thường xuyên. Có thể kể đến Hội nghiên cứu ngôn ngữ học hiện đại vào năm 1991, với chủ đề “Phê bình sinh thái: Xanh hóa nghiên cứu văn học”. Những năm sau đó, các chuyên luận được ra đời như những cột mốc của phê bình sinh thái: chuyên luận Phê bình văn học sinh thái: tưởng tượng lãng mạn và sinh thái học tinh thần năm 1994; Tưởng tượng môi trường: Thoreau, văn viết về tự nhiên và sự cấu thành của văn hóa Mĩ vào năm 1995, cuốn Tuyển tập Phê bình sinh thái: Các mốc quan trọng trong Sinh thái học Văn học của Cheryll Glotfelty năm 1996, cuốn Tuyển tập nghiên cứu xanh: Từ chủ nghĩa lãng mạn tới phê bình sinh thái năm 2000 do Laurence Coupe biên tập;... Sau này phê bình sinh thái phát triển sang nhiều nước ở Châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc... đã đem đến một diễn đàn nghiên cứu phê bình văn học, ở đó cho thấy các nhà nghiên cứu, phê bình đã có sự quan tâm đặc biệt đến vấn đề môi trường sinh thái trong sáng tác văn học. Ở Việt Nam, công trình nghiên cứu về sinh thái Phê bình sinh thái - khuynh hướng nghiên cứu văn học mang tính cách tân của Đỗ Văn Hiểu (2012) được coi là bài viết công phu thể hiện tư tưởng nòng cốt về phê bình sinh thái từ trước đến nay. Một số bài viết và công trình của các học giả nước ngoài đã được dịch bởi một số nhà nghiên cứu Việt Nam như Hải Ngọc với công trình nghiên cứu Những tương lai của phê bình sinh thái và văn học của Karen Thornber trong tập Phê bình sinh thái Đông Á: Tuyển tập phê bình (2013), công trình nghiên cứu Phê bình sinh thái - nhìn từ lí thuyết giải cấu trúc (2013) của Nguyễn Thị Tịnh Thy, công trình nghiên cứu Phê bình sinh thái của Kate Rigby do Đặng Thị Thái Hà dịch (2014), công trình Nghiên cứu văn học trong thời đại khủng hoảng môi trường của Cheryll Glotfelty do Trần Thị Ánh Nguyệt dịch (2014), Phương Lựu trong bài Cần tìm hiểu sự chuyển hướng của phê bình sinh thái (2015), bài giới thiệu Khuynh hướng phê bình sinh thái trong nghiên cứu văn học của Lê Lưu Oanh, Trần Thị Ánh Nguyệt (2016), bài viết của giáo sư Trần Đình Sử Chuyển hướng văn hóa trong nghiên cứu văn học. Gần đây nhất là cuốn Phê bình sinh thái là gì? Viện Văn học dịch do Hoàng Tố Mai chủ biên và một số cuộc hội thảo khoa học về phê bình sinh thái diễn ra như: cuộc hội thảo khoa học Phê bình sinh thái -
  • 12. 9 Tiếng nói bản địa, tiếng nói toàn cầu do Viện Văn học tổ chức (12/2017); tháng 01/2018 hội thảo khoa học Sinh thái học trong văn học Đông Nam Á: Lịch sử, Huyền thoại và Xã hội của Hiệp hội Nghiên cứu liên ngành Văn học và Môi trường Đông Nam Á tại Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội cho thấy phê bình sinh thái đang là một hướng nghiên cứu được giới nghiên cứu quan tâm, đánh dấu những bước chuyển quan trọng trong việc nghiên cứu phê bình sinh thái trong đời sống văn học ở thời đại khủng hoảng môi trường. Thời đại ngày nay mà chúng ta đang sống đặt ra một vấn đề nếu chúng ta không thay đổi hành vi của mình thì sẽ phải đối mặt với thảm họa sinh thái. Trong văn học vấn đề sinh thái trở thành một đề tài quan trọng mà các nhà văn cần khai thác. Qua các tác phẩm văn học của mình, các nhà văn có thể thể hiện thái độ về văn hóa ứng xử của con người đối với tự nhiên, phê phán những tư tưởng, những chính sách văn hóa xã hội làm ảnh hưởng đến thế giới tự nhiên, dẫn đến tình trạng xấu đi của môi trường và nguy cơ biến đổi sinh thái. 1.1.2. Một vài hình dung về vấn đề sinh thái trong văn học Việt Nam Trong lịch sử văn học, con người là đối tượng trung tâm của văn học. Trong nhiều tác phẩm văn học, con người vẫn thường được xây dựng và biểu hiện trong mối quan hệ với thế giới tự nhiên. Trong văn học dân gian, con người luôn luôn đứng cao hơn vũ trụ, con người tôn sùng tự nhiên qua những hành động lớn lao kiểu dời non lấp bể, chống trời, tôn sùng tự nhiên qua việc nói đến kích thước thân thể khổng lồ trong tác phẩm “Nữ oa vá trời”, “Thần trụ trời”... Trong nhiều câu ca dao, dân ca, hò vè các tác giả dân gian đã khắc họa thiên nhiên vô cùng tươi đẹp, con người sống trong môi trường ấy sẽ hưởng thụ và chiêm ngưỡng cảnh sắc thiên nhiên thanh bình, yên ả của quê hương đất nước: “Đường vô xứ Nghệ quanh quanh/ Non xanh nước biếc như tranh họa đồ” (Ca dao). Việt Nam là một nước nông nghiệp, dân số chủ yếu sống bằng nghề nông, cuộc sống con người thường xuyên phải chịu những tác động của tự nhiên, phụ thuộc rất nhiều vào tự nhiên. Thiên nhiên đóng vai trò rất lớn trong đời sống của cư dân nông nghiệp. Nó vừa là nguồn lợi, là môi trường đồng thời cũng là nỗi lo âu của
  • 13. 10 người dân. Mỗi khi bước chân ra đồng người nông dân luôn phải lo lắng sao cho mưa thuận gió hòa, thực tế này được phản ánh trong ca dao: “Trông trời trông đất trông mây/ Trông mưa trông nắng trông ngày trông đêm/ Trông cho chân cứng đá mềm/ Trời yên bể lặng mới yên tấm lòng” (Ca dao). Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu về khoa học kĩ thuật, song với tình trạng biến đổi khí hậu bất thường do sự tàn phá của con người thì sự khắc nghiệt của tự nhiên càng trở nên khủng khiếp hơn. Hạn hán, lũ lụt xảy ra nhiều hơn, tàn khốc hơn, những trận động đất kinh thiên động địa đã làm cho con người ngày càng khốn đốn. Con người tồn tại và phát triển cùng với môi trường tự nhiên bởi vậy khi chỉnh thể sinh thái bị hủy hoại thì sự sống của con người cũng sẽ bị đe dọa. Từ xa xưa, tác giả dân gian đã ý thức về môi trường tự nhiên và sự chống trả vất vả của con người với thiên tai, điều này được thể hiện trong chi tiết nước lũ dâng lên hàng năm, nước dâng lên bao nhiêu thì đồi núi cũng dâng lên bấy nhiêu (Sơn Tinh, Thủy Tinh) để nói rằng con người vẫn chế ngự được thiên nhiên, vẫn làm chủ được thiên nhiên. Trong văn học trung đại, cảm thức về sinh thái là cảm thức hòa điệu: ca tụng thiên nhiên, xem thiên nhiên là nơi lánh trú tâm hồn, lí tưởng hóa mối tương tác giữa con người và môi trường. Điều đó được thể hiện rõ trong thơ Thiền thời Lí Trần, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Khuyến... Thiên nhiên trong mối quan hệ với con người chủ yếu thể hiện ở hai khía cạnh vừa là nơi lánh trú ẩn dật, vừa là người bạn thân thiết. Khi cuộc đời không như ý con người thường trở về với thiên nhiên, sống chan hòa với thiên nhiên, Nguyễn Trãi đã dành tất cả tấm lòng ưu ái của mình cho thiên nhiên: “Côn Sơn suối chảy rì rầm/ Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai/ Côn Sơn có đá rêu phơi/ Ta ngồi trên đá như ngồi đệm êm” (Bài ca Côn Sơn - Nguyễn Trãi). Dưới ngòi bút của Bạch Vân cư sĩ - Nguyễn Bỉnh Khiêm, những tứ thơ đã thể hiện cảm xúc giao hòa giữa thiên nhiên với tâm hồn thanh thản của nhà thơ khi sống ẩn dật nơi quê nhà: “Thu ăn măng trúc, đông ăn giá/ Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao” (Nhàn - Nguyễn Bỉnh Khiêm). Việt Nam là một nước trong suốt chiều dài lịch sử có nhiều thế lực xâm lược. Trong thời chiến do sự hủy hoại của chiến tranh nên nguồn tài nguyên thiên nhiên bị
  • 14. 11 tàn phá khiến cho môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng. Các nhà thơ, nhà văn đã có cái nhìn về vấn đề này. Trong Bình Ngô đại cáo nhà văn Nguyễn Trãi đau xót vô cùng khi chứng kiến cảnh: “Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy đường/ Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước” (Bình Ngô đại cáo - Nguyễn Trãi) Đầu thế kỉ XX, cùng với cảm quan sầu đô thị, sự tàn phá thiên nhiên chính là từ các công cuộc đô thị hóa, công nghiệp hóa - hiện đại hóa, điện khí hóa... của con người. Nhà thơ Tú Xương đã có dự cảm “Phố phường chật hẹp người đông đúc/ Bồng bế nhau lên nó ở non” (Năm mới chúc nhau - Trần Tế Xương). Trong văn học hiện đại các nhà văn đã có sự quan tâm hơn đến mối quan hệ giữa môi trường tự nhiên và con người. Thời kì văn học lãng mạn 1930 - 1945 gắn liền với quá trình đô thị hóa, nhiều nhà văn, nhà thơ đã quay lưng lại thực tế, tìm về thiên nhiên. Có khi là thiên nhiên tươi đẹp thơ mộng, như thực như hư dưới con mắt của thi sĩ Hàn Mặc Tử, nơi có những khu vườn nhỏ nhắn, xinh xinh, những ngôi nhà lấp ló sau những vườn cây xanh mướt như ngọc của xứ Huế: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?/ Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên/ Vườn ai mướt quá xanh như ngọc/ Lá trúc che ngang mặt chữ điền” (Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc Tử). Dưới con mắt của thi sĩ đa tình, nhà thơ Xuân Diệu biểu lộ một tình thơ thật đắm say, ngất ngây về sự giao hòa giữa thiên nhiên và con người rất gần gũi, thân thiết: “Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên/ Cây me ríu rít cặp chim chuyền/ Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá/ Thu đến nơi nơi động tiếng huyền” (Thơ duyên - Xuân Diệu). Văn học giai đoạn từ năm 1945 - 1975, thời kì diễn ra cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mĩ và thực dân Pháp, này cũng có thể được xem xét dưới cái nhìn sinh thái, đó là sự hủy hoại của môi trường trong chiến tranh, mỗi ngày có hàng nghìn, hàng vạn tấn bom dội xuống đất nướcViệt Nam. Nhân dân Việt Nam phải chịu bao khói thuốc chiến tranh, ô nhiễm môi trường đất, nước và không khí. Tuy nhiên, vẫn có những vần thơ, những tác phẩm thể hiện mối quan hệ gần gũi giữa con người và thiên nhiên, nhân dân ta chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, cũng là chiến đấu cho mỗi nhành hoa, ngọn cỏ, tấc đất của quê hương: “Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam/ Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng” (Hoan hô
  • 15. 12 chiến sĩ Điện Biên - Tố Hữu). Thời kì này cội nguồn của cảm quan sinh thái là tình yêu quê hương đất nước: tình yêu với hương cỏ mật, với hoa bưởi nồng nàn, với hoa ổi, hoa doi ngát hương (Hương cỏ mật - Đỗ Chu, Hương thầm - Phan Thị Thanh Nhàn, Mùa hoa doi - Xuân Quỳnh...), những hình ảnh, âm thanh gần gũi với mỗi người dân như hình ảnh bếp lửa, tiếng gà (Bếp lửa - Bằng Việt, Tiếng gà trưa - Xuân Quỳnh), với dòng sông, cánh đồng thân thuộc (Đồng chí - Chính Hữu, Tây Tiến - Quang Dũng, Những đứa con trong gia đình - Nguyễn Thi...). Trong giai đoạn văn học này các nhà văn có nói đến thiên nhiên nhưng chủ yếu để biểu hiện cho sức sống vĩnh hằng, bất diệt dẫu cho cuộc chiến tranh ác liệt đến mức nào (Mảnh trăng cuối rừng - Nguyễn Minh Châu, Rừng xà nu - Nguyễn Trung Thành, Vòng cườm trên cổ chim cu - Chế Lan Viên). Văn học có nói đến sự phá hoại của chiến tranh đối với tự nhiên nhưng chủ yếu nghiêng về tố cáo tội ác của giặc (Dấu chân người lính - Nguyễn Minnh Châu, Cánh đồng hoang - Nguyễn Quang Sáng...). Cụ thể trong tác phẩm Rừng xà nu Nguyễn Trung Thành đã nói rất rõ sự phá hoại của bọn giặc khiến cho cả rừng xà nu trước cửa làng Xô Man bị tàn phá khủng khiếp, cây nào cũng bị thương, có những cây xà nu bị chặt đứt ngang nửa thân mình, nhựa ứa ra tràn trề. Sau năm 1975, văn học đặc biệt chú ý hơn đến những vấn đề liên quan đến sinh thái. Tính liên nghành cũng được nhấn mạnh, nhiều tác phẩm được viết theo hướng tố cáo sự phá hoại thiên nhiên của chiến tranh như Miền cỏ cháy của Nguyễn Minh Châu, hay dòng “văn học da cam”, di chứng của chất độc da cam tàn phá môi trường, chất độc dioxin với những khu rừng xác xơ trụi lá, mái đầu rụng hết tóc của các nữ thanh niên xung phong, rồi những đứa con dị hình, dị dạng, không lành lặn của các cựu chiến binh trở về từ chiến trường (Người sót lại của rừng cười - Võ Thị Hảo, Mười ba bến nước - Sương Nguyệt Minh...). Khi chiến tranh đã lùi xa, người ta mới nhận ra rằng nó không chỉ tổn thất về vật chất, mà còn tổn thất về tinh thần, về môi trường chưa thể khắc phục ngay được, những hậu quả của nó vẫn còn để lại âm ỉ sau bao thế hệ. Văn học sinh thái truy tìm nguồn gốc của nguy cơ sinh thái. Có lẽ thế, mà nhiều tác phẩm trong thời gian này đã phê phán mặt trái của văn minh như tác phẩm của
  • 16. 13 Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Ngọc Tư, Sương Nguyệt Minh... Bên cạnh đó, văn học sinh thái còn chú trọng đến trách nhiệm của con người đối với tự nhiên, khẩn thiết lên tiếng kêu gọi con người hãy bảo vệ vạn vật trong tự nhiên để duy trì cân bằng sinh thái: (Thung mơ của Hà Nguyên Huyến, Sống mãi với cây xanh, Khách ở quê ra - Nguyễn Minh Châu, Giải vía - Hà Thị Cẩm Anh...). Văn học sinh thái còn đặt ra trách nhiệm của con người đối với tự nhiên. Con người cần trân trọng, yêu thương, che chở tự nhiên, nhìn vào tự nhiên mà điều chỉnh hành vi của mình. Trong các tác phẩm văn học, các nhà văn đã có sự quan tâm đến các vấn đề xã hội, dân sinh, hướng về đô thị, những vấn đề nảy sinh trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, những mâu thuẫn nảy sinh trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Sau năm 1975, các tác phẩm văn học đã chú ý nhiều hơn về mối quan hệ giữa môi trường tự nhiên và con người sinh tồn trong môi trường ấy. Nhà văn Nguyễn Minh Châu được coi là “người mở đường tinh anh” (Nguyên Ngọc) cũng đã có ý thức rất sớm về vấn đề sinh thái. Tác giả để cho nhân vật của mình có những xử sự rất đỗi nhân văn. Các tác phẩm cũng đề cập đến vấn đề lo âu về tương lai đô thị như Cỏ lau, Miền cháy, Phiên chợ Giát, Sống mãi với cây xanh... Nguyễn Huy Thiệp, người đã tạo nên “khúc ngoặt” (Lã Nguyên) cho văn xuôi Việt Nam sau 1975 cũng là người đưa ra được những triết lí sinh thái thực sự có chiều sâu. Thời kì đầu, ông chưa khai thác sâu về mối quan hệ giữa tự nhiên và con người nhưng cùng với quá trình phát triển đô thị, tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp xuất hiện kiểu nhân vật phản ứng với văn minh đô thị. Trong truyện ngắn Chuyện tình kể trong đêm mưa nhân vật Bạc Kì Sinh không thích người Kinh lên Tây Bắc khai hóa văn minh, nhân vật Doanh trong Những người muôn năm cũ phỉ báng kết quả của việc tiếp thu văn minh đô thị. Từ đó, Nguyễn Huy Thiệp băn khoăn đi tìm câu trả lời làm thế nào để con người sống yên ổn và hạnh phúc. Nhiều trang viết của Nguyễn Huy Thiệp thể hiện nỗi bất an và lo âu, ở đó nhân vật thường rơi vào niềm cô độc, đau đớn, có khi dẫn đến cái chết (Con gái thủy thần, Chăn trâu cắt cỏ, Thương nhớ đồng quê...). Nguyễn Huy Thiệp cũng như nhiều nhà văn đương đại đang đi tìm câu trả lời cho vấn đề vẻ đẹp tự nhiên đang dần bị mai một, về những bất
  • 17. 14 ổn của đô thị hóa. Sau này, nhiều tác phẩm của một số nhà văn đã viết trực diện về những vấn đề của môi trường như Trăm năm còn lại của Trần Duy Phiên, Sâm cầm Hồ Tây, Chuyến đi săn cuối cùng của Sương Nguyệt Minh, Khách đến Nha Trang của Hoàng Minh Tường, Giải vía, Đối thoại với bất tử của Hà Thị Cẩm Anh, Con chó và vụ li hôn của Dạ Ngân, Đàn sẻ ri bay ngang rừng của Võ Thị Xuân Hà, Bóng của cây sồi của Đỗ Bích Thúy, Miền cỏ hoang của Trần Thanh Hà, Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư,... Các tác phẩm của Đỗ Phấn như Vắng mặt, Chảy qua bóng tối, Rừng người, Rong chơi miền kí ức, Ruồi là ruồi, Gần như là sống, Rụng xuống ngày hư ảo, Vết gió, Con mắt rỗng cùng một số truyện ngắn, truyện dài, tản văn cũng đều đề cập đến vấn đề sinh thái. Nhiều tác phẩm sau 1975 đều viết về sự nếm trải của con người với những khủng hoảng môi trường sinh thái. Có lẽ, Nguyễn Ngọc Tư là một trong số nhà văn viết có sự ám ảnh nhất. Thời kì đầu, các tác phẩm chỉ xoay quanh vấn đề tình cảm, về sau lồng trong các câu chuyện là vấn đề thời sự, cụ thể là vấn đề môi trường. Các nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư hầu hết là sống và lớn lên trên mảnh đất chôn rau cắt rốn nên có cái nhìn của người trong cuộc, trước sự đổi thay của quê hương mà thấy xót xa. Tác giả đã nhìn thấy sự bạc màu của đất, sự biến mất của tự nhiên tươi đẹp, những thảm họa thiên nhiên trút lên cuộc sống của con người như mùa nước nổi, xâm ngập mặn của đồng bằng sông Cửu Long, cuộc sống của họ cứ phải nay đây mai đó, di chuyển khắp nơi để sinh sống qua mùa nước nổi, đến những vùng nước ngọt để tồn tại. Sinh ra và lớn lên ở vùng sông nước, Nguyễn Ngọc Tư phát hiện ra rằng: nước được coi là yếu tố vô cùng quan trọng đối với con người. Nó là yếu tố quan trọng nhất cấu thành sự cân bằng sinh thái tự nhiên. Con người không thể sống thiếu nước, đặc biệt là nước ngọt, nước sạch. Trong Cánh đồng bất tận hình ảnh người dân xếp hàng dài đi mua nước ngọt, họ phải nín thở để nước khỏi sánh ra ngoài thùng đựng nước, họ phải tụt xuống ao tắm rồi lên rửa lại bằng nước ngọt nhưng chỉ đúng hai gàu, nước vo gạo dùng để rửa rau, rửa rau xong thì dùng để rửa cá, họ phải tiết kiệm từng gáo nước. Họ chỉ ao ước rất đơn giản là bao giờ được tắm một bữa nước ngọt cho đã đời. Ở tiểu
  • 18. 15 thuyết Sông, một lần nữa nhà văn nhắc lại tình cảnh thiếu nước ngọt đến trầm trọng của người dân vùng sông nước... Trong tác phẩm của mình, Nguyễn Ngọc Tư đã đặt ra nhiều vấn đề về môi trường và số phận cá nhân trong chỉnh thể sinh thái, cảnh báo về tình trạng biến đổi khí hậu trên từng dòng sông, mỗi ngôi nhà và từng số phận nhân vật. Ngoài ra còn rất nhiều tác phẩm của các tác giả như: Con gái thủy thần, Chăn trâu cắt cỏ, Những bài học ở nông thôn.... của Nguyễn Huy Thiệp, Kẻ ám sát cánh đồng của Nguyễn Quang Thiều, Biển và chim bói cá của Bùi Ngọc Tấn, Chốn sơn khê, Giường đôi xóm Chùa của Đoàn Lê và các truyện ngắn Khói trời lộng lẫy, Gió lẻ, Ngọn đèn không tắt, Giao thừa, Sông... của Nguyễn Ngọc Tư. Quá trình đô thị hóa đang phát triển hết sức nhanh chóng, nhất là những thành phố đang trong quá trình phát triển theo hướng hiện đại văn minh không chỉ là trung tâm văn hóa, chính trị, nhiều thành phố còn là nơi khủng hoảng về môi trường sinh thái. Với một cái nhìn thấu suốt, nhiều tác phẩm viết về sinh thái đô thị thể hiện nỗi bất an, lo âu của con người sống trong môi trường ấy. Có thể thấy, nhà văn Đỗ Phấn không phải là người duy nhất viết về môi trường sinh thái đô thị mà đã có rất nhiều nhà văn khác đã và đang viết về vấn đề này. Khi viết về vấn đề sinh thái đô thị, Đỗ Phấn có cái nhìn và cảm quan đặc biệt, cái nhìn mẫn cảm của một nhà văn nhận thấy sự thay đổi của thủ đô trước sự xâm lấn của văn minh đô thị. 1.2. Đỗ Phấn trong đời sống văn học Việt Nam đương đại và cảm quan sinh thái trong tiểu thuyết Đỗ Phấn 1.2.1. Cuộc đời và sự nghiệp văn học của nhà văn Đỗ Phấn Đỗ Phấn sinh năm 1956 trong một gia đình công chức tại Hà Nội. Năm 1980, ông đỗ tốt nghiệp Đại học Mĩ thuật. Từ năm 1980 - 1989, ông là giảng viên giảng dạy Mĩ thuật tại khoa Kiến trúc, trường Đại học Xây dựng Hà Nội. Hiện nay, Đỗ Phấn là một họa sĩ tự do, là một nhà văn được nhiều độc giả biết đến. Đỗ Phấn là một người đi nhiều, hiểu nhiều, biết rộng. Ông là “một giang hồ ham mê các hành trình dọc ngang nước Việt, thi thoảng nổi hứng lại nhảy lên Tây Tạng, tạt ngang Paris... Chưa kịp gặp đã nghe bay sang Bangkok hoặc vọt sang Australia...” [24]. Phải chăng, nhà văn đi khắp nơi trên đất
  • 19. 16 nướcvà thế giới đểdi dưỡng tinh thần và tìm nguồn cảm hứng sáng tác trong các tác phẩm của mình. Đỗ Phấn vẫn thường được nhắc đến với cương vị là một họa sĩ có tài, hơn 40 năm cầm bút vẽ, Đỗ Phấn có một gia tài tranh đáng kể. Và hơn 10 năm nay ông gần như đã ngừng bút vẽ, chỉ góp mặt trên báo chí với những minh họa và tranh Tết. Với Đỗ Phấn, vẽ và viết đều có chung một mục đích là cái đẹp, sự lương thiện. Chất liệu để làm nên tác phẩm của Đỗ Phấn chính là mảnh đất nơi nhà văn sinh ra và lớn lên. Chính nhà văn cũng cho rằng: “Dù vẽ hay viết thì mục đích cuối cùng của tôi là tìm đến cái đẹp, cái thẩm mĩ, cái nhân văn của cuộc sống. Nhất là Hà Nội hôm nay có phần mất mát, xô lệch quá chẳng còn giữ được bao nhiêu. Là người con Hà Nội, tôi thấy mình cần có trách nhiệm phải lưu giữ những nét đẹp của Hà Nội mà mình đã may mắn được trải qua, khi mà tình yêu làm nó bị pha loãng bằng muôn nghìn cách” [68]. Trước khi cầm bút viết, Đỗ Phấn đã phải trải qua nhiều chức phận khác nhau. Đỗ Phấn từng là thầy giáo đứng trên giảng đường đại học, là họa sĩ tài hoa. Ông đến với văn chương khi tuổi đời không còn trẻ. Với sức sáng tạo dồi dào và cách làm việc nghiêm túc, Đỗ Phấn liên tục cho ra đời nhiều tác phẩm với nhiều thể loại khác nhau, từ tản văn đến truyện ngắn, truyện dài và tiểu thuyết và ở thể loại nào cũng có những dấu ấn. Các tác phẩm của ông gần như viết duy nhất một đề tài là Hà Nội. Mỗi tác phẩm là một thế giới khác nhau thể hiện một cảm quan sinh thái về Hà Nội, thành phố đang từng ngày thay đổi trong bối cảnh đương đại. Về sự nghiệp văn học, sau hơn 10 năm cầm bút viết Đỗ Phấn là nhà văn có sức sáng tạo đáng kinh ngạc. Ông đã cho ra đời các tác phẩm với nhiều thể loại khác nhau, từ tiểu thuyết đến truyện dài, truyện ngắn, tản văn. Năm 2010, tiểu thuyết Vắng mặt được lọt vào chung khảo giải văn Bách Việt. Năm 2014, truyện dài Dằng dặc triền sông mưa của Đỗ Phấn đã dành giải thưởng ở hạng mụcVăn xuôi của Hộinhàvăn HàNội. Ở lĩnh vực tiểu thuyết là các sáng tác: Vắng mặt (Nxb Trẻ - 2010); Rừng người (Nxb Phụ nữ - 2011); Chảy qua bóng tối (Nxb Trẻ - 2011); Gần như là sống (Nxb Trẻ - 2013);
  • 20. 17 Con mắt rỗng (Nxb Văn học - 2013); Ruồi là ruồi (Nxb Trẻ - 2014); Rụng xuống ngày hư ảo (Nxb Trẻ - 2015); Vết gió (Nxb Trẻ - 2016); Rong chơi miền kí ức (Nxb Trẻ- 2016). Ngoài ra, ông còn cho ra mắt bạn đọc các tập truyện ngắn và truyện dài: Đêm tiền sử (Nxb Hội nhà văn - 2009); Thác hoa (Nxb Trẻ - 2010); Kiến đi đằng kiến (Nxb Phụ nữ - 2009); Dằng dặc triền sông mưa (Nxb Trẻ - 2013). Ông cũng là người viết nhiều ở thể loại tản văn và đa phần là viết về thủ đô Hà Nội với các tác phẩm: Chuyện vãn trước gương (Nxb Hội nhà văn - 2005); Ông ngoại hay cười (Nxb Lao động - 2011); Phượng ơi (Nxb Dân Trí - 2012); Hà Nội thì không có tuyết (Nxb Trẻ - 2013); Ngồi lê đôi mách với Hà Nội (Nxb Trẻ - 2015); Ngẫm ngợi phố phường (Nxb Trẻ - 2015); Đi chơi bờ hồ (Nxb Trẻ - 2018); Bâng quơ một thời Hà Nội (Nxb Trẻ - 2018). 1.2.2. Cảm quan sinh thái của nhà văn Đỗ Phấn. Nghiên cứu về vấn đề sinh thái là một chủ đề mang tính thời sự từng được đặt ra trong bối cảnh củađời sống xã hội vàđời sống văn học hơn một thập niên gần đây. Thời kì văn học đương đại, vấn đề sinh thái mới được thể hiện một cách đa dạng trong nhiều tác phẩm. Trong các sáng tác của mình, các nhà văn đã lên án sự hủy hoại môi trường của con người, nhất là môi trường sinh thái đô thị. Giống như các nhà văn đương thời, Đỗ Phấn cũng quan tâm đến vấn đề sinh thái. Ông sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Thăng Long văn hiến lâu đời, ông hiểu rất rõ từng sự thay đổi, sự chuyển mình của đô thị nhất là những năm gần đây khi quá trình đô thị diễn ra nhanh chóng, con người được tiếp cận với nền văn minh tiến bộ nhưng cũng để lại nhiều hệ lụy khi tự nhiên bị phương hại, con người trở nên bất an, con người muốn tìm về trạng thái cân bằng sinh thái. Ông viết về Hà Nội bằng tất cả tấm lòng, bằng những chiêm nghiệm, những hồi ứcxa xưa của mình. Đỗ Phấn luôn tâm niệm “cả đời, tôi sẽ chỉ viết sách về Hà Nội” [32]. Chỉ trong khoảng thời gian ngắn, Đỗ Phấn đã cho ra đời nhiều tiểu thuyết viết về Hà Nội: Vắng mặt, Chảy qua bóng tối, Rừng người, Rong chơi miền kí ức, Ruồi là ruồi, Rụng xuống ngày hư ảo, Vết gió... Tất cả đều là một bức tranh chân thực về phố phường Hà Nội. Ở đó ta thấy được con người sống trong đô thị ngột ngạt đến mức nào? Họ được sống đầy đủ hơn về
  • 21. 18 vật chất nhưng họ lại phải đối mặt với nhiều vấn đề về môi trường sinh thái trong cuộc sống. Đối với người thành phố để hướng đến một đời sống an nhàn hòa hợp với thiên nhiên cũng khó khăn. Mong mỏi của Đức trong Rụng xuống ngày hư ảo là một thực tế. Muốn uống trà ngon thì cần phải có quá nhiều điều kiện. Chẳng hạn, mang trà Thái Nguyên về thành phố pha với nước máy đun sôi thì thấy nhạt phèo, đắng ngắt, chẳng còn là vị của trà Thái Nguyên nữa. Rồi đến việc ngắm một vùng trời bình yên ở thành phố mới thật là khó khăn, xung quanh họ chỉ thấy nhà cao tầng mọc lên san sát, đường phố lúc nào cũng đông nghịt người nhất là lúc tan tầm. Khói bụi xe thì mù mịt, rađường là phải đội mũ bảo hiểm, đeo khẩu trang, bịt kín mít. Nhiều người phải sống trong một căn hộ tập thể chật chội, trong các tòa nhà cao tầng quanh năm không nhìn thấy ánh sáng mặt trời. Sống trong thành phố văn minh mà lúc nào cũng cảm thấy bất an. Có lẽ thế, mà cái cảm giác lạc loài, cô đơn ngay chính trong “rừng người” của các nhân vật là không tránh khỏi. Nhân vật chính thường phảng phất nỗi buồn khi những vẻ đẹp nguyên sơ của thủ đô không còn nữa và rất muốn phục sinh lại nó. Những dòng sông, những làng mạc, những bờ ao tự nhiên biến mất mà thay vào đó là những tòa nhà cao tầng, những khách sạn sang trọng hiện đại, những hàng quán mọc lên san sát... chỉ trong một thời gian ngắn. Do cuộc sống bộn bề nên tình người cũng ngày càng chia cắt. Không còn những bữa cơm anh em, bạn bè quây quần trong những ngày Tết. Những ngày Tết họ rất ngại đến nhà nhau, họ đi du lịch khắp nơi để thưởng thứckhông khí trong lành kháchẳn không khíngộtngạt trong thành phố. Có lẽ, sự can thiệp của quá trình đô thị hóa, nông thôn dần mất đi những ruộng lúa, bờ tre, những cánh đồng quê trong trẻo, thanh bình, những hồn người mộc mạc. Thay vào đó là những ngôi nhà san sát, những lớp thị dân lạc lõng, bơ vơ. Nhiều nhân vật trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn không dễ giữ mình để khỏi bị tha hóa theo lối sống thành thị. Đọc tiểu thuyết của Đỗ Phấn, có thể thấy rất nhiều nhân vật đã trốn chạy khỏi thành phố đô hội. Họ lên rừng, xuống biển, đi đến một nơi nào đó thật xa, nơi đó họ có thể được hưởng thụ những gì mà thiên nhiên ban tặng mà thành phố không có. Một niềm ao ước giản đơn đối với cư dân thành phố: một chuyến đi xa để họ được sống là chính mình, được hòa với
  • 22. 19 thiên nhiên, được sống trong sự ưu ái của thiên nhiên, đồng thời cũng để cho họ thanh lọc tâm hồn, tránh xa phố phường hỗn tạp, bất an. Với cảm quan tinh tế, Đỗ Phấn có một cách nhìn mới mẻ về mối quan hệ giữa tự nhiên và con người. Hà Nội trong tình cảm trân quý của nhà văn được hiện lên một cách chân thực với vẻ đẹp xưa cũ, một vẻ đẹp hiện đại của những ngôi cao tầng kết hợp với nét cổ kính của những ngôi nhà rêu phong nơi phố cổ vẻ đẹp yên bình, sâu lắng của một kinh thành sầm uất xưa kia. Với nhịp sống hối hả, tấp nập ngày nay, người ta vẫn không quên tìm về Hà Nội với nét đẹp xưa cũ, một vẻ đẹp thanh bình, tĩnh lặng. Tất cả những vẻ đẹp đó được thểhiện một cách khéo léo và sâu sắc trong các tiểu thuyết củanhà văn Đỗ Phấn. Tiểu kết chương Cùng với dòng chảy viết về sinh thái trong văn học như các nhà văn đương thời, Đỗ Phấn đã thể hiện một cảm quan nghệ thuật riêng, đó là cảm quan sinh thái đô thị. Gần như ở tác phẩm nào Đỗ Phấn cũng đề cập đến cảnh quan thiên nhiên, cuộc sống và con người thủ đô. Trong tâm trí của nhà văn, thủ đô Hà Nội ngày xưa đã để lại cho ông nhiều kỉ niệm tuổi thơ, nhiều hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp, nhiều ấn tượng sâu sắc, còn thủ đô Hà Nội ngày nay đã để lại cho ông nhiều lo âu, băn khoăn, trăn trở về cuộc sống, môi trường và văn hóa đô thị. Thủ đô Hà Nội đang từng ngày phát triển về mọi mặt, người dân Hà thành được hưởng thành quả của nền văn minh tiến bộ, song cũng để lại nhiều hệ lụy của sự phát triển thủ đô, một trong những vấn đề đó là môi trường sinh thái. Nó không chỉ là nỗi trăn trở của các nhà văn mà còn là nỗi trăn trở của nhiều ngành khoa học. Đỗ Phấn là nhà văn có tình cảm đặc biệt với Hà Nội nên những lo âu, trăn trở về môi trường sinh thái ở thủ đô được tácgiả thểhiện trong các sáng tác của mình, đặc biệt là trong các tiểu thuyết.
  • 23. 20 Chương 2 CẢM QUAN VỀ SINH THÁI TỰ NHIÊN TRONG TIỂU THUYẾT CỦA ĐỖ PHẤN 2.1. Kí ức và sự tái hiện vẻ đẹp tự nhiên (nguyên sơ) của Hà Nội Khi nói đến Hà Nội, chúng ta không khỏi tự hào về mảnh đất “nghìn năm văn hiến”. Hà Nội là nơi đã trải qua bao biến cố, thăng trầm của lịch sử, cũng là nơi lưu giữ nhiều giá trị văn hóa truyền thống lâu đời. Từ xa xưa, nhân dân ta đã có câu “Thứ nhất kinh kì, thứ nhì phố Hiến”. Đó là trung tâm văn hóa, chính trị, kinh tế, giáo dục, y tế... bậc nhất của cả nước, trong đó có cả vẻ đẹp của Hà Nội về mọi mặt như văn hóa ẩm thực, về phố phường, cây cối, sông ngòi... Trong văn học Việt Nam vẻ đẹp của thủ đô Hà Nội đã đi vào tâm thức của cả người viết và người đọc. Từ xưa, qua các bài ca dao, tác giả dân gian đã ca ngợi vẻ đẹp của kinh thành Thăng Long “ngàn năm văn hiến”: “Gió đưa cành trúc la đà/ Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương/ Mịt mù khói tỏa ngàn sương/ Nhịp chày Yên Thái mặt gương Tây Hồ” (Ca dao). Vẻ đẹp của thủ đô Hà Nội được nhiều văn nghệ sĩ lấy làm nguồn cảm hứng sáng bằng tất cả tấm lòng trân trọng và nâng niu. Văn học trung đại, tác giả Trần Quang Khải có tác phẩm Phò giá về kinh, Lê Hữu Trác (Thượng kinh kí sự), Nguyễn Du (Long Thành cầm giả ca)... Văn học hiện đại, tác phẩm Những chiếc ấm đất, Chén trà sương của nhà văn Nguyễn Tuân; Hà Nội 36 phố phường, Dưới bóng hoàng lan, Trở về của nhà văn Thạch Lam; Món ngon Hà Nội của nhà văn Vũ Bằng... Văn học đương đại các tác giả viết nhiều về vẻ đẹp của Hà Nội hiện tại như: Đỗ Phấn với tác phẩm Dằng dặc triền sông mưa, Hà Nội thì không có tuyết, Vết gió, Rụng xuống ngày hư ảo;... Nguyễn Trương Quý với tác phẩm Hà Nội là Hà Nội, Tự nhiên như người Hà Nội, Mỗi góc phố một người đang sống;... Nguyễn Việt Hà với tác phẩm Con giai phố cổ, Cơ hội của Chúa... Nguyễn Ngọc Tiến với Đi dọc Hà Nội, Đi ngang Hà Nội, 5678 bước chân quanh Hồ Gươm... Ở mỗi tác phẩm, các nhà
  • 24. 21 văn, nhà thơ đã dành nhiều tình cảm trân quý của mình để tái hiện vẻ đẹp của Hà Nội xưa và nay. Đỗ Phấn là một trong những nhà văn đương đại viết nhiều về Hà Nội, bởi Hà Nội luôn in dấu trong kí ức của nhà văn. Vẻ đẹp tự nhiên của Hà Nội được nhà văn thể hiện ở nhiều góc nhìn về văn hóa, con người, xã hội cũ được bảo tồn và lưu giữ qua thời gian và không gian trải dài trong suốt quá trình phát triển của thành phố. Chúng tôi nhận thấy, trong sáng tác của Đỗ Phấn vẻ đẹp tự nhiên (nguyên sơ) của Hà Nội được tái hiện qua sự thứ nhận của chính tác giả về cảnh quan thủ đô (làng hoa, loài hoa), từ những con phố, khúc giao mùa đến các loài động vật, cũng như âm thanh đặc trưng của Hà Nội, không gian của thủ đô “ngàn năm văn hiến”. Nhớ lại kí ức về vẻ đẹp của Hà Nội xưa, nhà văn Đỗ Phấn tái hiện lại hình ảnh các làng hoa ở Hà Nội như làng hoa Nhật Tân, Ngọc Hà, Hữu Tiệp. Ngày xưa, đây là những làng hoa nổi tiếng bậc nhất của Việt Nam, ngày nay các làng hoa này tuy không còn nữa hoặc đã bị thu hẹp bởi các làng hoa đã dần trở thành các khu phố nhưng vẫn gợi nhớ về giấc mơ hoa của người Hà Nội. Đỗ Phấn đã tưởng tượng đến bầu không khí trong lành xưa kia của các làng hoa, nơi vốn đã làm đẹp cho phố phường Hà Nội một thuở. Trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn có hình ảnh những mảnh vườn đầy đủ các loài hoa xanh đỏ tím vàng đua nhau khoe sắc rực rỡ dưới ánh nắng lung linh. Bước vào làng hoa người đọc thấy mình như đang ở trong rừng hoa: hoa cẩm chướng, hoa bướm, hoa sushi, hoa hồng, hoa dã quỳ... tạo nên một sắc màu quyến rũ: “những mảnh vườn trồng hoa cẩm chướng và hoa bướm. Lung lay những cánh mỏng hồng tím đỏ như đàn bướm chao liệng giữa ngời ngợi xanh. Phải có những ô vườn nhỏ trồng hoa sushi vàng rượi như đàn trẻ ngoan ngoãn xếp hàng thấp lè tè bên những luống violet tím mỡ màng và đám hồng ta đầy gai góc. Rồi cũng phải có đâu đây thoang thoảng mùi ngọc lan mùi hoa hồng mùi dã quì” [49, tr.131].
  • 25. 22 Trong nhiều sáng tác của mình, Đỗ Phấn đã tái hiện lại kí ức về Hà Nội xưa với vẻ thanh bình, nguyên sơ, không khí trong lành, cây cối trong phố tranh nhau khoe sắc thắm. Mỗi con phố đặc trưng bởi từng loài cây, loài hoa. Môi trường sinh thái ở mỗi góc phố thật đẹp khiến cho người đi đường chỉ muốn dừng lại để ngắm các loài hoa. Vào khoảng tháng ba và tháng tám hàng năm là mùi hương thoang thoảng của cánh đồng lúa đang thời kì trĩu hạt, “mùi ung ủng chua của hoa gạo”, “mùi hoa dạ lan ngát hương vào ban đêm” [59, tr.75], vào tháng năm những con phố rợp bóng “hoa bằng lăng phảng phất tím” [47, tr.202] và “những chùm nụ chớm hồng” [47, tr.202] của hoa phượng bắt đầu lấp ló sau những tán lá xanh um. Khám phá tiểu thuyết của Đỗ Phấn, có thể nhận thấy, vẻ đẹp của Hà Nội được tác giả biểu hiện cụ thể qua từng con phố. Mỗi con phố có một vẻ đẹp riêng, mang đậm sắc thái của thủ đô. Bước vào thế giới tiểu thuyết Rong chơi miền kí ức của nhà văn, người đọc sẽ bắt gặp vẻ đẹp của con phố Hàng Hành, con phố này xưa kia vốn nổi tiếng là một con phố êm đềm, thơ mộng, cả một con phố dài đều rợp bóng hàng cây xà cừ cổ thụ. Từ xưa, con phố Hàng Hành cũng im ắng như mọi con ngõ nhỏ Hà Nội. Những con đường dẫn vào phố vẫn còn lưu thông hai chiều nhưng hầu như rất ít người đi vào con đường vắng vẻ ấy khiến cho con phố tĩnh lặng, yên bình. Trong khu phố ấy chúng ta vẫn còn bắt gặp những ngôi nhà kiến trúc Pháp nhỏ hẹp rêu phong và những mái nhà ngói một tầng rêu phong cũ kĩ. Sống trong khu phố yên ả, tĩnh lặng như thế con người cảm thấy cuộc sống ở giữa thủ đô giống như cuộc sống ở một thôn quê nào đó, với bầu khí quyển trong lành, ít khói bụi của ô tô, xe máy. Bằng tình cảm trân quý của mình đối với thủ đô, nhà văn tái hiện lại vẻ đẹp của Hà Nội trong từng khoảnh khắc giao mùa. Thành phố Hà Nội có bốn mùa rõ rệt trong năm, xuân hạ thu đông. Mùa nào cũng có những đặc trưng riêng, mùa nào cũng quyến rũ lòng người. Trong sự cảm nhận của nhà văn, mùa xuân là mùa của các loài cây đâm chồi nảy lộc, mùa của những con én gọi bầy sang xuân. Tiết trời Hà Nội vào xuân như một bức tranh thủy mặc, thơ mộng, lãng mạn. Không
  • 26. 23 khí, sinh quyển trong lành ở thành phố khiến cho muôn loài sinh sống và tồn tại. Trên phố là sắc màu của các loài hoa, dưới nước là hình ảnh của những “con chim én chao liệng trên mặt hồ cất tiếng kêu như nới rộng thinh không” [47, tr.353]. Tất cả hòa quyện vào nhau tạo nên một không gian thanh bình, yên tĩnh. Trong lòng yêu mến của nhà văn, Đỗ Phấn nhận thấy thành phố Hà Nội có những thời khắc giao mùa rất đáng chiêm ngưỡng và hưởng thụ. Không khí giao mùa trong năm khiến cho người Hà Thành như nuối tiếc từng mùa thu qua. Cái rét đầu đông đã đến, những cơn gió mùa bắt đầu về trên phố, vương trên mái tóc người Hà Nội để lấy đi nốt những ẩm ướt của mưa dầm. Đỗ Phấn từng trải qua nhiều năm ở Hà Nội, nhà văn cảm nhận được thời khắc cuối năm ở Hà Nội cũng là lúc tiết trời khá lạnh nhưng lại là lúc phù hợp cho một số loài cây phát triển tươi tốt. Không gian sống với nhiều cây xanh có thể xóa bớt những ưu phiền của cuộc sống con người, nuôi dưỡng tâm hồn con người Hà Nội. Chẳng hạn như cây bồ đề trên đường Trần Nhân Tông: “Hàng cây như một bức tường lá chắn ngang những bon chen sôi sục phố phường. Chẳng hiểu sao cứ mỗi lần đi qua bức tường lá ấy cũng thấy lòng thanh thản vợi đi rất nhiều những buồn phiền giăng mắc trong tâm tưởng” [49, tr.39]. Nhìn những chiếc lá cây bồ đề đung đưa trong gió cuối năm, con người như lạc vào cõi hư không, thấy tâm hồn mình thanh thản đến lạ thường: “như có tiếng chuông chùa huyễn hoặc vọng về từ cõi thanh cao u tịch. Những đứa trẻ tan trường ríu rít dưới gốc cây như những thiên thần bước ra từ lá. Những người Hà Nội chẳng có việc gì cũng vòng xe qua đoạn phố đông mà chật chội, mà hỗn hào đi đứng này chỉ để ngắm một chút sắc lá ngọt ngào như mật chảy”. [51, tr.64]. Vào độ cuối mùa đông là lúc tiết trời lạnh nhất trong năm nhưng lại là lúc giao thoa giữa đất trời và vạn vật. Cách đây mấy chục năm khi Hồ Hoàn Kiếm vẫn còn rậm rạp đầy cây cỏ, khi dân số Hà Nội chưa đông như bây giờ, con người chưa săn bắt các loài chim thì cứ đến cuối mùa đông, đầu mùa xuân là loài sâm cầm và le le kéo nhau về hội tụ trên mặt hồ. Cảnh vật lúc này thật đẹp, ở trên phố,
  • 27. 24 dưới hồ cảnh vật hài hòa nên thơ vô cùng: “hàng cây cơm nguội trút hết lá chỉ còn lại mớ cành khô ấy càng thêm mông lung huyễn hoặc. Mặt hồ xa xa loáng trắng nổi lênh đàn le le, sâm cầm tụ lại dập dềnh trên sóng” [58, tr.230]. Theo sự quan sát của nhà văn, cách đây mấy chục năm về trước, các loài chim di trú theo mùa ở thành phố rất nhiều. Đó là lúc thiên nhiên thuận lợi cho việc sinh sôi nảy nở và sinh sống của các loài chim. Lúc ấy, khi tự nhiên chưa tàn phá nhiều, vẫn còn không gian cho thiên nhiên hoang dã, diện tích ao hồ chưa bị thu hẹp, muôn loài chim vẫn bay về ao hồ của thủ đô vào mỗi mùa trong năm. Nhà văn hoài vọng về hình ảnh của thế giới các loài chim xưa kia cũng là sự tiếc nuối cho môi trường tự nhiên bị tàn phá, con người không còn được gần gũi với thiên nhiên, không còn nhìn thấy các loài chim quý hiếm nữa. Trong trí nhớ của tác giả thì khoảnh khắc thiên nhiên tươi đẹp luôn ẩn hiện: “Mùa di trú, chim sâm cầm, le le kéo về đậu trên mặt nước Hồ Tây thành những mảng lớn lênh đênh trên sóng. Giữa sương khói mặt hồ ẩn hiện thần tiên trong những lau lách lan man bên bờ. Cuối bãi sông Hồng kéo dài về phía Hà Nam là những con giang, con sếu co ro một chân, im lìm soi bóng nước như bức tượng xám. Những con quạ đen khề khà kêu khoái trá trên những cây gạo ngoài bãi sông cùng với chim khách, chim cà cuống. Những con chim trả quan hai màu đen trắng vẫy cánh ngó nghiêng rình mò dưới mặt nước cồn cào đỏ. Thỉnh thoảng cất một tràng dài như gõ kẻng” [59, tr.156]. Không chỉ trong tiểu thuyết mà trong tản văn Bâng quơ một thời Hà Nội, Đỗ Phấn cũng cho người đọc thấy được không gian sinh sống của các loài côn trùng, gợi nhớ lại những kí ức ngày xưa, khi đô thị Hà Nội còn nhiều ao hồ, sông ngòi, cây cối xanh tươi là nơi tồn tại của các loài sinh vật như xén tóc, bọ dừa, châu chấu, cánh cam, sâu róm, chuồn chuồn... chúng chao liệng dưới bầu trời đầy nắng và gió của thủ đô. Nhà văn đã quan sát tinh tế, miêu tả tỉ mỉ để nhận ra rằng chỉ có bầu không khí trong lành thì các loài côn trùng mới sinh sôi nảy nở nhiều như thế. Chúng như đang hòa mình không gian thiên nhiên tươi đẹp của thành phố, tạo cho thành phố một sắc màu khó quên.
  • 28. 25 Vẻ đẹp của Hà Nội xưa còn được hiện lên trong kí ức của nhà văn Đỗ Phấn với những âm thanh đặc trưng cho một thành phố êm đềm của những năm 60 ở thế kỉ trước, đó là tiếng leng keng của tàu điện. Thuở ấy, đứa trẻ nào ở Hà Nội cũng coi tàu điện là phương tiện đi lại thuận tiện nhất. Chúng đi chơi khắp Hà Nội đều bằng tàu điện. Tiếng tàu điện leng keng rộn ràng trên sáu tuyến đường nội thành dồn về ga chính Bờ Hồ bây giờ chỉ còn trong kí ức: “Phải đi tàu điện từ bờ hồ Hoàn Kiếm theo tuyến Thụy Khuê - Bưởi. Xuống tàu ở chỗ đường Quán Thánh đi bộ sang hồ. Từ đấy men theo bờ hồ mà đi mãi lên dốc đường Thanh Niên rẽ sang Yên Phụ đón tàu điện bến cuối cùng về lại bờ hồ Hoàn Kiếm” [58, tr.230]. Viết về vẻ đẹp của thủ đô Hà Nội, trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn còn là kí ức của không gian Hà Nội xưa cũ. Theo nhà nghiên cứu Trần Đình Sử “không gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của nghệ sĩ nhằm biểu hiện con người và thể hiện một quan niệm nhất định về cuộc sống” [11]. Trong kí ức của nhà văn, không gian Hà Nội là không gian của những gian hàng ở Bách hóa Tổng hợp. Ở đó, lũ trẻ tha hồ dạo chơi cả ngày mà không chán. Thời bấy giờ, các dịch vụ kinh doanh còn ít, nhu cầu mua bán của con người chưa nhiều nên bọn trẻ có thể bước chân vào Bách hóa để chơi, ngồi, nằm tùy ý. Kí ức ấn tượng nhất đối với nhà văn lúc ấy là chiếc lan can nơi “chúng có thể làm chiếc cầu trượt rất an toàn trơn tru... Dàn tủ kính trưng bày đồng hồ, mĩ nghệ trên tầng hai trên sàn lát gỗ lim lau bóng là nơi tụ tập thích thú nhất” [57, tr.312]. Ngoài ra, con đường Cổ Ngư xưa (đường Thanh Niên) cũng là một thời thương nhớ kỉ niệm tuổi thơ của bọn trẻ thủ đô với trò chơi: “dốc Yên Phụ là nơi thả xe đạp chạy xa hàng trăm mét mới hết đà... lũ lượt kéo lên Yên Phụ vào làng mua cá chọi chơi dịp nghỉ hè” [55, tr.224]. Với cái nhìn vừa chân thực vừa hài hước nhưng cũng rất khách quan, trong tiểu thuyết Rong chơi miền kí ức nhà văn đã tái hiện lại không gian Hồ Gươm của mấy chục năm về trước khi nguồn nước trong hồ chưa bị ô nhiễm, chưa bị con người vứt rác thải, túi ni lông xuống lòng hồ. Lúc ấy, Hồ Gươm, hồ Trúc Bạch
  • 29. 26 còn là sân chơi của trẻ con Hà Nội. Bọn trẻ được tắm ì õm vào những ngày hè oi bức. Thậm chí chúng còn “ngâm mình cả ngày dưới hồ cũng không sao” [58, tr.150]. Tuổi thơ của những đứa trẻ Hà Nội thường gắn liền với không gian Hồ Gươm. Xưa kia, Hồ Gươm vẫn còn mang bóng dáng của một chiếc ao làng hoàn toàn tự nhiên trong trẻo. Nguồn nước vẫn còn trong sạch, chưa bị ô nhiễm, nên nhiều loài cây cỏ, động vật sinh sống như: tôm, cá, ba ba... Hồ Gươm thời bấy giờ dưới cảm quan của Đỗ Phấn cảnh vật thiên nhiên và con người có mối quan hệ mật thiết với nhau. Hồ Gươm là phong cảnh, là nguồn sống, là chỗ chơi của bọn trẻ Hà Nội. Ngược lại, bọn trẻ gắn bó với Hồ Gươm suốt cả tuổi thơ với nhiều kỉ niệm khó phai. Đến nay, Hồ Gươm vẫn là một trong những thắng cảnh nổi tiếng ở Hà Nội, là nơi có nhiều ngôi đền, ngôi chùa linh thiêng, thơ mộng nhất thủ đô: “Hồ Gươm nước xanh leo lẻo, cây cầu Thê Húc mới sơn đỏ rực như một nét chấm phá tài tình trên bức tranh thủy mặc” [43, tr.76]. Từ xa nhìn lại, cảnh vật xung quanh Hồ Gươm như một bức tranh thủy mặc vừa thơ mộng, vừa thanh tịnh. Ven hồ có những búi cỏ lẫn vào rễ của cây đa rồi tỏa bóng xuống mặt nước. Trong tháp Hòa Phong có người bán sáo thổi lên những khúc nhạc quê da diết lòng người. Hàng năm cứ đến mùa hè, xung quanh bờ hồ có các loài hoa đua nhau khoe sắc: “Tháng năm, hoa phượng che rợp thân cầu Thê Húc sơn đỏ chói. Tháng bảy, những cây vông nem trổ hoa vàng như thắp lửa bên dưới chân tháp. Hoa lộc vừng tí tách rơi kết bè đỏ rực trên mặt nước thẫm xanh tháng bảy” [58, tr.222]. Hồ Gươm không chỉ là nơi gắn liền với truyền thuyết lịch sử mà nó còn mang trong mình một vẻ đẹp của tự nhiên duyên dáng giữa lòng Hà Nội. Đúng vậy, cứ mỗi mùa hè đến, từ trên cao nhìn xuống Hồ Gươm giống như một lẵng hoa giữa lòng thành phố. Xung quanh hồ có đủ các loại hoa: hoa lộc vừng, hoa phượng, hoa bằng lăng, hoa sữa... đan xen nhau đua nhau khoe sắc duyên dáng, thơ mộng quanh hồ. Đỗ Phấn đã cảm nhận vẻ đẹp của các loài hoa ở Hà Nội một cách tinh tế. Với khả năng quan sát và cảm nhận tinh tế, nhà văn thấy được chính bởi thiên nhiên trên những con phố đang được hưởng bầu không khí trong lành nên đã đem
  • 30. 27 lại cho thành phố những bông hoa tuyệt đẹp, làm cho sắc hoa ở Hà Nội thêm rực rỡ: “Những nụ bằng lăng trĩu chịt trên đường Thợ Nhuộm bắt đầu hé ra những cánh tím hướng lên bầu trời ngơ ngác xanh” [49, tr.215]. Đỗ Phấn thấy người Hà Nội rất ít khi được ngắm thủ đô trong khoảng không gian thanh bình, vắng lặng, không tiếng xe cộ ồn ào của phố phường, không bon chen tấp nập. Cũng có lúc, người đọc được dõi theo từng bước chân của nhà văn đi dọc con phố vào buổi sáng sớm của một ngày nào đó để thấy hết vẻ đẹp thiên nhiên ở thành phố nghìn năm tuổi này. Cảnh thiên nhiên thơ mộng được Đỗ Phấn cảm nhận vào lúc đêm khuya thanh tĩnh với không gian vắng lặng, người Hà Thành mới cảm thấy được vẻ đẹp tự nhiên của thành phố. Đó là hình ảnh lấp lánh của ánh trăng vàng trên mặt hồ tĩnh lặng gần chùa Trấn Quốc. Hình ảnh thiên nhiên thật đẹp: “chứa chan trên sóng nước Hồ Tây là ánh trăng sao động khẽ rùng mình trong heo may phảng phất mùi hoa huệ” [57, tr.89]. Đứng trước không gian thơ mộng đó, con người dường như quên đi hết vẻ mệt mỏi của cuộc sống hàng ngày ồn ào, náo nhiệt: “không còn vướng bận gì đến nhọc nhằn phố xá” [57, tr.90]. Khi ánh trăng lặn xuống mặt hồ, chỉ còn vương vấn “trên những lùm cây xa tít một vài đốm sáng lung lay nhung nhớ. Mặt hồ tím biếc dần hiện rõ. Đằng đông ánh nắng đã xôn xao trên những ngọn xà cừ chót vót xanh. Những nhấp nhô mái nhà, những ồn ào xe cộ đã bắt đầu phá vỡ không gian êm đềm” [57, tr.90]. Là người gắn bó và có nhiều kỉ niệm với mảnh đất Hà Thành, Đỗ Phấn cảm nhận được khoảnh khắc của từng con phố êm đềm trong đêm. Trong khoảng thời gian này, thành phố yên tĩnh đến bất ngờ. Mọi vật như được giao hòa với nhau tạo nên bầu không khí vô cùng tĩnh lặng. Chỉ có vài ngọn gió lang thang trên bầu trời kéo những chiếc lá khô xao xác cuốn. Xa xa thoang thoảng mùi dạ lan thơm đến ngất ngây. Khi các cửa hàng ở phố đã tắt hết đèn, dòng người qua lại trên đường ít đi, đôi khi còn tịnh không còn một bóng người, các đèn tín hiệu giao thông đã “uể oải nhấp nháy” [57, tr.124] là lúc đường phố tĩnh lặng nhất trong ngày. Đến năm
  • 31. 28 giờ sáng, thành phố bắt đầu lại ồn ào, sôi động cho một ngày mới. Tất cả “lại lùi vào kí ức nhường chỗ cho những lo toan kiếm tìm” [57, tr.125]. Trong hoài niệm của nhà văn, không gian Hà Nội còn là nỗi nhớ về cây cầu Long Biên. Nó không chỉ là phương tiện qua lại mà nó còn là nhân chứng lịch sử, là niềm tự hào của người dân Hà Nội. Đây là cây cầu thép đầu tiên nằm bắc ngang qua sông Hồng, nối hai quận Long Biên và Hoàn Kiếm của thành phố Hà Nội ngày nay. Nó được kĩ sư người Pháp thiết kế và xây dựng trong bốn năm từ 1898 - 1902 giống như một “con rồng hùng vĩ kiêu hãnh” [57, tr.297]. Với lũ trẻ Hà Nội lúc bấy giờ cũng coi cây cầu là một chỗ chơi thú vị. Cây cầu chứng kiến nhiều trò tinh nghịch của tuổi thơ. Lúc ấy, tự nhiên vẫn còn hoang dã, các loài động vật ở khu vực ruộng đồng gần đấy còn tồn tại nhiều. Bọn trẻ có thể hòa mình với tự nhiên mà sinh sống. Hạnh phúc nhất là vào những này hè oi bức đi bắt cà cuống trên những cánh đồng, thời gian ấy “cà cuống bay về rợp dưới đèn tha hồ mà bắt” [58, tr.297], rồi kỉ niệm về những chuyến vượt cầu, thả xe đạp xuống dốc đầy thú vị. Tuổi thơ của nhà văn gắn liền với không gian của Bờ Hồ Hà Nội. Trong sự quan sát và tái hiện sinh động của tác giả, người đọc như được đắm mình vào không gian thiên nhiên thơ mộng của Bờ Hồ. Không gian Bờ Hồ trong cảm nhận của Đỗ Phấn có đủ cả: mây, gió, trăng, hoa, nước, sắc màu. Cảnh vật thiên nhiên trên trời, dưới nước hòa quyện với nhau tạo nên một không gian tuyệt đẹp: “Mặt trời lặn xuống sau những rặng cây cối um tùm chỉ còn lại vài ba đốm vàng lang thang trên mặt hồ dậy sóng. Chim le le đạp nước cất cánh làm cho những ánh vàng tan tác xôn xao. Những cơn gió quẩn quanh lên đám bèo bập bềnh sát bờ đưa chiều vào đêm bằng đốm sáng của vài con đom đóm vẽ vòng vu vơ trên mặt nước tối. Bầu trời cao rộng nhấp nháy những vì sao sớm” [50, tr.114]. Trong tâm thức của nhà văn, nói đến vẻ đẹp của Hà Nội xưa, người đọc không thể quên vẻ đẹp của khu chợ Đồng Xuân và chợ Bưởi. Đây là hai khu chợ nổi tiếng của Hà Nội đến tận bây giờ. Ngày xưa, khi con người chưa tàn phá thiên
  • 32. 29 nhiên, nhiều người có niềm yêu thích chăm sóc cây cối và động vật, các loài cây được người ta bày bán rất nhiều ở chợ. Bọn trẻ Hà Nội sướng nhất là được ra chợ ngắm nhìn muôn loài hoa và muôn loài thú. Chúng coi mỗi buổi đến chợ là bước vào cả một thế giới thần tiên xem cả ngày không chán mắt. Cây cảnh được bày bán khắp hai bên đường, có đủ các loại: “cây trồng trong chậu và cây ươm bầu đất. Cây thế già cỗi và cây non tự nhiên. Các loài phong lan được khai thác từ rừng. Đuôi cáo, quế lan hương, phi điệp. Nhiều khóm đã có hoa xếp rải trên mặt đất như bán rau. Vài khóm móc lên thân cây xà cừ cổ thụ. Những bông phi điệp ngỡ ngàng tím lấp ló trong vàng tươi những tay cành um tùm rủ xuống” [50, tr.213]. Cũng viết về vẻ đẹp của thành phố Hà Nội, nhà thơ Trần Đăng Khoa đã viết lên những câu thơ ca ngợi cảnh đẹp đặc trưng của thủ đô Thăng Long “ngàn năm văn hiến”: “Hà Nội có Hồ Gươm/ Nước xanh như pha mực/ Bên hồ ngọn Tháp Bút/ Viết thơ lên trời cao”. Hà Nội với không gian yên bình, với vẻ đẹp của các di tích lịch sử đã tạo nên cho thủ đô có một vẻ đẹp và truyền thống lịch sử riêng biệt, làm nên nét đẹp văn hóa của đất Thăng Long kinh kì. Vẻ đẹp tự nhiên của Hà Nội được Đỗ Phấn thể hiện trong những cuốn tiểu thuyết giống như một bức tranh đủ màu sắc. Đúng như đánh giá của nhà phê bình văn học Hoài Nam: “Tiểu thuyết của Đỗ Phấn có những trang văn miêu tả thiên nhiên tươi đẹp, chúng giống như những bữa tiệc của màu sắc, âm thanh và ánh sáng, tràn đầy sức sống và chúng có đủ khả năng để thanh lọc tâm hồn cho những ai yêu thiên nhiên nhưng đang phải chịu cảnh ngập chìm trong khói bụi ô nhiễm môi trường đô thị. Điều đó, có khả năng mời gọi người đọc cùng suy ngẫm với tác giả về cuộc sống mà ta đang sống, đang phải đối mặt” [30]. Đọc những trang tiểu thuyết của Đỗ Phấn, nhớ lại vẻ đẹp của một Hà Nội xưa, người đọc có thể hình dung ra một không gian Hà Nội cách đây mấy chục năm về trước với bao vẻ đẹp thơ mộng. Một Hà Nội thanh bình, yên lặng với từng hàng cây, góc phố, khu chợ, Bờ Hồ... đã tạo nên nét văn hóa cổ kính của thủ đô.
  • 33. 30 Không gian thủ đô với bầu không khí trong lành đã trở đi trở lại trong những trang tiểu thuyết của nhà văn. Không gian ấy bây giờ nhiều khi chỉ còn trong kí ức của người Hà Nội. Vẻ đẹp của Hà Nội xưa thẫm đẫm tình cảm thiết tha, trìu mến và trân quý của nhà văn. 2.2. Tự nhiên bị tàn phá và những ám ảnh sinh thái Môi trường tự nhiên là bao gồm tất cả các sinh vật sống và không sống xảy ra trên trái đất, là không gian chúng ta sinh sống, là nguồn nước chúng ta uống, là bầu không khí chúng ta hít thở, là âm thanh chúng ta nghe, là khung trời trong ô cửa sổ, là cái cây ở trước nhà, là khoảng không gian bao bọc chúng ta hằng ngày... Ngày nay, con người đang tàn phá môi trường sống của chính mình bằng nhiều cách, vô tình hay cố ý đều đã và đang làm biến dạng hành tinh. Chính sự thiếu ý thức của con người sẽ hủy diệt môi trường tự nhiên mà chúng ta đang sống. Ở Việt Nam, sự tàn phá thiên nhiên do nhiều nguyên nhân khác nhau, ảnh hưởng lớn đến môi trường sống của con người, nhất là những người dân đang sinh sống trên mảnh đất thủ đô Hà Nội. Đã có nhiều nhà văn đề cập đến vấn đề này trong các sáng tác của mình. Trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn, tự nhiên bị tàn phá, bị hủy hoại vừa do chiến tranh, vừa do chính con người gây nên. Sự tàn phá ấy đã làm mất đi vẻ đẹp thanh bình vốn có xưa kia của thủ đô “ngàn năm văn hiến”. 2.2.1. Sự tàn phá tự nhiên do chiến tranh Trong lịch sử dân tộc, Hà Nội là trung tâm phát triển về mọi mặt của nước Việt Nam, đồng thời cũng là thành phố thường xuyên bị giặc ngoại bang xâm lược tàn phá. Từ xa xưa, thành phố Hà Nội đã bị giặc Ân xâm chiếm, qua bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước kinh thành Thăng Long đã trải qua nhiều trận chiến của triều đình Hán, Đường, Nguyên Mông, Minh, Thanh, Pháp, Nhật, Mĩ. Nhất là những năm 60,70 của thế kỉ XX, Hà Nội đã phải quyết liệt đánh trả các cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của Mĩ. Đặc biệt năm 1972, mười hai ngày đêm chiến đấu trên không của quân và dân Hà Nội đã khiến cho giặc Mĩ phải khiếp sợ. Trong chiến tranh người dân Hà Nội bị thiệt hại nặng nề về người và của: cầu
  • 34. 31 Long Biên bị gãy đứt nhiều đoạn, phố Khâm Thiên bị xóa sạch trong một đêm, bệnh viện Bạch Mai, sân bay, nhà ga, cầu đường ở Hà Nội đều là mục tiêu đánh phá của đế quốc Mĩ, những trận mưa bom dội xuống Hà Nội đã làm chết hàng nghìn người. Nỗi đau của người dân thành phố trong chiến tranh không sao kể xiết. Chiến tranh qua đi để lại bao nỗi đau về vật chất và tinh thần của người dân Việt Nam. Các tác phẩm văn chương ra đời đã phản ánh nỗi đau đó. Từ văn học dân gian đến văn học đương đại đều có những tác phẩm ghi lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Trong văn học dân gian có thể kể đến các tác phẩm: Thánh Gióng; An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy... Văn học trung đại, các tác phẩm như : Bình Ngô đại cáo, Quân trung từ mệnh tập của Nguyễn Trãi; Chạy giặc, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu,... Văn học hiện đại với một số tác phẩm: Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc; Cỏ lau, Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu; Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi của Nguyễn Tuân; Sống mãi với thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng; Bất khuất của Nguyễn Đức Thuận; Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 của Trần Mai Hạnh... Văn học đương đại, tác phẩm tiêu biểu như: Tàn đen đốm đỏ của Phạm Ngọc Tiến; Đỉnh khói của Phạm Ngọc Thuần; Hà Nội, một thời tuổi trẻ của Trần Văn Thụ; Thương thế ngày xưa của Lê Minh Hà;... đều tái hiện lại nỗi đau mất mát của người dân Việt Nam trong chiến tranh. Từng chứng kiến sự tàn phá bởi cuộc chiến tranh ác liệt của đế quốc Mĩ nên trong những trang viết của mình, nhất là ở tiểu thuyết, nhà văn đã tái hiện lại sự tàn phá khốc liệt của chiến tranh do đế quốc Mĩ gây ra. Tuổi thơ của nhà văn đã trải qua thời kì chiến tranh ở thủ đô nên ông thấu hiểu sức tàn phá của chiến tranh, nhất là sự tàn phá bởi bom B52 của đế quốc Mĩ. Trong tiểu thuyết nhà văn đã tái hiện lại sự tàn phá khủng khiếp của những trận bom B52 ở cây xăng Đức Giang, Cầu Long Biên, Bờ Hồ, Nhà Hát lớn... cụ thể như ở cây xăng Đức Giang bên kia bờ sông Hồng sau hai tiếng đồng hồ oanh tạc của máy bay Mĩ vào năm 1972 xung
  • 35. 32 quanh khu vực ở cây xăng và những vùng lân cận bị thiêu cháy hết, nhà cửa, ruộng vườn, làng mạc đều bị thiêu cháy hết. Sau chiến tranh không khí nơi đây ô nhiễm khủng khiếp, những cuộn khói đen cao nghi ngút “phủ kín cả bầu trời ảm đạm” [52, tr.204]. Chiến tranh không chỉ làm cho người dân thủ đô mất đi những người thân, làm tan hoang nhà cửa, ruộng vườn mà còn làm cho đời sống tự nhiên và con người bị đe dọa từng ngày, từng giờ. Chiến tranh đã làm cho bộ mặt phố phường thay đổi nhiều. Với sự quan sát và chiêm nghiệm, nhà văn Đỗ Phấn đã nhận thấy: chiến tranh không chỉ ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe, cuộc sống của con người, đến môi trường sinh thái mà còn làm mất thẩm mĩ cảnh quan đô thị. Hình ảnh của thành phố đã thay đổi quá nhiều sau mỗi lần chiến tranh tàn phá, người dân thành phố lại sửa sang lại: “chiếc đồng hồ cổ La Mã ở ngoài sảnh chính của sân ga Hà Nội” [57, tr.133], nhà Bách hóa Tổng hợp cứ sửa đi sửa lại nhiều lần không còn dấu vết của vẻ đẹp xưa nữa. Không chỉ quan sát từ đời sống hiện tại, nhà văn Đỗ Phấn đã có những cảm nghiệm về quá khứ, ở đó cuộc sống con người và động vật bị đe dọa trong chiến tranh khiến “những chuồng thú ở Hà Nội cũng không còn dấu vết” [51, tr.62]. Cùng một khu phố ở Hà Nội, theo thời gian dưới tác động của chiến tranh Đỗ Phấn nhận thấy có sự khác biệt. Khi chưa có chiến tranh, ở ngoài mặt phố Khâm Thiên vẫn còn tồn tại nhiều ngôi nhà lá thông sang tận Xã Đàn và Hàng Bột, là nơi buôn bán sầm uất, là nơi sinh hoạt của người dân. Trong chiến tranh, khi những trận bom B52 năm 1972 của Mĩ đi qua làm cho người dân phải đối mặt với sự hủy diệt: “cả dãy phố đã bị xóa sạch không còn một dấu vết gì nữa” [57, tr.47] trong đêm 26/12. Cuộc sống của người dân thủ đô lại một lần nữa phải đối mặt với sự hủy diệt. Ngày nay, khu phố Khâm Thiên đã hoàn toàn đổi khác do quá trình đô thị hóa, dân số tăng nhanh, diện tích ao hồ bị thu hẹp lại, cuộc sống của người dân đã chuyển dần thành “phố” hóa, môi trường ngày càng ô nhiễm do sinh hoạt của con người, bởi: “người nhập cư kéo về đông đúc chen chúc trong những mảnh đất trống ngày một hẹp đi. Sông hồ ao ngòi bên trong bị lấp hết đi” [57, tr.47].
  • 36. 33 Mỗi lần bom B52 tàn phá, tài sản của nhân dân không còn nữa, nhà cửa, của cải, trâu bò bị cháy rụi hết. Bên cạnh đó, bầu không khí cũng bị ô nhiễm nặng nề, bầu trời nghi ngút khói, thậm chí người chết cũng không yên thân, bởi những chiếc quan tài bị bom xới đi xới lại nhiều lần: “những chiếc quan tài dựng đứng cả trên miệng hố bom. Có cái hở hoác cả tấm vải liệm ố vàng” [51, tr.266]. Chiến tranh không chỉ hủy diệt sinh thái tự nhiên mà chiến tranh còn làm tổn hại nghiêm trọng tinh thần của con người. Viết về vấn đề chiến tranh tàn phá môi trường sinh thái, trong sáng tác của Ngọc Giao là nỗi xót xa đau đớn hằn trên khuôn mặt của những người nông dân. Đó là gia đình Xã Bèo vốn đã nghèo túng, nhờ chăm chỉ làm ăn gia đình anh tậu được con trâu, mua được vài sào ruộng, tậu được thêm mảnh vườn bương nữa. Niềm vui chưa kịp hưởng thì chiến tranh đã cướp đi hết: ruộng vườn, nhà cửa, trâu bò bọn giặc đã “đạp séo tan tành” [16, tr.23] khiến cho Xã Bèo khiếp sợ, đau đớn vô cùng: “Anh ngao ngán thấy rằng binh lửa rồi sẽ tới, thui trụi, tàn phế hết, huống hồ là mấy chiếc măng non” [16, tr.13]. Còn trong tác phẩm Giấc mơ ông lão vườn chim của Anh Đức, bom đạn của kẻ thù không chỉ tàn phá hàng ngàn hecta rừng mà còn làm mất không gian quy tụ của chim chóc, mất chỗ ẩn náu của đội quân du kích. Chứng kiến cảnh giặc tàn phá quê hương, nhà thơ Nguyễn Đình Thi không khỏi xót xa về những mảnh ruộng, mảnh vườn của người dân bị giặc giày xéo: “Ôi những cánh đồng quê chảy máu/ Dây thép gai đâm nát trời chiều” [67]. Hoặc trong tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh sự khốc liệt của chiến tranh khiến cho cả khu rừng phải gánh chịu những tổn thất nặng nề: “rừng bị tưới đẫm xăng đặc, cuồn cuộn lửa luyện ngục... Trên đầu trực thăng rà rạp các ngọn cây và gần như thúc họng đại liên vào gáy từng người một mà bắn. Máu tung xối, chảy tóe, ồng ộc, nhoe nhoét. Trên cái trảng hình thoi ở giữa truông, cái trảng mà nghe nói đến ngày nay cỏ cây vẫn chưa lại hồn để mọc lên nổi hồi đó la liệt xác người bị đốn, thân thể dập vỡ, tanh bành” [31, tr.11].
  • 37. 34 Mỗi một tác phẩm là một thông điệp gửi đến người đọc về sự tàn phá hủy diệt của chiến tranh. Nhà văn Đỗ Phấn đã tái hiện lại qua những trang tiểu thuyết để người đọc thấy được những kí ức không thể nào quên về hậu quả của chiến tranh. Chiến tranh đã tiêu diệt cả cuộc sống, tàn phá cả môi trường sinh thái của cư dân thành phố. Vì vậy, sáng tác của Đỗ Phấn cảnh báo con người về vấn đề sinh thái: vì sự sống bình yên của con người, của sinh vật trên trái đất loài người hãy chấm dứt mọi sự hủy diệt, chấm dứt bom đạn chiến tranh. 2.2.2. Con người tàn phá tự nhiên đô thị Từ lâu Hà Nội luôn là nguồn cảm hứng bất tận trong hội họa, thi ca. Mỗi hàng cây, góc phố đã tạo nên vẻ đẹp cổ kính văn hóa cho Hà Nội. Ngày nay, ô nhiễm môi trường đang hoành hành nghiêm trọng khiến cho nhiều vẻ đẹp tự nhiên của Hà Nội chỉ còn trong kí ức. Theo các nhà nghiên cứu về môi trường thì Hà Nội là một trong những thành phố ở nước ta đang bị ô nhiễm nghiêm trọng về mọi mặt: ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm không khí đến mức báo động. Sự ô nhiễm này chủ yếu là do con người tàn phá, tác động vào tự nhiên. Hà Nội là thành phố đang phát triển và ngày càng đông đúc nên khói bụi tràn ngập khắp mọi nơi, tiếng ồn diễn ra suốt ngày đêm. Thành phố đang dần vắng bóng những hàng cây xanh, thêm vào đó nhiều nhà cao tầng, dần vắng bóng những mặt hồ trong vắt, thay vào đó là những bãi rác khổng lồ. Thành phố chỉ cần nắng lên là mặt đường đã thấy bỏng rát, hễ mưa to là nước ngập đến lưng thềm. Nhìn chung môi trường không khí và nguồn nước nhiều nơi trong thành phố đang bị ô nhiễm nghiêm trọng. Trong văn chương đã có nhiều tác phẩm viết về việc con người tàn phá tự nhiên một cách không thương tiếc làm cho môi trường tự nhiên mất đi vẻ đẹp vốn có xưa kia, đồng thời còn làm ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của con người (Thập giá giữa rừng sâu của Nguyễn Khắc Phê; Ngổn ngang phố xá của Nguyễn Nhật Ánh; Những khoảng xanh Sài Gòn của Huỳnh Như Phương; Khói trời lộng lẫy của Nguyễn Ngọc Tư; Phố của làng của Dạ Ngân; Lên núi thả mây của Lê Văn Thao;...)
  • 38. 35 Đỗ Phấn là nhà văn có tình cảm đặc biệt với Hà Nội, ông viết về Hà Nội bằng tất cả tình yêu và sự trân quý của mình. Ông xót xa vô cùng khi thành phố “ngàn năm văn hiến” đã bị con người tàn phá một cách nhanh chóng làm cho thành phố mất đi vẻ đẹp tự nhiên, ảnh hưởng đến môi sinh và cuộc sống của con người. Nghiên cứu tiểu thuyết của Đỗ Phấn, chúng tôi nhận thấy sự khai thác tự nhiên quá mức đã làm cho Hà Nội mất đi diện tích canh tác, mất đi các làng hoa, hệ thống cây xanh,... thay vào đó là những tòa nhà cao ốc, những chung cư hiện đại, những trung tâm mua sắm, những dự án văn phòng... mọc lên san sát để phục vụ cho nhu cầu cuộc sống hiện tại của người dân. Theo dòng thời gian, nhà văn Đỗ Phấn nhận thấy: bắt đầu từ những năm đổi mới, do quá trình đô thị hóa nên mọi thứ trong thành phố được người ta thay đổi, xóa bỏ nhiều, thay vào đó là những ngôi biệt thự, những tòa nhà lớn mọc lên để phục vụ nhu cầu cuộc sống ngày càng đông của cư dân thành phố. Xưa kia, khi phố xá chưa phát triển, xung quanh thành phố còn nhiều cánh đồng lúa “trải rộng từ Thanh Oai qua Mỗ Lao, Mễ Trì, Mĩ Đình, Dịch Vọng, Cổ Nhuế” [57, tr.206]. Ngày nay, khi đô thị phát triển “phố phường chật hẹp người đông đúc” (Trần Tế Xương) thì các cánh đồng lúa đã bị thu hẹp dần, thay vào đó là chung cư cao cấp, hiện đại, các dự án văn phòng mọc lên ngày càng nhiều, diện tích trồng lúa ngày một thu hẹp dần khiến cho nhiệt độ ở khu vực này cũng ngày một nóng lên do hệ thống bê tông, hiệu ứng nhà kính. Những chiêm nghiệm của nhà văn Đỗ Phấn cho thấy: trong vòng khoảng hơn chục năm lại đây do tốc độ đô thị hóa, các làng hoa Nhật Tân, Ngọc Hà, Hữu Tiệp, Nghi Tàm... không còn nữa, bây giờ đã là các con phố trong nội thành Hà Nội. Nhà cửa cao tầng, biệt thự mọc lên san sát, nhiều con đường được mở rộng và đổ bê tông sạch sẽ, không còn dấu vết gì của các ngôi làng hoa ngày xưa nữa. Ngoài ra, các ngôi làng ở quanh Hà Nội cũng có sự thay đổi rõ rệt làm mất dần vẻ đẹp nguyên sơ vốn có của nó, không còn bóng dáng của những khóm chuối, những bụi tre, bụi trúc mà thay vào đó là “những ngôi nhà cao tầng hiện đại với