Tiểu Luận giải quyết khiếu nại về việc nhà trường không thực hiện đúng chế độ thai sản
Bảo hiểm xã hội là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta. Không vì mục tiêu lợi nhuận. Vì thế cần phải tuân thủ và áp dụng đúng quy định của pháp luật, nhằm mục đích an sinh và an toàn xã hội. Bảo hiểm xã hội chứa đựng nhiều ý nghĩa lớn lao, đó là tính nhân đạo, tính nhân văn của xã hội xã hội chủ nghĩa.
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
Tiểu Luận giải quyết khiếu nại về việc nhà trường không thực hiện đúng chế độ thai sản.doc
1. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com - Tải miễn phí - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
BỘ TÀI CHÍNH
TRƯỜNG BỒI DƯỠNG CÁN BỘ TÀI CHÍNH
KHÓA BỒI DƯỠNG NGẠCH KẾ TOÁN VIÊN
Tổ chức tại: Nghệ An
Từ ngày 27 tháng 05 năm 2021
đến ngày 15 tháng 07 năm 2021
TIỂU LUẬN TÌNH HUỐNG
GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ VIỆC NHÀ TRƯỜNG
KHÔNG THỰC HIỆN ĐÚNG CHẾ ĐỘ THAI SẢN
Họ và tên học viên: Nguyễn Thị Ngọc Huyền
Chức vụ: Kế toán viên
Đơn vị công tác: Trường Mầm non Hưng Hòa
Thành phố Vinh - Nghệ An
Nghệ An, Tháng 07 năm 2021
3. 1
PHẦN MỞ ĐẦU
Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một chính sách xã hội quan trọng của Đảng và
Nhà nước ta. Chính sách đó đã được thể chế hóa và thực hiện theo Luật. Bảo
hiểm xã hội vừa mang tính kinh tế nhưng cũng mang tính xã hội, nhân đạo,
nhằm đảm bảo cuộc sống cho người lao động trước những biến cố làm giảm
hoặc mất thu nhập.
Trải qua hơn bốn mươi năm với những sửa đổi, bổ sung cho phù hợp trong
từng giai đoạn, chính sách bảo hiểm xã hội đã góp phần to lớn đảm bảo đời
sống cho người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần ổn định tình hình
chính trị - xã hội của đất nước.
Đến nay, bảo hiểm xã hội đã được thực hiện cho cán bộ, công chức, viên
chức nhà nước, lực lượng vũ trang và người lao động trong các thành phần kinh
tế, ở những nơi có quan hệ lao động, có sử dụng lao động và các hộ kinh doanh
cá thể. Theo Luật Bảo hiểm xã hội, Việt Nam đang thực hiện chế độ về bảo
hiểm xã hội bắt buộc, chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện, chế độ bảo hiểm thất
nghiệp. Trong đó chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc bao gồm năm chế độ là: Chế
độ ốm đau; chế độ thai sản; chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; chế độ
hưu trí và chế độ tử tuất. Chính sách bảo hiểm xã hội đã khẳng định vai trò của
mình trong sự nghiệp đổi mới, thể hiện tính ưu việt của nhà nước xã hội chủ
nghĩa.
Công tác thực hiện chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội cho giáo viên, nhân
viên ngành giáo dục và đào tạo trong những năm qua đã có nhiều bước phát
triển, đối tượng người lao động được tham gia đóng bảo hiểm xã hội đã đạt tỷ lệ
ngày càng cao, ngành Bảo hiểm xã hội đã thực hiện việc chi trả các chế độ
chính sách cho người lao động theo đúng quy định của Nhà nước, góp phần
giúp người lao động khắc phục khó khăn, ổn định đời sống, an tâm công tác, tạo
được sự đồng thuận lớn trong nhân dân. Tuy vậy, trong quá trình thực hiện vẫn
còn một số vấn đề bất cập, nhiều đơn vị sử dụng lao động còn thiếu ý thức trong
4. 2
việc chấp hành Luật Bảo hiểm xã hội. Do chưa nhận thức đầy đủ ý nghĩa, vai
trò và tầm quan trọng của bảo hiểm xã hội trong việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp
của giáo viên và người lao động hợp đồng và quá trình thực hiện Luật BHXH
một số đơn vị tự ý ký hợp đồng lao động không báo cáo cơ quan cấp trên đã
không kê khai đúng số lượng người làm việc, ký kết hợp đồng lao động ngắn
hạn theo dạng chuỗi, không đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động thuộc
diện tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc theo đúng quy định, làm ảnh hưởng đến
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, vi phạm pháp luật,
gây ảnh hưởng xấu đến các cơ quan, tổ chức.
Xuất phát từ vai trò bảo hiểm xã hội đối với viên chức và người lao động
trong ngành giáo dục nói chung và tại Trường MN X thành phố Vinh nói riêng,
tôi chọn đề tài: “Giải quyết khiếu nại về việc nhà trường không thực hiện
đúng chế độ thai sản” xảy ra vào tháng 1/2020.
Sau thời gian học tập, nghiên cứu chương trình Bồi dưỡng ngạch kế toán
viên, tôi mạnh dạn vận dụng các kiến thức đã được tiếp thu nhằm xử lý tình
huống nêu trên. Tuy nhiên, do khả năng còn hạn chế, thời gian không cho phép
nên trong tiểu luận tình huống này chắc chắn không tránh khỏi những khiếm
khuyết, tôi thành thật mong nhận được sự giúp đỡ và góp ý tận tình của quý
thầy, cô giáo để tôi hoàn thiện kiến thức và nâng cao khả năng áp dụng kiến
thức vào thực tiễn công tác của bản thân ngày càng tốt hơn.
Trân trọng cảm ơn!
5. 3
NỘI DUNG TÌNH HUỐNG
1. Mô tả tình huống:
Dịp tết 2020 vừa rồi thật vui vì tôi được gặp lại những bạn bè thân thiết
hồi học phổ thông để hàn huyên tâm sự. Tôi và Tâm, Thắm, Hạnh, Trâm khi
rảnh thường rủ nhau đi cà phê vào mỗi buổi sáng. Chúng tôi hay kể huyên
thuyên những câu chuyện về gia đình, người thân; về công việc làm ăn; về cuộc
sống…
Trong những câu chuyện không đầu không đuôi ấy, có lần Tâm đã hỏi tôi:
- Này Phượng, bạn công tác ở một trường phổ thông, bạn trả lời giúp mình
một vài thắc mắc này được không?
- Chuyện gì vậy Tâm? (tôi hỏi lại)
- À, câu chuyện xảy ra với đứa em gái của mình ấy mà, con bé D, đứa em
út của mình ngày xưa đó…
Qua tâm sự của Tâm, tôi đã phần nào hiểu được câu chuyện của D một
cách khái quát như sau: D, tên thật là Lê Thị D, sinh năm 1992. Tháng 08 năm
2016, D tốt nghiệp Trường trung cấp Kinh tế kỹ thuật Vinh với tấm bằng trung
cấp kinh tế chuyên ngành Kế toán. Ngày 01/09/2016 D được nhận vào làm việc
hợp đồng tạm thời, loại hợp đồng thời vụ 3 tháng/lần (không báo cáo với Phòng
Giáo dục và Đào tạo) tại trường MN X thành phố Vinh. Công việc cụ thể của D
là làm nhân viên thủ quỹ kiêm văn thư của nhà trường. Sau 6 tháng làm việc với
2 lần ký hợp đồng thời vụ, với sự chăm chỉ và trách nhiệm trong công việc nên
D đã được hiệu trưởng trường MN X ký hợp đồng có xác định thời hạn là 2 năm
từ ngày 01/03/2017 để đảm bảo trách nhiệm và quyền lợi của cả hai phía.
Gần cuối năm 2017, D lập gia đình và đến ngày 17/10/2018 D sinh con đầu
lòng. D đã nghỉ sinh theo chế độ, nhưng trong 6 tháng đó cô không nhận được
tháng lương nào. Cả ba người trong gia đình cô chỉ sống dựa vào tiền lương ít ỏi
của chồng D trong thời gian cô nghỉ sinh. Vì vậy gia đình gặp nhiều khó khăn,
túng thiếu về kinh tế. Chồng D thường hay cáu gắt, bực bội mỗi khi nói đến vấn
6. 4
đề thu nhập, chi tiêu trong gia đình. Mặt khác, tại cơ quan nơi chồng D làm việc
có cô nhân viên văn thư nghỉ sinh con cùng thời điểm với D nhưng đã được Bảo
hiểm xã hội thanh toán chế độ thai sản. Chồng D cũng đã liên hệ với trường MN
X để đề nghị thanh toán chế độ thai sản cho cô ấy, nhưng nhà trường đã trả lời
là Bảo hiểm xã hội thành phố không giải quyết. Vì vậy chồng cô ấy đã bức
xúc, viết đơn khiếu nại nhà trường và sẽ gửi đơn đến các cấp có thẩm
quyền…
Qua tâm sự của Tâm, tôi có được biết thêm thông tin vì sao nhà trường
không thanh toán chế độ thai sản cho D?
- Tâm kể tiếp: bởi D nhà mình với cô kế toán nhà trường là bạn thân cùng
học phổthông với nhau nên cô ấy đã có lần mách nhỏ cho D biết nguyên nhân
nhà trường không thanh toán chế độ thai sản cho nó là vì: “Trường chưa báo
tăng lao động đối với D, trong danh sách tham gia bảo hiểm xã hội của
trường không có tên D. Với nguyên tắc có đóng góp thì mới có thụ hưởng
nên bảo hiểm xã hội không thanh toán cho hồ sơ thai sản của D” (trao đổi
của cô kế toán với D qua lời kể của Tâm).
Do chưa có nhiều kinh nghiệm trong quản lý, đặc biệt là quản lý chế độ,
chính sách liên quan đến bảo hiểm xã hội. Mặt khác, câu chuyện của em gái
Tâm cũng là tình huống mà tôi chưa gặp bao giờ trong quá trình công tác của
mình nên tôi chưa thể trả lời ngay những thắc mắc của Tâm. Vì vậy, tôi đã nói
với Tâm: Trước hết bạn cần trao đổi với D và chồng cô ấy là hãy bình tĩnh để
xem xét vấn đề cho thấu đáo. Còn về phần mình, ngày mai mình sẽ chia sẻ với
bạn những suynghĩtheo quan điểm cá nhân của riêng mình để bạn hiểu thêm.
2. Mục tiêu xử lí tình huống:
Bảo hiểm xã hội là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta. Không vì
mục tiêu lợi nhuận. Vì thế cần phải tuân thủ và áp dụng đúng quy định của pháp
luật, nhằm mục đích an sinh và an toàn xã hội. Bảo hiểm xã hội chứa đựng
7. 5
nhiều ý nghĩa lớn lao, đó là tính nhân đạo, tính nhân văn của xã hội xã hội chủ
nghĩa. Vì vậy mục tiêu xử lý cần đạt được như sau:
Một là, cô Lê Thị D phải được hưởng chế độ thai sản và các quyền lợi khác
của người lao động theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội và Bộ luật Lao
động. Xây dựng mối quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động
trong đơn vị ngày càng gắn bó, trách nhiệm, tạo niềm tin cho người lao động
yên tâm công tác, phát huy hết khả năng của mình trong công việc.
Hai là, trường MN X phải kịp thời báo tăng số lượng người lao động và
trích nộp bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật, đảm bảo kỷ cương phép
nước, tính nghiêm minh của pháp luật, khẳng định đường lối chính sách của
Đảng và Nhà nước về bảo hiểm xã hội là hoàn toàn đúng đắn, tạo sự đồng thuận
trong nhân dân.
Ba là, bảo đảm sự công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ của người tham gia
bảo hiểm xã hội trong các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc nghành giáo dục.
Bốn là, nâng cao ý thức trách nhiệm của người sử dụng lao động và người
lao động trong quá trình đóng và thụ hưởng bảo hiểm. Nâng cao trách nhiệm
của cán bộ công chức, viên chức trong quá trình thực thi công vụ.
Việc tham gia và thụ hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội không chỉ là quyền
lợi và trách nhiệm của người lao động, người sử dụng lao động, cơ quan Bảo
hiểm xã hội mà còn là trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, của các
đoàn thể quần chúng và các tổ chức xã hội. Vì vậy, thực hiện xã hội hoá trong
công tác bảo hiểm xã hội là việc làm cần thiết và phù hợp với xu thế hiện nay.
3. Phân tích nguyên nhân và hậu quả:
3.1.Nguyên nhân:
3.1.1.Nguyên nhân chủ quan:
* Đối với cô D: vì chưa được trang bị cho mình những kiến thức cơ bản về
pháp luật lao động, thiếu hiểu biết về quyền lợi và trách nhiệm của các bên
8. 6
trong quá trình tham gia lao động. Ở đây, cô D gần như phụ thuộc hoàn toàn
vào nhà trường, chỉ biết mình được nhận vào làm việc là may mắn rồi nên
không dám đề đạt nguyện vọng gì thêm, kể cả trong trường hợp quyền và lợi ích
hợp pháp của mình bị xâm phạm.
* Đối với trường MN X:
- Hiệu trưởng nhà trường chưa nhận thức đầy đủ các điều kiện ràng buộc
hoạt động của một đơn vị và những yếu tố xã hội có tác động thúc đẩy hoạt
động của đơn vị.
- Không báo tăng tham gia bảo hiểm cho người lao động và đóng nộp bảo
hiểm xã hội theo đúng quy định.
- Không báo tăng lao động cho cơ quan quản lý cấp trên là Phòng Giáo dục
và Đào tạo theo quy định.
* Đối với Tổ chức Công đoàn nhà trường: Chưa thực hiện tốt chức năng,
nhiệm vụ của mình là tuyên truyền giáo dục, nâng cao nhận thức về pháp luật
cho người lao động, đặc biệt là các quyền và nghĩa vụ của người lao động trong
đơn vị; chưa kịp thời nắm bắt tình hình và có biện pháp bảo vệ người lao động
khi quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của họ bị xâm phạm.
* Đối với Bảo hiểm Xã hội thành phố Vinh: Chưa kịp thời nắm số lao động
tăng của đơn vị tham gia bảo hiểm xã hội, để buộc trường MN X phải tham gia
đóng bảo hiểm xã hội cho những người lao động theo quy định, gây khó khăn
trở ngại cho quá trình giải quyết các chế độ bảo hiểm xã hội, làm ảnh hưởng
quyền lợi cho người lao động.
3.1.2 Nguyên nhân khách quan:
- Công tác quản lý nhà nước của Phòng Giáo dục và Đào tạo đối với trường
MN X nói riêng và các đơn vị sự nghiệp trực thuộc trên địa bàn nói chung còn
thiếu chặt chẽ, công tác thanh kiểm tra của các cơ quan chức năng chưa kiên
quyết, còn “nhẹ tay” khi xử lý những vi phạm của thủ trưởng đơn vị.
9. 7
- Một số văn bản quy phạm pháp luật trong công tác quản lý nhà nước về
chế độ bảo hiểm xã hội còn bất cập, chưa chặt chẽ, tính hiệu lực chưa cao, cơ
quan bảo hiểm xã hội được giao tránh nhiệm quản lý nguồn thu bảo hiểm xã hội
nhưng không có chức năng quản lý nhà nước về lao động, không có thẩm quyền
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực này.
- Các biện pháp để thu nợ bảo hiểm xã hội đã được quy định, như bắt buộc
nộp lãi đối với các đơn vị nợ tiền bảo hiểm xã hội nhưng chưa đủ mạnh vì họ
sẵn sàng nộp lãi còn hơn phải vay ngân hàng để nộp bảo hiểm xã hội. Nộp lãi
bảo hiểm xã hội không cần làm các thủ tục phức tạp và lãi suất thấp…
- Công tác tuyên truyền các văn bản quy phạm pháp luật về bảo hiểm xã
hội của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các cơ quan đoàn thể có tích cực, nhưng
chưa sâu rộng, các cơ quan thông tin đại chúng chưa thực sự xem công tác này
là trách nhiệm của mình. Về phía cơ quan Bảo hiểm xã hội mặc dù có tích cực
trong công tác, song chưa có biện pháp hữu hiệu để đạt kết quả cao, một số tổ
chức xã hội chưa tích cực, năng động trong công tác này.
3.2. Hậu quả:
- Về cá nhân cô D và gia đình: Không được giải quyết chế độ thai sản kịp
thời nên đã ảnh hưởng lớn đến đời sống kinh tế của gia đình, đặc biệt là trong
giai đoạn giá cả sinh hoạt tăng cao như hiện nay.
- Về mặt quản lý Nhà nước: Việc thực hiện pháp luật bị hạn chế, làm ảnh
hưởng đến tính nghiêm minh của pháp luật. Chưa bảo đảm sự công bằng về giải
quyết chế độ chính sách giữa các cơ quan, tổ chức, tạo dư luận không tốt trong
nhân dân.
- Về mặt xã hội: Một bộ phận người lao động qua tình huống này sẽ chưa
thực sự tin tưởng vào cán bộ, công chức, cơ quan quản lý nhà nước về bảo hiểm
xã hội, ảnh hưởng đến chính sách bảo hiểm xã hội mà Đảng và Nhà nước ta đã
và đang thực hiện.
10. 8
- Uy tín lãnh đạo của Ban giám hiệu nhà trường, tổ chức Công đoàn nhà
trường bị giảm sút, người lao động mất niềm tin, không yên tâm công tác, chất
lượng và hiệu quả công việc giảm, ảnh hưởng đến thu nhập của người lao động.
4. Xây dựng và lựa chọn phương án giải quyết tình huống:
Qua phân tích nguyên nhân và hậu quả của tình huống, để đạt được các
mục tiêu đã xác định tác giả đề xuất các phương án giải quyết và lựa chọn
phương án giải quyết như sau:
4.1. Xây dựng các phương án giải quyết tình huống:
* Phương án 1: Trường MN X chủ động thanh toán chế độ thai sản cho
cô D. Sau đó làm việcvới Bảo hiểm xã hội thành phố Vinh để quyết toán chế
độ thai sản của cô D cho nhà trường nhằm giảm bớt phần nào khó khăn
trong cuộc sống cho gia đình cô D.
Bởi vì theo quy định tại Điểm a, Khoản 1, Điều 92 Luật Bảo hiểm xã hội:
“Kể từ ngày01/01/2009trở đi người sử dụng lao động giữ lại 2% số phải
nộp để trả kịp thời cho người lao động đủ điều kiện huởng chế độ (ốm đau và
thai sản) theo quy định. Hàng quýhoặchàng tháng người sử dụng lao động có
trách nhiệm quyết toán kinh phí nàyvới cơ quan Bảohiểm xã hội theo quyđịnh.
Kể từ tháng 01/2009, khi quyết toán số tiền đóng BHXH, BHYT của các
đơn vị, cơ quan BHXH sẽ trừ lại 2% số phải nộp, nếu đơn vị nào hàng tháng
không giữ lại 2% để chi trả chế độ ốm đau, thai sản thì phải có công văn đề
nghị gửi cơ quan BHXH các huyện, thành phố, để có cơ sở giải quyết”
- Ưu điểm: Giải quyết kịp thời khó khăn trước mắt, đảm bảo quyền lợi cho
cô Lê Thị D, lấy lại lòng tin cho người lao động, tránh được những dư luận
không có lợi cho ngành giáo dục và đào tạo.
- Nhược điểm: Gây ra sự ngộ nhận về tính nghiêm minh của pháp luật, làm
cho người lao động không tự mình quan tâm đến quyền lợi của mình và đi đến ỷ
11. 9
lại, họ nghĩ rằng chỉ cần viết đơn là giải quyết ngay, chưa đảm bảo được tính
công bằng và quyền lợi của người tham gia bảo hiểm.
* Phương án 2: Lãnhđạo trường MN X chủ động đến gặp lãnh đạo Bảo
hiểm xã hội thành phố Vinh trình bày rõ tình hình, sự việc và đề nghị nhận
được sự hợp tác, giúp đỡtheo hướng đảm bảoquyền lợi cho người lao động.
Bảo hiểm xã hội sẽ cử cán bộ tham dự cuộc họp do nhà trường tổ chức với
thành phần gồm : lãnh đạo nhà trường, công đoàn nhà trường và cô Lê Thị
D. Tại cuộc họp các bên sẽ làm việc, phân tích làm rõ sai trái, thiếu sót, trách
nhiệm thuộc về ai. Sau đó, nhà trường phải tiến hành làm thủ tục báo tăng
kịp thời cho cô Lê Thị D, truy nộp bảo hiểm xã hội, để giải quyết chế độ thai
sản cho cô D, đảm bảo quyền lợi cho người lao động.
Cán bộ chính sách tính toán số tiền chế độ thai sản cho cô D với cách tính
được quy định tại Luật Bảo hiểm xã hội như sau:
Cô D có hệ số lương tham gia bảo hiểm xã hội là: 1,86.
Mức lương tối thiểu chung được áp dụng để tính là: 1.390.000 đồng (thời
điểm cô D nghỉ sinh con).
Với 6 tháng nghỉ sinh hưởng chế độ thai sản (quy định tại Điều 157 Bộ
Luật Lao động: “Laođộng nữ được nghỉ trước và sau sinh con là 6 tháng”, cô
D được hưởng số tiền:
1,86 x 1.390.000đ x 6 tháng = 15.512.400 đồng
Cô D được hưởng thêm 2 tháng lương tối thiểu trợ cấp một lần khi sinh
(quy định tại Điều 34, Luật Bảo hiểm xã hội: “Lao động động nữ sinh con hoặc
nhận con nuôi dưới 4 tháng tuổi thì được trợ cấp một lần bằng hai tháng lương
tối thiểu chung cho mỗi con”)
2 tháng x 1.390.000đ = 2.780.000 đồng.
Tổng cộng số tiền cô D được hưởng là:
15.512.400đ + 2.780.000đ = 18.292.400 đồng.
12. 10
- Ưu điểm:
Đảm bảo tính pháp chế, tính công bằng, tinh thần thái độ phục vụ của công
chức, viên chức trong đơn vị sử dụng lao động được cải thiện, với mục tiêu “tất
cả vì quyền lợi người lao động”.
Đảm bảo hợp tình, hợp lý, thu hút được đối tượng tham gia bảo hiểm, góp
phần đẩy nhanh công tác xã hội hoá bảo hiểm, ngoài ra còn góp phần chứng
minh tính đúng đắn trong thực tiễn, việc bổ sung, sửa đổi một số quy định trong
quản lý, trong xử lý quy trình nghiệp vụ, để phù hợp với yêu cầu đòi hỏi trong
giai đoạn hiện nay về vấn đề chăm sóc quyền và lợi ích hợp pháp đối với người
lao động.
- Nhược điểm: Công chức, viên chức cơ quan Bảo hiểm xã hội phải tập
trung đầu tư thời gian để xử lý, gia đình cô Lê Thị D và người lao động trong
nhà trường có thể ngộ nhận, trách nhiệm sai sót thuộc về cơ quan Bảo hiểm xã
hội.
*Phương án 3: Trường MN X trích kinh phí thường xuyên, giải quyết
trợ cấp khó khăn cho gia đình cô Lê Thị D với số tiền bằng tiền chế độ thai
sản.
- Ưu điểm: Giải quyết kịp thời khó khăn trước mắt cho gia đình cô Lê Thị
D.
- Nhược điểm: Trường MN X và Bảo hiểm xã hội thành phố Vinh chưa
thực hiện đúng quy định của pháp luật, không gắn trách nhiệm của nhà trường
với quyền lợi lâu dài của người lao động tham gia bảo hiểm xã hội (thời gian và
mức đóng bảo hiểm xã hội là cơ sở để giải quyết các chế độ khác cho người lao
động sau này như hưu trí, tử tuất, tai nạn lao động...), tính khả thi không cao vì
phải phụ thuộc vào sự tự giác và kinh phí của nhà trường.
4.2. Lựa chọn phương án giải quyết tình huống:
13. 11
Qua việc phân tích, đối chiếu với mục tiêu đã xác định với ba phương án
đã trình bày ở trên, phương án nào cũng có mặt ưu và nhược. Tuy nhiên, trong
trường hợp này tác giả lựa chọn phương án 2 là phương án để giải quyết, vì
trong các phương án đã xây dựng, đây là phương án tối ưu. Thực hiện phương
án này sẽ đảm bảo tính công bằng, tính nghiêm minh của pháp luật, nâng cao
tinh thần, thái độ phục vụ của công chức, viên chức cơ quan Bảo hiểm xã hội và
các đơn vị sử dụng lao động, vừa đảm bảo hợp lý, hợp tình, thu hút được đối
tượng tham gia, góp phần đẩy nhanh công tác xã hội hóa bảo hiểm, ngoài ra còn
góp phần chứng minh tính đúng đắn trong thực tiễn về việc bổ sung sửa đổi một
số quy định trong quản lý, trong xử lý quy trình nghiệp vụ, để phù hợp với yêu
cầu đòi hỏi trong giai đoạn hiện nay về vấn đề chăm sóc quyền và lợi ích hợp
pháp đối với người lao động.
5. Lập kế hoạch tổ chức thực hiện phương án đã được lựa chọn :
Để thực hiện tốt phương án đã được lựa chọn, đòi hỏi sự phối hợp thực
hiện giữa người lao động, nhà trường và cơ quan Bảo hiểm xã hội một cách
khoa học chặt chẽ, đầy đủ thủ tục, theo đúng trình tự các bước, đảm bảo quyền
lợi cho người lao động được giải quyết đúng, đủ và kịp thời.
5.1. Các bước tiến hành cụ thể :
Bước 1: Lãnh đạo nhà trường đến làm việc với cơ quan BHXH để thống
nhất phương án giải quyết. Sau đó trường MN X sẽ mời Bảo hiểm xã hội thành
phố Vinh đến tham gia cuộc họp với lãnh đạo nhà trường, công đoàn cơ sở và
cô Lê Thị D. Tại cuộc họp sẽ làm việc, phân tích làm rõ sai trái, thiếu sót của cá
nhân, tổ chức có liên quan đến sự việc, chỉ rõ hậu quả mà các bên phải gánh
chịu nếu vi phạm chính sách bảo hiểm xã hội. Cuộc họp cũng xác định rõ
nguyên tắc giải quyết vấn đề là trên tinh thần hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau. Thống
nhất cách thức, trình tự các bước, thời gian thực hiện. Yêu cầu các bên có liên
quan phải cam kết thực hiện nghiêm túc.
14. 12
Bước 2: - Trách nhiệm của cô D: Phải gặp trực tiếp kế toán trường MN X,
thực hiện đối chiếu các hồ sơ, hợp đồng lao động đầy đủ, đồng thời đề nghị cán
bộ phụ trách tiến hành làm thủ tục báo tăng bảo hiểm xã hội cho cô kịp thời,
đúng quy định.
- Trách nhiệm của trường MN X: Tiến hành cân đối tài chính, tìm nguồn
ưu tiên truy nộp phần nợ bảo hiểm xã hội đầy đủ, tiến hành làm các thủ tục để
báo tăng lao động và thanh toán chế độ thai sản cho cô D, đồng thời rà soát lại
trong nhà trường còn chế độ nào của người lao động từ trước đến nay chưa
thanh toán, khẩn trương xem xét, giải quyết.
- Trách nhiệm của Bảo hiểm xã hội thành phố Vinh: Khẩn trương phối hợp
và đốc thúc trường MN X tiến hành nhanh chóng thủ tục như báo tăng giảm lao
động. Tiến hành thanh toán kịp thời chế độ thai sản cho cô D và những trường
hợp khác trong nhà trường (nếu có) theo quy định của BHXH.
Bước 3: Trường MN X sau khi hoàn tất xong các thủ tục, tiến hành truy
nộp số tiền nợ đóng bảo hiểm xã hội vào tài khoản thu bảo hiểm xã hội của cơ
quan bảo hiểm xã hội, qua Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
thành phố Vinh hoặc tài khoản tại kho bạc Nhà nước thành phố Vinh.
Bước 4: Bảo hiểm xã hội thành phố Vinh sau khi nhận được toàn bộ hồ sơ
và giấy báo đã chuyển vào tài khoản chuyên thu của Bảo hiểm xã hội, tiến hành
kiểm tra duyệt danh sách đề nghị hưởng chế độ thai sản để chi trả cho đối tượng
kịp thời, đúng quy định hiện hành, đảm bảo quyền lợi cho cô Lê Thị D, góp
phần giảm bớt khó khăn cho gia đình.
Bước 5: Trường MN X, Bảo hiểm xã hội thành phố Vinh tổ chức họp kiểm
điểm, rút kinh nghiệp, đề xuất biện pháp tăng cường quản lý nguồn thu bảo
hiểm xã hội tại đơn vị.
Nhà trường tổ chức cuộc họp kiểm điểm việc không làm thủ tục báo tăng
kịp thời cho người lao động, không trích nộp bảo hiểm kịp thời theo quy định.
15. 13
5.2. Biểu đồ công việc theo thời gian :
TT Nội dung công việc
Thời gian thực hiện Cá nhân hay tổ
chức đảm nhận
Ghi
chú
Bắt đầu Kết thúc
1
Làm việc với Lãnh đạo BHXH
thành phố Vinh để trình bày sự
việc và thống nhất hình thức giải
quyết.
15/02/2020 18/02/2020 Đ/c Hiệu trưởng
nhà trường.
2
Mời BHXH, công đoàn cơ sở, cô
Lê Thị D đến họp tại nhà trường.
22/02/2020 23/02/2020 Đại diện BHXH;
Hiệu trưởng, tổ
chức công đoàn
nhà trường.
3
Cô D gặp trực tiếp kế toán nhà
trường.
24/02/2020 26/02/2020 Cô D; kế toán
4
Làm thủ tục báo tăng cho cô D,
tiến hành đối chiếu để truy nộp
tiền nợ BHXH.
01/03/2020 03/03/2020 Kế toán; cán bộ
BHXH
5
Chuyển tiền vào tài khoản thu
BHXH của BHXH thành phố
Vinh, báo BHXH đã chuyển tiền,
nộp danh sách đề nghị hưởng thai
sản theo quy định
04/03/2020 08/03/2020 Kế toán nhà
trường.
6
Duyệt danh sách, chuyển tiền thai
sản qua TK và báo cho nhà
trường.
09/03/2020 11/03/2020 Kế toán nhà
trường, kế toán
BHXH
7
Nhà trường rút tiền và thanh toán
cho cô D.
14/03/2020 14/03/2020 Nhân viên nhà
trường.
16. 14
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kiến nghị:
Từ tình huống và cáchxử lý tình huống như trên, chúng ta có thể rút ra
bài học về công tác tổ chức cán bộ, công tác lãnh đạo, công tác giải quyết chế độ
chính sách (nhất là chế độ, chính sách về bảo hiểm xã hội) như sau:
- Phải hiểu đúng và thực hiện đúng các quy định của pháp luật, không thể
tuỳ tiện biện minh cho một quyết định bất hợp lý.
- Công tác tổ chức cán bộ là rất quan trọng, chính vì vậy phải có tâm
huyết với công việc, có tinh thần trách nhiệm cao và phương pháp làm việc khoa
học.
- Cán bộ lãnh đạo phải thực sự dân chủ, công minh, dám chịu trách
nhiệm, linh hoạt khi giải quyết tâm tư, nguyện vọng của nhân viên trên cơ sở tôn
trọng và đảm bảo quyền lợi cá nhân người lao động.
2.Kết luận:
Bảo hiểm xã hội mang tính nhân đạo và nhân văn sâu sắc, trong điều kiện
Việt Nam đang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thì việc thực
hiện tốt chế độ bảo hiểm xã hội đã chứng tỏ được tính ưu việt của xã hội ta. Mở
rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội để bảo đảm tăng trưởng và an toàn quỹ
bảo hiểm xã hội, khẳng định bảo hiểm xã hội là một chính sách đúng đắn của
Đảng và Nhà nước ta phù hợp với tiến trình phát triển kinh tế xã hội trong sự
nghiệp đổi mới của đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh.
Nâng cao chất lượng hiệu quả trong công tác quản lý bảo hiểm xã hội hiện
nay là nhiệm vụ hết sức khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải có sự vào cuộc đồng
bộ của các cấp, các ngành, các tổ chức, đồng thời phải tăng cường công tác
tuyên truyền giáo dục Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Lao động cho lực lượng lao
động để họ nâng cao nhận thức có khả năng tự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của mình. Cơ quan quản lý nhà nước về lao động, cơ quan bảo hiểm xã hội phải
17. 15
nắm chắc tình hình về lao động và bảo hiểm xã hội tại các cơ quan trên địa bàn,
kịp thời xử lý những đơn vị, cá nhân vi phạm.
Từ việc giải quyết tình huống cho cô Lê Thị D, nhân viên trường MN X
khiếu nại về chế độ thai sản của mình, cho thấy mỗi quyết định của cán bộ quản
lý, cán bộ chuyên môn nghiệp vụ trong quá trình thi hành công vụ có ý nghĩa hết
sức quan trọng, nó có thể làm tăng hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước nếu
quyết định đúng, phù hợp với tình hình thực tế và ngược lại. Làm tốt được điều
này không chỉ đáp ứng nhu cầu chính đáng của người lao động mà còn thể hiện
ý thức, trách nhiệm trong việc thực thi công vụ góp cải cách nền công vụ hiện
nay. Mặt khác, người lãnh đạo, công chức, viên chức cần phải thận trọng, bình
tĩnh, sáng tạo, coi trọng quyền, lợi íchhợp pháp, chính đáng của người lao động,
đồng thời phải thực hiện đúng pháp luật, vận dụng một cách linh hoạt, nhuần
nhuyễn các quy định pháp luật bảo đảm giải quyết công việc hợp lý, hợp tình,
tạo sự đồng thuận trong xã hội./.