SlideShare a Scribd company logo
1 of 150
Đại học Quốc gia Hà nội
Khoa luật
Nguyễn Trí Chinh
Những vấn đề lý luận và thực tiễn
về các tội phạm về môi trường
theo luật hình sự việt nam
Luận văn thạc sĩ luật học
Hà nội - 2010
Đại học Quốc gia Hà nội
Khoa luật
Nguyễn Trí Chinh
Những vấn đề lý luận và thực tiễn
về các tội phạm về môi trường
theo luật hình sự việt nam
Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số : 60 38 40
Luận văn thạc sĩ luật học
Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Văn Lợi
Hà nội - 2010
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đồ
Mở đầu 1
Chương 1: Những vấn đề lý luận về các tội phạm về môi trường theo luật
hình sự Việt Nam
8
1.1. Khái niệm về môi trường 8
1.2. Khái niệm tội phạm về môi trường 10
1.3. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc qui định các tội phạm môi
trường trong luật hình sự
13
1.4. Sự hình thành các qui định về tội phạm môi trường trong luật
hình sự Việt Nam
27
1.4.1. Các quy định về tội phạm môi trường trong Bộ luật Hỡnh sự 1985 29
1.4.2. Các quy định về tội phạm môi trường trong Bộ luật Hỡnh sự 1999 31
1.5. Những quy định về tội phạm môi trường trong pháp luật hình
sự một số nước trên thế giới
36
1.5.1. Pháp luật của Thái Lan 37
1.5.2. Pháp luật Mailaixia 38
1.5.3. Pháp luật Singapo 40
1.5.4. Pháp luật Inđônêxia 41
1.5.5. Pháp luật Philippin 42
Chương 2: Các qui định tội phạm về môi trường trong Bộ luật Hình sự Việt
Namvà thực tiễn áp dụng
45
2.1. Các qui định về tội phạm môi trường trong Bộ luật Hình sự
Việt Nam
45
2.1.1. Những dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội phạm về môi trường 46
2.1.1.1. Khách thể của tội phạm về môi trường 46
2.1.1.2. Mặt khách quan của tội phạm về môi trường 48
2.1.1.3. Mặt chủ quan của tội phạm về môi trường 52
2.1.1.4. Chủ thể của tội phạm về môi trường 54
2.1.1.5. Hình phạt đối với các tội phạm môi trường 55
2.2. Tình hình vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường và thực tiễn
áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về các tội
phạm môi trường
78
2.2.1. Thực trạng, nguyên nhân vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường 78
2.2.2. Việc áp dụng các quy định của pháp luật về xử lý vi phạm pháp
luật về môi trường
86
Chương 3: NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC ÁP DỤNG NHỮNG QUY
ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI CÁC TỘI PHẠM
VỀ MÔI TRƯỜNG
100
3.1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định của
Bộ luật Hình sự đối với các tội phạm về môi trường
100
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định của
Bộ luật Hình sự đối với các tội phạm về môi trường
107
3.2.1. Hoàn thiện những quy định của pháp luật hình sự về các tội
phạm về môi trường
107
3.2.2. Hoàn thiện các văn bản qui phạm pháp luật khác bảo đảm tính
đồng bộ nâng cao hiệu quả phòng, chống tội phạm môi trường
120
3.2.3. Nâng cao hiệu quả hoạt động áp dụng những quy định của pháp
luật hình sự về các tội phạm về môi trường của các cơ quan bảo
vệ pháp luật
121
3.2.3.1. Đối với Cơ quan điều tra 121
3.2.3.2. Đối với Viện kiểm sát nhân dân 126
3.2.3.3. Đối với Tòa án nhân dân 129
3.3. Các giải pháp khác nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng
và chống các tội phạm về môi trường
132
3.3.1. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục ý thức
pháp luật về tội phạm môi trường
133
3.3.2. Tăng cường ký kết hoặc gia nhập các công ước quốc tế trong
lĩnh vực tội phạm về môi trường
134
3.3.3. Hợp tác quốc tế trong phòng, chống tội phạm về môi trường 135
KẾT LUẬN 137
Danh mục tài liệu tham khảo 139
Danh mục các bảng
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
2.1 Kết quả thực hiên kế hoạch Thanh tra môi trường của Bộ Tài
nguyên và Môi trường từ năm 2005 đến năm 2009
88
2.2 Thống kê về các tội phạm và vi phạm pháp luật về môi
trường từ ngày 01/12/2009 đến ngày 31/5/2010
92
2.3 Thống kê kết quả khởi tố, truy tố, xét xử chương môi
trường năm 2007 - 2008 - 2009 - 06 tháng năm 2010
93
2.4 Thống kê số vụ án và bị cáo phạm các tội về môi trường
trong cả nước mà Toà án đã thụ lý và xét xử từ ngày
01/01/2001 đến ngày 31/7/2010
95
Danh mục các biểu đồ
Số hiệu
biểu đồ
Tên biểu đồ Trang
2.1 Mức độ tăng, giảm các vụ án, số bị can đối với các tội
phạm về môi trường
93
2.2 Mức độ tăng, giảm các vụ án và bị cáo về các tội phạm
về môi trường
95
1
Mở đầu
1 Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền
kinh tế thế giới, đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng
từ Đại hội VI (năm 1986) đã thu được nhiều thành tựu. Sau hơn hai mươi năm
đổi mới, đất nước ta đã có những thay đổi lớn trên tất cả các mặt của đời sống
xã hội. Đời sống nhân dân ngày ngày càng được nâng cao, tình hình an ninh
chính trị được giữ vững, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm. Tuy nhiên,
cùng với sự phát triển tích cực của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị
trường, trong xã hội cũng xuất hiện nhiều yếu tố tiêu cực mặt trái của nền
kinh tế thị trường. Tình hình vi phạm pháp luật nói chung và tình hình tội
phạm nói riêng có chiều hướng ngày càng gia tăng. Các hành vi phạm tội
cũng ngày càng đa dạng và phức tạp, tinh vi và khó lường hơn. Điều này được
thể hiện không chỉ ở việc các lần pháp điển hoá luật hình sự mà ngày càng có
nhiều hành vi mới mang tính phổ biến và nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội
phạm đặc biệt là các tội phạm về môi trường. Hiện nay, môi trường đang là
vấn đề nóng của mọi quốc gia, dù đó là quốc gia phát triển hay quốc gia đang
phát triển. Sự ô nhiễm, suy thoái và những sự cố môi trường diễn ra ngày
càng ở mức độ cao đang đặt con người những thảm hoạ của thiên nhiên có thể
xảy ra như sự nóng nên của trái đất, lỗ hổng tầng ôzôn, tình trạng ngập lụt...
Vì vậy, vấn đề bảo vệ môi trường đã trở nên vô cùng cấp thiết được các quốc
gia và cộng đồng quốc tế đặc biệt quan tâm. Một thực tế không thể phủ nhận
là môi trường nước ta hiện nay cũng đang bị ô nhiễm và suy thoái nặng nề.
Đứng trước thực tế đó, nếu chúng ta không có những biện pháp hữu hiệu nhất
thì chúng ta sẽ phải trả giá cho cho những tổn thất mà các thế hệ người Việt
Nam sẽ phải gánh chịu bây giờ và trong tương lai. Đặc biệt trong thời gian
gần đây các phương tiện truyền thông đã nêu tên nhiều doanh nghiệp đã vi
2
phạm nghiêm trọng pháp luật về môi trường như: Công ty VEĐAN, MIWON...
Nhận thức đầy đủ ý nghĩa, tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường, Đảng,
Nhà nước và Quốc hội đã đề ra nhiều giải pháp vừa mang tính chiến lược vừa
mang tính cấp bách để bảo vệ môi trường, gắn liền với cuộc đấu tranh xoá đói
giảm nghèo ở mỗi quốc gia và cuộc đấu tranh vì hoà bình tiến bộ xã hội trên
phạm vi toàn thế giới.
Bảo vệ môi trường vừa là quyền vừa là nghĩa vụ và là trách nhiệm của cả cá
nhân và tổ chức. Hiến pháp 1992 quy định: "Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang,
tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, mọi cá nhân phải thực hiện các quy định của Nhà
nước về sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Nghiêm
cấm mọi hành động làm suy kiệt tài nguyên và huỷ hoại môi trường" [27].
Để cụ thể hoá quy định của Điều 29 Hiến pháp năm 1992, Nhà nước
ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường. Trong số các
biện pháp pháp lý được sử dụng để bảo vệ môi trường có biện pháp hình sự.
Bộ luật Hình sự năm 1999, đã có riêng Chương XVII quy định Các tội phạm
về môi trường. Việc tội phạm hoá những hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm
phạm tới môi trường quy định trong Bộ luật này đã tạo ra cơ sở pháp lý cần
thiết cho công tác đấu tranh phòng, chống các hành vi xâm hại đến lĩnh vực
môi trường. Tuy nhiên, do các hành vi phạm tội thuộc loại tội phạm này ngày
càng đa dạng, phức tạp có sự biến đổi liên tục, việc xử lý về hình sự gặp nhiều
khó khăn, bất cập mà một trong những nguyên nhân chính là do những bất
cập trong cấu thành của các tội phạm về môi trường, thể hiện ở chỗ cấu thành
của nhóm tội gây ô nhiễm môi trường đòi hỏi phải có đồng thời ba yếu tố mới
xử lý hình sự được: Hành vi thải chất gây ô nhiễm môi trường trước đó đã bị
xử phạt hành chính; người bị xử phạt hành chính cố tình không thực hiện các
biện pháp khắc phục; do không thực hiện biện pháp khắc phục mà gây ra hậu
quả nghiêm trọng. Quy định này đã hạn chế khả năng truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với các tội phạm này, bởi lẽ, việc chờ cho đủ cả ba yếu tố nói trên
là rất khó khăn, nhất là trong việc xác định hậu quả về môi trường. Có nhiều
3
trường hợp hậu quả không thể xảy ra ngay mà sau một thời gian dài, có thể
vài chục năm sau, khi đó thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
các tội phạm về môi trường đã hết. Ngoài ra, trong thực tiễn đã nảy sinh một
số loại vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường có khả năng gây hậu quả
rất lớn cho sức khoẻ, tính mạng con người, nhưng hiện vẫn chưa được hình sự
hoá, chẳng hạn: hành vi mua bán, tái chế rác thải y tế hoặc rác thải công
nghiệp chưa qua xử lý để sản xuất vật dụng tiêu dùng v.v... Trong nhiều vụ
án, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng còn có ý kiễn khác
nhau khi xác định về mặt tội danh đối với nhóm tội này. Thậm chí, có vụ án
còn gây ra các cuộc tranh luận giữa các nhà lập pháp, nhà nghiên cứu khoa
học và những người áp dụng pháp luật.
Xuất phát từ tình hình nêu trên, việc nghiên cứu lý luận và tổng kết
thực tiễn hoạt động điều tra, xử lý các vụ phạm tội về môi trường; từ đó đề
xuất các giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống
các tội phạm về môi trường là vấn đề cấp thiết trong tình hình hiện nay. Do
đó, tôi đã chọn đề tài: "Những vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội phạm về
môi trường theo luật hình sự Việt Nam".
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đất nước ta đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Để phấn đấu đạt được mục tiêu đó, trong quá trình thực hiện phải tuân
thủ các nguyên lý cơ bản và quy luật khách quan của sự phát triển bền vững:
phát triển phải có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa phát triển kinh
tế, đảm bảo công bằng xã hội và bảo vệ môi trường; phải quan tâm đúng mức
hơn nữa các yêu cầu bảo vệ môi trường trong phát triển cho đúng với vai trò
và tầm quan trọng của nó. Thực tế, vấn đề vi phạm pháp luật về môi trường
đang diễn ra rất nghiêm trọng và phổ biến, gây hậu quả tiêu cực nhiều mặt đối
với việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. VÒ tội phạm về môi trường
đã có nhiều bài viết và đề tài nghiên cứu của các nhà khoa học, như: "Lực
4
lượng Công an nhân dân nâng cao trách nhiệm và hiệu quả trong công tác
bảo vệ môi trường", của Trung tướng Đặng Văn Hiếu, Ủy viên Trung ương
Đảng, Thứ trưởng Bộ Công an (6/2007); "Công tác phòng, chống tội phạm về
môi trường trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế" của TS. Đại tá, Nguyễn
Xuân Lý, Cục trưởng Cục Cảnh sát môi trường (7/2007); Đề tài khoa học cÊp
Nhà nước: "Những vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường và giải pháp
phòng, chống", do Thiếu tướng, GS.TS. Nguyễn Duy Hùng, Giám đốc Học
viện Cảnh sát nhân dân làm chủ nhiệm (2006); Đề tài Khoa học: "Tội phạm về
môi trường - một số vấn đề lý luận và thực tiễn", do TS. Phạm Văn Lợi, Phó
Viện trưởng Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp lµm chñ nhiÖm (2003);
Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), của Khoa luật - Đại
học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 1997; Tác giả
Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự, Phần các tội phạm, Tập
2, Nxb Thành phố Hồ Chi Minh, 2002...Do nhiều nguyên nhân khác nhau nên
các đề tài này mới chỉ đề cập nghiên cứu ở những góc độ khác nhau về tội
phạm môi trường mà chưa nghiên cứu một cách tổng thể. Hơn nữa, vấn đề về
tổ chức, cán bộ theo dõi, phát hiện, đấu tranh và xử lý tội phạm về môi trường
cũng như lý luận các tội phạm về môi trường còn nhiều bất cập; việc phối kết
hợp của các cơ quan bảo vệ pháp luật trong lĩnh vực môi trường còn chưa
chặt chẽ..., trong khi đó, tội phạm môi trường diễn biến dưới nhiều hình thức
khác nhau, với những phương thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi và phức tạp.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi và đối tượng nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích của luận văn trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề lý
luận và thực tiễn các tội phạm về môi trường trong luật hình sự Việt Nam
nhằm hoàn thiện các quy định của Bộ luật Hình sự đối với nhóm tội về môi
trường; từ đó đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả của công tác
đấu tranh phòng, chống các tội phạm về môi trường. Để đạt được mục đích
trên, luận văn đặt ra và giải quyết một số vấn đề như sau:
5
- Giải quyết một số vấn đề lý luận chung đối với tội phạm về môi trường;
- Phân tích cấu thành tội phạm của các tội phạm về môi trường;
- Khái quát thực trạng môi trường, tình hình tội phạm môi trường,
những bất cập, vướng mắc trong thực tiễn xử lý các tội phạm về môi trường
để tìm ra nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh, phát triển tội phạm về môi
trường;
- Dự báo tình hình, đề xuất các giải pháp nhằm góp phần đấu tranh
phòng, chống có hiệu quả các tội phạm về môi trường.
3.2. Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các qui định về tội phạm
môi trường trong chương XVII "Các tội phạm về môi trường" của Bộ luật
Hình sự năm 1999; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự
(Luật số 37/2009/QH 12 ngày 19 tháng 6 năm 2009) trong đó có sửa đổi, bổ
sung một số điều trong Chương XVII (Các tội phạm về môi trường) của Bộ
luật Hình sự năm 1999; quan điểm đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước và các tài liệu khác có liên quan đến hoạt động đấu tranh
phòng, chống các tội phạm về môi trường.
3.3. Phạm vi nghiên cứu của luận văn là các qui định của pháp luật
hình sự đối với nhóm tội về môi trường và thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử
các tội phạm về môi trường của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Số liệu thống
kê phục vụ cho việc nghiên cứu, so sánh, đối chiếu trong đề tài được viện dẫn
từ các báo cáo tổng kết của Bộ Tài nguyên và Môi trường; báo cáo công tác
của Cục Cảnh sỏt phòng chống tội phạm môi trường, Bộ Công an; báo cáo
của Viện kiểm sát nhân dân tối cao; báo cáo của Toà án nhân dân tối cao và
một số báo cáo chuyên đề về môi trường.
4. Phương pháp nghiên cứu
6
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, và các quan điểm của Đảng và
Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về cải cách
tư pháp, về tội phạm, về đấu tranh phòng, chống các tội phạm nói chung và
các tội phạm về môi trường nói riêng. Đồng thời, dựa trên cơ sở các bài viết,
các đề tài khoa học của các nhà nghiên cứu lý luận về các tội phạm về môi
trường; các phương pháp mà luận văn đã vận dụng như: phân tích, tổng hợp,
đối chiếu, so sánh; chuyên gia; khảo sát thực tế; thống kê hình sự...
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Đề tài là công trình nghiên cứu có hệ thống một số vấn đề lý luận và
thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống các tội phạm về môi trường của các
cơ quan bảo vệ pháp luật trong lĩnh vực môi trường. Trên cơ sở khái quát các
quan điểm của Đảng, Nhà nước về đấu tranh phòng, chống các tội phạm về
môi trường; tham khảo chính sách hình sự của một số nước về tội phạm môi
trường, để từ đó làm sáng tỏ những ưu điểm và hạn chế của lý luận cũng như
thực trạng của công tác đấu tranh, xử lý tội phạm trong lĩnh vực môi trường;
giúp cho các cơ quan bảo vệ pháp luật trong lĩnh vực môi trường có thể tham
khảo, vận dụng vào thực tiễn hoạt động điều tra, xử lý nhằm nâng cao hiệu
quả của công tác đấu tranh phòng, chống các tội phạm về môi trường.
6. Điểm mới của luận văn
Đề tài khoa học làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội
phạm môi trường trong luật hình sự Việt Nam. Điểm mới của luận văn gồm:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về các tội phạm môi trường trong
luật hình sự Việt Nam;
- Chỉ ra được những vướng mắc, bất cập của các quy định hiện hành
liên quan đến nhóm các tội phạm về môi trường trong luật hình sự Việt Nam;
7
- Đưa ra được hệ thống các kiến nghị, nâng cao hiệu quả áp dụng các
quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về các tội phạm môi trường;
- Ngoài ra, luận văn còn là tài liệu tham khảo cho những người nghiên
cứu, học tập, những người làm công tác thực tiễn liên quan đến lĩnh vực này
cũng như các độc giả khác có quan tâm.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về các tội phạm về môi trường theo
luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Các qui định tội phạm về môi trường trong Bộ luật Hình sự
Việt Nam và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Nâng cao hiệu quả việc áp dụng những quy định của Bộ
luật Hình sự đối với các tội phạm về môi trường.
8
Chương 1
Những vấn đề lý luận về các tội phạm về môi trường theo luật hình sự
Việt Nam
1.1. Khái niệm về môi trường
Môi trường là một khái niệm có nội hàm rất rộng và được sử dụng
trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Môi trường của một vật thể hoặc của một sự
kiện là tổng hợp các yếu tố, điều kiện bên ngoài có ảnh hưởng đến các vật thể,
sự kiện đó. Bất cứ một vật thể, sự kiện nào cũng tồn tại trong một môi trường.
Khái niệm môi trường được cụ thể hoá đối với từng đối tượng và mục đích
nghiên cứu.
Theo Tuyên ngôn của UNESCO (1981) thì môi trường được định nghĩa
như sau: Môi trường la toàn bộ hệ thống tự nhiên và các hệ thống do con
người sáng tạo ra xung quanh mình, trong đó con người sinh sống bằng lao
động của mình đã khai thác tài nguyên thiên nhiên hoặc nhân tạo nhằm thoả
mãn các nhu cầu của mình.
Chương trình hành động của Cộng đồng Châu Âu về môi trường định
nghĩa: Môi trường là tổ hợp các yếu tố mà các quan hệ phụ thuộc, phức hợp
của chúng tạo nên khung cảnh, hoàn cảnh xung quanh và các điều kiện mà
cuộc sống của các cá thể và của xã hội như là chúng ta đang tồn tại hoặc như
là chúng ta đang cảm thấy tồn tại.
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia thì Môi trường là tập hợp tất
cả các yếu tố tự nhiên và xã hội bao quanh con người, ảnh hưởng tới con
người và tác động đến các hoạt động sống của con người như: không khí,
nước, độ ẩm, sinh vật, xã hội loài người và các thể chế. môi trường có thể
định nghĩa như là tổ hợp của các yếu tố khí hậu, sinh thái học, xã hội và thổ
nhưỡng tác động lên cơ thể sống và xác định các hình thức sinh tồn của
9
chúng. Vì thế, môi trường bao gồm tất cả mọi thứ mà có thể có ảnh hưởng
trực tiếp đến sự trao đổi chất hay các hành vi của các cơ thể sống hay các
loài, bao gồm ánh sáng, không khí, nước, đất và các cơ thể sống khác.
Theo khoản 1, Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường 2005 thì khái niệm môi
trường được hiểu như sau: Môi trường "bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật
chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự
tồn tại, phát triển của con người và sinh vật".
Như vậy, môi trường là toàn bộ những yếu tố tự nhiên và vật chất
nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới sự
phát triển kinh tế - xã hội và sự tồn tại phát triển của con người và sinh vật;
môi trường có chức năng rất quan trọng, là cái nôi của con người, là sinh
quyển, sinh thái cần thiết cho sự sống tự nhiên và hoạt động của con người, là
nơi sinh sống và phát triển của xã hội loài người. Môi trường là nơi chứa
đựng những tài nguyên thiên nhiên là đối tượng của lao động sản xuất và là
nguồn lực cần thiết cho việc sản xuất ra của cải vật chất của loài người, trong
đó một số có thể tái tạo được, một số khác không thể tái tạo được. Đồng thời,
môi trường là nơi chứa đựng chất thải của quá trình sản xuất và sinh hoạt của
con người.
Môi trường có các chức năng cơ bản sau:
- Môi trường là không gian sinh tồn của con người: con người cần một
không gian để sống và những điều kiện nhất định về chất và lượng để sinh
hoạt và sản xuất... Môi trường tạo ra cho con người những giá trị phúc lợi,
những giá trị cảnh quan thẩm mỹ. Con người chỉ tồn tại và phát triển trong
không gian, môi trường thích hợp.
- Môi trường là nơi cung cấp các tài nguyên, kể cả vật liệu và năng
lượng: Tài nguyên được hiểu theo nghĩa rộng là tất cả những gì có trong tự
nhiên và trong xã hội có thể phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh cũng
như các hoạt động khác của con nguời. Để đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh
10
doanh, con người cần phải khai thác các loại tài nguyên thiên nhiên có trong
môi truờng.
- Môi trường là nơi chứa đựng các chất thải của mọi quá trình sản xuất
và tiêu dùng: Mọi hoạt động của con người từ quá trình khai thác tài nguyên đến
sản xuất và tiêu dùng đều có phế thải, có thể thải trực tiếp ra môi trường ở dạng
rắn, lỏng, khí. Trong đó có một số chất thải có ích, có thể xử lý để tái sử dụng
nhưng có những chất thải không thể xử lý để tái sử dụng mà cần phải tiêu
huỷ.
- Môi trường là nơi giảm nhẹ các tác động có hại của thiên nhiên tới
con người và sinh vật trên trái đất.
- Môi trường là nơi lưu giữ và cung cấp thông tin cho con nguời.
Như vậy, môi trường có chức năng rất quan trọng, là cái nôi của con
người, là sinh quyển, sinh thái cần thiết cho sự sống tự nhiên và hoạt động của
con người, là nơi sinh sống và phát triển của loài người. Môi trường luôn biến
đổi bởi hoạt động của sinh vật và tiến hoá của tự nhiên. Trong đó, con người
đang có những tác động mạnh mẽ nhất. Con người không thể bảo tồn được
nguyên dạng nhưng luôn phải đảm bảo các chức năng trên để giữ vững cân
bằng sinh thái môi trường.
1.2. KHÁI NIỆM TỘI PHẠM VỀ MÔI TRƯỜNG
Bộ luật Hình sự không đưa ra khái niệm chung của tội phạm về môi
trường. Phân tích khoa học khái niệm này là khởi điểm cho việc giải quyết về
bản chất tất cả các vấn đề của trách nhiệm hình sự trong lĩnh vực bảo vệ môi
trường. Việc hiểu đúng đắn tội phạm về môi trường là cơ sở phương pháp
luận cho quá trình lập pháp đối với loại tội phạm này. Trong trường hợp không
có sự nhận thức đúng đắn về những tội phạm này sẽ không thể xây dựng được
các hình thức chế tài, phạm vi và nhiệm vụ của hoạt động phòng ngừa.
11
Trong các tài liệu nghiên cứu có một số khái niệm tội phạm về môi
trường, song vẫn còn có những điểm chưa hoàn toàn rõ ràng hoặc đầy đủ.
Một số tác giả cho rằng: "Tội phạm về môi trường là hành vi nguy hiểm cho
xã hội, do những người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện, xâm hại
đến sự bền vững và ổn định của môi trường; xâm hại đến các quan hệ xã hội
phát sinh trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ môi trường, gây ra những hậu quả
xấu đối với môi trường sinh thái" [24, tr. 320]. Trong khái niệm này có hai
điểm chưa được rõ ràng:
Thứ nhất, khái niệm trên chưa chỉ ra đặc trưng hết sức quan trọng của
tội phạm nói chung, tội phạm về môi trường nói riêng, mà được tất cả các nhà
luật học công nhận: "tội phạm là hành vi vi phạm pháp luật hình sự". Cũng
chính vì lý do này nên khái niệm trªn chưa hoàn toàn chính xác. Không ai
nghi ngờ "Hành vi nguy hiểm cho xã hội" là đặc trưng chung của các hành vi
vi phạm pháp luật như: vi phạm hành chính, tội phạm, vi phạm kỷ luật v.v...,
vậy khái niệm nêu trên có thể bao gồm cả những hành vi vi phạm pháp luật
hành chính trong lĩnh vực môi trường.
Thứ hai, khái niệm trên có thể gây sự hiểu nhầm giữa đối tượng và
khách thể của tội phạm. Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội và
lợi ích xã hội bị xâm hại và được chỉ ra rất rõ ràng trong ĐiÒu 1 Bộ luật Hình sự
năm 1999: "Chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân, quyền bình
đẳng giữa đồng bào các dân tộc, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp
của công dân, tổ chức, trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa". Đối tượng của tội
phạm là những vật của thế giới khách quan mà hành vi phạm tội trực tiếp tác
động đến. Trên cơ sở phân tích này, có thể khẳng định "sự bền vững và ổn định
của môi trường" là đối tượng chung của các tội phạm về môi trường và việc đưa
đối tượng này vào khái niệm là chưa hoàn toàn xác đáng vì có thể dẫn tới
đồng nhất với khách thể "các quan hệ xã hội về quản lý và bảo vệ môi trường".
12
Khái niệm tội phạm về môi trường cũng đã được đưa vào giáo trình
giảng dạy. Giáo trình của Trường §¹i häc Luật Hà Nội cho rằng: "Các tội
phạm về môi trường là các hành vi nguy hiểm cho xã hội vi phạm các quy
định của Nhà nước về b¶o vÖ môi trường, qua đó gây thiệt hại cho môi
trường" [20, tr. 133]. Khái niệm này có ưu điểm là rất ngắn gọn, tuy nhiên
cũng còn có vài điểm cần bàn thêm:
- Cũng giống như ở khái niệm trước, khái niệm tội phạm về môi trường
trong giáo trình Luật Hình sự của Trường §¹i häc Luật Hà Nội chưa tạo ra
được sự khác biệt giữa tội phạm về môi trường và hành vi vi phạm hành
chính trong lĩnh vực môi trường. Có thể khẳng định rằng: hành vi vi phạm
hành chính trong lĩnh vực môi trường cũng là những hành vi nguy hiểm cho
xã hội vi phạm các quy định của Nhà nước về môi trường và có khả năng gây
hậu quả bất lợi cho môi trường.
- Việc đưa "thiệt hại cho môi trường" vào trong khái niệm tội phạm về
môi trường có thể dẫn tới sự hiểu lầm. Yếu tố "thiệt hại" trong cấu thành tội
phạm chỉ bắt buộc đối với những cấu thành tội phạm vật chất. Những cấu
thành hình thức khẳng định việc tội phạm đã được thực hiện (hoàn thành)
ngay khi đã thực hiện hành vi, bất kể hành vi đó đã gây ra thiệt hại hay chưa.
Như vậy, sử dụng cấu trúc "gây thiệt hại cho môi trường" trong khái niệm có
thể dẫn tới sự hiểu nhầm rằng: "tất cả tội phạm về môi trường có cấu thành
vật chất". Trên thực tế không phải như vậy, một số tội phạm về môi trường có
cấu thành hình thức như: Tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam (Điều 185),
Tội làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người (Điều 186), Tội vi phạm các
quy định về bảo vệ động thuộc danh mục loài nguy cấp, quý hiếm, được ưu
tiên bảo vệ (Điều 190).).
- Ngoài ra, khái niệm kể trên chưa chỉ rõ khách thể bị xâm hại. Có thể
nói rằng, một trong những đặc trưng cơ bản nhất của tội phạm cụ thể chính là
khách thể giúp phân biệt với các tội phạm khác. Ngay khái niệm chung về tội
phạm tại ĐiÒu 8 Bộ luật Hình sự Việt Nam cũng liệt kê những khách thể mà
13
tội phạm theo luật hình sự Việt Nam xâm hại đến. Trong quá trình xây dựng
khái niệm một loại tội phạm cụ thể, để đặc trưng loại tội phạm này, đồng thời
xác định giới hạn, cần chỉ rõ khách thể chính.
Việc xây dựng khái niệm tội phạm về môi trường phức tạp còn do cấu
trúc của chế định pháp luật hình sự về bảo vệ môi trường không trùng khớp
với hình thức biểu hiện trong Bộ luật Hình sự. Hệ thống các tội phạm về môi
trường theo nghĩa thuần tuý trong Bộ luật Hình sự không hề tồn tại. Nhận
định này được minh chứng bằng việc những tội phạm khác, tuy không nằm
trong chương tội phạm về môi trường, nhưng một phần cũng hướng tới việc
sử dụng hợp lý và bảo vệ môi trường. Ví dụ như: Tội vi phạm các quy định về
nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên (ĐiÒu 172), Tội vi phạm các quy
định về sử dụng đất đai (ĐiÒu 173), Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai
(ĐiÒu 174), Tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng (ĐiÒu
175), Tội vi phạm các quy định về quản lý rừng (ĐiÒu 176), được đưa vào
Chương XVI "Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế". Tuy nhiên, việc sắp
xếp như nêu trên trong Bộ luật Hình sự về cơ bản cũng hợp lý vì khách thể
chính của các tội phạm (từ ĐiÒu 172 đến ĐiÒu 176) là các quan hệ trong lĩnh
vực quản lý kinh tế của Nhà nước.
Trên cơ sở phân tích ở trên, chúng tôi cũng mạnh dạn đưa quan điểm
đối với khái niệm tội phạm về môi trường như sau: Tội phạm về môi trường là
những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự
Việt Nam, xâm hại tới các quan hệ xã hội về bảo vệ môi trường. Có thể coi
đây là khái niệm tội phạm về môi trường theo nghĩa rộng, còn khái niệm
tương ứng theo nghĩa hẹp chỉ bao gồm những hành vi nguy hiểm cho xã hội
được quy định trong Chương XVII "Các tội phạm về môi trường".
1.3. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc qui định các tội phạm môi trường
trong luật hình sự
14
Thứ nhất, trong những thập kỷ gần đây vấn đề bảo vệ môi trường đã
trở thành một trong những vấn đề của thời đại được các quốc gia và cộng
đồng quốc tế đặc biệt chú trọng. Đã có nhiều giải pháp mang tính tổng thể ở
phạm vi quốc tế đã được đưa ra. Năm 1992 Liên hợp quốc đã thông qua
"Công ước về bảo vệ môi trường", "Tuyên ngôn của trái đất" và "Môi trường
trong thế kỷ XXI". Cùng với xu thế chung của nhân loại, Việt Nam ngày càng
coi trọng hơn sự nghiệp bảo vệ môi trường, đã và đang thực hiện nhiều giải
pháp khác nhau, vừa mang tính chiến lược vừa mang tính cụ thể để bảo vệ
môi trường có hiệu quả hơn.
Đặc biệt hiện nay, nước ta đang trong thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc
tế, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang phát triển mạnh
mẽ và đầy triển vọng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nhưng đi kèm với những thành tựu đó lại phát sinh một vấn nạn rất đáng báo
động có thể ảnh hưởng lớn đến sự phát triển ổn định bền vững của đời sống
kinh tế - xã hội nước ta, đó là nạn ô nhiễm môi trường. Vấn đề bảo vệ môi
trường đã được Nhà nước quan tâm. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã ý thức
ý nghĩa, tầm quan trọng đặc biệt của việc bảo vệ môi trường và do vậy đã ghi
nhận điều đó ở Hiến pháp năm 1992 của nước ta (Điều 29) đã quy định rõ:
Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang, tổ chức kinh tế, tổ chức
xã hội, mọi cá nhân phải thực hiện các quy định của Nhà nước về
sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường.
Nghiêm cấm mọi hành động làm suy kiệt tài nguyên và huỷ
hoại môi trường [27].
Trên cơ sở quy định hiến định đó, Nhà nước ta đã ban hành nhiều loại
văn bản quy phạm pháp luật khác nhau để ngăn chặn, phòng chống, xử lý triệt
để các hành vi xâm hại đến môi trường. Trong số các biện pháp pháp lý được
sử dụng để bảo vệ môi trường có biện pháp pháp lý hình sự. Trong Bộ luật
15
Hình sự năm 1999 của nước ta, lần đầu tiên nhà lập pháp nước ta đã xây dựng
một chương riêng - Chương XVII: Các tội phạm về môi trường. Điều đó thể
hiện sự phát triển của tư duy pháp lý hình sự trong việc phòng chống các hành
vi nguy hiểm xâm phạm môi trường ở nước ta.
Trong thời đại ngày nay, do sự phát triển như vũ bão của cách mạng
khoa học và công nghệ và sự tác động tiêu cực của nó đến chất lượng của môi
trường, ở nước ta cũng như ở các nước trên thế giới đã và đang đặt ra vấn đề
về khả năng và giới hạn của việc bảo vệ môi trường bằng các biện pháp pháp
lý hình sự. Vấn đề đó đã trở thành các chủ đề được thảo luận ở các hội nghị
khoa học quốc tế. Ở nước ta, trong quá trình soạn thảo Bộ luật Hình sự năm
1999, cũng như Luật sửa đổi một số điều của Bộ luật Hình sự năm 1999 việc
quy định các tội phạm về môi trường cũng là một chủ đề gây tranh luận rất
nhiều trên nhiều phương diện. Song nhìn chung có thể khẳng định rằng, các
biện pháp pháp lý hình sự ngày càng được sử dụng nhiều hơn để bảo vệ môi
trường và điều đó nói lên vai trò to lớn của pháp luật hình sự trong việc bảo
vệ môi trường.
Thø hai, việc bảo vệ môi trường bằng các biện pháp pháp lý hình sự
chính là việc tội phạm hoá các hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm môi
trường. Phạm vi của việc bảo vệ môi trường bằng các biện pháp pháp lý hình
sự và hiệu quả của việc bảo vệ đó ở một mức độ rất lớn tuỳ thuộc vào việc tội
phạm hoá các hành vi nguy hiểm xâm phạm lĩnh vực nói trên. Do vậy, cần
phải xem xét một cách kỹ lưỡng, đầy đủ các nhân tố quyết định mức độ, tính
chất và các phương thức của việc tội phạm hoá các hành vi nguy hiểm cho xã
hội xâm phạm môi trường.
Sự cần thiết khách quan của việc tội phạm hoá các hành vi nguy hiểm,
cho xã hội xâm phạm môi trường, trước hết, được quyết định bởi tính nguy
hiểm ngày càng cao của các hành vi xâm hại lĩnh vực môi trường và sự thay
đổi trong tính chất của tính nguy hiểm của các hành vi xâm hại đó. Trong điều
16
kiện phát triển của khoa học và công nghệ xã hội loài người phải đối đầu với
sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên ngày càng tăng lên nhanh chóng, với sự ô
nhiễm không khí, nước và đất rất có hại cho sức khoẻ và đời sống của con
người, với sự tuyệt chủng của nhiều loại động vật và thực vật. Trong những
điều kiện như vậy, thiệt hại gây ra cho môi trường có những thuộc tính (tính
chất) mới thể hiện ở chỗ: thiệt hại đó mang nhiều khía cạnh hơn, tức là làm
thương tổn đến những yếu tố khác nhau của môi trường và làm rối loạn các
chức năng khác nhau của môi trường trong đời sống xã hội, thiệt hại đó không
thể phục hồi được bằng các lực lượng thiên nhiên hoặc bằng hoạt động của
con người và cuối cùng thiệt hại đó có thể đe doạ các giá trị xã hội quan trong
nhất, cả chính sự phồn vinh và sự tồn tại của thế hệ hôm nay và của các thế hệ
trong tương lai. Nếu như đối với thiên nhiên chỉ có quan hệ mang tính chất
tiêu thụ, hám lợi mà không có tính chất bảo vệ, thì trong điều kiện hiện nay
cái đó có nghĩa là hoạt động phá hoại xã hội, là tội phạm chống đối tính mạng
và sức khoẻ của các thế hệ hôm nay và các thế hệ trong tương lai. Xuất phát
từ nhận thức như vậy, các nhà làm luật nước ta đã sử dụng các biện pháp hình
sự để đấu tranh với các hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm môi trường.
Đương nhiên, cần phải khẳng định rằng để xảy ra cuộc khủng hoảng
sinh thái lỗi không phải là do cách mạng khoa học và công nghệ mà là do các
mâu thuẫn xã hội nảy sinh trong quá trình phát triển xã hội chưa được giải
quyết một cách thoả đáng, hợp lý. Chính cách mạng khoa học và công nghệ
đưa ra chiếc chìa khoá cho việc giải quyết những vấn đề sinh thái: công nghệ
xử lý nước thải, các phương tiện chống ô nhiễm không khí... Song, chừng nào
các mâu thuẫn đó đang còn tồn tại thì cuộc đấu tranh với các hành vi nguy
hiểm cho xã hội xâm hại môi trường cần phải được tiến hành bằng cả các biện
pháp pháp lý hình sự.
17
Thø ba, việc tội phạm hoá các hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm
phạm môi trường được xác định bởi cả những nhân tố đòi hỏi chính trị thuộc
cả chính sách đối nội lẫn chính sách đối ngoại của Nhà nước ta.
Xét về chính sách đối nội, pháp luật hình sự được coi như là một trong
những biện pháp để thực hiện chức năng bảo vệ môi trường với tư cách là một
trong những chức năng độc lập của Nhà nước ta. Trong quan hệ chính trị, việc
khẳng định và đề cao chức năng đó thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trước
nhân dân về việc bảo đảm sự bình yên về sinh thái cho cuộc sống của các thế
hệ hiện nay và mai sau. Việc thừa nhận quyền được sống trong môi trường
trong lành của công dân gắn rất chặt với việc tồn tại và thực hiện chức năng
đó. Như vậy, việc bảo vệ môi trường trong lành của công dân gắn rất chặt với
việc tồn tại và thực hiện chức năng đó. Do đó, việc bảo vệ môi trường bằng
pháp luật hình sự không chỉ là phương tiện để thực hiện chiến lược, chương
trình, chính sách bảo vệ môi trường quốc gia mà còn là một trong những đảm
bảo cho việc thực hiện quyền sống trong môi trường trong lành của công dân.
Và chính điều này làm cơ sở cho các nhà làm luật nước ta tội phạm hoá các
hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm đến môi trường.
Xét về quan hệ đối ngoại, pháp luật hình sự nước ta là phương tiện để
thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường được quy định trong các công ước
và văn bản quốc tế khác mà Việt Nam tham gia. Các công ước quốc tế đó
buộc các quốc gia ký kết, trong đó có nước ta, quy định và áp dụng các biện
pháp trách nhiệm hình sự đối với các hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm
phạm môi trường. Có một số công ước và văn bản quốc tế quy định trách
nhiệm hình sự đối với các hành vi xâm phạm môi trường nhất định. Theo các
công ước và các văn bản quốc tế đó trong Bộ luật Hình sự năm 1985 trước
đây của nước ta, Bộ luật Hình sự năm 1999 và trong Luật sửa đổi một số điều
của Bộ luật Hình sự năm 1999 vµ c¶ LuËt h×nh sù söa ®æi hiÖn nay đã có
nhiều quy phạm pháp luật tương ứng. Có thể khẳng định rằng trong quá trình
18
phát triển sự hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường số lượng các
quy phạm quy định các tội phạm về môi trường ngày càng tăng lên. Do vậy,
sự phát triển mang tính nguyên tắc được thể hiện trong việc soạn thảo và áp
dụng các công ước và bộ luật mang tính khu vực lẫn mang tính quốc tế đã trở
thành mô hình cho việc xây dựng pháp luật quốc gia về bảo vệ môi trường.
Trong quá trình quy định tội danh các hành vi nguy hiểm cho xã hội
xâm phạm môi trường cần phải cân nhắc vai trò và vị trí của pháp luật hình sự
trong hệ thống các biện pháp bảo vệ môi trường. Và điều đó đã được nhà lập
pháp chúng ta nhận thức tương đối đầy đủ trong quá trình xây dựng các tội
phạm về môi trường khi ban hành Bộ luật Hình sự. Ở đây cần phải nhận thấy
rằng pháp luật hình sự không phải là biện pháp chính, cơ bản để bảo vệ môi
trường. Trong sự nghiệp bảo vệ môi trường thì pháp luật h×nh sự có khả năng
mang tính hạn chế khách quan. Thứ nhất, pháp luật hình sự không có khả
năng khắc phục được nguyên nhân của các hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm
phạm môi trường; thứ hai, các đặc điểm của phương pháp điều chỉnh của luật
hình sự (phương pháp giáo dục - trừng trị) tự mình hạn chế lĩnh vực áp dụng
của pháp luật hình sự. Cần phải nhận thức sâu sắc và nhÊn mạnh điều đó, bởi
vì việc không đánh giá hết khả năng của luật hình sự trong lĩnh vực đó có thể
gây ra những thiệt hại là: trông cậy vào sức mạnh vô hạn của sự trừng trị mà
có thể bỏ qua các biện pháp khác có hiệu quả hơn để bảo vệ môi trường.
Với tư cách là một biện pháp của việc bảo vệ đó, luật hình sự, tuy vậy
đóng vai trò phòng ngừa và giáo dục trong cuộc đấu tranh với các hành vi
nguy hiểm nhất cho xã hội xâm phạm môi trường. Do đó, nó chiếm một vị trí
nhất định trong hệ thống các biện pháp của Nhà nước và của xã hội nhằm sử
dụng hợp lý, bảo vệ và cải thiện môi trường. Ở nước ta, hệ thống các biện
pháp đó bao gồm:
19
1. Các biện pháp mang tính chính trị, bao gồm cơ bản là việc xác định
các phương hướng cơ bản của chiến lược bảo vệ môi trường; 2. Các biện pháp
mang tính kinh tế, bao gồm việc tạo ra các đòn bẩy và kích thích về mặt kinh
tế cho việc sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, cũng như quy định các chế
tài kinh tế đối với việc thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực
đó; 3. Các biện pháp mang tính kỹ thuật, bao gồm việc soạn thảo và thực hiện
các biện pháp kỹ thuật và công nghệ để bảo vệ môi trường; 4. Các biện pháp
mang tính tổ chức; bao gồm việc xây dựng hệ thống các cơ quan quản lý việc
bảo vệ môi trường, trong đó có hệ thống các cơ quan thanh tra môi trường.
5. Các biện pháp mang tính pháp lý, bao gồm việc xây dựng và ban hành các
văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên
và bảo vệ môi trường; 6. Các biện pháp mang tính giáo dục, bao gồm việc
giáo dục môi trường và giáo dục cho mọi tầng lớp dân cư về pháp luật môi
trường từ trẻ em cho đến các nhà doanh nghiệp.
Hệ thống các biện pháp đó tạo ra cơ sở rất tốt cho việc phòng ngừa
các hành vi vi phạm pháp luật xâm phạm môi trường và tạo ra "cái nền’ cần
thiết cho việc tội phạm hoá một cách có căn cứ những hành vi nguy hiểm nhất
cho xã hội trong số những hành vi xâm phạm môi trường. Đồng thời, các vi
phạm trong các yếu tố này hay các yếu tố khác của hệ thống đó đều có thể
làm giảm một cách cơ bản hiệu quả của các biện pháp pháp lý hình sự trong
đấu tranh với các hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm môi trường. Ở đây
cần phải nhận thức rằng tính nhất quán không đầy đủ và tính thoả hiệp,
nhượng bộ của việc tuân thủ các quy phạm pháp luật trong lĩnh vực sử dụng
tài nguyên thiên nhiên của cơ chế kinh tế điều chỉnh hoạt động bảo vệ môi
trường, do sự thiếu vắng một hệ thống các kích thích và chế tài kinh tế được
lập luận đầy đủ nhằm bảo đảm cho việc tuân thủ các quy phạm pháp luật về
bảo vệ môi trường.
20
Thứ tư, việc tội phạm hoá các hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm
phạm môi trường đã ghi nhận trong Bộ luật Hình sự ở một chừng mực rất lớn
được quyết định bởi trạng thái và sự phát triển của các ngành pháp luật khác,
trước hết là luật hiến pháp và luật môi trường.
Việc tội phạm hoá các hành vi đó đã xuất phát từ các tư tưởng, nguyên
tắc, yêu cầu đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992 về bảo vệ môi
trường, như ý nghĩa của việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường đối
với lợi ích của các thế hệ hôm nay và mai sau: cần phải bảo vệ tất cả các yếu
tố của môi trường bằng tổng thể các biện pháp khác nhau; nghĩa vụ của cơ
quan nhà nước, đơn vị vũ trang, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và mọi cá
nhân trong việc bảo vệ môi trường và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên;
xử lý thích đáng các hành động làm suy kiệt tài nguyên và huỷ hoại môi
trường. Những tư tưởng, nguyên tắc, yêu cầu đó được thể hiện tập trung ở
Điều 29 và ở nội dung các điều khác của Hiến pháp năm 1992 của nước ta.
Trong các quy phạm của pháp luật về môi trường quy định rất cụ thể
nghĩa vụ của những người sử dụng tài nguyên thiên nhiên, quy định việc cấm
thực hiện hành vi có hại cho môi trường, cấm tiến hành các hoạt động kinh tế có
tác động có hại đối với môi trường. Việc vi phạm các quy định đó trong những
điều kiện nhất định phải bị xử lý bằng trách nhiệm hình sự. Bởi vì có nhiều quy
phạm pháp luật hình sự được ban hành để bảo vệ môi trường được xây dựng
theo dạng quy phạm việc dẫn đến pháp luật về môi trường, do đó khi có sự thay
đổi trong pháp luật về môi trường thì khối lượng của việc tội phạm hoá hành vi
nguy hiểm cho xã hội đã được xác định trước đó có thể bị thay đổi. Ngoài ra,
trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật hình sự còn chỉ ra một cách trực tiếp
trách nhiệm hình sự đối với việc vi phạm các quy định của pháp luật môi trường.
Trong thời gian gần đây, do sự tác động của những thay đổi diễn ra
trong đời sống xã hội ở nước ta mà pháp luật về môi trường đã có những thay
đổi rất cơ bản. Nhà nước ta đã xây dựng và ban hành nhiều văn bản quy phạm
21
pháp luật nhằm sử dụng hợp lý và bảo vệ có hiệu quả hơn môi trường nói
chung và các yếu tố cụ thể của môi trường như đất, nước, rừng…
Đồng thời, Nhà nước ta cũng đã ban hành một loạt các văn bản quy
phạm pháp luật quy định trách nhiệm hành chính đối với các hành vi vi phạm
hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Ví du, đó là các hành vi vi
phạm hành chính được quy định ở các Nghị định của Chính phủ như: Nghị
định số 117/2009/N§-CP ngày 31/12/2009 về xử phạt các vi phạm hành chính
trong lĩnh vực bảo vệ môi trường; Nghị định số 31/2010/N§-CP ngày
29/3/2010 về xử phạt các vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ nguồn lợi
thuỷ sản; Nghị định số 159/2007/N§-CP ngày 30/10/2007 về xử phạt các vi
phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm
sản; Nghị định số 105/2009/N§-CP ngày 11/11/2009 về xử phạt các vi phạm
hành chính trong lĩnh vực quản lý, sử dụng đất đai v.v… Một mặt, các quy
định đó tạo ra khả năng đấu tranh với các hành vi xâm hại môi trường bằng
các biện pháp pháp lý nhẹ hơn các biện pháp pháp lý hình sự. Nhưng mặt
khác, việc đó cũng đòi hỏi phải xác định những tiêu chuẩn rõ ràng để phân
biệt các hành vi vi phạm hành chính với các tội phạm về môi trường, tức là
các tiêu chuẩn chuyên ngành của việc tội phạm hoá. Điều đó ở mức độ nhất
định đã được thể hiện ở Chương XVII của Bộ luật Hình sự năm 1999 và trong
Luật sửa đổi một số điều của Bộ luật Hình sự năm 1999 hiện nay.
Thø n¨m, khi tội phạm hoá các hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm
phạm môi trường, nhà làm luật nước ta đã cân nhắc cả các nhân tố tội phạm
học như; thực trạng, cơ cấu và diễn biến của các hành vi xâm hại trong lĩnh
vực đó. Việc nghiên cứu thực tiễn cho thấy rằng các hành vi xâm hại môi
trường là một trong những loại hành vi xảy ra phổ biến nhất ở nước ta hiện
nay và các thiệt hại do các hành vi đó gây ra có chiều hướng ngày càng trở
nên nghiêm trọng.
22
Về mặt truyền thống, người ta liệt kê vào nhóm các tội phạm về môi
trường các loại hành vi săn bắt trái phép khác nhau như: săn bắt trái phép
động vật hoang dã quý hiếm; đánh bắt cá trái phép; săn bắt trái phép trong
rừng. Nhưng trong quá trình phát triển của xã hội cùng với tác động của tiến
bộ khoa học cùng với tác động của tiến bộ khoa học công nghệ đã xuất hiện
nhiều loại hành vi nguy hại mới xâm hại các yếu tố cụ thể của môi trường như
không khí, nước, đất rừng... Và ngay cả những người thực hiện các loại hành
vi săn bắt trái phép nói trên cũng sử dụng ngày càng nhiều hơn các công cụ,
phương tiện gây tác hại lớn cho môi trường.
Đồng thời tính chất nghiêm trọng của các thiệt hại do các hành vi xâm
phạm môi trường gây ra ngày càng chuyển dịch và sang hướng gây ô nhiễm
không khí, nước, đất do tiến hành các hoạt động kinh tế nhất định (nói một
cách chính xác hơn là tiến hành những hoạt động phi kinh tế). Nhà làm luật
nước ta nhận thức sâu sắc và chỉ rõ rằng vấn đề đấu tranh với các hành vi gây
ô nhiễm môi trường bằng các biệnp pháp của pháp luật hình sự cần phải trở
thành một trong những vấn đề trung tâm trong lĩnh vực phòng ngừa các hậu
quả có hại của quá trình tiến bộ khoa học và công nghệ.
Thứ sáu, hiệu quả của việc tội phạm hoá các hành vi nguy hiểm cho
xã hội xâm hại cho môi trường tuỳ thuộc không nhỏ vào trạng thái ý thức
pháp luật về lĩnh vực đó. Việc toàn dân thảo luận Hiến pháp năm 1992 trước
đây và thảo luận việc sửa đổi một số điều của Hiến pháp năm 1992 vừa qua,
cũng như thảo luận Luật Bảo vệ Môi trường năm 2005 và các văn bản quy
phạm pháp luật khác liên quan đến việc bảo vệ môi trường và Bộ luật Hình sự
năm 1999 trong thời gian qua cho thấy phần lớn nhân dân ta đều đỏi hỏi phải
tăng cường việc bảo vệ môi trường, trong đó có việc tăng cường bảo vệ môi
trường bằng các biện pháp pháp lý hình sự.
Đồng thời hiện nay trong ý thức thông thường của dân cư và cả của
một số cán bộ hoạt động trong lĩnh vực kinh tế có quan niệm mang tính phổ
23
biến về "tính vô chủ", "việc sử dụng không phải trả tiền’ và "tính vô tận" của
tài nguyên thiên nhiên có thể tạo ra những lực cản cả cho việc tuân thủ lẫn
việc áp dụng pháp luật hình sự. Việc tội phạm hoá các hành vi nguy hiểm cho
xã hội xâm phạm môi trường như được thể hiện trong Bộ luật Hình sự năm
1999 có thể đóng vai trò nhất định của mình trong việc giáo dục ý thức pháp
luật trong lĩnh vực quan hệ xã hội đó.
Thứ bảy, việc tội phạm hoá các hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm
phạm môi trường được nhà làm luật nước ta thực hiện đã cân nhắc cả các quy
luật sinh thái chẳng hạn quy luật: môi trường là một hệ thống thống nhất, tất
cả các yếu tố của môi trường có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Việc xâm
phạm đến một trong những yếu tố của môi trường có thể gây tác hại đến hoạt
động của toàn bộ hệ thống,do vậy một mắt xích nào đó của hệ thống đó không
được bảo vệ thì điều đó có thể đe doạ toàn bộ hệ thống. Những yếu tố môi
trường như không khí, biển và sông, các loài chim di cư theo mùa các loài cá
di cư và các loài động vật di cư không có giới hạn hành chính và ngay cả cũng
không có biên giới quốc gia, mà một số loài trong đó nói chung ở ngoài chủ
quyền quốc gia (ở ngoài biển khơi…) Và điều đó đòi hỏi phải có cách bảo vệ
môi trường mang tính thống nhất cao bằng các biện pháp pháp luật hình sự
của các quốc gia. Cuối cùng, bằng cách biện pháp của mình pháp luật hình sự
bảo đảm việc tuân thủ các tiêu chuẩn về chất lượng của môi trường đã được
soạn thảo trên cơ sở nghiên cứu các quy luật sinh thái.
Thứ tám, các nhu cầu khách quan của xã hội và các điều kiện của việc
tội phạm hoá các hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm môi trường đã
được nhà làm luật "chuyển tải một cách đúng đắn ngôn ngữ của luật hình sự"
để thực hiện được điều đó việc tội phạm hoá đã đáp ứng các đòi hỏi và quy
tắc pháp lý nhất định của kỹ thuật lËp pháp. Việc tuân thủ các đòi hỏi và quy
tắc đó là nhằm khắc phục cả những chỗ hổng lẫn những điều "dư thừa" trong
việc bảo vệ môi trường bằng các biện pháp pháp lý hình sự; phân biệt một
24
cách rõ ràng các tội phạm về môi trường với các vi phạm hành chính và kỷ
luật trong lĩnh vực môi trường; bảo đảm việc không thoát khỏi áp dụng các
biện pháp tác động pháp lý hình sự đối với tất cả các tội phạm về môi trường
đã thực hiện và được làm rõ, tuân thủ "chế độ tiết kiệm" trừng trị bằng hình
sự, việc phân hoá trách nhiệm hình sự tuỳ thuộc vào tính nguy hiểm cho xã
hội của hành vi và các đặc điểm của nhân thân người phạm tội.
Trong quá trình soạn thảo Bộ luật Hình sự năm 1999, dựa vào việc
nghiên cứu các quy định của Bộ luật Hình sự năm 1985 về các tội phạm liên
quan đến môi trường và thực tiễn áp dụng các quy định đó và các đòi hỏi của
Hiến pháp năm 1992 đối với việc bảo vệ môi trường, người ta đã chỉ rõ những
hạn chế nhất định của việc tội phạm hoá các hành vi nguy hiểm cho xã hội
xâm ph¹m môi trường. Những người làm công tác nghiên cứu và thực tiễn đều
thống nhất thừa nhận rằng có quá nhiều chỗ hổng trong Bộ luật Hình sự năm
1985 trong việc tội phạm hoá các hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm
môi trường. Có một số lượng lớn các hành vi vi phạm đòi hỏi của pháp luật
môi trường, đặc biệt các vi phạm xảy ra trong quá trình hoạt động kinh tế,
trong xây dựng, trong hoạt động của các nhà máy… không bị xử lý bằng trách
nhiệm pháp luật.
Do vậy, có rất nhiều kiến nghị về việc tội phạm hoá các hành vi nguy
hiểm cho xã hội xâm phạm môi trường được đưa ra và nhiều kiến nghị đã
được nhà lập pháp nước ta chấp nhận. Điều đó thể hiện rõ ở chương XVII của
Bộ luật Hình sự năm 1999 và Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự.
Khi chúng ta nói về việc hoàn thiện pháp luật hình sự về bảo vệ môi
trường, thì thông thường chúng ta nói về việc mở rộng khối lượng của việc bảo
vệ đó, về việc quy định các cấu thành tội phạm mới xâm phạm môi trường. Và
đương nhiên các chỗ hổng đã được phát hiện cần phải được khắc phục. Tuy vậy,
cũng cần phải khắc phục cả những điều dư thừa của việc tội phạm hoá.
25
Ở đây cần phải nhận thấy rằng việc mở rộng ở mức độ nào đó của
nhóm các khách thể thiên nhiên cần phải được bảo vệ bằng các biện pháp
pháp lý hình sự không hoàn toàn đồng nghĩa và cần phải mở rộng lĩnh vực
trách nhiệm hình sự trong lĩnh vực đó, bởi lẽ nhóm các hành vi chịu sự tác
động của các quy phạm pháp luật hình sự có thể thu hẹp bằng việc chuyển
một số hành vi phạm tội có tính nguy hiểm không lớn cho xã hội sang phạm
trù vi phạm hành chính trong lĩnh vực đó, bằng việc xác định phạm vi rõ ràng
hơn và nhỏ hơn của trách nhiệm hình sự.
Sự cần thiết mang tính tất yếu của việc hoàn thiện pháp luật hình sự về
bảo vệ môi trường như đã được thể hiện trong Bộ luật Hình sự năm 1999 và
Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự được quyết định bởi nhiều nguyên
nhân khác nhau. Thứ nhất, pháp luật hình sự về bảo vệ môi trường cần phải
được hoàn thiện để đáp ứng các yêu cầu, đòi hỏi, nguyên tắc mang tính hiến
định về bảo vệ môi trường như nói ở trên. Thứ hai, Bộ luật Hình sự năm
1985, sau bốn lần được sửa đổi, bổ sung, nhưng không có lần nào có sửa đổi,
bổ sung liên quan đến các tội phạm liên quan đến môi trường, các quy định về
nhóm tội phạm đó trong Bộ luật Hình sự năm 1985 lạc hậu so với các văn bản
quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường đã được ban hành trong những năm
gần đây. Thứ ba, trong thời hạn 15 năm có hiệu lực của Bộ luật Hình sự năm
1985, nhiều thiếu sót của các quy định về các tội phạm liên quan đến môi
trường đã được chỉ rõ, đặc biệt là có nhiều chỗ hổng trong việc bảo vệ các
khách thể môi trường cụ thể. Việc xây dựng Chương XVII: Các tội phạm về
môi trường trong Bộ luật Hình sự năm 1999 đã khắc phục cơ bản sự không
hoàn thiện của pháp luật hình sự trước đây trong việc bảo vệ môi trường. Tuy
nhiên, sau hơn 10 năm thi hành Bộ luật Hình sự năm 1999 đã bộc lộ nhiều
hạn chế trong việc áp dụng các qui định về tội phạm môi trường. Luật sửa đổi,
bổ sung Bộ luật Hỡnh sự năm 1999 đã phần nào khắc phục những hạn chế
này.
26
Xuất phát từ tầm quan trọng của nhóm khách thể của các tội phạm về
môi trường cần được bảo vệ, trong Bộ luật Hình sự năm 1999, nhóm các tội
phạm về môi trường được xây dựng thành một chương riêng và đứng ở vị trí
sau chương các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. Tên gọi của nhóm
tội phạm đó và vị trí của chúng trong Bộ luật Hình sự năm 1999 được xác
định như vậy là có cơ sở khoa học. bởi lẽ việc quy định như vậy: 1. phù hợp
với việc nhận thức về môi trường với tư cách là một tổ hợp thống nhất, một
hệ thống thống nhất, tất cả các yếu tố của nó có mối liên hệ chặt chẽ với nhau:
2. phản ánh được tính nguy hiểm cao cho xã hội của các hành vi xâm hại đến
môi trường của các hành vi xâm hại đến môi trường trong điều kiện của cách
mạng khoa học, công nghệ, bởi lẽ hiện nay tính nguy hiểm cho xã hội cao cho
xã hội của hành vi đó không chỉ thể hiện ở việc đe doạ sở hữu, hoặc lợi ích
kinh tế, hoặc sức khoẻ của cư dân, mà là đe doạ chính sự tồn tại và hoạt động
sống của xã hội loài người, của các thế hệ hôm nay và mai sau: 3. Xuất phát
từ sự hiện có và tồn tại của khách thể loại thống nhất của các tội phạm về môi
trường. Đó là các quan hệ xã hội trong việc sử dụng hợp lý tài nguyên thiên
nhiên và bảo vệ môi trường với tư cách là cơ sở của sự tồn tại và của hoạt
động sống của xã hội loài người. 4. Cho phép tránh được sự không hài hoà,
thống nhất giữa các quy phạm pháp luật hình sự, sự không thống nhất trong
các tiêu chuẩn của việc tội phạm hoá.
Các cấu thành tội phạm về môi trường trong Bộ luật Hình sự năm 1999
được xây dựng theo kiểu quy phạm việc dẫn như: vi phạm pháp luật về, trái
pháp luật. Điều đó được luận giải rằng pháp luật hình sự đóng vai trò phục vụ,
vai trò bảo vệ trong mối quan hệ với pháp luật điều chỉnh việc sử dụng hợp lý
tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường, quy định trách nhiệm hình sự
chỉ đối với những trường hợp vi phạm nguy hiểm nhất đến pháp luật đó. Ngoài
ra, trong trường hợp các cấu thành tội phạm của nhóm tội phạm này được xây
dựng theo dạng cấu thành vật chất, tức là gây ra những thiệt hại nghiêm trọng
trở lên đối với các khách thể tự nhiên cụ thể: không khí, nước đất…
27
Nhà làm luật nước ta, đã nhận thức rằng đối tượng bị các tội phạm về
môi trường xâm hại là tất cả các yếu tố của môi trường, các nguồn tài nguyên
nhiên nhiên thuộc chủ quyền của nước ta do các công ước quốc tế quy định
(thềm lục địa) hoặc các vùng có chế độ riêng (các nguồn sống của vùng đặc
quyền kinh tế). Các yếu tố nói trên cần phải được bảo vệ bằng các biện pháp
pháp lý hình sự khỏi các hành vi nguy hiểm gây thiệt hại cho chúng.
Thứ chín, cùng với việc mở rộng nhóm các khách thể tự nhiên được
bảo vệ bằng các biện pháp pháp lý hình sự và nhóm các hành vi bị truy cứu
trách nhiệm hình sự, nhà làm luật đã xác định rõ các điều kiện, tiêu chuẩn của
việc tội phạm hoá loại hành vi nói trên. Chúng tôi cho rằng các điều kiện (tiêu
chuẩn) đó có thể được nhận thức và phân thành năm nhóm sau:
- Các tiêu chuẩn của việc tội phạm hoá liên quan đến hậu quả. Phần lớn
các cấu thành tội phạm phải được xây dựng theo loại cấu thành vật chất, tức là
quy định dấu hiệu gây hậu quả thực tế cho môi trường. Trong những trường hợp
khó thể hiện tính thiệt hại đó bằng số lượng thì cần phải (hoặc mới) sử dụng các
khái niệm đánh giá: gây hậu quả nghiêm trọng, gây hậu quả rất nghiêm trọng,
gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Trong một số trường hợp tính chất của
thiệt hại được xác định bằng các thuộc tính đặc biệt của đối tượng bị xâm hại;
động vật hoang dã quý hiếm thuộc sách đỏ, khu bảo tồn thiên nhiên.
- Với mục đích thu hẹp phạm vi trách nhiệm hình sự nhà làm luật đã
sử dụng các tiêu chuẩn tội phạm hoá đề cập đến tính chất của chính hành vi.
Đó là các dấu hiệu như phương thức công cụ và phương tiện thực hiện hành vi.
- Nhà làm luật cũng đã sử dụng cả các tiêu chuẩn đề cập đến tình
huống thực hiện sự xâm hại đến môi trường. Đó là các dấu hiệu như địa điểm,
thời gian và hoàn cảnh của sự xâm hại đó.
- Trong một số trưòng hợp để thu hẹp phạm vi của trách nhiệm hình sự
nhà làm luật đã sử dụng các dấu hiệu về nhân thân người vi phạm, tính nguy
28
hiểm cao của người đó; đã bị xử phạt hành chính mà cố tình vi phạm. Điều đó
phù hợp với nhận thức về việc sử dụng trách nhiệm hình sự với tư cách là biện
pháp cuối cùng được áp dụng khi các biện pháp tác động khác không có hiệu quả.
Về nguyên tắc các tiêu chuẩn nói trên đã được sử dụng với sự thể hiện
có cường độ cao hơn để xây dựng các cấu thành tăng nặng.
Trong tổng thể các hướng tội phạm hoá nói trên đều nhằm đảm bảo sự
bảo vệ tương ứng môi trường bằng các biện pháp pháp lý hình sự với việc cân
nhắc tối đa ở đó các hậu quả của quá trình tội phạm hoá các hành vi nguy
hiểm cho xã hội xâm phạm môi trường [39, tr. 3-13].
1.4. Sự hình thành các qui định về tội phạm môi trường trong luật hình sự
Việt Nam
Công tác bảo vệ môi trường đã được Đảng, Nhà nước và Quốc hội rất
quan tâm, nhiều chủ trương, chính sách đã đề ra và được thực hiện như: Chỉ
thị số 7/TTg ngày 16/01/1964 về việc thu tiền bán khoáng lâm sản và chi tiền
nuôi rừng; Nghị quyết số 183/CP ngày 25/9/1966 về công tác trồng cây gây
rừng và đặc biệt là Pháp lệnh qui định bảo vệ rừng ngày 11/9/1972. Điều đáng
chú ý nhất trong giai đoạn này là việc bảo vệ môi trường là đòi hỏi Hiến định.
Điều 36, Hiến pháp 1980 quy định: "Các cơ quan Nhà nước, xí nghiệp, hợp
tác xã, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân đều có nghĩa vụ thực hiện chính
sách bảo vệ, cải tạo và tái sinh các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và
cải tạo môi trường". Quy định này, đã đặt cơ sở pháp lý quan trọng và cơ bản
nhất cho sự điều chỉnh của pháp luật đối với việc bảo vệ môi trường thiên
nhiên và những yếu tố bao quanh nó. Song, từ năm 1980 đến 1992 việc ban
hành các văn bản pháp luật để làm cơ sở cho công tác bảo vệ môi trường vẫn
chưa được quan tâm đúng mức. Công tác quản lý, sử dụng, bảo vệ tài nguyên
thiên nhiên và môi trường trên thực tế gần như bị buông lỏng.
29
Trước tình hình trên, Đại hội Đảng VII (1991) thấy rõ ảnh hưởng và
tác dụng to lớn của môi trường đối với con người và sự phát triển bền vững
của đất nước, ý thức bảo vệ môi trường mới được nhận thức khá đầy đủ thông
qua việc quy định nghĩa vụ và trách nhiệm của các thành viên trong xã hội
trong việc bảo vệ môi trường. Điều 29 Hiến pháp 1992 quy định: "Các tổ
chức, cá nhân, phải thực hiện các qui định của Nhà nước về sử dụng hợp lý tài
nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường", Điều 29 Hiến pháp còn "Nghiêm
cấm mọi hành động làm suy kiệt tài nguyên và huỷ hoại môi trường". Với quy
định trên cho thấy, Hiến pháp 1992 đã thể hiện rõ thái độ của Đảng, Nhà nước
và Quốc hội trước những thách thức của môi trường thông qua việc xác định
trách nhiệm pháp lý của các thành viên trong xã hội đối với công tác bảo vệ
môi trường. Để cụ thể hoá Hiến pháp 1992, lần lượt các văn bản pháp luật
được Quốc hội thông qua như: Luật Bảo vệ môi trường; Luật tài nguyên
nước; Bộ luật Hình sự; Bộ luật Dân sự; Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính
và nhiều văn bản dưới luật hướng dẫn thực hiện trong lĩnh vực môi trường và
gần đây nhất là Nghị quyết 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị về
bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Trên cơ sở các quan điểm, chủ trương của Đảng về công tác bảo vệ môi
trường, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 256/2003/QĐ-TTg,
ngày 02/12/2003 phê duyệt Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm
2010, định hướng đến năm 2020; Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg, ngày
17/8/2004 ban hành định hướng Chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam
(Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam) và mới đây, Thủ tướng Chính phủ
đã ký Quyết định số 34/2005/QĐ-TTg ngày 02/02/2005 ban hành Chương
trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 41-NQ/TW. Có thể nói,
giai đoạn này đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống pháp luật về môi
trường ở nước ta. Số lượng các văn bản pháp luật về lĩnh vực này được ban
hành ngày một nhiều hơn, các quy định cũng đã tập trung hơn tạo nên một hệ
30
thống pháp luật ngày một thống nhất và đồng bộ. Điều này đã góp phần tích
cực, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong công tác bảo vệ môi trường.
1.4.1. Các quy định về tội phạm môi trường trong Bộ luật Hình sự 1985
Đi liền với quá trình phát triển của nền kinh tế - xã hội, vấn đề ô
nhiễm, suy thoái môi trường ngày càng tăng, quá trình đô thị hoá; sự sử dụng
rộng rãi các loại hoá chất, thuốc bảo vệ thực vật; nạn phá rừng tràn lan đã làm
mất cân bằng sinh thái nghiêm trọng, rừng bị chặt phá đã không giữ được
nước đầu nguồn gây nên nhiều trận lũ lụt, đất đai bị xói mòn, bạc màu; công
nghiệp phát triển làm cho ngày càng có nhiều chất thải độc hại; tầng ôzôn bị
thủng đã làm cho nhiệt độ trái đất nóng lên... đã làm cho vấn đề bảo vệ môi
trường trở thành thách thức lớn của xã hội, thiên nhiên đã trả thù con người
bằng những trận bão, lũ tàn khốc, khí hậu có nhiều biến đổi thất thường trên
toàn thế giới.
Để đảm bảo cho sự ổn định, phát triển bền vững của đất nước, trên cơ
sở Hiến định, một số hành vi xâm hại đến các yếu tố của môi trường gây hậu
quả nghiêm trọng được coi là tội phạm và cá nhân vi phạm sẽ bị truy cứu
trách nhiệm hình sự đã được đưa vào trong Bộ luật Hình sự 1985. Việc hình
sự hoá những hành vi nguy hiểm xâm hại đến môi trường là thể hiện sự nhận
thức đúng đắn của Đảng, Nhà nước về những hậu quả do việc môi trường bị
suy thoái, ô nhiễm gây ra, thể hiện thái độ kiên quyết của Nhà nước trong việc
đấu tranh với các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, theo đó,
những cá nhân thực hiện những hành vi vi phạm pháp luật về môi trường, gây
ra hậu quả nghiêm trọng sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự, trách nhiệm pháp
lý nghiêm khắc nhất của Nhà nước. Một số tội phạm cụ thể về môi trường
được ghi nhận trong Bộ luật, tại Chương VII "Các tội phạm về kinh tế" và
Chương VIII "Các tội xâm phạm an toàn, trật tự công cộng và trật tự quản lí
hành chính", đó là: Điều 180. Tội vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ
31
đất đai; Điều 181. Tội vi phạm và quản lý các quy định về quản lý và bảo vệ
rừng; Điều 195. Tội vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường gây hậu quả
nghiêm trọng; Điều 216. Tội vi phạm về bảo vệ và sử dụng các di tích lịch sử,
văn hoá, danh lam, thắng cảnh gây hậu quả nghiêm trọng.
Cùng với các quy định trong các lĩnh vực chuyên ngành pháp luật về
đất đai, tài nguyên thiên nhiên, về quản lý và bảo vệ các thành tố khác nhau
của môi trường... Các quy định của pháp luật hình sự, đã góp phần đáng kể
trong việc răn đe và trừng trị các tội phạm xâm hại môi trường, góp phần nâng
cao nhận thức về bảo vệ môi trường nói chung, đấu tranh phòng, chống các tội
phạm về môi trường nói riêng. Tuy nhiên, do những biến đổi của tình hình kinh
tế - xã hội của đất nước và yªu cầu của công tác đấu tranh phòng, chống các
tội phạm về môi trường nên các điều luật qui định về tội phạm môi trường
trong Bộ luật Hình sự 1985 đã bộc lộ một số nhược điểm nhất định, cụ thể như:
- Các điều luật nói trên qui định khá chung chung, phạm vi rộng gây
khó khăn cho việc hiểu và áp dụng đúng đắn pháp luật; các hành vi xâm hại
môi trường chưa được hệ thống hóa quy định ở một chương riêng biệt, mà chỉ
được đề cập bằng một số điều luật nằm rải rác ở các chương khác nhau;
- Chưa có sự đánh giá phù hợp về tính chất và mức độ gây thiệt hại
cho xã hội của một hành vi đồng thời xâm hại đến hai loại khách thể khác
nhau cần được bảo vệ như: các quan hệ về tài sản, kinh tế và các quan hệ về
quản lý, bảo vệ môi trường;
- Chưa dự liệu hết các hành vi gây tác hại đến môi trường đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội và cuộc sống đòi hỏi;
- Các hành vi khác xâm hại môi trường chỉ mới bị xử lý bằng chế tài
hành chính theo các Nghị định tương ứng của Chính phủ, chưa được quy định
trong Bộ luật Hình sự 1985;
32
- Việc xử lý các vụ vi phạm pháp luật về môi trường thiếu thống nhất
kể cả về hành chính cũng như hình sự.
1.4.2. Các quy định về tội phạm môi trường trong Bộ luật Hình
sự 1999
Môi trường với các yếu tố tạo thành, bao gồm: không khí, nước, đất,
âm thanh, ánh sáng, lòng đất, núi, rừng, sông, hồ, biển, sinh vật, các hệ sinh
thái, các khu dân cư, khu sản xuất, khu bảo tồn thiên nhiên, danh lam thắng
cảnh, di tích lịch sử và các hình thái vật chất khác. Các yếu tố tự nhiên và vật
chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự
tồn tại, phát triển của con người và sinh vật. Việc bảo vệ, giữ cho môi trường
xanh - sạch - đẹp, bảo đảm cân bằng sinh thái, ngăn chặn, khắc phục các hậu
quả xấu do con người và thiên nhiên gây ra cho môi trường, khai thác, sử
dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên là yêu cầu cấp thiết của mọi
hoạt động đời sống xã hội.
Vấn đề trên, được thể hiện qua hệ thống pháp luật như: Luật Bảo vệ
sức khoẻ nhân dân 1989, Luật Bảo vệ và phát triển rừng 1991 - 2004, Luật Đất
đai 1993 - 1998 và 2003, Luật Khoáng sản 1996, Luật Tài nguyên nước 1998,
Luật Thuỷ sản 2003... đều ghi nhận các quyền và nghĩa vụ cũng như những
chế tài cần thiết đối với mọi tổ chức và cá nhân trong việc bảo vệ môi trường.
Để phù hợp với các quy định về bảo vệ môi trường trong các lĩnh vực
chuyên ngành nêu trên, việc bảo vệ môi trường quy định trong pháp luật hình
sự được đặc biệt coi trọng và ghi nhận tại Chương XVII, phần Các tội phạm
về môi trường của Bộ luật Hình sự 1999. Bộ Luật này đã thay thế cơ bản các
quy định về các tội phạm về môi trường trong Bộ luật Hình sự 1985; đồng
thời, bổ sung thêm một số tội danh mới xuất hiện trong thời gian gần đây.
Đây là thể hiện sự quan tâm đúng mức của Đảng và Nhà nước ta trước thực
trạng môi trường tiếp tục bị suy thoái, ô nhiễm với mức độ cao; thể hiện thái
độ kiên quyết, xử lý kịp thời, nghiêm khắc đối với các hành vi làm suy thoái,
33
ô nhiễm môi trường, xâm hại đến các yếu tố của môi trường thiên nhiên. Các
tội phạm về môi trường là một chương mới được bổ sung vào Bộ luật Hình sự
1999, chương XVII, chương này gồm 10 Điều, được sắp xếp theo 5 nhóm
hành vi xâm hại đến môi trường, cụ thể là:
- Các hành vi xả chất thải gây ô nhiễm môi trường (từ Điều 182 đến
Điều 184);
- Các hành vi nhập khẩu công nghệ, máy móc, thiết bị, phế thải hoặc
các chất không đảm bảo tiêu chuẩn (Điều 185);
- Các hành vi gây dịch bệnh nguy hiÓm cho con người, thùc vËt vµ
động vật (Điều 186 và Điều 187);
- Các hành vi hủy hoại rõng vµ nguån lîi thuû s¶n (Điều 188 và Điều 189);
- Các hành vi vi phạm chế độ bảo vệ đặc biệt đối với một số đối tượng
môi trường (Điều 190 và Điều 191).
Về mặt lập pháp, đây là một bước tiến quan trọng, bằng sự quy định
này trong Bộ luật Hình sự 1999, đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho công tác
điều tra, xử lý những hành vi vi phạm pháp luật hình sự trong lĩnh vực môi
trường. Có thể nhận thấy, các tội phạm về môi trường trong Bộ luật Hình sự
1999 đã được cụ thể hóa từ một số tội phạm trước đây được quy định trong
Chương VII, Chương VIII Bộ luật Hình sự 1985 và có bổ sung một số dấu
hiệu pháp lý mới, cụ thể là: Tội gây ô nhiễm không khí (Điều 182); Tội gây ô
nhiễm nguồn nước (Điều 183); Tội gây ô nhiễm đất (Điều 184); Tội nhập khẩu
công nghệ, máy móc, thiết bị phế thải hoặc các chất không bảo đảm tiêu chuẩn
bảo vệ môi trường (Điều 185); Tội lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người
(Điều 186); Tội lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho động vật, thực vật (Điều
187); Tội hủy hoại nguồn thủy sản (Điều 188); Tội huỷ hoại rừng (Điều 189);
Tội vi phạm các quy định về bảo vệ động vật hoang dã quý hiếm (Điều 190);
Tội vi phạm chế độ bảo vệ đặc biệt với khu bảo tồn thiên nhiên (Điều 191).
34
Thực tiễn trong thời gian qua cho thấy các hoạt động vi phạm pháp
luật về môi trường diễn ra ngày một nhiều, tính chất ngày càng nghiêm trọng
và phức tạp, không chỉ là việc phá rừng để lấy gỗ trái phép hay buôn bán
động vật hoang dã quý hiếm, mà còn là những hành vi gây ô nhiễm môi
trường trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội; có thể kể ra một số vụ điển
hình mà các phương tiện thông tin đại chúng trong thời gian qua đã nêu, như
vụ Công ty VEDAN Việt Nam, Công ty Miwon, Công ty thuộc da Hào Dương,
Công ty giấy Việt Trì... xả nước thải không qua xử lý gây ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng cho các dòng sông và cộng đồng dân cư sống xung quanh các
nhà máy; vụ Công ty Huyndai Vinashin (Khánh Hoà) thải ra hàng trăm nghìn
tấn hạt xỉ đồng (hạt NIX) và các loại chất thải độc hại khác hay các vụ xử lý
chất thải y tế nguy hại của các bệnh viện lớn như Việt Đức, Bạch Mai, Bệnh
viện K Hà Nội, Bệnh viện Chợ Rẫy, Bệnh viện Chấn thương và Chỉnh hình
Thành phố Hồ Chí Minh…
Bộ luật Hình sự được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khóa X, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 21-12-1999 và có hiệu lực kể từ
ngày 01-7-2000 đã giành một Chương riêng (Chương XVII), gồm 10 điều để
quy định về các tội phạm về môi trường nªu trªn. Tuy nhiên, trong thực tiễn,
việc áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 để truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với các tội phạm về môi trường nói chung và trong công
tác xét xử còn rất hạn chế. Một trong các nguyên nhân cơ bản của tình trạng
này là do nhiều quy định trong Bộ luật Hình sự năm 1999 không có tính khả
thi, rất khó áp dụng và chưa được cụ thể hóa trong các văn bản hướng dẫn áp
dụng pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền.
. Tại kỳ họp thứ 5 của Quốc hội khoá XXII đã ban hành Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự (Luật số 37/2009/QH 12 ngày 19
tháng 6 năm 2009) trong đó có sửa đổi, bổ sung một số điều trong Chương XVII
(Các tội phạm về môi trường) của Bộ luật Hình sự năm 1999, cụ thể như sau:
35
Điều 182 (mới) hợp nhất ba điều 182, 183, 184 của Bộ luật hiện hành.
Điều luật sử dụng các thuật ngữ chuyên ngành phù hợp với luật bảo vệ môi
trường, nâng mức hình phạt tiền lên cho phù hợp với tình hình phát triển kinh
tế - xã hội và cũng tương ứng với những quy định mới của pháp lệnh xử lý vi
phạm hành chính. Nhưng thay đổi cơ bản nhất là việc các đối tượng bị tác
động là các yếu tố môi trường trước đây được quy định riêng rẽ (đất, nước,
không khí) thì nay trong LuËt mới đã thống nhất vào khái niệm "môi trường".
Điều này có ý nghĩa ở chỗ, một là, đã đánh giá tầm quan trọng như nhau của
các yếu tố môi trường (đất, nước, không khí); hai là, xác định mối quan hệ
chặt chẽ giữa các yếu tố môi trường (gây ô nhiễm đất sẽ gây ô nhiễm nguồn
nước ngầm, ô nhiễm không khí …); ba là, đơn giản hoá cấu trúc bộ luật (các
điều 182, 183, 184 hiện hành có cùng khách thể xâm hại, hành vi hoàn toàn
tương tự nhau, cùng chế tài xử phạt, chỉ khác về đối tượng bị tác động); bốn
là, thuận lợi cho việc áp dụng Bộ luật Hình sự trong việc điều tra, truy tố, xét
xử tội phạm này.
So với cấu trúc các điều luật cũ, điều 182 mới đã bỏ dấu hiệu đã bị xử
phạt vi phạm hành chính là yếu tố định tội bắt buộc, chỉ quy định dấu hiệu hậu
quả để xử lý bằng hình sự là "vượt quá… ở mức độ nghiêm trọng", "làm môi
trường bị ô nhiễm nghiêm trọng" hoặc "gây hậu quả nghiêm trọng khác". Quy
định mới đã loại trừ trách nhiệm hình sự cả trường hợp trước đây đã bị xử phạt
vi phạm hành chính, tiếp tục vi phạm gây hậu quả dưới mức nghiêm trọng.
Điều 185 (mới) sửa đổi, bổ sung điều 185 hiện hành. Bằng việc bỏ
dấu hiệu hậu quả trong điều luật này đã làm thay đổi cơ bản từ quy định cấu
thành vật chất thành cấu thành hình thức, xử lý hình sự đối với hành vi đưa
chất thải vào lãnh thổ Việt Nam bằng thủ đoạn lợi dụng việc nhập khẩu công
nghệ, máy móc, thiết bị, phế liệu hoặc hoá chất, chế phẩm sinh học hoặc thủ
đoạn khác, không phụ thuộc vào việc có xảy ra hậu quả hay không. Quy định
như trên thể hiện sự kiên quyết, nghiêm khắc của pháp luật hình sự Việt Nam
36
trong xử lý các hành vi lợi dụng nhu cầu phát triển kinh tế trong nước để đưa
rác thải vào Việt Nam, biến nước ta thành "bãi rác công nghiệp".
Tuy nhiên, điều luật quy định hành vi đưa chất thải nguy h¹i vào Việt
Nam bằng thủ đoạn lợi dụng, không phụ thuộc khối lượng, thành phần, mức
độ nghiêm trọng v.v… đều bị xử lý hình sự. Quy định như vậy là hơi rộng, dễ
dẫn đến việc áp dụng tràn lan để xử lý theo điều 185 cả những hành vi như:
nhập khẩu ô tô cũ kèm theo xăm lốp cũ, dầu mỡ đã qua sử dụng; du học sinh
mang linh kiện máy tính cũ về nước, thì có bị coi là đưa chất thải vào lãnh thổ
Việt Nam không?
Điều 190 (mới) được chỉnh sửa về mặt kỹ thuật cho phù hợp với luật
bảo vệ môi trường và phù hợp với thực tế. Thực tiễn áp dụng điều luật này
trong điều tra, truy tố, xét xử gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên về hành vi tàng
trữ chưa được quy định trong điều luật này còn nhiều ý kiến khác nhau. Loại
ý kiến thứ nhất cho rằng, nếu quy định hành vi tàng trữ (trái phép) là hành vi
phạm tội thì cũng rất khó để xử lý hình sự đối với các trường hợp nuôi nhốt
không có giấy phép nhưng có mục đích bảo tồn, nhân giống, như trường hợp
nuôi nhốt hổ tại Bình Dương, Thanh Hoá và mới đây là các trường hợp nuôi
tê giác trắng được nhập từ châu Phi về Việt Nam. Loại ý kiến thứ hai cho rằng
nếu không quy định hành vi tàng trữ trái phép thì tội phạm dễ lợi dụng để đối
phó với các cơ quan chức năng như trường hợp buôn bán hổ tại Ninh Bình,
đối tượng không khai nhận hành vi mua bán, tàng trữ mà đổ cho người khác
(không có thực) mang đến "gửi nhờ".
Luật hình sự sửa đổi cũng đã bổ sung 3 tội mới, gồm: Điều 182a - Tội
vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, Điều 182b - Tội vi phạm quy
định về phòng ngừa sự cố môi trường, Điều 191a - Tội nhập khẩu, phát tán
các loài ngoại lai xâm hại. Việc bổ sung các tội trên nhằm góp phần răn đe,
phòng ngừa và xử lý đối với những hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường có khả năng gây hậu quả rất lớn cho sức khoẻ, tính mạng con người.
37
Bên cạnh đó chúng tôi cho rằng cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung hành vi
nghiên cứu nhằm sản xuất, lai tạo, nhân giống và phát tán các loài động vật,
thực vật hoặc vi sinh vật có đặc tính xâm hại khác vào điều 191a mới chỉ quy
định hành vi nhập khẩu, phát tán các loài ngoại lai xâm hại. Đồng thời nghiên
cứu để tiếp tục bổ sung một số hành vi khác như đã đề cập ở phần trên.
Trên cơ sở nghiên cứu 11 tội danh quy định trong Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 37/2009/QH12 ngày 19/6/2009, tại
Chương XVII của Bộ luật Hình sự có thể được phân chia thành các nhóm sau:
- Nhóm các tội phạm gây ô nhiễm môi trường (từ Điều 181 đến Điều 185
Bộ luật Hình sự năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009).
- Nhóm các tội phạm gây dịch bệnh cho người và động vật (Điều 186,
Điều 187 Bộ luật Hình sự năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009).
- Nhóm tội phạm hủy hoại môi trường (Điều 182a, Điều 182b, Điều 188,
Điều 189 Bộ luật Hình sự năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009).
- Nhóm các tội phạm xâm phạm chế độ bảo vệ đặc biệt đối với một số
thành tố của môi trường, hệ sinh thái và động vật (Điều 190, Điều 191, Điều
191a Bộ luật Hình sự năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009).
1.5. NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ TỘI PHẠM MÔI TRƯỜNG TRONG PHÁP
LUẬT HÌNH SỰ MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
Ngày nay, vấn đề ô nhiễm, suy thoái môi trường không chỉ là riêng
của một quốc gia, một khu vực mà đã trở thành một vấn đề chung của tất cả
các quốc gia trên thế giới. Chất lượng môi trường vẫn đang tiếp tục bị xuống
cấp, đe dọa đến sự sống còn của nhân loại, các quốc gia đã và đang áp dụng
nhiều biện pháp hữu hiệu để bảo vệ môi trường như: dân sự, hành chính, kinh
tế, hình sự v.v...
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Đề tài: Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế, HOT
Đề tài: Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế, HOTĐề tài: Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế, HOT
Đề tài: Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế, HOT
 
Luận văn: Chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh, 9đ
Luận văn: Chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh, 9đLuận văn: Chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh, 9đ
Luận văn: Chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh, 9đ
 
Luận văn: Trách nhiệm của pháp nhân thương mại theo pháp luật
Luận văn: Trách nhiệm của pháp nhân thương mại theo pháp luậtLuận văn: Trách nhiệm của pháp nhân thương mại theo pháp luật
Luận văn: Trách nhiệm của pháp nhân thương mại theo pháp luật
 
BÀI MẪU Khóa luận: Pháp luật về bảo vệ môi trường biển,9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận: Pháp luật về bảo vệ môi trường biển,9 ĐIỂMBÀI MẪU Khóa luận: Pháp luật về bảo vệ môi trường biển,9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận: Pháp luật về bảo vệ môi trường biển,9 ĐIỂM
 
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ động vật rừng nguy cấp, quý hiếm
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ động vật rừng nguy cấp, quý hiếmLuận văn: Pháp luật về bảo vệ động vật rừng nguy cấp, quý hiếm
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ động vật rừng nguy cấp, quý hiếm
 
Luận văn: Hợp đồng thương mại điện tử theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hợp đồng thương mại điện tử theo pháp luật Việt NamLuận văn: Hợp đồng thương mại điện tử theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hợp đồng thương mại điện tử theo pháp luật Việt Nam
 
Đề tài: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong khai thác khoáng sản
Đề tài: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong khai thác khoáng sảnĐề tài: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong khai thác khoáng sản
Đề tài: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong khai thác khoáng sản
 
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOTĐề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật, HOT
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật, HOTLuận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật, HOT
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật, HOT
 
Luận văn: Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm không khí, HOT
Luận văn: Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm không khí, HOTLuận văn: Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm không khí, HOT
Luận văn: Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm không khí, HOT
 
Đề tài: Pháp luật về chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại
Đề tài: Pháp luật về chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mạiĐề tài: Pháp luật về chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại
Đề tài: Pháp luật về chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại
 
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu về hình thức theo pháp luật
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu về hình thức theo pháp luậtLuận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu về hình thức theo pháp luật
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu về hình thức theo pháp luật
 
Đề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOT
Đề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOTĐề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOT
Đề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOT
 
Luận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOT
Luận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOTLuận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOT
Luận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệuLuận văn: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
 
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOTĐề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
 
Luận văn: Kết hôn đồng giới theo pháp luật một số quốc gia, HOT
Luận văn: Kết hôn đồng giới theo pháp luật một số quốc gia, HOTLuận văn: Kết hôn đồng giới theo pháp luật một số quốc gia, HOT
Luận văn: Kết hôn đồng giới theo pháp luật một số quốc gia, HOT
 
Luận văn: Luật La Mã trong xây dựng chế định vật quyền, HOT
Luận văn: Luật La Mã trong xây dựng chế định vật quyền, HOTLuận văn: Luật La Mã trong xây dựng chế định vật quyền, HOT
Luận văn: Luật La Mã trong xây dựng chế định vật quyền, HOT
 
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt NamLuận văn: Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam
 
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAYLuận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
 

Similar to Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT

Thực thi pháp luật Bảo vệ môi trường trong lĩnh vực nuôi trồng và chế biến th...
Thực thi pháp luật Bảo vệ môi trường trong lĩnh vực nuôi trồng và chế biến th...Thực thi pháp luật Bảo vệ môi trường trong lĩnh vực nuôi trồng và chế biến th...
Thực thi pháp luật Bảo vệ môi trường trong lĩnh vực nuôi trồng và chế biến th...anh hieu
 
Thực thi pháp luật Bảo vệ môi trường trong lĩnh vực nuôi trồng và chế biến th...
Thực thi pháp luật Bảo vệ môi trường trong lĩnh vực nuôi trồng và chế biến th...Thực thi pháp luật Bảo vệ môi trường trong lĩnh vực nuôi trồng và chế biến th...
Thực thi pháp luật Bảo vệ môi trường trong lĩnh vực nuôi trồng và chế biến th...anh hieu
 
Luận văn: Xử phạt vi phạm vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường từ thự...
Luận văn: Xử phạt vi phạm vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường từ thự...Luận văn: Xử phạt vi phạm vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường từ thự...
Luận văn: Xử phạt vi phạm vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường từ thự...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật môi trường gây ...
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật môi trường gây ...Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật môi trường gây ...
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật môi trường gây ...nataliej4
 
Pháp luật về sử dụng các công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường ở Việt Nam h...
Pháp luật về sử dụng các công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường ở Việt Nam h...Pháp luật về sử dụng các công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường ở Việt Nam h...
Pháp luật về sử dụng các công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường ở Việt Nam h...anh hieu
 
Pháp Luật Bảo Vệ Môi Trườngtrong Lĩnh Vực Nuôi Trồng Và Chế Biến Thủy Sản
Pháp Luật Bảo Vệ Môi Trườngtrong Lĩnh Vực Nuôi Trồng Và Chế Biến Thủy SảnPháp Luật Bảo Vệ Môi Trườngtrong Lĩnh Vực Nuôi Trồng Và Chế Biến Thủy Sản
Pháp Luật Bảo Vệ Môi Trườngtrong Lĩnh Vực Nuôi Trồng Và Chế Biến Thủy SảnViết Thuê Đề Tài Luận Văn trangluanvan.com
 

Similar to Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT (20)

Các tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam và thực tiễn xét xử trê...
Các tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam và thực tiễn xét xử trê...Các tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam và thực tiễn xét xử trê...
Các tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam và thực tiễn xét xử trê...
 
Luận án: Xử lý vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường ở Việt Nam
Luận án: Xử lý vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường ở Việt NamLuận án: Xử lý vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường ở Việt Nam
Luận án: Xử lý vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường ở Việt Nam
 
Luận văn: Các tội phạm về môi trường theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về môi trường theo luật hình sự, HOTLuận văn: Các tội phạm về môi trường theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về môi trường theo luật hình sự, HOT
 
Khoá Luận Pháp Luật Về Đánh Giá Tác Động Môi Trường – Lý Luận Và Thực Tiễn.
Khoá Luận Pháp Luật Về Đánh Giá Tác Động Môi Trường – Lý Luận Và Thực Tiễn.Khoá Luận Pháp Luật Về Đánh Giá Tác Động Môi Trường – Lý Luận Và Thực Tiễn.
Khoá Luận Pháp Luật Về Đánh Giá Tác Động Môi Trường – Lý Luận Và Thực Tiễn.
 
Luận án: Các tội phạm về môi trường ở Việt Nam, HAY
Luận án: Các tội phạm về môi trường ở Việt Nam, HAYLuận án: Các tội phạm về môi trường ở Việt Nam, HAY
Luận án: Các tội phạm về môi trường ở Việt Nam, HAY
 
Chuyên Đề Tốt Nghiệp Cho Vay Kinh Doanh Bất Động Sản Tại Ngân Hàng HDBank
Chuyên Đề Tốt Nghiệp  Cho Vay Kinh Doanh Bất Động Sản Tại Ngân Hàng HDBank Chuyên Đề Tốt Nghiệp  Cho Vay Kinh Doanh Bất Động Sản Tại Ngân Hàng HDBank
Chuyên Đề Tốt Nghiệp Cho Vay Kinh Doanh Bất Động Sản Tại Ngân Hàng HDBank
 
Luận án: Pháp luật về trách nhiệm pháp lý về bảo vệ môi trường
Luận án: Pháp luật về trách nhiệm pháp lý về bảo vệ môi trườngLuận án: Pháp luật về trách nhiệm pháp lý về bảo vệ môi trường
Luận án: Pháp luật về trách nhiệm pháp lý về bảo vệ môi trường
 
Pháp luật về trách nhiệm pháp lý trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
Pháp luật về trách nhiệm pháp lý trong lĩnh vực bảo vệ môi trườngPháp luật về trách nhiệm pháp lý trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
Pháp luật về trách nhiệm pháp lý trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
 
Thực thi pháp luật Bảo vệ môi trường trong lĩnh vực nuôi trồng và chế biến th...
Thực thi pháp luật Bảo vệ môi trường trong lĩnh vực nuôi trồng và chế biến th...Thực thi pháp luật Bảo vệ môi trường trong lĩnh vực nuôi trồng và chế biến th...
Thực thi pháp luật Bảo vệ môi trường trong lĩnh vực nuôi trồng và chế biến th...
 
Thực thi pháp luật Bảo vệ môi trường trong lĩnh vực nuôi trồng và chế biến th...
Thực thi pháp luật Bảo vệ môi trường trong lĩnh vực nuôi trồng và chế biến th...Thực thi pháp luật Bảo vệ môi trường trong lĩnh vực nuôi trồng và chế biến th...
Thực thi pháp luật Bảo vệ môi trường trong lĩnh vực nuôi trồng và chế biến th...
 
Luận văn: Thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường đô thị ở Việt Nam
Luận văn: Thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường đô thị ở Việt NamLuận văn: Thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường đô thị ở Việt Nam
Luận văn: Thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường đô thị ở Việt Nam
 
Luận án: Kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam, HAY
Luận án: Kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam, HAYLuận án: Kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam, HAY
Luận án: Kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Xử phạt vi phạm vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường từ thự...
Luận văn: Xử phạt vi phạm vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường từ thự...Luận văn: Xử phạt vi phạm vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường từ thự...
Luận văn: Xử phạt vi phạm vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường từ thự...
 
Luận văn: Xử phạt vi phạm hành chính về môi trường tại Bắc Giang
Luận văn: Xử phạt vi phạm hành chính về môi trường tại Bắc GiangLuận văn: Xử phạt vi phạm hành chính về môi trường tại Bắc Giang
Luận văn: Xử phạt vi phạm hành chính về môi trường tại Bắc Giang
 
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật môi trường gây ...
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật môi trường gây ...Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật môi trường gây ...
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật môi trường gây ...
 
BÀI MẪU Luận văn Quản Lý nhà nước về ô nhiễm không khí, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Luận văn Quản Lý nhà nước về ô nhiễm không khí, 9 ĐIỂMBÀI MẪU Luận văn Quản Lý nhà nước về ô nhiễm không khí, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Luận văn Quản Lý nhà nước về ô nhiễm không khí, 9 ĐIỂM
 
Pháp luật về sử dụng các công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường ở Việt Nam h...
Pháp luật về sử dụng các công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường ở Việt Nam h...Pháp luật về sử dụng các công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường ở Việt Nam h...
Pháp luật về sử dụng các công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường ở Việt Nam h...
 
Luận văn: Pháp luật về quản lý chất thải y tế tại Hà Nội, HOT, 9đ
Luận văn: Pháp luật về quản lý chất thải y tế tại Hà Nội, HOT, 9đLuận văn: Pháp luật về quản lý chất thải y tế tại Hà Nội, HOT, 9đ
Luận văn: Pháp luật về quản lý chất thải y tế tại Hà Nội, HOT, 9đ
 
Chuyên đề Pháp luật về đánh giá tác động môi trường – lý luận và thực tiễn.doc
Chuyên đề Pháp luật về đánh giá tác động môi trường – lý luận và thực tiễn.docChuyên đề Pháp luật về đánh giá tác động môi trường – lý luận và thực tiễn.doc
Chuyên đề Pháp luật về đánh giá tác động môi trường – lý luận và thực tiễn.doc
 
Pháp Luật Bảo Vệ Môi Trườngtrong Lĩnh Vực Nuôi Trồng Và Chế Biến Thủy Sản
Pháp Luật Bảo Vệ Môi Trườngtrong Lĩnh Vực Nuôi Trồng Và Chế Biến Thủy SảnPháp Luật Bảo Vệ Môi Trườngtrong Lĩnh Vực Nuôi Trồng Và Chế Biến Thủy Sản
Pháp Luật Bảo Vệ Môi Trườngtrong Lĩnh Vực Nuôi Trồng Và Chế Biến Thủy Sản
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxAnAn97022
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfVyTng986513
 

Recently uploaded (20)

Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
 

Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT

  • 1. Đại học Quốc gia Hà nội Khoa luật Nguyễn Trí Chinh Những vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội phạm về môi trường theo luật hình sự việt nam Luận văn thạc sĩ luật học Hà nội - 2010
  • 2. Đại học Quốc gia Hà nội Khoa luật Nguyễn Trí Chinh Những vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội phạm về môi trường theo luật hình sự việt nam Chuyên ngành : Luật hình sự Mã số : 60 38 40 Luận văn thạc sĩ luật học Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Văn Lợi Hà nội - 2010
  • 3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng Danh mục các biểu đồ Mở đầu 1 Chương 1: Những vấn đề lý luận về các tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam 8 1.1. Khái niệm về môi trường 8 1.2. Khái niệm tội phạm về môi trường 10 1.3. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc qui định các tội phạm môi trường trong luật hình sự 13 1.4. Sự hình thành các qui định về tội phạm môi trường trong luật hình sự Việt Nam 27 1.4.1. Các quy định về tội phạm môi trường trong Bộ luật Hỡnh sự 1985 29 1.4.2. Các quy định về tội phạm môi trường trong Bộ luật Hỡnh sự 1999 31 1.5. Những quy định về tội phạm môi trường trong pháp luật hình sự một số nước trên thế giới 36 1.5.1. Pháp luật của Thái Lan 37 1.5.2. Pháp luật Mailaixia 38 1.5.3. Pháp luật Singapo 40 1.5.4. Pháp luật Inđônêxia 41 1.5.5. Pháp luật Philippin 42
  • 4. Chương 2: Các qui định tội phạm về môi trường trong Bộ luật Hình sự Việt Namvà thực tiễn áp dụng 45 2.1. Các qui định về tội phạm môi trường trong Bộ luật Hình sự Việt Nam 45 2.1.1. Những dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội phạm về môi trường 46 2.1.1.1. Khách thể của tội phạm về môi trường 46 2.1.1.2. Mặt khách quan của tội phạm về môi trường 48 2.1.1.3. Mặt chủ quan của tội phạm về môi trường 52 2.1.1.4. Chủ thể của tội phạm về môi trường 54 2.1.1.5. Hình phạt đối với các tội phạm môi trường 55 2.2. Tình hình vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường và thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về các tội phạm môi trường 78 2.2.1. Thực trạng, nguyên nhân vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường 78 2.2.2. Việc áp dụng các quy định của pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật về môi trường 86 Chương 3: NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC ÁP DỤNG NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI CÁC TỘI PHẠM VỀ MÔI TRƯỜNG 100 3.1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định của Bộ luật Hình sự đối với các tội phạm về môi trường 100 3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định của Bộ luật Hình sự đối với các tội phạm về môi trường 107 3.2.1. Hoàn thiện những quy định của pháp luật hình sự về các tội phạm về môi trường 107 3.2.2. Hoàn thiện các văn bản qui phạm pháp luật khác bảo đảm tính đồng bộ nâng cao hiệu quả phòng, chống tội phạm môi trường 120
  • 5. 3.2.3. Nâng cao hiệu quả hoạt động áp dụng những quy định của pháp luật hình sự về các tội phạm về môi trường của các cơ quan bảo vệ pháp luật 121 3.2.3.1. Đối với Cơ quan điều tra 121 3.2.3.2. Đối với Viện kiểm sát nhân dân 126 3.2.3.3. Đối với Tòa án nhân dân 129 3.3. Các giải pháp khác nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng và chống các tội phạm về môi trường 132 3.3.1. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục ý thức pháp luật về tội phạm môi trường 133 3.3.2. Tăng cường ký kết hoặc gia nhập các công ước quốc tế trong lĩnh vực tội phạm về môi trường 134 3.3.3. Hợp tác quốc tế trong phòng, chống tội phạm về môi trường 135 KẾT LUẬN 137 Danh mục tài liệu tham khảo 139
  • 6. Danh mục các bảng Số hiệu bảng Tên bảng Trang 2.1 Kết quả thực hiên kế hoạch Thanh tra môi trường của Bộ Tài nguyên và Môi trường từ năm 2005 đến năm 2009 88 2.2 Thống kê về các tội phạm và vi phạm pháp luật về môi trường từ ngày 01/12/2009 đến ngày 31/5/2010 92 2.3 Thống kê kết quả khởi tố, truy tố, xét xử chương môi trường năm 2007 - 2008 - 2009 - 06 tháng năm 2010 93 2.4 Thống kê số vụ án và bị cáo phạm các tội về môi trường trong cả nước mà Toà án đã thụ lý và xét xử từ ngày 01/01/2001 đến ngày 31/7/2010 95 Danh mục các biểu đồ Số hiệu biểu đồ Tên biểu đồ Trang 2.1 Mức độ tăng, giảm các vụ án, số bị can đối với các tội phạm về môi trường 93 2.2 Mức độ tăng, giảm các vụ án và bị cáo về các tội phạm về môi trường 95
  • 7. 1 Mở đầu 1 Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm gần đây cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới, đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng từ Đại hội VI (năm 1986) đã thu được nhiều thành tựu. Sau hơn hai mươi năm đổi mới, đất nước ta đã có những thay đổi lớn trên tất cả các mặt của đời sống xã hội. Đời sống nhân dân ngày ngày càng được nâng cao, tình hình an ninh chính trị được giữ vững, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển tích cực của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, trong xã hội cũng xuất hiện nhiều yếu tố tiêu cực mặt trái của nền kinh tế thị trường. Tình hình vi phạm pháp luật nói chung và tình hình tội phạm nói riêng có chiều hướng ngày càng gia tăng. Các hành vi phạm tội cũng ngày càng đa dạng và phức tạp, tinh vi và khó lường hơn. Điều này được thể hiện không chỉ ở việc các lần pháp điển hoá luật hình sự mà ngày càng có nhiều hành vi mới mang tính phổ biến và nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm đặc biệt là các tội phạm về môi trường. Hiện nay, môi trường đang là vấn đề nóng của mọi quốc gia, dù đó là quốc gia phát triển hay quốc gia đang phát triển. Sự ô nhiễm, suy thoái và những sự cố môi trường diễn ra ngày càng ở mức độ cao đang đặt con người những thảm hoạ của thiên nhiên có thể xảy ra như sự nóng nên của trái đất, lỗ hổng tầng ôzôn, tình trạng ngập lụt... Vì vậy, vấn đề bảo vệ môi trường đã trở nên vô cùng cấp thiết được các quốc gia và cộng đồng quốc tế đặc biệt quan tâm. Một thực tế không thể phủ nhận là môi trường nước ta hiện nay cũng đang bị ô nhiễm và suy thoái nặng nề. Đứng trước thực tế đó, nếu chúng ta không có những biện pháp hữu hiệu nhất thì chúng ta sẽ phải trả giá cho cho những tổn thất mà các thế hệ người Việt Nam sẽ phải gánh chịu bây giờ và trong tương lai. Đặc biệt trong thời gian gần đây các phương tiện truyền thông đã nêu tên nhiều doanh nghiệp đã vi
  • 8. 2 phạm nghiêm trọng pháp luật về môi trường như: Công ty VEĐAN, MIWON... Nhận thức đầy đủ ý nghĩa, tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường, Đảng, Nhà nước và Quốc hội đã đề ra nhiều giải pháp vừa mang tính chiến lược vừa mang tính cấp bách để bảo vệ môi trường, gắn liền với cuộc đấu tranh xoá đói giảm nghèo ở mỗi quốc gia và cuộc đấu tranh vì hoà bình tiến bộ xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Bảo vệ môi trường vừa là quyền vừa là nghĩa vụ và là trách nhiệm của cả cá nhân và tổ chức. Hiến pháp 1992 quy định: "Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, mọi cá nhân phải thực hiện các quy định của Nhà nước về sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Nghiêm cấm mọi hành động làm suy kiệt tài nguyên và huỷ hoại môi trường" [27]. Để cụ thể hoá quy định của Điều 29 Hiến pháp năm 1992, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường. Trong số các biện pháp pháp lý được sử dụng để bảo vệ môi trường có biện pháp hình sự. Bộ luật Hình sự năm 1999, đã có riêng Chương XVII quy định Các tội phạm về môi trường. Việc tội phạm hoá những hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm tới môi trường quy định trong Bộ luật này đã tạo ra cơ sở pháp lý cần thiết cho công tác đấu tranh phòng, chống các hành vi xâm hại đến lĩnh vực môi trường. Tuy nhiên, do các hành vi phạm tội thuộc loại tội phạm này ngày càng đa dạng, phức tạp có sự biến đổi liên tục, việc xử lý về hình sự gặp nhiều khó khăn, bất cập mà một trong những nguyên nhân chính là do những bất cập trong cấu thành của các tội phạm về môi trường, thể hiện ở chỗ cấu thành của nhóm tội gây ô nhiễm môi trường đòi hỏi phải có đồng thời ba yếu tố mới xử lý hình sự được: Hành vi thải chất gây ô nhiễm môi trường trước đó đã bị xử phạt hành chính; người bị xử phạt hành chính cố tình không thực hiện các biện pháp khắc phục; do không thực hiện biện pháp khắc phục mà gây ra hậu quả nghiêm trọng. Quy định này đã hạn chế khả năng truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm này, bởi lẽ, việc chờ cho đủ cả ba yếu tố nói trên là rất khó khăn, nhất là trong việc xác định hậu quả về môi trường. Có nhiều
  • 9. 3 trường hợp hậu quả không thể xảy ra ngay mà sau một thời gian dài, có thể vài chục năm sau, khi đó thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về môi trường đã hết. Ngoài ra, trong thực tiễn đã nảy sinh một số loại vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường có khả năng gây hậu quả rất lớn cho sức khoẻ, tính mạng con người, nhưng hiện vẫn chưa được hình sự hoá, chẳng hạn: hành vi mua bán, tái chế rác thải y tế hoặc rác thải công nghiệp chưa qua xử lý để sản xuất vật dụng tiêu dùng v.v... Trong nhiều vụ án, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng còn có ý kiễn khác nhau khi xác định về mặt tội danh đối với nhóm tội này. Thậm chí, có vụ án còn gây ra các cuộc tranh luận giữa các nhà lập pháp, nhà nghiên cứu khoa học và những người áp dụng pháp luật. Xuất phát từ tình hình nêu trên, việc nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn hoạt động điều tra, xử lý các vụ phạm tội về môi trường; từ đó đề xuất các giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống các tội phạm về môi trường là vấn đề cấp thiết trong tình hình hiện nay. Do đó, tôi đã chọn đề tài: "Những vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam". 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Đất nước ta đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Để phấn đấu đạt được mục tiêu đó, trong quá trình thực hiện phải tuân thủ các nguyên lý cơ bản và quy luật khách quan của sự phát triển bền vững: phát triển phải có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa phát triển kinh tế, đảm bảo công bằng xã hội và bảo vệ môi trường; phải quan tâm đúng mức hơn nữa các yêu cầu bảo vệ môi trường trong phát triển cho đúng với vai trò và tầm quan trọng của nó. Thực tế, vấn đề vi phạm pháp luật về môi trường đang diễn ra rất nghiêm trọng và phổ biến, gây hậu quả tiêu cực nhiều mặt đối với việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. VÒ tội phạm về môi trường đã có nhiều bài viết và đề tài nghiên cứu của các nhà khoa học, như: "Lực
  • 10. 4 lượng Công an nhân dân nâng cao trách nhiệm và hiệu quả trong công tác bảo vệ môi trường", của Trung tướng Đặng Văn Hiếu, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Công an (6/2007); "Công tác phòng, chống tội phạm về môi trường trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế" của TS. Đại tá, Nguyễn Xuân Lý, Cục trưởng Cục Cảnh sát môi trường (7/2007); Đề tài khoa học cÊp Nhà nước: "Những vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường và giải pháp phòng, chống", do Thiếu tướng, GS.TS. Nguyễn Duy Hùng, Giám đốc Học viện Cảnh sát nhân dân làm chủ nhiệm (2006); Đề tài Khoa học: "Tội phạm về môi trường - một số vấn đề lý luận và thực tiễn", do TS. Phạm Văn Lợi, Phó Viện trưởng Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp lµm chñ nhiÖm (2003); Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), của Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 1997; Tác giả Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự, Phần các tội phạm, Tập 2, Nxb Thành phố Hồ Chi Minh, 2002...Do nhiều nguyên nhân khác nhau nên các đề tài này mới chỉ đề cập nghiên cứu ở những góc độ khác nhau về tội phạm môi trường mà chưa nghiên cứu một cách tổng thể. Hơn nữa, vấn đề về tổ chức, cán bộ theo dõi, phát hiện, đấu tranh và xử lý tội phạm về môi trường cũng như lý luận các tội phạm về môi trường còn nhiều bất cập; việc phối kết hợp của các cơ quan bảo vệ pháp luật trong lĩnh vực môi trường còn chưa chặt chẽ..., trong khi đó, tội phạm môi trường diễn biến dưới nhiều hình thức khác nhau, với những phương thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi và phức tạp. 3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi và đối tượng nghiên cứu đề tài 3.1. Mục đích của luận văn trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn các tội phạm về môi trường trong luật hình sự Việt Nam nhằm hoàn thiện các quy định của Bộ luật Hình sự đối với nhóm tội về môi trường; từ đó đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống các tội phạm về môi trường. Để đạt được mục đích trên, luận văn đặt ra và giải quyết một số vấn đề như sau:
  • 11. 5 - Giải quyết một số vấn đề lý luận chung đối với tội phạm về môi trường; - Phân tích cấu thành tội phạm của các tội phạm về môi trường; - Khái quát thực trạng môi trường, tình hình tội phạm môi trường, những bất cập, vướng mắc trong thực tiễn xử lý các tội phạm về môi trường để tìm ra nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh, phát triển tội phạm về môi trường; - Dự báo tình hình, đề xuất các giải pháp nhằm góp phần đấu tranh phòng, chống có hiệu quả các tội phạm về môi trường. 3.2. Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các qui định về tội phạm môi trường trong chương XVII "Các tội phạm về môi trường" của Bộ luật Hình sự năm 1999; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự (Luật số 37/2009/QH 12 ngày 19 tháng 6 năm 2009) trong đó có sửa đổi, bổ sung một số điều trong Chương XVII (Các tội phạm về môi trường) của Bộ luật Hình sự năm 1999; quan điểm đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các tài liệu khác có liên quan đến hoạt động đấu tranh phòng, chống các tội phạm về môi trường. 3.3. Phạm vi nghiên cứu của luận văn là các qui định của pháp luật hình sự đối với nhóm tội về môi trường và thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm về môi trường của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Số liệu thống kê phục vụ cho việc nghiên cứu, so sánh, đối chiếu trong đề tài được viện dẫn từ các báo cáo tổng kết của Bộ Tài nguyên và Môi trường; báo cáo công tác của Cục Cảnh sỏt phòng chống tội phạm môi trường, Bộ Công an; báo cáo của Viện kiểm sát nhân dân tối cao; báo cáo của Toà án nhân dân tối cao và một số báo cáo chuyên đề về môi trường. 4. Phương pháp nghiên cứu
  • 12. 6 Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, và các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về cải cách tư pháp, về tội phạm, về đấu tranh phòng, chống các tội phạm nói chung và các tội phạm về môi trường nói riêng. Đồng thời, dựa trên cơ sở các bài viết, các đề tài khoa học của các nhà nghiên cứu lý luận về các tội phạm về môi trường; các phương pháp mà luận văn đã vận dụng như: phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh; chuyên gia; khảo sát thực tế; thống kê hình sự... 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài Đề tài là công trình nghiên cứu có hệ thống một số vấn đề lý luận và thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống các tội phạm về môi trường của các cơ quan bảo vệ pháp luật trong lĩnh vực môi trường. Trên cơ sở khái quát các quan điểm của Đảng, Nhà nước về đấu tranh phòng, chống các tội phạm về môi trường; tham khảo chính sách hình sự của một số nước về tội phạm môi trường, để từ đó làm sáng tỏ những ưu điểm và hạn chế của lý luận cũng như thực trạng của công tác đấu tranh, xử lý tội phạm trong lĩnh vực môi trường; giúp cho các cơ quan bảo vệ pháp luật trong lĩnh vực môi trường có thể tham khảo, vận dụng vào thực tiễn hoạt động điều tra, xử lý nhằm nâng cao hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống các tội phạm về môi trường. 6. Điểm mới của luận văn Đề tài khoa học làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội phạm môi trường trong luật hình sự Việt Nam. Điểm mới của luận văn gồm: - Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về các tội phạm môi trường trong luật hình sự Việt Nam; - Chỉ ra được những vướng mắc, bất cập của các quy định hiện hành liên quan đến nhóm các tội phạm về môi trường trong luật hình sự Việt Nam;
  • 13. 7 - Đưa ra được hệ thống các kiến nghị, nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về các tội phạm môi trường; - Ngoài ra, luận văn còn là tài liệu tham khảo cho những người nghiên cứu, học tập, những người làm công tác thực tiễn liên quan đến lĩnh vực này cũng như các độc giả khác có quan tâm. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về các tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam. Chương 2: Các qui định tội phạm về môi trường trong Bộ luật Hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng. Chương 3: Nâng cao hiệu quả việc áp dụng những quy định của Bộ luật Hình sự đối với các tội phạm về môi trường.
  • 14. 8 Chương 1 Những vấn đề lý luận về các tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam 1.1. Khái niệm về môi trường Môi trường là một khái niệm có nội hàm rất rộng và được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Môi trường của một vật thể hoặc của một sự kiện là tổng hợp các yếu tố, điều kiện bên ngoài có ảnh hưởng đến các vật thể, sự kiện đó. Bất cứ một vật thể, sự kiện nào cũng tồn tại trong một môi trường. Khái niệm môi trường được cụ thể hoá đối với từng đối tượng và mục đích nghiên cứu. Theo Tuyên ngôn của UNESCO (1981) thì môi trường được định nghĩa như sau: Môi trường la toàn bộ hệ thống tự nhiên và các hệ thống do con người sáng tạo ra xung quanh mình, trong đó con người sinh sống bằng lao động của mình đã khai thác tài nguyên thiên nhiên hoặc nhân tạo nhằm thoả mãn các nhu cầu của mình. Chương trình hành động của Cộng đồng Châu Âu về môi trường định nghĩa: Môi trường là tổ hợp các yếu tố mà các quan hệ phụ thuộc, phức hợp của chúng tạo nên khung cảnh, hoàn cảnh xung quanh và các điều kiện mà cuộc sống của các cá thể và của xã hội như là chúng ta đang tồn tại hoặc như là chúng ta đang cảm thấy tồn tại. Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia thì Môi trường là tập hợp tất cả các yếu tố tự nhiên và xã hội bao quanh con người, ảnh hưởng tới con người và tác động đến các hoạt động sống của con người như: không khí, nước, độ ẩm, sinh vật, xã hội loài người và các thể chế. môi trường có thể định nghĩa như là tổ hợp của các yếu tố khí hậu, sinh thái học, xã hội và thổ nhưỡng tác động lên cơ thể sống và xác định các hình thức sinh tồn của
  • 15. 9 chúng. Vì thế, môi trường bao gồm tất cả mọi thứ mà có thể có ảnh hưởng trực tiếp đến sự trao đổi chất hay các hành vi của các cơ thể sống hay các loài, bao gồm ánh sáng, không khí, nước, đất và các cơ thể sống khác. Theo khoản 1, Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường 2005 thì khái niệm môi trường được hiểu như sau: Môi trường "bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật". Như vậy, môi trường là toàn bộ những yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới sự phát triển kinh tế - xã hội và sự tồn tại phát triển của con người và sinh vật; môi trường có chức năng rất quan trọng, là cái nôi của con người, là sinh quyển, sinh thái cần thiết cho sự sống tự nhiên và hoạt động của con người, là nơi sinh sống và phát triển của xã hội loài người. Môi trường là nơi chứa đựng những tài nguyên thiên nhiên là đối tượng của lao động sản xuất và là nguồn lực cần thiết cho việc sản xuất ra của cải vật chất của loài người, trong đó một số có thể tái tạo được, một số khác không thể tái tạo được. Đồng thời, môi trường là nơi chứa đựng chất thải của quá trình sản xuất và sinh hoạt của con người. Môi trường có các chức năng cơ bản sau: - Môi trường là không gian sinh tồn của con người: con người cần một không gian để sống và những điều kiện nhất định về chất và lượng để sinh hoạt và sản xuất... Môi trường tạo ra cho con người những giá trị phúc lợi, những giá trị cảnh quan thẩm mỹ. Con người chỉ tồn tại và phát triển trong không gian, môi trường thích hợp. - Môi trường là nơi cung cấp các tài nguyên, kể cả vật liệu và năng lượng: Tài nguyên được hiểu theo nghĩa rộng là tất cả những gì có trong tự nhiên và trong xã hội có thể phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như các hoạt động khác của con nguời. Để đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh
  • 16. 10 doanh, con người cần phải khai thác các loại tài nguyên thiên nhiên có trong môi truờng. - Môi trường là nơi chứa đựng các chất thải của mọi quá trình sản xuất và tiêu dùng: Mọi hoạt động của con người từ quá trình khai thác tài nguyên đến sản xuất và tiêu dùng đều có phế thải, có thể thải trực tiếp ra môi trường ở dạng rắn, lỏng, khí. Trong đó có một số chất thải có ích, có thể xử lý để tái sử dụng nhưng có những chất thải không thể xử lý để tái sử dụng mà cần phải tiêu huỷ. - Môi trường là nơi giảm nhẹ các tác động có hại của thiên nhiên tới con người và sinh vật trên trái đất. - Môi trường là nơi lưu giữ và cung cấp thông tin cho con nguời. Như vậy, môi trường có chức năng rất quan trọng, là cái nôi của con người, là sinh quyển, sinh thái cần thiết cho sự sống tự nhiên và hoạt động của con người, là nơi sinh sống và phát triển của loài người. Môi trường luôn biến đổi bởi hoạt động của sinh vật và tiến hoá của tự nhiên. Trong đó, con người đang có những tác động mạnh mẽ nhất. Con người không thể bảo tồn được nguyên dạng nhưng luôn phải đảm bảo các chức năng trên để giữ vững cân bằng sinh thái môi trường. 1.2. KHÁI NIỆM TỘI PHẠM VỀ MÔI TRƯỜNG Bộ luật Hình sự không đưa ra khái niệm chung của tội phạm về môi trường. Phân tích khoa học khái niệm này là khởi điểm cho việc giải quyết về bản chất tất cả các vấn đề của trách nhiệm hình sự trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Việc hiểu đúng đắn tội phạm về môi trường là cơ sở phương pháp luận cho quá trình lập pháp đối với loại tội phạm này. Trong trường hợp không có sự nhận thức đúng đắn về những tội phạm này sẽ không thể xây dựng được các hình thức chế tài, phạm vi và nhiệm vụ của hoạt động phòng ngừa.
  • 17. 11 Trong các tài liệu nghiên cứu có một số khái niệm tội phạm về môi trường, song vẫn còn có những điểm chưa hoàn toàn rõ ràng hoặc đầy đủ. Một số tác giả cho rằng: "Tội phạm về môi trường là hành vi nguy hiểm cho xã hội, do những người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện, xâm hại đến sự bền vững và ổn định của môi trường; xâm hại đến các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ môi trường, gây ra những hậu quả xấu đối với môi trường sinh thái" [24, tr. 320]. Trong khái niệm này có hai điểm chưa được rõ ràng: Thứ nhất, khái niệm trên chưa chỉ ra đặc trưng hết sức quan trọng của tội phạm nói chung, tội phạm về môi trường nói riêng, mà được tất cả các nhà luật học công nhận: "tội phạm là hành vi vi phạm pháp luật hình sự". Cũng chính vì lý do này nên khái niệm trªn chưa hoàn toàn chính xác. Không ai nghi ngờ "Hành vi nguy hiểm cho xã hội" là đặc trưng chung của các hành vi vi phạm pháp luật như: vi phạm hành chính, tội phạm, vi phạm kỷ luật v.v..., vậy khái niệm nêu trên có thể bao gồm cả những hành vi vi phạm pháp luật hành chính trong lĩnh vực môi trường. Thứ hai, khái niệm trên có thể gây sự hiểu nhầm giữa đối tượng và khách thể của tội phạm. Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội và lợi ích xã hội bị xâm hại và được chỉ ra rất rõ ràng trong ĐiÒu 1 Bộ luật Hình sự năm 1999: "Chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân, quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa". Đối tượng của tội phạm là những vật của thế giới khách quan mà hành vi phạm tội trực tiếp tác động đến. Trên cơ sở phân tích này, có thể khẳng định "sự bền vững và ổn định của môi trường" là đối tượng chung của các tội phạm về môi trường và việc đưa đối tượng này vào khái niệm là chưa hoàn toàn xác đáng vì có thể dẫn tới đồng nhất với khách thể "các quan hệ xã hội về quản lý và bảo vệ môi trường".
  • 18. 12 Khái niệm tội phạm về môi trường cũng đã được đưa vào giáo trình giảng dạy. Giáo trình của Trường §¹i häc Luật Hà Nội cho rằng: "Các tội phạm về môi trường là các hành vi nguy hiểm cho xã hội vi phạm các quy định của Nhà nước về b¶o vÖ môi trường, qua đó gây thiệt hại cho môi trường" [20, tr. 133]. Khái niệm này có ưu điểm là rất ngắn gọn, tuy nhiên cũng còn có vài điểm cần bàn thêm: - Cũng giống như ở khái niệm trước, khái niệm tội phạm về môi trường trong giáo trình Luật Hình sự của Trường §¹i häc Luật Hà Nội chưa tạo ra được sự khác biệt giữa tội phạm về môi trường và hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường. Có thể khẳng định rằng: hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường cũng là những hành vi nguy hiểm cho xã hội vi phạm các quy định của Nhà nước về môi trường và có khả năng gây hậu quả bất lợi cho môi trường. - Việc đưa "thiệt hại cho môi trường" vào trong khái niệm tội phạm về môi trường có thể dẫn tới sự hiểu lầm. Yếu tố "thiệt hại" trong cấu thành tội phạm chỉ bắt buộc đối với những cấu thành tội phạm vật chất. Những cấu thành hình thức khẳng định việc tội phạm đã được thực hiện (hoàn thành) ngay khi đã thực hiện hành vi, bất kể hành vi đó đã gây ra thiệt hại hay chưa. Như vậy, sử dụng cấu trúc "gây thiệt hại cho môi trường" trong khái niệm có thể dẫn tới sự hiểu nhầm rằng: "tất cả tội phạm về môi trường có cấu thành vật chất". Trên thực tế không phải như vậy, một số tội phạm về môi trường có cấu thành hình thức như: Tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam (Điều 185), Tội làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người (Điều 186), Tội vi phạm các quy định về bảo vệ động thuộc danh mục loài nguy cấp, quý hiếm, được ưu tiên bảo vệ (Điều 190).). - Ngoài ra, khái niệm kể trên chưa chỉ rõ khách thể bị xâm hại. Có thể nói rằng, một trong những đặc trưng cơ bản nhất của tội phạm cụ thể chính là khách thể giúp phân biệt với các tội phạm khác. Ngay khái niệm chung về tội phạm tại ĐiÒu 8 Bộ luật Hình sự Việt Nam cũng liệt kê những khách thể mà
  • 19. 13 tội phạm theo luật hình sự Việt Nam xâm hại đến. Trong quá trình xây dựng khái niệm một loại tội phạm cụ thể, để đặc trưng loại tội phạm này, đồng thời xác định giới hạn, cần chỉ rõ khách thể chính. Việc xây dựng khái niệm tội phạm về môi trường phức tạp còn do cấu trúc của chế định pháp luật hình sự về bảo vệ môi trường không trùng khớp với hình thức biểu hiện trong Bộ luật Hình sự. Hệ thống các tội phạm về môi trường theo nghĩa thuần tuý trong Bộ luật Hình sự không hề tồn tại. Nhận định này được minh chứng bằng việc những tội phạm khác, tuy không nằm trong chương tội phạm về môi trường, nhưng một phần cũng hướng tới việc sử dụng hợp lý và bảo vệ môi trường. Ví dụ như: Tội vi phạm các quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên (ĐiÒu 172), Tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai (ĐiÒu 173), Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai (ĐiÒu 174), Tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng (ĐiÒu 175), Tội vi phạm các quy định về quản lý rừng (ĐiÒu 176), được đưa vào Chương XVI "Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế". Tuy nhiên, việc sắp xếp như nêu trên trong Bộ luật Hình sự về cơ bản cũng hợp lý vì khách thể chính của các tội phạm (từ ĐiÒu 172 đến ĐiÒu 176) là các quan hệ trong lĩnh vực quản lý kinh tế của Nhà nước. Trên cơ sở phân tích ở trên, chúng tôi cũng mạnh dạn đưa quan điểm đối với khái niệm tội phạm về môi trường như sau: Tội phạm về môi trường là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự Việt Nam, xâm hại tới các quan hệ xã hội về bảo vệ môi trường. Có thể coi đây là khái niệm tội phạm về môi trường theo nghĩa rộng, còn khái niệm tương ứng theo nghĩa hẹp chỉ bao gồm những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Chương XVII "Các tội phạm về môi trường". 1.3. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc qui định các tội phạm môi trường trong luật hình sự
  • 20. 14 Thứ nhất, trong những thập kỷ gần đây vấn đề bảo vệ môi trường đã trở thành một trong những vấn đề của thời đại được các quốc gia và cộng đồng quốc tế đặc biệt chú trọng. Đã có nhiều giải pháp mang tính tổng thể ở phạm vi quốc tế đã được đưa ra. Năm 1992 Liên hợp quốc đã thông qua "Công ước về bảo vệ môi trường", "Tuyên ngôn của trái đất" và "Môi trường trong thế kỷ XXI". Cùng với xu thế chung của nhân loại, Việt Nam ngày càng coi trọng hơn sự nghiệp bảo vệ môi trường, đã và đang thực hiện nhiều giải pháp khác nhau, vừa mang tính chiến lược vừa mang tính cụ thể để bảo vệ môi trường có hiệu quả hơn. Đặc biệt hiện nay, nước ta đang trong thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang phát triển mạnh mẽ và đầy triển vọng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhưng đi kèm với những thành tựu đó lại phát sinh một vấn nạn rất đáng báo động có thể ảnh hưởng lớn đến sự phát triển ổn định bền vững của đời sống kinh tế - xã hội nước ta, đó là nạn ô nhiễm môi trường. Vấn đề bảo vệ môi trường đã được Nhà nước quan tâm. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã ý thức ý nghĩa, tầm quan trọng đặc biệt của việc bảo vệ môi trường và do vậy đã ghi nhận điều đó ở Hiến pháp năm 1992 của nước ta (Điều 29) đã quy định rõ: Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, mọi cá nhân phải thực hiện các quy định của Nhà nước về sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Nghiêm cấm mọi hành động làm suy kiệt tài nguyên và huỷ hoại môi trường [27]. Trên cơ sở quy định hiến định đó, Nhà nước ta đã ban hành nhiều loại văn bản quy phạm pháp luật khác nhau để ngăn chặn, phòng chống, xử lý triệt để các hành vi xâm hại đến môi trường. Trong số các biện pháp pháp lý được sử dụng để bảo vệ môi trường có biện pháp pháp lý hình sự. Trong Bộ luật
  • 21. 15 Hình sự năm 1999 của nước ta, lần đầu tiên nhà lập pháp nước ta đã xây dựng một chương riêng - Chương XVII: Các tội phạm về môi trường. Điều đó thể hiện sự phát triển của tư duy pháp lý hình sự trong việc phòng chống các hành vi nguy hiểm xâm phạm môi trường ở nước ta. Trong thời đại ngày nay, do sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học và công nghệ và sự tác động tiêu cực của nó đến chất lượng của môi trường, ở nước ta cũng như ở các nước trên thế giới đã và đang đặt ra vấn đề về khả năng và giới hạn của việc bảo vệ môi trường bằng các biện pháp pháp lý hình sự. Vấn đề đó đã trở thành các chủ đề được thảo luận ở các hội nghị khoa học quốc tế. Ở nước ta, trong quá trình soạn thảo Bộ luật Hình sự năm 1999, cũng như Luật sửa đổi một số điều của Bộ luật Hình sự năm 1999 việc quy định các tội phạm về môi trường cũng là một chủ đề gây tranh luận rất nhiều trên nhiều phương diện. Song nhìn chung có thể khẳng định rằng, các biện pháp pháp lý hình sự ngày càng được sử dụng nhiều hơn để bảo vệ môi trường và điều đó nói lên vai trò to lớn của pháp luật hình sự trong việc bảo vệ môi trường. Thø hai, việc bảo vệ môi trường bằng các biện pháp pháp lý hình sự chính là việc tội phạm hoá các hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm môi trường. Phạm vi của việc bảo vệ môi trường bằng các biện pháp pháp lý hình sự và hiệu quả của việc bảo vệ đó ở một mức độ rất lớn tuỳ thuộc vào việc tội phạm hoá các hành vi nguy hiểm xâm phạm lĩnh vực nói trên. Do vậy, cần phải xem xét một cách kỹ lưỡng, đầy đủ các nhân tố quyết định mức độ, tính chất và các phương thức của việc tội phạm hoá các hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm môi trường. Sự cần thiết khách quan của việc tội phạm hoá các hành vi nguy hiểm, cho xã hội xâm phạm môi trường, trước hết, được quyết định bởi tính nguy hiểm ngày càng cao của các hành vi xâm hại lĩnh vực môi trường và sự thay đổi trong tính chất của tính nguy hiểm của các hành vi xâm hại đó. Trong điều
  • 22. 16 kiện phát triển của khoa học và công nghệ xã hội loài người phải đối đầu với sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên ngày càng tăng lên nhanh chóng, với sự ô nhiễm không khí, nước và đất rất có hại cho sức khoẻ và đời sống của con người, với sự tuyệt chủng của nhiều loại động vật và thực vật. Trong những điều kiện như vậy, thiệt hại gây ra cho môi trường có những thuộc tính (tính chất) mới thể hiện ở chỗ: thiệt hại đó mang nhiều khía cạnh hơn, tức là làm thương tổn đến những yếu tố khác nhau của môi trường và làm rối loạn các chức năng khác nhau của môi trường trong đời sống xã hội, thiệt hại đó không thể phục hồi được bằng các lực lượng thiên nhiên hoặc bằng hoạt động của con người và cuối cùng thiệt hại đó có thể đe doạ các giá trị xã hội quan trong nhất, cả chính sự phồn vinh và sự tồn tại của thế hệ hôm nay và của các thế hệ trong tương lai. Nếu như đối với thiên nhiên chỉ có quan hệ mang tính chất tiêu thụ, hám lợi mà không có tính chất bảo vệ, thì trong điều kiện hiện nay cái đó có nghĩa là hoạt động phá hoại xã hội, là tội phạm chống đối tính mạng và sức khoẻ của các thế hệ hôm nay và các thế hệ trong tương lai. Xuất phát từ nhận thức như vậy, các nhà làm luật nước ta đã sử dụng các biện pháp hình sự để đấu tranh với các hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm môi trường. Đương nhiên, cần phải khẳng định rằng để xảy ra cuộc khủng hoảng sinh thái lỗi không phải là do cách mạng khoa học và công nghệ mà là do các mâu thuẫn xã hội nảy sinh trong quá trình phát triển xã hội chưa được giải quyết một cách thoả đáng, hợp lý. Chính cách mạng khoa học và công nghệ đưa ra chiếc chìa khoá cho việc giải quyết những vấn đề sinh thái: công nghệ xử lý nước thải, các phương tiện chống ô nhiễm không khí... Song, chừng nào các mâu thuẫn đó đang còn tồn tại thì cuộc đấu tranh với các hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm hại môi trường cần phải được tiến hành bằng cả các biện pháp pháp lý hình sự.
  • 23. 17 Thø ba, việc tội phạm hoá các hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm môi trường được xác định bởi cả những nhân tố đòi hỏi chính trị thuộc cả chính sách đối nội lẫn chính sách đối ngoại của Nhà nước ta. Xét về chính sách đối nội, pháp luật hình sự được coi như là một trong những biện pháp để thực hiện chức năng bảo vệ môi trường với tư cách là một trong những chức năng độc lập của Nhà nước ta. Trong quan hệ chính trị, việc khẳng định và đề cao chức năng đó thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trước nhân dân về việc bảo đảm sự bình yên về sinh thái cho cuộc sống của các thế hệ hiện nay và mai sau. Việc thừa nhận quyền được sống trong môi trường trong lành của công dân gắn rất chặt với việc tồn tại và thực hiện chức năng đó. Như vậy, việc bảo vệ môi trường trong lành của công dân gắn rất chặt với việc tồn tại và thực hiện chức năng đó. Do đó, việc bảo vệ môi trường bằng pháp luật hình sự không chỉ là phương tiện để thực hiện chiến lược, chương trình, chính sách bảo vệ môi trường quốc gia mà còn là một trong những đảm bảo cho việc thực hiện quyền sống trong môi trường trong lành của công dân. Và chính điều này làm cơ sở cho các nhà làm luật nước ta tội phạm hoá các hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm đến môi trường. Xét về quan hệ đối ngoại, pháp luật hình sự nước ta là phương tiện để thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường được quy định trong các công ước và văn bản quốc tế khác mà Việt Nam tham gia. Các công ước quốc tế đó buộc các quốc gia ký kết, trong đó có nước ta, quy định và áp dụng các biện pháp trách nhiệm hình sự đối với các hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm môi trường. Có một số công ước và văn bản quốc tế quy định trách nhiệm hình sự đối với các hành vi xâm phạm môi trường nhất định. Theo các công ước và các văn bản quốc tế đó trong Bộ luật Hình sự năm 1985 trước đây của nước ta, Bộ luật Hình sự năm 1999 và trong Luật sửa đổi một số điều của Bộ luật Hình sự năm 1999 vµ c¶ LuËt h×nh sù söa ®æi hiÖn nay đã có nhiều quy phạm pháp luật tương ứng. Có thể khẳng định rằng trong quá trình
  • 24. 18 phát triển sự hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường số lượng các quy phạm quy định các tội phạm về môi trường ngày càng tăng lên. Do vậy, sự phát triển mang tính nguyên tắc được thể hiện trong việc soạn thảo và áp dụng các công ước và bộ luật mang tính khu vực lẫn mang tính quốc tế đã trở thành mô hình cho việc xây dựng pháp luật quốc gia về bảo vệ môi trường. Trong quá trình quy định tội danh các hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm môi trường cần phải cân nhắc vai trò và vị trí của pháp luật hình sự trong hệ thống các biện pháp bảo vệ môi trường. Và điều đó đã được nhà lập pháp chúng ta nhận thức tương đối đầy đủ trong quá trình xây dựng các tội phạm về môi trường khi ban hành Bộ luật Hình sự. Ở đây cần phải nhận thấy rằng pháp luật hình sự không phải là biện pháp chính, cơ bản để bảo vệ môi trường. Trong sự nghiệp bảo vệ môi trường thì pháp luật h×nh sự có khả năng mang tính hạn chế khách quan. Thứ nhất, pháp luật hình sự không có khả năng khắc phục được nguyên nhân của các hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm môi trường; thứ hai, các đặc điểm của phương pháp điều chỉnh của luật hình sự (phương pháp giáo dục - trừng trị) tự mình hạn chế lĩnh vực áp dụng của pháp luật hình sự. Cần phải nhận thức sâu sắc và nhÊn mạnh điều đó, bởi vì việc không đánh giá hết khả năng của luật hình sự trong lĩnh vực đó có thể gây ra những thiệt hại là: trông cậy vào sức mạnh vô hạn của sự trừng trị mà có thể bỏ qua các biện pháp khác có hiệu quả hơn để bảo vệ môi trường. Với tư cách là một biện pháp của việc bảo vệ đó, luật hình sự, tuy vậy đóng vai trò phòng ngừa và giáo dục trong cuộc đấu tranh với các hành vi nguy hiểm nhất cho xã hội xâm phạm môi trường. Do đó, nó chiếm một vị trí nhất định trong hệ thống các biện pháp của Nhà nước và của xã hội nhằm sử dụng hợp lý, bảo vệ và cải thiện môi trường. Ở nước ta, hệ thống các biện pháp đó bao gồm:
  • 25. 19 1. Các biện pháp mang tính chính trị, bao gồm cơ bản là việc xác định các phương hướng cơ bản của chiến lược bảo vệ môi trường; 2. Các biện pháp mang tính kinh tế, bao gồm việc tạo ra các đòn bẩy và kích thích về mặt kinh tế cho việc sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, cũng như quy định các chế tài kinh tế đối với việc thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực đó; 3. Các biện pháp mang tính kỹ thuật, bao gồm việc soạn thảo và thực hiện các biện pháp kỹ thuật và công nghệ để bảo vệ môi trường; 4. Các biện pháp mang tính tổ chức; bao gồm việc xây dựng hệ thống các cơ quan quản lý việc bảo vệ môi trường, trong đó có hệ thống các cơ quan thanh tra môi trường. 5. Các biện pháp mang tính pháp lý, bao gồm việc xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường; 6. Các biện pháp mang tính giáo dục, bao gồm việc giáo dục môi trường và giáo dục cho mọi tầng lớp dân cư về pháp luật môi trường từ trẻ em cho đến các nhà doanh nghiệp. Hệ thống các biện pháp đó tạo ra cơ sở rất tốt cho việc phòng ngừa các hành vi vi phạm pháp luật xâm phạm môi trường và tạo ra "cái nền’ cần thiết cho việc tội phạm hoá một cách có căn cứ những hành vi nguy hiểm nhất cho xã hội trong số những hành vi xâm phạm môi trường. Đồng thời, các vi phạm trong các yếu tố này hay các yếu tố khác của hệ thống đó đều có thể làm giảm một cách cơ bản hiệu quả của các biện pháp pháp lý hình sự trong đấu tranh với các hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm môi trường. Ở đây cần phải nhận thức rằng tính nhất quán không đầy đủ và tính thoả hiệp, nhượng bộ của việc tuân thủ các quy phạm pháp luật trong lĩnh vực sử dụng tài nguyên thiên nhiên của cơ chế kinh tế điều chỉnh hoạt động bảo vệ môi trường, do sự thiếu vắng một hệ thống các kích thích và chế tài kinh tế được lập luận đầy đủ nhằm bảo đảm cho việc tuân thủ các quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
  • 26. 20 Thứ tư, việc tội phạm hoá các hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm môi trường đã ghi nhận trong Bộ luật Hình sự ở một chừng mực rất lớn được quyết định bởi trạng thái và sự phát triển của các ngành pháp luật khác, trước hết là luật hiến pháp và luật môi trường. Việc tội phạm hoá các hành vi đó đã xuất phát từ các tư tưởng, nguyên tắc, yêu cầu đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992 về bảo vệ môi trường, như ý nghĩa của việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường đối với lợi ích của các thế hệ hôm nay và mai sau: cần phải bảo vệ tất cả các yếu tố của môi trường bằng tổng thể các biện pháp khác nhau; nghĩa vụ của cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và mọi cá nhân trong việc bảo vệ môi trường và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên; xử lý thích đáng các hành động làm suy kiệt tài nguyên và huỷ hoại môi trường. Những tư tưởng, nguyên tắc, yêu cầu đó được thể hiện tập trung ở Điều 29 và ở nội dung các điều khác của Hiến pháp năm 1992 của nước ta. Trong các quy phạm của pháp luật về môi trường quy định rất cụ thể nghĩa vụ của những người sử dụng tài nguyên thiên nhiên, quy định việc cấm thực hiện hành vi có hại cho môi trường, cấm tiến hành các hoạt động kinh tế có tác động có hại đối với môi trường. Việc vi phạm các quy định đó trong những điều kiện nhất định phải bị xử lý bằng trách nhiệm hình sự. Bởi vì có nhiều quy phạm pháp luật hình sự được ban hành để bảo vệ môi trường được xây dựng theo dạng quy phạm việc dẫn đến pháp luật về môi trường, do đó khi có sự thay đổi trong pháp luật về môi trường thì khối lượng của việc tội phạm hoá hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được xác định trước đó có thể bị thay đổi. Ngoài ra, trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật hình sự còn chỉ ra một cách trực tiếp trách nhiệm hình sự đối với việc vi phạm các quy định của pháp luật môi trường. Trong thời gian gần đây, do sự tác động của những thay đổi diễn ra trong đời sống xã hội ở nước ta mà pháp luật về môi trường đã có những thay đổi rất cơ bản. Nhà nước ta đã xây dựng và ban hành nhiều văn bản quy phạm
  • 27. 21 pháp luật nhằm sử dụng hợp lý và bảo vệ có hiệu quả hơn môi trường nói chung và các yếu tố cụ thể của môi trường như đất, nước, rừng… Đồng thời, Nhà nước ta cũng đã ban hành một loạt các văn bản quy phạm pháp luật quy định trách nhiệm hành chính đối với các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Ví du, đó là các hành vi vi phạm hành chính được quy định ở các Nghị định của Chính phủ như: Nghị định số 117/2009/N§-CP ngày 31/12/2009 về xử phạt các vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường; Nghị định số 31/2010/N§-CP ngày 29/3/2010 về xử phạt các vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản; Nghị định số 159/2007/N§-CP ngày 30/10/2007 về xử phạt các vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản; Nghị định số 105/2009/N§-CP ngày 11/11/2009 về xử phạt các vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý, sử dụng đất đai v.v… Một mặt, các quy định đó tạo ra khả năng đấu tranh với các hành vi xâm hại môi trường bằng các biện pháp pháp lý nhẹ hơn các biện pháp pháp lý hình sự. Nhưng mặt khác, việc đó cũng đòi hỏi phải xác định những tiêu chuẩn rõ ràng để phân biệt các hành vi vi phạm hành chính với các tội phạm về môi trường, tức là các tiêu chuẩn chuyên ngành của việc tội phạm hoá. Điều đó ở mức độ nhất định đã được thể hiện ở Chương XVII của Bộ luật Hình sự năm 1999 và trong Luật sửa đổi một số điều của Bộ luật Hình sự năm 1999 hiện nay. Thø n¨m, khi tội phạm hoá các hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm môi trường, nhà làm luật nước ta đã cân nhắc cả các nhân tố tội phạm học như; thực trạng, cơ cấu và diễn biến của các hành vi xâm hại trong lĩnh vực đó. Việc nghiên cứu thực tiễn cho thấy rằng các hành vi xâm hại môi trường là một trong những loại hành vi xảy ra phổ biến nhất ở nước ta hiện nay và các thiệt hại do các hành vi đó gây ra có chiều hướng ngày càng trở nên nghiêm trọng.
  • 28. 22 Về mặt truyền thống, người ta liệt kê vào nhóm các tội phạm về môi trường các loại hành vi săn bắt trái phép khác nhau như: săn bắt trái phép động vật hoang dã quý hiếm; đánh bắt cá trái phép; săn bắt trái phép trong rừng. Nhưng trong quá trình phát triển của xã hội cùng với tác động của tiến bộ khoa học cùng với tác động của tiến bộ khoa học công nghệ đã xuất hiện nhiều loại hành vi nguy hại mới xâm hại các yếu tố cụ thể của môi trường như không khí, nước, đất rừng... Và ngay cả những người thực hiện các loại hành vi săn bắt trái phép nói trên cũng sử dụng ngày càng nhiều hơn các công cụ, phương tiện gây tác hại lớn cho môi trường. Đồng thời tính chất nghiêm trọng của các thiệt hại do các hành vi xâm phạm môi trường gây ra ngày càng chuyển dịch và sang hướng gây ô nhiễm không khí, nước, đất do tiến hành các hoạt động kinh tế nhất định (nói một cách chính xác hơn là tiến hành những hoạt động phi kinh tế). Nhà làm luật nước ta nhận thức sâu sắc và chỉ rõ rằng vấn đề đấu tranh với các hành vi gây ô nhiễm môi trường bằng các biệnp pháp của pháp luật hình sự cần phải trở thành một trong những vấn đề trung tâm trong lĩnh vực phòng ngừa các hậu quả có hại của quá trình tiến bộ khoa học và công nghệ. Thứ sáu, hiệu quả của việc tội phạm hoá các hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm hại cho môi trường tuỳ thuộc không nhỏ vào trạng thái ý thức pháp luật về lĩnh vực đó. Việc toàn dân thảo luận Hiến pháp năm 1992 trước đây và thảo luận việc sửa đổi một số điều của Hiến pháp năm 1992 vừa qua, cũng như thảo luận Luật Bảo vệ Môi trường năm 2005 và các văn bản quy phạm pháp luật khác liên quan đến việc bảo vệ môi trường và Bộ luật Hình sự năm 1999 trong thời gian qua cho thấy phần lớn nhân dân ta đều đỏi hỏi phải tăng cường việc bảo vệ môi trường, trong đó có việc tăng cường bảo vệ môi trường bằng các biện pháp pháp lý hình sự. Đồng thời hiện nay trong ý thức thông thường của dân cư và cả của một số cán bộ hoạt động trong lĩnh vực kinh tế có quan niệm mang tính phổ
  • 29. 23 biến về "tính vô chủ", "việc sử dụng không phải trả tiền’ và "tính vô tận" của tài nguyên thiên nhiên có thể tạo ra những lực cản cả cho việc tuân thủ lẫn việc áp dụng pháp luật hình sự. Việc tội phạm hoá các hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm môi trường như được thể hiện trong Bộ luật Hình sự năm 1999 có thể đóng vai trò nhất định của mình trong việc giáo dục ý thức pháp luật trong lĩnh vực quan hệ xã hội đó. Thứ bảy, việc tội phạm hoá các hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm môi trường được nhà làm luật nước ta thực hiện đã cân nhắc cả các quy luật sinh thái chẳng hạn quy luật: môi trường là một hệ thống thống nhất, tất cả các yếu tố của môi trường có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Việc xâm phạm đến một trong những yếu tố của môi trường có thể gây tác hại đến hoạt động của toàn bộ hệ thống,do vậy một mắt xích nào đó của hệ thống đó không được bảo vệ thì điều đó có thể đe doạ toàn bộ hệ thống. Những yếu tố môi trường như không khí, biển và sông, các loài chim di cư theo mùa các loài cá di cư và các loài động vật di cư không có giới hạn hành chính và ngay cả cũng không có biên giới quốc gia, mà một số loài trong đó nói chung ở ngoài chủ quyền quốc gia (ở ngoài biển khơi…) Và điều đó đòi hỏi phải có cách bảo vệ môi trường mang tính thống nhất cao bằng các biện pháp pháp luật hình sự của các quốc gia. Cuối cùng, bằng cách biện pháp của mình pháp luật hình sự bảo đảm việc tuân thủ các tiêu chuẩn về chất lượng của môi trường đã được soạn thảo trên cơ sở nghiên cứu các quy luật sinh thái. Thứ tám, các nhu cầu khách quan của xã hội và các điều kiện của việc tội phạm hoá các hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm môi trường đã được nhà làm luật "chuyển tải một cách đúng đắn ngôn ngữ của luật hình sự" để thực hiện được điều đó việc tội phạm hoá đã đáp ứng các đòi hỏi và quy tắc pháp lý nhất định của kỹ thuật lËp pháp. Việc tuân thủ các đòi hỏi và quy tắc đó là nhằm khắc phục cả những chỗ hổng lẫn những điều "dư thừa" trong việc bảo vệ môi trường bằng các biện pháp pháp lý hình sự; phân biệt một
  • 30. 24 cách rõ ràng các tội phạm về môi trường với các vi phạm hành chính và kỷ luật trong lĩnh vực môi trường; bảo đảm việc không thoát khỏi áp dụng các biện pháp tác động pháp lý hình sự đối với tất cả các tội phạm về môi trường đã thực hiện và được làm rõ, tuân thủ "chế độ tiết kiệm" trừng trị bằng hình sự, việc phân hoá trách nhiệm hình sự tuỳ thuộc vào tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi và các đặc điểm của nhân thân người phạm tội. Trong quá trình soạn thảo Bộ luật Hình sự năm 1999, dựa vào việc nghiên cứu các quy định của Bộ luật Hình sự năm 1985 về các tội phạm liên quan đến môi trường và thực tiễn áp dụng các quy định đó và các đòi hỏi của Hiến pháp năm 1992 đối với việc bảo vệ môi trường, người ta đã chỉ rõ những hạn chế nhất định của việc tội phạm hoá các hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm ph¹m môi trường. Những người làm công tác nghiên cứu và thực tiễn đều thống nhất thừa nhận rằng có quá nhiều chỗ hổng trong Bộ luật Hình sự năm 1985 trong việc tội phạm hoá các hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm môi trường. Có một số lượng lớn các hành vi vi phạm đòi hỏi của pháp luật môi trường, đặc biệt các vi phạm xảy ra trong quá trình hoạt động kinh tế, trong xây dựng, trong hoạt động của các nhà máy… không bị xử lý bằng trách nhiệm pháp luật. Do vậy, có rất nhiều kiến nghị về việc tội phạm hoá các hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm môi trường được đưa ra và nhiều kiến nghị đã được nhà lập pháp nước ta chấp nhận. Điều đó thể hiện rõ ở chương XVII của Bộ luật Hình sự năm 1999 và Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự. Khi chúng ta nói về việc hoàn thiện pháp luật hình sự về bảo vệ môi trường, thì thông thường chúng ta nói về việc mở rộng khối lượng của việc bảo vệ đó, về việc quy định các cấu thành tội phạm mới xâm phạm môi trường. Và đương nhiên các chỗ hổng đã được phát hiện cần phải được khắc phục. Tuy vậy, cũng cần phải khắc phục cả những điều dư thừa của việc tội phạm hoá.
  • 31. 25 Ở đây cần phải nhận thấy rằng việc mở rộng ở mức độ nào đó của nhóm các khách thể thiên nhiên cần phải được bảo vệ bằng các biện pháp pháp lý hình sự không hoàn toàn đồng nghĩa và cần phải mở rộng lĩnh vực trách nhiệm hình sự trong lĩnh vực đó, bởi lẽ nhóm các hành vi chịu sự tác động của các quy phạm pháp luật hình sự có thể thu hẹp bằng việc chuyển một số hành vi phạm tội có tính nguy hiểm không lớn cho xã hội sang phạm trù vi phạm hành chính trong lĩnh vực đó, bằng việc xác định phạm vi rõ ràng hơn và nhỏ hơn của trách nhiệm hình sự. Sự cần thiết mang tính tất yếu của việc hoàn thiện pháp luật hình sự về bảo vệ môi trường như đã được thể hiện trong Bộ luật Hình sự năm 1999 và Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự được quyết định bởi nhiều nguyên nhân khác nhau. Thứ nhất, pháp luật hình sự về bảo vệ môi trường cần phải được hoàn thiện để đáp ứng các yêu cầu, đòi hỏi, nguyên tắc mang tính hiến định về bảo vệ môi trường như nói ở trên. Thứ hai, Bộ luật Hình sự năm 1985, sau bốn lần được sửa đổi, bổ sung, nhưng không có lần nào có sửa đổi, bổ sung liên quan đến các tội phạm liên quan đến môi trường, các quy định về nhóm tội phạm đó trong Bộ luật Hình sự năm 1985 lạc hậu so với các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường đã được ban hành trong những năm gần đây. Thứ ba, trong thời hạn 15 năm có hiệu lực của Bộ luật Hình sự năm 1985, nhiều thiếu sót của các quy định về các tội phạm liên quan đến môi trường đã được chỉ rõ, đặc biệt là có nhiều chỗ hổng trong việc bảo vệ các khách thể môi trường cụ thể. Việc xây dựng Chương XVII: Các tội phạm về môi trường trong Bộ luật Hình sự năm 1999 đã khắc phục cơ bản sự không hoàn thiện của pháp luật hình sự trước đây trong việc bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, sau hơn 10 năm thi hành Bộ luật Hình sự năm 1999 đã bộc lộ nhiều hạn chế trong việc áp dụng các qui định về tội phạm môi trường. Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hỡnh sự năm 1999 đã phần nào khắc phục những hạn chế này.
  • 32. 26 Xuất phát từ tầm quan trọng của nhóm khách thể của các tội phạm về môi trường cần được bảo vệ, trong Bộ luật Hình sự năm 1999, nhóm các tội phạm về môi trường được xây dựng thành một chương riêng và đứng ở vị trí sau chương các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. Tên gọi của nhóm tội phạm đó và vị trí của chúng trong Bộ luật Hình sự năm 1999 được xác định như vậy là có cơ sở khoa học. bởi lẽ việc quy định như vậy: 1. phù hợp với việc nhận thức về môi trường với tư cách là một tổ hợp thống nhất, một hệ thống thống nhất, tất cả các yếu tố của nó có mối liên hệ chặt chẽ với nhau: 2. phản ánh được tính nguy hiểm cao cho xã hội của các hành vi xâm hại đến môi trường của các hành vi xâm hại đến môi trường trong điều kiện của cách mạng khoa học, công nghệ, bởi lẽ hiện nay tính nguy hiểm cho xã hội cao cho xã hội của hành vi đó không chỉ thể hiện ở việc đe doạ sở hữu, hoặc lợi ích kinh tế, hoặc sức khoẻ của cư dân, mà là đe doạ chính sự tồn tại và hoạt động sống của xã hội loài người, của các thế hệ hôm nay và mai sau: 3. Xuất phát từ sự hiện có và tồn tại của khách thể loại thống nhất của các tội phạm về môi trường. Đó là các quan hệ xã hội trong việc sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường với tư cách là cơ sở của sự tồn tại và của hoạt động sống của xã hội loài người. 4. Cho phép tránh được sự không hài hoà, thống nhất giữa các quy phạm pháp luật hình sự, sự không thống nhất trong các tiêu chuẩn của việc tội phạm hoá. Các cấu thành tội phạm về môi trường trong Bộ luật Hình sự năm 1999 được xây dựng theo kiểu quy phạm việc dẫn như: vi phạm pháp luật về, trái pháp luật. Điều đó được luận giải rằng pháp luật hình sự đóng vai trò phục vụ, vai trò bảo vệ trong mối quan hệ với pháp luật điều chỉnh việc sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường, quy định trách nhiệm hình sự chỉ đối với những trường hợp vi phạm nguy hiểm nhất đến pháp luật đó. Ngoài ra, trong trường hợp các cấu thành tội phạm của nhóm tội phạm này được xây dựng theo dạng cấu thành vật chất, tức là gây ra những thiệt hại nghiêm trọng trở lên đối với các khách thể tự nhiên cụ thể: không khí, nước đất…
  • 33. 27 Nhà làm luật nước ta, đã nhận thức rằng đối tượng bị các tội phạm về môi trường xâm hại là tất cả các yếu tố của môi trường, các nguồn tài nguyên nhiên nhiên thuộc chủ quyền của nước ta do các công ước quốc tế quy định (thềm lục địa) hoặc các vùng có chế độ riêng (các nguồn sống của vùng đặc quyền kinh tế). Các yếu tố nói trên cần phải được bảo vệ bằng các biện pháp pháp lý hình sự khỏi các hành vi nguy hiểm gây thiệt hại cho chúng. Thứ chín, cùng với việc mở rộng nhóm các khách thể tự nhiên được bảo vệ bằng các biện pháp pháp lý hình sự và nhóm các hành vi bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nhà làm luật đã xác định rõ các điều kiện, tiêu chuẩn của việc tội phạm hoá loại hành vi nói trên. Chúng tôi cho rằng các điều kiện (tiêu chuẩn) đó có thể được nhận thức và phân thành năm nhóm sau: - Các tiêu chuẩn của việc tội phạm hoá liên quan đến hậu quả. Phần lớn các cấu thành tội phạm phải được xây dựng theo loại cấu thành vật chất, tức là quy định dấu hiệu gây hậu quả thực tế cho môi trường. Trong những trường hợp khó thể hiện tính thiệt hại đó bằng số lượng thì cần phải (hoặc mới) sử dụng các khái niệm đánh giá: gây hậu quả nghiêm trọng, gây hậu quả rất nghiêm trọng, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Trong một số trường hợp tính chất của thiệt hại được xác định bằng các thuộc tính đặc biệt của đối tượng bị xâm hại; động vật hoang dã quý hiếm thuộc sách đỏ, khu bảo tồn thiên nhiên. - Với mục đích thu hẹp phạm vi trách nhiệm hình sự nhà làm luật đã sử dụng các tiêu chuẩn tội phạm hoá đề cập đến tính chất của chính hành vi. Đó là các dấu hiệu như phương thức công cụ và phương tiện thực hiện hành vi. - Nhà làm luật cũng đã sử dụng cả các tiêu chuẩn đề cập đến tình huống thực hiện sự xâm hại đến môi trường. Đó là các dấu hiệu như địa điểm, thời gian và hoàn cảnh của sự xâm hại đó. - Trong một số trưòng hợp để thu hẹp phạm vi của trách nhiệm hình sự nhà làm luật đã sử dụng các dấu hiệu về nhân thân người vi phạm, tính nguy
  • 34. 28 hiểm cao của người đó; đã bị xử phạt hành chính mà cố tình vi phạm. Điều đó phù hợp với nhận thức về việc sử dụng trách nhiệm hình sự với tư cách là biện pháp cuối cùng được áp dụng khi các biện pháp tác động khác không có hiệu quả. Về nguyên tắc các tiêu chuẩn nói trên đã được sử dụng với sự thể hiện có cường độ cao hơn để xây dựng các cấu thành tăng nặng. Trong tổng thể các hướng tội phạm hoá nói trên đều nhằm đảm bảo sự bảo vệ tương ứng môi trường bằng các biện pháp pháp lý hình sự với việc cân nhắc tối đa ở đó các hậu quả của quá trình tội phạm hoá các hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm môi trường [39, tr. 3-13]. 1.4. Sự hình thành các qui định về tội phạm môi trường trong luật hình sự Việt Nam Công tác bảo vệ môi trường đã được Đảng, Nhà nước và Quốc hội rất quan tâm, nhiều chủ trương, chính sách đã đề ra và được thực hiện như: Chỉ thị số 7/TTg ngày 16/01/1964 về việc thu tiền bán khoáng lâm sản và chi tiền nuôi rừng; Nghị quyết số 183/CP ngày 25/9/1966 về công tác trồng cây gây rừng và đặc biệt là Pháp lệnh qui định bảo vệ rừng ngày 11/9/1972. Điều đáng chú ý nhất trong giai đoạn này là việc bảo vệ môi trường là đòi hỏi Hiến định. Điều 36, Hiến pháp 1980 quy định: "Các cơ quan Nhà nước, xí nghiệp, hợp tác xã, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân đều có nghĩa vụ thực hiện chính sách bảo vệ, cải tạo và tái sinh các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và cải tạo môi trường". Quy định này, đã đặt cơ sở pháp lý quan trọng và cơ bản nhất cho sự điều chỉnh của pháp luật đối với việc bảo vệ môi trường thiên nhiên và những yếu tố bao quanh nó. Song, từ năm 1980 đến 1992 việc ban hành các văn bản pháp luật để làm cơ sở cho công tác bảo vệ môi trường vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Công tác quản lý, sử dụng, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường trên thực tế gần như bị buông lỏng.
  • 35. 29 Trước tình hình trên, Đại hội Đảng VII (1991) thấy rõ ảnh hưởng và tác dụng to lớn của môi trường đối với con người và sự phát triển bền vững của đất nước, ý thức bảo vệ môi trường mới được nhận thức khá đầy đủ thông qua việc quy định nghĩa vụ và trách nhiệm của các thành viên trong xã hội trong việc bảo vệ môi trường. Điều 29 Hiến pháp 1992 quy định: "Các tổ chức, cá nhân, phải thực hiện các qui định của Nhà nước về sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường", Điều 29 Hiến pháp còn "Nghiêm cấm mọi hành động làm suy kiệt tài nguyên và huỷ hoại môi trường". Với quy định trên cho thấy, Hiến pháp 1992 đã thể hiện rõ thái độ của Đảng, Nhà nước và Quốc hội trước những thách thức của môi trường thông qua việc xác định trách nhiệm pháp lý của các thành viên trong xã hội đối với công tác bảo vệ môi trường. Để cụ thể hoá Hiến pháp 1992, lần lượt các văn bản pháp luật được Quốc hội thông qua như: Luật Bảo vệ môi trường; Luật tài nguyên nước; Bộ luật Hình sự; Bộ luật Dân sự; Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính và nhiều văn bản dưới luật hướng dẫn thực hiện trong lĩnh vực môi trường và gần đây nhất là Nghị quyết 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trên cơ sở các quan điểm, chủ trương của Đảng về công tác bảo vệ môi trường, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 256/2003/QĐ-TTg, ngày 02/12/2003 phê duyệt Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg, ngày 17/8/2004 ban hành định hướng Chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam) và mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 34/2005/QĐ-TTg ngày 02/02/2005 ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 41-NQ/TW. Có thể nói, giai đoạn này đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống pháp luật về môi trường ở nước ta. Số lượng các văn bản pháp luật về lĩnh vực này được ban hành ngày một nhiều hơn, các quy định cũng đã tập trung hơn tạo nên một hệ
  • 36. 30 thống pháp luật ngày một thống nhất và đồng bộ. Điều này đã góp phần tích cực, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong công tác bảo vệ môi trường. 1.4.1. Các quy định về tội phạm môi trường trong Bộ luật Hình sự 1985 Đi liền với quá trình phát triển của nền kinh tế - xã hội, vấn đề ô nhiễm, suy thoái môi trường ngày càng tăng, quá trình đô thị hoá; sự sử dụng rộng rãi các loại hoá chất, thuốc bảo vệ thực vật; nạn phá rừng tràn lan đã làm mất cân bằng sinh thái nghiêm trọng, rừng bị chặt phá đã không giữ được nước đầu nguồn gây nên nhiều trận lũ lụt, đất đai bị xói mòn, bạc màu; công nghiệp phát triển làm cho ngày càng có nhiều chất thải độc hại; tầng ôzôn bị thủng đã làm cho nhiệt độ trái đất nóng lên... đã làm cho vấn đề bảo vệ môi trường trở thành thách thức lớn của xã hội, thiên nhiên đã trả thù con người bằng những trận bão, lũ tàn khốc, khí hậu có nhiều biến đổi thất thường trên toàn thế giới. Để đảm bảo cho sự ổn định, phát triển bền vững của đất nước, trên cơ sở Hiến định, một số hành vi xâm hại đến các yếu tố của môi trường gây hậu quả nghiêm trọng được coi là tội phạm và cá nhân vi phạm sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự đã được đưa vào trong Bộ luật Hình sự 1985. Việc hình sự hoá những hành vi nguy hiểm xâm hại đến môi trường là thể hiện sự nhận thức đúng đắn của Đảng, Nhà nước về những hậu quả do việc môi trường bị suy thoái, ô nhiễm gây ra, thể hiện thái độ kiên quyết của Nhà nước trong việc đấu tranh với các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, theo đó, những cá nhân thực hiện những hành vi vi phạm pháp luật về môi trường, gây ra hậu quả nghiêm trọng sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự, trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất của Nhà nước. Một số tội phạm cụ thể về môi trường được ghi nhận trong Bộ luật, tại Chương VII "Các tội phạm về kinh tế" và Chương VIII "Các tội xâm phạm an toàn, trật tự công cộng và trật tự quản lí hành chính", đó là: Điều 180. Tội vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ
  • 37. 31 đất đai; Điều 181. Tội vi phạm và quản lý các quy định về quản lý và bảo vệ rừng; Điều 195. Tội vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường gây hậu quả nghiêm trọng; Điều 216. Tội vi phạm về bảo vệ và sử dụng các di tích lịch sử, văn hoá, danh lam, thắng cảnh gây hậu quả nghiêm trọng. Cùng với các quy định trong các lĩnh vực chuyên ngành pháp luật về đất đai, tài nguyên thiên nhiên, về quản lý và bảo vệ các thành tố khác nhau của môi trường... Các quy định của pháp luật hình sự, đã góp phần đáng kể trong việc răn đe và trừng trị các tội phạm xâm hại môi trường, góp phần nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường nói chung, đấu tranh phòng, chống các tội phạm về môi trường nói riêng. Tuy nhiên, do những biến đổi của tình hình kinh tế - xã hội của đất nước và yªu cầu của công tác đấu tranh phòng, chống các tội phạm về môi trường nên các điều luật qui định về tội phạm môi trường trong Bộ luật Hình sự 1985 đã bộc lộ một số nhược điểm nhất định, cụ thể như: - Các điều luật nói trên qui định khá chung chung, phạm vi rộng gây khó khăn cho việc hiểu và áp dụng đúng đắn pháp luật; các hành vi xâm hại môi trường chưa được hệ thống hóa quy định ở một chương riêng biệt, mà chỉ được đề cập bằng một số điều luật nằm rải rác ở các chương khác nhau; - Chưa có sự đánh giá phù hợp về tính chất và mức độ gây thiệt hại cho xã hội của một hành vi đồng thời xâm hại đến hai loại khách thể khác nhau cần được bảo vệ như: các quan hệ về tài sản, kinh tế và các quan hệ về quản lý, bảo vệ môi trường; - Chưa dự liệu hết các hành vi gây tác hại đến môi trường đối với sự phát triển kinh tế - xã hội và cuộc sống đòi hỏi; - Các hành vi khác xâm hại môi trường chỉ mới bị xử lý bằng chế tài hành chính theo các Nghị định tương ứng của Chính phủ, chưa được quy định trong Bộ luật Hình sự 1985;
  • 38. 32 - Việc xử lý các vụ vi phạm pháp luật về môi trường thiếu thống nhất kể cả về hành chính cũng như hình sự. 1.4.2. Các quy định về tội phạm môi trường trong Bộ luật Hình sự 1999 Môi trường với các yếu tố tạo thành, bao gồm: không khí, nước, đất, âm thanh, ánh sáng, lòng đất, núi, rừng, sông, hồ, biển, sinh vật, các hệ sinh thái, các khu dân cư, khu sản xuất, khu bảo tồn thiên nhiên, danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử và các hình thái vật chất khác. Các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật. Việc bảo vệ, giữ cho môi trường xanh - sạch - đẹp, bảo đảm cân bằng sinh thái, ngăn chặn, khắc phục các hậu quả xấu do con người và thiên nhiên gây ra cho môi trường, khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên là yêu cầu cấp thiết của mọi hoạt động đời sống xã hội. Vấn đề trên, được thể hiện qua hệ thống pháp luật như: Luật Bảo vệ sức khoẻ nhân dân 1989, Luật Bảo vệ và phát triển rừng 1991 - 2004, Luật Đất đai 1993 - 1998 và 2003, Luật Khoáng sản 1996, Luật Tài nguyên nước 1998, Luật Thuỷ sản 2003... đều ghi nhận các quyền và nghĩa vụ cũng như những chế tài cần thiết đối với mọi tổ chức và cá nhân trong việc bảo vệ môi trường. Để phù hợp với các quy định về bảo vệ môi trường trong các lĩnh vực chuyên ngành nêu trên, việc bảo vệ môi trường quy định trong pháp luật hình sự được đặc biệt coi trọng và ghi nhận tại Chương XVII, phần Các tội phạm về môi trường của Bộ luật Hình sự 1999. Bộ Luật này đã thay thế cơ bản các quy định về các tội phạm về môi trường trong Bộ luật Hình sự 1985; đồng thời, bổ sung thêm một số tội danh mới xuất hiện trong thời gian gần đây. Đây là thể hiện sự quan tâm đúng mức của Đảng và Nhà nước ta trước thực trạng môi trường tiếp tục bị suy thoái, ô nhiễm với mức độ cao; thể hiện thái độ kiên quyết, xử lý kịp thời, nghiêm khắc đối với các hành vi làm suy thoái,
  • 39. 33 ô nhiễm môi trường, xâm hại đến các yếu tố của môi trường thiên nhiên. Các tội phạm về môi trường là một chương mới được bổ sung vào Bộ luật Hình sự 1999, chương XVII, chương này gồm 10 Điều, được sắp xếp theo 5 nhóm hành vi xâm hại đến môi trường, cụ thể là: - Các hành vi xả chất thải gây ô nhiễm môi trường (từ Điều 182 đến Điều 184); - Các hành vi nhập khẩu công nghệ, máy móc, thiết bị, phế thải hoặc các chất không đảm bảo tiêu chuẩn (Điều 185); - Các hành vi gây dịch bệnh nguy hiÓm cho con người, thùc vËt vµ động vật (Điều 186 và Điều 187); - Các hành vi hủy hoại rõng vµ nguån lîi thuû s¶n (Điều 188 và Điều 189); - Các hành vi vi phạm chế độ bảo vệ đặc biệt đối với một số đối tượng môi trường (Điều 190 và Điều 191). Về mặt lập pháp, đây là một bước tiến quan trọng, bằng sự quy định này trong Bộ luật Hình sự 1999, đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho công tác điều tra, xử lý những hành vi vi phạm pháp luật hình sự trong lĩnh vực môi trường. Có thể nhận thấy, các tội phạm về môi trường trong Bộ luật Hình sự 1999 đã được cụ thể hóa từ một số tội phạm trước đây được quy định trong Chương VII, Chương VIII Bộ luật Hình sự 1985 và có bổ sung một số dấu hiệu pháp lý mới, cụ thể là: Tội gây ô nhiễm không khí (Điều 182); Tội gây ô nhiễm nguồn nước (Điều 183); Tội gây ô nhiễm đất (Điều 184); Tội nhập khẩu công nghệ, máy móc, thiết bị phế thải hoặc các chất không bảo đảm tiêu chuẩn bảo vệ môi trường (Điều 185); Tội lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người (Điều 186); Tội lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho động vật, thực vật (Điều 187); Tội hủy hoại nguồn thủy sản (Điều 188); Tội huỷ hoại rừng (Điều 189); Tội vi phạm các quy định về bảo vệ động vật hoang dã quý hiếm (Điều 190); Tội vi phạm chế độ bảo vệ đặc biệt với khu bảo tồn thiên nhiên (Điều 191).
  • 40. 34 Thực tiễn trong thời gian qua cho thấy các hoạt động vi phạm pháp luật về môi trường diễn ra ngày một nhiều, tính chất ngày càng nghiêm trọng và phức tạp, không chỉ là việc phá rừng để lấy gỗ trái phép hay buôn bán động vật hoang dã quý hiếm, mà còn là những hành vi gây ô nhiễm môi trường trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội; có thể kể ra một số vụ điển hình mà các phương tiện thông tin đại chúng trong thời gian qua đã nêu, như vụ Công ty VEDAN Việt Nam, Công ty Miwon, Công ty thuộc da Hào Dương, Công ty giấy Việt Trì... xả nước thải không qua xử lý gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng cho các dòng sông và cộng đồng dân cư sống xung quanh các nhà máy; vụ Công ty Huyndai Vinashin (Khánh Hoà) thải ra hàng trăm nghìn tấn hạt xỉ đồng (hạt NIX) và các loại chất thải độc hại khác hay các vụ xử lý chất thải y tế nguy hại của các bệnh viện lớn như Việt Đức, Bạch Mai, Bệnh viện K Hà Nội, Bệnh viện Chợ Rẫy, Bệnh viện Chấn thương và Chỉnh hình Thành phố Hồ Chí Minh… Bộ luật Hình sự được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 21-12-1999 và có hiệu lực kể từ ngày 01-7-2000 đã giành một Chương riêng (Chương XVII), gồm 10 điều để quy định về các tội phạm về môi trường nªu trªn. Tuy nhiên, trong thực tiễn, việc áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về môi trường nói chung và trong công tác xét xử còn rất hạn chế. Một trong các nguyên nhân cơ bản của tình trạng này là do nhiều quy định trong Bộ luật Hình sự năm 1999 không có tính khả thi, rất khó áp dụng và chưa được cụ thể hóa trong các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền. . Tại kỳ họp thứ 5 của Quốc hội khoá XXII đã ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự (Luật số 37/2009/QH 12 ngày 19 tháng 6 năm 2009) trong đó có sửa đổi, bổ sung một số điều trong Chương XVII (Các tội phạm về môi trường) của Bộ luật Hình sự năm 1999, cụ thể như sau:
  • 41. 35 Điều 182 (mới) hợp nhất ba điều 182, 183, 184 của Bộ luật hiện hành. Điều luật sử dụng các thuật ngữ chuyên ngành phù hợp với luật bảo vệ môi trường, nâng mức hình phạt tiền lên cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội và cũng tương ứng với những quy định mới của pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính. Nhưng thay đổi cơ bản nhất là việc các đối tượng bị tác động là các yếu tố môi trường trước đây được quy định riêng rẽ (đất, nước, không khí) thì nay trong LuËt mới đã thống nhất vào khái niệm "môi trường". Điều này có ý nghĩa ở chỗ, một là, đã đánh giá tầm quan trọng như nhau của các yếu tố môi trường (đất, nước, không khí); hai là, xác định mối quan hệ chặt chẽ giữa các yếu tố môi trường (gây ô nhiễm đất sẽ gây ô nhiễm nguồn nước ngầm, ô nhiễm không khí …); ba là, đơn giản hoá cấu trúc bộ luật (các điều 182, 183, 184 hiện hành có cùng khách thể xâm hại, hành vi hoàn toàn tương tự nhau, cùng chế tài xử phạt, chỉ khác về đối tượng bị tác động); bốn là, thuận lợi cho việc áp dụng Bộ luật Hình sự trong việc điều tra, truy tố, xét xử tội phạm này. So với cấu trúc các điều luật cũ, điều 182 mới đã bỏ dấu hiệu đã bị xử phạt vi phạm hành chính là yếu tố định tội bắt buộc, chỉ quy định dấu hiệu hậu quả để xử lý bằng hình sự là "vượt quá… ở mức độ nghiêm trọng", "làm môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng" hoặc "gây hậu quả nghiêm trọng khác". Quy định mới đã loại trừ trách nhiệm hình sự cả trường hợp trước đây đã bị xử phạt vi phạm hành chính, tiếp tục vi phạm gây hậu quả dưới mức nghiêm trọng. Điều 185 (mới) sửa đổi, bổ sung điều 185 hiện hành. Bằng việc bỏ dấu hiệu hậu quả trong điều luật này đã làm thay đổi cơ bản từ quy định cấu thành vật chất thành cấu thành hình thức, xử lý hình sự đối với hành vi đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam bằng thủ đoạn lợi dụng việc nhập khẩu công nghệ, máy móc, thiết bị, phế liệu hoặc hoá chất, chế phẩm sinh học hoặc thủ đoạn khác, không phụ thuộc vào việc có xảy ra hậu quả hay không. Quy định như trên thể hiện sự kiên quyết, nghiêm khắc của pháp luật hình sự Việt Nam
  • 42. 36 trong xử lý các hành vi lợi dụng nhu cầu phát triển kinh tế trong nước để đưa rác thải vào Việt Nam, biến nước ta thành "bãi rác công nghiệp". Tuy nhiên, điều luật quy định hành vi đưa chất thải nguy h¹i vào Việt Nam bằng thủ đoạn lợi dụng, không phụ thuộc khối lượng, thành phần, mức độ nghiêm trọng v.v… đều bị xử lý hình sự. Quy định như vậy là hơi rộng, dễ dẫn đến việc áp dụng tràn lan để xử lý theo điều 185 cả những hành vi như: nhập khẩu ô tô cũ kèm theo xăm lốp cũ, dầu mỡ đã qua sử dụng; du học sinh mang linh kiện máy tính cũ về nước, thì có bị coi là đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam không? Điều 190 (mới) được chỉnh sửa về mặt kỹ thuật cho phù hợp với luật bảo vệ môi trường và phù hợp với thực tế. Thực tiễn áp dụng điều luật này trong điều tra, truy tố, xét xử gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên về hành vi tàng trữ chưa được quy định trong điều luật này còn nhiều ý kiến khác nhau. Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, nếu quy định hành vi tàng trữ (trái phép) là hành vi phạm tội thì cũng rất khó để xử lý hình sự đối với các trường hợp nuôi nhốt không có giấy phép nhưng có mục đích bảo tồn, nhân giống, như trường hợp nuôi nhốt hổ tại Bình Dương, Thanh Hoá và mới đây là các trường hợp nuôi tê giác trắng được nhập từ châu Phi về Việt Nam. Loại ý kiến thứ hai cho rằng nếu không quy định hành vi tàng trữ trái phép thì tội phạm dễ lợi dụng để đối phó với các cơ quan chức năng như trường hợp buôn bán hổ tại Ninh Bình, đối tượng không khai nhận hành vi mua bán, tàng trữ mà đổ cho người khác (không có thực) mang đến "gửi nhờ". Luật hình sự sửa đổi cũng đã bổ sung 3 tội mới, gồm: Điều 182a - Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, Điều 182b - Tội vi phạm quy định về phòng ngừa sự cố môi trường, Điều 191a - Tội nhập khẩu, phát tán các loài ngoại lai xâm hại. Việc bổ sung các tội trên nhằm góp phần răn đe, phòng ngừa và xử lý đối với những hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường có khả năng gây hậu quả rất lớn cho sức khoẻ, tính mạng con người.
  • 43. 37 Bên cạnh đó chúng tôi cho rằng cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung hành vi nghiên cứu nhằm sản xuất, lai tạo, nhân giống và phát tán các loài động vật, thực vật hoặc vi sinh vật có đặc tính xâm hại khác vào điều 191a mới chỉ quy định hành vi nhập khẩu, phát tán các loài ngoại lai xâm hại. Đồng thời nghiên cứu để tiếp tục bổ sung một số hành vi khác như đã đề cập ở phần trên. Trên cơ sở nghiên cứu 11 tội danh quy định trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 37/2009/QH12 ngày 19/6/2009, tại Chương XVII của Bộ luật Hình sự có thể được phân chia thành các nhóm sau: - Nhóm các tội phạm gây ô nhiễm môi trường (từ Điều 181 đến Điều 185 Bộ luật Hình sự năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009). - Nhóm các tội phạm gây dịch bệnh cho người và động vật (Điều 186, Điều 187 Bộ luật Hình sự năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009). - Nhóm tội phạm hủy hoại môi trường (Điều 182a, Điều 182b, Điều 188, Điều 189 Bộ luật Hình sự năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009). - Nhóm các tội phạm xâm phạm chế độ bảo vệ đặc biệt đối với một số thành tố của môi trường, hệ sinh thái và động vật (Điều 190, Điều 191, Điều 191a Bộ luật Hình sự năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009). 1.5. NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ TỘI PHẠM MÔI TRƯỜNG TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI Ngày nay, vấn đề ô nhiễm, suy thoái môi trường không chỉ là riêng của một quốc gia, một khu vực mà đã trở thành một vấn đề chung của tất cả các quốc gia trên thế giới. Chất lượng môi trường vẫn đang tiếp tục bị xuống cấp, đe dọa đến sự sống còn của nhân loại, các quốc gia đã và đang áp dụng nhiều biện pháp hữu hiệu để bảo vệ môi trường như: dân sự, hành chính, kinh tế, hình sự v.v...