SlideShare a Scribd company logo
1 of 92
1
MỞ ĐẦU
1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài
1.1.Giễu nhại với tư cách là một thủ pháp nghệ thuật đặc hiệu đã xuất hiện từ lâu và
sớm được các nhà nghiên cứu quan tâm nhưng tập trung nhất trong công trình của
các nhà Hình thức luận Nga như Bakhtin, Genette, Linda Hucheon.v.v. Theo hầu
hết giới nghiên cứu, dù nhìn từ phương diện nào thì giễu nhại cũng có hai đặc điểm
chính: Nhại và giễu, tức bắt chước và châm biếm. M.Bakhtin đã xem giễu nhại là
“nói bằng giọng của kẻ khác” nhưng đưa vào đó một khuynh hướng đối lập hẳn với
khuynh hướng nghĩa của lời người đó. Giọng thứ hai, sau khi chuyển vào trong lời
nói của kẻ khác thì xung đột thù địch với chủ nhân của nó và “buộc nó phải phục vụ
cho mục đích đối lập của mình”[11,tr187]. Bằng lời văn giễu nhại, các tác giả đã
làm đảo lộn những cái gì gọi là nghiêm túc, lột bỏcái hào nhoáng để trơ ra cái giả
dối, cái lố bịch, cái đáng cười. Đó là cách giải thiêng trong văn học. Giễu nhại vừa
lột tả được một phần bản chất của đối tượng, vừa dung hợp được cái bác học của
suy tư với cái suồng sã của văn hóa bình dân. Và với lối tự nhại, văn chương chẳng
những là sự hoài nghi về các trật tự đời sống mà còn là sự nghi ngờ chính những
khả năng, sứ mệnh mà người ta thường đặt ra cho nó. Giễu nhại chôn sâu cái cũ để
gieo hạt mầm cho cái mới đâm chồi, đó cũng là điều tất yếu của lịch sử và văn học.
1.2.Tiểu thuyết là thể loại có sức dung chứa lớn, là thể loại chủ đạo của văn học. Nó
thể hiện nhiều ưu thế trong việc chiếm lĩnh đời sống cũng như tâm hồn con người.
Vì vậy, các nhà văn, các nhà lý luận, phê bình đã nhận ra rằng “không thể khuôn
tiểu thuyết vào một số nguyên tắc cứng nhắc, bất biến, mà chính là phải mở ra
những khả năng tiềm tàng vốn có của thể loại này”. Có như vậy, văn học mới có
thể phản ánh được cả chiều rộng lẫn bề sâu phức tạp và phong phú của cuộc sống
đương đại. Vào những thập niên cuối thế kỉ XX, một thế hệ nhà văn đã nỗ lực cách
tân tiểu thuyết và có những đóng góp quan trọng vào quá trình hiện đại hóa văn
xuôi Việt Nam vốn đã được khởi động từ những năm đầu thế kỉ XX. Cùng với Bảo
Ninh, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh, Nguyễn Việt
Hà là người luôn trăn trở tìm kiếm những hình thức biểu đạt nghệ thuật mới mang
2
đậm cảm quan hiện đại và hậu hiện đại. Với khát vọng theo đuổi nghệ thuật một
cách say mê và với sức viết mạnh mẽ dồi dào, vốn liếng giàu có phong phú, trải qua
hành trình sáng tạo gần hai mươi năm, Nguyễn Việt Hà đã tạo nên một sự nghiệp
vững chải, tạo được dấu ấn riêng trong giới nghệ sĩ cũng như nhiều thế hệ độc giả.
Anh xứng đáng là gương mặt tiêu biểu của văn xuôi đương đại Việt Nam.
1.3. Các tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà từ Cơ hội của chúa, Khải huyền muộn đến
Ba ngôi của ngườiđã thu hút được sự quan tâm chú ý của giới nghiên cứu, phê bình
và những người yêu văn chương. Nó đã tạo ra làn sóng phê bình tương đối sôi động,
tạo nên những“hiện tượng đời sống” trong văn học Việt Nam. Đây là những tác
phẩm nghệ thuật độc đáo, thể hiện ý thức đổi mới về cảm quan hiện thực và về cách
viết, đó là lối ưa trào tiếu, giễu nhại, mở ra một hướng tiếp cận mới cho người đọc.
Những năm gần đây, tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà đã trở thành đối tượng của nhiều
công trình nghiên cứu khoa học,chúng được khám phám theo nhiều góc nhìn khác
nhau như góc nhìn văn hóa, liên văn bản, tự sự học và thi pháp học.v.v. Đặc biệt với
thủ pháp giễu nhại, nhà văn đã tạo nên một phong cách rất riêng, một lối viết rất lạ
so với các nhà văn cùng thời. Không giống với giọng nhại của các nhà tiên phong
buổi đầu đổi mới thường xót xa, bi đát hay cay độc mà nhại trong tiểu thuyết của
Nguyễn Việt Hà với cảm hứng cười cợt, châm biếm, hài hước nhằm phê phán, tố
cáo đả kích về sự nhốn nháo, dung tục, pha tạp của đời sống thị dân nói chung và
Hà Nội nói riêng. Ở đây, giễu nhại được nhà văn Nguyễn Việt Hà sử dụng không
chỉ là một thủ pháp nghệ thuật đơn thuần mà còn trở thành một ý niệm chi phối đến
cả quá trình sáng tác, đặc biệt là trong việc tổ chức thế giới hình tượng nghệ thuật.
Điều đó được thể hiện rõ nhất trong tiểu thuyết Ba ngôi của người. Tiếp cận tiểu
thuyết Ba ngôi của ngườicủa Nguyễn Việt Hà từ phương diện nghệ thuật giễu nhại,
theo người viết là một hướng đi có hiệu năng. Qua đó, giúp chúng ta có được cái
nhìn toàn diện, sâu sắc về thế giới nghệ thuật của Nguyễn Việt Hà để từ đó làm cơ
sở cho việc hiểu đúng về nhà văn cũng như những giá trị nội dung và nghệ thuật
trong các tác phẩm của ông. Hơn thế nữa, cũng từ đây thấy được vị trí và đóng góp
của ông đối với tiến trình văn học hiện đại Việt Nam trên một phương diện cụ thể là
nghệ thuật giễu nhại.
3
2. Lịch sử vấn đề
Trong phạm vi tư liệu khảo sát được, người viết tạm phân thành hai loại:
Những công trình có liên quan trực tiếp và gián tiếpđến đề tài sau:
- Những công trình liên quan gián tiếp đến đề tài
Đây là các công trình bàn về nghệ thuật giễu nhại nói chung và cách tân tiểu
thuyết của Nguyễn Việt Hà, nhưng đã truyền cho chúng tôi nhiệt hứng say mê, tìm
tòi và những gợi ý quý báu để tiến hành nghiên cứu đề tài. Cụ thể là những bài viết
sau đây:
*Những công trình, bài báo bàn về giễu nhại
Aristotle có câu nói nổi tiếng “người là sinh vật duy nhất biết cười”. Tiếng
cười trong văn học được biểu hiện dưới nhiều hình thức: hài hước, giễu nhại, trào
lộng, trào phúng, trào tiếu nhằm mỉa mai, châm biếm. Nhiều công trình nghiên cứu
văn học Việt Nam sau 1975 đã đề cập đến cái hài trong tác phẩm với cảm quan trào
lộng, trào tiếu, giải thiêng những giá trị cũ đã từng ăn sâu, bám rễ trong đời sống
văn học và tâm thức dân tộc.
Nhà nghiên cứu Lã Nguyên trong bài “Nhìn lại những bước đi, lắng nghe
những tiếng nói”đã khẳng định đặc điểm nổi bật của văn học Việt Nam sau 1975
với: “Giọng lu ló sừng sộ, tiếng gầm gào cuộn réo trong văn học thời kì đổi mới
không thể cất lên thành tiếng hát. Cái vô lí, cái phi lí, chất văn xuôi và vẻ đẹp của
đời sống phồn tạp chỉ có thể hóa thân vào tiếng cười trào tiếu, giễu nhại để văn học
thế sự biến thành tiếng nói nghệ thuật”. Hình như giễu nhại đã trở thành kiểu quan
hệ đời sống mang phong cách thời đại.Thời xa vắng của Lê Lựu là một tiểu thuyết
giễu nhại độc đáo. Nó không cần sử dụng những thủ pháp lạ hoá quen thuộc như
phóng đại, hay vật hoá hình ảnh con người để làm nổ ra tiếng cười. Nó chỉ đơn giản
thuật lại những chuyện “thật như đùa” mà đã có thể tạo ra được hình tượng giễu
nhại. Chưa mấy ai quên tiếng cười giễu nhại trong tiểu thuyết Ly thân của Trần
Mạnh Hảo. Có thể nghe thấy tiếng cười giễu nhại thấm đẫm cảm hứng trào lộng
trong nhiều truyện ngắn, tiểu thuyết của Ma Văn Kháng, Nguyễn Quang Thân,
Nguyễn Khắc Trường… Nhưng hấp dẫn nhất vẫn là tiếng cười trào tiếu, giễu nhại
trong sáng tác của Phạm Thị Hoài và Nguyễn Huy Thiệp. Trong sáng tác của Phạm
4
Thị Hoài, người kể chuyện thường xuất hiện ở ngôi thứ nhất, xưng “tôi”. Ở vị thế
của cái “tôi”, người kể chuyện của Phạm Thị Hoài là nhà dân chủ vĩ đại của ngôn
từ. Phạm Thị Hoài trao gửi cho người kể chuyện một cách tài tình, tinh tế thứ ngôn
ngữ bỗ bã, suồng sã. Nhiều nhà văn cũng gửi vào cửa miệng nhân vật lời nói suồng
sã như thế. Nó giễu nhại tất cả các lời nói chính thống, quan phương, thứ lời nói có
vẻ nghiêm túc, nhưng chứa đựng bên trong rất nhiều sự giả dối. Các nhà nghiên
cứu, phê bình đã nói rất nhiều về hiện tượng giễu nhại trong sáng tác của Nguyễn
Huy Thiệp. Nhiều truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp là hình tượng giễu nhại của
các thể loại ngôn từ đã bị biến thành lời nói phong cách hóa (www.talawas.org).
Trong bài viết Sự đa dạng về bút pháp nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam
thời kỳ đổi mới,Mai Hải Oanh đề cập đến bút pháp trào lộng, giễu nhại trong tiểu
thuyết Việt Nam thời kì đổi mới. Mai Hải Oanh cho rằng, sự xuất hiện của bút pháp
trào lộng ngày càng nhiều trong tiểu thuyết đương đại xuất phát từ ba nguyên nhân cơ
bản. Thứ nhất, có ý nghĩa cân bằng sinh thái văn học sau một thời gian dài văn học ta
quá nghiêm trang; thứ hai, là một nhu cầu giải tỏa áp lực của đời sống hiện đại; thứ
ba, thể hiện tinh thần dân chủ hóa trong văn học. Sau đó, tác giả bài viết đã đề cập
đến các tác phẩm đã sử dụng bút pháp này thành công như Thời xa vắng (Lê Lựu),
Thiên sứ (Phạm Thị Hoài), Cõi người rung chuông tận thế và Mười lẻ một đêm (Hồ
Anh Thái), Thượng đế thì cười (Nguyễn Khải), T. mất tích (Thuận)…
(http://vietvan.vn/vi/bvct/id265)
Trong bài viết Giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại,
Thái Phan Vàng Anh đã đề cập đến giọng điệu giễu nhại, trào phúng trong tiểu
thuyết giai đoạn này. Tác giả cho rằng: “tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 ngày càng
nhạt dần về sử thi, tiếp xúc thô bạo đến suồng sã về hiện thực, cái bi không còn dè
dặt, tinh thần hài hước gia tăng. Cái nhìn phi thành kính, suồng sã, giễu nhại của
chất tiểu thuyết đã quy định một giọng điệu riêng của tiểu thuyết đương đại. Thái
Phan Vàng Anh chỉ ra giọng điệu hài hước trong tiểu thuyết đương đại có nhiều cấp
độ khác nhau, có giọng châm biếm nhẹ nhàng nhưng sâu cay, có giọng trào lộng,
châm chích, có giọng tự trào, có giọng giễu nhại. Nhiều tác phẩm đã để lại ấn tượng
sâu sắc nhờ người kể chuyện “biết đùa”. Theo tác giả giọng điệu trào phúng, hài
5
hước đã trở thành một giọng chủ, đem lại sắc thái mới cho văn học nói chung và
tiểu thuyết đương đại nói riêng” (http://vanhoanghean.com.vn).
Với bài viết Hài hước, trào tiếu, sân khấu hóa trong tiểu thuyết gần đây,
Nguyễn Văn Tùng đã đề cập hai tiểu thuyết được viết theo lối hài hước, trào tiếu và
sân khấu hóa, đó là cuốn SBC là Săn bắt chuột ( Hồ Anh Thái) và 3339[Những
mảnh hồn trần] (Đặng Thân). Tác giả đã chỉ ra:“yếu tố trào tiếu, hài hước thể hiện
trong hai tác phẩm này từ bình diện nội dung phản ánh và nghệ thuật biểu hiện. Cụ
thể SCB là Săn bắtchuột, đối tượng giễu nhại của Hồ Anh Thái là rất nhiều loại
người trong xã hội: từ nhà thơ, nhà báo, đến đại gia, chân dài…Cả một thế giới
nhân vật hiện lên với sự lố lăng kệch cỡm. Ở Những mảnh hồn trần, tính giễu nhại
thể hiện đậm nét trong việc Đặng Thân tái hiện những vấn đề nóng của đời sống,
khai thác ở nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau” (http://vannghetre.com.vn).
*Những công trình, bài báo liên quan đến tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà
Ở bài viết Nghệ thuật tổ chức điểm nhìn trong tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi
mới tác giả Mai Hải Oanh đề cập đến việc cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết
Nguyễn Việt Hà là hiện tượng “gấp bội điểm nhìn” ở đó một nhân vật được nhìn
cùng lúc với nhiều điểm nhìn khác nhau và kĩ thuật lồng tiểu thuyết với kết cấu độc
đáo (http://d.violet.vn) .
Cùng vấn đề này trong bài viếtKhuynh hướng lạ hóa trong tiểu thuyết, truyện
ngắn Việt Nam đương đại- một số bình diện tiêu biểucủa Nguyễn Thành, tác giả đã
đề cập đến kết cấu tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà theo lối truyện lồng truyện và có sự
tổng hợp thể loại (http://vanhaiphong.com).
Đỗ Ngọc Thạch trong tiểu luận Vài đặc điểm văn xuôi hiện đạilại xem tiểu
thuyết của Nguyễn Việt Hà là cái nhìn về một đời sống hỗn loạn, đổvỡ với sự thay
đổi điểm nhìn và ngôi kể liên tục, tính phân mảnh của thể loại, biến tiểu thuyết
thành trò chơi ngôn ngữ (http://bichkhe.org).
Đại Lãi, trong bàiTiểu thuyết Nguyễn Việt Hà và thi pháp tác giả nhận xét
rằng: “Nghịch dị và giễu nhại không phải cái mới hoàn toàn của văn chương hậu
hiện đại. Vốn, nó đã xuất hiện từ lâu trong truyền thống. Tuy nhiên, để thể hiện
“thái độ hậu hiện đại”, chúng thường xuyên được sử dụng, không chỉ như những thủ
6
pháp, mà quan trọng hơn, là một yếu tính: trở thành hình thức của thế giới quan,
một “nguyên tắc” tổ chức văn bản. Như thế, điều mà nền văn chương đậm tính “sử
thi” trước đó chưa cho phép nghệ sĩ tự do khai thác, thì ở đây, lại được nhiều nghệ
sĩ tô đậm. Đặc biệt không giống với giọng nhại ở các nhà tiên phong buổi đầu đổi
mới, thường xót xa bi đát, cay độc (như Nguyễn Huy Thiệp chẳng hạn), quãng cách
về thời thế khiến nhại trong văn Nguyễn Việt Hà gắn nhiều hơn với bỡn cợt, với cái
giễu. Chống lại sự đơn điệu, nhại trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà vừa “lột tả”
được một phần bản chất (có thật) của đối tượng, vừa dung hợp được cái bác học của
suy tư với cái suồng sã của văn hoá bình dân và sức mạnh vô địch của trào tiếu dân
gian”(http://giaitri.vnexpress.net).
Các bài báo, tiểu luận và công trình nghiên cứu trên đây đã góp thêm những
cái nhìn mới về sự cách tân nghệ thuật trong các sáng tác của Nguyễn Việt Hà.
Đây cũng là nguồn tài liệu để chúng tôi có thể tham khảo, vận dụng trong quá
trìnhtriển khai đề tài.
- Những công trình liên quan trực tiếp đến đề tài
Nguyễn Việt Hà là một trong những cây bút đương đại mà sáng tác của ông đã
tạo được tiếng vang nhất định trên văn đàn thế giới trong nước và thế giới. Ngay từ
khi xuất hiện với cuốn tiểu thuyết đầu tiên Cơ hội của chúa, Nguyễn Việt Hà đã
được coi là một hiện tượng văn học. Tiếp theo, tác giả đã cho ra đời cuốn tiểu
thuyết thứ hai Khải huyền muộn cũng nằm trong sự đón đợi của độc giả. Và gần đây
nhất, cuốn tiểu thuyết Ba ngôi của người khi mới phát hiện cũng đã tạo nên một cơn
sốt kiếm tìm của người yêu văn học. Xung quanh hiện tượng Nguyễn Việt Hà đã
cho thấy có nhiều ý kiến phê bình gắn liền với những cách nhìn và sự đánh giá khác
nhau, thậm chí là đối lập nhau. Nhưng, nhìn chung giới phê bình nghiên cứu và cả
giới sáng tác đều đã đánh giá cao những nỗ lực cách tân tiểu thuyết của Nguyễn
Việt Hà, từ những cảm quan, ngôn ngữ, đến tư duy nghệ thuật và điểm nhìn trần
thuật trong tác phẩm.Nhưng nổi bật lên tất cả trong sáng tác của ông là nghệ thuật
trào tiếu, giễu nhại.
Lam Thu (2014),trong bài Hà Nội xấu xí và nhốn nháo trong tiểu thuyết
Nguyễn Việt Hà cho rằng, nhà văn: “nhại lại những nhân vật lịch sử, nhân vật cách
7
mạng, các đoạn văn bình luận về phố, về tôn giáo, triết học và nghệ thuật”.Trong
bài Dương Trung Quốc giật thọt khi đọc tiểu thuyết Nguyễn Việt Hàcũng chính Lam
Thu đã cho rằng, Nguyễn Việt Hàđã đề cập đến những vấn đề về Hà Nội trên nhiều
phương diện của cuộc sống:“Trong Ba ngôi của người, Nguyễn Việt Hà đã dựng lại
chân dung Hà Nội đương đại. Đó là một đô thị với đủ thứ nhốn nháo, xấu xí, đủ
gương mặt đại diện cho những tầng lớp thị dân”. Cùng viết vềthành phố nghìn năm
văn hiến, nhưng đây là một cách viết độc đáo, mới mẻ của tác giả, cho chúng ta
hình dung được bức tranh đời sống từ xưa đến nay, từ đó thấy được sự đau lòng của
tác giả trước sự xô bồ, sự lai tạp và sự tha hóa đạo đức của thị dân Hà
Nội(http://giaitri.vnexpress).
Hoài Nam trong bài viết Hà Nội trong hai cái nhìnnhận xét về tiểu thuyết Ba
ngôi của người:“Dựng lên một Hà Nội trai lơ tinh nghịch, khác hẳn một Hà Nội
đăm chiêu khắc khổ như trong hình dung chung của nhiều người về Hà Nội thời ấy.
Họ khắc tạc chân dung của một Hà Nội bấn loạn. Làm ăn buôn bán, sáng tạo nghệ
thuật hay đơn giản như yêu đương, ở đâu cũng thấy bấn loạn!Hơn thế nữa, còn là
một Hà Nội của chủ nghĩa tiêu dùng phì đại, một tinh thần bái vật giáo hàng hóa
đến mức điên khùng. (Ở phương diện này, Ba ngôi của người có thể xem như một
“tập đại thành” của các nhãn mác thời trang hàng hiệu, rượu ngoại, xe hơi, điện
thoại cao cấp).Nhìn Hà Nội qua một tấm gương lồi, Nguyễn Việt Hà thường xuyên
phát hiện được những hình ảnh, những chi tiết, những hiện tượng cực kỳ nghịch dị,
và anh cũng dùng một hệ thống ngôn từ cực kỳ nghịch dị để diễn đạt những phát
hiện ấy. (Nhạc chế, ca dao tân thời, những câu nói đầu miệng của vỉa hè Hà Nội,
thậm chí cả những câu chửi rất tục, xuất hiện dày đặc trong Ba ngôi của người, tạo
nên một đối trọng với lớp ngôn từ thành kính trang nghiêm khi nhà văn viết về
những tiểu truyện Thiên Chúa giáo)”(http://antgct.cand.com.vn).
Viết về những phương diện nghệ thuật đặc sắc trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà
trong bài Mộtgiọng điệu tiểu thuyết, Nguyễn Thụy Kha nhận định: “Nói đến sự thay
đổi điểm nhìn, mạch độc thoại, đối thoại của các nhân vật, thời gian trong tiểu thuyết đi
từ hiện đại đến quá khứ, từ dương thế đến âm ty, cấu trúc của tiểu thuyết vừa đóng vừa
mở gây sự tò mò cho các độc giả và đặc biệt đó là một giọng điệu rất riêng của Nguyễn
8
Việt Hà. Ba ngôi của người lôi cuốn vì giọng điệu tưng tửng kiểu thị dân không bị cảm
xúc chi phối, vì những con chữ nhặt từ đời thường lần đầu tiên xuất hiện làm mới mẻ
giai điệu văn xuôi. Để lôi cuốn theo cách của mình, Nguyễn Việt Hà thường xuyên
dùng thủ pháp đảo ngữ của thơ, làm tăng ấn tượng” (http://laodong.com.vn).
Trúc Anh, trong bài Ký ức quẩn quanh của những kiếp ngườinhận xét rằng,
nhà văn sẽ : “Dẫn dắt người đọc xuôi ngược vật vã với những tuyến thời gian, khi là
thời Lê Trung Hưng, khi là thời Trần, lúc lại là chuyện của Ký Con, Nguyễn Thái
Học thủ lĩnh của Việt Nam Quốc dân Đảng. Những nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử
được nhà văn tóm ra như bất chợt, rồi nhồi vào câu chuyện của mình, thông qua
kiếp luân sinh của nhân vật trung niên, cùng hồi ức của Kun và Quang Anh.
Nguyễn Việt Hà đã dựng nên một sân khấu đời, để trên đó các nhân vật của anh tha
hồ mà diễn, tha hồ mà sống, tha hồ mà làm tình, tha hồ mà nhạt nhẽo, tha hồ mà dối
gạt lừa lọc, tha hồ mà thương xót nhau”(http://anninhthudo.vn).
Trong bài Văn chương ấy mà,Nhị Linh tiếp tục chỉ ra những điểm mới trong
tác phẩm Ba ngôi của người: “Với một cách viết văn xuôi mông lung hời hợt trộn
lẫn với vờ vịt nhưng sâu sắc, sử dụng ngôn ngữ phong phú, nhắc đến các nhà văn,
các chi tiết lịch sử lên án đạo đức giả và những cái giả dối đó là “một kiểu giả dối
Hà Nội rất mới, đã âm thầm kết tinh trong những nhộn nhạo năm tháng vừa qua,
những láo nháo tình tiền và những thum thủm quán rượu quán bia ven bờ sông hay
lấp nhấp phố phường”(http://nhilinh.blog.blogsport).
Lạc Thành trong bài Người mang tên vợ Nguyễn Việt Hà, Nhà văn phải điêu
toađã cảm nhận một cách sâu sắc về các sáng tác của Nguyễn Việt Hà, người: “có lối
dẫn dắt người đọc xuôi ngược với những tuyến thời gian có nhiều góc nhìn mới, tạo ra
sức hút đặc biệt, nhất là trong tiểu thuyết mới Ba ngôi của người, Nguyễn Việt Hà
được xem như một cây bút đô thị khá đặc sắc. Trong văn của anh, chất phố phường
trào lộng cay đắng vẫn không giấu những trang trữ tình rất Hà
Nội”(www.doisongphapluat.com).
Tác giả Nam Phú trong bàiNăm của tiểu thuyết Việtđã nhận định: “Cho dù Ba
ngôi của người có thể gây thất vọng so với Cơ hội của Chúa và Khải huyền muộn
nhưng vẫn là Nguyễn Việt Hà ưa lối giễu nhại, trào tiếu những gì đang hiện
9
hữu”.Đó là một nhận định thể hiện được nghệ thuật đặc trưng của nhà văn được sử
dụng trong sáng tác của mình và đặc biệt là trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
(http://tuoitre.vn).
Các bài báo và công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp và gián tiếp đến đề tài
nghiên cứu của các tác giảtrên đây là cơ sở và nguồn tài liệu quan trọng,giúptôi
tham khảo, tiếp thu và vận dụng trong việc nghiên cứu đề tài Nghệ thuật giễu nhại
trong tiểu thuyết Ba ngôi của người của Nguyễn Việt Hà.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba
ngôi của người của Nguyễn Việt Hà, được tập trung thể hiện chủ yếu trên các bình
diện đề tài, chủ đề, tư tưởng, nhân vật, biểu tượng, trần thuật, ngôn ngữ và thể loại.
Phạm vi nghiên cứu
Để triển khai nghiên cứu đối tượng như trên đã xác định, người viết tập trung
khảo sát tiểu thuyết Ba ngôi của người của Nguyễn Việt Hà; ngoài ra, còn khảo sát
các tác phẩm khác trong sáng tác của ông, các tác phẩm trong nước và ngoài nước
để soi chiếu và đối sánh nhằm chỉ ra chỗ tương đồng và dị biệt về nghệ thuật giễu
nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của ngườinói riêng và sáng tác nói chung của
Nguyễn Việt Hà.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Quá trình nghiên cứu, người viết vận dụng những phương pháp và thủ pháp
chủ yếu sau:
Phân tích- tổng hợp
Phân tích cả về phương diện nội dung và hình thức, trên cơ sở đó tổng hợp và
khái quát theo những vấn đề cơ bản của đề tài nghiên cứu.
So sánh- đối chiếu:So sánh đối chiếu trên hai bình diện đồng đại và lịch đại
- Về đồng đại: So sánh tiểu thuyết Ba ngôi của ngườicủa Nguyễn Việt Hà với
tác phẩm của các nhà văn cùng thời để chỉ ra chỗ tương đồng và dị biệt trong nghệ
thuật giễu nhại của ông.
10
-Về lịch đại: So sánh các tác phẩm được Nguyễn Việt Hà sáng tác trong các
giai đoạn khác nhau để làm rõ sự tiếp biến trong nghệ thuật giễu nhại của ông, cũng
như so sánh tiểu thuyết Ba ngôi của ngườivới các tiểu thuyết khác trong văn học
Việt Nam ra đời trước đó để phát hiện những đặc sắc trong nghệ thuật giễu nhại của
Nguyễn Việt Hà.
Thống kê- phân loại
Thống kê các yếu tố thuộc về nội dung và hình thức của tác phẩm từ đó có
thêm cơ sở để đi đến nhận định, khái quát và đánh giá về vấn đề nghiên cứu.
Cấu trúc- hệ thống
Nghiên cứu nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người của
Nguyễn Việt Hà trong mối quan hệ chặt chẽ giữa các yếu tố, các bình diện khác
nhau như một chỉnh thể, một hệ thống.
Liên ngành
Luận văn còn sử dụng những kiến thức liên ngành như Thi pháp học, Văn hóa
học, Phân tâm học, Mỹ học tiếp nhận, nhữngkiến thức lịch sử, để lý giải nghệ thuật
giễu nhại trên một số cấp độ của tiểu thuyết.
5. Đóng góp của luận văn
Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu về nghệ thuật giễu nhại trong tiểu
thuyết của Nguyễn Việt Hà, đặc biệt là cuốn tiểu thuyết Ba ngôi của người trên các
phương diện đề tài-chủ đề-tư tưởng, nhân vật- biểu tượng và trần thuật-ngôn ngữ-
thể loại. Trên cơ sở đóthấy được nét đặc sắc và tiêu biểu của nhà văn Nguyễn Việt
Hà so với các nhà văn giai đoạn trước và sau đó, ghi nhận những đóng góp của nhà
văn Nguyễn Việt Hà trong nền văn học Việt Nam sau đổi mới.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, phần Nội dung
luận văn được triển khai thành 3 chương sau:
Chương 1:Đề tài, chủ đề trong tiểu thuyết Ba Ngôi của người từ cái nhìn giễu
nhại của Nguyễn Việt Hà
Chương 2: Giễu nhại nhân vật và biểu tượng trong tiểu thuyết Ba ngôi của
người của Nguyễn Việt Hà
11
Chương 3: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người qua
phương diện trần thuật, ngôn ngữ, thể loại
12
NỘI DUNG
*Giới thuyết về khái niệm giễu nhại
Từ điển tiếng Việt định nghĩa về “giễu” và “nhại”: “Giễu là nêu ra để đùa bỡn,
chế nhạo hoặc đả kích; Bị giễu là hèn nhát; Tự giễu mình”, “Nhại” là bắt chước
tiếng nói, điệu bộ của người khác để trêu chọc, giễu cợt. Như vậy, thuật ngữ giễu
nhại có hai yếu tố: bắt chước và châm biếm.
Trong văn học, nhại là một thủ pháp quen thuộc, nó đi kèm với giễu tạo nên
chất giễu nhại.“Nhại” (Parody) có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp paroidia, có nghĩa là
một bài hát được hát được hát cùng bài hát khác. Theo Từ điển thuật ngữ văn học:
“Nhại là một thể văn châm biếm dùng sự bắt chước để chế giễu một tác phẩm hoặc
cả một trào lưu nghệ thuật. Phương tiện chủ yếu của nhại là bắt chước phong cách.
Hai kiểu nhại chủ yếu (đôi khi tách thành những thể tài riêng) là kiểu khôi hài trong
đó đối tượng thấp được trình bày bằng một phong cách cao; và kiểu chế nhạo trong
đó đối tượng cao được trình bày bằng phong cách thấp. Sự chế nhạo có thể nhằm
vào phong cách, có thể nhằm vào đề tài, có thể cười nhạo những thủ pháp thi ca đã
trở thành khuôn sáo, lỗi thời hoặc những hiện tượng đời sống vốn dung tục không
xứng với thi ca. Có thể có lối nhại một thi pháp, một tác giả, một thể loại, một thế
giới quan” [35- tr225-226].
Giễu nhại, với tư cách là một thủ pháp bắt chước quá lố một văn bản khác đã
xuất hiện từ lâu, ngay trong văn học cổ đại Hy Lạp, sau đó vẫn thường xuyên được
sử dụng trong vô số loại hình nghệ thuật khác nhau. Là một thủ pháp được sử dụng
lâu đời và rộng rãi, giễu nhại được xem như là một phong cách, hơn nữa còn tồn tại
như một chủ đề phụ (sub-theme) trong một tác phẩm cụ thể và như một thể loại phụ
(sub-genre) trong văn học (chủ yếu là văn học trào phúng). Tính chất đa tư cách này
làm cho bất cứ nỗ lực định nghĩa nào cũng điều gặp khó khăn. Có điều, theo hầu hết
giới nghiên cứu dù nhìn từ góc cạnh nào thì giễu nhại cũng có hai đặc điểm chính là
bắt chước và châm biếm. Giễu nhại ra đời như một thủ pháp phê phán trực tiếp đi
liền với cái hài hước. Giấc mộng đêm hè (W.Shakespeare), Đôn Kihôtê (M. De
Cervantes), Gargantuar (F. Rabelais)… là những tác phẩm vĩ đại đầu tiên mở đường
thành công cho cái hài hước đi liền với thủ pháp giễu nhại.
13
Trong văn học hôm nay, thuật ngữ giễu nhại được sử dụng trở lại để nói đến
một cảm hứng xuất hiện trở lại của văn học Việt Nam sau một thời gian chìm lắng
nay phục sinh trở lại. Như đã nói giễu nhại chủ yếu quan tâm đến việc vạch ra cái
xấu, cái lố bịch, khiếm khuyết để giúp người ta nhận biết, sửa chữa và hoàn thiện.
Cũng có khi giễu nhại như một thủ pháp gây cười, tạo ra sự hài hước cho tác phẩm.
Quan niệm về chất giễu nhại trong văn học là rất phong phú. Nhưng chung qui lại,
các nhà nghiên cứu đều thống nhất ở điểm: Coi giễu nhại là một thủ pháp nghệ
thuật dựa trên sự nhại lại một tư tưởng, quan điểm, cách viết cũ nhằm tạo nên tiếng
cười giễu cợt với nhiều cấp độ khác nhau. Đó “là quan niệm về kiểu giễu nhại giữa
tác phẩm này (bao gốm hình tượng, nhân vật, chi tiết, ngôn từ,..) với tác phẩm khác.
Thực tế, còn có kiểu nhại khác, nhại ngay chính những thói hư tật xấu của con
người ngoài đời. Các cấp độ nhại có thể được triển khai đến mức độ chi tiết. Thậm
chí, ngay trong chính tác phẩm, nhại vẫn có thể được thực hiện giữa nhân vật này và
nhân vật khác, hay giữa người kể chuyện với các nhân vật” [12- tr82].
Giễu nhại là một thủ pháp tiêu biểu của văn học hậu hiện đại. Ở Việt Nam,
thật khó để khẳng định một nền văn học hậu hiện đại đang hiện diện một cách rõ
ràng. Nhưng chắc chắn cảm quan hậu hiện đại đã và đang thâm ngấm vào sáng tác
của nhiều nhà văn. Đối với những sáng tác của các nhà văn hải ngoại, chất giễu nhại
mang cảm quan hậu hiện đại thường nghiêng về cảm thức chính trị, những cái nhìn
mang màu sắc giai cấp, dân tộc. Các nhà văn thường rơi vào những ám ảnh chính
trị, ám ảnh của sự lưu vong, hủy diệt (giới nghiên cứu gọi là cảm quan thế giới
Kafka).
Cũng dựa trên sự cảm nhận cuộc sống với cảm quan hậu hiện đại, nhưng từ vị
thế của những người đang trực tiếp sống, suy nghĩ và sáng tác ngay chính trên quê
hương của mình, văn học trong nước cũng bộc lộ những nét khác biệt so với bộ
phận văn học hải ngoại. Cũng có tiếng cười mang vị mặn đắng của nước mắt, chua
xót, thậm chí phẫn nộ chửi bới nhưng đọng lại vẫn là lối tư duy duy cảm tồn tại bên
cạch tư duy duy lý “ngoại nhập”. Ta có thể nghe thấy tiếng cười thấm đẫm cảm
hứng trào lộng trong nhiều truyện ngắn, tiểu thuyết của Ma Văn Kháng, Nguyễn
Quang Thân, Nguyễn Khắc Trường… nhưng hấp dẫn và tập trung hơn cả là tiếng
14
cười trào tiếu, giễu nhại trong sáng tác của Phạm Thị Hoài và Nguyễn Huy Thiệp.
Sau đó, hàng loạt cây bút trẻ mà sáng tác và tên tuổi của họ luôn ẩn chứa cái nhìn
mang tính giễu nhại: Hòa Vang, Bảo Ninh, Nguyễn Bình Phương, Hồ Anh Thái, Tạ
Duy Anh .v.v. Sự xuất hiện và phát triển của dòng văn học giễu nhại ở Việt Nam
cho thấy sự tiếp cận và bắt kịp của nền văn học Việt Nam hòa vào dòng chảy của
dòng văn học thế giới. Bởi giễu nhại là một trong những đặc trưng tiêu biểu của
phong cách sáng tác hậu hiện đại. Nằm trong ảnh hưởng chung đó, Nguyễn Việt Hà
đã cảm nhận được những đổ vỡ, mặt trái của xã hội thời kì đổi mới nhà văn đã dùng
tiếng cười để giải thiêng những giá trị tồn tại lâu đời và hướng con người đến những
điều tốt đẹp hơn.
15
CHƢƠNG 1
ĐỀ TÀI, CHỦ ĐỀ TRONG TIỂU THUYẾT
BA NGÔI CỦA NGƯỜI TỪ CÁI NHÌN GIỄU NHẠI CỦA
NGUYỄN VIỆT HÀ
1.1. Đề tài đô thị Hà Nội “loay hoay tha hóa” trong tiểu thuyết Ba ngôi của
người
Đề tài đô thị là một trong những đề tài phổ biến trong văn học và đã có nhiều
tácgiảthành công trong việc thể hiện đề tài này như Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh
Thái, Phạm Thị Hoài.v.v. Sáng tác của họ đã chạm đến những “mảng tối” của đời
sống đô thị với những lai tạp, bát nháo, những ngổn ngang và bộn bề. Cuộc sống đô
thị là biểu tượng của cái hiện đại, của văn minh công nghiệp đầy cám dỗ nhưng lại
ẩn chứa sự tha hóa đang ăn dần ăn mòn đời sống con người.
Nguyễn Việt Hà sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, tuổi thơ của ông gắn bó với Phố
cổ, Hồ Gươm, được hưởng thụ đầy đủ không gian văn hóa nguyên sơ Hà Nội. Là
một người Hà Nội gốc nên nhà văn mang những ký ức đô thị với nhiều mảng màu
phong phú, sống động mà không một người Hà Nội nhập cư nào có thể có được;
mỗi đổi thay, dịch chuyển đời sống đô thị đều để lại ấn tượng trong tình cảm của
nhà văn.
Là một người nặng lòng với thủ đô nên những trang viết của nhà văn đều đề
cập đến vấn đề đô thị, cụ thể đó là đô thị Hà Nội. Một đô thị đang biến đổi từng
ngày, trong một vỏ bọc hào nhoáng hơn nhưng cũng có thể nói là nhộn nhạo hơn, ở
đó rất nhiều giá trị đã bị mất đi, vùi lấp và khó có thể tìm lại được. Đó còn là một đô
thị đã bị xáo trộn, một xã hội ngụy tạo, phi lý và đang vỡ ra rệu rạo. Bằng cách giễu
nhạicuộc sống đô thị, nhà văn đã vẽ nên bức tranh đô thị Hà Nội đang loay hoay tha
hóa, nó trở nên xấu xí, dị mọ trong tiểu thuyết của ông.
1.1.1. Tính đô thị trong cảm quan nghệ thuật Nguyễn Việt Hà
Tính đô thị rất quan trọng, làm nên phẩm chất của văn học đô thị. Tính đô thị
là tính hiện đại, dân chủ, dân sự trong đề tài và cách thức tiếp cận với đề tài ấy. Bởi
vậy, trong sự biến động của đời sống đô thị hiện đại, cụ thể đây là quá trình đô thị
hóa hay hiện đại hóa, bên cạnh những mặt tích cực của nó, thì có không ít những cái
16
tiêu cực, những vấn đề nảy sinh và những hệ lụy kèm theo.Đô thị hóa là quá trình
tất yếu đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới, đặc biệt là các nước Châu Á, trong đó có
Việt Nam. Nền kinh tế càng phát triển thì quá trình đô thị hóa diễn ra với tốc độ
ngày càng nhanh; góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế- xã hội của khu vực, nâng
cao đời sống nhân dân và cũng phát sinh nhiều vấn đề cần giải quyết.
Trong văn học đương đại đã có nhiều tác giả thành công khi viết về đô thịvới
nhữngcái nhìn riêngvề cuộc sống và con người ở đó như Nguyễn Huy Thiệp, Đỗ
Phấn, Nguyễn Danh Lam, Hồ Anh Thái, Phạm Thị Hoài.v.v. Trong Tướng về hưu
của Nguyễn Huy Thiệp, nhà văn nhìn đời sống và con người đô thị bằng thái độ
lạnh lùng, sắc lẹm; con người biến dạng với những giành giật, toan tính, vụ lợi ích
kỉ. Đó còn là cuộc sống xô bồ, tạp nham trong truyện ngắnKhông có vua, nhà văn
đã khắc họa được một đô thị thiếu vắng tình người với sự hoài nghi về lối sống,
tương lai của tầng lớp thị dân. Một tác giả khác cũng quan tâm sâu sắc đến cuộc
sống của con người nơi phố thị là Hồ Anh Thái trong tiểu thuyết SBC là săn bắt
chuột, ông viết về một thành phố lớn đang nhộn lên chiến dịch tiêu diệt chuột.
Cuộc chiến giữa Chuột và Người thể hiện sự thô lỗ, xấu xa hiện hữu với giọng văn
hài hước, sâu cay nhưng đầy lôi cuốn. Phạm Thị Hoài viết về đô thị mới tái xuất
với tư cách là nơi chốn của các yếu tố thị trường và nhân cách, có khả năng phá vỡ
các giá trị mặc định và đối kháng với nông thôn.Còn Nguyễn Việt Hà đã đưa vào
trang viết của mình nhiều trăn trở về cuộc sống trong thời buổi kinh tế thị trường
với cái nhìn về thế giới, con người trong sự phi lý, hỗn loạn và hoài nghi. Ông
cũng là một trong những cây bút viết sắc sảo khi viết về đô thị và tầng lớp tri thức
công chức. Nhà văn quan niệm: “Đô thị, tuổi trẻ, tri thức luôn là những vấn đề tôi
quan tâm”.Nhà văn viết những cái gì nó rất gần mình, những thói tật trong đời
sống. Bởi vậy, trong sáng tác của nhà văn, chất phố phường trào lộng cay đắng với
một đời sống đô thị xô bồ, tạp nham.
Đọc văn chương của Nguyễn Việt Hà người đọc có cảm giác nhà văn thích
tọc mạch vào mọi chuyện, phơi bày hết những hiện thực của đời sống dưới cái nhìn
ở nhiều chiều kích khác nhau. Trong tiểu thuyếtCơ hội của Chúa và Khải Huyền
muộnnhà văn viết về thời kì đổi mới với những biến động và thay đổi đến chóng
17
mặt. Trong tiểu thuyết Cơ hội của Chúanhà văn mở ra một hiện thực đất nước
những năm 89, 90 khi mà cơ chế thị trường đã làm đảo lộn cuộc sống cũng như nếp
sống của con người. Bối cảnh chính của câu chuyện là mảnh đất Hà thành. Đây là
nơi đầu tiên tiếp thu ngọn gió ngoại quốc vào Việt Nam, là nơi chứng kiến sự thay
đổi đến chóng mặt: “Tháp Rùa ngơ ngác nhìn Hà Nội đang quen dần buôn lậu và
tập tọng nghiện ngập. Đàn ông biết bật nắp Heineken và đàn bà cũng quen dần với
vị Coca” [32, tr11]. Và trong Khải huyền muộnnhà văn cũng đã viết: “Người dân thì
thắt lưng buộc bụng, hy sinh cả sự tăng trưởng của mình để làm giàu, làm sang cho
những đám cưới mà hai ông thông gia kia lúc họp dự án chắc được ngồi bàn đầu”
[33, tr180].
Trong Ba ngôi của người khi nói về cuộc sống ở đô thị tức là nhà văn nói về
sức hấp dẫn của nóvà của các vùng đã được đô thị hóa là nguyên nhân chính lôi
cuốn một số lượng khổng lồ cư dân nông thôn đi tìm miền đất hứa. Những thành
phố lớn ngày càng hấp dẫn và lôi cuốn dân cư từ các đô thị nhỏ hơn làm cho đô thị
ngày một thêm phức tạp, tác giả đã vẽ nên một bức tranh đại diện đầy đủ mọi khuôn
mặt trong xã hội với cuộc sống xô bồ và hỗn tạp bởi lối sống đua đòi: “Hôm nọ có
mấy người khách Sài Gòn nói giọng Bắc vào ăn tiết canh nhưng cứ đòi rau diếp cá.
Thảo nào Hà Nội dạo này có cháo chửi phở quát” [34, tr24].“Có lẽ cái nhập nhoạng
của vùng quê lưỡng lự đua đòi khao khát muốn thành đô thị đã làm ra toàn một bọn
như thế” và “Những cặp thanh niên Tây du lịch ba lô lông lá có mặt khắp nẻo
đường” [34, tr150].
Đô thị, theo tác giả đó còn là sự xâm thực tham lam, cuồng khấu, sự nuốt
chửng không thương tiếc của những khối bê tông, sắt thépđối với những bãi bồi,
những dòng sông, những triền đê mượt cỏ: “Xung quanh quán là hoang vu những
hồ nhỏ những ao tù mà hôm nay đã nhan nhản thành những cao ốc ngô nghê những
nhà nghỉ dâm đãng” [34,tr303]. “Nhưng tởm nhất là đám nhờn nhợt nồng nặc mùi
tiền ở Hà Nội đang đầu tư vào mấy khu chế xuất” [34, tr54].Hay “Nghĩa là cũng
giống bọn nông dân bây giờ, muốn thoát kiếp chăn trâu, cắm đầu vào đi làm ở các
khu chế xuất rồi họ sẽ chết vì ngộ độc thực phẩm do tọng đầy những bữa ăn trưa
thiu thối rẻ”.
18
Trong cảm quan nghệ thuật của nhà văn, đô thị còn được nhìn ở khía cạnh lịch
sử, thế tục, nó luôn khía vào nỗi cô đơn, lạc lõng, sự phân rã của con người; tạo nên
cám dỗ của cuộc sống đô thị và lối sống thiếu lành mạnh của con người. Giễu nhại
một cách đầy thâm thúy, đó là một đặc điểm riêng tạo nên cá tính trong văn phong
của tác giả, nhà văn giễu nhại đời sống nhưng không phải để cười, đó là sự đau đớn,
xót xa trước hiện thực: “Thiếu nữ Việt chỉ e lệ khi mặc quần áo. Và cũng chính vì
sinh hoạt không được ăn nói hở hang, bị ẩn ức đè, nên vô số phụ nữ nhà quê mắc
bệnh nói nhịu… Phải đến cuối thế kỷ Hai Mươi sang đầu Hai Mốt, nhờ có trụy lạc
trắng trợn internet… Công cuộc đô thị hóa là nguyên nhân chính chữa khỏi bệnh
nói nhịu ở các vùng quê. Bởi trăm phần trăm cave ở các thành phố lớn, tuyệt đối
đều xuất thân từ thôn nữ” [34, tr77].
Sống trong công cuộc đô thị hóa, theo nhà văn nó thúc đẩy nền kinh tế phát
triển mạnh mẽ nhưng cũng làm mất đi những giá trị truyền thống và cách sống của
con người đô thị.Con người dần bị tha hóa đó là sự tha hóa về nhân cách đã dẫn đến
hàng loạt các tệ nạn xã hội như ma túy, mại dâm, buôn người: “Nhập nhoạng tối,
đôi lúc có vài cô gái ăn sương mới ra nghề, liều lĩnh lấp ló đứng…bị công an Tây
Hồ bắt về tội bán dâm” [34, tr34]... Song song đó, những vấn nạn trong đời sống đô
thị cũng được tác giả đặt ra như quan liêu, hối lộ, tham nhũng: “Lãnh đạo huyện về
trụy lạc ở nhà chủ quán bao giờ lương tâm cũng tự nhiên an ủi. Rượu chè, bồ bịch,
đĩ đỡm, đương nhiên đấy là cung cách sinh hoạt phóng túng của người nghệ sĩ” [34,
tr111]. Còn ở trường học cái gì cũng bằng tiền và trường tư kém chất lượng ngày
càng nhiều: “Cái trường Mộc Miên đang học là cái loại vớ vẩn nhất mà dăm ba năm
nay ở mấy đô thị lớn đang nhan nhản mọc lên như nấm. Đầu vào thi bằng tiền. Đầu
ra, chẳng hiểu có thi không, cũng bằng tiền. Bằng tốt nghiệp có in màu mè sang
trọng kiểu nào thì khuôn khổ vẫn cứ nhếch nhác giống hệt như tờ giấy bạc. Sinh
viên trốn tiết nghỉ dài dài” [34, tr 65-66]. Theo nhà văn bình luận: “Thành phố
nghìn năm tuổi mất đi cái duyên ngầm từ ngàn đời, thay vào đó là sự nhốn nháo, lai
căng, xô bồ. Quan hệ giữa xã hội, giữa con người với con người trở nên rệu rã và
rời rạc với lối sống buông thả và bạc bẽo của con người, họ vô cảm trước mọi việc.
19
Thấy dễ dãi thì buông thả làm ẩu rồi xót xa ân hận. Nếu được tha thứ thì lại làm
tiếp. Phải chăng đó là cái thói vừa bạc bẽo vừa đạo đức của đô thị phố phường”.
Bằng cái nhìn đầy trách nhiệm, Nguyễn Việt Hà không che giấu cho những
cái xấu, những “ung nhọt” đang dần lớn lên trong lòng Hà Nội của hiện tại thông
qua lời nói của nhân vật Kun:“Tôi yêu Hà Nội của tôi và thậm chí ghét những cái
nhộn nhạo làm ra vẻ rộng lớn đại lộ tỉnh lẻ. Hà Nội càng ngày càng đông người
ngoại tỉnh và không hiểu sao họ cho rằng đã là phố thì phải thật lớn”[34, tr33].Là
một người con gốc Hà thành, Hà Nội với Nguyễn Việt Hà không chỉ là quê hương,
đó còn là một mảnh đất để thương, để nhớ, để tiếc nuối và hoài niệmvà gìn giữ vẻ
đẹp của Hà Nội mà bản thân mình đã sống qua một thời tuổi trẻ.
Ba ngôi của người của Nguyễn Việt Hà là thế giới hỗn mang của hiện thực đô
thị với những phi lý, trái khuấy. Trước hiện thực ấy, Nguyễn Việt Hà góp nhặt
những chuyện vặt vãnh về phố phường. Vừa kể, vừa cười. Tiếng cười hài hước, dí
dỏm nhưng cũng không kém phần sâu sắc, chua cay. Bằng cách giễu nhại về tính đô
thị trong cảm quan nghệ thuật của nhà văn, cho chúng ta thấy được các ngõ ngách
của đời sống, các lĩnh vực văn hóa, đạo đức, chính trị, kinh tế, giáo dục, ngoại
giao… đang dần dần có sự thay đổi. Nhà văn còngiúp người đọc hình dung và suy
nghĩ những vấn đề về thực trạng của xã hộivà những gì thực sự đang diễn ra trong
xã hội thời kỳ Đổi Mới nói chung và đô thị Hà Nội nói riêng.
1.1.2. Hà Nội hiện đại xấu xí dị mọ trong tiểu thuyết Ba ngôi của ngƣời
Ở mỗi tác giả, với sự trải nghiệm và cảm nhận về một Hà Nội của xưa và nay,
không phải ai cũng giống ai. Hà Nội trong cảm xúc, trong tâm trí của mỗi người
mỗi khác. Đó có thể là niềm hân hoan trước sự phát triển, hội nhập vượt bậc của
một Thủ Đô nghìn năm văn hiến, nhưng cũng có thể là sự đau buồn, tiếc nuối trước
sự ra đi của một nền văn hóa, của những kỷ niệm bị bủa vây bởi một tầng lớp xã hội
thị thành vô học, nhố nhăng.
Hà Nội đẹp đẽ trong cảm quan lãng mạn của người xưa:“Chẳng thơm cũng
thể hoa nhài/Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An”. Nói rằng“chẳng thơm”,
nói rằng“không thanh lịch” chỉ là cách nói phủ định để khẳng định một nét đẹp của
người Thủ đô Thăng Long-Hà Nội: nét thanh lịch…Người kinh đô Thăng Long có
20
lối sống rất tao nhã, thanh cao, cử chỉ rất văn minh, lịch sự. Lối sống đó đã trở thành
bản sắc; dù có đi xuôi về ngược, vào Nam ra Bắc, bản sắc đó cũng không thay đổi.
Dù ở đâu người ta vẫn có thể nhận ra người Hà Nội.
Trong Hai đứa trẻThạch Lamviết về những cái dung dị đời thường, những
kiếp người cực khổ nơi phố huyện nghèo. Đó là những nét văn hóa rất gần gũi, là
những tiếng rao đêm của những gánh hàng rong, là cảnh chờ tàu của hai chị em An
và Liên để đón nhận ánh sáng nơi phố huyện nghèo.v.v. Họ luôn hướng về những
cái tốt đẹp đó là cuộc sống ở Hà Nội. Trong những trang văn của Thạch Lam, Hà
Nội hiện ra cũng vô cùng thanh lịch và đẹp đẽ. Nét sang trọng, quý phái, tinh tế là
ba phẩm chất được coi là những điểm nhấn mà nhà văn tôn vinh.
Trong Cát bụi chân aiTô Hoài đem lại những chứng từ sống động về địa dư,
lịch sử, phong tục, tiếng nói của thủ đô Hà Nội. Còn trong Nỗi buồn chiến tranh
Bảo Ninh làm nổi bật về Hà Nội thời hậu chiến, Hà Nội gần gần mà xa, thỉnh
thoảng vẫn được nhắc lại đâu đó trong một bài hát, một triển lãm ảnh, một đoạn
phim .v.v.
Cái nhìn về Hà Nội của Nguyễn Việt Hà tỏ ra gần gũi với Vũ Trọng Phụng,
Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài. Đó là cái nhìn về cuộc sống đa chiều đa diện
với những phi lý diễn ra trong cuộc sống hiện đại, nó không còn đẹp đẽ và lãng mạn
như trong tâm trí mỗi người. Vũ Trọng Phụng với tiểu thuyết Số đỏ thể hiện được
cái nhố nhăng của đời sống được nhà văn phác hoạ theo lối châm biếm. Nói như
Lưu Trọng Lư, ngòi bút Vũ Trọng Phụng đã chế nhạo tất cả những cái rởm cái xấu
cái bần tiện cái đồi bại của một hạng người một thời đại. Trong con mắt của ông, xã
hội đương thời là hoàn cảnh lý tưởng cho những kẻ tầm thường nhưng lại đầy tham
vọng. Cái phần luân thường đạo lý mà các thế hệ đi trước dày công vun đắp đã phai
lạt hẳn, người nào người nấy xoay xoả kiếm sống và khao khát hưởng thụ. Cả kẻ vô
học như Xuân lẫn bọn có học như Văn Minh đều sống bằng lừa bịp, ai giỏi lừa
người đó thắng. Và cuộc sống của xã hội hiện đại đồng nghĩa với sự tàn phá nhân
cách, làm hỏng con người. Nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định, bức tranh mà Vũ
Trọng Phụng vẽ nên đó là sự phản ánh trung thực xã hội đương thời đồng thời có
tính cách khái quát một phần bản chất cuộc sống. Thời nào, hay nói cho đầy đủ hơn,
21
ở bất cứ xã hội nào, thì trong tấn kịch nhân gian cuộc đời hiện ra như một thứ hội
hoá trang mà tác giả đã miêu tả.
Trong Ba ngôi của người, Nguyễn Việt Hà đã dựng lại chân dung Hà Nội
đương đại với đủ thứ nhốn nháo: “Hồi đó Hà Nội tuy có nhiều cái khác, nhưng về
đại thể cũng giông giống như bây giờ thôi. Cũng có thanh sạch cao thượng, cũng có
nhếch nhác bẩn thỉu. Đó là một đô thị với đủ thứ nhốn nháo, xấu xí, đủ gương mặt
đại diện cho những tầng lớp thị dân. Hà Nội bây giờ thì buồn quá, nó không quá
nghèo nhưng vô đạo và ít học. Thành phố đang ngày càng loay hoay tha hóa” [34,
tr123]. Nhà văn viết về Hà Nội của bảy năm gần đây, với ít nhiều biến đổi thô lỗ và
nhốn nháo đạo đức. Chẳng còn nét bàng bạc cổ kính thơ mộng hoài niệm của phong
rêu hay nâu trầm ngói đổ, không còn sự dịu dàng đoan chính tinh tế nét người Hà
Nội gốc xưa. Tác giả đã bộc lộ được cá tính và cái nhìn của mình vào từng nhân vật
để người đọc cảm nhận Hà Nội hiện lên trong Ba ngôi của người thô lỗ, bụi bẩn đến
xót lòng, bởi Hà Nội không của riêng ai, nhưng mỗi người ở đây đều có ấn tượng,
tình cảm và cách nhìn riêng của mình về mảnh đất này. Hà Nội trong văn của
Nguyễn Việt Hà là vậy, còn trong đời thực, mảnh đất này không chỉ là nơi gắn bó
về mặt địa lý, mà còn là nơi gắn chặt tâm hồn của tác giả.
Ba ngôi của người dựng lên một Hà Nội trai lơ tinh nghịch, khác hẳn một Hà
Nội đăm chiêu khắc khổ như trong hình dung chung của nhiều người về Hà Nội
thời ấy. Nhà văn khắc tạc chân dung của một Hà Nội bấn loạn:“Những cặp thanh
niên Tây du lịch balô lông lá, những bọn trẻ con phổ thông cuối cấp trường ngoại ô,
mới tí tuổi đầu đã thành thạo giường chiếu, lọc lõi trốn học. Những cụ ông cụ bà về
hưu vẻ ngoài nhầu nhĩ buồn bã giống như ngày mai sẽ bị con cháu đưa đi trại dưỡng
lão, tất cả đều lộn xộn trong cái nắng hanh sóng sánh vàng như bia”[34, tr29]. Làm
ăn buôn bán, hay đơn giản như yêu đương và hôn nhân ở đâu cũng thấy bấn
loạn:“Ba lần, ông ta lấy vợ thì đều chọn mấy con nhóc mới lớn, nửa ngây, nửa ngô,
hoặc viết báo hoặc làm thơ. Chiều dài mỗi lần hôn nhân đều khoảng chừng một
gang, đại loại bằng đúng độ dài của váy mấy đứa người mẫu vi phạm quy định của
Sở Văn hóa” [34, tr37]! Và theo nhận xét của tác giả “Hà Nội rồi đây đến thế kỷ hai
mốt vẫn cứ như vậy, bầy hầy và ở đâu cũng thấy bấn loạn”.
22
Trong Ba ngôi của ngườinhà văn đã dựng nên một Hà Nội với chủ nghĩa tiêu
dùng phì đại, một tinh thần bái vật giáo hàng hóa đến mức điên khùng. Trong tiểu
thuyết Ba ngôi của ngườicó thể xem như một “tập đại thành” của các nhãn mác
thời trang hàng hiệu, rượu ngoại, xe hơi, điện thoại cao cấp.Bởi vậy, Hà Nội theo
như tác giả cảm nhận đã không còn ngây thơ vì chứng kiến quá nhiều lần thay đổi:
“Hà Nội thì vẫn còn chỗ hay, nhưng nói chung nó đang tha hóa vụn ra… Hà Nội
đẹp nhất là hồi nó còn biết đi xe đạp. Người thưa, phố thưa. Nhưng cây thì nhiều và
cột đèn cũng nhiều” [34, tr333].
Nguyễn Việt Hà đã vẽ nên một bức chân dung Hà Nội với cuộc sống dung tục,
xô bồ. Hà Nội trong tiểu thuyết hiện lên hiện đại xấu xí, dị mọ, nhốn nháo, nhiều
biến đổi thô lỗ và nhộn nhạo đạo đức với những thói đạo đức giả của con người.v.v.
đã tạo nên cảm giác bề bộn của đời sống thực tại. Họ bắt đầu chao chát, thực tế tiền
tài địa vị danh lợi dục tình đếm đo, đến cục cằn thô lỗ độc ác chà đạp phẩm giá
lương tri dẫn tới sự suy hoại của từng góc đường con phố.
1.2. Các chủ đề nghiêm trang đƣợc nhìn từ góc độ cái hài trong tiểu thuyết Ba
ngôi của người
Trong cuộc sống hiện đại, con người bị xâm lấn, bị bỏ rơi và cảm thấy vô
phương chống đỡ trước sự tha hóa. Con người luôn cảm thấy bơ vơ, lạc lõng và cô
đơn ngay chính trên quê hương mảnh đất thân thuộc của mình. Bởi vậy, đầy rẫy
những sự đổ vỡ và hoài nghi, những thay đổi đến chóng mặt của các chuẩn mực và
các giá trị sống, nó khiến con người khó có thể tin chắc vào điều gì một cách tuyệt
đối. Tưởng chừng như những tư tưởng về văn hóa, tôn giáo-tín ngưỡng; tình yêu-
hôn nhân- gia đình; nghệ thuật là những giá trị thường hằng bất biến, nhưng những
tư tưởng đó cũng luôn thay đổi với sự lẫn lộn giữa các giá trị.
Lý giải chủ đề văn hóa- tôn giáo và tín ngưỡng, tình yêu- hôn nhân- gia đình
và vấn đề nghệ thuật trong tiểu thuyết từ một cái nhìn gần gũi, nhà văn giúp chúng
ta thấy được những vấn đề trần tục và sự tha hóa của đời sống thị dân.
1.2.1. Chủ đề văn hóa, tôn giáo – tín ngƣỡng
Văn hóa, tôn giáo- tín ngưỡng là một vấn đề thuộc lĩnh vực nhận thức, tình
cảm và niềm tin, là điểm tựa tinh thần để con người tồn tại trong đời sống. Trong
23
quá trình phát triển và vận động của lịch sử nhân loại, con người đã hướng đến
những điểm tựa tinh thần và nâng nó lên thành những hiện tượng cao cả và thiêng
liêng. Vì vậy, khi nói đến vấn đề về văn hóa, tín ngưỡng- tôn giáo là phải nói một
cách nghiêm trang, với thái độ thành kính. Nhưng trong thời đại ngày nay, con
người đang chứng kiến sự khủng hoảng và đổ vỡ niềm tin về những vấn đề thiêng
liêng huyền bí. Với cảm quan hậu hiện đại, các nhà văn đương đại trong đó có
Nguyễn Việt Hà đã dùng tiếng cười giễu nhại nhằm giải thiêng vấn đề này.
Mỗi trang viết của nhà văn là một trữ lượng lớn kiến thức về văn hóa ứng xử,
văn hóa tâm linh tôn giáo và các lối sống sinh hoạt của người Việt nói chung và
của mảnh đất Hà Nội nói riêng. Trong văn hóa ứng xử nhà văn phản ánh mối quan
hệ của con người với môi trường tự nhiên có tính chất văn hóa như Hồ Gươm, Hồ
Tây… và môi trường xã hội như ứng xử giữa người với người trong công việc làm
ăn kinh doanh, văn hóa công sở, tri thức, công nhân, viên chức, môi trường gia
đình giữa vợ chồng và con cái. Ngoài ra trong tiểu thuyết này nhà văn còn nhắc
đến văn hóa ẩm thực, văn hóa trong hôn nhân, tình yêu, tình dục. Đó còn là dấu ấn
văn hóa về tâm linh như sự hoài nghi về đức tin, các diễn ngôn tôn giáo và tập tục
đi lễ nhà thờ.
Văn hóa ẩm thực của người Việt trong tiểu thuyết được tác giả nhắc đến làviệc
uống rượu Tây và ăn thịt chó.Việc ăn thịt chó là một nét văn hóa đặc trưngtrong ẩm
thực người Việt vì thịt chó là một món ăn ngon, bổ dưỡng; có truyền thống lịch sử
Việt Nam lâu đời, thịt chó đi vào nhiều tác phẩm văn học nổi tiếng của Việt Nam
như truyện Trẻ con không được ăn thịt chó của Nam Cao. Trong tiểu thuyết Ba ngôi
của người các nhân vật ai cũng biết đến món thịt chó, mở đầu cuốn tiểu thuyết nhà
văn đã nhắc đến quán thịt chó và theo lời tác giả: “rất nhiều người Việt thích ăn thịt
chó”[34, tr44], trong “thực đơn duy nhất chỉ là gái tơ đồi và chó quê” [34, tr54]. Bởi
vậy, theo lời nhận xét của trung niên: “Theo những nhà khảo cổ học hình như càng
ngày càng trở nên mê tín thì người Việt có thói quen ăn thịt chó đã dư nghìn năm”
[34, tr48]. Không chỉ vậy, các nhân vật trong tiểu thuyếtai cũng biết uống rượu và
sành sỏi mọi loại rượu. Theo sự mô tả của tác giả đó là đám quan chức, hay đến cả
những người nông dân bình thường họ đều biết uống rượu:“Cậu cười khẩy, đám
24
quan chức bây giờ phấn đấu bầy đàn sành điệu, nhờ nhỡ là Giôn vàng, sang trọng là
phải Giôn xanh” [34, tr130]. Là “Đám quan chức có những tay nhậu xuất sắc, uống
hết chai Chivas 21 tuổi mặt vẫn lạnh như bệ toalét. Tôi ấn tượng nhất là cách uống
của một tay tỉnh nói giọng Quảng. Ông ta uống liên miên linh tinh đủ loại, cứ mỗi
lần cụng ly là một trăm phần trăm”[34, tr135]. Khi nhân vật buồn chán, cô đơn họ
cũng tìm đến rượu để giải khuây. Họ chìm đắm trong men rượu: “Có một lần cậu
chủ động đi tìm tôi khi tôi đang cố uống thât say. Và để dễ say, thường người ta hay
uống một mình với đồ mồi tanh. Tôi ngồi độc ẩm ở quán Vọng Ba Lâu bên bờ hồ
Tây” [34, tr144].
Không chỉ nhắc đến văn hóa ẩm thực mà tác giả còn nhại lại văn hóa tâm linh.
Từ xưa đến nay, tôn giáo- tín ngưỡng đã trở thành điểm tựa cho con người với
những biểu tượng linh thiêng của tôn giáo như Đức Chúa, Đức Mẹ (Thiên Chúa
giáo), Bụt và Phật (Phật Giáo).v.v. đã ăn sâu vào tâm thức con người. Những giá trị
đó đã bị lung lay không ít, nhà văn đã giải thiêng giá trị đó bằng cái cười dưới nhiều
sắc thái với những hình ảnh, những chi tiết, những hiện tượng và hệ thống ngôn ngữ
cực kỳ nghịch dị. Nhạc chế, ca dao tân thời, những câu nói đầu miệng của vỉa hè Hà
Nội, thậm chí cả những câu chửi rất tục, tạo nên một đối trọng với lớp ngôn từ
thành kính trang nghiêm khi nhà văn viết về những tiểu truyện Thiên Chúa
giáo.Ngay cả nhan đề trong các tiểu thuyết như Cơ hội của Chúa, Khải huyền muộn
hay như tiểu thuyết “Ba ngôi của người” cũng đã cho chúng ta hình dung được, nhà
văn đang nhại lại những vấn đề của Thiên Chúa giáo.
Với Nguyễn Việt Hà, một nhà văn theo đạo Thiên Chúa, nói về đức tin và hoài
nghi, ông đã thể hiện những hiểu biết sâu rộng về tôn giáo và triết học, khi gắn nó
với quá trình khủng hoảng tình yêu, hạnh phúc, niềm tin của các nhân vật. Bằng
cách nói khi thì trang trọng thiêng liêng gắn với miền tâm linh sâu thẳm của con
người, khi thì dung dị, gần gũi thậm chí suồng sã, bỗ bã, tác giả mô tả tinh tế, tài
tình và logic quá trình dao động, sụp đổ niềm tin của nhận vật, đồng thời tạo nên
chiều sâu triết lí và ý vị sâu xa. Các nhân vật đều đang cố bám víu vào một đức tin
mong manh nào đó để mong cứu chuộc linh hồn khỏi những mặc cảm sai lầm và ám
ảnh tội lỗi. Nguyễn Việt Hà đã để nhân vật của mình tìm đến với tôn giáo như là nơi
25
để trú ngụ và cứu rỗi cho linh hồn mình, đồng thời giải tỏa những áp lực, những bức
xúc và bế tắc trong cuộc sống. Thế nhưng hiện thực nhiễu loạn, bế tắc mất phương
hướng đã làm cho một số nhân vật mất niềm tin tôn giáo và mất niềm tin cả vào
chính mình, đó là số phận hầu hết các nhân vật của Nguyễn Việt Hà.Nhà văn đã xây
dựng nhân vật với niềm tin tôn giáo, nhưng đó không phải là tin một cách mù
quáng, mê muội, mà nhân vật luôn trăn trở, hoài nghi về nó. Bởi vậy, điều day dứt
tâm tư các nhân vật trong tiểu thuyết “Ba ngôi của người” là liệu đức tin có đem lại
cuộc sống tốt đẹp cho con người không: “Tôn giáo là phải như vậy, là phải mang
đến sự an hòa thanh bình cho mỗi người...Liệu những niềm tin phảng phất như tôn
giáo có giúp bọn họ bớt tăm tối khốn khổ” [34, tr123]. Tình yêu tôn giáo thì sao? Ở
đây cậu chỉ nói tới chuyện khỉ gió đạo đức thôi. Còn nói cho cùng đám tu hành đâu
có tình yêu. Ở họ chỉ có tình thương. Một tình thương bao la. Bla…bla… [34,
tr332]. Đó là câu hỏi muôn đời của những ai chưa thực sự có đức tin. Con người
càng đặt nhiều niềm tin, sống trọn vẹn với cái tâm trong sạch của mình thì họ lại
càng bị đổ vỡ, họ tan hoang vì những nỗi thất vọng ê chề, trở thành những con
người “đầy hoài nghi”:“Tôi kiệt sức vẫn chưa có nổi Đức Tin” [34, tr307]. Nhân
vật trung niên đến chết vẫn không có nổi Đức tin, nhân vật Quang Anh thì không
bao giờ tin vào tôn giáo, nhân vật Kun luôn thắc mắc hỏi bố mình:“Bố có tin là có
Chúa không”.
Con người có tri thức, hiểu biết đầy mình nhưng vì thiếu một đức tin đích thực
nên tri thức, hiểu biết về tín ngưỡng, tôn giáo chỉ còn là thứ trang sức sặc sỡ hời hợt
bề ngoài, trở nên vô nghĩa lý. Biết mà không sám hối, theo mà không tin là thực
trạng của con người hiện đại:“Lạy Chúa, xin người đoái thương tới cái linh hồn tội
lỗi của con...Thậm chí nếu cứ cứng nhắc sai cũng chẳng sao, vì sai là cái động lực
sắp xếp tạo nên cuộc sống. Đức Phật bảo đó là vô minh” [34, tr 88]. Nhà vănnhại lại
diễn ngôn “vô minh” của Đức Phật nói đến sự u mê của con người,dẫn đến những
hành động sai lầm và mang lại những cảm xúc bấn loạn trong tâm thức của các
nhân vật. Với cuộc sống hiện đại cái ác xen lẫn cái tốt, con người thì muốn giải
thích cả Thượng Đế, muốn sống như chính Thượng Đế. Bây giờ liệu có ai còn tin,
chỉ bằng đến với Chúa, không làm gì cả, con người sẽ đạt được hạnh phúc không?
26
Con người hiện đại họ không tin vào thế giới siêu hình, người ta chỉ biết tin, yêu
quý cuộc sống trần tục. Nên, Chúa là đấng thiêng liêng, cao siêu và vô hình, nhưng
nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Việt Hà đã kéo Chúa lại gần và nhìn bằng con
mắt thế tục. Bằng cách nhại các từ ngữ hiện đại, thế tục, thì Chúa hay Phật trong
cuộc trò chuyện giữa các nhân vật đã bị suồng sã hóa, trở nên mất thiêng: “Bên Đạo
Thiên Chúa chẳng hạn, người ta vẫn gọi các thánh lễ lớn là “hy tế” hoặc là “hy
lễ”...“Chữ nghĩa thâm thúy quá, vậy thì hôm nay anh em ta phải hy sinh thôi”. Là
chó hay lợn chẳng biết, thực khách phải là thượng đế” [34, tr112]. Tác giả còn
nhại“công án thiền” và “diễn ngôn giảng kinh” qua việc thế tục hóa và đương thời
hóa lối diễn đạt tạo hiệu quả thẩm mỹ thú vị trong cuộc trò chuyện của các nhân
vật:“Đức Phật quả là đại từ đại bi, Người anh minh quá. Thầy Hối Minh thấy tự
nhiên tôi thích đọc thì định đặt cho pháp danh là Tái Đạo… Nghĩ cho cùng đạo chứ
có phải phở bò đâu mà lại tái hay chín” [34, tr282]. Hay lúc tới đại điện, tôi căng tai
nghe lén mấy thiếu nữ nói ngọng đứng cạnh Mộc Miên, “Cầu Đức Phật như nai cho
con tai qua lạn khỏi”.Bằng việc nhại các diễn ngôn về tôn giáo- tín ngưỡng, nhà văn
đã bộc lộ được những suy tư, trăn trở xót xa của nhà văn về các chuẩn mực đạo đức
và giá trị văn hoá truyền thống dần dần bị mai một. Nó đã bị tầm thường hóa và
dung tục hóa.
Tập tục đi lễ nhà thờ là một tín ngưỡng trong đời sống người Việt, họ đi lễ nhà
thờ mong giải thoát được những bế tắc, loại bỏ mọi tội lỗi của mình, đó là tập tục
tốt đẹp của người dân Việt. Để tô đậm thêm bức tranh về văn hóa, tôn giáo - tín
ngưỡng, tác giả nhại các hình tượng nhà thờ với tập tục đi lễ. Bằng điều này, nhà
văn giúp chúng ta cảm nhận được một cách sâu sắc hơn các giá trị văn hóa truyền
thống, các tín ngưỡng trong đời sống ngày càng mất đi giá trị. Khi con người cảm
thấy mệt mỏi, chán nản thì thường tìm về với những điều huyền bí. Bằng cách, họ
đi nhà thờ cầu nguyện, để giải thoát những buồn phiền trong lòng và mong mọi điều
tốt đẹp, nên họ nghĩ rằng những cái gì thuộc về những vấn đề thiêng liêng, huyền bí
lúc nào cũng đẹp đẽ nhưng khi được chứng kiến thì lại tạo cho họ một cảm giác thất
vọng, trống trải, niềm tin dần bị mất đi: "Những buổi chiều rỗng tuếch, tôi nằm
nghe ca đoàn giáo xứ luyện hát thanh ca, ngân vút một giọng nữ chua không thể
27
tưởng tượng. Tôi đoán chắc đấy là một thiếu nữ gầy mặt mỏng, khô khan đức hạnh,
nhưng lúc gặp thật lại là một thiếu phụ rất béo, ăn mặc dung tục" [34, tr33]. Việc đi
lễ nhà thờ không còn thiêng liêng, không còn đẹp đẽ mà thay vào đó là sự nhốn
nháo và xô bồ: “Vào đấy như bị lạc nên mọi người quờ quạng hành lễ. Mỗi người
mỗi kiểu, duy nhất giống nhau là ở vẻ lộn xộn” [34, tr341].
Tác giả còn vẽ ra bức tranh tôn giáo - tín ngưỡng đầy màu sắc gắn với cảm
hứng châm biếm, cười cợt, sử dụng ngôn ngữ thông tục, suồng sã để biểu hiện thực
trạng của xã hội: “Hồi cậu lên bảy, ăn vạ giả vờ đòi bú tí, chị lùn lớn sợ cậu hờn
đành chịu, bị cậu cắn suýt đứt cả núm vú trái. Ở ngôi biệt thự này thì ý cậu là ý
Chúa” [34, tr124]. Nhà văn đã đưa nhân vật thần thánh về với đời sống trần tục, ví
nhân vật trong tiểu thuyết như một nữ thánh: “Thời gian đầu biết nàng tôi chân
thành nghĩ đấy là nữ thánh. Hơn nữ còn là nữ thánh được Chúa phái xuống trần
dành riêng cho tôi” [34, tr282]. Nhà văn đã khắc hoạ những con người thế tục đậm
chất hiện sinh, khi bất lực, con người ấy tìm đến với tôn giáo. Thế giới của tôn giáo
là thế giới của lòng tin và Đức tin nên tôn giáo cần ở con người một lòng tin tuyệt
đối, thanh sạch và tận hiến. Nhưng dường như lòng tin đó đã đang dần đổ vỡ trước
một hiện thực phi lý đầy rẫy cái ác, đầy rẫy sự giả dối, lọc lừa.
Văn hóa, tôn giáo-tín ngưỡng là tư tưởng tồn tại lâu đời với những giá trị đẹp
đẽ về đời sống văn hóa cộng đồng, đời sống tâm linh. Nhưng những giá trị này lại
ngày càng có nguy cơ bị đánh mất, kể cả những giá trị đã được định hình như một
chân lý, vì vậy không có cái gì là tuyệt đối mà chỉ tồn tại một cách tương đối. Nhà
văn đã lý giải các tư tưởng từ cái nhìn gần gũi với con người. Văn hóa của người
Việt hiện lên trong trang viết của nhà văn thông qua các nhân vật trong tiểu thuyết,
họ thích ăn thịt chó và thích uống rượu ngoại. Tác giả đã nhại lại những môtip, hình
ảnh tôn giáo, các diễn ngôn tôn giáo gắn với một lớp ngôn từ suồng sã, thông tục,
thậm chí là những câu chửi vỉa hè đối trọng với lớp ngôn từ trang nghiêm của Thiên
Chúa giáo. Nhà văn giúp chúng hình dung được những thực trạng con người dần
dần bị tha hóa và những giá trị văn hóa truyền thống xưa mất đi, thay vào đó là sự
lai tạp trong vấn đề tưởng chừng như nghiêm trang. Các nhà thờ, Đức Phật là những
nơi tôn nghiêm, nhưng ở trong tác phẩm được nhìn từ những điều đáng cười cợt và
28
hoài nghi.Điều này nằm trong xu hướng giải thiêng của văn học Việt Nam đương
đại. Bằng cách giễu nhại về chủ đề văn hóa, tôn giáo-tín ngưỡng, nhà văn hướng
con người đến những điều cao cả, tốt đẹp, nhân bản đích thực.
1.2.2. Chủ đề tình yêu – hôn nhân – gia đình
Tình yêu- hôn nhân- gia đình là cơ sở quan trọng của xã hội loài người. Với
văn chương nghệ thuật đây là vấn đề được quan tâm, rất nhiều nhà văn nhà thơ đã
nâng nó lên thành tầm cao cả nhất của con người. Tình yêu được xây dựng trên ba
niềm say mê, “say mê về tâm hồn dẫn đến sự quý mến, say mê về tài trí dẫn đến
sự kính trọng và say mê về thể xác dẫn đế sự ham muốn”.Văn học truyền thống
hướng đến sự say mê về tâm hồn và tài trí, coi thể xác là cái thứ yếu nổi bật trong
văn học Trung đại và sáng tác của các tác giả tôn thờ sự trinh khiết trong tình yêu.
Bởi vậy, những hình tượng “cô gái đồng trinh”, “Thánh nữ đồng trinh Maria” trở
thành ám ảnh trong thơ Hàn Mạc Tử như biểu hiện thiêng liêng, cao cả nhất của
tình yêu. Nếu tình yêu bước sang giai đoạn hôn nhân thì đòi hỏi sự chung thủy vẫn
là biểu hiện cao cả nhất của tình yêu. Do đó, quan niệm về “Chữ trinh kia cũng có
ba bảy đường” (Truyện Kiều- Nguyễn Du) và lòng chung thủy tồn tại suốt thời kì
phong kiến đến thơ văn hiện đại vẫn là một biểu tượng của tình yêu thiêng liêng.
Nó đã dựng nên tượng đài cuộc sống và văn học những nàng Tô Thị “chờ chồng
hóa đá giữa trời xanh” hay đi vào văn học hiện đại thành các hình tượng bất tử
như Nguyệt (Mảnh trăng cuối rừng), Hường (Bên đường chiến tranh) của Nguyễn
Mình Châu. Tình yêu- hôn nhân- gia đình đó là tất cả những gì mà con người phải
trải qua trong đời sống hiện thực. Đó không chỉ là hạnh phúc mà còn là sự bất
hạnh khổ đau. Mỗi một con người đều có những tâm trạng khác nhau, có người sẽ
thấy sự trải nghiệm của mình trong cuộc sống là bất hạnh, ngược lại có người sẽ
thấy sự trải nghiệm đó là niềm vui và hạnh phúc.
Nằm trong cảm quan hậu hiện đại, các nhà văn đã cảm nhận được sự rạn vỡ
của tình yêu trong cuộc sống và đã thể hiện vào các tác phẩm văn chương đương đại
với tiếng cười giễu nhại đa cung bậc. Phạm Thị Hoài biểu hiện tình yêu bị biến
dạng vì chủ trương xóa bỏ cá tínhtại Việt Nam. Nguyễn Huy Thiệp đưa lên trang
văn tình yêu bị đè bẹp bởi tham đắm sân si gây nên những cảnh cười ra nước mắt.
29
Với Nguyễn Bình Phương các nhân vật trong tiểu thuyết của ông cũng khát khao
tình yêu, kiếm tìm và tận hưởng tình yêu, nhưng vô tình trong cuộc tìm kiếm đó họ
lại dối lừa nhau và lừa dối chính mình trong tình yêu đầy ảo tưởng. Nguyễn Việt Hà
cũng viết về vấn đề này nhưng được gắn với thủ pháp giễu nhại nhằm để giải thiêng
tình cảm thiêng liêng cao quý. Trong tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà các nhân vật
đều mang nỗi cô đơn, lạc lõng, vì tình yêu- hôn nhân- gia đình trong tiểu thuyết của
nhà văn thể hiện sự tan vỡ, không hạnh phúc, bởi những lọc lừa, dối trá, dục vọng,
chạy theo những ham mê vật chất.
Tình yêu của các nhân vật trong tiểu thuyết hiện lên với quan hệ giới tính hết
sức xô bồ và cẩu thả.Nguyễn Việt Hà lột tung tất cả những tấm màn che phủ đó, dí
nó xuống tận cùng, trả nó về với những thuộc tính sơ đẳng của sự giao phối giữa hai
giống đực – cái: “Tôi vô thức dữ tợn cắn vào đầu núm đầu ti phía trái của nàng.
Dưới bầu vú ấy là một quả tim mà tôi nhức nhối mong là nó chỉ đập cho riêng
tôi”[34, tr139], “tôi run run lại gần sờ sờ vào cổ áo, miệng lắp bắp là loại vải này lạ
nhỉ. Hạnh quay lại, mũi lấm tấm mồ hôi, đôi mắt đen có đuôi dài ma mị. Chợt như
bải hoải nàng vòng tay qua tôi, ép đầu tôi xuống, mê man mút lưỡi”[34, tr234].
Trong tình yêu nhà văn chú trọng đến vấn đề tình dục, theo cách nghĩ của nhân vật
Kun: “Bọn con gái bây giờ tệ thật, chỉ thích yêu lăng nhăng chứ không thích lấy
chồng… Tôi với Mộc Miên chưa bao giờ nghĩ tới cưới. Hình như hai đứa cũng chưa
bao giờ nghĩ sẽ có con… Anh chẳng cần. Tình yêu của anh đủ dùng cho cả hai đứa”
[34, tr330]. Theo nhận định của nhà văn: “Tình yêu đực cái chẳng bao giờ là đủ bởi
nó bị tình dục đắp nền. Mà bản chất của tình dục là vô độ, là tham lam sở hữu
chiếm đoạt”. Ba ngôi của người có lẽ sẽ gây ấn tượng cho nhiều người bởi cách mà
tác giả nói về tình yêu và tình dục. Tình yêu ở đây, không còn cái cảm giác run sợ
khi đối diện với mỗi lựa chọn liên quan đến tình yêu, nó làm cho tình yêu bị biến
dạng, không còn linh thiêng nữa, thay vào đó là những cuộc vụng trộm, những ham
muốn bản năng đã lấn át và chi phối hành động của con người.Sẽ khó mà tìm thấy
cái đẹp thánh thiện, cái đẹp có phần huyền ảo lung linh mà người đời vẫn thường tô
vẽ về tình yêu.
30
Tình yêu của các nhân vật trong tiểu thuyết được tác giả đề cập đến đều là mối
tình đầu, nhưng đều rơi vào bi kịch. Đó là mối tình đầu của Kun dành cho Mộc
Miên: “Tôi không thể tha cho em vì tình yêu đầu của tôi không thể tha cho tôi. Tôi
không muốn biết quá khứ của em không phải vì tôi cao thượng mà là vì tôi sợ”[34,
tr139].Chỉ vì ham mê vật chất, chạy theo đồng tiền mà Mộc Miên bỏ rơi Kun. Điều
đó làm cho nhân vật Kun luôn mang nỗi ám ảnh và không thể đến với một ai sau
đó. Đó còn là tình yêu giữa bố Kun và mẹ Kun: “Tôi lúc đó đã biết nhiều đàn bà
nhưng em là mối tình đầu. Mối tình đầu nào thì cũng giống nhau thôi, vừa hồn
nhiên xót xa vừa mơ hồ trong trắng”[34, tr159-160]. Tình yêu giữa Quang Anh và
Hạnh: “Mối tình đầu bao giờ cũng để lại cho người ta một thói quen mới tinh nào
đấy. Thường thường là một thói quen xấu” [34, tr182]. Tình yêu giữa nhân vật
Hằng “bán phở” và Huân “voi”: “Nó bảo là nó chịu đựng mọi thứ rượu chè trai gái
mà không thèm bỏ thằng chồng là bởi số nó phải lấy mối tình đầu… Chỉ vì có trong
trắng tình đầu, con người ta mới vị tha cao cả hy sinh”.
Hôn nhâncủa các nhân vật trong tiểu thuyết là những cuộc hôn nhân xuất phát
từ tình yêu, nhưng những cuộc hôn nhân đó cũng không hạnh phúc. Nhà văn đã chỉ
ra những nguyên nhân của những cuộc hôn nhân không hạnh phúc, vì lầm lỡ mà các
nhân vật đánh mất hạnh phúc của mình. Đó là hôn nhân giữa nhân vật trung niên
với vợ của mình theo sự miêu tả của tác giả: “Cô dâu áo dài trắng voan trắng có sáu
phù dâu cũng áo dài đủ màu. Chú rể com lê cà vạt cũng có sáu thằng đi phù, tất tật
sáu cặp trai gái đấy đều là bọn nghiện nhảy đầm trong băng Huân “voi”… Tiệc cưới
vội vàng tàn thì bỗng thò ra một ban nhạc sống, nó vô tình báo điềm gở của bất
hạnh hôn nhân…Mẹ vẫn nhớ bố lắm, nhất là những lúc mẹ uống thật say” [34,
tr220]. Trong tiệc cưới báo hiệu một điều chẳng lành về cuộc hôn nhân đó. Một lần
trung niên lỡ với một cô bé sinh viênvợ anh ta không thể chấp nhận được. Không
thể vượt qua được sự ám ảnh bị phản bội mà các nhân vật đi đến kết cục phải ly
hôn. Bởi thế, đàn bà khi yêu cũng mãnh liệt nhưng khi bị phản bội cũng vậy. Mẹ
Kun đứng lên đấu tranh giành quyền hạnh phúc cho mình. Nhưng dường như càng
cứng rắn bao nhiêu thì lạicàng tổn thương bấy nhiêu.Nhà văn đã sử dụng lời nói sỗ
sàng nhưng ẩn chứa bên trong đó những nỗi đau dai dẳng không thể nào quên
31
củamẹ Kun: “Tháng tư năm đó tôi và vợ kịch liệt cãi nhau. Cơn nóng giận của đàn
bà là rất khó tả, đại loại nó vừa man rợ vừa hung hãn.“Anh cút đi, cút ngay đi” [34,
tr212].
Nhân vật trong tiểu thuyết của nhà văn thường tan vỡ trong tình yêu hôn nhân,
vậy nênhọ chán nản, sống buông thả. Họtìm đến rượu, trải qua rất nhiều mối tình để
nguôi quên mọi việc,nhưng vẫn luôn cảm thấy cô đơn và lạc lõng. Đó là nhân vật
trung niên:“Suốt sáu năm sau khi ly hôn tôi lang thang sống trên những toa tàu
Thống Nhất. Bảo là đi buôn cũng được, bảo là giang hồ cũng được. Tiền kiếm bao
nhiêu tôi nốc rượu hết”[34, tr273]. Nhà văn còn chỉ ra một trong những lối sống
buông thả của con người, không chỉ đàn ông không vượt qua được cám dỗ trần tục
mà đàn bà cũng vậy, họ chạy theo vật chất, họ cũng dễ dàng ngoại tình: “Vợ tôi bỏ
tôi đi theo thằng buôn gỗ đã được hơn bốn năm rồi. Vì tiền hay vì tình. Năm tháng
ấy đâu đã có những thứ khốn nạn như tivi như tiểu thuyết, thế nhưng đàn bà thỉnh
thoảng vẫn ngoại tình” [34, tr305]. Các nhân vật trong tiểu thuyết cũng trải qua
nhiều cuộc hôn nhân:“Chủ quán là bạn thân từ hồi phổ thông của mẹ tôi. Ba lần đò,
hai ta một Tây nhưng đều đắm cả. Năm mươi tuổi rồi vẫn váy đỏ nơ xanh, chắc sẽ
có hôn nhân lần bốn”[34, tr325]. Và:“Tao nghe hóng hớt là con vợ nó ghen lắm
hả… Thằng Hùng “dế” đã ba đời vợ” [34, tr351].
Dù là trong tình yêu hayhôn nhân các nhân vậtđều sống trong sự lừa lọc, nhìn
ở đâu cũng thấy giả dối. Cuộc đối thoại của Quang Anh và người bạn Tây nói về
lòng thủy chung của đàn bà: “Hay hớm gì mấy con già đài các rởm Hà Nội, toàn đồ
mặt l… Ông muốn lấy gái Việt thì chọn bọn trẻ gốc quê, chúng nó tham tiền nên
chúng nó chung thủy. Yêu đương gái nội bây giờ mà hết tiền thì ngay cả thằng đàn
ông Việt cũng cực khổ, huống chi là Tây”[34, tr327]. Các nhân vật luôn trăn trở,
hoài nghi về cuộc sống, sự giả dối làm cho họ mất niềm tin vào đời sống hiện tại,
không biết đâu là giả đâu là thật. Bởi sự dối trá hiện lên từng ngày, từng giờ và
xung quanh chúng tôi quá đông những cặp hạnh phúc tình nhân, hoặc ràng buộc vợ
chồng. Đôi lúc họ cũng nhắm mắt, chấp nhận buông xuôi theo sự sắp đặt đó nhưng
không thể làm được. Đó là sự sắp đặt của mẹ Kun cho em trai của mình là cậu
Quang Anh: “Chỉ riêng mẹ tôi, đã dắt mối cho cậu một lô một lốc không dưới hai
32
chục cô. Đa phần là những cô vừa đần vừa ngoan, theo đúng tiêu chí “vợ hiền” của
cậu. Có cô thì cậu ghét ngay, nhưng cũng có cô thì cậu chân thành à ơi một đoạn.
Cách đây chừng ba năm cậu suýt lấy một cô giáo viên dạy văn trung học cơ sở. Cô
ta tết tóc đôi, kém tôi chừng dăm tuổi, có vẻ mặt xinh xắn của một thiếu nữ mê
tín… Có diều dở là cô ta không biết đùa” và cô ta cũng là một người dối trá [34,
tr340].
Tình yêu-hôn nhân- gia đình trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hàhiện lên muôn
hình muôn vẻ. Trong tình yêu của các nhân vật đều là mối tình đầu nhưng rơi vào bi
kịch với những nỗi đau về tinh thần, luôn bị dằn vặt và nhớ về mối tình đó. Trong
hôn nhân có những nhân vật xuất phát từ tình yêu để đi đến hôn nhân, có những
nhân vật trải qua không biết bao nhiêu cuộc hôn nhân nhưng cũng không hạnh
phúc.Trong tình yêu- hôn nhân, hay thậm chí họ đang sống với nhau trong một gia
đình đều mang sự dối trá, lừa lọc lẫn nhau. Bằng cách giễu nhại châm biếm câu
chuyện tình yêu-hôn nhân- gia đình hiện đại nhà văn cho thấybi kịch của sự cô đơn,
lạc lõng, bi kịch tan vỡ trong tình yêu - hôn nhân và gia đình của các nhân vật trong
tiểu thuyết.
1.2.3. Chủ đề nghệ thuật đƣơng đại
Những hệ lụy của đô thị hóa không chỉ tác động mạnh mẽ đến đời sống mà
còn làm biến động nghệ thuật, như một sự tất yếu, nghệ thuật đứng trước những
thách thức và nguy cơ. Nguyễn Việt Hà đã không ngần ngại chỉ thẳng những biểu
hiện lệch lạc và sự xuống cấp trầm trọng của nghệ thuật đương đại và của cả giới
nghệ sĩ. Những trang viết về đời sống nghệ thuật của nhà văn hiện lên đầy màu sắc
và rất rõ nét, một đời sống nghệ thuât lẫn lộn thật giả và đầy những sự phi lí.
Rõ ràng, trước xã hội đang ngày một phát triển với tốc độ vũ bão, nghệ thuật
đứng trước những thách thức lớn, nhà văn đã chỉ ra được nghịch lý:“Nghệ thuật
đương đại có nhiều cái rất hay, có điều khi sa vào đấy tôi thấy chới với” [34, tr332].
Hay“văn chương đích thực là cái đạo lý của thường nhật. Cao hơn là đạo lý của bọn
người đã hiểu đang loay hoay sống bám víu. Càng ngày càng đông bọn nghệ sĩ sinh
hoạt khác thường mà tác phẩm lại cực kỳ tầm thường”. Nhà văn còn nhại lại những
triết lý, những đoạn tản văn bình luận về sứ mệnh của nghệ thuật và văn chương:
33
“Nghệ thuật mới hay đương đại cái đếch gì mà do bọn ngoài bảy mươi đầu têu. Văn
chương nước nhà mới thảm, ba tiểu thuyết gia cách tân hàng đầu thì đều đã bát tuần.
Ỉa bô còn rây ra ngoài thế mà vẫn hung hăng sáng tác”[34, tr38]. Các triết lý về thơ
và báo:“Thơ là tiếng nói của đau khổ, còn báo là phương tiện để lãng mạn nuôi
dưỡng nỗi khổ đau ấy”. Còn:“Nhiếp ảnh là nghệ thuật vừa của khoảnh khắc nhất
thời vừa của viên miễn vĩnh cửu” [34, tr57]. Nhà văn đã chỉ ra được thực trạng nghệ
thuật nước ta ngày càng xuống cấp trầm trọng, ai cũng có thể làm nghệ thuật và
sáng tác văn chương. Nó mất đi giá trị, thay vào đó là sự tạp nham, nghệ thuật hay
văn chương không trở nên sâu sắc và thu hút người đọc nữa.
Hoạt động nghệ thuật từ xưa đến nay đều qua các khâu Hiện thực- Nghệ sĩ-
Tác phẩm- Độc giả. Trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà, ta dễ nhận ra mối tương
quan này trong hoạt động nghệ thuật. Rõ ràng khi tác phẩm ra đời, xuất hiện trước
công chúng thì hẳn nhiên số phận của nó đã không còn nằm trong tay của tác giả mà
phụ thuộc vào người tiếp nhận; được đón nhận, nâng niu thì tác phẩm sống; ngược
lại, thì tác phẩm chết. Có thể khẳng định tầm quan trọng của công chúng với hoạt
động nghệ thuật, nhưng công chúng đã không được đào tạo bài bản về việc hưởng
thụ nghệ thuật, sự mù mờ trong cảm nhận dẫn đến những lệch lạc về nhận thức đối
với các tác phẩm. Bởi vậy, nhà văn đã nhắc đi nhắc lại thực trạng và chỉ ra một
trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên. Nhà văn đã đặt ra vấn đề công
chúng thưởng thức nghệ thuật và nghệ thuật của nước ta ngày một già hóa:“Độc giả
bây giờ không đọc sách nữa, hầu hết chỉ biết hóng hớt qua báo chữ hoặc qua truyền
hình, rầm rập bầy đàn rủ nhau đi mua thi tập. Cô bé đương nhiên trở thành một hiện
tượng và mấy giáo sư già quen viết cho mấy tờ báo văn nghệ già chưa bao giờ đọc
cô bé, nhưng khi phải ví dụ đến thơ trẻ thì tỏ vẻ uyên bác quan tâm trịch thượng tiện
mồm nhắc. Nhắc đi nhắc lại trở thành quen tai, cô bé bỗng chốc trở thành tác giả”.
Độc giả quay lưng với nghệ thuật, không tìm thấy được người thưởng thức thực sự,
không tìm được sự đồng cảm trong sáng tạo nghệ thuật, người nghệ sĩ trở nên vong
thân, lạc loài.
Nhà văn cũng chỉ ra một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự vong
thân của nghệ thuật, đó chính là đồng tiền. Đồng tiền không chỉ chi phối đến đời
34
sống con người mà còn chi phối đến cả nghệ thuật. Mảnh đất màu mỡ- nơi đáng lẽ
dành cho những tâm hồn giàu cảm xúc thì thay vào đó là sự khoe khoang thị hiếu
thẩm mỹ của một lũ trọc phú, góp phần làm méo mó bộ mặt nghệ thuật. Đứng trước
việc thị hiếu của người thưởng thức thay đổi, thẩm mỹ nghệ thuật cũng đã khác,
lệch lạc đi, người nghệ sĩ chân chính buộc phải lựa chọn hoặc thay đổi, hay chấp
nhận. Chính từ đây người nghệ sĩ không chịu trở thành “bất lương”đã bỏ cuộc giữa
chừng, rẽ sang một hướng mới, để kiếm kế sinh nhai. Nhiều người khác thì chọn
phương án thứ hai, tiếp tục nhưng “chấp nhận” trở thành khốn nạn với nghệ thuật,
với lương tâm nghề nghiệp của chính mình để đổi lấy miếng cơm qua ngày.
Trong tiểu thuyết, nhà văn đã không ngần ngại thừa nhận việc nghệ thuật
đang trở thành một món hàng kinh doanh, chạy theo thị hiếu tầm thường và nhu
cầu tiêu dùng của trọc phú:“Làm nghệ thuật cũng giống như người ta sống, cái đã
qua là không thể vớt vát. Thầy dạy vẽ tôi cũng có viết, ông bảo: “Viết hoặc vẽ thì
giống hệt đám tuyệt thế cao thủ rút kiếm, đã hạ thủ là bất hoàn… Công năng đơn
giản đầu tiên của nghệ thuật là làm chính mình và người khác bị ám ảnh”. Và
“Tranh treo ở chuồng lợn mà tới cả gần chục nghìn đô thì đắc địa quá rồi còn
gì”[34, tr175]. Nghệ thuật trở thành những sản phẩm mỹ thuật được làm ra hàng
loạt, được sao chép hàng loạt.
Nghệ sĩ đầy rẫy trên thị trường, thật giảlẫn lộn vào nhau: “Hai ông nhà văn, một
đầu nhỏ một đầu to đều thích nói tục ăn mặn đái khai thì làm chủ xị ngày đầu tuần.
Giữa tuần có đám họa sĩ tạm gọi là trẻ đang bán được tranh như tháo cống và nửa
non trong số đấy bị đồn là đồng tính” [34, tr67- 68]. Cuộc triễn lãm mở ra liên miên.
Báo chí hết lời khen ngợi: “Phim ông ta làm về đám trẻ bọn tôi, toàn gắng gượng giả
dối là giả dối, nhưng được rất nhiều giải thưởng kèm theo những lời bình khen là
phim quá trung thực với đời sống đương đại. Cái đêm được giải Cánh Diều bạc, ông
ta người ngắn loay hoay cảm động nhấp nhổm đứng dưới đầu ti của cô người mẫu
chân dài ngây ngô làm em xi, rưng rưng cảm ơn ban tổ chức…” [34, tr37].
Các đoạn phim, chương trình cặp đôi hoàn hảo, các nghệ sĩ danh hài cũng được
tác giả nhại:“Một phim ngắn quay betacam dài chừng mười hai phút, tham lam chồng
chất nhiều ý, đúng theo tính cách của những đứa mê nghệ thuật khát khao muốn
35
khẳng định mình ở đô thị. Kịch bản hời hợt a dua theo thời thượng, có hai đứa con
gái đồng tính vừa dung tục cởi trần vừa thiêng liêng mặc quần “xịp” yêu nhau. Rồi
hai đứa tiếp tục cởi truồng ở trên rừng với thông điệp quyết liệt bảo vệ thiên
nhiên”[34, tr140]. Chương trình “cặp đôi hoàn hảo” đã vào vòng gần cuối. Ban giám
khảo gồm một nam đạo diễn, một nữ ca sĩ và một nhạc sĩ không rõ giới tính đang thi
nhau trình diễn bản thân. Bọn này hồi ỉa bô thì xem lăng nhăng hoạt hình, lớn hơn tí
nữa thì cắm đầu vào truyện tranh. Tới khi hạ bộ lơ thơ lông thì há hốc mồm đần độn
cười, say mê cặp danh hài Xuân Bắc Tự Long. Còn nghe Mr. Đàm nức nở thì nước
mắt nước mũi lả chả. Đại loại, ngu như một con milu” [34, tr181]. “Con bé Hiền tinh
quái còn tiếp thị trên báo giấy báo mạng mấy chiêu nhái kiểu bọn thi ca sĩ “ai đồ” và
người mẫu “nếc tóp mo đồ” [34, tr182]. Nghệ thuật trở nên tạp nham như một thứ
hàng phế phẩm,đáng lẽ là nơi cảm xúc thăng hoa, nhưng thay vào đó lại là những
toan tính, những mưu lợi cá nhân, biến nghệ thuật trở nên lố bịch. Những biến chuyển
to lớn đã phá vỡ nền tảng lối sống bình yên giản dị, con người trở nên trơ lì với rất
nhiều giá trị. Nghệ thuật bị méo mó đi nhiều cả người sáng tác lẫn người thưởng thức.
Bởi thế, nghệ thuật ngày càng bị thụt lùi và biến chất.
Tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà đã phóng chiếu một mảng hiện thực chua chát, đó
là thị hiếu thực dụng trong nghệ thuật và sự vong thân của con người trong xã hội
Việt Nam đương đại. Nhà văn đã chỉ thẳng những biểu hiện lệch lạc và sự xuống
cấp trầm trọng của nghệ thuật đương đại và của giới nghệ sĩ. Nhà văn đã dùng ngòi
bút của mình để vẽ nên một bức tranh ngồn ngộn về hiện thực đời sống, nhìn vào đó
người xem có thể thấy một hiện thực đời sống ngổn ngang và hỗn độn, đầy những
mâu thuẫn và nghịch lí từ trong chính bản thân nó. Nhà văn phanh phui, vạch trần
những tồn tại, những vấn nạn của xã hội đương đại. Một đời sống nghệ thuật lẫn lộn
thật giả và đầy những sự phi lý.
Tiểu kết:Trong tiểu thuyết Ba ngôi của người của Nguyễn Việt Hà, nhà văn
đã vẽ nên một bức chân dung Hà Nội với cuộc sống dung tục, xô bồ với những nhãn
mác rượu tây, loại xe sang trọng.v.v. tạo nên cảm giác bề bộn của đời sống thực tại.
Con người bắt đầu chao chát, thực tế tiền tài địa vị danh lợi dục tình đếm đo, đến
cục cằn thô lỗ độc ác chà đạp phẩm giá lương tri dẫn tới sự suy hoại của từng góc
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người

More Related Content

What's hot

Cái bi và nghệ thuật bi kịch của shakespear qua các vở bi kịch rômeo juliet...
Cái bi và nghệ thuật bi kịch của shakespear qua các vở bi kịch rômeo   juliet...Cái bi và nghệ thuật bi kịch của shakespear qua các vở bi kịch rômeo   juliet...
Cái bi và nghệ thuật bi kịch của shakespear qua các vở bi kịch rômeo juliet...https://www.facebook.com/garmentspace
 
Luận văn: Kiểu nhân vật đi tìm bản ngã trong tiểu thuyết của Haruki Murakami
Luận văn: Kiểu nhân vật đi tìm bản ngã trong tiểu thuyết của Haruki MurakamiLuận văn: Kiểu nhân vật đi tìm bản ngã trong tiểu thuyết của Haruki Murakami
Luận văn: Kiểu nhân vật đi tìm bản ngã trong tiểu thuyết của Haruki MurakamiDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY_1024...
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY_1024...LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY_1024...
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY_1024...PinkHandmade
 
Luận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh thái
Luận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh tháiLuận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh thái
Luận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh tháinataliej4
 
Ngôn ngữ văn chương
Ngôn ngữ văn chươngNgôn ngữ văn chương
Ngôn ngữ văn chươngChamcham239
 
Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...
Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...
Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

What's hot (20)

Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOTLuận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
 
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh ChâuLuận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
 
Luận văn: Phong cách nghệ thuật thơ Ý Nhi, HAY, 9đ
Luận văn: Phong cách nghệ thuật thơ Ý Nhi, HAY, 9đLuận văn: Phong cách nghệ thuật thơ Ý Nhi, HAY, 9đ
Luận văn: Phong cách nghệ thuật thơ Ý Nhi, HAY, 9đ
 
Luận văn: Thi pháp chân không trong tiểu thuyết Kawabata Yasunari
Luận văn: Thi pháp chân không trong tiểu thuyết Kawabata YasunariLuận văn: Thi pháp chân không trong tiểu thuyết Kawabata Yasunari
Luận văn: Thi pháp chân không trong tiểu thuyết Kawabata Yasunari
 
321+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Văn Học – Điểm Cao Nhất Hiện Nay!
321+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Văn Học – Điểm Cao Nhất Hiện Nay!321+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Văn Học – Điểm Cao Nhất Hiện Nay!
321+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Văn Học – Điểm Cao Nhất Hiện Nay!
 
Luận văn: Truyện ngắn Nguyễn Dậu dưới góc nhìn văn hóa, HAY
Luận văn: Truyện ngắn Nguyễn Dậu dưới góc nhìn văn hóa, HAYLuận văn: Truyện ngắn Nguyễn Dậu dưới góc nhìn văn hóa, HAY
Luận văn: Truyện ngắn Nguyễn Dậu dưới góc nhìn văn hóa, HAY
 
Dấu ấn hiện sinh trong tiểu thuyết “Một thế giới không có đàn bà”, HAY
Dấu ấn hiện sinh trong tiểu thuyết “Một thế giới không có đàn bà”, HAYDấu ấn hiện sinh trong tiểu thuyết “Một thế giới không có đàn bà”, HAY
Dấu ấn hiện sinh trong tiểu thuyết “Một thế giới không có đàn bà”, HAY
 
Luận án: Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975
Luận án: Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975Luận án: Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975
Luận án: Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975
 
Cái bi và nghệ thuật bi kịch của shakespear qua các vở bi kịch rômeo juliet...
Cái bi và nghệ thuật bi kịch của shakespear qua các vở bi kịch rômeo   juliet...Cái bi và nghệ thuật bi kịch của shakespear qua các vở bi kịch rômeo   juliet...
Cái bi và nghệ thuật bi kịch của shakespear qua các vở bi kịch rômeo juliet...
 
Luận văn: Kiểu nhân vật đi tìm bản ngã trong tiểu thuyết của Haruki Murakami
Luận văn: Kiểu nhân vật đi tìm bản ngã trong tiểu thuyết của Haruki MurakamiLuận văn: Kiểu nhân vật đi tìm bản ngã trong tiểu thuyết của Haruki Murakami
Luận văn: Kiểu nhân vật đi tìm bản ngã trong tiểu thuyết của Haruki Murakami
 
Luận án: Tư tưởng tự do tinh thần của F.M.Dostoievski và giá trị
Luận án: Tư tưởng tự do tinh thần của F.M.Dostoievski và giá trịLuận án: Tư tưởng tự do tinh thần của F.M.Dostoievski và giá trị
Luận án: Tư tưởng tự do tinh thần của F.M.Dostoievski và giá trị
 
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY_1024...
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY_1024...LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY_1024...
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY_1024...
 
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đLuận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
 
Luận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh thái
Luận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh tháiLuận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh thái
Luận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh thái
 
ANH EM NHÀ KARAMAZOV CỦA DOSTOYEVSKY DƯỚI GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC - TẢI FREE ZA...
ANH EM NHÀ KARAMAZOV CỦA DOSTOYEVSKY DƯỚI GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC - TẢI FREE ZA...ANH EM NHÀ KARAMAZOV CỦA DOSTOYEVSKY DƯỚI GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC - TẢI FREE ZA...
ANH EM NHÀ KARAMAZOV CỦA DOSTOYEVSKY DƯỚI GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC - TẢI FREE ZA...
 
Luận văn: Tiểu thuyết di dân Việt Nam của các nhà văn nữ, HAY
Luận văn: Tiểu thuyết di dân Việt Nam của các nhà văn nữ, HAYLuận văn: Tiểu thuyết di dân Việt Nam của các nhà văn nữ, HAY
Luận văn: Tiểu thuyết di dân Việt Nam của các nhà văn nữ, HAY
 
Luận văn: Đặc điểm nghệ thuật truyện của Kawabata Yasunari, 9đ
Luận văn: Đặc điểm nghệ thuật truyện của Kawabata Yasunari, 9đLuận văn: Đặc điểm nghệ thuật truyện của Kawabata Yasunari, 9đ
Luận văn: Đặc điểm nghệ thuật truyện của Kawabata Yasunari, 9đ
 
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đLuận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
 
Ngôn ngữ văn chương
Ngôn ngữ văn chươngNgôn ngữ văn chương
Ngôn ngữ văn chương
 
Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...
Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...
Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...
 

Similar to Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người

Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdf
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdfNgôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdf
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdfHanaTiti
 
Tailieu.vncty.com the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_t...
Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_t...Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_t...
Tailieu.vncty.com the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_t...Trần Đức Anh
 
Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Tô Hoài.pdf
Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Tô Hoài.pdfNghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Tô Hoài.pdf
Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Tô Hoài.pdfHanaTiti
 
đặC điểm tiểu thuyết hồ biểu chánh
đặC điểm tiểu thuyết hồ biểu chánhđặC điểm tiểu thuyết hồ biểu chánh
đặC điểm tiểu thuyết hồ biểu chánhKelsi Luist
 
BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI CHUYÊN SÂU MÔN NGỮ VĂN 7 DÙNG CHUNG 3 BỘ SÁCH NĂM 202...
BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI CHUYÊN SÂU MÔN NGỮ VĂN 7 DÙNG CHUNG 3 BỘ SÁCH NĂM 202...BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI CHUYÊN SÂU MÔN NGỮ VĂN 7 DÙNG CHUNG 3 BỘ SÁCH NĂM 202...
BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI CHUYÊN SÂU MÔN NGỮ VĂN 7 DÙNG CHUNG 3 BỘ SÁCH NĂM 202...Nguyen Thanh Tu Collection
 
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdfNGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdfNuioKila
 
LUẬN VĂN Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái 5467321.pdf
LUẬN VĂN Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái 5467321.pdfLUẬN VĂN Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái 5467321.pdf
LUẬN VĂN Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái 5467321.pdfNuioKila
 
Luan van (van) chuẩn cuối cungx 2
Luan van (van) chuẩn cuối cungx 2Luan van (van) chuẩn cuối cungx 2
Luan van (van) chuẩn cuối cungx 2hach nguyen phan
 
Notebook Lesson _ by Slidesgo.pptx
Notebook Lesson _ by Slidesgo.pptxNotebook Lesson _ by Slidesgo.pptx
Notebook Lesson _ by Slidesgo.pptxNguynHiu415274
 
Chuyển biến về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật của thơ việt nam nhì...
Chuyển biến về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật của thơ việt nam nhì...Chuyển biến về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật của thơ việt nam nhì...
Chuyển biến về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật của thơ việt nam nhì...jackjohn45
 
PHONG TRÀO THƠ MỚI 30-45 (CÁC NHÀ THƠ TRONG VÀ NGOÀI NHÀ TRƯỜNG)
PHONG TRÀO THƠ MỚI 30-45 (CÁC NHÀ THƠ TRONG VÀ NGOÀI NHÀ TRƯỜNG)PHONG TRÀO THƠ MỚI 30-45 (CÁC NHÀ THƠ TRONG VÀ NGOÀI NHÀ TRƯỜNG)
PHONG TRÀO THƠ MỚI 30-45 (CÁC NHÀ THƠ TRONG VÀ NGOÀI NHÀ TRƯỜNG)PhcCtTngNguyn
 
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX nataliej4
 
PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC
PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC
PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC nataliej4
 
Xuân diệu về tác gia và tác phẩm
Xuân diệu về tác gia và tác phẩmXuân diệu về tác gia và tác phẩm
Xuân diệu về tác gia và tác phẩmjackjohn45
 
Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết hồ anh tháitruonghocso.com
Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết hồ anh tháitruonghocso.comNghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết hồ anh tháitruonghocso.com
Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết hồ anh tháitruonghocso.comThế Giới Tinh Hoa
 
Tailieu.vncty.com yeu to-ky_ao_trong_sang_tac_vo_thi_hao_(qua_tieu_thuyet_g...
Tailieu.vncty.com   yeu to-ky_ao_trong_sang_tac_vo_thi_hao_(qua_tieu_thuyet_g...Tailieu.vncty.com   yeu to-ky_ao_trong_sang_tac_vo_thi_hao_(qua_tieu_thuyet_g...
Tailieu.vncty.com yeu to-ky_ao_trong_sang_tac_vo_thi_hao_(qua_tieu_thuyet_g...Trần Đức Anh
 
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdfNGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdfHanaTiti
 

Similar to Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người (20)

Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdf
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdfNgôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdf
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdf
 
123
123123
123
 
Tailieu.vncty.com the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_t...
Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_t...Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_t...
Tailieu.vncty.com the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_t...
 
Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Tô Hoài.pdf
Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Tô Hoài.pdfNghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Tô Hoài.pdf
Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Tô Hoài.pdf
 
đặC điểm tiểu thuyết hồ biểu chánh
đặC điểm tiểu thuyết hồ biểu chánhđặC điểm tiểu thuyết hồ biểu chánh
đặC điểm tiểu thuyết hồ biểu chánh
 
BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI CHUYÊN SÂU MÔN NGỮ VĂN 7 DÙNG CHUNG 3 BỘ SÁCH NĂM 202...
BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI CHUYÊN SÂU MÔN NGỮ VĂN 7 DÙNG CHUNG 3 BỘ SÁCH NĂM 202...BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI CHUYÊN SÂU MÔN NGỮ VĂN 7 DÙNG CHUNG 3 BỘ SÁCH NĂM 202...
BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI CHUYÊN SÂU MÔN NGỮ VĂN 7 DÙNG CHUNG 3 BỘ SÁCH NĂM 202...
 
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdfNGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
 
LUẬN VĂN Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái 5467321.pdf
LUẬN VĂN Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái 5467321.pdfLUẬN VĂN Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái 5467321.pdf
LUẬN VĂN Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái 5467321.pdf
 
Luan van (van) chuẩn cuối cungx 2
Luan van (van) chuẩn cuối cungx 2Luan van (van) chuẩn cuối cungx 2
Luan van (van) chuẩn cuối cungx 2
 
Notebook Lesson _ by Slidesgo.pptx
Notebook Lesson _ by Slidesgo.pptxNotebook Lesson _ by Slidesgo.pptx
Notebook Lesson _ by Slidesgo.pptx
 
Chuyển biến về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật của thơ việt nam nhì...
Chuyển biến về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật của thơ việt nam nhì...Chuyển biến về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật của thơ việt nam nhì...
Chuyển biến về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật của thơ việt nam nhì...
 
minh chau.pdf
minh chau.pdfminh chau.pdf
minh chau.pdf
 
PHONG TRÀO THƠ MỚI 30-45 (CÁC NHÀ THƠ TRONG VÀ NGOÀI NHÀ TRƯỜNG)
PHONG TRÀO THƠ MỚI 30-45 (CÁC NHÀ THƠ TRONG VÀ NGOÀI NHÀ TRƯỜNG)PHONG TRÀO THƠ MỚI 30-45 (CÁC NHÀ THƠ TRONG VÀ NGOÀI NHÀ TRƯỜNG)
PHONG TRÀO THƠ MỚI 30-45 (CÁC NHÀ THƠ TRONG VÀ NGOÀI NHÀ TRƯỜNG)
 
Luận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Danh Lam dưới góc nhìn Liên văn bản
Luận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Danh Lam dưới góc nhìn Liên văn bảnLuận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Danh Lam dưới góc nhìn Liên văn bản
Luận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Danh Lam dưới góc nhìn Liên văn bản
 
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
 
PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC
PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC
PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC
 
Xuân diệu về tác gia và tác phẩm
Xuân diệu về tác gia và tác phẩmXuân diệu về tác gia và tác phẩm
Xuân diệu về tác gia và tác phẩm
 
Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết hồ anh tháitruonghocso.com
Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết hồ anh tháitruonghocso.comNghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết hồ anh tháitruonghocso.com
Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết hồ anh tháitruonghocso.com
 
Tailieu.vncty.com yeu to-ky_ao_trong_sang_tac_vo_thi_hao_(qua_tieu_thuyet_g...
Tailieu.vncty.com   yeu to-ky_ao_trong_sang_tac_vo_thi_hao_(qua_tieu_thuyet_g...Tailieu.vncty.com   yeu to-ky_ao_trong_sang_tac_vo_thi_hao_(qua_tieu_thuyet_g...
Tailieu.vncty.com yeu to-ky_ao_trong_sang_tac_vo_thi_hao_(qua_tieu_thuyet_g...
 
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdfNGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
 

More from Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562

Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 

More from Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562 (20)

Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
 
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
 
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.docNghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
 
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.docXây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
 
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.docPhát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
 
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
 
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
 
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
 
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
 
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
 
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.docÁnh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
 
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
 
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
 
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
 
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
 
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
 
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.docDiễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
 

Recently uploaded

3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfVyTng986513
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxAnAn97022
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANGPHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANGhoinnhgtctat
 

Recently uploaded (20)

3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANGPHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
 

Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người

  • 1. 1 MỞ ĐẦU 1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài 1.1.Giễu nhại với tư cách là một thủ pháp nghệ thuật đặc hiệu đã xuất hiện từ lâu và sớm được các nhà nghiên cứu quan tâm nhưng tập trung nhất trong công trình của các nhà Hình thức luận Nga như Bakhtin, Genette, Linda Hucheon.v.v. Theo hầu hết giới nghiên cứu, dù nhìn từ phương diện nào thì giễu nhại cũng có hai đặc điểm chính: Nhại và giễu, tức bắt chước và châm biếm. M.Bakhtin đã xem giễu nhại là “nói bằng giọng của kẻ khác” nhưng đưa vào đó một khuynh hướng đối lập hẳn với khuynh hướng nghĩa của lời người đó. Giọng thứ hai, sau khi chuyển vào trong lời nói của kẻ khác thì xung đột thù địch với chủ nhân của nó và “buộc nó phải phục vụ cho mục đích đối lập của mình”[11,tr187]. Bằng lời văn giễu nhại, các tác giả đã làm đảo lộn những cái gì gọi là nghiêm túc, lột bỏcái hào nhoáng để trơ ra cái giả dối, cái lố bịch, cái đáng cười. Đó là cách giải thiêng trong văn học. Giễu nhại vừa lột tả được một phần bản chất của đối tượng, vừa dung hợp được cái bác học của suy tư với cái suồng sã của văn hóa bình dân. Và với lối tự nhại, văn chương chẳng những là sự hoài nghi về các trật tự đời sống mà còn là sự nghi ngờ chính những khả năng, sứ mệnh mà người ta thường đặt ra cho nó. Giễu nhại chôn sâu cái cũ để gieo hạt mầm cho cái mới đâm chồi, đó cũng là điều tất yếu của lịch sử và văn học. 1.2.Tiểu thuyết là thể loại có sức dung chứa lớn, là thể loại chủ đạo của văn học. Nó thể hiện nhiều ưu thế trong việc chiếm lĩnh đời sống cũng như tâm hồn con người. Vì vậy, các nhà văn, các nhà lý luận, phê bình đã nhận ra rằng “không thể khuôn tiểu thuyết vào một số nguyên tắc cứng nhắc, bất biến, mà chính là phải mở ra những khả năng tiềm tàng vốn có của thể loại này”. Có như vậy, văn học mới có thể phản ánh được cả chiều rộng lẫn bề sâu phức tạp và phong phú của cuộc sống đương đại. Vào những thập niên cuối thế kỉ XX, một thế hệ nhà văn đã nỗ lực cách tân tiểu thuyết và có những đóng góp quan trọng vào quá trình hiện đại hóa văn xuôi Việt Nam vốn đã được khởi động từ những năm đầu thế kỉ XX. Cùng với Bảo Ninh, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh, Nguyễn Việt Hà là người luôn trăn trở tìm kiếm những hình thức biểu đạt nghệ thuật mới mang
  • 2. 2 đậm cảm quan hiện đại và hậu hiện đại. Với khát vọng theo đuổi nghệ thuật một cách say mê và với sức viết mạnh mẽ dồi dào, vốn liếng giàu có phong phú, trải qua hành trình sáng tạo gần hai mươi năm, Nguyễn Việt Hà đã tạo nên một sự nghiệp vững chải, tạo được dấu ấn riêng trong giới nghệ sĩ cũng như nhiều thế hệ độc giả. Anh xứng đáng là gương mặt tiêu biểu của văn xuôi đương đại Việt Nam. 1.3. Các tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà từ Cơ hội của chúa, Khải huyền muộn đến Ba ngôi của ngườiđã thu hút được sự quan tâm chú ý của giới nghiên cứu, phê bình và những người yêu văn chương. Nó đã tạo ra làn sóng phê bình tương đối sôi động, tạo nên những“hiện tượng đời sống” trong văn học Việt Nam. Đây là những tác phẩm nghệ thuật độc đáo, thể hiện ý thức đổi mới về cảm quan hiện thực và về cách viết, đó là lối ưa trào tiếu, giễu nhại, mở ra một hướng tiếp cận mới cho người đọc. Những năm gần đây, tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà đã trở thành đối tượng của nhiều công trình nghiên cứu khoa học,chúng được khám phám theo nhiều góc nhìn khác nhau như góc nhìn văn hóa, liên văn bản, tự sự học và thi pháp học.v.v. Đặc biệt với thủ pháp giễu nhại, nhà văn đã tạo nên một phong cách rất riêng, một lối viết rất lạ so với các nhà văn cùng thời. Không giống với giọng nhại của các nhà tiên phong buổi đầu đổi mới thường xót xa, bi đát hay cay độc mà nhại trong tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà với cảm hứng cười cợt, châm biếm, hài hước nhằm phê phán, tố cáo đả kích về sự nhốn nháo, dung tục, pha tạp của đời sống thị dân nói chung và Hà Nội nói riêng. Ở đây, giễu nhại được nhà văn Nguyễn Việt Hà sử dụng không chỉ là một thủ pháp nghệ thuật đơn thuần mà còn trở thành một ý niệm chi phối đến cả quá trình sáng tác, đặc biệt là trong việc tổ chức thế giới hình tượng nghệ thuật. Điều đó được thể hiện rõ nhất trong tiểu thuyết Ba ngôi của người. Tiếp cận tiểu thuyết Ba ngôi của ngườicủa Nguyễn Việt Hà từ phương diện nghệ thuật giễu nhại, theo người viết là một hướng đi có hiệu năng. Qua đó, giúp chúng ta có được cái nhìn toàn diện, sâu sắc về thế giới nghệ thuật của Nguyễn Việt Hà để từ đó làm cơ sở cho việc hiểu đúng về nhà văn cũng như những giá trị nội dung và nghệ thuật trong các tác phẩm của ông. Hơn thế nữa, cũng từ đây thấy được vị trí và đóng góp của ông đối với tiến trình văn học hiện đại Việt Nam trên một phương diện cụ thể là nghệ thuật giễu nhại.
  • 3. 3 2. Lịch sử vấn đề Trong phạm vi tư liệu khảo sát được, người viết tạm phân thành hai loại: Những công trình có liên quan trực tiếp và gián tiếpđến đề tài sau: - Những công trình liên quan gián tiếp đến đề tài Đây là các công trình bàn về nghệ thuật giễu nhại nói chung và cách tân tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà, nhưng đã truyền cho chúng tôi nhiệt hứng say mê, tìm tòi và những gợi ý quý báu để tiến hành nghiên cứu đề tài. Cụ thể là những bài viết sau đây: *Những công trình, bài báo bàn về giễu nhại Aristotle có câu nói nổi tiếng “người là sinh vật duy nhất biết cười”. Tiếng cười trong văn học được biểu hiện dưới nhiều hình thức: hài hước, giễu nhại, trào lộng, trào phúng, trào tiếu nhằm mỉa mai, châm biếm. Nhiều công trình nghiên cứu văn học Việt Nam sau 1975 đã đề cập đến cái hài trong tác phẩm với cảm quan trào lộng, trào tiếu, giải thiêng những giá trị cũ đã từng ăn sâu, bám rễ trong đời sống văn học và tâm thức dân tộc. Nhà nghiên cứu Lã Nguyên trong bài “Nhìn lại những bước đi, lắng nghe những tiếng nói”đã khẳng định đặc điểm nổi bật của văn học Việt Nam sau 1975 với: “Giọng lu ló sừng sộ, tiếng gầm gào cuộn réo trong văn học thời kì đổi mới không thể cất lên thành tiếng hát. Cái vô lí, cái phi lí, chất văn xuôi và vẻ đẹp của đời sống phồn tạp chỉ có thể hóa thân vào tiếng cười trào tiếu, giễu nhại để văn học thế sự biến thành tiếng nói nghệ thuật”. Hình như giễu nhại đã trở thành kiểu quan hệ đời sống mang phong cách thời đại.Thời xa vắng của Lê Lựu là một tiểu thuyết giễu nhại độc đáo. Nó không cần sử dụng những thủ pháp lạ hoá quen thuộc như phóng đại, hay vật hoá hình ảnh con người để làm nổ ra tiếng cười. Nó chỉ đơn giản thuật lại những chuyện “thật như đùa” mà đã có thể tạo ra được hình tượng giễu nhại. Chưa mấy ai quên tiếng cười giễu nhại trong tiểu thuyết Ly thân của Trần Mạnh Hảo. Có thể nghe thấy tiếng cười giễu nhại thấm đẫm cảm hứng trào lộng trong nhiều truyện ngắn, tiểu thuyết của Ma Văn Kháng, Nguyễn Quang Thân, Nguyễn Khắc Trường… Nhưng hấp dẫn nhất vẫn là tiếng cười trào tiếu, giễu nhại trong sáng tác của Phạm Thị Hoài và Nguyễn Huy Thiệp. Trong sáng tác của Phạm
  • 4. 4 Thị Hoài, người kể chuyện thường xuất hiện ở ngôi thứ nhất, xưng “tôi”. Ở vị thế của cái “tôi”, người kể chuyện của Phạm Thị Hoài là nhà dân chủ vĩ đại của ngôn từ. Phạm Thị Hoài trao gửi cho người kể chuyện một cách tài tình, tinh tế thứ ngôn ngữ bỗ bã, suồng sã. Nhiều nhà văn cũng gửi vào cửa miệng nhân vật lời nói suồng sã như thế. Nó giễu nhại tất cả các lời nói chính thống, quan phương, thứ lời nói có vẻ nghiêm túc, nhưng chứa đựng bên trong rất nhiều sự giả dối. Các nhà nghiên cứu, phê bình đã nói rất nhiều về hiện tượng giễu nhại trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp. Nhiều truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp là hình tượng giễu nhại của các thể loại ngôn từ đã bị biến thành lời nói phong cách hóa (www.talawas.org). Trong bài viết Sự đa dạng về bút pháp nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới,Mai Hải Oanh đề cập đến bút pháp trào lộng, giễu nhại trong tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới. Mai Hải Oanh cho rằng, sự xuất hiện của bút pháp trào lộng ngày càng nhiều trong tiểu thuyết đương đại xuất phát từ ba nguyên nhân cơ bản. Thứ nhất, có ý nghĩa cân bằng sinh thái văn học sau một thời gian dài văn học ta quá nghiêm trang; thứ hai, là một nhu cầu giải tỏa áp lực của đời sống hiện đại; thứ ba, thể hiện tinh thần dân chủ hóa trong văn học. Sau đó, tác giả bài viết đã đề cập đến các tác phẩm đã sử dụng bút pháp này thành công như Thời xa vắng (Lê Lựu), Thiên sứ (Phạm Thị Hoài), Cõi người rung chuông tận thế và Mười lẻ một đêm (Hồ Anh Thái), Thượng đế thì cười (Nguyễn Khải), T. mất tích (Thuận)… (http://vietvan.vn/vi/bvct/id265) Trong bài viết Giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại, Thái Phan Vàng Anh đã đề cập đến giọng điệu giễu nhại, trào phúng trong tiểu thuyết giai đoạn này. Tác giả cho rằng: “tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 ngày càng nhạt dần về sử thi, tiếp xúc thô bạo đến suồng sã về hiện thực, cái bi không còn dè dặt, tinh thần hài hước gia tăng. Cái nhìn phi thành kính, suồng sã, giễu nhại của chất tiểu thuyết đã quy định một giọng điệu riêng của tiểu thuyết đương đại. Thái Phan Vàng Anh chỉ ra giọng điệu hài hước trong tiểu thuyết đương đại có nhiều cấp độ khác nhau, có giọng châm biếm nhẹ nhàng nhưng sâu cay, có giọng trào lộng, châm chích, có giọng tự trào, có giọng giễu nhại. Nhiều tác phẩm đã để lại ấn tượng sâu sắc nhờ người kể chuyện “biết đùa”. Theo tác giả giọng điệu trào phúng, hài
  • 5. 5 hước đã trở thành một giọng chủ, đem lại sắc thái mới cho văn học nói chung và tiểu thuyết đương đại nói riêng” (http://vanhoanghean.com.vn). Với bài viết Hài hước, trào tiếu, sân khấu hóa trong tiểu thuyết gần đây, Nguyễn Văn Tùng đã đề cập hai tiểu thuyết được viết theo lối hài hước, trào tiếu và sân khấu hóa, đó là cuốn SBC là Săn bắt chuột ( Hồ Anh Thái) và 3339[Những mảnh hồn trần] (Đặng Thân). Tác giả đã chỉ ra:“yếu tố trào tiếu, hài hước thể hiện trong hai tác phẩm này từ bình diện nội dung phản ánh và nghệ thuật biểu hiện. Cụ thể SCB là Săn bắtchuột, đối tượng giễu nhại của Hồ Anh Thái là rất nhiều loại người trong xã hội: từ nhà thơ, nhà báo, đến đại gia, chân dài…Cả một thế giới nhân vật hiện lên với sự lố lăng kệch cỡm. Ở Những mảnh hồn trần, tính giễu nhại thể hiện đậm nét trong việc Đặng Thân tái hiện những vấn đề nóng của đời sống, khai thác ở nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau” (http://vannghetre.com.vn). *Những công trình, bài báo liên quan đến tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà Ở bài viết Nghệ thuật tổ chức điểm nhìn trong tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới tác giả Mai Hải Oanh đề cập đến việc cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà là hiện tượng “gấp bội điểm nhìn” ở đó một nhân vật được nhìn cùng lúc với nhiều điểm nhìn khác nhau và kĩ thuật lồng tiểu thuyết với kết cấu độc đáo (http://d.violet.vn) . Cùng vấn đề này trong bài viếtKhuynh hướng lạ hóa trong tiểu thuyết, truyện ngắn Việt Nam đương đại- một số bình diện tiêu biểucủa Nguyễn Thành, tác giả đã đề cập đến kết cấu tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà theo lối truyện lồng truyện và có sự tổng hợp thể loại (http://vanhaiphong.com). Đỗ Ngọc Thạch trong tiểu luận Vài đặc điểm văn xuôi hiện đạilại xem tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà là cái nhìn về một đời sống hỗn loạn, đổvỡ với sự thay đổi điểm nhìn và ngôi kể liên tục, tính phân mảnh của thể loại, biến tiểu thuyết thành trò chơi ngôn ngữ (http://bichkhe.org). Đại Lãi, trong bàiTiểu thuyết Nguyễn Việt Hà và thi pháp tác giả nhận xét rằng: “Nghịch dị và giễu nhại không phải cái mới hoàn toàn của văn chương hậu hiện đại. Vốn, nó đã xuất hiện từ lâu trong truyền thống. Tuy nhiên, để thể hiện “thái độ hậu hiện đại”, chúng thường xuyên được sử dụng, không chỉ như những thủ
  • 6. 6 pháp, mà quan trọng hơn, là một yếu tính: trở thành hình thức của thế giới quan, một “nguyên tắc” tổ chức văn bản. Như thế, điều mà nền văn chương đậm tính “sử thi” trước đó chưa cho phép nghệ sĩ tự do khai thác, thì ở đây, lại được nhiều nghệ sĩ tô đậm. Đặc biệt không giống với giọng nhại ở các nhà tiên phong buổi đầu đổi mới, thường xót xa bi đát, cay độc (như Nguyễn Huy Thiệp chẳng hạn), quãng cách về thời thế khiến nhại trong văn Nguyễn Việt Hà gắn nhiều hơn với bỡn cợt, với cái giễu. Chống lại sự đơn điệu, nhại trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà vừa “lột tả” được một phần bản chất (có thật) của đối tượng, vừa dung hợp được cái bác học của suy tư với cái suồng sã của văn hoá bình dân và sức mạnh vô địch của trào tiếu dân gian”(http://giaitri.vnexpress.net). Các bài báo, tiểu luận và công trình nghiên cứu trên đây đã góp thêm những cái nhìn mới về sự cách tân nghệ thuật trong các sáng tác của Nguyễn Việt Hà. Đây cũng là nguồn tài liệu để chúng tôi có thể tham khảo, vận dụng trong quá trìnhtriển khai đề tài. - Những công trình liên quan trực tiếp đến đề tài Nguyễn Việt Hà là một trong những cây bút đương đại mà sáng tác của ông đã tạo được tiếng vang nhất định trên văn đàn thế giới trong nước và thế giới. Ngay từ khi xuất hiện với cuốn tiểu thuyết đầu tiên Cơ hội của chúa, Nguyễn Việt Hà đã được coi là một hiện tượng văn học. Tiếp theo, tác giả đã cho ra đời cuốn tiểu thuyết thứ hai Khải huyền muộn cũng nằm trong sự đón đợi của độc giả. Và gần đây nhất, cuốn tiểu thuyết Ba ngôi của người khi mới phát hiện cũng đã tạo nên một cơn sốt kiếm tìm của người yêu văn học. Xung quanh hiện tượng Nguyễn Việt Hà đã cho thấy có nhiều ý kiến phê bình gắn liền với những cách nhìn và sự đánh giá khác nhau, thậm chí là đối lập nhau. Nhưng, nhìn chung giới phê bình nghiên cứu và cả giới sáng tác đều đã đánh giá cao những nỗ lực cách tân tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà, từ những cảm quan, ngôn ngữ, đến tư duy nghệ thuật và điểm nhìn trần thuật trong tác phẩm.Nhưng nổi bật lên tất cả trong sáng tác của ông là nghệ thuật trào tiếu, giễu nhại. Lam Thu (2014),trong bài Hà Nội xấu xí và nhốn nháo trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà cho rằng, nhà văn: “nhại lại những nhân vật lịch sử, nhân vật cách
  • 7. 7 mạng, các đoạn văn bình luận về phố, về tôn giáo, triết học và nghệ thuật”.Trong bài Dương Trung Quốc giật thọt khi đọc tiểu thuyết Nguyễn Việt Hàcũng chính Lam Thu đã cho rằng, Nguyễn Việt Hàđã đề cập đến những vấn đề về Hà Nội trên nhiều phương diện của cuộc sống:“Trong Ba ngôi của người, Nguyễn Việt Hà đã dựng lại chân dung Hà Nội đương đại. Đó là một đô thị với đủ thứ nhốn nháo, xấu xí, đủ gương mặt đại diện cho những tầng lớp thị dân”. Cùng viết vềthành phố nghìn năm văn hiến, nhưng đây là một cách viết độc đáo, mới mẻ của tác giả, cho chúng ta hình dung được bức tranh đời sống từ xưa đến nay, từ đó thấy được sự đau lòng của tác giả trước sự xô bồ, sự lai tạp và sự tha hóa đạo đức của thị dân Hà Nội(http://giaitri.vnexpress). Hoài Nam trong bài viết Hà Nội trong hai cái nhìnnhận xét về tiểu thuyết Ba ngôi của người:“Dựng lên một Hà Nội trai lơ tinh nghịch, khác hẳn một Hà Nội đăm chiêu khắc khổ như trong hình dung chung của nhiều người về Hà Nội thời ấy. Họ khắc tạc chân dung của một Hà Nội bấn loạn. Làm ăn buôn bán, sáng tạo nghệ thuật hay đơn giản như yêu đương, ở đâu cũng thấy bấn loạn!Hơn thế nữa, còn là một Hà Nội của chủ nghĩa tiêu dùng phì đại, một tinh thần bái vật giáo hàng hóa đến mức điên khùng. (Ở phương diện này, Ba ngôi của người có thể xem như một “tập đại thành” của các nhãn mác thời trang hàng hiệu, rượu ngoại, xe hơi, điện thoại cao cấp).Nhìn Hà Nội qua một tấm gương lồi, Nguyễn Việt Hà thường xuyên phát hiện được những hình ảnh, những chi tiết, những hiện tượng cực kỳ nghịch dị, và anh cũng dùng một hệ thống ngôn từ cực kỳ nghịch dị để diễn đạt những phát hiện ấy. (Nhạc chế, ca dao tân thời, những câu nói đầu miệng của vỉa hè Hà Nội, thậm chí cả những câu chửi rất tục, xuất hiện dày đặc trong Ba ngôi của người, tạo nên một đối trọng với lớp ngôn từ thành kính trang nghiêm khi nhà văn viết về những tiểu truyện Thiên Chúa giáo)”(http://antgct.cand.com.vn). Viết về những phương diện nghệ thuật đặc sắc trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà trong bài Mộtgiọng điệu tiểu thuyết, Nguyễn Thụy Kha nhận định: “Nói đến sự thay đổi điểm nhìn, mạch độc thoại, đối thoại của các nhân vật, thời gian trong tiểu thuyết đi từ hiện đại đến quá khứ, từ dương thế đến âm ty, cấu trúc của tiểu thuyết vừa đóng vừa mở gây sự tò mò cho các độc giả và đặc biệt đó là một giọng điệu rất riêng của Nguyễn
  • 8. 8 Việt Hà. Ba ngôi của người lôi cuốn vì giọng điệu tưng tửng kiểu thị dân không bị cảm xúc chi phối, vì những con chữ nhặt từ đời thường lần đầu tiên xuất hiện làm mới mẻ giai điệu văn xuôi. Để lôi cuốn theo cách của mình, Nguyễn Việt Hà thường xuyên dùng thủ pháp đảo ngữ của thơ, làm tăng ấn tượng” (http://laodong.com.vn). Trúc Anh, trong bài Ký ức quẩn quanh của những kiếp ngườinhận xét rằng, nhà văn sẽ : “Dẫn dắt người đọc xuôi ngược vật vã với những tuyến thời gian, khi là thời Lê Trung Hưng, khi là thời Trần, lúc lại là chuyện của Ký Con, Nguyễn Thái Học thủ lĩnh của Việt Nam Quốc dân Đảng. Những nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử được nhà văn tóm ra như bất chợt, rồi nhồi vào câu chuyện của mình, thông qua kiếp luân sinh của nhân vật trung niên, cùng hồi ức của Kun và Quang Anh. Nguyễn Việt Hà đã dựng nên một sân khấu đời, để trên đó các nhân vật của anh tha hồ mà diễn, tha hồ mà sống, tha hồ mà làm tình, tha hồ mà nhạt nhẽo, tha hồ mà dối gạt lừa lọc, tha hồ mà thương xót nhau”(http://anninhthudo.vn). Trong bài Văn chương ấy mà,Nhị Linh tiếp tục chỉ ra những điểm mới trong tác phẩm Ba ngôi của người: “Với một cách viết văn xuôi mông lung hời hợt trộn lẫn với vờ vịt nhưng sâu sắc, sử dụng ngôn ngữ phong phú, nhắc đến các nhà văn, các chi tiết lịch sử lên án đạo đức giả và những cái giả dối đó là “một kiểu giả dối Hà Nội rất mới, đã âm thầm kết tinh trong những nhộn nhạo năm tháng vừa qua, những láo nháo tình tiền và những thum thủm quán rượu quán bia ven bờ sông hay lấp nhấp phố phường”(http://nhilinh.blog.blogsport). Lạc Thành trong bài Người mang tên vợ Nguyễn Việt Hà, Nhà văn phải điêu toađã cảm nhận một cách sâu sắc về các sáng tác của Nguyễn Việt Hà, người: “có lối dẫn dắt người đọc xuôi ngược với những tuyến thời gian có nhiều góc nhìn mới, tạo ra sức hút đặc biệt, nhất là trong tiểu thuyết mới Ba ngôi của người, Nguyễn Việt Hà được xem như một cây bút đô thị khá đặc sắc. Trong văn của anh, chất phố phường trào lộng cay đắng vẫn không giấu những trang trữ tình rất Hà Nội”(www.doisongphapluat.com). Tác giả Nam Phú trong bàiNăm của tiểu thuyết Việtđã nhận định: “Cho dù Ba ngôi của người có thể gây thất vọng so với Cơ hội của Chúa và Khải huyền muộn nhưng vẫn là Nguyễn Việt Hà ưa lối giễu nhại, trào tiếu những gì đang hiện
  • 9. 9 hữu”.Đó là một nhận định thể hiện được nghệ thuật đặc trưng của nhà văn được sử dụng trong sáng tác của mình và đặc biệt là trong tiểu thuyết Ba ngôi của người (http://tuoitre.vn). Các bài báo và công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp và gián tiếp đến đề tài nghiên cứu của các tác giảtrên đây là cơ sở và nguồn tài liệu quan trọng,giúptôi tham khảo, tiếp thu và vận dụng trong việc nghiên cứu đề tài Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người của Nguyễn Việt Hà. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người của Nguyễn Việt Hà, được tập trung thể hiện chủ yếu trên các bình diện đề tài, chủ đề, tư tưởng, nhân vật, biểu tượng, trần thuật, ngôn ngữ và thể loại. Phạm vi nghiên cứu Để triển khai nghiên cứu đối tượng như trên đã xác định, người viết tập trung khảo sát tiểu thuyết Ba ngôi của người của Nguyễn Việt Hà; ngoài ra, còn khảo sát các tác phẩm khác trong sáng tác của ông, các tác phẩm trong nước và ngoài nước để soi chiếu và đối sánh nhằm chỉ ra chỗ tương đồng và dị biệt về nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của ngườinói riêng và sáng tác nói chung của Nguyễn Việt Hà. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Quá trình nghiên cứu, người viết vận dụng những phương pháp và thủ pháp chủ yếu sau: Phân tích- tổng hợp Phân tích cả về phương diện nội dung và hình thức, trên cơ sở đó tổng hợp và khái quát theo những vấn đề cơ bản của đề tài nghiên cứu. So sánh- đối chiếu:So sánh đối chiếu trên hai bình diện đồng đại và lịch đại - Về đồng đại: So sánh tiểu thuyết Ba ngôi của ngườicủa Nguyễn Việt Hà với tác phẩm của các nhà văn cùng thời để chỉ ra chỗ tương đồng và dị biệt trong nghệ thuật giễu nhại của ông.
  • 10. 10 -Về lịch đại: So sánh các tác phẩm được Nguyễn Việt Hà sáng tác trong các giai đoạn khác nhau để làm rõ sự tiếp biến trong nghệ thuật giễu nhại của ông, cũng như so sánh tiểu thuyết Ba ngôi của ngườivới các tiểu thuyết khác trong văn học Việt Nam ra đời trước đó để phát hiện những đặc sắc trong nghệ thuật giễu nhại của Nguyễn Việt Hà. Thống kê- phân loại Thống kê các yếu tố thuộc về nội dung và hình thức của tác phẩm từ đó có thêm cơ sở để đi đến nhận định, khái quát và đánh giá về vấn đề nghiên cứu. Cấu trúc- hệ thống Nghiên cứu nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người của Nguyễn Việt Hà trong mối quan hệ chặt chẽ giữa các yếu tố, các bình diện khác nhau như một chỉnh thể, một hệ thống. Liên ngành Luận văn còn sử dụng những kiến thức liên ngành như Thi pháp học, Văn hóa học, Phân tâm học, Mỹ học tiếp nhận, nhữngkiến thức lịch sử, để lý giải nghệ thuật giễu nhại trên một số cấp độ của tiểu thuyết. 5. Đóng góp của luận văn Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu về nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà, đặc biệt là cuốn tiểu thuyết Ba ngôi của người trên các phương diện đề tài-chủ đề-tư tưởng, nhân vật- biểu tượng và trần thuật-ngôn ngữ- thể loại. Trên cơ sở đóthấy được nét đặc sắc và tiêu biểu của nhà văn Nguyễn Việt Hà so với các nhà văn giai đoạn trước và sau đó, ghi nhận những đóng góp của nhà văn Nguyễn Việt Hà trong nền văn học Việt Nam sau đổi mới. 6. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, phần Nội dung luận văn được triển khai thành 3 chương sau: Chương 1:Đề tài, chủ đề trong tiểu thuyết Ba Ngôi của người từ cái nhìn giễu nhại của Nguyễn Việt Hà Chương 2: Giễu nhại nhân vật và biểu tượng trong tiểu thuyết Ba ngôi của người của Nguyễn Việt Hà
  • 11. 11 Chương 3: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người qua phương diện trần thuật, ngôn ngữ, thể loại
  • 12. 12 NỘI DUNG *Giới thuyết về khái niệm giễu nhại Từ điển tiếng Việt định nghĩa về “giễu” và “nhại”: “Giễu là nêu ra để đùa bỡn, chế nhạo hoặc đả kích; Bị giễu là hèn nhát; Tự giễu mình”, “Nhại” là bắt chước tiếng nói, điệu bộ của người khác để trêu chọc, giễu cợt. Như vậy, thuật ngữ giễu nhại có hai yếu tố: bắt chước và châm biếm. Trong văn học, nhại là một thủ pháp quen thuộc, nó đi kèm với giễu tạo nên chất giễu nhại.“Nhại” (Parody) có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp paroidia, có nghĩa là một bài hát được hát được hát cùng bài hát khác. Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Nhại là một thể văn châm biếm dùng sự bắt chước để chế giễu một tác phẩm hoặc cả một trào lưu nghệ thuật. Phương tiện chủ yếu của nhại là bắt chước phong cách. Hai kiểu nhại chủ yếu (đôi khi tách thành những thể tài riêng) là kiểu khôi hài trong đó đối tượng thấp được trình bày bằng một phong cách cao; và kiểu chế nhạo trong đó đối tượng cao được trình bày bằng phong cách thấp. Sự chế nhạo có thể nhằm vào phong cách, có thể nhằm vào đề tài, có thể cười nhạo những thủ pháp thi ca đã trở thành khuôn sáo, lỗi thời hoặc những hiện tượng đời sống vốn dung tục không xứng với thi ca. Có thể có lối nhại một thi pháp, một tác giả, một thể loại, một thế giới quan” [35- tr225-226]. Giễu nhại, với tư cách là một thủ pháp bắt chước quá lố một văn bản khác đã xuất hiện từ lâu, ngay trong văn học cổ đại Hy Lạp, sau đó vẫn thường xuyên được sử dụng trong vô số loại hình nghệ thuật khác nhau. Là một thủ pháp được sử dụng lâu đời và rộng rãi, giễu nhại được xem như là một phong cách, hơn nữa còn tồn tại như một chủ đề phụ (sub-theme) trong một tác phẩm cụ thể và như một thể loại phụ (sub-genre) trong văn học (chủ yếu là văn học trào phúng). Tính chất đa tư cách này làm cho bất cứ nỗ lực định nghĩa nào cũng điều gặp khó khăn. Có điều, theo hầu hết giới nghiên cứu dù nhìn từ góc cạnh nào thì giễu nhại cũng có hai đặc điểm chính là bắt chước và châm biếm. Giễu nhại ra đời như một thủ pháp phê phán trực tiếp đi liền với cái hài hước. Giấc mộng đêm hè (W.Shakespeare), Đôn Kihôtê (M. De Cervantes), Gargantuar (F. Rabelais)… là những tác phẩm vĩ đại đầu tiên mở đường thành công cho cái hài hước đi liền với thủ pháp giễu nhại.
  • 13. 13 Trong văn học hôm nay, thuật ngữ giễu nhại được sử dụng trở lại để nói đến một cảm hứng xuất hiện trở lại của văn học Việt Nam sau một thời gian chìm lắng nay phục sinh trở lại. Như đã nói giễu nhại chủ yếu quan tâm đến việc vạch ra cái xấu, cái lố bịch, khiếm khuyết để giúp người ta nhận biết, sửa chữa và hoàn thiện. Cũng có khi giễu nhại như một thủ pháp gây cười, tạo ra sự hài hước cho tác phẩm. Quan niệm về chất giễu nhại trong văn học là rất phong phú. Nhưng chung qui lại, các nhà nghiên cứu đều thống nhất ở điểm: Coi giễu nhại là một thủ pháp nghệ thuật dựa trên sự nhại lại một tư tưởng, quan điểm, cách viết cũ nhằm tạo nên tiếng cười giễu cợt với nhiều cấp độ khác nhau. Đó “là quan niệm về kiểu giễu nhại giữa tác phẩm này (bao gốm hình tượng, nhân vật, chi tiết, ngôn từ,..) với tác phẩm khác. Thực tế, còn có kiểu nhại khác, nhại ngay chính những thói hư tật xấu của con người ngoài đời. Các cấp độ nhại có thể được triển khai đến mức độ chi tiết. Thậm chí, ngay trong chính tác phẩm, nhại vẫn có thể được thực hiện giữa nhân vật này và nhân vật khác, hay giữa người kể chuyện với các nhân vật” [12- tr82]. Giễu nhại là một thủ pháp tiêu biểu của văn học hậu hiện đại. Ở Việt Nam, thật khó để khẳng định một nền văn học hậu hiện đại đang hiện diện một cách rõ ràng. Nhưng chắc chắn cảm quan hậu hiện đại đã và đang thâm ngấm vào sáng tác của nhiều nhà văn. Đối với những sáng tác của các nhà văn hải ngoại, chất giễu nhại mang cảm quan hậu hiện đại thường nghiêng về cảm thức chính trị, những cái nhìn mang màu sắc giai cấp, dân tộc. Các nhà văn thường rơi vào những ám ảnh chính trị, ám ảnh của sự lưu vong, hủy diệt (giới nghiên cứu gọi là cảm quan thế giới Kafka). Cũng dựa trên sự cảm nhận cuộc sống với cảm quan hậu hiện đại, nhưng từ vị thế của những người đang trực tiếp sống, suy nghĩ và sáng tác ngay chính trên quê hương của mình, văn học trong nước cũng bộc lộ những nét khác biệt so với bộ phận văn học hải ngoại. Cũng có tiếng cười mang vị mặn đắng của nước mắt, chua xót, thậm chí phẫn nộ chửi bới nhưng đọng lại vẫn là lối tư duy duy cảm tồn tại bên cạch tư duy duy lý “ngoại nhập”. Ta có thể nghe thấy tiếng cười thấm đẫm cảm hứng trào lộng trong nhiều truyện ngắn, tiểu thuyết của Ma Văn Kháng, Nguyễn Quang Thân, Nguyễn Khắc Trường… nhưng hấp dẫn và tập trung hơn cả là tiếng
  • 14. 14 cười trào tiếu, giễu nhại trong sáng tác của Phạm Thị Hoài và Nguyễn Huy Thiệp. Sau đó, hàng loạt cây bút trẻ mà sáng tác và tên tuổi của họ luôn ẩn chứa cái nhìn mang tính giễu nhại: Hòa Vang, Bảo Ninh, Nguyễn Bình Phương, Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh .v.v. Sự xuất hiện và phát triển của dòng văn học giễu nhại ở Việt Nam cho thấy sự tiếp cận và bắt kịp của nền văn học Việt Nam hòa vào dòng chảy của dòng văn học thế giới. Bởi giễu nhại là một trong những đặc trưng tiêu biểu của phong cách sáng tác hậu hiện đại. Nằm trong ảnh hưởng chung đó, Nguyễn Việt Hà đã cảm nhận được những đổ vỡ, mặt trái của xã hội thời kì đổi mới nhà văn đã dùng tiếng cười để giải thiêng những giá trị tồn tại lâu đời và hướng con người đến những điều tốt đẹp hơn.
  • 15. 15 CHƢƠNG 1 ĐỀ TÀI, CHỦ ĐỀ TRONG TIỂU THUYẾT BA NGÔI CỦA NGƯỜI TỪ CÁI NHÌN GIỄU NHẠI CỦA NGUYỄN VIỆT HÀ 1.1. Đề tài đô thị Hà Nội “loay hoay tha hóa” trong tiểu thuyết Ba ngôi của người Đề tài đô thị là một trong những đề tài phổ biến trong văn học và đã có nhiều tácgiảthành công trong việc thể hiện đề tài này như Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái, Phạm Thị Hoài.v.v. Sáng tác của họ đã chạm đến những “mảng tối” của đời sống đô thị với những lai tạp, bát nháo, những ngổn ngang và bộn bề. Cuộc sống đô thị là biểu tượng của cái hiện đại, của văn minh công nghiệp đầy cám dỗ nhưng lại ẩn chứa sự tha hóa đang ăn dần ăn mòn đời sống con người. Nguyễn Việt Hà sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, tuổi thơ của ông gắn bó với Phố cổ, Hồ Gươm, được hưởng thụ đầy đủ không gian văn hóa nguyên sơ Hà Nội. Là một người Hà Nội gốc nên nhà văn mang những ký ức đô thị với nhiều mảng màu phong phú, sống động mà không một người Hà Nội nhập cư nào có thể có được; mỗi đổi thay, dịch chuyển đời sống đô thị đều để lại ấn tượng trong tình cảm của nhà văn. Là một người nặng lòng với thủ đô nên những trang viết của nhà văn đều đề cập đến vấn đề đô thị, cụ thể đó là đô thị Hà Nội. Một đô thị đang biến đổi từng ngày, trong một vỏ bọc hào nhoáng hơn nhưng cũng có thể nói là nhộn nhạo hơn, ở đó rất nhiều giá trị đã bị mất đi, vùi lấp và khó có thể tìm lại được. Đó còn là một đô thị đã bị xáo trộn, một xã hội ngụy tạo, phi lý và đang vỡ ra rệu rạo. Bằng cách giễu nhạicuộc sống đô thị, nhà văn đã vẽ nên bức tranh đô thị Hà Nội đang loay hoay tha hóa, nó trở nên xấu xí, dị mọ trong tiểu thuyết của ông. 1.1.1. Tính đô thị trong cảm quan nghệ thuật Nguyễn Việt Hà Tính đô thị rất quan trọng, làm nên phẩm chất của văn học đô thị. Tính đô thị là tính hiện đại, dân chủ, dân sự trong đề tài và cách thức tiếp cận với đề tài ấy. Bởi vậy, trong sự biến động của đời sống đô thị hiện đại, cụ thể đây là quá trình đô thị hóa hay hiện đại hóa, bên cạnh những mặt tích cực của nó, thì có không ít những cái
  • 16. 16 tiêu cực, những vấn đề nảy sinh và những hệ lụy kèm theo.Đô thị hóa là quá trình tất yếu đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới, đặc biệt là các nước Châu Á, trong đó có Việt Nam. Nền kinh tế càng phát triển thì quá trình đô thị hóa diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh; góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế- xã hội của khu vực, nâng cao đời sống nhân dân và cũng phát sinh nhiều vấn đề cần giải quyết. Trong văn học đương đại đã có nhiều tác giả thành công khi viết về đô thịvới nhữngcái nhìn riêngvề cuộc sống và con người ở đó như Nguyễn Huy Thiệp, Đỗ Phấn, Nguyễn Danh Lam, Hồ Anh Thái, Phạm Thị Hoài.v.v. Trong Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp, nhà văn nhìn đời sống và con người đô thị bằng thái độ lạnh lùng, sắc lẹm; con người biến dạng với những giành giật, toan tính, vụ lợi ích kỉ. Đó còn là cuộc sống xô bồ, tạp nham trong truyện ngắnKhông có vua, nhà văn đã khắc họa được một đô thị thiếu vắng tình người với sự hoài nghi về lối sống, tương lai của tầng lớp thị dân. Một tác giả khác cũng quan tâm sâu sắc đến cuộc sống của con người nơi phố thị là Hồ Anh Thái trong tiểu thuyết SBC là săn bắt chuột, ông viết về một thành phố lớn đang nhộn lên chiến dịch tiêu diệt chuột. Cuộc chiến giữa Chuột và Người thể hiện sự thô lỗ, xấu xa hiện hữu với giọng văn hài hước, sâu cay nhưng đầy lôi cuốn. Phạm Thị Hoài viết về đô thị mới tái xuất với tư cách là nơi chốn của các yếu tố thị trường và nhân cách, có khả năng phá vỡ các giá trị mặc định và đối kháng với nông thôn.Còn Nguyễn Việt Hà đã đưa vào trang viết của mình nhiều trăn trở về cuộc sống trong thời buổi kinh tế thị trường với cái nhìn về thế giới, con người trong sự phi lý, hỗn loạn và hoài nghi. Ông cũng là một trong những cây bút viết sắc sảo khi viết về đô thị và tầng lớp tri thức công chức. Nhà văn quan niệm: “Đô thị, tuổi trẻ, tri thức luôn là những vấn đề tôi quan tâm”.Nhà văn viết những cái gì nó rất gần mình, những thói tật trong đời sống. Bởi vậy, trong sáng tác của nhà văn, chất phố phường trào lộng cay đắng với một đời sống đô thị xô bồ, tạp nham. Đọc văn chương của Nguyễn Việt Hà người đọc có cảm giác nhà văn thích tọc mạch vào mọi chuyện, phơi bày hết những hiện thực của đời sống dưới cái nhìn ở nhiều chiều kích khác nhau. Trong tiểu thuyếtCơ hội của Chúa và Khải Huyền muộnnhà văn viết về thời kì đổi mới với những biến động và thay đổi đến chóng
  • 17. 17 mặt. Trong tiểu thuyết Cơ hội của Chúanhà văn mở ra một hiện thực đất nước những năm 89, 90 khi mà cơ chế thị trường đã làm đảo lộn cuộc sống cũng như nếp sống của con người. Bối cảnh chính của câu chuyện là mảnh đất Hà thành. Đây là nơi đầu tiên tiếp thu ngọn gió ngoại quốc vào Việt Nam, là nơi chứng kiến sự thay đổi đến chóng mặt: “Tháp Rùa ngơ ngác nhìn Hà Nội đang quen dần buôn lậu và tập tọng nghiện ngập. Đàn ông biết bật nắp Heineken và đàn bà cũng quen dần với vị Coca” [32, tr11]. Và trong Khải huyền muộnnhà văn cũng đã viết: “Người dân thì thắt lưng buộc bụng, hy sinh cả sự tăng trưởng của mình để làm giàu, làm sang cho những đám cưới mà hai ông thông gia kia lúc họp dự án chắc được ngồi bàn đầu” [33, tr180]. Trong Ba ngôi của người khi nói về cuộc sống ở đô thị tức là nhà văn nói về sức hấp dẫn của nóvà của các vùng đã được đô thị hóa là nguyên nhân chính lôi cuốn một số lượng khổng lồ cư dân nông thôn đi tìm miền đất hứa. Những thành phố lớn ngày càng hấp dẫn và lôi cuốn dân cư từ các đô thị nhỏ hơn làm cho đô thị ngày một thêm phức tạp, tác giả đã vẽ nên một bức tranh đại diện đầy đủ mọi khuôn mặt trong xã hội với cuộc sống xô bồ và hỗn tạp bởi lối sống đua đòi: “Hôm nọ có mấy người khách Sài Gòn nói giọng Bắc vào ăn tiết canh nhưng cứ đòi rau diếp cá. Thảo nào Hà Nội dạo này có cháo chửi phở quát” [34, tr24].“Có lẽ cái nhập nhoạng của vùng quê lưỡng lự đua đòi khao khát muốn thành đô thị đã làm ra toàn một bọn như thế” và “Những cặp thanh niên Tây du lịch ba lô lông lá có mặt khắp nẻo đường” [34, tr150]. Đô thị, theo tác giả đó còn là sự xâm thực tham lam, cuồng khấu, sự nuốt chửng không thương tiếc của những khối bê tông, sắt thépđối với những bãi bồi, những dòng sông, những triền đê mượt cỏ: “Xung quanh quán là hoang vu những hồ nhỏ những ao tù mà hôm nay đã nhan nhản thành những cao ốc ngô nghê những nhà nghỉ dâm đãng” [34,tr303]. “Nhưng tởm nhất là đám nhờn nhợt nồng nặc mùi tiền ở Hà Nội đang đầu tư vào mấy khu chế xuất” [34, tr54].Hay “Nghĩa là cũng giống bọn nông dân bây giờ, muốn thoát kiếp chăn trâu, cắm đầu vào đi làm ở các khu chế xuất rồi họ sẽ chết vì ngộ độc thực phẩm do tọng đầy những bữa ăn trưa thiu thối rẻ”.
  • 18. 18 Trong cảm quan nghệ thuật của nhà văn, đô thị còn được nhìn ở khía cạnh lịch sử, thế tục, nó luôn khía vào nỗi cô đơn, lạc lõng, sự phân rã của con người; tạo nên cám dỗ của cuộc sống đô thị và lối sống thiếu lành mạnh của con người. Giễu nhại một cách đầy thâm thúy, đó là một đặc điểm riêng tạo nên cá tính trong văn phong của tác giả, nhà văn giễu nhại đời sống nhưng không phải để cười, đó là sự đau đớn, xót xa trước hiện thực: “Thiếu nữ Việt chỉ e lệ khi mặc quần áo. Và cũng chính vì sinh hoạt không được ăn nói hở hang, bị ẩn ức đè, nên vô số phụ nữ nhà quê mắc bệnh nói nhịu… Phải đến cuối thế kỷ Hai Mươi sang đầu Hai Mốt, nhờ có trụy lạc trắng trợn internet… Công cuộc đô thị hóa là nguyên nhân chính chữa khỏi bệnh nói nhịu ở các vùng quê. Bởi trăm phần trăm cave ở các thành phố lớn, tuyệt đối đều xuất thân từ thôn nữ” [34, tr77]. Sống trong công cuộc đô thị hóa, theo nhà văn nó thúc đẩy nền kinh tế phát triển mạnh mẽ nhưng cũng làm mất đi những giá trị truyền thống và cách sống của con người đô thị.Con người dần bị tha hóa đó là sự tha hóa về nhân cách đã dẫn đến hàng loạt các tệ nạn xã hội như ma túy, mại dâm, buôn người: “Nhập nhoạng tối, đôi lúc có vài cô gái ăn sương mới ra nghề, liều lĩnh lấp ló đứng…bị công an Tây Hồ bắt về tội bán dâm” [34, tr34]... Song song đó, những vấn nạn trong đời sống đô thị cũng được tác giả đặt ra như quan liêu, hối lộ, tham nhũng: “Lãnh đạo huyện về trụy lạc ở nhà chủ quán bao giờ lương tâm cũng tự nhiên an ủi. Rượu chè, bồ bịch, đĩ đỡm, đương nhiên đấy là cung cách sinh hoạt phóng túng của người nghệ sĩ” [34, tr111]. Còn ở trường học cái gì cũng bằng tiền và trường tư kém chất lượng ngày càng nhiều: “Cái trường Mộc Miên đang học là cái loại vớ vẩn nhất mà dăm ba năm nay ở mấy đô thị lớn đang nhan nhản mọc lên như nấm. Đầu vào thi bằng tiền. Đầu ra, chẳng hiểu có thi không, cũng bằng tiền. Bằng tốt nghiệp có in màu mè sang trọng kiểu nào thì khuôn khổ vẫn cứ nhếch nhác giống hệt như tờ giấy bạc. Sinh viên trốn tiết nghỉ dài dài” [34, tr 65-66]. Theo nhà văn bình luận: “Thành phố nghìn năm tuổi mất đi cái duyên ngầm từ ngàn đời, thay vào đó là sự nhốn nháo, lai căng, xô bồ. Quan hệ giữa xã hội, giữa con người với con người trở nên rệu rã và rời rạc với lối sống buông thả và bạc bẽo của con người, họ vô cảm trước mọi việc.
  • 19. 19 Thấy dễ dãi thì buông thả làm ẩu rồi xót xa ân hận. Nếu được tha thứ thì lại làm tiếp. Phải chăng đó là cái thói vừa bạc bẽo vừa đạo đức của đô thị phố phường”. Bằng cái nhìn đầy trách nhiệm, Nguyễn Việt Hà không che giấu cho những cái xấu, những “ung nhọt” đang dần lớn lên trong lòng Hà Nội của hiện tại thông qua lời nói của nhân vật Kun:“Tôi yêu Hà Nội của tôi và thậm chí ghét những cái nhộn nhạo làm ra vẻ rộng lớn đại lộ tỉnh lẻ. Hà Nội càng ngày càng đông người ngoại tỉnh và không hiểu sao họ cho rằng đã là phố thì phải thật lớn”[34, tr33].Là một người con gốc Hà thành, Hà Nội với Nguyễn Việt Hà không chỉ là quê hương, đó còn là một mảnh đất để thương, để nhớ, để tiếc nuối và hoài niệmvà gìn giữ vẻ đẹp của Hà Nội mà bản thân mình đã sống qua một thời tuổi trẻ. Ba ngôi của người của Nguyễn Việt Hà là thế giới hỗn mang của hiện thực đô thị với những phi lý, trái khuấy. Trước hiện thực ấy, Nguyễn Việt Hà góp nhặt những chuyện vặt vãnh về phố phường. Vừa kể, vừa cười. Tiếng cười hài hước, dí dỏm nhưng cũng không kém phần sâu sắc, chua cay. Bằng cách giễu nhại về tính đô thị trong cảm quan nghệ thuật của nhà văn, cho chúng ta thấy được các ngõ ngách của đời sống, các lĩnh vực văn hóa, đạo đức, chính trị, kinh tế, giáo dục, ngoại giao… đang dần dần có sự thay đổi. Nhà văn còngiúp người đọc hình dung và suy nghĩ những vấn đề về thực trạng của xã hộivà những gì thực sự đang diễn ra trong xã hội thời kỳ Đổi Mới nói chung và đô thị Hà Nội nói riêng. 1.1.2. Hà Nội hiện đại xấu xí dị mọ trong tiểu thuyết Ba ngôi của ngƣời Ở mỗi tác giả, với sự trải nghiệm và cảm nhận về một Hà Nội của xưa và nay, không phải ai cũng giống ai. Hà Nội trong cảm xúc, trong tâm trí của mỗi người mỗi khác. Đó có thể là niềm hân hoan trước sự phát triển, hội nhập vượt bậc của một Thủ Đô nghìn năm văn hiến, nhưng cũng có thể là sự đau buồn, tiếc nuối trước sự ra đi của một nền văn hóa, của những kỷ niệm bị bủa vây bởi một tầng lớp xã hội thị thành vô học, nhố nhăng. Hà Nội đẹp đẽ trong cảm quan lãng mạn của người xưa:“Chẳng thơm cũng thể hoa nhài/Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An”. Nói rằng“chẳng thơm”, nói rằng“không thanh lịch” chỉ là cách nói phủ định để khẳng định một nét đẹp của người Thủ đô Thăng Long-Hà Nội: nét thanh lịch…Người kinh đô Thăng Long có
  • 20. 20 lối sống rất tao nhã, thanh cao, cử chỉ rất văn minh, lịch sự. Lối sống đó đã trở thành bản sắc; dù có đi xuôi về ngược, vào Nam ra Bắc, bản sắc đó cũng không thay đổi. Dù ở đâu người ta vẫn có thể nhận ra người Hà Nội. Trong Hai đứa trẻThạch Lamviết về những cái dung dị đời thường, những kiếp người cực khổ nơi phố huyện nghèo. Đó là những nét văn hóa rất gần gũi, là những tiếng rao đêm của những gánh hàng rong, là cảnh chờ tàu của hai chị em An và Liên để đón nhận ánh sáng nơi phố huyện nghèo.v.v. Họ luôn hướng về những cái tốt đẹp đó là cuộc sống ở Hà Nội. Trong những trang văn của Thạch Lam, Hà Nội hiện ra cũng vô cùng thanh lịch và đẹp đẽ. Nét sang trọng, quý phái, tinh tế là ba phẩm chất được coi là những điểm nhấn mà nhà văn tôn vinh. Trong Cát bụi chân aiTô Hoài đem lại những chứng từ sống động về địa dư, lịch sử, phong tục, tiếng nói của thủ đô Hà Nội. Còn trong Nỗi buồn chiến tranh Bảo Ninh làm nổi bật về Hà Nội thời hậu chiến, Hà Nội gần gần mà xa, thỉnh thoảng vẫn được nhắc lại đâu đó trong một bài hát, một triển lãm ảnh, một đoạn phim .v.v. Cái nhìn về Hà Nội của Nguyễn Việt Hà tỏ ra gần gũi với Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài. Đó là cái nhìn về cuộc sống đa chiều đa diện với những phi lý diễn ra trong cuộc sống hiện đại, nó không còn đẹp đẽ và lãng mạn như trong tâm trí mỗi người. Vũ Trọng Phụng với tiểu thuyết Số đỏ thể hiện được cái nhố nhăng của đời sống được nhà văn phác hoạ theo lối châm biếm. Nói như Lưu Trọng Lư, ngòi bút Vũ Trọng Phụng đã chế nhạo tất cả những cái rởm cái xấu cái bần tiện cái đồi bại của một hạng người một thời đại. Trong con mắt của ông, xã hội đương thời là hoàn cảnh lý tưởng cho những kẻ tầm thường nhưng lại đầy tham vọng. Cái phần luân thường đạo lý mà các thế hệ đi trước dày công vun đắp đã phai lạt hẳn, người nào người nấy xoay xoả kiếm sống và khao khát hưởng thụ. Cả kẻ vô học như Xuân lẫn bọn có học như Văn Minh đều sống bằng lừa bịp, ai giỏi lừa người đó thắng. Và cuộc sống của xã hội hiện đại đồng nghĩa với sự tàn phá nhân cách, làm hỏng con người. Nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định, bức tranh mà Vũ Trọng Phụng vẽ nên đó là sự phản ánh trung thực xã hội đương thời đồng thời có tính cách khái quát một phần bản chất cuộc sống. Thời nào, hay nói cho đầy đủ hơn,
  • 21. 21 ở bất cứ xã hội nào, thì trong tấn kịch nhân gian cuộc đời hiện ra như một thứ hội hoá trang mà tác giả đã miêu tả. Trong Ba ngôi của người, Nguyễn Việt Hà đã dựng lại chân dung Hà Nội đương đại với đủ thứ nhốn nháo: “Hồi đó Hà Nội tuy có nhiều cái khác, nhưng về đại thể cũng giông giống như bây giờ thôi. Cũng có thanh sạch cao thượng, cũng có nhếch nhác bẩn thỉu. Đó là một đô thị với đủ thứ nhốn nháo, xấu xí, đủ gương mặt đại diện cho những tầng lớp thị dân. Hà Nội bây giờ thì buồn quá, nó không quá nghèo nhưng vô đạo và ít học. Thành phố đang ngày càng loay hoay tha hóa” [34, tr123]. Nhà văn viết về Hà Nội của bảy năm gần đây, với ít nhiều biến đổi thô lỗ và nhốn nháo đạo đức. Chẳng còn nét bàng bạc cổ kính thơ mộng hoài niệm của phong rêu hay nâu trầm ngói đổ, không còn sự dịu dàng đoan chính tinh tế nét người Hà Nội gốc xưa. Tác giả đã bộc lộ được cá tính và cái nhìn của mình vào từng nhân vật để người đọc cảm nhận Hà Nội hiện lên trong Ba ngôi của người thô lỗ, bụi bẩn đến xót lòng, bởi Hà Nội không của riêng ai, nhưng mỗi người ở đây đều có ấn tượng, tình cảm và cách nhìn riêng của mình về mảnh đất này. Hà Nội trong văn của Nguyễn Việt Hà là vậy, còn trong đời thực, mảnh đất này không chỉ là nơi gắn bó về mặt địa lý, mà còn là nơi gắn chặt tâm hồn của tác giả. Ba ngôi của người dựng lên một Hà Nội trai lơ tinh nghịch, khác hẳn một Hà Nội đăm chiêu khắc khổ như trong hình dung chung của nhiều người về Hà Nội thời ấy. Nhà văn khắc tạc chân dung của một Hà Nội bấn loạn:“Những cặp thanh niên Tây du lịch balô lông lá, những bọn trẻ con phổ thông cuối cấp trường ngoại ô, mới tí tuổi đầu đã thành thạo giường chiếu, lọc lõi trốn học. Những cụ ông cụ bà về hưu vẻ ngoài nhầu nhĩ buồn bã giống như ngày mai sẽ bị con cháu đưa đi trại dưỡng lão, tất cả đều lộn xộn trong cái nắng hanh sóng sánh vàng như bia”[34, tr29]. Làm ăn buôn bán, hay đơn giản như yêu đương và hôn nhân ở đâu cũng thấy bấn loạn:“Ba lần, ông ta lấy vợ thì đều chọn mấy con nhóc mới lớn, nửa ngây, nửa ngô, hoặc viết báo hoặc làm thơ. Chiều dài mỗi lần hôn nhân đều khoảng chừng một gang, đại loại bằng đúng độ dài của váy mấy đứa người mẫu vi phạm quy định của Sở Văn hóa” [34, tr37]! Và theo nhận xét của tác giả “Hà Nội rồi đây đến thế kỷ hai mốt vẫn cứ như vậy, bầy hầy và ở đâu cũng thấy bấn loạn”.
  • 22. 22 Trong Ba ngôi của ngườinhà văn đã dựng nên một Hà Nội với chủ nghĩa tiêu dùng phì đại, một tinh thần bái vật giáo hàng hóa đến mức điên khùng. Trong tiểu thuyết Ba ngôi của ngườicó thể xem như một “tập đại thành” của các nhãn mác thời trang hàng hiệu, rượu ngoại, xe hơi, điện thoại cao cấp.Bởi vậy, Hà Nội theo như tác giả cảm nhận đã không còn ngây thơ vì chứng kiến quá nhiều lần thay đổi: “Hà Nội thì vẫn còn chỗ hay, nhưng nói chung nó đang tha hóa vụn ra… Hà Nội đẹp nhất là hồi nó còn biết đi xe đạp. Người thưa, phố thưa. Nhưng cây thì nhiều và cột đèn cũng nhiều” [34, tr333]. Nguyễn Việt Hà đã vẽ nên một bức chân dung Hà Nội với cuộc sống dung tục, xô bồ. Hà Nội trong tiểu thuyết hiện lên hiện đại xấu xí, dị mọ, nhốn nháo, nhiều biến đổi thô lỗ và nhộn nhạo đạo đức với những thói đạo đức giả của con người.v.v. đã tạo nên cảm giác bề bộn của đời sống thực tại. Họ bắt đầu chao chát, thực tế tiền tài địa vị danh lợi dục tình đếm đo, đến cục cằn thô lỗ độc ác chà đạp phẩm giá lương tri dẫn tới sự suy hoại của từng góc đường con phố. 1.2. Các chủ đề nghiêm trang đƣợc nhìn từ góc độ cái hài trong tiểu thuyết Ba ngôi của người Trong cuộc sống hiện đại, con người bị xâm lấn, bị bỏ rơi và cảm thấy vô phương chống đỡ trước sự tha hóa. Con người luôn cảm thấy bơ vơ, lạc lõng và cô đơn ngay chính trên quê hương mảnh đất thân thuộc của mình. Bởi vậy, đầy rẫy những sự đổ vỡ và hoài nghi, những thay đổi đến chóng mặt của các chuẩn mực và các giá trị sống, nó khiến con người khó có thể tin chắc vào điều gì một cách tuyệt đối. Tưởng chừng như những tư tưởng về văn hóa, tôn giáo-tín ngưỡng; tình yêu- hôn nhân- gia đình; nghệ thuật là những giá trị thường hằng bất biến, nhưng những tư tưởng đó cũng luôn thay đổi với sự lẫn lộn giữa các giá trị. Lý giải chủ đề văn hóa- tôn giáo và tín ngưỡng, tình yêu- hôn nhân- gia đình và vấn đề nghệ thuật trong tiểu thuyết từ một cái nhìn gần gũi, nhà văn giúp chúng ta thấy được những vấn đề trần tục và sự tha hóa của đời sống thị dân. 1.2.1. Chủ đề văn hóa, tôn giáo – tín ngƣỡng Văn hóa, tôn giáo- tín ngưỡng là một vấn đề thuộc lĩnh vực nhận thức, tình cảm và niềm tin, là điểm tựa tinh thần để con người tồn tại trong đời sống. Trong
  • 23. 23 quá trình phát triển và vận động của lịch sử nhân loại, con người đã hướng đến những điểm tựa tinh thần và nâng nó lên thành những hiện tượng cao cả và thiêng liêng. Vì vậy, khi nói đến vấn đề về văn hóa, tín ngưỡng- tôn giáo là phải nói một cách nghiêm trang, với thái độ thành kính. Nhưng trong thời đại ngày nay, con người đang chứng kiến sự khủng hoảng và đổ vỡ niềm tin về những vấn đề thiêng liêng huyền bí. Với cảm quan hậu hiện đại, các nhà văn đương đại trong đó có Nguyễn Việt Hà đã dùng tiếng cười giễu nhại nhằm giải thiêng vấn đề này. Mỗi trang viết của nhà văn là một trữ lượng lớn kiến thức về văn hóa ứng xử, văn hóa tâm linh tôn giáo và các lối sống sinh hoạt của người Việt nói chung và của mảnh đất Hà Nội nói riêng. Trong văn hóa ứng xử nhà văn phản ánh mối quan hệ của con người với môi trường tự nhiên có tính chất văn hóa như Hồ Gươm, Hồ Tây… và môi trường xã hội như ứng xử giữa người với người trong công việc làm ăn kinh doanh, văn hóa công sở, tri thức, công nhân, viên chức, môi trường gia đình giữa vợ chồng và con cái. Ngoài ra trong tiểu thuyết này nhà văn còn nhắc đến văn hóa ẩm thực, văn hóa trong hôn nhân, tình yêu, tình dục. Đó còn là dấu ấn văn hóa về tâm linh như sự hoài nghi về đức tin, các diễn ngôn tôn giáo và tập tục đi lễ nhà thờ. Văn hóa ẩm thực của người Việt trong tiểu thuyết được tác giả nhắc đến làviệc uống rượu Tây và ăn thịt chó.Việc ăn thịt chó là một nét văn hóa đặc trưngtrong ẩm thực người Việt vì thịt chó là một món ăn ngon, bổ dưỡng; có truyền thống lịch sử Việt Nam lâu đời, thịt chó đi vào nhiều tác phẩm văn học nổi tiếng của Việt Nam như truyện Trẻ con không được ăn thịt chó của Nam Cao. Trong tiểu thuyết Ba ngôi của người các nhân vật ai cũng biết đến món thịt chó, mở đầu cuốn tiểu thuyết nhà văn đã nhắc đến quán thịt chó và theo lời tác giả: “rất nhiều người Việt thích ăn thịt chó”[34, tr44], trong “thực đơn duy nhất chỉ là gái tơ đồi và chó quê” [34, tr54]. Bởi vậy, theo lời nhận xét của trung niên: “Theo những nhà khảo cổ học hình như càng ngày càng trở nên mê tín thì người Việt có thói quen ăn thịt chó đã dư nghìn năm” [34, tr48]. Không chỉ vậy, các nhân vật trong tiểu thuyếtai cũng biết uống rượu và sành sỏi mọi loại rượu. Theo sự mô tả của tác giả đó là đám quan chức, hay đến cả những người nông dân bình thường họ đều biết uống rượu:“Cậu cười khẩy, đám
  • 24. 24 quan chức bây giờ phấn đấu bầy đàn sành điệu, nhờ nhỡ là Giôn vàng, sang trọng là phải Giôn xanh” [34, tr130]. Là “Đám quan chức có những tay nhậu xuất sắc, uống hết chai Chivas 21 tuổi mặt vẫn lạnh như bệ toalét. Tôi ấn tượng nhất là cách uống của một tay tỉnh nói giọng Quảng. Ông ta uống liên miên linh tinh đủ loại, cứ mỗi lần cụng ly là một trăm phần trăm”[34, tr135]. Khi nhân vật buồn chán, cô đơn họ cũng tìm đến rượu để giải khuây. Họ chìm đắm trong men rượu: “Có một lần cậu chủ động đi tìm tôi khi tôi đang cố uống thât say. Và để dễ say, thường người ta hay uống một mình với đồ mồi tanh. Tôi ngồi độc ẩm ở quán Vọng Ba Lâu bên bờ hồ Tây” [34, tr144]. Không chỉ nhắc đến văn hóa ẩm thực mà tác giả còn nhại lại văn hóa tâm linh. Từ xưa đến nay, tôn giáo- tín ngưỡng đã trở thành điểm tựa cho con người với những biểu tượng linh thiêng của tôn giáo như Đức Chúa, Đức Mẹ (Thiên Chúa giáo), Bụt và Phật (Phật Giáo).v.v. đã ăn sâu vào tâm thức con người. Những giá trị đó đã bị lung lay không ít, nhà văn đã giải thiêng giá trị đó bằng cái cười dưới nhiều sắc thái với những hình ảnh, những chi tiết, những hiện tượng và hệ thống ngôn ngữ cực kỳ nghịch dị. Nhạc chế, ca dao tân thời, những câu nói đầu miệng của vỉa hè Hà Nội, thậm chí cả những câu chửi rất tục, tạo nên một đối trọng với lớp ngôn từ thành kính trang nghiêm khi nhà văn viết về những tiểu truyện Thiên Chúa giáo.Ngay cả nhan đề trong các tiểu thuyết như Cơ hội của Chúa, Khải huyền muộn hay như tiểu thuyết “Ba ngôi của người” cũng đã cho chúng ta hình dung được, nhà văn đang nhại lại những vấn đề của Thiên Chúa giáo. Với Nguyễn Việt Hà, một nhà văn theo đạo Thiên Chúa, nói về đức tin và hoài nghi, ông đã thể hiện những hiểu biết sâu rộng về tôn giáo và triết học, khi gắn nó với quá trình khủng hoảng tình yêu, hạnh phúc, niềm tin của các nhân vật. Bằng cách nói khi thì trang trọng thiêng liêng gắn với miền tâm linh sâu thẳm của con người, khi thì dung dị, gần gũi thậm chí suồng sã, bỗ bã, tác giả mô tả tinh tế, tài tình và logic quá trình dao động, sụp đổ niềm tin của nhận vật, đồng thời tạo nên chiều sâu triết lí và ý vị sâu xa. Các nhân vật đều đang cố bám víu vào một đức tin mong manh nào đó để mong cứu chuộc linh hồn khỏi những mặc cảm sai lầm và ám ảnh tội lỗi. Nguyễn Việt Hà đã để nhân vật của mình tìm đến với tôn giáo như là nơi
  • 25. 25 để trú ngụ và cứu rỗi cho linh hồn mình, đồng thời giải tỏa những áp lực, những bức xúc và bế tắc trong cuộc sống. Thế nhưng hiện thực nhiễu loạn, bế tắc mất phương hướng đã làm cho một số nhân vật mất niềm tin tôn giáo và mất niềm tin cả vào chính mình, đó là số phận hầu hết các nhân vật của Nguyễn Việt Hà.Nhà văn đã xây dựng nhân vật với niềm tin tôn giáo, nhưng đó không phải là tin một cách mù quáng, mê muội, mà nhân vật luôn trăn trở, hoài nghi về nó. Bởi vậy, điều day dứt tâm tư các nhân vật trong tiểu thuyết “Ba ngôi của người” là liệu đức tin có đem lại cuộc sống tốt đẹp cho con người không: “Tôn giáo là phải như vậy, là phải mang đến sự an hòa thanh bình cho mỗi người...Liệu những niềm tin phảng phất như tôn giáo có giúp bọn họ bớt tăm tối khốn khổ” [34, tr123]. Tình yêu tôn giáo thì sao? Ở đây cậu chỉ nói tới chuyện khỉ gió đạo đức thôi. Còn nói cho cùng đám tu hành đâu có tình yêu. Ở họ chỉ có tình thương. Một tình thương bao la. Bla…bla… [34, tr332]. Đó là câu hỏi muôn đời của những ai chưa thực sự có đức tin. Con người càng đặt nhiều niềm tin, sống trọn vẹn với cái tâm trong sạch của mình thì họ lại càng bị đổ vỡ, họ tan hoang vì những nỗi thất vọng ê chề, trở thành những con người “đầy hoài nghi”:“Tôi kiệt sức vẫn chưa có nổi Đức Tin” [34, tr307]. Nhân vật trung niên đến chết vẫn không có nổi Đức tin, nhân vật Quang Anh thì không bao giờ tin vào tôn giáo, nhân vật Kun luôn thắc mắc hỏi bố mình:“Bố có tin là có Chúa không”. Con người có tri thức, hiểu biết đầy mình nhưng vì thiếu một đức tin đích thực nên tri thức, hiểu biết về tín ngưỡng, tôn giáo chỉ còn là thứ trang sức sặc sỡ hời hợt bề ngoài, trở nên vô nghĩa lý. Biết mà không sám hối, theo mà không tin là thực trạng của con người hiện đại:“Lạy Chúa, xin người đoái thương tới cái linh hồn tội lỗi của con...Thậm chí nếu cứ cứng nhắc sai cũng chẳng sao, vì sai là cái động lực sắp xếp tạo nên cuộc sống. Đức Phật bảo đó là vô minh” [34, tr 88]. Nhà vănnhại lại diễn ngôn “vô minh” của Đức Phật nói đến sự u mê của con người,dẫn đến những hành động sai lầm và mang lại những cảm xúc bấn loạn trong tâm thức của các nhân vật. Với cuộc sống hiện đại cái ác xen lẫn cái tốt, con người thì muốn giải thích cả Thượng Đế, muốn sống như chính Thượng Đế. Bây giờ liệu có ai còn tin, chỉ bằng đến với Chúa, không làm gì cả, con người sẽ đạt được hạnh phúc không?
  • 26. 26 Con người hiện đại họ không tin vào thế giới siêu hình, người ta chỉ biết tin, yêu quý cuộc sống trần tục. Nên, Chúa là đấng thiêng liêng, cao siêu và vô hình, nhưng nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Việt Hà đã kéo Chúa lại gần và nhìn bằng con mắt thế tục. Bằng cách nhại các từ ngữ hiện đại, thế tục, thì Chúa hay Phật trong cuộc trò chuyện giữa các nhân vật đã bị suồng sã hóa, trở nên mất thiêng: “Bên Đạo Thiên Chúa chẳng hạn, người ta vẫn gọi các thánh lễ lớn là “hy tế” hoặc là “hy lễ”...“Chữ nghĩa thâm thúy quá, vậy thì hôm nay anh em ta phải hy sinh thôi”. Là chó hay lợn chẳng biết, thực khách phải là thượng đế” [34, tr112]. Tác giả còn nhại“công án thiền” và “diễn ngôn giảng kinh” qua việc thế tục hóa và đương thời hóa lối diễn đạt tạo hiệu quả thẩm mỹ thú vị trong cuộc trò chuyện của các nhân vật:“Đức Phật quả là đại từ đại bi, Người anh minh quá. Thầy Hối Minh thấy tự nhiên tôi thích đọc thì định đặt cho pháp danh là Tái Đạo… Nghĩ cho cùng đạo chứ có phải phở bò đâu mà lại tái hay chín” [34, tr282]. Hay lúc tới đại điện, tôi căng tai nghe lén mấy thiếu nữ nói ngọng đứng cạnh Mộc Miên, “Cầu Đức Phật như nai cho con tai qua lạn khỏi”.Bằng việc nhại các diễn ngôn về tôn giáo- tín ngưỡng, nhà văn đã bộc lộ được những suy tư, trăn trở xót xa của nhà văn về các chuẩn mực đạo đức và giá trị văn hoá truyền thống dần dần bị mai một. Nó đã bị tầm thường hóa và dung tục hóa. Tập tục đi lễ nhà thờ là một tín ngưỡng trong đời sống người Việt, họ đi lễ nhà thờ mong giải thoát được những bế tắc, loại bỏ mọi tội lỗi của mình, đó là tập tục tốt đẹp của người dân Việt. Để tô đậm thêm bức tranh về văn hóa, tôn giáo - tín ngưỡng, tác giả nhại các hình tượng nhà thờ với tập tục đi lễ. Bằng điều này, nhà văn giúp chúng ta cảm nhận được một cách sâu sắc hơn các giá trị văn hóa truyền thống, các tín ngưỡng trong đời sống ngày càng mất đi giá trị. Khi con người cảm thấy mệt mỏi, chán nản thì thường tìm về với những điều huyền bí. Bằng cách, họ đi nhà thờ cầu nguyện, để giải thoát những buồn phiền trong lòng và mong mọi điều tốt đẹp, nên họ nghĩ rằng những cái gì thuộc về những vấn đề thiêng liêng, huyền bí lúc nào cũng đẹp đẽ nhưng khi được chứng kiến thì lại tạo cho họ một cảm giác thất vọng, trống trải, niềm tin dần bị mất đi: "Những buổi chiều rỗng tuếch, tôi nằm nghe ca đoàn giáo xứ luyện hát thanh ca, ngân vút một giọng nữ chua không thể
  • 27. 27 tưởng tượng. Tôi đoán chắc đấy là một thiếu nữ gầy mặt mỏng, khô khan đức hạnh, nhưng lúc gặp thật lại là một thiếu phụ rất béo, ăn mặc dung tục" [34, tr33]. Việc đi lễ nhà thờ không còn thiêng liêng, không còn đẹp đẽ mà thay vào đó là sự nhốn nháo và xô bồ: “Vào đấy như bị lạc nên mọi người quờ quạng hành lễ. Mỗi người mỗi kiểu, duy nhất giống nhau là ở vẻ lộn xộn” [34, tr341]. Tác giả còn vẽ ra bức tranh tôn giáo - tín ngưỡng đầy màu sắc gắn với cảm hứng châm biếm, cười cợt, sử dụng ngôn ngữ thông tục, suồng sã để biểu hiện thực trạng của xã hội: “Hồi cậu lên bảy, ăn vạ giả vờ đòi bú tí, chị lùn lớn sợ cậu hờn đành chịu, bị cậu cắn suýt đứt cả núm vú trái. Ở ngôi biệt thự này thì ý cậu là ý Chúa” [34, tr124]. Nhà văn đã đưa nhân vật thần thánh về với đời sống trần tục, ví nhân vật trong tiểu thuyết như một nữ thánh: “Thời gian đầu biết nàng tôi chân thành nghĩ đấy là nữ thánh. Hơn nữ còn là nữ thánh được Chúa phái xuống trần dành riêng cho tôi” [34, tr282]. Nhà văn đã khắc hoạ những con người thế tục đậm chất hiện sinh, khi bất lực, con người ấy tìm đến với tôn giáo. Thế giới của tôn giáo là thế giới của lòng tin và Đức tin nên tôn giáo cần ở con người một lòng tin tuyệt đối, thanh sạch và tận hiến. Nhưng dường như lòng tin đó đã đang dần đổ vỡ trước một hiện thực phi lý đầy rẫy cái ác, đầy rẫy sự giả dối, lọc lừa. Văn hóa, tôn giáo-tín ngưỡng là tư tưởng tồn tại lâu đời với những giá trị đẹp đẽ về đời sống văn hóa cộng đồng, đời sống tâm linh. Nhưng những giá trị này lại ngày càng có nguy cơ bị đánh mất, kể cả những giá trị đã được định hình như một chân lý, vì vậy không có cái gì là tuyệt đối mà chỉ tồn tại một cách tương đối. Nhà văn đã lý giải các tư tưởng từ cái nhìn gần gũi với con người. Văn hóa của người Việt hiện lên trong trang viết của nhà văn thông qua các nhân vật trong tiểu thuyết, họ thích ăn thịt chó và thích uống rượu ngoại. Tác giả đã nhại lại những môtip, hình ảnh tôn giáo, các diễn ngôn tôn giáo gắn với một lớp ngôn từ suồng sã, thông tục, thậm chí là những câu chửi vỉa hè đối trọng với lớp ngôn từ trang nghiêm của Thiên Chúa giáo. Nhà văn giúp chúng hình dung được những thực trạng con người dần dần bị tha hóa và những giá trị văn hóa truyền thống xưa mất đi, thay vào đó là sự lai tạp trong vấn đề tưởng chừng như nghiêm trang. Các nhà thờ, Đức Phật là những nơi tôn nghiêm, nhưng ở trong tác phẩm được nhìn từ những điều đáng cười cợt và
  • 28. 28 hoài nghi.Điều này nằm trong xu hướng giải thiêng của văn học Việt Nam đương đại. Bằng cách giễu nhại về chủ đề văn hóa, tôn giáo-tín ngưỡng, nhà văn hướng con người đến những điều cao cả, tốt đẹp, nhân bản đích thực. 1.2.2. Chủ đề tình yêu – hôn nhân – gia đình Tình yêu- hôn nhân- gia đình là cơ sở quan trọng của xã hội loài người. Với văn chương nghệ thuật đây là vấn đề được quan tâm, rất nhiều nhà văn nhà thơ đã nâng nó lên thành tầm cao cả nhất của con người. Tình yêu được xây dựng trên ba niềm say mê, “say mê về tâm hồn dẫn đến sự quý mến, say mê về tài trí dẫn đến sự kính trọng và say mê về thể xác dẫn đế sự ham muốn”.Văn học truyền thống hướng đến sự say mê về tâm hồn và tài trí, coi thể xác là cái thứ yếu nổi bật trong văn học Trung đại và sáng tác của các tác giả tôn thờ sự trinh khiết trong tình yêu. Bởi vậy, những hình tượng “cô gái đồng trinh”, “Thánh nữ đồng trinh Maria” trở thành ám ảnh trong thơ Hàn Mạc Tử như biểu hiện thiêng liêng, cao cả nhất của tình yêu. Nếu tình yêu bước sang giai đoạn hôn nhân thì đòi hỏi sự chung thủy vẫn là biểu hiện cao cả nhất của tình yêu. Do đó, quan niệm về “Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường” (Truyện Kiều- Nguyễn Du) và lòng chung thủy tồn tại suốt thời kì phong kiến đến thơ văn hiện đại vẫn là một biểu tượng của tình yêu thiêng liêng. Nó đã dựng nên tượng đài cuộc sống và văn học những nàng Tô Thị “chờ chồng hóa đá giữa trời xanh” hay đi vào văn học hiện đại thành các hình tượng bất tử như Nguyệt (Mảnh trăng cuối rừng), Hường (Bên đường chiến tranh) của Nguyễn Mình Châu. Tình yêu- hôn nhân- gia đình đó là tất cả những gì mà con người phải trải qua trong đời sống hiện thực. Đó không chỉ là hạnh phúc mà còn là sự bất hạnh khổ đau. Mỗi một con người đều có những tâm trạng khác nhau, có người sẽ thấy sự trải nghiệm của mình trong cuộc sống là bất hạnh, ngược lại có người sẽ thấy sự trải nghiệm đó là niềm vui và hạnh phúc. Nằm trong cảm quan hậu hiện đại, các nhà văn đã cảm nhận được sự rạn vỡ của tình yêu trong cuộc sống và đã thể hiện vào các tác phẩm văn chương đương đại với tiếng cười giễu nhại đa cung bậc. Phạm Thị Hoài biểu hiện tình yêu bị biến dạng vì chủ trương xóa bỏ cá tínhtại Việt Nam. Nguyễn Huy Thiệp đưa lên trang văn tình yêu bị đè bẹp bởi tham đắm sân si gây nên những cảnh cười ra nước mắt.
  • 29. 29 Với Nguyễn Bình Phương các nhân vật trong tiểu thuyết của ông cũng khát khao tình yêu, kiếm tìm và tận hưởng tình yêu, nhưng vô tình trong cuộc tìm kiếm đó họ lại dối lừa nhau và lừa dối chính mình trong tình yêu đầy ảo tưởng. Nguyễn Việt Hà cũng viết về vấn đề này nhưng được gắn với thủ pháp giễu nhại nhằm để giải thiêng tình cảm thiêng liêng cao quý. Trong tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà các nhân vật đều mang nỗi cô đơn, lạc lõng, vì tình yêu- hôn nhân- gia đình trong tiểu thuyết của nhà văn thể hiện sự tan vỡ, không hạnh phúc, bởi những lọc lừa, dối trá, dục vọng, chạy theo những ham mê vật chất. Tình yêu của các nhân vật trong tiểu thuyết hiện lên với quan hệ giới tính hết sức xô bồ và cẩu thả.Nguyễn Việt Hà lột tung tất cả những tấm màn che phủ đó, dí nó xuống tận cùng, trả nó về với những thuộc tính sơ đẳng của sự giao phối giữa hai giống đực – cái: “Tôi vô thức dữ tợn cắn vào đầu núm đầu ti phía trái của nàng. Dưới bầu vú ấy là một quả tim mà tôi nhức nhối mong là nó chỉ đập cho riêng tôi”[34, tr139], “tôi run run lại gần sờ sờ vào cổ áo, miệng lắp bắp là loại vải này lạ nhỉ. Hạnh quay lại, mũi lấm tấm mồ hôi, đôi mắt đen có đuôi dài ma mị. Chợt như bải hoải nàng vòng tay qua tôi, ép đầu tôi xuống, mê man mút lưỡi”[34, tr234]. Trong tình yêu nhà văn chú trọng đến vấn đề tình dục, theo cách nghĩ của nhân vật Kun: “Bọn con gái bây giờ tệ thật, chỉ thích yêu lăng nhăng chứ không thích lấy chồng… Tôi với Mộc Miên chưa bao giờ nghĩ tới cưới. Hình như hai đứa cũng chưa bao giờ nghĩ sẽ có con… Anh chẳng cần. Tình yêu của anh đủ dùng cho cả hai đứa” [34, tr330]. Theo nhận định của nhà văn: “Tình yêu đực cái chẳng bao giờ là đủ bởi nó bị tình dục đắp nền. Mà bản chất của tình dục là vô độ, là tham lam sở hữu chiếm đoạt”. Ba ngôi của người có lẽ sẽ gây ấn tượng cho nhiều người bởi cách mà tác giả nói về tình yêu và tình dục. Tình yêu ở đây, không còn cái cảm giác run sợ khi đối diện với mỗi lựa chọn liên quan đến tình yêu, nó làm cho tình yêu bị biến dạng, không còn linh thiêng nữa, thay vào đó là những cuộc vụng trộm, những ham muốn bản năng đã lấn át và chi phối hành động của con người.Sẽ khó mà tìm thấy cái đẹp thánh thiện, cái đẹp có phần huyền ảo lung linh mà người đời vẫn thường tô vẽ về tình yêu.
  • 30. 30 Tình yêu của các nhân vật trong tiểu thuyết được tác giả đề cập đến đều là mối tình đầu, nhưng đều rơi vào bi kịch. Đó là mối tình đầu của Kun dành cho Mộc Miên: “Tôi không thể tha cho em vì tình yêu đầu của tôi không thể tha cho tôi. Tôi không muốn biết quá khứ của em không phải vì tôi cao thượng mà là vì tôi sợ”[34, tr139].Chỉ vì ham mê vật chất, chạy theo đồng tiền mà Mộc Miên bỏ rơi Kun. Điều đó làm cho nhân vật Kun luôn mang nỗi ám ảnh và không thể đến với một ai sau đó. Đó còn là tình yêu giữa bố Kun và mẹ Kun: “Tôi lúc đó đã biết nhiều đàn bà nhưng em là mối tình đầu. Mối tình đầu nào thì cũng giống nhau thôi, vừa hồn nhiên xót xa vừa mơ hồ trong trắng”[34, tr159-160]. Tình yêu giữa Quang Anh và Hạnh: “Mối tình đầu bao giờ cũng để lại cho người ta một thói quen mới tinh nào đấy. Thường thường là một thói quen xấu” [34, tr182]. Tình yêu giữa nhân vật Hằng “bán phở” và Huân “voi”: “Nó bảo là nó chịu đựng mọi thứ rượu chè trai gái mà không thèm bỏ thằng chồng là bởi số nó phải lấy mối tình đầu… Chỉ vì có trong trắng tình đầu, con người ta mới vị tha cao cả hy sinh”. Hôn nhâncủa các nhân vật trong tiểu thuyết là những cuộc hôn nhân xuất phát từ tình yêu, nhưng những cuộc hôn nhân đó cũng không hạnh phúc. Nhà văn đã chỉ ra những nguyên nhân của những cuộc hôn nhân không hạnh phúc, vì lầm lỡ mà các nhân vật đánh mất hạnh phúc của mình. Đó là hôn nhân giữa nhân vật trung niên với vợ của mình theo sự miêu tả của tác giả: “Cô dâu áo dài trắng voan trắng có sáu phù dâu cũng áo dài đủ màu. Chú rể com lê cà vạt cũng có sáu thằng đi phù, tất tật sáu cặp trai gái đấy đều là bọn nghiện nhảy đầm trong băng Huân “voi”… Tiệc cưới vội vàng tàn thì bỗng thò ra một ban nhạc sống, nó vô tình báo điềm gở của bất hạnh hôn nhân…Mẹ vẫn nhớ bố lắm, nhất là những lúc mẹ uống thật say” [34, tr220]. Trong tiệc cưới báo hiệu một điều chẳng lành về cuộc hôn nhân đó. Một lần trung niên lỡ với một cô bé sinh viênvợ anh ta không thể chấp nhận được. Không thể vượt qua được sự ám ảnh bị phản bội mà các nhân vật đi đến kết cục phải ly hôn. Bởi thế, đàn bà khi yêu cũng mãnh liệt nhưng khi bị phản bội cũng vậy. Mẹ Kun đứng lên đấu tranh giành quyền hạnh phúc cho mình. Nhưng dường như càng cứng rắn bao nhiêu thì lạicàng tổn thương bấy nhiêu.Nhà văn đã sử dụng lời nói sỗ sàng nhưng ẩn chứa bên trong đó những nỗi đau dai dẳng không thể nào quên
  • 31. 31 củamẹ Kun: “Tháng tư năm đó tôi và vợ kịch liệt cãi nhau. Cơn nóng giận của đàn bà là rất khó tả, đại loại nó vừa man rợ vừa hung hãn.“Anh cút đi, cút ngay đi” [34, tr212]. Nhân vật trong tiểu thuyết của nhà văn thường tan vỡ trong tình yêu hôn nhân, vậy nênhọ chán nản, sống buông thả. Họtìm đến rượu, trải qua rất nhiều mối tình để nguôi quên mọi việc,nhưng vẫn luôn cảm thấy cô đơn và lạc lõng. Đó là nhân vật trung niên:“Suốt sáu năm sau khi ly hôn tôi lang thang sống trên những toa tàu Thống Nhất. Bảo là đi buôn cũng được, bảo là giang hồ cũng được. Tiền kiếm bao nhiêu tôi nốc rượu hết”[34, tr273]. Nhà văn còn chỉ ra một trong những lối sống buông thả của con người, không chỉ đàn ông không vượt qua được cám dỗ trần tục mà đàn bà cũng vậy, họ chạy theo vật chất, họ cũng dễ dàng ngoại tình: “Vợ tôi bỏ tôi đi theo thằng buôn gỗ đã được hơn bốn năm rồi. Vì tiền hay vì tình. Năm tháng ấy đâu đã có những thứ khốn nạn như tivi như tiểu thuyết, thế nhưng đàn bà thỉnh thoảng vẫn ngoại tình” [34, tr305]. Các nhân vật trong tiểu thuyết cũng trải qua nhiều cuộc hôn nhân:“Chủ quán là bạn thân từ hồi phổ thông của mẹ tôi. Ba lần đò, hai ta một Tây nhưng đều đắm cả. Năm mươi tuổi rồi vẫn váy đỏ nơ xanh, chắc sẽ có hôn nhân lần bốn”[34, tr325]. Và:“Tao nghe hóng hớt là con vợ nó ghen lắm hả… Thằng Hùng “dế” đã ba đời vợ” [34, tr351]. Dù là trong tình yêu hayhôn nhân các nhân vậtđều sống trong sự lừa lọc, nhìn ở đâu cũng thấy giả dối. Cuộc đối thoại của Quang Anh và người bạn Tây nói về lòng thủy chung của đàn bà: “Hay hớm gì mấy con già đài các rởm Hà Nội, toàn đồ mặt l… Ông muốn lấy gái Việt thì chọn bọn trẻ gốc quê, chúng nó tham tiền nên chúng nó chung thủy. Yêu đương gái nội bây giờ mà hết tiền thì ngay cả thằng đàn ông Việt cũng cực khổ, huống chi là Tây”[34, tr327]. Các nhân vật luôn trăn trở, hoài nghi về cuộc sống, sự giả dối làm cho họ mất niềm tin vào đời sống hiện tại, không biết đâu là giả đâu là thật. Bởi sự dối trá hiện lên từng ngày, từng giờ và xung quanh chúng tôi quá đông những cặp hạnh phúc tình nhân, hoặc ràng buộc vợ chồng. Đôi lúc họ cũng nhắm mắt, chấp nhận buông xuôi theo sự sắp đặt đó nhưng không thể làm được. Đó là sự sắp đặt của mẹ Kun cho em trai của mình là cậu Quang Anh: “Chỉ riêng mẹ tôi, đã dắt mối cho cậu một lô một lốc không dưới hai
  • 32. 32 chục cô. Đa phần là những cô vừa đần vừa ngoan, theo đúng tiêu chí “vợ hiền” của cậu. Có cô thì cậu ghét ngay, nhưng cũng có cô thì cậu chân thành à ơi một đoạn. Cách đây chừng ba năm cậu suýt lấy một cô giáo viên dạy văn trung học cơ sở. Cô ta tết tóc đôi, kém tôi chừng dăm tuổi, có vẻ mặt xinh xắn của một thiếu nữ mê tín… Có diều dở là cô ta không biết đùa” và cô ta cũng là một người dối trá [34, tr340]. Tình yêu-hôn nhân- gia đình trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hàhiện lên muôn hình muôn vẻ. Trong tình yêu của các nhân vật đều là mối tình đầu nhưng rơi vào bi kịch với những nỗi đau về tinh thần, luôn bị dằn vặt và nhớ về mối tình đó. Trong hôn nhân có những nhân vật xuất phát từ tình yêu để đi đến hôn nhân, có những nhân vật trải qua không biết bao nhiêu cuộc hôn nhân nhưng cũng không hạnh phúc.Trong tình yêu- hôn nhân, hay thậm chí họ đang sống với nhau trong một gia đình đều mang sự dối trá, lừa lọc lẫn nhau. Bằng cách giễu nhại châm biếm câu chuyện tình yêu-hôn nhân- gia đình hiện đại nhà văn cho thấybi kịch của sự cô đơn, lạc lõng, bi kịch tan vỡ trong tình yêu - hôn nhân và gia đình của các nhân vật trong tiểu thuyết. 1.2.3. Chủ đề nghệ thuật đƣơng đại Những hệ lụy của đô thị hóa không chỉ tác động mạnh mẽ đến đời sống mà còn làm biến động nghệ thuật, như một sự tất yếu, nghệ thuật đứng trước những thách thức và nguy cơ. Nguyễn Việt Hà đã không ngần ngại chỉ thẳng những biểu hiện lệch lạc và sự xuống cấp trầm trọng của nghệ thuật đương đại và của cả giới nghệ sĩ. Những trang viết về đời sống nghệ thuật của nhà văn hiện lên đầy màu sắc và rất rõ nét, một đời sống nghệ thuât lẫn lộn thật giả và đầy những sự phi lí. Rõ ràng, trước xã hội đang ngày một phát triển với tốc độ vũ bão, nghệ thuật đứng trước những thách thức lớn, nhà văn đã chỉ ra được nghịch lý:“Nghệ thuật đương đại có nhiều cái rất hay, có điều khi sa vào đấy tôi thấy chới với” [34, tr332]. Hay“văn chương đích thực là cái đạo lý của thường nhật. Cao hơn là đạo lý của bọn người đã hiểu đang loay hoay sống bám víu. Càng ngày càng đông bọn nghệ sĩ sinh hoạt khác thường mà tác phẩm lại cực kỳ tầm thường”. Nhà văn còn nhại lại những triết lý, những đoạn tản văn bình luận về sứ mệnh của nghệ thuật và văn chương:
  • 33. 33 “Nghệ thuật mới hay đương đại cái đếch gì mà do bọn ngoài bảy mươi đầu têu. Văn chương nước nhà mới thảm, ba tiểu thuyết gia cách tân hàng đầu thì đều đã bát tuần. Ỉa bô còn rây ra ngoài thế mà vẫn hung hăng sáng tác”[34, tr38]. Các triết lý về thơ và báo:“Thơ là tiếng nói của đau khổ, còn báo là phương tiện để lãng mạn nuôi dưỡng nỗi khổ đau ấy”. Còn:“Nhiếp ảnh là nghệ thuật vừa của khoảnh khắc nhất thời vừa của viên miễn vĩnh cửu” [34, tr57]. Nhà văn đã chỉ ra được thực trạng nghệ thuật nước ta ngày càng xuống cấp trầm trọng, ai cũng có thể làm nghệ thuật và sáng tác văn chương. Nó mất đi giá trị, thay vào đó là sự tạp nham, nghệ thuật hay văn chương không trở nên sâu sắc và thu hút người đọc nữa. Hoạt động nghệ thuật từ xưa đến nay đều qua các khâu Hiện thực- Nghệ sĩ- Tác phẩm- Độc giả. Trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà, ta dễ nhận ra mối tương quan này trong hoạt động nghệ thuật. Rõ ràng khi tác phẩm ra đời, xuất hiện trước công chúng thì hẳn nhiên số phận của nó đã không còn nằm trong tay của tác giả mà phụ thuộc vào người tiếp nhận; được đón nhận, nâng niu thì tác phẩm sống; ngược lại, thì tác phẩm chết. Có thể khẳng định tầm quan trọng của công chúng với hoạt động nghệ thuật, nhưng công chúng đã không được đào tạo bài bản về việc hưởng thụ nghệ thuật, sự mù mờ trong cảm nhận dẫn đến những lệch lạc về nhận thức đối với các tác phẩm. Bởi vậy, nhà văn đã nhắc đi nhắc lại thực trạng và chỉ ra một trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên. Nhà văn đã đặt ra vấn đề công chúng thưởng thức nghệ thuật và nghệ thuật của nước ta ngày một già hóa:“Độc giả bây giờ không đọc sách nữa, hầu hết chỉ biết hóng hớt qua báo chữ hoặc qua truyền hình, rầm rập bầy đàn rủ nhau đi mua thi tập. Cô bé đương nhiên trở thành một hiện tượng và mấy giáo sư già quen viết cho mấy tờ báo văn nghệ già chưa bao giờ đọc cô bé, nhưng khi phải ví dụ đến thơ trẻ thì tỏ vẻ uyên bác quan tâm trịch thượng tiện mồm nhắc. Nhắc đi nhắc lại trở thành quen tai, cô bé bỗng chốc trở thành tác giả”. Độc giả quay lưng với nghệ thuật, không tìm thấy được người thưởng thức thực sự, không tìm được sự đồng cảm trong sáng tạo nghệ thuật, người nghệ sĩ trở nên vong thân, lạc loài. Nhà văn cũng chỉ ra một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự vong thân của nghệ thuật, đó chính là đồng tiền. Đồng tiền không chỉ chi phối đến đời
  • 34. 34 sống con người mà còn chi phối đến cả nghệ thuật. Mảnh đất màu mỡ- nơi đáng lẽ dành cho những tâm hồn giàu cảm xúc thì thay vào đó là sự khoe khoang thị hiếu thẩm mỹ của một lũ trọc phú, góp phần làm méo mó bộ mặt nghệ thuật. Đứng trước việc thị hiếu của người thưởng thức thay đổi, thẩm mỹ nghệ thuật cũng đã khác, lệch lạc đi, người nghệ sĩ chân chính buộc phải lựa chọn hoặc thay đổi, hay chấp nhận. Chính từ đây người nghệ sĩ không chịu trở thành “bất lương”đã bỏ cuộc giữa chừng, rẽ sang một hướng mới, để kiếm kế sinh nhai. Nhiều người khác thì chọn phương án thứ hai, tiếp tục nhưng “chấp nhận” trở thành khốn nạn với nghệ thuật, với lương tâm nghề nghiệp của chính mình để đổi lấy miếng cơm qua ngày. Trong tiểu thuyết, nhà văn đã không ngần ngại thừa nhận việc nghệ thuật đang trở thành một món hàng kinh doanh, chạy theo thị hiếu tầm thường và nhu cầu tiêu dùng của trọc phú:“Làm nghệ thuật cũng giống như người ta sống, cái đã qua là không thể vớt vát. Thầy dạy vẽ tôi cũng có viết, ông bảo: “Viết hoặc vẽ thì giống hệt đám tuyệt thế cao thủ rút kiếm, đã hạ thủ là bất hoàn… Công năng đơn giản đầu tiên của nghệ thuật là làm chính mình và người khác bị ám ảnh”. Và “Tranh treo ở chuồng lợn mà tới cả gần chục nghìn đô thì đắc địa quá rồi còn gì”[34, tr175]. Nghệ thuật trở thành những sản phẩm mỹ thuật được làm ra hàng loạt, được sao chép hàng loạt. Nghệ sĩ đầy rẫy trên thị trường, thật giảlẫn lộn vào nhau: “Hai ông nhà văn, một đầu nhỏ một đầu to đều thích nói tục ăn mặn đái khai thì làm chủ xị ngày đầu tuần. Giữa tuần có đám họa sĩ tạm gọi là trẻ đang bán được tranh như tháo cống và nửa non trong số đấy bị đồn là đồng tính” [34, tr67- 68]. Cuộc triễn lãm mở ra liên miên. Báo chí hết lời khen ngợi: “Phim ông ta làm về đám trẻ bọn tôi, toàn gắng gượng giả dối là giả dối, nhưng được rất nhiều giải thưởng kèm theo những lời bình khen là phim quá trung thực với đời sống đương đại. Cái đêm được giải Cánh Diều bạc, ông ta người ngắn loay hoay cảm động nhấp nhổm đứng dưới đầu ti của cô người mẫu chân dài ngây ngô làm em xi, rưng rưng cảm ơn ban tổ chức…” [34, tr37]. Các đoạn phim, chương trình cặp đôi hoàn hảo, các nghệ sĩ danh hài cũng được tác giả nhại:“Một phim ngắn quay betacam dài chừng mười hai phút, tham lam chồng chất nhiều ý, đúng theo tính cách của những đứa mê nghệ thuật khát khao muốn
  • 35. 35 khẳng định mình ở đô thị. Kịch bản hời hợt a dua theo thời thượng, có hai đứa con gái đồng tính vừa dung tục cởi trần vừa thiêng liêng mặc quần “xịp” yêu nhau. Rồi hai đứa tiếp tục cởi truồng ở trên rừng với thông điệp quyết liệt bảo vệ thiên nhiên”[34, tr140]. Chương trình “cặp đôi hoàn hảo” đã vào vòng gần cuối. Ban giám khảo gồm một nam đạo diễn, một nữ ca sĩ và một nhạc sĩ không rõ giới tính đang thi nhau trình diễn bản thân. Bọn này hồi ỉa bô thì xem lăng nhăng hoạt hình, lớn hơn tí nữa thì cắm đầu vào truyện tranh. Tới khi hạ bộ lơ thơ lông thì há hốc mồm đần độn cười, say mê cặp danh hài Xuân Bắc Tự Long. Còn nghe Mr. Đàm nức nở thì nước mắt nước mũi lả chả. Đại loại, ngu như một con milu” [34, tr181]. “Con bé Hiền tinh quái còn tiếp thị trên báo giấy báo mạng mấy chiêu nhái kiểu bọn thi ca sĩ “ai đồ” và người mẫu “nếc tóp mo đồ” [34, tr182]. Nghệ thuật trở nên tạp nham như một thứ hàng phế phẩm,đáng lẽ là nơi cảm xúc thăng hoa, nhưng thay vào đó lại là những toan tính, những mưu lợi cá nhân, biến nghệ thuật trở nên lố bịch. Những biến chuyển to lớn đã phá vỡ nền tảng lối sống bình yên giản dị, con người trở nên trơ lì với rất nhiều giá trị. Nghệ thuật bị méo mó đi nhiều cả người sáng tác lẫn người thưởng thức. Bởi thế, nghệ thuật ngày càng bị thụt lùi và biến chất. Tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà đã phóng chiếu một mảng hiện thực chua chát, đó là thị hiếu thực dụng trong nghệ thuật và sự vong thân của con người trong xã hội Việt Nam đương đại. Nhà văn đã chỉ thẳng những biểu hiện lệch lạc và sự xuống cấp trầm trọng của nghệ thuật đương đại và của giới nghệ sĩ. Nhà văn đã dùng ngòi bút của mình để vẽ nên một bức tranh ngồn ngộn về hiện thực đời sống, nhìn vào đó người xem có thể thấy một hiện thực đời sống ngổn ngang và hỗn độn, đầy những mâu thuẫn và nghịch lí từ trong chính bản thân nó. Nhà văn phanh phui, vạch trần những tồn tại, những vấn nạn của xã hội đương đại. Một đời sống nghệ thuật lẫn lộn thật giả và đầy những sự phi lý. Tiểu kết:Trong tiểu thuyết Ba ngôi của người của Nguyễn Việt Hà, nhà văn đã vẽ nên một bức chân dung Hà Nội với cuộc sống dung tục, xô bồ với những nhãn mác rượu tây, loại xe sang trọng.v.v. tạo nên cảm giác bề bộn của đời sống thực tại. Con người bắt đầu chao chát, thực tế tiền tài địa vị danh lợi dục tình đếm đo, đến cục cằn thô lỗ độc ác chà đạp phẩm giá lương tri dẫn tới sự suy hoại của từng góc