Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Luận văn thạc sĩ ngành luật: Quyền tiếp cận công lý ở Việt Nam hiện nay, cho các bạn tham khảo làm đề tài nghiên cứu
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
Luận văn: Quyền tiếp cận công lý ở Việt Nam hiện nay, HAY
1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THẾ ANH
QUYỀN TIẾP CẬN CÔNG LÝ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THẾ ANH
QUYỀN TIẾP CẬN CÔNG LÝ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành : Lý luận và Lịch sử
Nhà nước và pháp luật
Mã số : 60.38.01.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Giáo viên hướng dẫn khoa học: GS.TSKH Đào Trí Úc
HÀ NỘI - 2015
3. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên
cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa
được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các
nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học
Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật
xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Thế Anh
4. MỤC LỤC
STT NỘI DUNG Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1 NHỮNG QUAN NIỆM CHUNG VỀ CÔNG LÝ VÀ QUYỀN
TIẾP CẬN CÔNG LÝ
7
1.1. Khái niệm công lý 7
1.1.1. Khái niệm công lý trong lịch sử tư tưởng nhà nước và pháp luật 7
1.1.2. Mối liên hệ giữa công lý với một số khái niệm khác 19
1.2. Khái niệm và nội dung quyền tiếp cận công lý 23
1.2.1. Khái niệm quyền tiếp cận công lý 23
1.2.2. Cơ sở pháp lý của quyền tiếp cận công lý 27
1.2.3 Các bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận công lý 31
Chương 2 THỰC TRẠNG THỰC HIỆN QUYỀN TIẾP CẬN CÔNG
LÝ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
39
2.1. Thực trạng hệ thống quy định liên quan đến các quyền và
nghĩa vụ của người dân
39
2.1.1 Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật 39
2.1.2 Việc áp dụng tập quán pháp trong bảo đảm thực hiện quyền tiếp
cận công lý
44
2.2. Hệ thống các bảo đảm quyền tiếp cận công lý 47
2.2.1 Vai trò của Tòa án trong việc bảo đảm quyền tiếp cận công lý 47
2.2.2 Các thủ tục tố tụng 58
2.2.3 Hoạt động tư vấn pháp luật và trợ giúp pháp lý 61
Chương 3 CÁC GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY THỰC HIỆN QUYỀN TIẾP
CẬN CÔNG LÝ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
70
3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật 70
3.2. Đổi mới tổ chức, hoạt động của Tòa án nhân dân bảo đảm
thực hiện quyền tiếp cận công lý
74
3.3 Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, tư vấn pháp luật. 82
5. 3.4 Nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý 86
KẾT LUẬN 90
TÀI LIỆU THAM KHẢO 91
6. 1
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Công lý không phải là một thuật ngữ mới trong các lĩnh vực xã hội nói
chung và pháp luật nói riêng. Ngay từ buổi đầu xuất hiện, khi con người ý
thức được vai trò, vị trí của mình trong xã hội, ý niệm về công lý đã xuất
hiện. công lý đã là ước mong, nguyện vọng của con người, được đối xử một
cách công bằng, bình đẳng, ở thời sơ khai, nó được thể hiện ở việc chia các
nguồn lợi phẩm (hoa quả, hoang thú) theo sự đóng góp của các cá nhân trong
buổi đi săn bắt,hái lượm.
“Không thể có hòa bình nếu không có công lý” là câu khẩu hiệu thường
thấy của đồng bào Công giáo. Hội đồng Giám mục Việt Nam cũng thành lập
Ủy ban Công lý và Hòa bình.
Có thể thấy, công lý cũng như cuộc chiến để giành công lý” cũng có lịch sử
thăng trầm riêng của nó, gắn bó một cách mật thiết với lịch sử phát triển của xã hội
loài người. Trải qua những hình thái kinh tế - xã hội, những chế độ chính trị, chế
độ nhà nước, dù là dã man nhất (chế độ chiếm hữu nô lệ) hay chế độ dân chủ nhất
như hiện nay (chế độ dân chủ tư sản hoặc chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa); dù là
xã hội nguyên thủy nhất hay hiện đại nhất, công lý luôn là cái mang tính tinh
thần nhiều nhất trong ý niệm của con người.
Ở kỷ nguyên hiện đại, tiếp cận công lý không chỉ thuần túy là một
mong ước của con người nữa mà nó còn xuất hiện như là một tiêu chuẩn
quan trọng trong đánh giá đối sự phát triển của một quốc gia, một hệ thống
pháp luật. Bởi đây cũng vừa là quyền của con người và cũng là nghĩa vụ của
nhà nước.
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua năm
2013 và Nghị quyết Đại hội Đảng XI đã chỉ ra rõ con đường xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân của nước ta.
Trong đó, Nhà nước pháp quyền trước hết cần phải có được một hệ thống
pháp luật đảm bảo được tính công lý, đó là công bằng và lẽ phải theo nghĩa
giản đơn nhất mà ta hiểu được.
7. 2
Tiếp cận công lý là một thuật ngữ chuyên ngành mới trong thời gian gần
đây, được hiểu như là quyền được xét xử công bằng của người dân, tức là gắn
chặt với các hoạt động “xét xử” hay hoạt động “tư pháp”. Trong những năm gần
đây, hiệu quả hoạt động của hệ thống tư pháp ở Việt Nam không được đánh giá
cao, thậm chí còn gây mất uy tín trong lòng người dân. Bởi nguyên nhân trước
hết là hệ thống pháp luật chưa bảo đảm được cho người dân thực hiện triệt để
quyền tiếp cận công lý của mình, sau đó là sự suy giảm lòng tin đối với cách
hành xử của các chủ thể của hoạt động tư pháp.
Tòa án từ khi mới thành lập đã có chức năng bảo vệ công lý thông qua
hoạt động xét xử. Nhận thức sâu sắc được vấn đề đó, Hiến pháp 2013 của
Việt Nam đã khẳng định rõ: “Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý”
tại khoản 3 Điều 102. Hay diễn tả theo cách khác thì Tòa án là người bảo vệ
cuối cùng cho những tự do của người dân mà không phụ thuộc vào địa vị
kinh tế hay địa vị xã hội của họ. Do đó, khi công dân mất niềm tin vào người
nắm công lý của xã hội thì rõ ràng, hậu quả là rất nghiêm trọng.
Với những gì diễn ra trong thời gian gần đây, dư luận xã hội đang bắt đầu
đặt nghi vấn về năng lực, trình độ của đội ngũ tư pháp của nước ta. Ở một số
trường hợp, họ không còn ý nghĩ mang những vụ tranh chấp của mình ra tòa nữa,
mà lại có xu hướng “tự xử” với nhau. Dẫu biết rằng, pháp luật chỉ thể hiện một
phần nhỏ của xã hội vì ngoài pháp luật, còn những thể chế khác nhau điều chỉnh,
tác động lên hành vi của con người (phong tục, tập quán, hương ước, lệ làng…)
và nhiều khi, những thiết chế tương ứng của các thể chế này lại hoạt động có hiệu
quả hơn là các thiết chế tư pháp chính thức theo pháp luật.
Xét theo khía cạnh đó, tiếp cận công lý vừa là một trạng thái của xã hội,
vừa là một đòi hỏi, vừa là nghĩa vụ của nhà nước trong việc tổ chức, thực thi,
bảo vệ pháp luật, tạo điều kiện cho các chủ thể nói chung (trong đó cũng có
cả nhà nước) mà quan trong nhất là cá nhân (con người) nói riêng được tiến
lại gần hơn lẽ phải và sự công bằng theo đúng nghĩa đên của nó.
Tiếp cận công lý và những vấn đề liên quan không phải là vấn đề riêng
của một quốc gia, một dân tộc hay một lãnh thổ, mà là vấn đề của “toàn cầu”,
8. 3
“toàn xã hội”. Đặc biệt trong những năm gần đây, vấn đề về tiếp cận công lý
được nghiên cứu, khảo sát dưới nhiều cách thức khác nhau và đã đem lại
những thành công bước đầu trong việc đánh giá được mức độ tiếp cận công lý
của người dân. Việt Nam không đứng ngoài câu chuyện đó, với sự tham gia
của nhiều tổ chức khác nhau, trong và ngoài nước, đã từng bước tiến hành
những bước đầu của tiếp cận công lý. Việc cho ra đời Báo điện tử Công lý của
Tòa án nhân dân tối cao hay việc Thủ tướng Chính phủ phê duyệt dự án “Tăng
cường tiếp cận công lý và bảo vệ quyền tại Việt Nam” do Bộ Tư pháp chủ trì,
phối hợp với các cơ quan pháp luật và tư pháp khác của Việt Nam thực hiện là
các sự kiện thể hiện điều đó.
Vì những lý do trên, tôi đã lựa chọn đề tài “Quyền tiếp cận công lý ở
Việt Nam hiện nay” làm đề tài cho Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Nhà
nước và Pháp luật của tôi.
1.2. Tình hình nghiên cứu
Công lý và tiếp cận công lý tuy không phải là một nội dung mới nhưng
trong những năm gần đây, nó mới được chính thức trở thành một đối tượng
nghiên cứu độc lập của nhiều ngành khoa học, trong đó có Luật học.
Với nhận thức về tầm quan trọng của công lý trong quá trình xây dựng
và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, lần đầu tiên
trong lịch sử lập hiến, sau 4 bản Hiến pháp: Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp
năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung
năm 2001), đến bản Hiến pháp năm 2013, các giá trị cơ bản của công lý đã
lần đầu tiên được khẳng định và ghi nhận. Tuy nhiên, cho đến nay Việt Nam
vẫn chưa có nhiều những công trình nghiên cứu cặn kẽ, đầy đủ về công lý,
vấn đề công lý.
Đã có một số công trình, tác phẩm nổi tiếng, bàn trực tiếp hoặc gián
tiếp về vấn đề công lý, tôi xin trích lại như sau:
- Cuốn sách: “The Philosophy of Law: A very short introduction” (Triết
học luật pháp) của Raymond Wacks, giáo sư danh dự về Luật và Lý thuyết
pháp luật của Đại học Hồng Kông (bản dịch của Phạm Kiều Tùng, Nhà xuất
9. 4
bản Tri thức, 2011). Tác giả dành toàn bộ chương 4 bàn về Quyền và công lý,
trong đó đưa ra những nét cơ bản về nhận thức về công lý, mối quan hệ giữa
công lý và pháp luật. Ông viết: “Lý tưởng về công lý vừa là một phẩm chất có
tính khoa trương của những hệ thống pháp lý nội địa và còn, trong những
khẳng định về tính phổ biến của nó, mong muốn vượt qua chính luật pháp”.
- Cuốn sách: “Bốn tiểu luận về tự do” của Isaiah Berlin (1909-1997) do
Nguyễn Văn Trọng dịch, Nhà xuất bản Tri thức, năm 2014. Isaiah Berlin là
nhà triết học người Do Thái, là triết gia muốn hướng các nghiên cứu của
mình tới đông đảo độc giả chức không phải chỉ dành riêng cho các nhà
chuyên môn. Ông quan niệm vai trò của triết gia đạo đức học là soi sáng vấn
để để giúp cho công chúng có những phán đoán riêng của họ, chứ không
phải hướng dẫn họ sống thế nào.
- Cuốn sách: “Justice: Whats’s the right thing to do”, hay “Phải trái,
đúng sai” của giáo sư Đại học Harvard Michale J. Sandel (bản dịch Hồ Đắc
Phương, tái bản lần thứ 6, Nhà xuất bản Trẻ, năm 2015). Cuốn sách được
GS.Ngô Bảo Châu nhận xét rằng: “Trang sách chính là cửa sổ mở sang
những cuộc đời khác, những thế giới khác. Và cũng là chỗ để ảnh sáng mặt
trời rọi vào cuộc đời mình”.
Bên cạnh đó, cũng đã có một số tác phẩm nổi tiếng về công lý và tiếp
cận công lý được xuất bản trong nước như:
- Cuốn sách: “Đây công lý của thực dân Pháp ở Đông Dương”, Nhà
xuất bản Sự thật, năm 1962. Đây là cuốn sách gồm tập hợp một số bài viết
của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công lý trong giai đoạn 1921-1926.
- Cuốn sách: “Triết học kinh tế trong “Lí thuyết về công lý” của Nhà
triết học Mĩ - John Rawls” của Trần Thảo Nguyên, Nhà xuất bản Thế giới
xuất bản năm 2006. Tác giả tập trung ý nghĩa và khả năng ứng dụng của học
thuyết về công lý của John Rawls tại Việt Nam. Phân tích mệnh đề công lý
như là công bằng của John Rawls, tác giả cho rằng công lý là cái gốc của
công bằng, có ý nghĩa sâu sắc và khái quát hơn công bằng.
10. 5
- Bài viết: “Tiếp cận công lý và các nguyên lý của nhà nước pháp
quyền” của Vũ Công Giao, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 25, năm
2009. Bài viết phân tích khái niệm và đặc điểm của tiếp cận công lý, nền
tảng của tiếp cận công lý và sự tương thích giữa các nguyên tắc của tiếp cận
công lý với các nguyên tắc của nền pháp quyền tại Việt Nam.
- Cuốn sách: “Quyền con người trong thi hành công lý” của Tòa án
nhân dân tối cao, 545 trang, Nhà xuất bản lao động - xã hội, năm 2010. Cuốn
sách gồm 15 chương, cung cấp những thông tin nhằm giúp người đọc mà
chủ yếu là cán bộ tòa án có kiến thức tương đối toàn diện và sâu sắc về các
quyền cơ bản của con người và việc bảo đảm các quyền này trong quá trình
thực thi công lý.
- Báo cáo: “Chỉ số công lý - Thực trạng về Công bằng và Bình đẳng
dựa trên ý kiến của người dân năm 2012” của Chương trình phát triển Liên
hiệp quốc (tháng 7/2013). Chỉ số công lý giới thiệu một hướng tiếp cận mới
để đánh giá kết quả tiến trình cải cách luật pháp và tư pháp đang diễn ra. Chỉ
số công lý năm 2012 được thực hiện trên 21 tỉnh, thành phố, dựa trên 5 trục
nội dung về thực thi pháp luật và bảo đảm công lý, bao gồm: Khả năng tiếp
cận, Công bằng, Liêm chính, Tin cậy và hiệu quả, Bảo đảm các quyền cơ
bản. Tuy nhiên, khảo sát mới chỉ đưa ra được ý niệm về công lý của người
dân trên cở sở cảm nhận tâm lý học xã hội.
1.3.Mục tiêu nghiên cứu
1.3.1.Mục tiêu tổng quát
- Làm rõ thêm lý luận khoa học các quan điểm về công lý và quyền tiếp
cận công lý;
- Đánh giá được tương đối thực trạng về thực hiện quyền tiếp cận công
lý hiện nay ở Việt Nam để từ đó, có thể đề ra một số giải pháp nâng cao tính
hiệu quả của hoạt động này.
11. 6
1.3.2.Mục tiêu cụ thể
- Nêu và phân tích, làm rõ các quan niệm chung về công lý và “quyền
tiếp cận công lý” trên phương diện lịch sử nhà nước và pháp luật; so sánh giữa
quan niệm về công lý với các quan niệm khác thường dùng trong pháp luật.
- Nghiên cứu và tìm hiểu, phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến kết
quả thực hiện quyền tiếp cận công lý hiện nay ở Việt Nam.
1.4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.4.1. Đối tượng của đề tài:
- Hệ thống lý luận về công lý,“quyền tiếp cận công lý”.
- Thực trạng thực hiện quyền tiếp cận công lý hiện nay ở Việt Nam.
- Một số giải pháp nâng cao thực hiện quyền tiếp cận công lý hiện nay.
1.4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
“Công lý” là mô ̣t khái niê ̣m rộng lớn , do đó , nô ̣i dung của quyền tiếp
câ ̣n công lý cũng rất rộng . Tuy nhiên, để phù hợp với quy mô của một Luận
văn Tha ̣c sĩ, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu quyền tiếp cận công lý trong tư
pháp, tứ c là gắn chă ̣t với viê ̣c xét xử của Tòa án.
1.5. Phương pháp nghiên cứu
- Đề tài sử dụng phương pháp lịch sử - cụ thể trong việc tìm hiểu,
nghiên cứu các quan điểm về công lý qua các tài liệu sưu tầm được.
- Đề tài sử dụng phương pháp điều tra xã hội học trong việc đánh giá
thực trạng tiếp cận công lý ở một số nhóm đối tượng trên địa bàn thành phố
Hà Nội.
- Nguồn số liệu được sử dụng lấy từ các báo cáo về chỉ số công lý của
UNDP, một số cơ quan tư pháp trên địa bàn Hà Nội và qua khảo sát, điều tra
xã hội học của tác giả.
2.Kết cấu nội dung luận văn: bao gồm 3 chương, 8 tiết.
12. 7
Chương 1
NHỮNG QUAN NIỆM CHUNG VỀ CÔNG LÝ VÀ
QUYỀN TIẾP CẬN CÔNG LÝ
1.1. Khái niệm về Công lý
Khái niệm công lý là khái niệm thu hút được nhiều sự quan tâm của các
nhà nghiên cứu khoa học trong nhiều lĩnh vực khác nhau cũng như trong
suốt chiều dài lịch sử nhân loại. Trong khoa học pháp lý, công lý cần được
xem xét trên một số khía cạnh như: lịch sử nhà nước và pháp luật; thực hiện
pháp luật; xây dựng pháp luật... Trong khuôn khổ luận văn này, tôi sẽ trình
bày quan điểm phân loại của mình dựa trên những khía cạnh đó.
1.1.1. Khái niệm về công lý trong lịch sử tư tưởng nhà nước và pháp luật
Theo đó, các phân đoạn phát triển của công lý tương ứng với các giai
đoạn phát triển của xã hội. Luận văn căn cứ vào một số bộ luật tiêu biểu hoặc
quan niệm của một số nhà tư tưởng tiêu biểu cho từng thời kỳ phát triển lịch
sử nhà nước để làm cơ sở cho việc phân tích sự biểu hiện của quan niệm về
công lý trong thời kỳ tương ứng.
1.1.1.1.Thời kỳ cổ đại
Trong thời kỳ này xã hội còn sơ khai, ý niệm về công lý cũng mới bắt
đầu được hình thành gắn với sự ra đời của các nhà nước và pháp luật đầu tiên.
a) Phương Tây cổ đại
Thật thiếu sót nếu đi tìm hiểu một định nghĩa chỉ ở nơi các nhà tư tưởng
hay các triết gia lỗi lạc, đặc biệt ở giai đoạn này ở phương Tây. Bởi văn
minh phương Tây thời cổ đại gắn liền với hệ thống các truyền thuyết, thần
thoại mà ở đó thể hiện sự kiến giải vũ trụ, con người và những khát vọng của
họ. Do đó, việc đi tìm quan niệm về công lý xuất phát từ các câu truyện với
sự tồn tại của các vị thần theo tín ngưỡng của người dân thời cổ đại lúc bấy
giờ là một điều cần thiết.
13. 8
Sớm nhất, người Ai Cập cổ đại có 2 vị thần đại diện cho công lý, đó là
nữ thần Isis và nữ thần Maats. Nữ thần Isis được cho là vị thần tượng trưng
cho Sự thât, Công bằng, Trật tự, Pháp luật Đạo đức và Công lý trong đời
sống tâm linh của người Ai Cập cổ đại. Và nữ thần Maat được biết đến là
chủ nhân của Phòng phân xử với tính cách thẳng thắn, đánh giá tất cả bằng
sự xem xét tình cảm thận trọng.
Thần thoại Hy Lạp còn lưu giữ đến ngày nay phần lớn thông qua các
tác phẩm văn học, nghệ thuật, mang tính nhân văn và tư tưởng triết học, giàu
tính duy lý, triết lý. Được cho là sự hòa quyện giữa tư duy cảm tình và tư
duy lý luận, cả hai hòa quyện tạo thành thể thống nhất và tạo nên những tác
phẩm huy hoàng thời cổ đại. Trải qua nhiều biến cố, ngày nay thần thoại Hy
Lạp chỉ còn giới hạn trong quá khứ, văn học và nghệ thuật. Tuy nhiên, chúng
ta không thể phủ nhận được tính giáo dục, triết lý, giá trị sâu sắc và ý tưởng
được thể hiện trong thần thoại Hy Lạp.
Theo truyền thyết, ở thời cổ đại của Hy Lạp, Bầu trời (Uranus) và Mặt
đấy (Gaia) lấy nhau và sinh ra nữ thần Themis, một trong mười hai Titan
(thần) tối cao của đỉnh Olympus. Themis là người làm ra luật định, thiết lập
trật tự và ổn định trên thế gian để đảm bảo công lý. Themis tượng trưng cho
Công lý, là hiện thân của pháp luật và trật tự tự nhiên, khác với luật và trật tự
do con người đặt ra. Themis tham dự các cuộc tranh luận của chư thần, làm
cố vấn cho chư thần trong các dịp đó. Themis thường chủ tọa các cuộc họp
của thường nhân. Những thỏa hiệp kí kết giữa thường nhân đều được sự bảo
trợ của Themis. Sự chính trực, nghiêm minh của bà đã khiến người Hy Lạp
cổ xưa tạc tượng bà tay cầm kiếm, tay cầm cân, mắt bịt một dải băng để
chứng tỏ sự vô tư, không thiên vị của phán quan.
Themis có sáu người con với Zeus, một trong số đó đã kế tục bà trở
thành hiện thân của công lý, đó là nữ thần Dike, thường được gọi là nữ thần
14. 9
của Lẽ phải, Chân lý và Sự thật. Nàng chuyên theo dõi việc tuân thủ quy
định của Zeus dưới trần gian và báo lại cho cha mình biết những trường hợp
vi phạm để Chúa thần giáng sấm sét trừng trị. Nhưng cuộc sống nơi trần thế
mỗi lúc một thêm hỗn loạn, những hạt giống xấu xa từ chiếc hộp Pandora
ngày càng lớn mạnh đến nỗi Dike cai quan không xuể, đành đổi tên thành
Astreae có nghĩa là “tinh cầu” và bay về trời, như một ám chỉ: công lý tuyệt
đối chỉ có thể được tìm thấy ở chân trời xa tắp, nơi người trần không thể nào
vươn tới được.
Khi người La Mã thôn tính Hy Lạp từ thế kỷ II Tr.CN, họ đã xây dựng
nữ thần Công lý của họ, nữ thần Justitia dựa trên hình tượng của nữ thần
Themis và nữ thần Dike. Theo đó, nữ thần Justitia là hiện thân của công lý
trong thần thoại La Mã. Bà là một trinh nữ sống giữa loài người cho đến khi
loài người trở nên hủ bại và tha hóa, buộc bà phải bay lên trời và hóa thân
thành chòm sao Xử nữ (Virgo). Hình tượng nữ thần Justitia thường được
xuất hiện với một vòng nguyện quế trên đầu, ngồi trên ghế, tay cầm một
chiếc gậy dài và một nhành cây. Đôi khi, bà xuất hiện khi một tay cầm thanh
gươm, một tay cầm cuộn giấy giữa hai con sư tử (dinh tổng trấn trong thành
phố Venezia).
Tuy nhiên, không phải ở nơi nào, hình tượng nữ thần tự do cũng xuất
hiện với đôi mắt bị kín. Có nhiều bức tượng và bức tranh vẽ Nữ thần Công lý
không bịt mắt, với lời giải thích rằng, Nữ thần Công lý với quyền năng của
mình, không cần bịt mắt vẫn có thể tránh được sự tác động của các yếu tố
ngoại cảnh và đảm bảo được việc xét xử công bằng, không thiên vị. Điển
hình như tượng thần Themis tại Tòa án tối cao Brisbane, tiểu bang
Queensland, Australia hay thần Themis ở tòa nhà thượng viện Nga.
Qua những hình tượng thần thoại kể trên, chúng ta có thể thấy được, dù
ở các khu vực địa lý, nền văn minh khác nhau nhưng, công lý – ước vọng
15. 10
của con người luôn được thể hiện bởi sự nghiêm minh, khách quan của pháp
luật. Ở đây, công lý dường như tách bạch khỏi công bằng, khi không có sự
xuất hiện của bất kỳ một tầng lớp, hay một giai cấp nào cả. Nó chỉ là quan hệ
giữa cái đúng – sai, cái thiện – ác và pháp luật – sự trừng phạt.
Trong nền văn minh Hy Lạp cổ đại, công lý được cho rằng bắt nguồn từ
trật tự xã hội, một xã hội ổn định, có trật tự sẽ thúc đẩy sự phát triển của
công lý và ngược lại, một nền công lý mạnh mẽ sẽ thúc đẩy một xã hội trật
tự, ổn định. Plato, triết gia vĩ đại của Hy Lạp, người mà ảnh hưởng của ông
được mô tả một cách tuyệt vời bởi nhà triết học thế kỷ 20 Alfred North
Whitehead: “Nét đặc trưng chung rõ ràng nhất của truyền thống triết học
châu Âu là nó bao gồm một chuỗi những phụ chú cho tác phẩm của Plato”,
đã đưa những quan điểm, tư tưởng của mình về vấn đề công lý trong những
tranh luận về vấn đề đạo đức và pháp luật, đặc biệt trong cuốn Luật pháp, tác
phẩm cuối cùng còn dang dở trước khi ông qua đời.
Trong Quyển IV tác phẩm Luật pháp, khi bàn về cuộc sống đức hạnh,
Platon cho rằng, công lý hay những nguyên tắc tôn giáo cùng những đạo đức
đóng vai trò dẫn dắt cuộc sống của họ:
Này các bạn, Thượng đế, theo truyền thuyết, nắm giữ trong tay
Ngài cái đầu, cái giữa và cái cuối của mọi sự vật, nghĩa là chúng vận
hành theo luật tự nhiên do Ngài xếp đặt trên một đường thẳng cho đến
lúc kết thúc. Công lý luôn đi theo Ngài và sẽ trừng phạt những kẻ không
thực hành đến nơi đến chốn luật của Thượng đế…hắn bị luận phạt vì
công lý không có gì khác hơn là phải thuận nhận mà thôi. [2, tr. 818]
Như vậy, khi nói về pháp luật, Platon nhấn mạnh đến luật tự nhiên, theo
đó, công lý với nghĩa trừng phạt những kẻ vi phạm luật tự nhiên cũng mang
tính tự nhiên. Ngoài ra, sự “thuận nhận” hay “tâm phục khẩu phục” cũng
mang lại ý nghĩa tốt đẹp cho công lý. Tức là kẻ làm sai cũng nhận thấy cái
16. 11
sai của mình và vui vẻ, chấp thuận mà đồng ý với biện pháp trừng phạt áp
dụng đối với mình. Đấy là sự khác nhau giữa “trừng phạt” theo nghĩa thông
thường và “trừng phạt” của “công lý tự nhiên”. Trừng phạt theo nghĩa thông
thường, có thể hiểu là sự trừng phạt theo quy định của pháp luật, do nhà làm
luật quy định, kẻ làm điều sai có thể không “thuận nhận”.
Tiếp tục dòng tư tưởng này, Pltaon thể hiện một lần nữa trong Quyển V
tác phẩm Luật pháp khi bàn về việc quý trọng linh hồn và những giáo huấn về
một cuộc sống đức hạnh: “Kẻ nhập vào bè xấu phải làm và chịu đựng những
cái mà những kẻ theo bản chất ấy thường nói và làm đối với nhau, cái đau khổ
không phải là công lý nhưng là sự trừng phạt; vì công lý và sự ngay thẳng thì
cao quý, còn trừng phạt là sự đau khổ đi liền với sự bất chính” [2, tr.823]
Trong Quyển X, khi bàn về các tội của những người không tin vào
Thần linh hoặc có những ý tưởng sai lầm về các ngài. Plato thể hiện rõ sự bất
khoan dung của mình đối với những người này. Thái độ này xuất phải bởi
lòng yêu nước của ông, chỉ nhằm chống lại cái mà ông cho rằng sẽ làm tổn
thương nền đạo đức quốc gia. Về việc trừng phạt đối với những loại người
này, Platon nói:
“Mọi vật vốn có linh hồn đã thay đổi và nơi chúng có một nguyên tắc
thay đổi, thay đổi theo luật pháp và vận số: những thay đổi nhỏ về bản chất
dịch chuyển trên mặt đất, nhưng tội nghiêm trọng thì phải xuống địa ngục,
nghĩa là vào chỗ Diêm Vương và những nơi khác của cõi âm, mà nghe tên ai
cũng phải kinh hãi. Và khi hồn thay đổi nhiều, tốt hơn hay xấu đi theo sự
thôi thúc của riêng mình hay chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ những hồn khác,
khi nó thông hiệp với đức tính thần linh sẽ trở nên thần linh, nó được đem
vào một nơi khác tốt hơn, vốn cũng linh thiêng và hoàn toàn thánh thiện; còn
nếu hiệp thông với các xấu, nó cũng phải thay đổi vị trí trong cuộc sống. Vì
đó là công lý của các Thần ngự trên trời.
17. 12
Hay tóm lại, “Nếu các người trở nên xấu xa thì sẽ phải vào chốn xấu xa,
còn nếu tốt thì sẽ vào chỗ tốt. Đó là công lý của trời, mà dù các ngươi hay
bất kỳ kẻ bất hạnh nào đó sẽ được vẻ vang khi tránh thoát; và là cái mà
quyền lực ban bố đã đặc biệt ban bố; hãy lưu tâm đến những điều ấy, vì sẽ có
ngày chúng sẽ lưu tâm đến các người”. [2, tr.846]
Ở đây, cũng cùng tư tưởng với các phần trên, Platon cho rằng, công lý
nằm ở chỗ các vị thần. Khi tiếp xúc với tư tưởng này, chúng ta có thể thấy có
điểm giống với tư tưởng của Phật giáo phương Đông về “luật nhân – quả”.
Gieo nhân gì, gặp quả nấy, và cũng tuân theo cái lý tự nhiên, hay công lý tự
nhiên mà thôi.
Còn theo Aristotle, vị triết gia mà ảnh hưởng và uy tín của ông mang
tính quốc tế và vượt lên trên mọi trường phái, thì công lý được chia thành
“công lý cải tạo” - nơi mà toà án với các quyết định của mình nhằm sửa chữa
một lỗi lầm do một bên gây ra đối với bên khác và “công lý phân phối” –
cách thức phân chia thành quả làm ra để công bằng với mỗi người, đúng theo
những gì mà người đó xứng đáng được hưởng. Theo Aristotle, công lý phân
phối chính là mối quan tâm chủ yếu, hàng đầu của các nhà lập pháp. Tuy
nhiên, cũng cần nhấn mạnh rằng luật pháp và công lý là hai khái niệm không
hoàn toàn đồng nhất, thậm chí, trong một số xã hội, luật pháp đôi khi đi
chệch hướng hoặc đối nghịch với công lý.
b) Phương Đông cổ đại
Nền văn minh Lưỡng Hà thời BaBylon cổ đại lại có quan niệm công lý
theo khía cạnh trao đổi, ngang bằng. Điều đó thể hiện rất rõ ở bộ luật
Hammurabi (khoảng năm 1750 tr.cn và hiện là văn bản luật cổ nhất của con
người được bảo tồn khá tốt). Vua là người được các vị thần trao cho trọng
trách giữ gìn công lý trong xã hội. Theo đó, “vì hạnh phúc loài người, thần
Anu và thần Enlin đã ra lệnh cho trẫm, Hammurabi, một vị vua quang minh
18. 13
và ngoan đạo trẫm, phát huy chính nghĩa ở đời, diệt trừ những kẻ gian ác
không tuân theo pháp luật, làm cho kẻ mạnh không hà hiếp người
yếu”. Công lý được định ra để “đình chỉ phân tranh làm cho đất nước được
hưởng thái bình, nơi ăn chốn ở của nhân dân được che chở, không có gì phải
lo âu sợ hãi”. Công lý được đặt ra “Để cho người mạnh không hà hiếp kẻ
yếu, để cho những người cô quả có chỗ nương tựa ở thành Babilon, nơi mà
vị thủ lĩnh của nó được thần Anu và thần Enlin khen ngợi, ở đền Exajin mà
nền móng của nó lâu bền cùng với trời đất, để cho toà án trong nước tiện
việc xét xử, để cho sự tuyên án trong nước tiện việc quyết định, để cho
những kẻ bị thiệt thòi được trình bày chính nghĩa”.
Tư tưởng công lý trong bộ luật này được thể hiện rõ sự gắn kết với việc
giải quyết các vụ kiện tụng: “Nếu có được dân tự do nào đi kiện mà bị thiệt
thòi thì đến trước bức tượng của trẫm tức là đến trước bức tượng của vị vua
công bằng đọc cái cột đá mà trẫm khắc chữ, lắng nghe những lời vàng ngọc
của trẫm, để cái cột đá của trẫm làm rõ vụ án cho người đó để người đó đựơc
xét xử một cách công bằng, để cho lòng được nhẹ nhõm”.
Nhưng việc thể hiện cụ thể công lý trong bộ luật Hammurabi lại có
phần cứng nhắc và khắc nghiệt khi công lý gắn liền với sự trừng phạt, nó là
sự trả thù ngang bằng, nghĩa là họ phải nhận lại một sự đau đớn về thể xác
giống hệt như những gì họ làm cho người khác. Một số các điều luật thể hiện
nguyên tắc đó rất rõ:
Điều 196: Nếu dân tự do làm hỏng mắt của con của bất cứ người dân tự
do nào, thì phải làm hỏng mắt của y.
Điều 197: Nếu dân tự do làm gãy xương của dân tự do, thì phải làm gãy
xương của y.
Điều 200: Nếu dân tự do đánh gãy răng của người dân tự do ngang hàng
với mình, thì phải đánh gãy răng của y.
19. 14
Nguyên tắc công lý thể hiện trong bộ luật lại là việc áp dụng hình phạt
ngang bằng, bắt nguồn từ tập quán trả thù nguyên thủy (Talion), “mắt đền
mắt, răng đền răng”, hay “lấy mắt đổi mắt, lấy răng đổi răng”, hay theo kiểu
thường nghe là “mạng đền mạng”, là một nguyên tắc là ất cứ ai làm cho
người khác bị thương vì lý do gì thì cũng phải bị trừng phạt y như vậy. Đây
là sự trả đũa theo pháp luật tùy theo mức độ nặng nhẹ việc làm ai đó bị
thường. Dù cho những quan điểm, tư tưởng của các nhà khoa học thời kỳ
này tiến bộ đến đâu chăng nữa, nhưng chỉ xuất hiện ở các giai thoại, tác
phẩm khoa học… thì tính đại diện vẫn khó có thể so bằng bộ luật thành văn
như thế này. Như vậy, rõ ràng khi nhắc đến công lý thời kỳ cổ đại, tính chất
đặc trưng là sự báo thù.
1.1.1.2.Thời kỳ trung đại
Augustine, nhà triết học có ảnh hưởng lớn đầu tiên thời trung cổ, cho
rằng công lý cao hơn nhà nước và là vĩnh cửu. Công lý tự nhiên cao hơn luật
pháp. Luật pháp không công bằng thì không phải là luật pháp.
Thomas Aquinas, nhà triết học và thần học Italia trong truyền thống
kinh viện chủ nghĩa, cũng cho rằng trong thực tế những đạo luật nhân định
có thể công bằng hay không công bằng. Công lý là khái niệm cơ sở, có nội
hàm rộng hơn khái niệm luật pháp. Những giá trị của công lý cung cấp
những tiêu chí quan trọng cơ bản để đánh giá, thẩm định các đạo luật thực
định. Một đạo luật công bằng là một đạo luật dựa trên và không đối lập với
các quyền tự nhiên. Bất công chính là những hành vi liên quan đến việc vi
phạm các quyền tự nhiên như các tội giết người, hành hung, trộm cắp, bắt
cóc, nô lệ, hiếp dâm, gian lận hoặc các hành vi gây ảnh hưởng sai lệch nhất
định đến sự phân phối thịnh vượng, thu nhập. Không có cách phân phối cụ
thể nào được coi là công bằng hoặc không công bằng từ sự lựa chọn của các
20. 15
cá nhân. Sự phân phối lợi ích và chi phí chỉ được coi là công bằng nếu người
đó được tự do lựa chọn trao đổi với người khác.
1.1.1.3.Thời kỳ cận đại
Cũng giống như các vấn đề khác của xã hội, trong thời kỳ này đã xuất
hiện rất nhiều những tư tưởng lỗi lạc về công lý, đặc biệt ở các nước phương
Tây, với nhiều trường phái và nhiều tác giả.
Thomas Hobbes (1588-1679) khi bàn về xã ước (thỏa ước xã hội) đã
nói thân phân con người trước khi có xã ước là “đơn độc, nghèo khổ, đáng
tởm, tàn bạo và ngắn ngủi”, nghĩa là trong tình trạng tự nhiên của mình. Ông
khẳng định rằng luật tự nhiên dạy chúng ta sự cần thiết phải tự bảo tồn: luật
pháp và chính quyền là cần thiết nếu chúng ta cần phải bảo vệ trật tự và an
ninh. Với xã ước, vì thế chúng ta phải từ bỏ sự tự do tự nhiên của chúng ta
để tạo ra một xã hội trật tự. Triết lý của Hobbes, vì thế là hơi độc đoán, đặt
trật tự lên trên công lý.
Trong tác phẩm Khế ước xã hội của Jean Jacques Rousseau (1712 –
1778), - một nhà triết học thuộc trào lưu Khai sáng có ảnh hưởng lớn
tới Cách mạng Pháp 1789, ông viết:
Mọi công lý đến từ Đức Chúa Trời, và Ngài là nguồn gốc duy nhất
của công lý; nhưng nếu chúng ta biết cách tiếp nhận nguồn công lý cao
siêu như vậy thì chúng ta sẽ chẳng cần đến chính phủ và luật pháp. Hiển
nhiên là phải có một loại công lý có tính phổ cập đến tất cả mọi người, và
từ lý trí mà ra; nhưng muốn được chúng ta chấp nhận, thì công lý này
phải có tính tương hoán giữa người với người. Cứ theo bản tính của con
người mà nói thì luật pháp của công lý thiên nhiên không có hiệu quả với
con người, vì thiếu tính chế tài; chúng chỉ làm lợi cho kẻ xấu và làm hại
người công bằng, vì người công bằng tôn trọng luật pháp với tất cả mọi
người, trong khi kẻ xấu thì lại bất tuân luật lệ. [ 8,tr.75]
21. 16
Quan niệm như vậy đồng nghĩa với việc J.J. Rousseau cho rằng, công lý
là luật cơ bản, là luật tự nhiên của xã hội nhưng phải được ghi nhận, thể hiện
qua các quy định pháp luật. dDây cũng chính là đòi hỏi của ông về tính đảm
bảo công lý của pcháp luật.
1.1.1.4.Thời kỳ hiện đại
Trong xã hội hiện đại, những giải thích về công lý có khuynh hướng tập
trung vào việc làm thế nào để xã hội có thể phân phối một cách công bằng
nhất những gánh nặng và phúc lợi của đời sống xã hội.
Trong tác phẩm xuất bản gần đây tại Việt Nam “ Công lý: Đâu là việc
đúng nên làm?, giáo sư Michael Sandel của Đại học Harvard đã đặt ra rất
nhiều giả thuyết, nhiều trường hợp thực tế và đưa những dòng tư tưởng khác
nhau của các học thuyết để xử lý cho những tình huống đó. Từ đó, ông cho
chúng ta nhiều cách nhìn về việc xác định đâu là công lý. Công lý dựa trên
nguyên tắc của hành động hay công lý dựa trên nguyên tắc của kết quả của
hành động đó, vẫn là nhiều vấn đề gây tranh cãi.
Một trong những quan niệm về công lý giai đoạn này được đưa ra bởi
Raymond Wacks, giáo sư danh dự về Luật và Lý thuyết pháp luật ở trường
Đại học Hồng Kông với chuyên môn về các lĩnh vực lý thuyết pháp luật,
nhân quyền và quyền riêng tư. Ông có một số quan điểm về công lý, được
trình bày trong tác phẩm Triết học luật pháp: “Công lý, trong bất kỳ tình
huống nào, không hề là một khái niệm đơn giản”[18, tr.112], “Công lý giữa
những cá nhân cũng không kém phần khó giải quyết so với sự thách thức của
công bằng xã hội: sự tạo dựng những thể chế xã hội và chính trị để chia phần
chiếc bánh một cách công bằng” [18, tr.115].
Lý thuyết tìm kiếm sự thật (The truth-finding theory), một trong những
học thuyết có nhiều ảnh hưởng trong lĩnh vực tố tụng tại các quốc gia có hệ
thống pháp luật phát triển, cũng nhấn mạnh rằng mặc dù các cơ chế tố tụng
22. 17
đều hướng tới việc tìm ra sự thật khách quan của vụ việc nhưng công lý và
sự thật khách quan của vụ việc không hoàn toàn đồng nhất. Công lý là một
điều gì đó rộng lớn và có ý nghĩa sâu sắc hơn so với sự thật. Sự thật khách
quan của vụ việc chỉ là một trong những thành tố cơ bản của công lý. John
Rawls (1921-2002), nhà triết học chính trị hàng đầu và đại biểu nổi tiếng của
chủ nghĩa tự do của Mỹ trong tác phẩm “Một lý thuyết về công lý” (A
Theory of Justice) đã đề cập công lí là cái đặc tính đầu tiên của các thể chế
xã hội, cũng hư chân lý là đặc tính của hệ tư tưởng. Cái đặc tính trước tiên ở
đây lại chính là cái lý tính thực tiễn của I.Kant trong Phê phán lý tính thực
tiễn, là tính thứ nhất, hay nó là cái đức hạnh tinh thần, đức hạnh trí tuệ. Đó là
cái ước muốn tối thượng, là một hình thức hoạt động tinh thần nào đó. Do
vậy, với Rawls, cái thiện trước hết và dứt khoát phải là cái đúng, cũng như
thế cái công lý là đúng, là thiện , là sự hoàn thiện tối cao trong những trật tự
khác nhau của nhận thức, chúng giúp cho mỗi người nhận thấy một cách
chính xác lợi ích riêng của mình trong mọi tình huống, chúng bổ sung cho
nhau, tôn vinh nhau và là điều kiện không thể thiếu được của cuộc sống.
Ông cho rằng, công lý là mẫu mực của cuộc sống, là cái tiên thiên của luật
pháp, nó giúp cho luật pháp giữ gìn sự thanh bình của cuộc sống, nó đảm bảo
sự ổn định và phát triển của kinh tế… Công lý như là cái thế thăng bằng của
xã hội, bản thân nó là ở chính giữa, nếu thái quá nó sẽ là bất công, thiếu sót
nó sẽ làm tổn hại xã hội, công lý còn là bình đẳng, nó có khoảng cách như
nhau giữa lợi ích và sự mất mát hay thua thiệt trong quan hệ xã hội. Coi công
lý như là công bằng – một phẩm hạnh trọn vẹn, một đặc tính của các thể chế
xã hội, Rawls đã theo sát ý tưởng của Kant về Lý tính thực tiễn, mà xa hơn
nữa là ý tưởng của Platon và Aristote về luân lý. Với ý nghĩa này, công lý là
niềm tin của luật pháp, là hạt nhân của đạo đức và là điều kiện tiêu quyết của
xã hội công dân.
23. 18
Ông còn cho rằng, không thể có công lý khi tự do của một nhóm cá
nhân bị hy sinh để đem lại lợi ích cho một tập thể lớn hơn. Công lý không
cho phép vì lợi ích của nhiều người, bắt vài người phải hy sinh. Do vậy trong
một xã hội công bằng thì sự bình đẳng về các quyền công dân và các quyền
tự do đối với tất cả mọi người là không thể thay đổi; những quyền được công
lý bảo đảm thì không thể đem ra mặc cả về chính trị hay những tính toán về
lợi ích xã hội.
Theo Từ điển Luật học (1999), “Công lý có nghĩa là lẽ phải, lẽ công
bằng, phù hợp với pháp luật đương thời, không thiên lệch, không tư vị. Chế
độ nào cũng coi tòa án là tượng trưng cho công lý, là cơ quan công lý của
chế độ ấy”. [26,tr.108,109]
Ở Việt Nam hiện nay, trong lĩnh vực tư pháp, công lý và bảo vệ công lý
được xác định là một trong những mục tiêu cơ bản của Chiến lược cải cách
tư pháp của Việt Nam đến năm 2020. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02
tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm
2020 và Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã khẳng
định yêu cầu xây dựng cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân
trong việc bảo vệ công lý và quyền con người. Chiến lược cũng xác định rõ
mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm
minh và bảo vệ công lý. Hoạt động tư pháp mà trong đó toà án được xác
định giữ vị trí trung tâm và công tác xét xử là hoạt động trọng tâm cần phải
được tiếp tục cải cách, nâng cao chất lượng, bảo đảm có hiệu lực và hiệu quả
cao. Thủ tục hành chính trong các cơ quan tư pháp cần tiếp tục được đổi mới
nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý. Các thủ tục,
quy trình tố tụng cần tiếp tục được rà soát, hoàn thiện nhằm tạo một cơ chế
tiếp cận công lý hữu hiệu, phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam.
24. 19
Như vậy, khái niệm công lý trong Chiến lược cải cách tư pháp là công
lý trong lĩnh vực tư pháp xét xử. Công lý ở đây được hiểu là yêu cầu xử lý
các vụ việc bằng các thủ tục tố tụng công bằng, hợp pháp nhằm bảo vệ lợi
ích của xã hội và bảo vệ các quyền con người một cách nghiêm minh. Công
lý trong tư pháp xét xử không chấp nhận hiện tượng còn để xảy ra tình trạng
oan, sai trong điều tra, bắt, giam giữ, truy tố và xét xử. Công lý trong tư pháp
xét xử cũng đòi hỏi sự đồng thuận cao của xã hội đối với cơ chế tố tụng, cơ
quan tư pháp và các bản án, quyết định của cơ quan tư pháp. Các giá trị cao
cả của lẽ phải, đạo lý, lương tâm, lương tri, đạo đức, sự vị tha, lòng trắc ẩn
và các giá trị tiến bộ xã hội khác cần phải là điểm tựa, là các chuẩn mực để
soi rọi các bản án, quyết định của cơ quan tư pháp.
1.1.2. Mối liên hệ giữa công lý với một số khái niệm khác
1.1.2.1. Công lý và công bằng
Công bằng, cũng như công lý, đều là những khái niệm trừu tượng và có
nhiều quan điểm, cách hiểu khác nhau. Nhưng tựu trung lại có hai quan điểm
được nhiều người thừa nhận. Thứ nhất, công bằng theo nghĩa là tất cả các đối
tượng có hoàn cảnh, điều kiện như nhau đều được đối xử như nhau trong
những trường hợp nhất định (Công bằng theo chiều ngang). Hay nói cách
khác, đối tượng có hoàn cảnh, điều kiện khác nhau thì cần phải được đối xử
khác nhau (Công bằng theo chiều dọc). Thứ hai, công bằng là việc cá nhân
được nhận thành quả (phân phối, hưởng thụ) ở mức tương xứng với sự đóng
góp của mình.
Trong từ điển bách khoa Triết học (Liên xô cũ):
Công bằng là khái niệm đạo đức- pháp quyền, đồng thời cũng là
khái niệm chính trị- xã hội. Khái niệm công bằng bao hàm trong nó yêu
cầu về sự phù hợp giữa vai trò thực tiễn của cá nhân (nhóm xã hội) với
địa vị của họ trong đời sống xã hội, giữa những quyền và nghĩa vụ của
25. 20
họ, giữa làm và hưởng, giữa lao động và sự trả công, giữa tội phạm và
sự trừng phạt, giữa công lao và sự thừa nhận của xã hội. Sự không phù
hợp trong những quan hệ đó dược đánh giá là sự bất công. [24]
Công lý và công bằng, hai khái niệm này có mối liên hệ chặt chẽ với
nhau, và có sự đồng nhất một cách tương đối. Trong tiếng Anh, từ Justice
được hiểu theo cả hai nghĩa công lý và công bằng, tức là giống nhau. Nhưng
liệu trong thực tế, công bằng và công lý có đồng nhất với nhau hoàn toàn
không. Quả thật, đảm bảo thực hiện công bằng, công lý luôn là hai mục tiêu
hàng đầu trong mọi thể chế, đặc biệt trong công tác tư pháp.
Công lý, thông thường gắn liền với hoạt động pháp luật nói chung, còn
công bằng thì rộng hơn, gắn với mọi hoạt động xã hội. Tùy trong từng
trường hợp cụ thể mà nhấn mạnh tới vai trò của khái niệm nào hơn. Trong
quan hệ phân phối sản phẩm, dễ hiểu như việc phát quà từ thiện, các trẻ em
đều được một phần quà như nhau, không ai khác ai. Hay trong trường hợp
phân chia lợi nhuận trong một công ty, việc phân chia số lượng khác nhau
đối với từng thành viên dựa trên công sức đóng góp của họ cũng là vấn đề
công bằng, công bằng giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa cống hiến và hưởng
thụ. Trong các trường hợp này, trọng tâm là công bằng, rõ ràng không đặt ra
vấn đề công lý ở đây. Nhưng khi xử phạt một hành vi vi phạm quy định công
ty đối với công nhân, vấn đề trọng tâm lại là công lý, việc áp dụng các thủ
tục xử phạt, hình thức kỷ luật... đúng hay sai so với quy định của công ty,
quy định của pháp luật. Vấn đề này cũng đúng trong trường hợp người có
thẩm quyền áp dụng các hoạt động tư pháp khác nhau để giải quyết, xử lý vụ
án cụ thể.
Công lý và công bằng nằm trong một mối quan hệ chặt chẽ, chi phối lẫn
nhau. Trong nhiều trường hợp, yếu tố công bằng là nền tảng cần có để đạt
được công lý. Thỏa thuận hợp đồng giữa A và B khiến hai bên đều có quyền
26. 21
và nghĩa vụ đối với phía bên kia. A thực hiện sai nghĩa vụ đối với B và bị
phạt, việc bị phạt cũng đã nói rõ trong hợp đồng. Thoạt nghe, chúng ta cảm
thấy việc phạt hành vi không thực hiện đúng nghĩa vụ đối với A là đúng, đã
có tính công lý ở đây. Nhưng, nếu ngay từ đầu, thỏa thuận này đã không đảm
bảo công bằng, khi A bị cưỡng chế về tâm lý để ký với B, theo đó, A đồng ý
làm cho B việc mà A không thể làm được. Như vậy, việc ký hợp đồng này
liệu có đảm bảo công bằng hay không, khi một bên không được tự do ý chí
ký thỏa thuận với bên kia? Trường hợp này xảy ra rất nhiều trong thực tế,
cho thấy rằng, yếu tố công bằng là điều kiện cần để đảm bảo được công lý.
Trong tác phẩm “Học thuyết về công lý: Công lý như là công bằng”, đặt
trong hoàn cảnh xã hội thời bấy giờ của Rawls, ông dùng “như là” để diễn
đạt quan điểm của mình về công lý cho ta thấy thái độ của ông về công lý
vừa là tuyệt đối, lại vừa là tương đối; công lý vừa chính là công bằng, vừa
không phải hoàn toàn là công bằng, nó đúng với thực tại xã hội Mỹ, một xã
hội tư bản muốn phát triển cũng phải hướng tới mục tiêu công bằng xã hội.
Rawls đã tìm ra và chỉ cho người Mỹ biết cái công lý như là công bằng phải
được thừa nhận và trở thành cái bắt buộc đối với con người. Đây là liều
thuốc làm dịu những mâu thuẫn xã hội về vấn đề công bằng.
Tính công bằng trong quá trình áp dụng luật pháp cũng có vai trò quan
trọng trong việc bảo vệ công lý. Một đạo luật được coi là áp dụng một cách
công bằng nếu nó được áp dụng một cách công khai, minh bạch, không thiên vị
và nhất quán. Bất công sẽ xảy ra nếu những trường hợp tương tự như nhau
không được xử lý bằng một cách thức như nhau. Luật pháp cần xử lý với các
trường hợp như nhau với cách thức như nhau trừ khi có các tình tiết khác.
Qua một số dẫn chứng trên, có thể thấy rằng, công bằng và công lý
không đồng nhất với nhau hoàn toàn, nhưng lại có mối liên hệ chặt chẽ với
nhau, phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể mà ta có thể nhận định yếu tố
nào là chiếm trọng tâm nhiều hơn.
27. 22
1.1.2.2. Công lý và pháp luật
Công lý và pháp luật có mối quan hệ khăng khít, bao hàm lẫn nhau, đặc
biệt trong xã hội hiện đại coi trọng pháp luật. Pháp luật hướng tới công lý và
công lý có trong pháp luật.
“Luật pháp thường được xếp ngang hàng với công lý. Các tòa án được
mệnh danh là “các tòa án công lý”... Các nhà nước lập ra những “bộ tư pháp”
để giám sát việc thi hành của hệ thống pháp lý”. [18, tr.111,112]
Luật pháp hay những quy định pháp luật thường được hiểu là các chuẩn
mực trong hành vi đối xử trong các mối quan hệ trong xã hội, trong tự nhiên
được nhà nước thể chế hóa thành luật, điều chỉnh và duy trì trật tự xã hội,
định hướng phát triển xã hội. Với quan niệm như vậy, ngay từ đầu, luật pháp
bản thân nó đã mang tính công lý. Việc pháp luật gắn liền với công lý trong
trường hợp này như là một “luật tự nhiên” tức là sinh ra pháp luật là phải có
công lý, không thể tách rời. Nhưng khi gắn pháp luật với ý chí của nhà nước
hay ý chí giai cấp thống trị, trong nhiều xã hội, pháp luật lại có chiều hướng
ngược lại, chệch hướng khỏi công lý. Luật pháp trong những nhà nước đó lại
nhằm mục đích đem lại và duy trì sự bất công trong xã hội.
Luật pháp đôi khi đi chệch hướng công lý. Tệ hơn nữa, nó có thể
thật sự là một công cụ của sự bất công, như ở chế độ Đức Quốc xã,
hoặc Nam Phi phân biệt chủng tộc. Mặc dù luật pháp có thể, trong
những xã hội có đạo đức, mong muốn có công lý, sẽ là một sai lầm nếu
xếp cả hai, luật pháp và công lý, vào cùng một loại. [18, tr.112]
Công lý không đồng nghĩa với pháp luật, điều này không khó hiểu, khi
pháp luật thuộc tính đầu tiên là thể hiện tính giai cấp, luôn phụ thuộc vào ý
chí giai cấp thống trị trong xã hội đó. Còn công lý không như vậy, nó mang
tính xã hội nhiều hơn rất nhiều so với pháp luật. Công lý không phải là công
cụ của nhà cầm quyền dùng để quản lý xã hội như pháp luật, mà nó tồn tại
độc lập so với ý chí của giai cấp thống trị.
28. 23
Pháp luật tuy có mục đích là đạt tới công lý, nhưng do bị ý chí giai cấp
thống trị chi phối, bị quan niệm về công lý của giai cấp thống trị áp đặt, phụ
thuộc vào hình thái kinh tế - xã hội của xã hội đó quy định, nên tất yếu, pháp
luật không thể đồng nhất với công lý. Pháp luật đồng nhất với công lý là một
trạng thái xã hội hoàn toàn lý tưởng, gần như không tưởng, vì trong xã hội
luôn có tồn tại nhiều giai cấp khác nhau, với quan điểm “ công lý” khác nhau,
bị chi phối bởi nhiều yếu tố xã hội khác (địa lý, giới tính, tầng lớp kinh tế…).
Luật pháp và công lý có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Luật pháp phục
vụ công lý nếu nó giúp tạo dựng sự bình yên và bảo vệ các quyền cá nhân
của con người bị vi phạm. Công lý không có sự nâng đỡ của luật pháp sẽ trở
lên yếu đuối, mờ nhạt. Luật pháp không dựa trên các giá trị của công lý sẽ
trở lên tàn bạo, hà khắc. Do Luật pháp có thể tự nó lạm dụng quyền lực để vi
phạm các quyền con người hoặc nhằm vi phạm các quyền của bên thứ ba nên
luật pháp, ngoài việc thể hiện ý chí nhà nước của giai cấp thống trị xã hội,
cần phải phản ánh được đầy đủ nhu cầu, lợi ích của toàn xã hội và phải
chuyển tải đầy đủ những giá trị tiến bộ của lương tri, đạo đức, các giá trị
nhân văn, nhân đạo, dân chủ, công lý, công bằng, lẽ phải, bảo đảm và bảo vệ
các quyền con người.
Do đó, xét xử đúng pháp luật cũng không có nghĩa đã là đảm bảo công
lý. Pháp luật chỉ là phương tiện chứa đựng công lý và Tòa án hay trực tiếp là
Thẩm phán chỉ là nơi chuyển tải công lý đó đến với xã hội. Những quy định
của pháp luật cũng chính là sự hạn chế việc đem lại công lý qua việc xét xử
của tòa án, bởi vì họ có nghĩa vụ xét xử theo pháp luật, dù quy định pháp luật
họ áp dụng trong từng trường hợp là chưa đảm bảo công lý.
1.2. Khái niệm và nội dung quyền tiếp cận công lý
1.2.1. Khái niệm quyền tiếp cận công lý
Quyền tiếp cận công lý là một khái niệm mới trong khoa học pháp lý và
hiện nay tồn tài nhiều cách hiểu khác nhau. Các chuyên gia của Ủy ban Đảm
29. 24
bảo pháp lý cho người nghèo của Tổ chức Phát triển thế giới (UNDP) cho
rằng quyền tiếp cận công lý là một trong bốn trụ cột của quá trình bảo vệ
pháp lý cho người nghèo. Trong tập 1 Báo cáo của Ủy ban về đảm bảo pháp
lý cho người nghèo, UNDP nhận xét rằng: “Điều tối quan trọng là phải cải
cách thể chế công và dỡ bỏ các rào cản pháp lý, hành chính vẫn đang ngăn
trở người nghèo dành lấy quyền lợi của họ”. Theo UNDP, quyền tiếp cận
công lý là quyền của người dân được tìm kiếm và đạt được sự đền bù hoặc
khắc phục thông qua các cơ quan tư pháp chính thức và không chính thức,
phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế về quyền con người.
Hiện nay, quyền tiếp cận công lý thường được hiểu theo hai quan điểm
chính:
Thứ nhất: Quyền tiếp cận công lý là quyền được xét xử công bằng. Đây
là cách hiểu mang tính truyền thống và cũng đã được quy định trong luật
quốc tế về quyền con người. Theo cách hiểu này, quyền tiếp cận công lý
được gắn chặt với hoạt động xét xử của Tòa án và trọng tâm của quyền tiếp
cận công lý là việc đảm bảo công bằng giữa các chủ thể trong vụ án, ví dụ
như quyền được bào chữa, quyền được hỗ trợ pháp lý, quyền được kháng
cáo. Có thể thấy, việc nhấn mạnh vào việc các quy định của pháp luật đối với
các chủ thể tham gia tố tụng và thực thi chúng, chứ không hướng tới sự công
bằng thực chất khi áp dụng các quy định đó vào giải quyết vụ án, cách hiểu
này dường như hướng tới hoạt động lập pháp trong lĩnh vực tư pháp vậy, yêu
cầu nhà nước phải thiết lập được cơ chế xét xử đảm bảo các chủ thể tham gia
tố tụng phải được đối xử công bằng với nhau. Và như vậy là chưa đầy đủ,
phiến diện.
Thứ hai: Quyền tiếp cận công lý là quyền tìm kiếm sự đền bù hoặc sự
khắc phục một cách hợp lý cho những bất công hay thiệt hại mà một chủ thể,
đặc biệt là chủ thể thuộc những nhóm xã hội dễ bị tổn thương (người nghèo,
30. 25
người dân tộc thiểu số, người khuyết tật..) phải gánh chịu do những chủ thể
khác gây ra. Đây thực sự là một quan điểm mở, và theo quan điểm như vậy
thì các bất công, thiệt hại được thể hiện không giới hạn ở trong tố tụng hình
sự mà ở trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội như kinh tế, lao động,
dân sự... và việc tìm kiếm sự đền bù, khắc phục được thực hiện thông qua
việc tiếp cận với các thiết chế tư pháp chính thức và không chính thức. Đây
là cách tiếp cận mới, được sử dụng rộng rãi bởi nhiều tổ chức quốc tế, đặc
biệt là UNDP.
So sánh hai quan điểm trên, chúng ta nhận thấy rõ sự thay đổi về mặt
nhận thức liên quan đến khái niệm quyền tiếp cận công lý. So sánh hai quan
điểm truyền thống và hiện đại nêu trên, chúng ta có thể thấy dường như
nguyên nhân chính tạo ra sự thay đổi nhận thức này đó là do những bất cập,
hạn chế trong giải quyết các tranh chấp trong xã hội của các thiết chế tư pháp
chính thức. Đó là các thủ tục rườm rà, phức tạp; thông tin khó tiếp cận; nhiều
định kiến đối với các nhóm xã hội dễ bị tổn thương; chi phí lớn; dễ bị ảnh
hưởng bởi các chủ thể khác…
Đi sâu vào phân tích, tìm hiểu hai quan điểm truyền thống và hiện đại
trên, ta có thể thấy được quan điểm hiện đại đã bù đắp, bổ sung được những
mặt khuyết của quan điểm truyền thống.
Thứ nhất, Về mặt khái niệm, trong khi quan điểm truyền thống chỉ dừng
ở mức coi quyền tiếp cận công lý chỉ là khả năng của cá nhân có thể sử dụng
các dịch vụ pháp lý để có thể được xét xử công bằng thì quan điểm hiện đại
coi mục tiêu của quyền tiếp cận công lý là sự đền bù, khắc phục đối với
những bất công, thiệt hại mà họ phải gánh chịu thông qua các cơ chế tư pháp
chính thức và không chính thức, phù hợp với các nguyên tắc và tiêu chuẩn
quốc tế về quyền con người. Mặt khác, theo quan điểm hiện đại thì cả hai hệ
thống tư pháp chính thức và không chính thức đều có khả năng mang lại sự
đền bù, khắc phục đó.
31. 26
Thứ hai, Về đối tượng mà quyền tiếp cận công lý hướng tới. Theo đó,
quan điểm truyền thống hướng tới tất cả mọi người, không nhấn mạnh một
nhóm người nào cả. Ngược lại, quan điểm hiện đại lại coi sự phân biệt đối
xử giữa các nhóm người trong xã hội là nguồn gốc của sự bất công trong
việc tiếp cận công lý. Theo đó, quan điểm hiện đại về quyền tiếp cận công lý
có trọng tâm hướng tới những nhóm người yếu thế trong xã hội như người
nghèo, người dân tộc thiểu số, người khuyết tật, người mắc bệnh hiểm
nghèo, người phạm tội (tù nhân), người không quốc tích, người tị nạn, người
chuyển giới... Ngoài ra, theo quan điểm này, không những thể nhân, mà
pháp nhân cũng là đối tượng được hướng tới. Bởi vì pháp nhân trong xã hội
hiện đại là một chủ thể đặc biệt quan trọng và xuất hiện ở hầu hết các lĩnh
vực của đời sống xã hội như kinh tế, văn hóa, chính trị... Việc nhóm đối
tượng là cá nhân bị thu hẹp lại và mở rộng về pháp nhân lại có ý nghĩa lớn
trong việc đem lại công lý, công bằng cho mọi đối tượng trong xã hội.
Thứ ba, Về phạm vi tác động.
Theo quan điểm truyền thống, phạm vi tác động của quyền tiếp cận
công lý chủ yếu là các thiết chế tư pháp chính thức như tòa án, viện kiểm sát,
cơ quan điều tra... Cũng dễ hiểu bởi như đã phân tích ở trên, quyền tiếp cận
công lý theo cách hiểu truyền thống nội dung chỉ bao hàm việc đảm bảo
công bằng trong việc xét xử các hành vi vi phạm pháp luật, do đó, những
thiết chế tham gia vào cũng là những thiết chế tư pháp chính thức được quy
định trong các bộ luật tố tụng cụ thể.
Mở rộng hơn, quan điểm hiện đại thừa nhận sự tham gia của nhiều thiết
chế, bao gồm cả các thiết chế tư pháp không chính thức và các hệ thống cơ
quan giam sát như quốc hội, hội đồng nhân dân, các tổ chức xã hội như Mặt
trận Tổ quốc, Công đoàn... Nhiệm vụ của các hệ thống này là để hiện thực
hóa những giải pháp công bằng cho các tranh chấp đã được quy định trong
32. 27
hệ thống pháp luật chính thức và không chính thức. Mỗi cơ quan trên có
chức năng, nhiệm vụ khác nhau, do đó cũng đảm nhận những vai trò khác
nhau trong việc bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận công lý. Cùng với việc
thừa nhận nhiều thiết chế tư pháp không chính thức, quan điểm này còn thừa
nhận áp việc đảm bảo công lý không những chỉ dựa trên cơ sở các quy định
của pháp luật mà còn áp dụng các tập quán, luật tục thích hợp.
Theo các phân tích dựa trên hai quan điểm truyền thống và hiện đại ở
trên, quyền tiếp cận công lý trong Luận văn được học viên tiếp cận và phân
tích dựa trên khía cạnh như sau: Quyền tiếp cận công lý là quyền của người
dân được hưởng thụ/sử dụng những thiết chế trong hệ thống pháp luật để
qua đó, tìm kiếm sự công bằng của các bên trong việc giải quyết các tranh
chấp. Nói cách khác, quyền tiếp cận công lý là nghĩa vụ của Nhà nước cung
cấp các dịch vụ, các thiết chế pháp luật để đảm bảo sự bình đẳng của các
nhóm xã hội trong việc hưởng thụ/sử dụng chúng để tìm lại sự công bằng
trong các tranh chấp.
1.2.2. Cơ sở pháp lý của quyền tiếp cận công lý, sự khá c biê ̣t giữa
quyền tiếp cận công lý và cá c quyền con người khá c
1.2.2.1. Cơ sở pháp lý của quyền tiếp câ ̣n công lý
Quyền tiếp cận công lý, dù hiểu theo quan điểm truyền thống hay hiện
đại, đều có chung cơ sở pháp lý. Điều này đã được ghi nhận ở một trong
những văn kiện quốc tế quan trọng nhất về quyền con người, cụ thể tại Điều
10 về quyền được xét xử công bằng trong Tuyên ngôn quốc tế về quyền con
người: Mọi người đều bình đẳng về quyền được xét xử công bằng và công
khai bởi một tòa án độc lập và khách quan, để xác định các quyền và nghĩa
vụ của họ, cũng như về bất cứ sự buộc tội nào đối với họ.
Quyền được xét xử công bằng là một nội dung bắt buộc của mọi hệ
thống pháp luật, đặc biệt các quốc gia coi trọng pháp luật, dựa vào pháp luật
33. 28
để quản lý xã hội. Quyền được xét xử công bằng bao gồm nhiều quyền riêng
biệt và những yếu tố cấu thành khái niệm quyền được xét xử công bằng cũng
được đề cập ở các những điều khác. Quyền được xét xử công bằng là một
quyền nổi bật trong số những quyền con người được quốc tế ghi nhận. Một
phần vì nó được chi tiết, cụ thể hóa và được giải thích một cách linh hoạt
nhất bởi các tổ chức bảo vệ nhân quyền.
Trong Công ước về các quyền dân sự, chính trị (được thông qua năm
1966 và có hiệu lực thi hành năm 1976) , quyền được xét xử công bằng được
nhắc đến và cụ thể hóa tại Điều 14:
“1. Mọi người đều bình đẳng trước các toà án và cơ quan tài phán. Mọi
người đều có quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một toà án có
thẩm quyền, độc lập, không thiên vị và được lập ra trên cơ sở pháp luật để
quyết định về lời buộc tội người đó trong các vụ án hình sự, hoặc để xác
định quyền và nghĩa vụ của người đó trong các vụ kiện dân sự. Báo chí và
công chúng có thể không được phép tham dự toàn bộ hoặc một phần của
phiên toà vì lý do đạo đức, trật tự công cộng hoặc an ninh quốc gia trong
một xã hội dân chủ, hoặc vì lợi ích cuộc sống riêng tư của các bên tham gia
tố tụng, hoặc trong chừng mực cần thiết, theo ý kiến của toà án, trong những
hoàn cảnh đặc biệt mà việc xét xử công khai có thể làm phương hại đến lợi
ích của công lý. Tuy nhiên mọi phán quyết trong vụ án hình sự hoặc vụ kiện
dân sự phải được tuyên công khai, trừ trường hợp vì lợi ích của người chưa
thành niên hay vụ việc liên quan đến những tranh chấp hôn nhân hoặc quyền
giám hộ trẻ em.
2. Người bị cáo buộc là phạm tội hình sự có quyền được coi là vô tội
cho tới khi hành vi phạm tội của người đó được chứng minh theo pháp luật.
34. 29
3. Trong quá trình xét xử về một tội hình sự, mọi người đều có quyền
được hưởng một cách đầy đủ và hoàn toàn bình đẳng những bảo đảm tối
thiểu sau đây:
a) Được thông báo không chậm trễ và chi tiết bằng một ngôn ngữ mà
người đó hiểu về bản chất và lý do buộc tội mình;
b) Có đủ thời gian và điều kiện thuận lợi để chuẩn bị bào chữa và liên
hệ với người bào chữa do chính mình lựa chọn;
c) Được xét xử mà không bị trì hoãn một cách vô lý;
d) Được có mặt trong khi xét xử và được tự bào chữa hoặc thông qua
sự trợ giúp pháp lý theo sự lựa chọn của mình; được thông báo về quyền này
nếu chưa có sự trợ giúp pháp lý; và được nhận sự trợ giúp pháp lý theo chỉ
định trong trường hợp lợi ích của công lý đòi hỏi và không phải trả tiền cho
sự trợ giúp đó nếu không có đủ điều kiện trả;
e) Được thẩm vấn hoặc yêu cầu thẩm vấn những nhân chứng buộc tội
mình, và được mời người làm chứng gỡ tội cho mình tới phiên toà và thẩm
vấn họ tại toà với những điều kiện tương tự như đối với những người làm
chứng buộc tội mình;
f) Được có phiên dịch miễn phí nếu không hiểu hoặc không nói được
ngôn ngữ sử dụng trong phiên toà;
g) Không bị buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc
phải nhận là mình có tội.
4. Tố tụng áp dụng đối với những người chưa thành niên phải xem xét
tới độ tuổi của họ và mục đích thúc đẩy sự phục hồi nhân cách của họ.
5. Bất cứ người nào bị kết án là phạm tội đều có quyền yêu cầu toà án
cấp cao hơn xem xét lại bản án và hình phạt đối với mình theo quy định của
pháp luật.
35. 30
6. Khi một người bị kết án về một tội hình sự bởi một quyết định chung
thẩm và sau đó bản án bị huỷ bỏ, hoặc người đó được tha trên cơ sở tình tiết
mới hoặc phát hiện mới cho thấy rõ ràng có sự xét xử oan, thì người đã phải
chịu hình phạt theo bản án trên, theo luật, có quyền yêu cầu được bồi
thường, trừ trường hợp cơ quan tố tụng chứng minh rằng việc sự thật không
được làm sáng tỏ tại thời điểm đó hoàn toàn hoặc một phần là do lỗi của
người bị kết án gây ra.
7. Không ai bị đưa ra xét xử hoặc bị trừng phạt lần thứ hai về cùng một
tội phạm mà người đó đã bị kết án hoặc đã được tuyên trắng án phù hợp với
pháp luật và thủ tục tố tụng hình sự của mỗi nước.”
Quyền được xét xử công bằng cũng được viện dẫn lại trong nhiều văn
kiện quốc tế khác như:
- Điều 6 Công ước nhân quyền châu Âu quy định: “Trong việc xác định
các quyền và nghĩa vụ cũng như bất cứ sự buộc tội nào đối với họ, mọi
người đều có quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một tòa án độc
lập và khách quan trong một khoảng thời gian hợp lý. Phán quyết sẽ được
tuyên bố công khai tuy nhiên báo chí và công chúng có thể không được phép
dự toàn bộ hoặc một phần phiên xét xử vì lí do về đạo đức, trật tự công cộng
hoặc an ninh quốc gia trong một xã hội dân chủ, hoặc khi việc giữ kín đời tư
của các bên tham gia tố tụng đòi hỏi, hoặc trong những hoàn cảnh đặc biệt,
tòa án xét thấy việc xét xử công khai có thể làm phương hại đến việc tìm ra
công lý”.
- Điểm a Điều 5 Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt
chủng tộc năm 1965: “các quốc gia thành viên cam kết sẽ cấm và xóa bỏ sự
phân biệt chủng tộc dưới mọi hình thức và đảm bảo quyền bình đẳng trước
pháp luật của tất cả mọi ngườii, không phân biệt chủng tộc, màu da, nguồn
gốc quốc gia hay sắc tộc, đặc biệt trong việc hưởng những quyền sau đây: a)
36. 31
Quyền được đối xử bình đẳng trước các tòa án cũng như trước các cơ quan
tài phán khác…”.
- Koản 2 Điều 15, Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử
chống lại phụ nữ năm 1979: “…Các quốc gia thành viên phải trao cho phụ
nữ quyền bình đẳng trong việc giao kết hợp đồng, quản lý tài sản, đối xử với
họ một cách bình đửng trong tất cả các giai đoạn tố tụng trướcc các tòa án
và cơ quan tài phán”.
- Khoản 1 Điều 18 Công ước quốc tế về bảo vệ quyền của tất cả những
người lao đọng di trú và các thành viên gia đình họ: “Người lao động di trú
và các thành viên gia đình họ có quyền bình đẳng đối với các công dân của
quốc gia liên quan trước các tòa án. Trong việc xác định bất cứ cáo buộc
hình sự nào đối với họ, hoặc về các quyền và nghĩa vụ của họ trong một vụ
kiện, người lao động di trú và các thành viên gia đình họ có quyền được xét
xử công bằng, và công khai bởi một tòa án có thẩm quyền, độc lập và khách
quan, được thành lập theo pháp luật”.
…
1.2.2.2. Sự khác biê ̣t giữa quyền tiếp câ ̣n công lý và các quyền con
người khác
Quyền tiếp câ ̣n công lý , như phân tích ở trên , theo đó cũng là một
quyền cơ bản trong hê ̣thống quyền con người . Tuy nhiên, quyền tiếp câ ̣n
công lý cũng có một số đă ̣c trưng khác với các quyền con người khác, cụ thể:
Thứ nhất, quyền tiếp câ ̣n công lý , với cơ sở pháp lý là q uyền xét xử
công bằng chỉ xuất hiê ̣n khi có sự viê ̣c phát sinh tranh chấp giữa các bên và
nguyê ̣n vọng được đòi la ̣i sự công bằng của các bên . Các quyền con người
khác, như quyền sống, quyền được bảo đảm bí mâ ̣t riêng tư , quyền được bất
khả xâm phạm về sức khỏe , tính mạng, thân thể… luôn hiê ̣n hữu dù bất kể
trong trường hợp nào . Nhưng quyền tiếp câ ̣n công lý không như vâ ̣y , nó chỉ
37. 32
phát sinh khi có hành vi vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của một cá nhân
bởi một cá nhân /thể nhân khác . Và cá nhân bị xâm phạm đó có nhu cầu ,
nguyê ̣n vọng đòi hỏi một sự đền đáp , khắc phục từ phía người có hành vi
xâm pha ̣m, hay nói cách khác, họ muốn được sự công bằng.Có thể nói, hành
vi vi pha ̣m đó là một sự kiê ̣n pháp lý để từ đó , phát sinh quyền tiếp cận công
lý của người dân. Hay nói cách khác, quyền tiếp câ ̣n công lý quyền phát sinh
sau khi các quyền con người khác bi ̣xâm pha ̣m.
Thứ hai, Đối tượng xâm pha ̣m quyền tiếp câ ̣n công lý , thường là các cơ
quan tiến hành tố tụng . Các quyền con người khác , hầu như bi ̣xâm pha ̣m
chủ yếu là bởi một cá nhân bất kỳ khi thực hiện hành vi xâm phạm , như đột
nhâ ̣p nơi ở trái ph ép, giết người, đánh người… Tuy nhiên , với đă ̣c thù chỉ
phát sinh khi có hành vi xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân thì
quyền tiếp câ ̣n công lý la ̣i dễ bi ̣xâm pha ̣m bởi chính các cơ quan tiến hành tố
tụng. Ví dụ như việc có nhiều người bị tạm giam , tạm giữ, hay đang chấp
hành hình phạt tù nhưng lại bị chết và gia đình không hài lòng với những lý
do mà cơ quan tiến hành tố tụng đưa ra ; hay viê ̣c cấp giấy chứ ng nhâ ̣n bào
chữa cho Luâ ̣t sư, khi Luâ ̣t sư có niềm tin rằng bi ̣can, bị cáo có nguyện vọng
bào chữa nhưng khi lấy lời cung thì cơ quan điều tra lại cố tình gây khó dễ
không cấp giấy chứ ng nhâ ̣n bào chữa và viê ̣c ra rất nhiều lý do . Rõ ràng, với
những hành vi như vâ ̣y, các cơ quan tiến hành tố tụng đã trực tiếp xâm phạm
tới quyền tiếp câ ̣n công lý của người dân.
Thứ ba, theo nghĩa rộng hay nghĩa hiê ̣n đa ̣i của khái niê ̣m quyền tiếp
câ ̣n công lý đã nêu ở trên, chủ thể của quyền tiếp cận công lý không những là
cá nhân/ con người, mà còn là các tổ chức/ doanh nghiê ̣p… Đây cũng là một
đă ̣c trưng rõ rê ̣t của quyền tiếp câ ̣n công lý . Bởi những quyền khác như
quyền sống, quyền di cư, quyền được đảm bảo về sứ c khỏe ,… là quyền gắn
với con người/cá nhân. Nhưng nếu xét trên khía ca ̣nh xâm pha ̣m quyền và lợi
38. 33
ích hợp pháp thì tổ chức /doanh nghiê ̣p... nói tóm lại là thể nhân cũng là một
loại chủ thể dễ bị xâm phạm. Và rõ ràng, khi bi ̣xâm pha ̣m, thể nhân đó cũng
có quyền đi đòi lại một sự đền bù, khắc phục nào đó đối với mình.
1.2.3. Các bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận công lý
Quyền tiếp cận công lý có cơ sở pháp lý và ý nghĩa sâu sắc trong việc
đảm bảo thực hiện quyền con người. Việc thực hiện quyền tiếp cận công lý
cần được xoay xung quanh 03 trục cơ bản sau đây, đồng thời đó cũng là các
bảo đảm để quyền tiếp cận công lý được thực hiện trong thực tiễn cuộc sống.
1.2.3.1 Hệ thống quyền và nghĩa vụ
Hệ thống quyền và nghĩa vụ hay hệ thống các quy định pháp luật về các
quyền và nghĩa vụ của các cá nhân, pháp nhân trong các hoạt động xã hội là
bảo đảm đầu tiên và là cơ sở của các yếu tố khác.
Vấn đề tiếp cận công lý, theo cả hai cách hiểu truyền thống và hiện đại
đều chỉ đặt ra khi có sự vi phạm của một cá nhân/pháp nhân làm ảnh hưởng,
xâm phạm tới quyền và lợi ích của cá nhân/pháp nhân khác. Có thể đó là
quyền dân sự (ký kết hợp đồng, thừa kế...), quyền chính trị (bầu cử, tham gia
tổ chức chính trị, xã hội...), quyền kinh tế, thương mại... Nhưng chỉ khi nào
quyền và lợi ích hợp pháp đó được pháp luật hóa tức là được ghi nhận tại các
văn bản pháp luật cụ thể do cơ quan có thẩm quyền ban hành. Việc bị thiệt
hại hay việc không thực hiện đúng nghĩa vụ của cá nhân/ pháp nhân không
phụ thuộc vào ý chí chủ quan của các cá nhân. Do vậy, hệ thống quyền và
nghĩa vụ là nền tảng đầu tiên để bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận công lý,
bởi lẽ chỉ khi có một khuôn khổ các quyền và nghĩa vụ pháp lý, mọi người
mới có cơ sở tìm kiếm sự đền bù/khắc phục cho nỗi bất công hay thiệt hại
mà họ đang gặp phải theo một cách thức hợp pháp, an toàn và công bằng.
Gắn quyền tiếp cận công lý với cơ sở là quyền được xét xử công bằng,
nội dung quan trọng chính là hệ thống quyền và nghĩa vụ trong vấn đề xử lý,
39. 34
giải quyết các tranh chấp. Về phía chủ thể của quyền tiếp cận công lý hướng
tới là những cá nhân/pháp nhân thì đây là các quyền đảm bảo cho họ được
tham gia quá trình tố tụng một cách công bằng, bình đẳng. Đối với từng loại
chủ thể khác nhau, các nội dung đảm bảo quyền tiếp cận công lý trong tố
tụng hình sự cũng khác nhau. Chẳng hạn đối với người bị tam giam, người
thi hành án phạt tù: phải được đối xử nhân đạo trong quá trình bị giam giữ,
bao gồm không bị tra tấn, không bị đối xử tàn bộ, không bị bức cung; phải
được bảo đảm các điều kiện sinh hoạt tối thiểu với tư cách con người; phải
được giữ mối liên hệ với thế giới bên ngoài... Hay đối với trẻ em: phải được
quyền bình đẳng với người lớn về mọi quyền tố tụng; không tuyên và thi
hành án tử hình với người dưới 18 tuổi, người phụ nữ có thai hay đang nuôi
con nhỏ, án phạt tù đối với trẻ em phải luôn thấp hơn mức án áp dụng với
người lớn với cùng tội phạm và mức độ hành vi...
Một trong những khác biệt giữa hai cách hiểu truyền thống và hiện đại
liên quan đến quyền tiếp cận công lý đã trình bày ở phần trên, liên quan đến
hệ thống quyền và nghĩa vụ của các chủ thể liên quan. Đó là nguồn áp dụng
hay phạm vi hệ thống các quy định liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các
chủ thể đó. Ở cách tiếp cận truyền thống chủ yếu giới hạn trong việc áp dụng
các quy định pháp luật của nhà nước, được ghi nhận trong các văn bản quy
phạm pháp luật (Luật, Nghị định, Thông tư...). Trong khi đó, cách tiếp cận
mới mở rộng hơn rất nhiều khi nó còn thừa nhận việc áp dụng các nguồn
không chính thức như tập quán pháp hay luật tục, phụ thuộc vào từng trường
hợp cụ thể và cả sự vận dụng linh hoạt giữa các quy định pháp luật quốc gia
với các tiêu chuẩn quốc tế có liên quan đến vụ việc.
Tập quán pháp là những tập quán được Nhà nước thừa nhận có giá trị
pháp lý, trở thành những quy tắc xử sự chung và được Nhà nước đảm bảo
thực hiện. Khi Nhà nước cần điều chỉnh một quan hệ xã hội, thông thường
40. 35
Nhà nước sẽ ban hành các văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, trong
nhiều trường hợp, quan hệ xã hội mà Nhà nước cần điều chỉnh lại đang được
điều chỉnh bởi các quy phạm tập quán. Vì thế, nếu những tập quán này phù
hợp với mục tiêu điều chỉnh các quan hệ xã hội của Nhà nước, nhiều Nhà
nước sẽ sử dụng phương pháp thừa nhận, làm cho tập quán đó trở thành quy
tắc xử sự có tính bắt buộc chung được Nhà nước đảm bảo thực hiện. Như
vậy, để được coi là tập quán pháp thì bản thân quy phạm tập quán đó bắt
buộc phải được Nhà nước thừa nhận bằng một trong hai cách: hoặc thông
qua một quy định mang tính nguyên tắc cho mọi trường hợp, hoặc thông qua
một quy định chi tiết cho từng trường hợp cụ thể.
Việc thừa nhận một số tập quán cũng đã được ghi nhận trong các văn
bản pháp luật. Điều 3 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Trong trường
hợp pháp luật không quy định và các bên không có thỏa thuận thì có thể áp
dụng tập quán; nếu không có tập quán thì áp dụng quy định tương tự của
pháp luật. Tập quán và quy định tương tự của pháp luật không được trái với
những nguyên tắc quy định trong Bộ luật dân sự”. Để cụ thể hóa nguyên tắc
nói trên, trong Bộ luật dân sự năm 2005 cũng đã đưa ra nhiều quy định chi
tiết thừa nhận tập quán trong một số trường hợp xác định, ví dụ Khoản 1
Điều 28 Bộ luật Dân sự năm 2005, quy định: “Cá nhân khi sinh ra được xác
định dân tộc theo dân tộc của cha đẻ, mẹ đẻ. Trong trường hợp cha đẻ và mẹ
đẻ thuộc hai dân tộc khác nhau thì dân tộc của người con được xác định là
dân tộc của cha đẻ hoặc dân tộc của mẹ đẻ theo tập quán hoặc theo thoả
thuận của cha đẻ, mẹ đẻ”. Như vậy tập quán của dân tộc về việc lựa chọn
dân tộc cho con khi cha mẹ khác nhau về dân tộc được nhà nước thừa nhận,
coi như pháp luật. Hoặc Theo Khoản 1 Điều 126 Bộ luật Dân sự năm 2005,
khi giao dịch dân sự có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau thì việc giải
41. 36
thích giao dịch đó có thể được thực hiện theo theo tập quán nơi giao dịch
được xác lập.
Ngoài ra, cũng phải kể đến tập quán quốc tế trong các giao lưu dân sự
theo nghĩa rộng trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập hiện nay. Tại Khoản
4 Điều 759 của Bộ luật Dân sự năm 2005, nguyên tắc áp dụng tập quán quốc
tế được quy định như sau: “Trong trường hợp quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngoài không được Bộ luật này, các văn bản pháp luật khác của nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc hợp đồng dân sự giữa các bên điều
chỉnh thì áp dụng tập quán quốc tế, nếu việc áp dụng hoặc hậu quả của việc
áp dụng không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Trên thực tế, các tập quán này được áp dụng rất
nhiều trong hoạt động thương mại quốc tế.
Tuy nhiên, các quy định dù chính thức hay không chính thức kể trên
vẫn chỉ là yếu tố cần cho việc thực hiện quyền tiếp cận công lý. Ở đây muốn
nói tên việc nội dung của các quy định đó có mang lại sự thuận lợi cho các
bên tranh chấp trong việc tìm kiếm giải pháp công bằng hay không. Đó là
các yêu cầu về mặt toàn diện, nhanh chóng, linh hoạt, công khai, thậm chí
còn liên quan đến vấn đề tài chính cho các bên có liên quan. Việc hoàn thiện
hệ thống pháp luật quốc gia và rà soát, lựa chọn các nguồn luật không chính
thức để áp dụng là một thách thức đòi hỏi sự nỗ lực lâu dài của nhà nước.
Bởi sự vênh giữa các quy định pháp luật với các yêu cầu, đòi hỏi xã hội luôn
luôn tồn tại, nên việc sử dùng các nguồn không chính thức với ý nghĩa là bù
đắp khoảng trống này của pháp luật nhà nước có ý nghĩa rất quan trọng.
1.2.3.2. Hệ thống các cơ quan tham gia giải quyết các tranh chấp
42. 37
Bên cạnh hệ thống pháp luật đầy đủ, toàn diện thì một cột trụ nữa để
đảm bảo quyền tiếp cận công lý được thực hiện đó là hệ thống các cơ quan
tham gia giải quyết các tranh chấp.
Theo quan điểm truyền thống về quyền tiếp cận công lý, các cơ quan
tham gia giải quyết tranh chấp chỉ bao gồm các thiết chế tư pháp chính thức
như Tòa án, Viện Kiểm sát, cơ quan điều tra... vì đây là những cơ quan được
pháp luật quy định và có thẩm quyền tham gia vào các hoạt động tư pháp.
Tuy nhiên, quan điểm hiện đại về quyền tiếp cận công lý đã mở rộng
phạm vi tác động, không chỉ dừng lại ở các thiết chế tư pháp chính thức như
trên mà còn thừa nhận vai trò tham gia giải quyết tranh chấp của các thiết
chế xã hội khác như các cơ quan dân cư, các tổ chức xã hội... bởi đã nói ở
trên, nhiệm vụ của tất cả các cơ quan này là để hiện thực hóa những giải
pháp công bằng cho các tranh chấp nảy sinh trong đời sống xã hội.
Tuy thừa nhận cả hai hệ thống tư pháp chính thức và không chính thức
nhưng rõ ràng, không thể phủ nhận vai trò chủ đạo, quyết định trong việc
bảo đảm các giải pháp công bằng cho các bên tranh chấp. Những trình tự,
thủ tục giải quyết tranh chấp bằng con đường qua các cơ quan này có thể
được chọn lựa là bước đầu tiên, đồng thời nếu sử dụng con đường tư pháp
không chính thức không có kết quả, các bên tranh chấp sẽ lựa chọn cách thứ
hai là qua con đường tư pháp chính thức. Có thể diễn đạt qua mô hình sau:
Giải quyết
các tranh
chấp
Cơ quan tư pháp
chính thức
Cơ quan tư pháp
không chính
thức
Lựa chọn 1
Lựa
chọn 2
43. 38
Hiện nay, do những bất cập của giải quyết tranh chấp qua con đường tư
pháp chính thức cũng như những thuận lợi đem lại của cơ quan tư pháp
không chính thức, việc áp dụng các cơ chế không chính thức để giải quyết
tranh chấp ngày càng phổ biến và trong nhiều trường hợp, nó được ưu tiên
lựa chọn. Tuy nhiên, số lượng các tranh chấp được giải quyết qua hệ thống
tư pháp chính thức vẫn chiếm đa phần hơn so với hệ thống tư pháp không
chính thức. Do đó, có thể nhận thấy vai trò quan trọng của hệ thống tư pháp
chính thức trong việc bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận công lý.
Để giữ vững vai trò chủ đạo quan trọng trong việc bảo đảm thực hiện
quyền tiếp cận công lý, các cơ quan trong hệ thống tư pháp chính thức cần
phải phát huy những ưu điểm vốn có của mình (tính chuyên nghiệp, tính
pháp lý) đồng thời khắc phụ những nhược điểm trong quá trình vận hành cơ
chế giải quyết tranh chấp (tốn kém tài chính, mất nhiều thời gian, thủ tục
rườm rà...). Để làm được việc này, không những cần có những cải cách toàn
diện cả về cơ cấu tổ chức của các cơ quan tư pháp cụ thể, những thủ tục tố
tụng mà còn phải phát triển, đào tạo đội ngũ cán bộ tư pháp có phẩm chất
đạo đức, liêm khiết, công bằng và chuyên nghiệp.
Bên cạnh hệ thống tư pháp chính thức, hệ thống tư pháp không chính
thức cũng đóng vai trò ngày càng quan trọng trong việc hỗ trợ giải quyết các
tranh chấp pháp lý không cần qua tòa án. Các cơ quan thuộc hệ thống tư
pháp không chính thức được thành lập theo quy định của pháp luật, được nhà
nước công nhận, hỗ trợ.
Các cơ quan thuộc hệ thống được sử dụng phổ biến phải kể đến bao gồm:
- Trọng tài: thường được sử dụng để giải quyết các tranh chấp liên quan
đến thương mại và dân sự; quyết định của trọng tài thường có hiệu lực ràng
buộc với hai bên, kể cả khi một trong các bên không đồng ý với quyết định đó.
44. 39
- Hòa giải: được sử dụng giải quyết các tranh chấp nhỏ ở trong phạm vi
khu vực địa lý nhỏ; hòa giải viên phải là những người có uy tín cao đối với
cả hai bên tranh chấp; hình thức thường là cuộc họp giữa các bên để thảo
luận cách xử lý.
- Đánh giá trung lập: đánh giá của một nhóm người có chuyên môn liên
quan vấn đề tranh chấp để cung cấp giải pháp hoặc định hướng giải quyết đối
với hai bên.
Trong một số trường hợp, một trong những hình thức trên được các cơ
quan tư pháp, đặc biệt là tòa án sử dụng trong quá trình tố tụng và nó đóng
vai trò là một khâu bắt buộc trong giải quyết tranh chấp. Như các tranh chấp
liên quan đến hôn nhân gia đình hoặc đất đai...
Ngoài ba hình thức trên, việc giải quyết tranh chấp qua con đường tư
pháp không chính thức còn được sử dụng theo tập quán, hay còn gọi là luật
tục, đặc biệt đối với những tranh chấp phát sinh ở trong cộng đồng có đặc
thù về lối sống, văn hóa, truyền thống phong tục. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý
tới vấn đề phù hợp hay không giữa tập quán và các quy định pháp luật để áp
dụng giải quyết tranh chấp.
Để bảo đảm tính đúng đắn và tin cậy trong hoạt động giải quyết tranh
chấp của các hệ thống cơ quan tư pháp chính thức và không chính thức, cần
thiết phải có hoạt động kiểm sát, giám sát của các cơ quan, tổ chức, đoàn thể
trong xã hội. Trong các cơ quan này, cơ quan dân cử và các tổ chức xã hội dân
sự có vai trò chủ đạo. Các cơ quan như quốc hội, thanh tra, ủy ban chống tham
nhũng, ủy ban bảo vệ quyền con người...cũng thuộc trong hệ thống này.
1.2.3.3. Hệ thống tư vấn pháp lý và trợ giúp pháp lý
Bên cạnh các cơ quan tư pháp chính thức và không chính thức kể trên,
hệ thống tư vấn pháp lý và trợ giúp pháp lý cũng ngày càng chiếm vị trí quan
45. 40
trọng trong việc bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận công lý, đặc biệt đối với
các nhóm xã hội yếu thế (trẻ em, phụ nữ, người khuyết tật...).
Công tác trợ giúp và tư vấn pháp lý, đặc biệt khi kết hợp với công tác
tuyên truyền, giáp dục, người dân được nâng cao, mở rộng sự hiểu biết của
mình đối với các quy định của pháp luật. Đặc biệt đối với những khu vực mà
trình độ hiểu biết pháp luật còn thấp như ở nông thôn, vùng núi, các dân tộc
thiểu số..., qua các buổi tuyên truyền pháp luật của các nhóm, tổ chức trợ
giúp pháp lý, đã có tác dụng tích cực, đem lại những kiến thức căn bản nhất
liên quan đến những vấn đề thiết yếu nhất trong cuộc sống hằng ngày như
hôn nhân gia đình, đất đai, giáo dục, thừa kế, ...
Không những vậy, các tổ chức trợ giúp pháp lý còn cung cấp những
dịch vụ pháp lý miễn phí để giúp người dân trong việc tham gia các hoạt
động tố tụng. Kết hợp với công ty, văn phòng luật sư để tư vấn, đại diện, bào
chữa cho người dân miễn phí; thậm chí trong một số trường hợp với một số
đối tượng, các trung tâm trợ giúp này còn hỗ trợ cả chỗ tạm trú để tạm thời
đem lại an toàn cho họ trong quá trình giải quyết vụ việc. Đối tượng của hoạt
động này hướng đến chủ yếu như phụ nữ bị bạo hành gia đình, trẻ em mồ
côi, trẻ em bị bạo hành, người nghèo... những đối tượng thuộc nhóm yếu thể
mà bản thân họ rất khó khăn để tiếp cận được các cơ quan tư pháp hay các
dịch vụ pháp lý khác.