SlideShare a Scribd company logo
1 of 155
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TĂNG THỊ THU TRANG
QUYỀN TRẺ EM CÓ HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2016
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TĂNG THỊ THU TRANG
QUYỀN TRẺ EM CÓ HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số : 62 38 01 01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS Tường Duy Kiên
HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi. Nội
dung cũng như các số liệu trình bày trong luận án hoàn toàn trung thực. Những kết
luận khoa học của luận án chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Tăng Thị Thu Trang
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU..........................................................................................................................1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ
THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU..................................5
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu................................................................................5
1.2. Cơ sở lý luận và giả thuyết nghiên cứu ...................................................................18
1.3. Hướng tiếp cận của đề tài........................................................................................21
CHƯƠNG 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TRẺ EM CÓ
HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY......................23
2.1. Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt..................................................................................23
2.2. Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt........................................................................34
2.3. Pháp luật Quốc gia về quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ....................................40
2.4. Pháp luật quốc tế về quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.......................................44
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN TRẺ EM CÓ HOÀN
CẢNH ĐẶC BIỆT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY...................................55
3.1. Thực trạng tình hình trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam hiện nay...............55
3.2. Thực trạng qui định và thực hiện pháp luật về quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc
biệt ở Việt Nam hiện nay. ......................................................................................57
3.3. Đánh giá thực trạng qui định và thực hiện pháp luật về quyền trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt ở Việt Nam hiện nay ..................................................................... 105
CHƯƠNG 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN TRẺ EM
CÓ HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ........... 113
4.1. Quan điểm bảo đảm quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam hiện nay.... 113
4.2. Giải pháp bảo đảm quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam hiện nay.... 115
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 140
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 142
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1: Số liệu trẻ em có HCĐB theo từng năm, giai đoạn 2012-2014....................55
Bảng 3.2: Số liệu trẻ em có HCĐB theo vùng, giai đoạn 2012-2014 ...........................56
Bảng 3.3: Mẫu Báo cáo thống kê số liệu đăng ký khai sinh .........................................61
Bảng 3.4: Trẻ em và trẻ em có HCĐB ..........................................................................62
Bảng 3.5: Trẻ em có HCĐB đã được ............................................................................62
Bảng 3.6: Thống kê các tội xâm hại tình dục trẻ em giai đoạn.....................................82
Bảng 3.7: Bảng so sánh tình hình tội phạm hiếp dâm trẻ em........................................83
Bảng 3.8: Tỷ lệ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân ở trẻ em dưới 5 tuổi phân .......................88
Bảng 3.9: Số lượng trường học, lớp học trong phạm vi cả nước ................................108
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Viết đầy đủ
CRC : Công ước quyền trẻ em
DESP : Cục Phòng Chống tệ nạn xã hội
ĐKKS : Đăng ký khai sinh
HCĐB : Hoàn cảnh đặc biệt
ILO : Tổ chức Lao động quốc tế
NCS : Nghiên cứu sinh
NGOs : Tổ chức phi chính phủ
Plan : Tổ chức Phát triển cộng đồng lấy trẻ em là trung tâm
UNESCO : Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá
UNFPA : Quỹ Dân số
UNICEF : Quĩ Nhi đồng Liên Hợp Quốc
VANH : Tổ chức giúp đỡ người tàn tật/khuyết tật
1
MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu về luận án
Hiện nay có nhiều công trình khoa học nói về vấn đề quyền trẻ em và trẻ
em có HCĐB, nhưng để phân tích một cách sâu sắc, toàn diện các vấn đề lý luận
và đánh giá thực trạng qui định, thực hiện pháp luật về quyền trẻ em có HCĐB ở
Việt Nam hiện nay lại là một vấn đề khá mới mẻ. Luận án tập hợp hóa và phân
tích, làm sáng tỏ hơn các vấn đề lý luận về quyền trẻ em, trẻ em có HCĐB như
khái niệm về trẻ em, trẻ em có HCĐB; Phân loại các nhóm quyền trẻ em có
HCĐB theo Công ước Quyền trẻ em và pháp luật Việt Nam; Phân loại và phân
tích cụ thể về từng nhóm trẻ em có HCĐB; đưa ra hệ thống các điều kiện và yếu
tố tác động đến việc bảo đảm quyền trẻ em có HCĐB ở Việt Nam hiện nay. Trên
cơ sở đó, phân tích và đề xuất cách nhìn mới, quan điểm mới về quyền trẻ em có
HCĐB ở Việt Nam hiện nay.
Bên cạnh đó, luận án khái quát, đánh giá, đưa ra bức tranh tổng thể về thực trạng
trẻ em có HCĐB, về các qui định của pháp luật và thực tiễn tổ chức thực hiện pháp luật
về quyền trẻ em có HCĐB. Đánh giá các ưu điểm, hạn chế, yếu kém và nguyên nhân.
Từ đó, xác định các quan điểm và giải pháp bảo đảm quyền trẻ em có HCĐB. Trên cơ
sở phân tích, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền trẻ em có
HCĐB, Luận án đã đưa ra các giải pháp đồng bộ, toàn diện nhằm nâng cao nhận
thức, hoàn thiện pháp luật về quyền trẻ em có HCĐB, tăng cường vai trò của cơ quan
nhà nước, các thiết chế xã hội. Đặc biệt, đã mạnh dạn đề xuất một số giải pháp mang
tính đột phá, như: công tác xã hội hóa bảo vệ quyền trẻ em có HCĐB cũng như tăng
cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này.
2. Lý do chọn đề tài
Việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em cũng chính là việc bảo vệ, chăm sóc
và giáo dục trẻ em có HCĐB, vấn đề này được coi là yêu cầu có ý nghĩa trong chiến
lược của Đảng, Nhà nước ta và của mỗi gia đình cũng như của cộng đồng xã hội, nó đã
và đang thu hút được sự quan tâm hàng đầu của tất cả các quốc gia trên thế giới.
Việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em có HCĐB ở các nước trên thế
giới cũng như ở Việt Nam được tiến hành bằng nhiều phương tiện, cách thức,
hình thức khác nhau như có thể được sử dụng bằng các qui phạm đạo đức, tập
quán, tín điều tôn giáo, các qui định, nội qui, qui chế trong các tổ chức, trường
học, cộng đồng... đặc biệt có một công cụ được coi là hữu hiệu nhất nhằm ràng
2
buộc quyền và trách nhiệm của các chủ thể khi tham gia các mối quan hệ với trẻ
em có HCĐB đó là pháp luật, nghĩa là việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
có HCĐB không chỉ đơn thuần bằng các qui định, qui tắc thông thường mà đã
được trở thành các qui phạm pháp luật mang tính bắt buộc chung. Vì lẽ đó, Liên
Hợp quốc đã thông qua Tuyên ngôn về Quyền trẻ em năm 1959, tiếp đó Đại Hội
đồng Liên hợp quốc cũng đã thông qua Công ước về Quyền trẻ em vào ngày 20
tháng 11 năm 1989 và Công ước bắt đầu có hiệu lực như Luật quốc tế vào ngày 2
tháng 9 năm 1990. Việt Nam là nước đầu tiên ở châu Á và là nước thứ hai trên
thế giới đã phê chuẩn công ước này vào ngày 20 tháng 2 năm 1990. Điều đó thể
hiện sự cam kết mạnh mẽ của Việt Nam với cộng đồng quốc tế về việc bảo đảm
quyền trẻ em có HCĐB trên thực tế.
Ngay sau đó, ngày 12 tháng 8 năm 1991, tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa IX,
Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật Bảo vệ,
Chăm sóc và Giáo dục trẻ em và Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 16 tháng 8
năm 1991 và được sửa đổi, bổ sung năm 2004. Bên cạnh Luật Bảo vệ, Chăm sóc và
Giáo dục trẻ em, Nhà nước ta còn ban hành và chỉnh sửa hàng loạt các qui định trong
các văn bản pháp luật khác về quyền của trẻ em và trẻ em có HCĐB như Luật hình
sự, Luật Lao động, Luật Dân sự, Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Giáo dục, Luật
Quốc tịch, Luật người khuyết tật, luật phòng chống HIV/AIDS, Luật Phòng, Chống
bạo lực gia đình...
Như vậy, việc bảo đảm quyền của trẻ em và trẻ em có HCĐB ở Việt Nam
hiện nay không chỉ bằng những qui định của pháp luật mà còn thông qua vai trò
trách nhiệm của nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội, các tổ chức đoàn thể, các
thiết chế xã hội và các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài… Tuy nhiên
trên thực tế, quyền trẻ em có HCĐB vẫn bị xâm hại nghiêm trọng, việc bảo đảm
quyền của các em còn mờ nhạt, chưa đầu tư và quan tâm thích đáng, do vậy, vẫn
còn tình trạng trẻ em bị xâm hại, lạm dụng, tình trạng lao động trẻ em vẫn còn
diễn ra, nhiều trẻ em phải lang thang kiếm sống hoặc phạm pháp, khuyết tật…
Có thể thấy, tình hình trẻ em có HCĐB ngày càng gia tăng theo các nhóm điển
hình và diễn biến phức tạp với phạm vi rộng. Vì lẽ đó, việc nghiên cứu một cách
toàn diện, sâu sắc vấn đề “Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam hiện
nay” trên cả phương diện lý luận và thực tiễn mang tính cấp thiết và còn là đòi
hỏi thực tiễn hiện nay.
3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về
quyền trẻ em có HCĐB và thực tiễn pháp luật ghi nhận, bảo đảm thực hiện các
quyền trẻ em có HCĐB ở Việt Nam. Từ đó đề xuất, kiến nghị các giải pháp
nhằm bảo đảm quyền của các em.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận án sẽ tập trung làm sáng tỏ 03 nhiệm vụ cơ bản sau:
- Phân tích một cách có hệ thống cơ sở lý luận về quyền trẻ em có HCĐB ở
Việt Nam.
- Thực trạng qui định và thực hiện pháp luật về quyền trẻ em có HCĐB ở
Việt Nam.
- Đề xuất các giải pháp bảo đảm quyền trẻ em có HCĐB ở Việt Nam trong
điều kiện hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là Quyền trẻ em có HCĐB ở Việt Nam hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
4.2.1. Phạm vi nội dung
Luận án được nghiên cứu dưới góc độ lý luận và lịch sử Nhà nước và Pháp
luật, trên cơ sở đó tập trung nghiên cứu về một số quyền của một số nhóm trẻ em có
HCĐB ở Việt Nam hiện nay.
4.2.2. Phạm vi không gian và thời gian
Luận án nghiên cứu các số liệu trong phạm vi cả nước, thời gian 5 năm gần
đây (2009-2014).
5. Đóng góp mới về khoa học của đề tài
Trên cơ sở tham khảo, kế thừa các nguồn tài liệu khoa học, thực tiễn, xác định
mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể của đề tài. Điểm mới chủ yếu của đề tài là
nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện về quyền của trẻ em và trẻ em có HCĐB;
phân tích mối quan hệ biện chứng và sự cần thiết khách quan của việc bảo đảm quyền
trẻ em có HCĐB ở nước ta hiện nay. Đề xuất các giải pháp và biện pháp cụ thể trong
đó nhấn mạnh đến vai trò của nhà nước, các tổ chức xã hội, thiết chế xã hội (gia đình,
trường học…) trong việc bảo đảm quyền trẻ em có HCĐB.
4
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Ý nghĩa khoa học: luận án là công trình nghiên cứu trực tiếp và toàn diện
về quyền trẻ em có HCĐB, góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận và thực tiễn về bảo vệ
quyền trẻ em có HCĐB trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Sau khi hoàn thành, luận án sẽ là công trình khoa học có giá trị
tham khảo cho việc nghiên cứu, học tập về quyền trẻ em có HCĐB.
Ý nghĩa thực tiễn: luận án là nguồn tài liệu tham khảo cho công tác
nghiên cứu lý luận và thực tiễn về quyền trẻ em và trẻ em có HCĐB ở nước ta
hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của luận án là nguồn tài liệu tham khảo trong công tác
giảng dạy, nghiên cứu, hướng dẫn học tập các môn học về quyền trẻ em, trẻ em có
HCĐB trong các nhà trường và cộng đồng. Đồng thời luận án cũng là nguồn tài liệu
tham khảo đối với công tác kết hợp giữa các cấp, các ngành, đặc biệt là giữa gia
đình, nhà trường và xã hội trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em và trẻ em
có HCĐB ở nước ta hiện nay.
Kết quả luận án có ý nghĩa tham khảo cho việc đổi mới, hoàn thiện cơ chế
bảo đảm quyền trẻ em có HCĐB ở Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án có kết
cấu 4 chương:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý luận và phương pháp
nghiên cứu
Chương 2. Những vấn đề lý luận về quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở
Việt Nam hiện nay.
Chương 3. Thực trạng bảo đảm quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam
hiện nay.
Chương 4. Quan điểm và giải pháp bảo đảm quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc
biệt ở Việt Nam hiện nay.
5
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ
LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Vấn đề quyền trẻ em có HCĐB ở Việt Nam hiện nay đã được nhiều học giả
trong nước và nước ngoài quan tâm nghiên cứu dưới nhiều góc độ/khía cạnh hay
ngành khoa học khác nhau như tâm lý học, xã hội học, công tác xã hội, hành chính
học, luật học… Tuy nhiên, chưa có một công trình nghiên cứu nào mang tính toàn
diện, có hệ thống về quyền trẻ em có HCĐB dưới góc độ chuyên ngành lý luận và
lịch sử nhà nước và pháp luật.
Để đạt được mục tiêu đề ra trong luận án là nghiên cứu toàn diện, sâu sắc
về quyền trẻ em có HCĐB ở Việt Nam dưới góc độ chuyên ngành lý luận và lịch sử
nhà nước và pháp luật, đề tài được kế thừa có chọn lọc các kết quả nghiên cứu của
các công trình khoa học khác nhau và tiếp tục làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và
thực tiễn về quyền trẻ em có HCĐB ở Việt Nam hiện nay.
Trên cơ sở nghiên cứu và tổng hợp của NCS, đã có khá nhiều công trình
nghiên cứu ở cấp độ Tiến sỹ, Thạc sỹ, các công trình khoa học thuộc nhiều cấp khác
nhau đã được in thành sách, giáo trình cũng như các bài viết khoa học, các bản tin
được đăng trên các tạp chí chuyên ngành đề cập nội dung có liên quan đến quyền
trẻ em có HCĐB của các học giả trong và ngoài nước (cập nhật
đến tháng 6/2015) NCS tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
theo các nhóm vấn đề tương ứng với các chương trong nội dung luận án.
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu của đề tài ở Việt Nam
- Nhóm nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền trẻ em có HCĐB như các
khái niệm trẻ em, trẻ em có HCĐB, quyền trẻ em và các khái niệm liên quan, phân
loại các nhóm quyền trẻ em, phân loại các nhóm trẻ em có HCĐB.
Khái niệm về trẻ em, trẻ em có HCĐB, quyền trẻ em và các nhóm quyền của
trẻ em, các nhóm trẻ em có HCĐB… không phải là một vấn đề mới, được mổ xẻ,
được nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau như dưới góc độ tâm lý học, triết học,
xã hội học, hành chính học hoặc luật học,… và có thể được đề cập trong các giáo
trình, tài liệu, bản tin, bài báo hay các luận văn, luận án… tuy nhiên, ở góc độ này
hay góc độ khác vấn đề trên còn nhiều tranh cãi, nhiều cách hiểu hay nhiều bình
luận khác nhau, mỗi nhà nghiên cứu có thể dựa vào đặc điểm tâm lý, độ tuổi hay
dựa vào mối quan hệ của trẻ em để xem xét, đây chính là cơ sở để luận án có thể
6
tìm hiểu và phân tích các khái niệm được chặt chẽ hơn, từ đó phát triển và bổ sung
thêm theo hướng nghiên cứu và hoàn thiện dưới góc độ luật học.
Theo góc độ luật học khái niệm trẻ em chủ yếu dựa vào độ tuổi để xác định
như các công trình Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 2004, NXB Chính
trị Quốc gia; Trung tâm nghiên cứu Quyền con người, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, (2009), Giáo trình Quyền trẻ em; GS.TS Võ Khánh Vinh, (2011), Quyền
con người, NXB Khoa học Xã hội. Hoặc ở một số tài liệu khác lại phân tích khái niệm
trẻ em dựa vào từng ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam để luận giải, chẳng
hạn dựa vào luật hình sự, dân sự, lao động, hôn nhân và gia đình, luật hành
chính… Những nghiên cứu trên đã khẳng định độ tuổi nêu trong khái niệm “trẻ em”
hiện nay được qui định trong pháp luật vẫn còn khác nhau, thậm chí chồng chéo nhau,
vì thế, không dễ để mọi người trong xã hội hiểu chính xác về độ tuổi trẻ em mà pháp
luật quy định. Từ đó có thể dẫn đến những hậu quả pháp lý khó lường.
Ở những nghiên cứu trên, NCS đã kế thừa khái niệm trẻ em theo các góc
độ và các ngành luật để phân tích và đưa vào luận án. Từ đó, NCS có thể xây
dựng một khái niệm theo quan điểm của riêng mình về trẻ em đó là: trẻ em là công
dân Việt Nam dưới 18 tuổi, còn non nớt về khả năng nhận thức và điều khiển hành
vi, có đầy đủ các quyền của con người về dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn
hóa, đồng thời các em cũng có những quyền đặc thù theo lứa tuổi của mình.
Khái niệm trẻ em có HCĐB được đề cập ở một số công trình nghiên cứu có
thể kể đến như Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 2004, NXB Chính
trị Quốc gia; Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, (2007), Chính sách và dịch vụ
xã hội đối với các nhóm yếu thế, NXB Lao động-Xã hội, Hà Nội; Khoa Phụ nữ học,
Đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh (2010), Trẻ em trong hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn tập I, II, Ban Xuất bản Đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh… hầu hết dựa vào
hoàn cảnh, môi trường sống của các em. NCS đồng quan điểm với cách định nghĩa
này và kế thừa nó bằng các luận giải cụ thể trong luận án của mình.
Khái niệm quyền trẻ em, vì trẻ em là một thành viên của xã hội, là công dân
đặc biệt của một quốc gia… nên trẻ em cũng được hưởng các quyền giống con
người bao gồm các quyền dân sự, chính trị, quyền kinh tế, xã hội và văn hóa… tuy
nhiên, do trẻ em còn non nớt về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình
nên trẻ em có những quyền đặc biệt phù hợp với lứa tuổi của mình, điều này được đề
cập rất rõ trong các giáo trình, sách tham khảo như: Trung tâm nghiên cứu Quyền con
người, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, (2009), Giáo trình Quyền trẻ em;
Nguyễn Anh Đức (2012), Pháp luật bảo đảm quyền tham gia của trẻ em ở Việt Nam,
7
Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội... Đây được coi là cơ sở lý luận
quan trọng để luận án được kế thừa từ đó sẽ phân tích làm sáng tỏ hơn về quyền trẻ em
có HCĐB. Trẻ em có HCĐB cũng được hưởng các quyền giống như con người và
giống như trẻ em nói chung, chẳng qua các em chỉ là những đứa trẻ có hoàn cảnh thiệt
thòi hơn những trẻ em bình thường khác nên để được hưởng các quyền giống như trẻ
em, các em cũng cần phải có sự hỗ trợ nhất định [82, tr.9].
Phân loại các nhóm quyền trẻ em, “Quyền trẻ em bao gồm quyền sống còn,
quyền bảo vệ, quyền phát triển, quyền tham gia hoặc quyền trẻ em bao gồm quyền
bảo vệ, quyền chăm sóc, quyền giáo dục, quyền giải trí, quyền học tập… cách phân
loại về các quyền của trẻ em nói trên được khẳng định và phân tích dựa trên cơ sở
của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam với nghiên cứu của các tác giả ở các
công trình nghiên cứu khác nhau như: Công ước của Liên Hợp quốc về quyền trẻ
em (1997), NXB Chính trị Quốc gia; Luật bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em,
(2004), NXB Chính trị Quốc gia; Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Trung
tâm nghiên cứu quyền con người (2008), Các văn kiện quốc tế về quyền con người,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội;... Bên cạnh đó, có một số nghiên cứu đi sâu vào
phân tích, đánh giá một quyền nào đó của trẻ em như chỉ nói đến quyền chăm
sóc trẻ em, được đề cập ở tài liệu Unicef Việt Nam, (2004), Phân tích tình hình
chăm sóc trẻ em tại trung tâm và các chương trình chăm sóc thay thế ở Việt
Nam chỉ nói đến quyền bảo vệ trẻ em như luận án tiến sĩ của Lê Thị Phương Nga,
(2007), Pháp luật bảo vệ quyền trẻ em Việt Nam hiện nay... hoặc chỉ nói đến quyền
tham gia của trẻ em, ở luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Anh Đức, (2012), Pháp
luật bảo đảm quyền tham gia của trẻ em ở Việt Nam..., thậm chí có những nghiên
cứu lại chỉ nói đến quyền của trẻ em trong một lĩnh vực pháp luật cụ thể như pháp
luật quốc tịch, pháp luật hình sự, tố tụng hình sự, luật lao động, luật bảo hiểm y tế,
luật giáo dục, luật dân sự…, Chưa có nghiên cứu nào để chỉ ra một cách toàn diện
về các quyền của trẻ em dưới góc độ luật học chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà
nước và pháp luật. Luận án kế thừa hai cách phân loại trên để từ đó phân tích cụ thể
các qui định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam có những điểm tương
đồng trong việc phân loại và các cách phân loại trên không mang tính rạch ròi mà
giữa các quyền luôn có sự giao thoa với nhau dựa trên cơ sở các điều luật được qui
định trong Công ước Quốc tế Quyền trẻ em cũng như trong Luật Bảo vệ, Chăm sóc
và Giáo dục trẻ em. Hay Luận án sẽ kế thừa các cách tiếp cận về quyền trẻ em dựa
trên các lĩnh vực pháp luật hoặc các văn bản pháp luật để từ đó tổng hợp lại các
8
quyền của trẻ em liên quan đến quyền được lao động, quyền được chăm sóc y tế,
quyền được học tập, quyền được thừa kế tài sản…
Các nhóm trẻ em có HCĐB được phân loại ở nhiều nghiên cứu trong đó có
các tài liệu như Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 2004, NXB Chính
trị Quốc gia; Bộ Lao động; Trung tâm nghiên cứu Quyền con người, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, (2009), Giáo trình Quyền trẻ em; Khoa Phụ nữ
học, Đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh (2010), Trẻ em trong hoàn cảnh đặc biệt
khó khăn tập I, II, Ban Xuất bản Đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh… có đưa ra
cách phân loại dựa vào hoàn cảnh, môi trường sống của các em, “trẻ em
có HCĐB bao gồm 10 nhóm: trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi;
trẻ em khuyết tật, tàn tật; trẻ em là nạn nhân của chất độc hóa học; trẻ em nhiễm
HIV/AIDS; trẻ em phải làm việc nặng nhọc, nguy hiểm, tiếp xúc với chất độc hại;
trẻ em phải làm việc xa gia đình; trẻ em lang thang; trẻ em bị xâm hại tình dục; trẻ
em nghiện ma túy; trẻ em vi phạm pháp luật”. Hoặc các tài liệu cũng phân tích rằng
việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em không những chỉ đối với trẻ em nói chung
mà còn bao gồm cả các nhóm trẻ em có HCĐB và nêu lên các nhóm trẻ em
có HCĐB được qui định trong Công ước quốc tế Quyền trẻ em năm 1989 bao
gồm: trẻ em tị nạn; trẻ em tàn tật; trẻ em bị ảnh hưởng của xung đột vũ trang; trẻ
em bị bỏ mặc, bị bóc lột hay lạm dụng. Như vậy, các nhóm trẻ em có HCĐB được
qui định trong chương IV Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 2004
cũng phần nào đã có sự phù hợp với Công ước quốc tế Quyền trẻ em năm 1989, đặc
thù hơn về chính trị, văn hóa Việt Nam thì không có nhóm trẻ em tị nạn và trẻ em bị
ảnh hưởng của xung đột vũ trang. Tuy nhiên, trong thực tiễn hiện nay cũng như
trong quá trình nghiên cứu các tài liệu trên tác giả thấy tên gọi của các nhóm trẻ em
này chưa có sự đồng nhất trong các văn bản luật cũng như việc phân loại còn thiếu
so với thực tế. Vì hiện nay theo nhiều nghiên cứu nói về các nhóm trẻ em
có HCĐB phải là trên 10 nhóm. Luận án sẽ kế thừa sự phân loại trên và sẽ bổ sung
thêm các nhóm trẻ em có HCĐB, hơn nữa sẽ đề xuất tên gọi của các nhóm trẻ em
trên cho phù hợp với thực tiễn và phù hợp với các qui định của luật pháp quốc tế.
Chưa có nghiên cứu nào chỉ ra hay đánh giá về các nhóm trẻ em có HCĐB
được xuất hiện theo tiến trình lịch sử xã hội, bởi có nhiều nhóm trẻ em có HCĐB
chỉ xuất hiện trong thời gian gần đây mà trước kia chưa có. Do đó đòi hỏi cần phải
có sự nghiên cứu một cách tổng quát để thấy sự xuất hiện của nhóm trẻ em có
HCĐB càng ngày càng mở rộng, vì vậy, đòi hỏi các quyền của nhóm trẻ em này
cũng mở rộng theo. Với những nghiên cứu trên, NCS đưa ra quan điểm cá nhân của
9
mình về các nhóm trẻ em có HCĐB bao gồm: 10 nhóm trẻ em có HCĐB như trong
Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em và thêm một số nhóm nữa đó là: nhóm
trẻ em bị tai nạn thương tích, nhóm trẻ em bị buôn bán, nhóm trẻ em bị xâm hại/lạm
dụng, nhóm trẻ em lao động sớm…
Tóm lại, các nghiên cứu ở phần này được NCS sưu tầm, nghiên cứu trên các
tài liệu, giáo trình, bản tin, luận văn, luận án… giúp NCS có những hiểu biết sâu sắc
hơn và làm nền tảng lý luận cho luận án, từ đó NCS thấy rõ những yêu cầu trong
luận án của mình cần kế thừa, cần phát triển và cần phân tích sâu hơn, mang tính
thuyết phục hơn đối với các vấn đề lý luận trong chương đầu tiên của luận án làm
cơ sở cho việc nghiên cứu ở các chương tiếp theo.
- Nhóm nghiên cứu thực trạng về quyền trẻ em có HCĐB
Quyền trẻ em có HCĐB cũng chính là quyền của trẻ em nói chung, chỉ khác
ở chỗ trẻ em có HCĐB có những thiệt thòi hơn so với trẻ em nói chung và việc tiếp
cận với các dịch vụ nhằm hưởng quyền có sự khó khăn hơn. Quyền trẻ em có
HCĐB được ghi nhận trong pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế. Pháp luật quốc
gia về quyền của trẻ em nói chung và trẻ em có HCĐB nói riêng có phạm vi điều
chỉnh rộng, liên quan đến nhiều nhóm quan hệ xã hội, đến nhiều ngành luật khác
nhau như Luật Hiến pháp, Luật Quốc tịch, Luật Hành chính, Luật lao động, Luật
Dân sự và Tố tụng Dân sự, Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự, Luật Hôn nhân và Gia
đình, Luật Giáo dục… mỗi ngành luật trên đều bảo vệ quyền trẻ em theo một đặc
thù riêng. Bất cứ một ngành luật nào cũng coi trẻ em là những chủ thể đặc biệt và có
những qui định riêng. Tất cả các qui định của pháp luật đều hướng tới bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của trẻ em, bảo đảm cho trẻ em phát triển bình thường trong sự
đầy đủ về tình cảm và vật chất, trong một môi trường trong sạch, lành mạnh.
Về nội dung này trong quá trình nghiên cứu NCS thấy chúng được đề cập
khá chi tiết ở nhiều nghiên cứu với các cấp độ và góc độ khác nhau, trên cơ sở đánh
giá thực trạng tình hình trẻ em có HCĐB, thực trạng các qui định của pháp luật và
thực hiện pháp luật đối với các quyền trẻ em có HCĐB. Chẳng hạn, trong các cuốn
sách, bản tin, tài liệu và luận văn, luận án Báo cáo chung tổng quan ngành y tế năm
2013, hướng tới bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân http://thuvienykhoa.vn; Bộ
Lao động, Thương binh và Xã hội, (2013), Phân tích, đánh giá chính sách, pháp
luật chăm sóc và bảo vệ trẻ em có HCĐB, NXB Lao động-Xã hội, Hà Nội; Mai Thị
Kim Oanh, Đề tài thực trạng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, Trung tâm Tâm
lý học và Giáo dục học, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam,
http://vnies.edu.vn/detail-thread-view-1-25-272_thuc-trang-giao-duc-ky-nang-song-
10
cho-hoc-sinh-thcs.html; Unicef Việt Nam (2006), Báo cáo rà soát đánh giá chính
sách, pháp luật của Việt Nam về phòng chống lạm dụng, xâm hại trẻ em; Phan Thị
Lan Phương (2015), Quyền trẻ em trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền
Việt Nam - Những đảm bảo pháp lý, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Khoa học
Xã hội... đã phân tích rất rõ về tình hình trẻ em có HCĐB hiện nay so với những
năm trước đây theo xu hướng càng ngày càng tăng bởi nhiều nguyên nhân khác
nhau, hoặc đánh giá thực trạng trẻ em nói chung và trẻ em có HCĐB theo vùng
miền, chẳng hạn cuốn tài liệu của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, (2013),
Phân tích, đánh giá chính sách, pháp luật chăm sóc và bảo vệ trẻ em có HCĐB,
NXB Lao động-Xã hội, Hà Nội, đã đánh giá và đưa ra những số liệu cụ thể về
trẻ em có HCĐB theo các nhóm và số liệu được phân tích theo vùng. Hoặc ở các
nghiên cứu của Cục Bảo trợ Xã hội (2013), Định hướng chính sách và hệ thống văn
bản qui phạm pháp luật trợ giúp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, NXB
Thông tin Truyền thông; Unicef Việt Nam (2004), Phân tích tình hình chăm sóc trẻ
em tại trung tâm và các chương trình chăm sóc thay thế ở Việt Nam, đánh giá tình
hình của trẻ em có HCĐB qua từng năm. Hay ở một số tài liệu có phân tích và đưa
ra số liệu về tình hình của từng nhóm trẻ em có HCĐB qua các năm như tài liệu của
Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (2014), Phân tích tình hình trẻ em khuyết tật ở
Việt Nam, NXB Lao động - Xã hội, Hà Nội; Bộ Lao động Thương binh và Xã hội-
Tổ chức Lao động Quốc tế, (2011), Tìm hiểu về lao động trẻ em, NXB Lao động Xã
hội; Trần Đức Châm, (2013), Công tác xã hội với trẻ em làm trái pháp luật; Võ
Trung Tâm, (2011), Thực trạng trẻ em lang thang đường phố tại thành phố Hồ Chí
Minh nhìn từ góc độ quản lý nhà nước, Luận văn thạc sĩ Quản lý nhà nước, Học
viện Hành chính Quốc gia; ... Như vậy, tất cả các nghiên cứu trên đã cung cấp các
số liệu mang tính tương đối đầy đủ về tình hình trẻ em có HCĐB qua các năm gần
đây và cũng phân tích các số liệu đó dựa trên cơ cấu vùng miền, dựa vào từng nhóm
trẻ em có HCĐB, tuy nhiên, ở các công trình nghiên cứu trên chỉ thống kê đơn
thuần các số liệu theo định lượng mà không phân tích, đưa ra những số liệu mang
tính tổng quát chung và số liệu theo cơ cấu vùng miền, theo giới tính, theo dân
tộc…về tình hình trẻ em có HCĐB. Do vậy, luận án sẽ phải tiếp tục phân tích, đánh
giá các số liệu theo mốc thời gian cụ thể như có thể tính theo mốc thời gian từ khi
Việt Nam tham gia Công ước Quốc tế Quyền trẻ em hoặc theo hiệu lực ban hành
của Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em cho đến nay và đưa ra những con số
chính xác về trẻ em nói chung, trẻ em có HCĐB theo từng nhóm, từ đó phân tích
các nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên và sẽ đi sâu phân tích nguyên nhân cơ bản
11
bởi các qui định trong hệ thống pháp luật Việt Nam trong việc bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em có HCĐB.
Về thực trạng các qui định của pháp luật và việc thực hiện pháp luật về
quyền trẻ em và trẻ em có HCĐB cũng được nêu và phân tích ở các bộ luật hay một
số luận án, luận văn và các tài liệu khác như: Bộ luật Dân sự, Bộ Luật Hình sự, Luật
Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em; Luật Giáo dục;Luật Người khuyết tật; Luật
Phòng, Chống HIV/AIDS... hoặc tài liệu của Cục Bảo trợ Xã hội - Bộ Lao động
Thương binh Xã hội (2009), Định hướng chính sách và hệ thống văn bản pháp luật
bảo vệ quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, NXB Thông tin Truyền thông; Nguyễn
Hải Hữu (2012), Một số văn bản về Chăm sóc, Giáo dục và Bảo vệ trẻ em trong
tình hình mới, Cục Bảo vệ, Chăm sóc trẻ em; ...
Như vậy, có thể thấy rằng những đánh giá trong các tài liệu trên hoàn toàn
phù hợp với thực tiễn hiện nay về việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
có HCĐB, tuy nhiên, các tài liệu trên chưa đưa ra những đánh giá về tình trạng trẻ
em có HCĐB theo xu hướng càng ngày càng gia tăng đối với một số nhóm và một
số nhóm lại có xu hướng giảm, hơn nữa, chưa đánh giá về thực trạng ban hành, thực
thi những chính sách, pháp luật mới trong việc chăm sóc, trợ giúp trẻ em
có HCĐB. Cũng như chưa có một nghiên cứu nào đánh giá về thực trạng các quyền
trẻ em có HCĐB bị xâm hại mà chủ yếu được đề cập tản mạn ở các bản tin, bài viết.
Luận án được kế thừa phần nào về những đánh giá trên, từ đó phân tích sâu hơn,
mang tính thuyết phục hơn và làm rõ hơn về những chính sách, pháp luật trong giai
đoạn hiện nay có liên quan đến hoạt động chăm sóc và trợ giúp trẻ em
có HCĐB. Nhất là sẽ đánh giá về thực trạng chính sách hỗ trợ cho từng nhóm trẻ
em có HCĐB đang được chăm sóc tại cộng đồng. Giúp cho chúng ta có những cách
nhìn thấu đáo hơn về sự phù hợp của pháp luật với chủ trương,chính sách của Đảng
về quyền trẻ em có HCĐB, về thể chế bảo đảm quyền trẻ em có HCĐB, về chủ thể
thực thi pháp luật bảo đảm quyền trẻ em có HCĐB hay về cơ chế bảo đảm quyền trẻ
em có HCĐB. Đây cũng là nguồn thông tin có giá trị và có thể được sử dụng để
phân tích các yếu tố liên quan đến thực trạng ghi nhận và bảo đảm quyền trẻ em có
HCĐB ở Việt Nam hiện nay.
- Nhóm nghiên cứu về quan điểm và giải pháp bảo đảm quyền trẻ em có HCĐB.
Giải pháp hoàn thiện pháp luật về Quyền trẻ em và trẻ em có HCĐB bao
gồm những nội dung như“cần thay đổi tên Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ
em thành Luật Quyền trẻ em, cần nâng độ tuổi trẻ em từ 16 lên 18 và cần có sự
thống nhất về độ tuổi ở các ngành luật: luật Lao động, luật Dân sự, luật Hình
12
sự”… được đề cập trong cuốn sách của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội
(2013), Phân tích, đánh giá chính sách, pháp luật chăm sóc và bảo vệ trẻ em có
HCĐB, NXB Lao động Xã hội, Hà Nội [8, tr.48] hay cuốn Chính sách và dịch vụ xã
hội đối với các nhóm yếu thế, NXB Lao động - Xã hội, Hà Nội [6, tr.73]…
Điểm qua các qui định pháp luật liên quan đến trẻ em và trẻ em có HCĐB,
chúng ta thấy rằng, có nhiều quy định về độ tuổi trẻ em và rồi từ đó nhiều người
không hiểu rõ, dẫn đến những hậu quả pháp lý khó lường. Điều này các nhà làm
luật cần cân nhắc, suy nghĩ.
Hoặc một số tài liệu Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, (2013), Phân
tích, đánh giá chính sách, pháp luật chăm sóc và bảo vệ trẻ em có HCĐB, NXB
Lao động-Xã hội, Hà Nội; Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (2007), Chính sách
và dịch vụ xã hội đối với các nhóm yếu thế, NXB Lao động - Xã hội, Hà Nội... phân
tích các điểm cần thiết trong việc hoàn thiện Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ
em như: tăng độ tuổi của trẻ em nhằm phù hợp với luật pháp quốc tế, phân loại các
nhóm trẻ em có HCĐB cần phải mở rộng và cụ thể hơn, như cần bổ sung thêm
nhóm trẻ em bị tai nạn thương tích; trẻ em bị bạo hành gia đình; trẻ em là nạn nhân
của thảm họa, thiên tai… Riêng đối với nhóm trẻ có HIV/AIDS cần có những qui
định cụ thể về hành vi của những người không tiếp nhận trẻ có HIV/AIDS để chăm
sóc y tế và giáo dục hoặc về phía gia đình, các thành viên trong gia đình có hành vi
hành hạ, sỉ nhục, xúc phạm đến trẻ có HIV/AIDS cần có cơ chế giám sát và chế tài
cụ thể. Cần có văn bản pháp luật qui định rõ về các hành vi kỳ thị, phân biệt đối xử
với trẻ em có HIV/AIDS.
Các tài liệu khác như: cuốn sách của tác giả Nguyễn Đăng Dung, (2011),
Bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương trong tố tụng hình sự, NXB Đại học Quốc gia Hà
Nội; Phạm Thị Hải Hà (2012), Qui định của nhà nước trong khám, chữa bệnh cho
trẻ em lý luận, thực trạng, giải pháp, Luận văn thạc sĩ Quản lý hành chính công,
Học viện Hành chính Quốc gia; Nguyễn Thị Huyền (2012), Pháp luật quốc tế, pháp
luật nước ngoài về bảo vệ quyền trẻ em, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Quốc gia
Hà Nội… cũng đề xuất về vấn đề hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền trẻ em,
chẳng hạn, kiện toàn hệ thống thực thi quyền trẻ em. Bên cạnh việc hoàn thiện pháp
luật, cơ chế, chính sách các nghiên cứu trên còn phân tích về sự cần thiết trong việc
tuyên truyền, phổ biến pháp luật về quyền trẻ em; kiện toàn hệ thống thực thi quyền
trẻ em trong đó quan tâm đến sự phối hợp liên ngành trong việc bảo đảm các quyền
của trẻ em, Bộ Tư pháp, Bộ Lao động Thương Binh và Xã hội có trách nhiệm bảo
đảm quyền bảo vệ trẻ em, Bộ Y tế bảo đảm quyền chăm sóc trẻ em và Bộ Giáo dục
13
và Đào tạo bảo đảm quyền giáo dục trẻ em; Cần có sự phối hợp giữa gia đình, nhà
trường và xã hội trong việc giáo dục, chăm sóc và bảo vệ trẻ em; Nâng cao năng
lực chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, viên chức làm việc trong lĩnh vực trẻ
em. Ở luận văn thạc sĩ của tác giả Võ Trung Tâm [74, tr.98] nói đến các giải pháp
nhằm phòng ngừa và làm giảm thiểu tình trạng trẻ em lang lang tại địa phương với
nhiều giải pháp khác nhau.
Trong báo cáo của tổ chức Word Vision Việt Nam, Báo cáo tổng kết hỗ trợ
trẻ em được hưởng lợi nền giáo dục chất lượng [101, tr.48], và cuốn tài liệu của
Unicef, Xây dựng môi trường bảo vệ trẻ em Việt Nam [90, tr.63]; hoặc bài viết của
tiến sĩ Nguyễn Hải Hữu, Thấy gì từ hệ thống bảo vệ trẻ em trên thế giới [36, tr.12]
khẳng định về sự cần thiết phải có những qui định“về quyền giáo dục/học tập của
trẻ em có HCĐB và chỉ ra trách nhiệm của các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc
tiếp nhận trẻ em có HCĐB tham gia giáo dục hòa nhập”. Đây được coi là một
quyền quan trọng của trẻ em có HCĐB, tuy nhiên trong thực tế ở một số địa phương
ngay cả ở Thủ đô Hà Nội cũng đã có những cơ sở giáo dục không tiếp nhận trẻ em
có HCĐB vào môi trường giáo dục hòa nhập nhất là đối với nhóm trẻ em khuyết tật,
trẻ em có HIV/AIDS do nhiều nguyên nhân khác nhau trong đó có nguyên nhân cơ
bản là từ sự phản ứng của phụ huynh học sinh. Có thể nói rằng sự cản trở trong việc
thực hiện quyền được giáo dục/học tập của trẻ em có HCĐB không phải từ chính
bản thân các em gây ra hoặc cũng không phải từ chính những trẻ em bình thường
khác mà nó là do chính người lớn trong đó có cả những người có chức trách, có
thẩm quyền trong các cơ sở giáo dục. Mặc dù Pháp luật Việt Nam hiện nay đã có
chế tài xử lý về hành chính đối với những cá nhân và cơ quan chuyên môn trong
việc không tiếp nhận trẻ em có HCĐB tham gia giáo dục hòa nhập, trên cơ sở đó
luận án sẽ kế thừa để có những phân tích và kiến nghị bổ sung thêm về vấn đề này
trên cơ sở chế tài hình sự nhằm phòng ngừa, răn đe và tiến tới xóa bỏ tình trạng cản
trở trẻ em có HCĐB thực hiện quyền học tập của mình.
Như vậy, ở các nghiên cứu trên đã đề ra hàng loạt các giải pháp khác nhau về
việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em và trẻ em có HCĐB, trên cơ sở đó, luận án
sẽ kế thừa và tiếp tục đề xuất các giải pháp mà các nghiên cứu đưa ra trên cơ sở bổ
sung, phân tích và có những luận giải mang tính thuyết phục hơn nữa về các giải
pháp. Ngoài ra, luận án phân tích và đề xuất thêm các giải pháp đối với trẻ em
có HCĐB dựa trên cơ sở chính sách, pháp luật của nhà nước về việc bảo đảm các
quyền học tập, quyền tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc y tế, sức khỏe và các dịch
vụ xã hội khác như tư vấn học nghề, việc làm, hỗ trợ vay vốn… dành cho trẻ em
14
có HCĐB hoặc các biện pháp liên quan đến hoàn thiện cơ cấu tổ chức, nâng cao
năng lực đội ngũ cán bộ, viên chức làm việc với trẻ em có HCĐB, đặc biệt đề xuất
về cơ chế phối hợp giữa các ban ngành, các tổ chức xã hội, gia đình… trong
việc bảo đảm các quyền trẻ em và trẻ em có HCĐB.
Ngoài những công trình được liệt kê ở cả ba nội dung trên thì còn nhiều công
trình nghiên cứu khác ở cả trong nước và quốc tế nghiên cứu trực tiếp hoặc có liên
quan đến vấn đề quyền trẻ em và trẻ em có HCĐB theo quy định của pháp luật Việt
Nam hiện hành. NCS sẽ cố gắng đọc, tìm tòi, học hỏi, tiếp thu và đưa vào luận án
nhằm làm sâu sắc hơn những vấn đề nghiên cứu, phục vụ mục tiêu nghiên cứu,
NCS cũng sẽ tập trung và đi sâu vào ở góc nhìn của luật học theo chuyên ngành Lý
luận và Lịch sử Nhà nước và Pháp luật trong mối quan hệ tổng thể với các ngành
luật khác cũng như trong mối quan hệ với các ngành khoa học khác nhằm phục vụ
mục tiêu nghiên cứu trong tình hình mới.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu của đề tài ở một số nước trên thế giới
- Nhóm các công trình nghiên cứu về trẻ em, quyền trẻ em và trẻ em có HCĐB
Cuốn tài liệu Children’s Rights Under the law, tác giả Samuel Davis, dài 474
trang, 2011, cuốn tài liệu có nội dung nghiên cứu về quyền trẻ em theo luật, xem xét
cách thức qui định của pháp luật về các quyền của trẻ em trong cả hai lĩnh vực luật
Công và luật Tư gồm các quyền của trẻ em ở trường học, quyền về tài sản, lao động
trẻ em, kỷ luật nhà trường, giáo dục pháp luật... Đồng thời cũng nghiên cứu về các
quyết định của Tòa án tối cao liên quan đến mối quan hệ cha-con-nhà nước. Trong
nội dung cuốn sách còn mô tả các chế độ về y tế đối với trẻ em, các quyền tự do cá
nhân của trẻ em, các quyền lợi tài sản của trẻ em và giải quyết các vấn đề xã hội
liên quan đến trẻ em phát sinh trong môi trường giáo dục.
Tuyển tập công trình với tiêu đề “Bảo vệ gia đình, bảo vệ trẻ em-giữ gìn
tương lai của chúng ta” được xuất bản dưới sự bảo trợ của Quĩ “Quyền trẻ em”
Chủ biên S.Pronina, 2012. Trong công trình này, tác giả công bố rất nhiều nghiên
cứu liên quan đến bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em và các quyền trẻ em, các nhóm
quyền trẻ em thường bị vi phạm và các giải pháp phòng ngừa.
Sách chuyên khảo của nhóm tác giả Ziurina A.I và Indeikina T.L “Removing
brutal treatment of children in the family-Loại bỏ đối xử tàn bạo với trẻ em trong
gia đình, 2009”, nhóm tác giả đã chỉ ra các loại bạo lực phổ biến trong gia đình
trong đó có hành vi sao nhãng-không đoái hoài đến trẻ được coi là một loại bạo lực.
The children's rights in the field of education-Các quyền trẻ em trong lĩnh
vực giáo dục, 2007, của tác giả Sinkareva E.Yu. Trong công trình này, tác giả đi sâu
15
vào phân tích các quyền đặc thù của những trẻ em đặc thù trong hoạt động giáo dục
như: quyền giáo dục của trẻ em hạn chế về năng lực (trẻ em khiếm khuyết) hay
quyền trẻ em ở tuổi mẫu giáo…
- Nhóm các công trình nghiên cứu về thực trạng quyền trẻ em có HCĐB
“Street Children and child labor- Trẻ em đường phố và trẻ em lao
động”, sách tham khảo của Judit Ennew, 1996. Cuốn sách này hoạch định chương
trình cho trẻ em đường phố và trẻ em lao động ở đô thị các nước đang phát triển,
đặc biệt cuốn sách này còn nghiên cứu về thực trạng trẻ em đường phố và trẻ em lao
động, từ đó đưa ra khung sườn của chương trình hoạt động, khai thác các nguồn lực
bảo vệ trẻ em đường phố và trẻ em lao động.
Liên quan đến các nghiên cứu về trẻ em và quyền trẻ em có HCĐB, Quĩ Bảo
trợ trẻ em có hoàn cảnh khó khăn Liên Bang Nga vào năm 2012, xuất bản nghiên
cứu về “Trẻ em trong các hoàn cảnh khó khăn: loại trừ những sự khác biệt xã hội
đối với trẻ em mồ côi”, ở công trình nghiên cứu này, đánh giá thực trạng trẻ em bị
bỏ rơi, bị phân biệt theo số liệu ở các khu vực, bên cạnh đó, các tác giả còn đưa ra
những đánh giá của các nghiên cứu khác về tình trạng trẻ em này của các nhà
nghiên cứu, các trung tâm nghiên cứu của Nga, từ đó đưa ra những lập luận về tính
khả thi của các biện pháp bảo vệ quyền của nhóm trẻ em mồ côi, bị cha mẹ bỏ rơi
nhưng bị phân biệt đối xử.
Công trình nghiên cứu Children’s Rights; Policy and Practice, tác giả Jean
A. Pardeck, 2012, nội dung công trình này nghiên cứu về thực trạng thực hiện quyền
trẻ em, thực trạng việc chăm sóc trẻ em tại gia đình, trường học và các cơ sở tư nhân;
nghiên cứu những nguyên nhân lạm dụng, xao nhãng đối với trẻ em cũng như cung
cấp các yếu tố được coi là gia đình có nguy cơ trẻ em bị xâm hại, lạm dụng.
Child Labor Today-Trẻ em lao động ngày nay: A human Rights Issue, tác giả
Wendy Herumin, 2012, trình bày khái quát về lao động trẻ em, tình hình trẻ em lao
động trên toàn thế giới, mô tả các công việc trẻ em đang bị bắt buộc phải làm và chỉ
ra hậu quả mà trẻ em lao động phải gánh chịu.
- Nhóm nghiên cứu về bảo đảm quyền trẻ em có HCĐB
“Social work with children” Marian Brandon, Gillian Schofield, Liz Trinder.
Người dịch Nguyễn Thị Nhẫn “Công tác xã hội với trẻ em”. Sách tham khảo, cuốn
sách nêu lên các phương pháp làm việc với trẻ em có HCĐB, trong đó có nói đến
trẻ em trong các vụ kiện về con nuôi và được bảo vệ ở tòa án, chính quyền địa
phương... đặc biệt nói đến vai trò của nhân viên công tác xã hội trong việc bảo vệ
các nhóm trẻ em này.
16
Implementing children’s right, 2006, Sandy Ruxton, cuốn sách có nội dung
về vấn đề thi hành, thực hiện quyền trẻ em kinh nghiệm của quốc tế từ khi có Công
ước Quốc tế Quyền trẻ em năm 1989.
Making Reality of the Right of the child, Thomas Hammarberg, cuốn sách đề
cập tới vấn đề các quyền trẻ em được triển khai trên thực tế dựa trên cơ sở có sự tham
gia của các tổ chức xã hội, thiết chế xã hội, đặc biệt sự tham gia của gia đình và nhà
trường trong việc bảo đảm quyền trẻ em đường phố và trẻ em nhiễm HIV/AIDS.
Đặc biệt trong cuốn Save the Children Sweden [73, tr.82] phân tích về tình
trạng trẻ em làm thuê giúp việc gia đình tại Hà Nội, trong đó đưa ra kiến nghị về
việc hoàn thiện Bộ luật Lao động về những vấn đề có liên quan đến lao động trẻ em,
với những dẫn chứng minh họa cụ thể.
Ngoài các công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài nêu
trên, NCS cũng tìm hiểu thêm thông tin về quyền trẻ em có HCĐB ở một số quốc
gia khác qua nguồn thông tin của Cục Bảo vệ trẻ em thuộc Bộ Lao động, Thương
binh và Xã hội.
Pháp luật nhiều nước không chỉ quy định quyền của trẻ em, trách nhiệm của
các cơ quan tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện mà còn quy định rất cụ thể về các
biện pháp thúc đẩy thực hiện quyền được bảo vệ, quyền sinh tồn của trẻ em. Điển
hình như Australia quy định rất cụ thể về trách nhiệm của nhân viên công tác xã hội
trong việc phát hiện trẻ em bị xâm hại, bạo lực hay sao nhãng và được phép áp dụng
các biện pháp can thiệp.
Một nội dung khác cũng được hệ thống luật pháp, chính sách quy định rất cụ
thể đó là tư pháp thân thiện với trẻ em, ví dụ như khi trẻ em vi phạm pháp luật thì
áp dụng các hình thức điều tra, xét hỏi, xử lí tại tòa án như thế nào để không gây tổn
hại cho trẻ em hay trong trường hợp trẻ em là nạn nhân của các hành vi bạo lực,
xâm hại. Một số nước có phòng điều tra xét hỏi riêng, toà án gia hành và trẻ em
riêng để chuyên điều tra, xét hỏi và phán quyết đối với trẻ em phạm tội hoặc trẻ em
là nạn nhân của các hành vi xâm hại, bạo lực.
Các nước như Phần Lan, Thụy Điển, Australia rất chú trọng đến việc phát
triển nguồn nhân lực thực hành công tác xã hội với trẻ em. Hầu hết các nước phát
triển và đang phát triển đã công nhận công tác xã hội là một nghề chuyên nghiệp
giống như các nghề luật sư, bác sỹ, giáo viên. Tại Hồng Kông, Thụy Điển,
Australia… đều đã thành lập Hiệp hội công tác xã hội, Hiệp hội các trường đào tạo
cán bộ xã hội. Đồng thời hình thành mạng lưới các Trung tâm công tác xã hội trẻ
em - một loại hình dịch vụ trong mạng lưới bảo vệ trẻ em. Hầu hết các quốc gia đều
17
chú trọng phát triển hệ thống Trung tâm công tác xã hội với trẻ em ở cấp huyện
hoặc ở cụm xã để thực hành cung cấp dịch vụ bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Cộng
hòa Liên Bang Nga, Thụy Điển là những quốc gia có nhiều trung tâm công tác xã
hội trẻ em nhất thế giới.
1.1.3. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu
Như đề cập ở trên, những công trình, bài nghiên cứu trong và ngoài nước về
quyền của trẻ em và quyền trẻ em có HCĐB cũng chỉ mới tập trung nghiên cứu về
mặt lý luận trên phương diện xem xét đó là một quyền cơ bản của con người.
Cho đến thời điểm hiện nay, chưa có một công trình nghiên cứu nào mang tính
toàn diện về các qui định của pháp luật và việc thực hiện các qui định của pháp
luật về quyền trẻ em có HCĐB, tiếp cận dưới góc độ lý luận và lịch sử nhà nước
và pháp luật. Qua nghiên cứu, các công trình có liên quan đến đề tài “Quyền trẻ
em có HCĐB ở Việt Nam hiện nay” mà NCS tiếp cận được, xin đưa ra một số đánh
giá bước đầu như sau:
- Các công trình nghiên cứu về quyền trẻ em và trẻ em có HCĐB ở nước
ngoài mà NCS tiếp cận được phần lớn mới chỉ giải quyết được một số nội dung
thiên về cơ sở lý luận của các nhóm quyền được sống còn, được bảo vệ, được phát
triển và được tham gia như sự ra đời, hành trình lịch sử của quyền trẻ em, những nội
hàm và vấn đề cơ bản của quyền trẻ em, sự ghi nhận của Luật quốc tế về quyền
trẻ em, xác định những vi phạm về quyền trẻ em. Việc nghiên cứu vấn đề thực
tiễn thực hiện quyền trẻ em và trẻ em có HCĐB trên bình diện quốc tế hoặc quốc
gia ít được quan tâm hơn hoặc chỉ được đề cập lác đác ở các bài viết, các công
trình nghiên cứu khác nhau. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu mà NCS
tiếp cận được là sẽ là những tư liệu rất quan trọng, trực tiếp giúp NCS giải quyết
được các nhiệm vụ về lý luận quyền trẻ em và trẻ em có HCĐB mà luận án cần
phải làm sáng tỏ.
- Những công trình nghiên cứu về quyền trẻ em và quyền trẻ em có HCĐB ở
trong nước đa phần là những nghiên cứu một cách chung chung lồng ghép và là một
nội dung nghiên cứu về quyền trẻ em trong các nhóm quyền sống còn, bảo vệ, phát
triển và tham gia của trẻ em, có rất ít tư liệu nghiên cứu về quyền trẻ em có HCĐB;
phần lớn các tư liệu là công trình, bài viết về thực tiễn tổ chức thực hiện công tác
bảo vệ, chăm sóc và giáo dục đối với trẻ em và trẻ em có HCĐB chứ không phải
nghiên cứu dưới góc độ vấn đề lý luận về quyền, cơ chế bảo đảm quyền, vấn đề thụ
hưởng quyền và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quyền…
18
Trong điều kiện nguồn tài liệu khoa học phục vụ nghiên cứu đề tài quyền trẻ
em có HCĐB ở Việt Nam còn quá ít ỏi. Trên cơ sở tham khảo các tư liệu mà luận
án thu thập được, kết hợp với việc giảng dạy, tập huấn, viết giáo trình và tổ chức
khảo sát thực tế tại các tỉnh, thành nơi tập trung đông trẻ em có HCĐB, NCS sẽ có
được những hiểu biết về thực tiễn việc thụ hưởng quyền trẻ em có HCĐB ở Việt
Nam cũng như tác động của những cơ chế pháp lý về ghi nhận và bảo đảm thực
hiện quyền của trẻ em và trẻ em có HCĐB ở Việt Nam, từ đó đề xuất giải pháp bảo
đảm thực hiện quyền trẻ em có HCĐB ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay.
1.1.4. Những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu
Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc kết quả các công trình đã nghiên cứu, luận án
cần tiếp tục nghiên cứu các nội dung sau:
- Thứ nhất, mở rộng thêm, phân tích và làm rõ các khái niệm về trẻ em, trẻ
em có HCĐB và phân loại quyền trẻ em cũng như phân loại các nhóm trẻ em
có HCĐB. Vì các khái niệm trên về mặt lý luận vẫn chưa thực sự được thừa nhận
một cách rộng rãi, vấn đề này mới chỉ được thảo luận một cách dè dặt, rải rác ở một
số ít bài báo, tài liệu mang tính chất chấm phá.
- Thứ hai, tiếp tục phân tích, đánh giá thực trạng các qui định và việc thực
hiện các qui định của pháp luật Việt Nam về quyền trẻ em có HCĐB trên cơ sở các
văn bản qui phạm pháp luật khác nhau. Qua tìm hiểu, các tài liệu, công trình nghiên
cứu thường chỉ tiếp cận vấn đề ở mức độ chung chung, chỉ dừng lại ở mức độ điểm
mặt chỉ tên. Trong khi đó, để có thể luật hóa về vấn đề quyền trẻ em có HCĐB cần
có những nghiên cứu thấu đáo, toàn diện để nêu bật lên được tính nghiêm trọng,
phức tạp của vấn đề và sự cần thiết phải điều chỉnh bằng một hệ thống pháp luật.
- Thứ ba, tiếp tục đề xuất và luận chứng các quan điểm và giải pháp có tính
khả thi nhằm bảo đảm quyền trẻ em có HCĐB vì có một số tác giả đề xuất các giải
pháp nhưng mới chỉ dừng lại ở mức độ đề xuất chung chung, vừa không xuất phát
từ góc độ bảo đảm tính hệ thống vừa chưa đi sâu vào cụ thể từng giải pháp để xem
xét, cân nhắc cần thực hiện giải pháp nào trước, giải pháp nào sau, mục đích cần đạt
được của giải pháp là gì.
1.2. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
1.2.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở học thuyết chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; quan điểm, đường lối của Đảng
Cộng sản Việt Nam về tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nước ta; về vấn đề bảo vệ
19
các quyền trẻ em và quyền trẻ em có HCĐB. Đây là phương pháp luận khoa học
được vận dụng nghiên cứu trong toàn bộ luận án để đánh giá khách quan sự thể hiện
trong các quy định của pháp luật về quyền trẻ em có HCĐB.
Luận án cũng được thực hiện dựa trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc một số học
thuyết: học thuyết về “quyền tự nhiên của con người” vào thế kỷ thứ XVI, XVII
của các tác giả tiêu biểu như Jonh locke, B. Spinoza, E.kant, S. Montesque,
J.J.Rousseau; học thuyết về “Quyền pháp lý của con người” của Emund Burke
(1729-1797) và Jeremy Bentham (1748-1832); học thuyết về “nhà nước pháo
quyền”. Theo đó quyền trẻ em chính là quyền con người cần được bảo đảm thực
hiện bằng nhiều phương thức khác nhau.
Câu hỏi nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu đề ra, trên cơ sở tình hình nghiên cứu đề
tài, luận án đặt ra một số câu hỏi nghiên cứu trọng tâm sau:
Thứ nhất, Ở nước ta hiện nay, quyền trẻ em có HCĐB được pháp luật quy
định đã đầy đủ chưa? mức độ đầy đủ như thế nào?
Thứ hai, Thực tiễn thực hiện quyền trẻ em có HCĐB ra sao? Những yếu tố
nào ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền trẻ em có HCĐB?
Thứ ba, Những giải pháp nào để bảo đảm quyền trẻ em có HCĐB được thực
thi hiệu quả trong điều kiện nước ta hiện nay?
Giả thuyết nghiên cứu
Trên cơ sở nền tảng các nghiên cứu về quyền trẻ em, trẻ em có HCĐB. NCS
bước đầu xác định các giả thuyết nghiên cứu cho luận án như sau:
Thứ nhất, các quy định của pháp luật Việt Nam về quyền trẻ em và trẻ em có
HCĐB được quy định tản mạn trong Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em và
các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, việc qui định chưa có tính hệ thống,
đã, đang bộc lộ những hạn chế và bất cập khi áp dụng với điều kiện kinh tế - xã hội
trong nước, đồng thời cũng không tương thích với các cam kết quốc tế mà Nhà
nước ta đã tham gia và ký kết.
Thứ hai, việc thực thi các quyền trẻ em có HCĐB ở nước ta hiện nay phải
phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như đặc điểm kinh tế - xã hội, văn hóa, tập
quán, … nên trẻ em có HCĐB khó có cơ hội thực hiện các quyền của mình hơn so
với những trẻ em bình thường khác.
Thứ ba, để quyền trẻ em có HCĐB được thực thi hiệu quả trong điều kiện
nước ta hiện nay phụ thuộc vào điều kiện kinh tế-xã hội, cơ chế, chính sách và pháp
luật, các thiết chế xã hội… đặc biệt, muốn bảo đảm quyền trẻ em có HCĐB ở Việt
20
Nam thì cần phải có giải pháp mang tính toàn diện từ chủ trương, chính sách cho
đến cơ chế pháp lý ghi nhận việc bảo đảm quyền trẻ em có HCĐB ở Việt Nam.
1.2.2. Phương pháp nghiên cứu
Ngoài phương pháp luận, trong quá trình nghiên cứu, NCS còn sử dụng các
phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể khác nhau như:
- Phương pháp thu thập tài liệu và số liệu: Kế thừa tất cả thông tin, số liệu
về vấn đề quyền trẻ em có HCĐB và việc thực hiện pháp luật về quyền trẻ em có
HCĐB trong các vùng miền ở Việt Nam. Dựa vào các văn bản qui phạm pháp luật,
các báo cáo về thực hiện quyền trẻ em có HCĐB, các công trình nghiên cứu khoa
học cấp Nhà nước, các sách chuyên khảo, các tạp chí... đều được chọn lọc, chỉ rõ
nguồn trích dẫn giúp cho việc phân tích và xử lý số liệu. Phương pháp này được sử
dụng hầu hết trong các chương của luận án.
- Phương pháp lôgic – lịch sử: Đề tài sử dụng phương pháp này để làm rõ các
qui định của pháp luật và quá trình thực hiện pháp luật về một số quyền của một số nhóm
trẻ em có HCĐB qua các giai đoạn, thời kỳ khác nhau ở Việt Nam, đồng thời chỉ ra các
yếu tố khách quan và chủ quan ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền trẻ em có HCĐB.
Từ đó đánh giá bản chất và những ưu điểm, hạn chế trong việc bảo đảm các quyền trẻ
em có HCĐB. Phương pháp này chủ yếu được sử dụng trong chương 3 của luận án.
- Phương pháp phân tích – tổng hợp: Đề tài sử dụng phương pháp này để phân
tích và tổng hợp các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về bảo
đảm quyền trẻ em và trẻ em có HCĐB, phân tích và tổng hợp các số liệu minh chứng
cho tình hình trẻ em có HCĐB, phân tích nguyên nhân của những kết quả đạt được hay
những tồn tại của quá trình thực hiện pháp luật bảo vệ quyền trẻ em có HCĐB, từ đó
bước đầu rút ra những kinh nghiệm của quá trình này. Phương pháp này được sử dụng
hầu hết trong các chương của luận án.
- Phương pháp thống kê: Đề tài sử dụng phương pháp này trước hết để chỉ ra
mặt lượng về trẻ em có HCĐB: số lượng, qui mô trẻ em có HCĐB, các văn bản
pháp luật quốc tế và Việt Nam điều chỉnh quyền trẻ em và trẻ em có HCĐB...;
qua đó khẳng định quyền trẻ em có HCĐB cần được bảo vệ như thế nào và việc
bảo đảm các quyền trẻ em có HCĐB ra sao. Phương pháp này chủ yếu được sử
dụng trong chương 3 của luận án.
- Phương pháp so sánh: Đề tài sử dụng phương pháp này để làm rõ tác dụng
chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta về bảo vệ quyền trẻ em có HCĐB trong phạm
vi cả nước, tìm ra kết quả thực hiện giống và khác nhau giữa các văn bản qui
phạm pháp luật và việc thực hiện quyền trẻ em ở các vùng, miền, các ban ngành,
21
tổ chức xã hội; từ đó là cơ sở để phát triển, bổ sung, thay đổi cho phù hợp với
thực tiễn. Bên cạnh đó, đề tài sử dụng phương pháp này còn nhằm so sánh pháp
luật bảo vệ quyền giữa các nhóm trẻ em có HCĐB. Phương pháp này được sử
dụng hầu hết trong các chương của luận án.
- Phương pháp xử lý thông tin, số liệu: Đề tài dùng phần mềm Exel trong máy
tính để xử lý thông tin và bằng thống kê toán học. Phương pháp này chủ yếu được sử
dụng trong chương 3 của luận án.
Bên cạnh đó, đề tài còn sử dụng các phương pháp khác như: phương pháp
chuyên gia; phương pháp quan sát; phương pháp phỏng vấn sâu; phương pháp thực
nghiệm. Để hoàn thành mục đích nghiên cứu, NCS sử dụng kết hợp giữa các
phương pháp trong từng phần, từng chương của luận án, trong đó phương pháp
phân tích và tổng hợp được sử dụng nhiều nhất.
1.3. Hướng tiếp cận của đề tài
Luận án kế thừa (có chọn lọc, phân tích và bình luận) các kết quả nghiên cứu
đã được công bố trước đây trên cơ sở tập hợp, hệ thống ở mức đầy đủ nhất có thể
đối với các công trình khoa học có liên quan đến quyền trẻ em có HCĐB ở Việt
Nam hiện nay.
Bên cạnh việc nghiên cứu trực tiếp về quyền trẻ em có HCĐB ở Việt Nam,
luận án sẽ tập trung hướng nghiên cứu vào thực tiễn qui định và thực hiện pháp luật
về quyền trẻ em có HCĐB ở nước ta trong khoảng thời gian 5 năm trở lại đây, đánh
giá những thuận lợi, khó khăn cùng với những ưu điểm, hạn chế trong lĩnh vực này,
từ đó rút ra các kiến nghị khả thi nhằm phát huy hơn nữa những ưu điểm, khắc phục
tối đa những hạn chế đó.
Trên cơ sở rút ra những đặc điểm chung về quyền trẻ em có HCĐB và tập
hợp, tổng hợp kinh nghiệm của các nước, luận án sẽ đưa ra những giải pháp nhằm
tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm phù hợp của các nước góp phần hoàn thiện
vào việc bảo đảm quyền trẻ em có HCĐB ở nước ta.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Trong chương tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài, NCS đã đề cập những
nét cơ bản của việc nghiên cứu đề tài ở trong và ngoài nước dưới góc độ thống kê
một cách tương đối số lượng các công trình nghiên cứu sau đó đánh giá theo nội
dung đề cập trong đề cương nghiên cứu.
22
Về tình hình nghiên cứu ở nước ngoài, NCS đã đề cập đến các vấn đề cơ sở
lý luận, thực trạng và các giải pháp bảo đảm quyền trẻ em có HCĐB ở một số quốc
gia khác nhau như Liên bang Nga, Australia, Thụy Điển vv… Trong số đó, tiêu
biểu là các công trình nghiên cứu khoa học, các giáo trình, bài viết được dịch từ
nước ngoài của các tổ chức phi chính phủ như Plan, Unicef… Hầu hết các tác giả
đều luận giải vấn đề về quyền trẻ em, trẻ em có HCĐB, bên cạnh đó là trách nhiệm
của các cơ quan tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện các quyền trẻ em có HCĐB,
hơn nữa các công trình nghiên cứu trên còn quy định rất cụ thể về các biện pháp
thúc đẩy thực hiện quyền trẻ em và trẻ em có HCĐB.
Về tình hình nghiên cứu ở trong nước, NCS nghiên cứu theo ba hướng cơ
bản là phân tích các công trình nghiên cứu về cơ sở lý luận, thực trạng và các
giải pháp ở nhiều công trình chuyên khảo, các bài tạp chí khoa học chuyên ngành,
bài tạp chí trong nước nghiên cứu về quyền trẻ em, các luận văn, luận án… mỗi tài
liệu tiếp cận quyền trẻ em có HCĐB ở những góc độ khác nhau.
Qua nghiên cứu các công trình trong nước và nước ngoài cho thấy các công
trình này mới chỉ tập trung nghiên cứu về các quyền trẻ em nói chung và một vài
nghiên cứu về quyền của một số nhóm trẻ em có HCĐB, chưa có một công trình
nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện và sâu sắc về quyền trẻ em có HCĐB ở
Việt Nam hiện nay.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, NCS sử dụng các phương pháp nghiên
cứu khác nhau như: phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn, phương pháp phân
tích và tổng hợp, phương pháp hệ thống, phương pháp luật học so sánh về thực tiễn
tình hình nghiên cứu trong nước và nước ngoài về quyền trẻ em có HCĐB đã chỉ ra
rằng Việt Nam cần phải tiếp thu có chọn lọc các quan điểm, các kinh nghiệm về bảo
vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em có HCĐB của các nước trên thế giới, từ đó vận dụng
một cách phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
23
CHƯƠNG 2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TRẺ EM CÓ HOÀN
CẢNH ĐẶC BIỆT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Trẻ em và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
2.1.1. Khái niệm trẻ em
Từ xưa đến nay, trẻ em được coi là một thành phần quan trọng, không thể
thiếu trong mỗi gia đình, là biểu tượng của tương lai, là “mầm non”, là “tiềm năng”
của mọi xã hội.
Trẻ em không phải là người lớn thu nhỏ, mà chúng vận động và phát triển
theo những quy luật khác với người lớn, có cách nhìn nhận, cách suy nghĩ và cách
cảm nhận riêng và đặc biệt, trẻ em là những người phát triển chưa đầy đủ về thể
chất, tinh thần, trí tuệ, đạo đức và xã hội. Hay nói cách khác, trẻ em là những người
còn rất non nớt cả về thể lực lẫn trí lực. Chính vì vậy, trẻ em chưa thể có khả năng
tự chăm sóc, bảo vệ mình nên đòi hỏi có sự quan tâm, chăm sóc một cách đặc biệt
từ phía người lớn.
Nghiên cứu về khái niệm trẻ em có thể nhìn nhận một cách đa chiều, có thể dưới
góc độ triết học, xã hội học, tâm lý học hay luật học..., tuy nhiên, tùy theo sự tiếp cận
khác nhau về trẻ em mà có thể đưa ra những định nghĩa khác nhau.
Dưới góc độ triết học, trẻ em được xem xét trong mối quan hệ biện chứng
với sự phát triển xã hội. Con người sáng tạo ra lịch sử và trẻ em là con đẻ của thời
đại, của xã hội. Trong mọi thời đại, tương lai của một quốc gia, dân tộc đều tùy
thuộc vào việc chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em.
Dưới góc độ xã hội học, xác định trẻ em là người có vị thế, vai trò xã hội
khác với người lớn. Điều này thể hiện ở chỗ trẻ em được xã hội quan tâm tạo điều
kiện sinh thành, bảo vệ, nuôi dưỡng, chăm sóc để phát triển thành người lớn. Trẻ
em là người chưa đạt tới sự trưởng thành về thể chất cũng như về tinh thần để được
coi là người lớn.
Dưới góc độ tâm lý học, khái niệm “trẻ em” được dùng để chỉ giai đoạn đầu
của sự phát triển tâm lý-nhân cách con người. Các nhà tâm lý học rất quan tâm
nghiên cứu sự phát triển tâm lý của con người nói chung và trẻ em nói riêng trong
độ tuổi từ lúc lọt lòng đến tuổi dậy thì [5, tr.3].
Dưới góc độ khoa học pháp lý, khái niệm trẻ em thường được tiếp cận theo
“độ tuổi”. Điều đó có nghĩa là một cá nhân có thể được coi là người lớn hay trẻ em
phụ thuộc vào năm sinh của người đó tại thời điểm xác định. Độ tuổi của trẻ em
được xác định tùy theo mỗi quốc gia, mỗi nền văn hóa-xã hội cụ thể, thậm chí mỗi
24
quốc gia ở phương diện pháp lý thì tùy vào đối tượng và mục đích điều chỉnh mà ở
một số ngành luật, văn bản qui phạm pháp luật có sự qui định độ tuổi của trẻ em là
khác nhau.
Như vậy, dưới góc độ pháp lý, có thể xem xét khái niệm trẻ em theo hai lĩnh
vực, đó là lĩnh vực pháp luật quốc tế và lĩnh vực pháp luật quốc gia.
2.1.1.1. Khái niệm trẻ em theo Công ước về Quyền trẻ em năm 1989 và pháp
luật nước ngoài
Theo Tuyên bố về Quyền trẻ em của Liên Hợp Quốc năm 1959 “Trẻ em, do
chưa trưởng thành về tinh thần và thể lực cần có sự bảo vệ và chăm sóc đặc biệt,
bao gồm sự bảo vệ về mặt pháp lý thích hợp, trước cũng như sau khi sinh”.
Điều 1, Công ước về Quyền trẻ em năm 1989 đã ghi nhận“Trẻ em là bất kỳ
người nào dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật có thể được áp dụng với trẻ em đó
quy định tuổi thành niên sớm hơn”.
Như vậy, khái niệm trẻ em được đề cập trong Công ước chủ yếu dựa vào độ
tuổi của trẻ em để xác định, không như trong triết học, xã hội học, tâm lý
học,…Theo tinh thần Công ước, có thể ngầm hiểu rằng khái niệm trẻ em bao gồm
cả người chưa thành niên hay cũng có thể hiểu rằng người chưa thành niên bao gồm
cả trẻ em và đều là những người ở độ tuổi dưới 18.
Trên cơ sở Công ước về Quyền trẻ em năm 1989 mà các quốc gia thành viên
tham gia công ước thừa nhận độ tuổi trong khái niệm về trẻ em là dưới 18, mỗi quốc
gia, mỗi nền văn hóa-xã hội, mỗi tổ chức cụ thể có thể xem xét trẻ em ở nhiều độ
tuổi khác nhau, chẳng hạn, các tổ chức của Liên hợp quốc, như Quỹ Dân số
(UNFPA), Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn
hóa (UNESCO) đều xác định khái niệm trẻ em dựa vào độ tuổi và khẳng định rằng
trẻ em là người dưới 18 tuổi hay pháp luật của một số nước trong khu vực và trên
thế giới có qui định như sau:
Theo pháp luật Trung Quốc: Điều 2, Luật bảo vệ người chưa thành niên quy
định, trẻ em còn được gọi là trẻ chưa thành niên, là công dân dưới 18 tuổi, được
hưởng quyền sống, quyền phát triển, quyền được bảo vệ và quyền tham gia. Nhà
nước phải bảo vệ và chăm sóc đặc biệt cho sự phát triển thể chất và tinh thần của trẻ
chưa thành niên, bảo đảm các quyền bất khả xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp
của người chưa thành niên.
Theo pháp luật Nhật Bản: Điều 4, luật Phúc lợi trẻ em năm 1947 và pháp luật
hiện hành cũng quy định trẻ em là người dưới 18 tuổi. Pháp luật tôn trọng và thực
thi toàn bộ những quy định để bảo đảm mọi phúc lợi cho trẻ em.
25
Theo điều luật Liên bang Nga số 124 - FZ ngày 21/7/1998 (sửa đổi), thì trẻ
em được hiểu là người ở độ tuổi dưới 18. Tại điều 6 Luật này quy định việc bảo
đảm các quyền của trẻ em ở Liên bang Nga từ khi sinh ra và được Nhà nước bảo
đảm các quyền và tự do của con người và công dân phù hợp với Hiến pháp của Liên
bang Nga, phù hợp với nguyên tắc pháp luật phổ quát được công nhận chung và các
quy phạm pháp luật quốc tế, các điều ước quốc tế của Liên bang Nga và của luật
này, phù hợp với Bộ luật Hôn nhân và Gia đình và các văn bản quy phạm pháp luật
khác của Liên bang Nga.
Như vậy, việc bảo vệ các quyền của trẻ em tại Liên bang Nga đã được định
chế trong pháp luật và phù hợp với pháp luật quốc tế về quyền trẻ em. Điều đó đã
được khẳng định trong Hiến pháp năm 1992 của Liên bang Nga. Theo đó Hiến pháp
năm 1992 của Liên bang Nga quy định rằng: các nguyên tắc và các quy phạm được
công nhận chung của luật quốc tế là một bộ phận cấu thành của hệ thống pháp luật
Liên bang Nga (khoản 4, điều 15); Liên bang Nga công nhận và bảo đảm các quyền
tự do của con người và công dân phù hợp với các nguyên tắc và các quy phạm được
công nhận chung của luật quốc tế và với Hiến pháp (khoản 1, điều 17); Liên bang
Nga bảo đảm các quyền của các dân tộc phù hợp với các nguyên tắc chung và các
quy phạm pháp luật quốc tế với các điều ước quốc tế mà Liên bang Nga đã ký kết
hoặc gia nhập (Điều 69).
Theo pháp luật Liên bang của Hoa Kỳ thì “trẻ em là người dưới 18 tuổi”
[40, tr.14].
Như vậy, hầu hết các nước đều nhìn nhận khái niệm trẻ em dựa trên cơ sở độ
tuổi, tuy nhiên, mỗi nước có qui định khác nhau về độ tuổi để được coi là trẻ em.
Việc qui định độ tuổi ở mỗi quốc gia phụ thuộc vào sự phát triển về thể chất, tâm
sinh lý của trẻ em ở mỗi quốc gia, điều kiện lịch sử, văn hóa và kinh tế của mỗi đất
nước. Do đó, có những quốc gia qui định độ tuổi thành niên sớm hơn hoặc trễ hơn
18 tuổi như được xác định trong Công ước về quyền trẻ em.
Tuy độ tuổi được coi là trẻ em ở mỗi quốc gia, mỗi tổ chức có sự khác nhau
nhưng nhìn chung trẻ em ở tất cả các quốc gia đều có các đặc điểm sau:
Thể chất và trí tuệ chưa trưởng thành.
Cần có sự chăm sóc, giáo dục đặc của gia đình, nhà trường, xã hội cả về mặt
đạo đức và pháp lý.
2.1.1.2. Khái niệm trẻ em theo pháp luật Việt Nam
Với tư cách là thành viên của Liên Hợp quốc, Việt Nam là nước đầu tiên ở
châu Á và nước thứ hai trên thế giới tham gia Công ước quyền trẻ em năm 1990.
26
Trên cơ sở các qui định của Công ước quyền trẻ em, Việt Nam nội luật hóa các qui
định của công ước trong lĩnh vực pháp luật Việt Nam về quyền trẻ em, trong đó có
đề cập đến khái niệm về trẻ em.
Dưới góc độ khoa học pháp lý Việt Nam, hầu như chưa có một định nghĩa
đầy đủ về trẻ em cũng như sự điều chỉnh pháp luật đối với trẻ em mà chỉ có một số
ngành luật nhắc đến các khái niệm trẻ em, người chưa thành niên và các qui định
này không thống nhất trong từng ngành luật cụ thể. Theo điều 1, Luật Bảo vệ, Chăm
sóc và Giáo dục trẻ em năm 1991, sửa đổi, bổ sung năm 2004 quy định “Trẻ em là
công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”.
Như vậy, căn cứ để xác định trẻ em Việt Nam phải là người có quốc tịch
Việt Nam và ở trong độ tuổi từ 0 đến dưới 16 tuổi.
Trong khi đó, Luật Hôn nhân và Gia đình sửa đổi, bổ sung năm 2013 xác
định tuổi con nuôi là từ 15 tuổi trở xuống (điều 34).
Bộ luật Dân sự 2005, tại điều 18 qui định: Người từ đủ 18 tuổi trở lên là
người thành niên, người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên.
Bộ luật Hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009, tại điều 14 qui định người
chưa thành niên phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi.
Bộ luật Lao động 1994 (sửa đổi bổ sung năm 2001, 2006, 2007, 2013) quy
định người lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi (điều 119), khái
niệm trẻ em được hiểu là người chưa đủ 15 tuổi (điều 120).
Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2013 quy định tuổi chịu trách nhiệm hành
chính “Là người từ đủ 14 tuổi trở lên có thể bị xử phạt vi phạm hành chính”.
Như vậy, theo pháp luật Việt Nam khái niệm trẻ em có sự khác nhau về độ
tuổi song trẻ em trước hết là một con người được hưởng mọi quyền và mọi tự do đã
được nêu ra trong các Công ước quốc tế về quyền con người mà không bị bất cứ
một sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo,
chính kiến hoặc quan điểm khác, địa vị, nguồn gốc dân tộc và xã hội, tài sản, dòng
dõi hoặc mối tương quan khác. Nhưng trẻ em lại là người chưa trưởng thành nên có
quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng, bảo vệ và bày tỏ quan điểm, chính kiến của
mình về mọi vấn đề liên quan đến bản thân mình. Bên cạnh đó, ta có thể ngầm hiểu
rằng khái niệm trẻ em trong pháp luật Việt Nam hẹp hơn khái niệm người chưa
thành niên, bởi người chưa thành niên bao gồm cả trẻ em và những người từ đủ 16
tuổi đến dưới 18 tuổi.
Từ những phân tích ở trên về khái niệm trẻ em, NCS có thể xây dựng một
khái niệm theo quan điểm của riêng mình đó là: trẻ em là công dân Việt Nam dưới
27
18 tuổi, còn non nớt về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, có đầy đủ các
quyền của con người về dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa, đồng thời các
em cũng có những quyền đặc thù theo lứa tuổi của mình.
2.1.2. Khái niệm và phân loại trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
2.1.2.1. Khái niệm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
Theo Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 2004, trẻ em có HCĐB
là khái niệm dùng để chỉ những trẻ em có hoàn cảnh không bình thường về thể chất
hoặc tinh thần, không đủ điều kiện để thực hiện quyền cơ bản và hòa nhập với gia
đình, cộng đồng [47, tr.3].
Theo tổ chức UNICEF, trẻ em có HCĐB là một khái niệm dùng cho các em
sống trong một hoàn cảnh, vì một lý do nào đó mà việc đáp ứng các nhu cầu cơ bản
của các em bị hạn chế.
Từ định nghĩa trên ta có thể thấy trẻ em có HCĐB có những đặc điểm sau:
- Thể chất và tinh thần không bình thường (đó là đối với các trẻ em có
khuyết tật về thể chất, tinh thần)
- Không đủ điều kiện thực hiện quyền cơ bản và hòa nhập với gia đình và
cộng đồng.
2.1.2.2. Phân loại trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
Có nhiều tiêu chí khác nhau để phân loại nhóm trẻ em có HCĐB, nhưng theo
quan điểm chung nhất hiện nay là căn cứ vào hoàn cảnh của trẻ em ở Việt Nam nên
tại điều 40, Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 2004 qui định về các
nhóm trẻ em có HCĐB đó là: trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi;
trẻ em khuyết tật, tàn tật; trẻ em là nạn nhân của chất độc hóa học; trẻ em nhiễm
HIV/AIDS; trẻ em phải làm việc nặng nhọc, nguy hiểm, tiếp xúc với chất độc hại;
trẻ em phải làm việc xa gia đình; trẻ em lang thang; trẻ em bị xâm hại tình dục; trẻ
em nghiện ma túy; trẻ em vi phạm pháp luật. [47, tr.12].
a) Trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi
Việc xếp trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, bị bỏ rơi vào một nhóm là vì
các nhóm trẻ em này có chung một số đặc điểm như không có bố mẹ hoặc vì lý do
nào đó không được sống cùng bố mẹ như: bố mẹ phải chấp hành hình phạt tù trong
một khoảng thời gian dài, bố mẹ đi nước ngoài không có thông tin liên lạc, bố mẹ
chết trong tai nạn, bệnh tật, chết trong thiên tai, chiến tranh hay mất tích trong các
vụ thiên tai, lũ lụt, hay bố mẹ vì lý do nào đó không nuôi dưỡng chúng, vứt bỏ
chúng, hoặc bị thất lạc….
28
Vậy, trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi là gì? Là trẻ em
mồ côi cả cha và mẹ, trẻ em bị bỏ rơi, mất nguồn nuôi dưỡng; trẻ em mồ côi cha
hoặc mẹ nhưng người còn lại là mẹ hoặc cha mất tích theo quy định tại điều 78 của
Bộ luật Dân sự hoặc không đủ năng lực, khả năng để nuôi dưỡng theo quy định của
pháp luật. Trẻ em có cha và mẹ hoặc cha hoặc mẹ đang trong thời gian chấp hành
hình phạt tù tại trại giam, không còn người nuôi dưỡng (Theo Nghị định số
67/2007/NĐ-CP ngày 13/4/2007).
Hoặc tại Điều 3, Luật nuôi con nuôi hiện hành có giải thích khái niệm trẻ mồ
côi và khái niệm trẻ em bị bỏ rơi như sau: Trẻ em mồ côi là trẻ em mà cả cha mẹ đẻ
đã chết hoặc một trong hai người đã chết và người kia không xác định được. Trẻ em
bị bỏ rơi là trẻ em không xác định được cha mẹ đẻ.
Tại điều 7, Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em qui định về các hành
vi bị nghiêm cấm trong đó có hành vi cha mẹ bỏ rơi con; người giám hộ bỏ rơi trẻ
em mình được giám hộ. Nghị định số 71/2011/NĐ-CP đã xác định cụ thể những
hành vi được coi là cha, mẹ bỏ rơi con, người giám hộ bỏ rơi trẻ em được mình
giám hộ bao gồm: Sau khi sinh con, cha, mẹ bỏ con, không chăm sóc nuôi dưỡng;
Cha, mẹ, người giám hộ không thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng, cắt đứt quan hệ tình
cảm và vật chất với trẻ em, trừ trường hợp trẻ em làm con nuôi hoặc bị buộc phải
cách ly trẻ em theo quy định của pháp luật; cha, mẹ, người giám hộ cố ý bỏ rơi trẻ
em ở nơi công cộng, bỏ mặc hoặc ép buộc trẻ em không sống cùng gia đình, bỏ mặc
trẻ em tự sinh sống, không quan tâm, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ em để
trẻ em rơi vào HCĐB.
Như vậy, pháp luật chỉ liệt kê các hành vi được coi là bỏ rơi con. Hành vi
này là của cha mẹ đứa trẻ hoặc hành vi của người giám hộ cho đứa trẻ: Bỏ con,
không chăm sóc, nuôi dưỡng con, không thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng con, cắt đứt
quan hệ tình cảm, vật chất với đứa trẻ, bỏ con ở nơi công cộng, bỏ mặc hoặc ép
buộc trẻ em không sống cùng gia đình, bỏ mặc trẻ em tự sinh sống, không quan
tâm, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ em. Việc qui định như vậy là quá rộng
và không hoàn toàn chính xác. Vì vậy, cần xác định một cách cụ thể và khoa học về
khái niệm trẻ em bị bỏ rơi như trốn tránh nghĩa vụ chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng
trẻ em của cha mẹ, gia đình.
Việc xác định một đứa trẻ được coi là bị bỏ rơi cần phải dựa vào những căn
cứ sau: Mối quan hệ giữa trẻ em đó với người đã rời bỏ trẻ em; Hành vi trực tiếp
của người đã rời bỏ trẻ em.
29
Theo Điều 7, Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em và Điều 3, Nghị
định 70/2011/NĐ-CP thì chủ thể thực hiện hành vi rời bỏ trẻ em phải là cha mẹ đẻ
của trẻ em đó hoặc người giám hộ của trẻ em đó. Hay nói một cách cụ thể hơn, chủ
thể đó là cha mẹ đẻ của trẻ em đó và người thân thích của trẻ em đó.
Từ những qui định ở các văn bản trên, chúng tôi đưa ra khái niệm trẻ em bị
bỏ rơi như sau: trẻ em bị bỏ rơi là những đứa trẻ bị tước đi quyền biết nguồn gốc,
huyết thống hoặc quyền được sống chung với cha mẹ và gia đình do hành vi trái
pháp luật của cha mẹ và người giám hộ.
Như vậy, giữa Luật nuôi con nuôi với Nghị định 67 và Nghị định 70 thì khái
niệm về trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi chưa có sự đồng nhất
với nhau, bởi khi nói đến trẻ mồ côi thì có hai trường hợp xảy ra, một là mồ côi cả
cha và mẹ hoặc mồ côi cha hay mẹ, nhưng cha mẹ có thể chết hoặc vẫn còn sống do
mất tích, đang chấp hành hình phạt tù… do đó Luật nuôi con nuôi chỉ xác định trẻ
mồ côi là trẻ có cha và mẹ, cha hoặc mẹ đã chết, vì thế mà phạm vi khái niệm trẻ
em mồ côi không nơi nương tựa và trẻ em bị bỏ rơi được đề cập trong Luật nuôi con
nuôi hẹp hơn so với khái niệm được đề cập tại nghị định 67 và Nghị định 70.
b) Trẻ em khuyết tật
Tại khoản 1, Điều 2, Luật Người Khuyết tật khẳng định khái niệm người
khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy
giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập
gặp khó khăn.
Như vậy, trên cơ sở khái niệm về người khuyết tật nói chung thì có thể thấy
trẻ em khuyết tật cũng được coi là người khuyết tật nhưng hẹp hơn khái niệm về
người khuyết tật vì bị giới hạn ở độ tuổi dưới 16 và được coi là đối tượng thiệt thòi
nhất trong số những trẻ em có HCĐB. Nguyên nhân dẫn đến trẻ khuyết tật có thể do
bẩm sinh, do ốm đau bệnh tật, do tai nạn, do mìn/vật gây nổ hoặc nhiễm các chất
hóa học…
Trẻ khuyết tật thường được phân thành các nhóm sau: trẻ khiếm thính, trẻ
khiếm thị, trẻ khó khăn về học, trẻ khó khăn về vận động, trẻ khó khăn về ngôn
ngữ, trẻ đa tật và trẻ có các dạng khuyết tật khác.
c) Trẻ em là nạn nhân của chất độc hóa học
Là trẻ em bị khuyết tật, dị tật bẩm sinh do di chứng di truyền từ bố mẹ bị
nhiễm chất độc hóa học hoặc bị tiếp xúc với chất độc hóa học gây ra những tổn hại
nặng nề về sức khỏe, tinh thần.
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam

More Related Content

What's hot

Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
LUẬN ÁN TIẾN SĨ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ THÔNG TIN CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM H...
LUẬN ÁN TIẾN SĨ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ THÔNG TIN CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM H...LUẬN ÁN TIẾN SĨ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ THÔNG TIN CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM H...
LUẬN ÁN TIẾN SĨ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ THÔNG TIN CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM H...PinkHandmade
 

What's hot (20)

Luận văn: Pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị
Luận văn: Pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trịLuận văn: Pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị
Luận văn: Pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị
 
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tộiLuận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
 
Luận văn: Pháp luật về ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em, HOT
Luận văn: Pháp luật về ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em, HOTLuận văn: Pháp luật về ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em, HOT
Luận văn: Pháp luật về ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em, HOT
 
Đề tài: Tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người, HOT
Đề tài: Tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người, HOTĐề tài: Tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người, HOT
Đề tài: Tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người, HOT
 
Luận văn: Bảo đảm quyền học tập của trẻ em ở Việt Nam, HAY, 9đ
Luận văn: Bảo đảm quyền học tập của trẻ em ở Việt Nam, HAY, 9đLuận văn: Bảo đảm quyền học tập của trẻ em ở Việt Nam, HAY, 9đ
Luận văn: Bảo đảm quyền học tập của trẻ em ở Việt Nam, HAY, 9đ
 
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
 
Luận văn: Hợp đồng tặng cho tài sản theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hợp đồng tặng cho tài sản theo pháp luật Việt NamLuận văn: Hợp đồng tặng cho tài sản theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hợp đồng tặng cho tài sản theo pháp luật Việt Nam
 
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật tại TPHCM
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật tại TPHCMLuận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật tại TPHCM
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật tại TPHCM
 
Luận văn: Quyền con người và giáo dục quyền con người, HOT
Luận văn: Quyền con người và giáo dục quyền con người, HOTLuận văn: Quyền con người và giáo dục quyền con người, HOT
Luận văn: Quyền con người và giáo dục quyền con người, HOT
 
LUẬN ÁN TIẾN SĨ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ THÔNG TIN CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM H...
LUẬN ÁN TIẾN SĨ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ THÔNG TIN CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM H...LUẬN ÁN TIẾN SĨ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ THÔNG TIN CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM H...
LUẬN ÁN TIẾN SĨ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ THÔNG TIN CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM H...
 
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOTĐề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
 
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAYLuận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
 
Luận án: Pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân ở Việt Nam, HAY
Luận án: Pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân ở Việt Nam, HAY Luận án: Pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân ở Việt Nam, HAY
Luận án: Pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân ở Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Chính sách an sinh xã hội đối với người dân tộc thiểu số
Luận văn: Chính sách an sinh xã hội đối với người dân tộc thiểu sốLuận văn: Chính sách an sinh xã hội đối với người dân tộc thiểu số
Luận văn: Chính sách an sinh xã hội đối với người dân tộc thiểu số
 
Luận văn: Vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền an tử, HOT
Luận văn: Vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền an tử, HOTLuận văn: Vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền an tử, HOT
Luận văn: Vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền an tử, HOT
 
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAYĐề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
 
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đLuận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
 
Luận văn: Hỗ trợ hòa nhập cộng đồng đối với trẻ em mồ côi, HAY
Luận văn: Hỗ trợ hòa nhập cộng đồng đối với trẻ em mồ côi, HAYLuận văn: Hỗ trợ hòa nhập cộng đồng đối với trẻ em mồ côi, HAY
Luận văn: Hỗ trợ hòa nhập cộng đồng đối với trẻ em mồ côi, HAY
 
Luận văn: Quyền của người khuyết tật trong pháp Luật, HOT
Luận văn: Quyền của người khuyết tật trong pháp Luật, HOTLuận văn: Quyền của người khuyết tật trong pháp Luật, HOT
Luận văn: Quyền của người khuyết tật trong pháp Luật, HOT
 

Similar to Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam

Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em ở việt nam hiện nay 6834408
Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em ở việt nam hiện nay 6834408Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em ở việt nam hiện nay 6834408
Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em ở việt nam hiện nay 6834408jackjohn45
 
Luận văn: Quyền vui chơi, giải trí của trẻ em tại TP Hà Nội, HAY - Gửi miễn p...
Luận văn: Quyền vui chơi, giải trí của trẻ em tại TP Hà Nội, HAY - Gửi miễn p...Luận văn: Quyền vui chơi, giải trí của trẻ em tại TP Hà Nội, HAY - Gửi miễn p...
Luận văn: Quyền vui chơi, giải trí của trẻ em tại TP Hà Nội, HAY - Gửi miễn p...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý.pdf
Bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý.pdfBảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý.pdf
Bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý.pdfTÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
PHÁP LUẬT VỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM TRONG MỐI TƢƠNG ...
PHÁP LUẬT VỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM TRONG MỐI TƢƠNG ...PHÁP LUẬT VỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM TRONG MỐI TƢƠNG ...
PHÁP LUẬT VỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM TRONG MỐI TƢƠNG ...NuioKila
 

Similar to Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam (20)

Luận Văn Ngành Luật Học Về Quyền Trẻ Em Việt Nam
Luận Văn Ngành Luật Học Về Quyền Trẻ Em Việt NamLuận Văn Ngành Luật Học Về Quyền Trẻ Em Việt Nam
Luận Văn Ngành Luật Học Về Quyền Trẻ Em Việt Nam
 
Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em ở việt nam hiện nay 6834408
Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em ở việt nam hiện nay 6834408Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em ở việt nam hiện nay 6834408
Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em ở việt nam hiện nay 6834408
 
Luận án: Quyền trẻ em trong xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận án: Quyền trẻ em trong xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt NamLuận án: Quyền trẻ em trong xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận án: Quyền trẻ em trong xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam
 
Quyền trẻ em trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền
Quyền trẻ em trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyềnQuyền trẻ em trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền
Quyền trẻ em trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền
 
BÀI MẪU Khóa luận Luật tố tụng hình sự, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận Luật tố tụng hình sự, HAY, 9 ĐIỂMBÀI MẪU Khóa luận Luật tố tụng hình sự, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận Luật tố tụng hình sự, HAY, 9 ĐIỂM
 
Bảo vệ quyền lợi trẻ em
Bảo vệ quyền lợi trẻ emBảo vệ quyền lợi trẻ em
Bảo vệ quyền lợi trẻ em
 
Luận văn: Quyền vui chơi, giải trí của trẻ em tại TP Hà Nội, HAY - Gửi miễn p...
Luận văn: Quyền vui chơi, giải trí của trẻ em tại TP Hà Nội, HAY - Gửi miễn p...Luận văn: Quyền vui chơi, giải trí của trẻ em tại TP Hà Nội, HAY - Gửi miễn p...
Luận văn: Quyền vui chơi, giải trí của trẻ em tại TP Hà Nội, HAY - Gửi miễn p...
 
Bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý.pdf
Bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý.pdfBảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý.pdf
Bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý.pdf
 
Luận văn: Quyền sống của thai nhi và pháp luật về phá thai, HOT
Luận văn: Quyền sống của thai nhi và pháp luật về phá thai, HOTLuận văn: Quyền sống của thai nhi và pháp luật về phá thai, HOT
Luận văn: Quyền sống của thai nhi và pháp luật về phá thai, HOT
 
Khoá Luận Luật Hôn Nhân Và Gia Đình về Bảo Vệ Trẻ em
Khoá Luận Luật Hôn Nhân Và Gia Đình về Bảo Vệ Trẻ emKhoá Luận Luật Hôn Nhân Và Gia Đình về Bảo Vệ Trẻ em
Khoá Luận Luật Hôn Nhân Và Gia Đình về Bảo Vệ Trẻ em
 
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOTĐề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HAYLuận văn: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HAY
 
PHÁP LUẬT VỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM TRONG MỐI TƢƠNG ...
PHÁP LUẬT VỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM TRONG MỐI TƢƠNG ...PHÁP LUẬT VỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM TRONG MỐI TƢƠNG ...
PHÁP LUẬT VỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM TRONG MỐI TƢƠNG ...
 
Các tội phạm xâm hại tình dục trẻ em trong luật hình sự Việt Nam
Các tội phạm xâm hại tình dục trẻ em trong luật hình sự Việt NamCác tội phạm xâm hại tình dục trẻ em trong luật hình sự Việt Nam
Các tội phạm xâm hại tình dục trẻ em trong luật hình sự Việt Nam
 
Đề tài: Các tội phạm xâm hại tình dục trẻ em trong luật hình sự, HOT
Đề tài: Các tội phạm xâm hại tình dục trẻ em trong luật hình sự, HOTĐề tài: Các tội phạm xâm hại tình dục trẻ em trong luật hình sự, HOT
Đề tài: Các tội phạm xâm hại tình dục trẻ em trong luật hình sự, HOT
 
Đề tài: Bảo vệ, thúc đẩy quyền dân sự của người khuyết tật, HOT
Đề tài: Bảo vệ, thúc đẩy quyền dân sự của người khuyết tật, HOTĐề tài: Bảo vệ, thúc đẩy quyền dân sự của người khuyết tật, HOT
Đề tài: Bảo vệ, thúc đẩy quyền dân sự của người khuyết tật, HOT
 
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAYQuyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
 
Pháp Luật Quốc Tế Pháp Luật Nước Ngoài, Pháp Luật Việt Nam Về Xóa Bỏ Lao Động...
Pháp Luật Quốc Tế Pháp Luật Nước Ngoài, Pháp Luật Việt Nam Về Xóa Bỏ Lao Động...Pháp Luật Quốc Tế Pháp Luật Nước Ngoài, Pháp Luật Việt Nam Về Xóa Bỏ Lao Động...
Pháp Luật Quốc Tế Pháp Luật Nước Ngoài, Pháp Luật Việt Nam Về Xóa Bỏ Lao Động...
 
Luận văn: Tội giao cấu đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16
Luận văn: Tội giao cấu đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16Luận văn: Tội giao cấu đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16
Luận văn: Tội giao cấu đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16
 
Luận văn: Tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tại Vĩnh Phúc
Luận văn: Tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tại Vĩnh PhúcLuận văn: Tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tại Vĩnh Phúc
Luận văn: Tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tại Vĩnh Phúc
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (19)

bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 

Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam

  • 1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TĂNG THỊ THU TRANG QUYỀN TRẺ EM CÓ HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2016
  • 2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TĂNG THỊ THU TRANG QUYỀN TRẺ EM CÓ HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật Mã số : 62 38 01 01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS Tường Duy Kiên HÀ NỘI - 2016
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi. Nội dung cũng như các số liệu trình bày trong luận án hoàn toàn trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN ÁN Tăng Thị Thu Trang
  • 4. MỤC LỤC TRANG PHỤ BÌA LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC CÁC BẢNG DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT MỞ ĐẦU..........................................................................................................................1 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU..................................5 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu................................................................................5 1.2. Cơ sở lý luận và giả thuyết nghiên cứu ...................................................................18 1.3. Hướng tiếp cận của đề tài........................................................................................21 CHƯƠNG 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TRẺ EM CÓ HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY......................23 2.1. Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt..................................................................................23 2.2. Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt........................................................................34 2.3. Pháp luật Quốc gia về quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ....................................40 2.4. Pháp luật quốc tế về quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.......................................44 CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN TRẺ EM CÓ HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY...................................55 3.1. Thực trạng tình hình trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam hiện nay...............55 3.2. Thực trạng qui định và thực hiện pháp luật về quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam hiện nay. ......................................................................................57 3.3. Đánh giá thực trạng qui định và thực hiện pháp luật về quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam hiện nay ..................................................................... 105 CHƯƠNG 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN TRẺ EM CÓ HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ........... 113 4.1. Quan điểm bảo đảm quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam hiện nay.... 113 4.2. Giải pháp bảo đảm quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam hiện nay.... 115 KẾT LUẬN ................................................................................................................ 140 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 142
  • 5. DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 3.1: Số liệu trẻ em có HCĐB theo từng năm, giai đoạn 2012-2014....................55 Bảng 3.2: Số liệu trẻ em có HCĐB theo vùng, giai đoạn 2012-2014 ...........................56 Bảng 3.3: Mẫu Báo cáo thống kê số liệu đăng ký khai sinh .........................................61 Bảng 3.4: Trẻ em và trẻ em có HCĐB ..........................................................................62 Bảng 3.5: Trẻ em có HCĐB đã được ............................................................................62 Bảng 3.6: Thống kê các tội xâm hại tình dục trẻ em giai đoạn.....................................82 Bảng 3.7: Bảng so sánh tình hình tội phạm hiếp dâm trẻ em........................................83 Bảng 3.8: Tỷ lệ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân ở trẻ em dưới 5 tuổi phân .......................88 Bảng 3.9: Số lượng trường học, lớp học trong phạm vi cả nước ................................108
  • 6. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT Chữ viết tắt Viết đầy đủ CRC : Công ước quyền trẻ em DESP : Cục Phòng Chống tệ nạn xã hội ĐKKS : Đăng ký khai sinh HCĐB : Hoàn cảnh đặc biệt ILO : Tổ chức Lao động quốc tế NCS : Nghiên cứu sinh NGOs : Tổ chức phi chính phủ Plan : Tổ chức Phát triển cộng đồng lấy trẻ em là trung tâm UNESCO : Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá UNFPA : Quỹ Dân số UNICEF : Quĩ Nhi đồng Liên Hợp Quốc VANH : Tổ chức giúp đỡ người tàn tật/khuyết tật
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Giới thiệu về luận án Hiện nay có nhiều công trình khoa học nói về vấn đề quyền trẻ em và trẻ em có HCĐB, nhưng để phân tích một cách sâu sắc, toàn diện các vấn đề lý luận và đánh giá thực trạng qui định, thực hiện pháp luật về quyền trẻ em có HCĐB ở Việt Nam hiện nay lại là một vấn đề khá mới mẻ. Luận án tập hợp hóa và phân tích, làm sáng tỏ hơn các vấn đề lý luận về quyền trẻ em, trẻ em có HCĐB như khái niệm về trẻ em, trẻ em có HCĐB; Phân loại các nhóm quyền trẻ em có HCĐB theo Công ước Quyền trẻ em và pháp luật Việt Nam; Phân loại và phân tích cụ thể về từng nhóm trẻ em có HCĐB; đưa ra hệ thống các điều kiện và yếu tố tác động đến việc bảo đảm quyền trẻ em có HCĐB ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó, phân tích và đề xuất cách nhìn mới, quan điểm mới về quyền trẻ em có HCĐB ở Việt Nam hiện nay. Bên cạnh đó, luận án khái quát, đánh giá, đưa ra bức tranh tổng thể về thực trạng trẻ em có HCĐB, về các qui định của pháp luật và thực tiễn tổ chức thực hiện pháp luật về quyền trẻ em có HCĐB. Đánh giá các ưu điểm, hạn chế, yếu kém và nguyên nhân. Từ đó, xác định các quan điểm và giải pháp bảo đảm quyền trẻ em có HCĐB. Trên cơ sở phân tích, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền trẻ em có HCĐB, Luận án đã đưa ra các giải pháp đồng bộ, toàn diện nhằm nâng cao nhận thức, hoàn thiện pháp luật về quyền trẻ em có HCĐB, tăng cường vai trò của cơ quan nhà nước, các thiết chế xã hội. Đặc biệt, đã mạnh dạn đề xuất một số giải pháp mang tính đột phá, như: công tác xã hội hóa bảo vệ quyền trẻ em có HCĐB cũng như tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này. 2. Lý do chọn đề tài Việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em cũng chính là việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em có HCĐB, vấn đề này được coi là yêu cầu có ý nghĩa trong chiến lược của Đảng, Nhà nước ta và của mỗi gia đình cũng như của cộng đồng xã hội, nó đã và đang thu hút được sự quan tâm hàng đầu của tất cả các quốc gia trên thế giới. Việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em có HCĐB ở các nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam được tiến hành bằng nhiều phương tiện, cách thức, hình thức khác nhau như có thể được sử dụng bằng các qui phạm đạo đức, tập quán, tín điều tôn giáo, các qui định, nội qui, qui chế trong các tổ chức, trường học, cộng đồng... đặc biệt có một công cụ được coi là hữu hiệu nhất nhằm ràng
  • 8. 2 buộc quyền và trách nhiệm của các chủ thể khi tham gia các mối quan hệ với trẻ em có HCĐB đó là pháp luật, nghĩa là việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em có HCĐB không chỉ đơn thuần bằng các qui định, qui tắc thông thường mà đã được trở thành các qui phạm pháp luật mang tính bắt buộc chung. Vì lẽ đó, Liên Hợp quốc đã thông qua Tuyên ngôn về Quyền trẻ em năm 1959, tiếp đó Đại Hội đồng Liên hợp quốc cũng đã thông qua Công ước về Quyền trẻ em vào ngày 20 tháng 11 năm 1989 và Công ước bắt đầu có hiệu lực như Luật quốc tế vào ngày 2 tháng 9 năm 1990. Việt Nam là nước đầu tiên ở châu Á và là nước thứ hai trên thế giới đã phê chuẩn công ước này vào ngày 20 tháng 2 năm 1990. Điều đó thể hiện sự cam kết mạnh mẽ của Việt Nam với cộng đồng quốc tế về việc bảo đảm quyền trẻ em có HCĐB trên thực tế. Ngay sau đó, ngày 12 tháng 8 năm 1991, tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa IX, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em và Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 16 tháng 8 năm 1991 và được sửa đổi, bổ sung năm 2004. Bên cạnh Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em, Nhà nước ta còn ban hành và chỉnh sửa hàng loạt các qui định trong các văn bản pháp luật khác về quyền của trẻ em và trẻ em có HCĐB như Luật hình sự, Luật Lao động, Luật Dân sự, Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Giáo dục, Luật Quốc tịch, Luật người khuyết tật, luật phòng chống HIV/AIDS, Luật Phòng, Chống bạo lực gia đình... Như vậy, việc bảo đảm quyền của trẻ em và trẻ em có HCĐB ở Việt Nam hiện nay không chỉ bằng những qui định của pháp luật mà còn thông qua vai trò trách nhiệm của nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội, các tổ chức đoàn thể, các thiết chế xã hội và các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài… Tuy nhiên trên thực tế, quyền trẻ em có HCĐB vẫn bị xâm hại nghiêm trọng, việc bảo đảm quyền của các em còn mờ nhạt, chưa đầu tư và quan tâm thích đáng, do vậy, vẫn còn tình trạng trẻ em bị xâm hại, lạm dụng, tình trạng lao động trẻ em vẫn còn diễn ra, nhiều trẻ em phải lang thang kiếm sống hoặc phạm pháp, khuyết tật… Có thể thấy, tình hình trẻ em có HCĐB ngày càng gia tăng theo các nhóm điển hình và diễn biến phức tạp với phạm vi rộng. Vì lẽ đó, việc nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc vấn đề “Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam hiện nay” trên cả phương diện lý luận và thực tiễn mang tính cấp thiết và còn là đòi hỏi thực tiễn hiện nay.
  • 9. 3 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về quyền trẻ em có HCĐB và thực tiễn pháp luật ghi nhận, bảo đảm thực hiện các quyền trẻ em có HCĐB ở Việt Nam. Từ đó đề xuất, kiến nghị các giải pháp nhằm bảo đảm quyền của các em. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận án sẽ tập trung làm sáng tỏ 03 nhiệm vụ cơ bản sau: - Phân tích một cách có hệ thống cơ sở lý luận về quyền trẻ em có HCĐB ở Việt Nam. - Thực trạng qui định và thực hiện pháp luật về quyền trẻ em có HCĐB ở Việt Nam. - Đề xuất các giải pháp bảo đảm quyền trẻ em có HCĐB ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là Quyền trẻ em có HCĐB ở Việt Nam hiện nay. 4.2. Phạm vi nghiên cứu 4.2.1. Phạm vi nội dung Luận án được nghiên cứu dưới góc độ lý luận và lịch sử Nhà nước và Pháp luật, trên cơ sở đó tập trung nghiên cứu về một số quyền của một số nhóm trẻ em có HCĐB ở Việt Nam hiện nay. 4.2.2. Phạm vi không gian và thời gian Luận án nghiên cứu các số liệu trong phạm vi cả nước, thời gian 5 năm gần đây (2009-2014). 5. Đóng góp mới về khoa học của đề tài Trên cơ sở tham khảo, kế thừa các nguồn tài liệu khoa học, thực tiễn, xác định mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể của đề tài. Điểm mới chủ yếu của đề tài là nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện về quyền của trẻ em và trẻ em có HCĐB; phân tích mối quan hệ biện chứng và sự cần thiết khách quan của việc bảo đảm quyền trẻ em có HCĐB ở nước ta hiện nay. Đề xuất các giải pháp và biện pháp cụ thể trong đó nhấn mạnh đến vai trò của nhà nước, các tổ chức xã hội, thiết chế xã hội (gia đình, trường học…) trong việc bảo đảm quyền trẻ em có HCĐB.
  • 10. 4 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài Ý nghĩa khoa học: luận án là công trình nghiên cứu trực tiếp và toàn diện về quyền trẻ em có HCĐB, góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận và thực tiễn về bảo vệ quyền trẻ em có HCĐB trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Sau khi hoàn thành, luận án sẽ là công trình khoa học có giá trị tham khảo cho việc nghiên cứu, học tập về quyền trẻ em có HCĐB. Ý nghĩa thực tiễn: luận án là nguồn tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu lý luận và thực tiễn về quyền trẻ em và trẻ em có HCĐB ở nước ta hiện nay. Kết quả nghiên cứu của luận án là nguồn tài liệu tham khảo trong công tác giảng dạy, nghiên cứu, hướng dẫn học tập các môn học về quyền trẻ em, trẻ em có HCĐB trong các nhà trường và cộng đồng. Đồng thời luận án cũng là nguồn tài liệu tham khảo đối với công tác kết hợp giữa các cấp, các ngành, đặc biệt là giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em và trẻ em có HCĐB ở nước ta hiện nay. Kết quả luận án có ý nghĩa tham khảo cho việc đổi mới, hoàn thiện cơ chế bảo đảm quyền trẻ em có HCĐB ở Việt Nam hiện nay. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án có kết cấu 4 chương: Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Chương 2. Những vấn đề lý luận về quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam hiện nay. Chương 3. Thực trạng bảo đảm quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam hiện nay. Chương 4. Quan điểm và giải pháp bảo đảm quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam hiện nay.
  • 11. 5 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Vấn đề quyền trẻ em có HCĐB ở Việt Nam hiện nay đã được nhiều học giả trong nước và nước ngoài quan tâm nghiên cứu dưới nhiều góc độ/khía cạnh hay ngành khoa học khác nhau như tâm lý học, xã hội học, công tác xã hội, hành chính học, luật học… Tuy nhiên, chưa có một công trình nghiên cứu nào mang tính toàn diện, có hệ thống về quyền trẻ em có HCĐB dưới góc độ chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật. Để đạt được mục tiêu đề ra trong luận án là nghiên cứu toàn diện, sâu sắc về quyền trẻ em có HCĐB ở Việt Nam dưới góc độ chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, đề tài được kế thừa có chọn lọc các kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học khác nhau và tiếp tục làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền trẻ em có HCĐB ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở nghiên cứu và tổng hợp của NCS, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu ở cấp độ Tiến sỹ, Thạc sỹ, các công trình khoa học thuộc nhiều cấp khác nhau đã được in thành sách, giáo trình cũng như các bài viết khoa học, các bản tin được đăng trên các tạp chí chuyên ngành đề cập nội dung có liên quan đến quyền trẻ em có HCĐB của các học giả trong và ngoài nước (cập nhật đến tháng 6/2015) NCS tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án theo các nhóm vấn đề tương ứng với các chương trong nội dung luận án. 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.1.1. Tình hình nghiên cứu của đề tài ở Việt Nam - Nhóm nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền trẻ em có HCĐB như các khái niệm trẻ em, trẻ em có HCĐB, quyền trẻ em và các khái niệm liên quan, phân loại các nhóm quyền trẻ em, phân loại các nhóm trẻ em có HCĐB. Khái niệm về trẻ em, trẻ em có HCĐB, quyền trẻ em và các nhóm quyền của trẻ em, các nhóm trẻ em có HCĐB… không phải là một vấn đề mới, được mổ xẻ, được nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau như dưới góc độ tâm lý học, triết học, xã hội học, hành chính học hoặc luật học,… và có thể được đề cập trong các giáo trình, tài liệu, bản tin, bài báo hay các luận văn, luận án… tuy nhiên, ở góc độ này hay góc độ khác vấn đề trên còn nhiều tranh cãi, nhiều cách hiểu hay nhiều bình luận khác nhau, mỗi nhà nghiên cứu có thể dựa vào đặc điểm tâm lý, độ tuổi hay dựa vào mối quan hệ của trẻ em để xem xét, đây chính là cơ sở để luận án có thể
  • 12. 6 tìm hiểu và phân tích các khái niệm được chặt chẽ hơn, từ đó phát triển và bổ sung thêm theo hướng nghiên cứu và hoàn thiện dưới góc độ luật học. Theo góc độ luật học khái niệm trẻ em chủ yếu dựa vào độ tuổi để xác định như các công trình Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 2004, NXB Chính trị Quốc gia; Trung tâm nghiên cứu Quyền con người, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, (2009), Giáo trình Quyền trẻ em; GS.TS Võ Khánh Vinh, (2011), Quyền con người, NXB Khoa học Xã hội. Hoặc ở một số tài liệu khác lại phân tích khái niệm trẻ em dựa vào từng ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam để luận giải, chẳng hạn dựa vào luật hình sự, dân sự, lao động, hôn nhân và gia đình, luật hành chính… Những nghiên cứu trên đã khẳng định độ tuổi nêu trong khái niệm “trẻ em” hiện nay được qui định trong pháp luật vẫn còn khác nhau, thậm chí chồng chéo nhau, vì thế, không dễ để mọi người trong xã hội hiểu chính xác về độ tuổi trẻ em mà pháp luật quy định. Từ đó có thể dẫn đến những hậu quả pháp lý khó lường. Ở những nghiên cứu trên, NCS đã kế thừa khái niệm trẻ em theo các góc độ và các ngành luật để phân tích và đưa vào luận án. Từ đó, NCS có thể xây dựng một khái niệm theo quan điểm của riêng mình về trẻ em đó là: trẻ em là công dân Việt Nam dưới 18 tuổi, còn non nớt về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, có đầy đủ các quyền của con người về dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa, đồng thời các em cũng có những quyền đặc thù theo lứa tuổi của mình. Khái niệm trẻ em có HCĐB được đề cập ở một số công trình nghiên cứu có thể kể đến như Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 2004, NXB Chính trị Quốc gia; Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, (2007), Chính sách và dịch vụ xã hội đối với các nhóm yếu thế, NXB Lao động-Xã hội, Hà Nội; Khoa Phụ nữ học, Đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh (2010), Trẻ em trong hoàn cảnh đặc biệt khó khăn tập I, II, Ban Xuất bản Đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh… hầu hết dựa vào hoàn cảnh, môi trường sống của các em. NCS đồng quan điểm với cách định nghĩa này và kế thừa nó bằng các luận giải cụ thể trong luận án của mình. Khái niệm quyền trẻ em, vì trẻ em là một thành viên của xã hội, là công dân đặc biệt của một quốc gia… nên trẻ em cũng được hưởng các quyền giống con người bao gồm các quyền dân sự, chính trị, quyền kinh tế, xã hội và văn hóa… tuy nhiên, do trẻ em còn non nớt về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình nên trẻ em có những quyền đặc biệt phù hợp với lứa tuổi của mình, điều này được đề cập rất rõ trong các giáo trình, sách tham khảo như: Trung tâm nghiên cứu Quyền con người, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, (2009), Giáo trình Quyền trẻ em; Nguyễn Anh Đức (2012), Pháp luật bảo đảm quyền tham gia của trẻ em ở Việt Nam,
  • 13. 7 Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội... Đây được coi là cơ sở lý luận quan trọng để luận án được kế thừa từ đó sẽ phân tích làm sáng tỏ hơn về quyền trẻ em có HCĐB. Trẻ em có HCĐB cũng được hưởng các quyền giống như con người và giống như trẻ em nói chung, chẳng qua các em chỉ là những đứa trẻ có hoàn cảnh thiệt thòi hơn những trẻ em bình thường khác nên để được hưởng các quyền giống như trẻ em, các em cũng cần phải có sự hỗ trợ nhất định [82, tr.9]. Phân loại các nhóm quyền trẻ em, “Quyền trẻ em bao gồm quyền sống còn, quyền bảo vệ, quyền phát triển, quyền tham gia hoặc quyền trẻ em bao gồm quyền bảo vệ, quyền chăm sóc, quyền giáo dục, quyền giải trí, quyền học tập… cách phân loại về các quyền của trẻ em nói trên được khẳng định và phân tích dựa trên cơ sở của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam với nghiên cứu của các tác giả ở các công trình nghiên cứu khác nhau như: Công ước của Liên Hợp quốc về quyền trẻ em (1997), NXB Chính trị Quốc gia; Luật bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em, (2004), NXB Chính trị Quốc gia; Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Trung tâm nghiên cứu quyền con người (2008), Các văn kiện quốc tế về quyền con người, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội;... Bên cạnh đó, có một số nghiên cứu đi sâu vào phân tích, đánh giá một quyền nào đó của trẻ em như chỉ nói đến quyền chăm sóc trẻ em, được đề cập ở tài liệu Unicef Việt Nam, (2004), Phân tích tình hình chăm sóc trẻ em tại trung tâm và các chương trình chăm sóc thay thế ở Việt Nam chỉ nói đến quyền bảo vệ trẻ em như luận án tiến sĩ của Lê Thị Phương Nga, (2007), Pháp luật bảo vệ quyền trẻ em Việt Nam hiện nay... hoặc chỉ nói đến quyền tham gia của trẻ em, ở luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Anh Đức, (2012), Pháp luật bảo đảm quyền tham gia của trẻ em ở Việt Nam..., thậm chí có những nghiên cứu lại chỉ nói đến quyền của trẻ em trong một lĩnh vực pháp luật cụ thể như pháp luật quốc tịch, pháp luật hình sự, tố tụng hình sự, luật lao động, luật bảo hiểm y tế, luật giáo dục, luật dân sự…, Chưa có nghiên cứu nào để chỉ ra một cách toàn diện về các quyền của trẻ em dưới góc độ luật học chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật. Luận án kế thừa hai cách phân loại trên để từ đó phân tích cụ thể các qui định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam có những điểm tương đồng trong việc phân loại và các cách phân loại trên không mang tính rạch ròi mà giữa các quyền luôn có sự giao thoa với nhau dựa trên cơ sở các điều luật được qui định trong Công ước Quốc tế Quyền trẻ em cũng như trong Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em. Hay Luận án sẽ kế thừa các cách tiếp cận về quyền trẻ em dựa trên các lĩnh vực pháp luật hoặc các văn bản pháp luật để từ đó tổng hợp lại các
  • 14. 8 quyền của trẻ em liên quan đến quyền được lao động, quyền được chăm sóc y tế, quyền được học tập, quyền được thừa kế tài sản… Các nhóm trẻ em có HCĐB được phân loại ở nhiều nghiên cứu trong đó có các tài liệu như Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 2004, NXB Chính trị Quốc gia; Bộ Lao động; Trung tâm nghiên cứu Quyền con người, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, (2009), Giáo trình Quyền trẻ em; Khoa Phụ nữ học, Đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh (2010), Trẻ em trong hoàn cảnh đặc biệt khó khăn tập I, II, Ban Xuất bản Đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh… có đưa ra cách phân loại dựa vào hoàn cảnh, môi trường sống của các em, “trẻ em có HCĐB bao gồm 10 nhóm: trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi; trẻ em khuyết tật, tàn tật; trẻ em là nạn nhân của chất độc hóa học; trẻ em nhiễm HIV/AIDS; trẻ em phải làm việc nặng nhọc, nguy hiểm, tiếp xúc với chất độc hại; trẻ em phải làm việc xa gia đình; trẻ em lang thang; trẻ em bị xâm hại tình dục; trẻ em nghiện ma túy; trẻ em vi phạm pháp luật”. Hoặc các tài liệu cũng phân tích rằng việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em không những chỉ đối với trẻ em nói chung mà còn bao gồm cả các nhóm trẻ em có HCĐB và nêu lên các nhóm trẻ em có HCĐB được qui định trong Công ước quốc tế Quyền trẻ em năm 1989 bao gồm: trẻ em tị nạn; trẻ em tàn tật; trẻ em bị ảnh hưởng của xung đột vũ trang; trẻ em bị bỏ mặc, bị bóc lột hay lạm dụng. Như vậy, các nhóm trẻ em có HCĐB được qui định trong chương IV Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 2004 cũng phần nào đã có sự phù hợp với Công ước quốc tế Quyền trẻ em năm 1989, đặc thù hơn về chính trị, văn hóa Việt Nam thì không có nhóm trẻ em tị nạn và trẻ em bị ảnh hưởng của xung đột vũ trang. Tuy nhiên, trong thực tiễn hiện nay cũng như trong quá trình nghiên cứu các tài liệu trên tác giả thấy tên gọi của các nhóm trẻ em này chưa có sự đồng nhất trong các văn bản luật cũng như việc phân loại còn thiếu so với thực tế. Vì hiện nay theo nhiều nghiên cứu nói về các nhóm trẻ em có HCĐB phải là trên 10 nhóm. Luận án sẽ kế thừa sự phân loại trên và sẽ bổ sung thêm các nhóm trẻ em có HCĐB, hơn nữa sẽ đề xuất tên gọi của các nhóm trẻ em trên cho phù hợp với thực tiễn và phù hợp với các qui định của luật pháp quốc tế. Chưa có nghiên cứu nào chỉ ra hay đánh giá về các nhóm trẻ em có HCĐB được xuất hiện theo tiến trình lịch sử xã hội, bởi có nhiều nhóm trẻ em có HCĐB chỉ xuất hiện trong thời gian gần đây mà trước kia chưa có. Do đó đòi hỏi cần phải có sự nghiên cứu một cách tổng quát để thấy sự xuất hiện của nhóm trẻ em có HCĐB càng ngày càng mở rộng, vì vậy, đòi hỏi các quyền của nhóm trẻ em này cũng mở rộng theo. Với những nghiên cứu trên, NCS đưa ra quan điểm cá nhân của
  • 15. 9 mình về các nhóm trẻ em có HCĐB bao gồm: 10 nhóm trẻ em có HCĐB như trong Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em và thêm một số nhóm nữa đó là: nhóm trẻ em bị tai nạn thương tích, nhóm trẻ em bị buôn bán, nhóm trẻ em bị xâm hại/lạm dụng, nhóm trẻ em lao động sớm… Tóm lại, các nghiên cứu ở phần này được NCS sưu tầm, nghiên cứu trên các tài liệu, giáo trình, bản tin, luận văn, luận án… giúp NCS có những hiểu biết sâu sắc hơn và làm nền tảng lý luận cho luận án, từ đó NCS thấy rõ những yêu cầu trong luận án của mình cần kế thừa, cần phát triển và cần phân tích sâu hơn, mang tính thuyết phục hơn đối với các vấn đề lý luận trong chương đầu tiên của luận án làm cơ sở cho việc nghiên cứu ở các chương tiếp theo. - Nhóm nghiên cứu thực trạng về quyền trẻ em có HCĐB Quyền trẻ em có HCĐB cũng chính là quyền của trẻ em nói chung, chỉ khác ở chỗ trẻ em có HCĐB có những thiệt thòi hơn so với trẻ em nói chung và việc tiếp cận với các dịch vụ nhằm hưởng quyền có sự khó khăn hơn. Quyền trẻ em có HCĐB được ghi nhận trong pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế. Pháp luật quốc gia về quyền của trẻ em nói chung và trẻ em có HCĐB nói riêng có phạm vi điều chỉnh rộng, liên quan đến nhiều nhóm quan hệ xã hội, đến nhiều ngành luật khác nhau như Luật Hiến pháp, Luật Quốc tịch, Luật Hành chính, Luật lao động, Luật Dân sự và Tố tụng Dân sự, Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự, Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Giáo dục… mỗi ngành luật trên đều bảo vệ quyền trẻ em theo một đặc thù riêng. Bất cứ một ngành luật nào cũng coi trẻ em là những chủ thể đặc biệt và có những qui định riêng. Tất cả các qui định của pháp luật đều hướng tới bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em, bảo đảm cho trẻ em phát triển bình thường trong sự đầy đủ về tình cảm và vật chất, trong một môi trường trong sạch, lành mạnh. Về nội dung này trong quá trình nghiên cứu NCS thấy chúng được đề cập khá chi tiết ở nhiều nghiên cứu với các cấp độ và góc độ khác nhau, trên cơ sở đánh giá thực trạng tình hình trẻ em có HCĐB, thực trạng các qui định của pháp luật và thực hiện pháp luật đối với các quyền trẻ em có HCĐB. Chẳng hạn, trong các cuốn sách, bản tin, tài liệu và luận văn, luận án Báo cáo chung tổng quan ngành y tế năm 2013, hướng tới bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân http://thuvienykhoa.vn; Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, (2013), Phân tích, đánh giá chính sách, pháp luật chăm sóc và bảo vệ trẻ em có HCĐB, NXB Lao động-Xã hội, Hà Nội; Mai Thị Kim Oanh, Đề tài thực trạng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, Trung tâm Tâm lý học và Giáo dục học, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, http://vnies.edu.vn/detail-thread-view-1-25-272_thuc-trang-giao-duc-ky-nang-song-
  • 16. 10 cho-hoc-sinh-thcs.html; Unicef Việt Nam (2006), Báo cáo rà soát đánh giá chính sách, pháp luật của Việt Nam về phòng chống lạm dụng, xâm hại trẻ em; Phan Thị Lan Phương (2015), Quyền trẻ em trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam - Những đảm bảo pháp lý, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Khoa học Xã hội... đã phân tích rất rõ về tình hình trẻ em có HCĐB hiện nay so với những năm trước đây theo xu hướng càng ngày càng tăng bởi nhiều nguyên nhân khác nhau, hoặc đánh giá thực trạng trẻ em nói chung và trẻ em có HCĐB theo vùng miền, chẳng hạn cuốn tài liệu của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, (2013), Phân tích, đánh giá chính sách, pháp luật chăm sóc và bảo vệ trẻ em có HCĐB, NXB Lao động-Xã hội, Hà Nội, đã đánh giá và đưa ra những số liệu cụ thể về trẻ em có HCĐB theo các nhóm và số liệu được phân tích theo vùng. Hoặc ở các nghiên cứu của Cục Bảo trợ Xã hội (2013), Định hướng chính sách và hệ thống văn bản qui phạm pháp luật trợ giúp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, NXB Thông tin Truyền thông; Unicef Việt Nam (2004), Phân tích tình hình chăm sóc trẻ em tại trung tâm và các chương trình chăm sóc thay thế ở Việt Nam, đánh giá tình hình của trẻ em có HCĐB qua từng năm. Hay ở một số tài liệu có phân tích và đưa ra số liệu về tình hình của từng nhóm trẻ em có HCĐB qua các năm như tài liệu của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (2014), Phân tích tình hình trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, NXB Lao động - Xã hội, Hà Nội; Bộ Lao động Thương binh và Xã hội- Tổ chức Lao động Quốc tế, (2011), Tìm hiểu về lao động trẻ em, NXB Lao động Xã hội; Trần Đức Châm, (2013), Công tác xã hội với trẻ em làm trái pháp luật; Võ Trung Tâm, (2011), Thực trạng trẻ em lang thang đường phố tại thành phố Hồ Chí Minh nhìn từ góc độ quản lý nhà nước, Luận văn thạc sĩ Quản lý nhà nước, Học viện Hành chính Quốc gia; ... Như vậy, tất cả các nghiên cứu trên đã cung cấp các số liệu mang tính tương đối đầy đủ về tình hình trẻ em có HCĐB qua các năm gần đây và cũng phân tích các số liệu đó dựa trên cơ cấu vùng miền, dựa vào từng nhóm trẻ em có HCĐB, tuy nhiên, ở các công trình nghiên cứu trên chỉ thống kê đơn thuần các số liệu theo định lượng mà không phân tích, đưa ra những số liệu mang tính tổng quát chung và số liệu theo cơ cấu vùng miền, theo giới tính, theo dân tộc…về tình hình trẻ em có HCĐB. Do vậy, luận án sẽ phải tiếp tục phân tích, đánh giá các số liệu theo mốc thời gian cụ thể như có thể tính theo mốc thời gian từ khi Việt Nam tham gia Công ước Quốc tế Quyền trẻ em hoặc theo hiệu lực ban hành của Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em cho đến nay và đưa ra những con số chính xác về trẻ em nói chung, trẻ em có HCĐB theo từng nhóm, từ đó phân tích các nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên và sẽ đi sâu phân tích nguyên nhân cơ bản
  • 17. 11 bởi các qui định trong hệ thống pháp luật Việt Nam trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em có HCĐB. Về thực trạng các qui định của pháp luật và việc thực hiện pháp luật về quyền trẻ em và trẻ em có HCĐB cũng được nêu và phân tích ở các bộ luật hay một số luận án, luận văn và các tài liệu khác như: Bộ luật Dân sự, Bộ Luật Hình sự, Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em; Luật Giáo dục;Luật Người khuyết tật; Luật Phòng, Chống HIV/AIDS... hoặc tài liệu của Cục Bảo trợ Xã hội - Bộ Lao động Thương binh Xã hội (2009), Định hướng chính sách và hệ thống văn bản pháp luật bảo vệ quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, NXB Thông tin Truyền thông; Nguyễn Hải Hữu (2012), Một số văn bản về Chăm sóc, Giáo dục và Bảo vệ trẻ em trong tình hình mới, Cục Bảo vệ, Chăm sóc trẻ em; ... Như vậy, có thể thấy rằng những đánh giá trong các tài liệu trên hoàn toàn phù hợp với thực tiễn hiện nay về việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em có HCĐB, tuy nhiên, các tài liệu trên chưa đưa ra những đánh giá về tình trạng trẻ em có HCĐB theo xu hướng càng ngày càng gia tăng đối với một số nhóm và một số nhóm lại có xu hướng giảm, hơn nữa, chưa đánh giá về thực trạng ban hành, thực thi những chính sách, pháp luật mới trong việc chăm sóc, trợ giúp trẻ em có HCĐB. Cũng như chưa có một nghiên cứu nào đánh giá về thực trạng các quyền trẻ em có HCĐB bị xâm hại mà chủ yếu được đề cập tản mạn ở các bản tin, bài viết. Luận án được kế thừa phần nào về những đánh giá trên, từ đó phân tích sâu hơn, mang tính thuyết phục hơn và làm rõ hơn về những chính sách, pháp luật trong giai đoạn hiện nay có liên quan đến hoạt động chăm sóc và trợ giúp trẻ em có HCĐB. Nhất là sẽ đánh giá về thực trạng chính sách hỗ trợ cho từng nhóm trẻ em có HCĐB đang được chăm sóc tại cộng đồng. Giúp cho chúng ta có những cách nhìn thấu đáo hơn về sự phù hợp của pháp luật với chủ trương,chính sách của Đảng về quyền trẻ em có HCĐB, về thể chế bảo đảm quyền trẻ em có HCĐB, về chủ thể thực thi pháp luật bảo đảm quyền trẻ em có HCĐB hay về cơ chế bảo đảm quyền trẻ em có HCĐB. Đây cũng là nguồn thông tin có giá trị và có thể được sử dụng để phân tích các yếu tố liên quan đến thực trạng ghi nhận và bảo đảm quyền trẻ em có HCĐB ở Việt Nam hiện nay. - Nhóm nghiên cứu về quan điểm và giải pháp bảo đảm quyền trẻ em có HCĐB. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về Quyền trẻ em và trẻ em có HCĐB bao gồm những nội dung như“cần thay đổi tên Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em thành Luật Quyền trẻ em, cần nâng độ tuổi trẻ em từ 16 lên 18 và cần có sự thống nhất về độ tuổi ở các ngành luật: luật Lao động, luật Dân sự, luật Hình
  • 18. 12 sự”… được đề cập trong cuốn sách của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (2013), Phân tích, đánh giá chính sách, pháp luật chăm sóc và bảo vệ trẻ em có HCĐB, NXB Lao động Xã hội, Hà Nội [8, tr.48] hay cuốn Chính sách và dịch vụ xã hội đối với các nhóm yếu thế, NXB Lao động - Xã hội, Hà Nội [6, tr.73]… Điểm qua các qui định pháp luật liên quan đến trẻ em và trẻ em có HCĐB, chúng ta thấy rằng, có nhiều quy định về độ tuổi trẻ em và rồi từ đó nhiều người không hiểu rõ, dẫn đến những hậu quả pháp lý khó lường. Điều này các nhà làm luật cần cân nhắc, suy nghĩ. Hoặc một số tài liệu Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, (2013), Phân tích, đánh giá chính sách, pháp luật chăm sóc và bảo vệ trẻ em có HCĐB, NXB Lao động-Xã hội, Hà Nội; Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (2007), Chính sách và dịch vụ xã hội đối với các nhóm yếu thế, NXB Lao động - Xã hội, Hà Nội... phân tích các điểm cần thiết trong việc hoàn thiện Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em như: tăng độ tuổi của trẻ em nhằm phù hợp với luật pháp quốc tế, phân loại các nhóm trẻ em có HCĐB cần phải mở rộng và cụ thể hơn, như cần bổ sung thêm nhóm trẻ em bị tai nạn thương tích; trẻ em bị bạo hành gia đình; trẻ em là nạn nhân của thảm họa, thiên tai… Riêng đối với nhóm trẻ có HIV/AIDS cần có những qui định cụ thể về hành vi của những người không tiếp nhận trẻ có HIV/AIDS để chăm sóc y tế và giáo dục hoặc về phía gia đình, các thành viên trong gia đình có hành vi hành hạ, sỉ nhục, xúc phạm đến trẻ có HIV/AIDS cần có cơ chế giám sát và chế tài cụ thể. Cần có văn bản pháp luật qui định rõ về các hành vi kỳ thị, phân biệt đối xử với trẻ em có HIV/AIDS. Các tài liệu khác như: cuốn sách của tác giả Nguyễn Đăng Dung, (2011), Bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương trong tố tụng hình sự, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội; Phạm Thị Hải Hà (2012), Qui định của nhà nước trong khám, chữa bệnh cho trẻ em lý luận, thực trạng, giải pháp, Luận văn thạc sĩ Quản lý hành chính công, Học viện Hành chính Quốc gia; Nguyễn Thị Huyền (2012), Pháp luật quốc tế, pháp luật nước ngoài về bảo vệ quyền trẻ em, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội… cũng đề xuất về vấn đề hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền trẻ em, chẳng hạn, kiện toàn hệ thống thực thi quyền trẻ em. Bên cạnh việc hoàn thiện pháp luật, cơ chế, chính sách các nghiên cứu trên còn phân tích về sự cần thiết trong việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật về quyền trẻ em; kiện toàn hệ thống thực thi quyền trẻ em trong đó quan tâm đến sự phối hợp liên ngành trong việc bảo đảm các quyền của trẻ em, Bộ Tư pháp, Bộ Lao động Thương Binh và Xã hội có trách nhiệm bảo đảm quyền bảo vệ trẻ em, Bộ Y tế bảo đảm quyền chăm sóc trẻ em và Bộ Giáo dục
  • 19. 13 và Đào tạo bảo đảm quyền giáo dục trẻ em; Cần có sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc giáo dục, chăm sóc và bảo vệ trẻ em; Nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, viên chức làm việc trong lĩnh vực trẻ em. Ở luận văn thạc sĩ của tác giả Võ Trung Tâm [74, tr.98] nói đến các giải pháp nhằm phòng ngừa và làm giảm thiểu tình trạng trẻ em lang lang tại địa phương với nhiều giải pháp khác nhau. Trong báo cáo của tổ chức Word Vision Việt Nam, Báo cáo tổng kết hỗ trợ trẻ em được hưởng lợi nền giáo dục chất lượng [101, tr.48], và cuốn tài liệu của Unicef, Xây dựng môi trường bảo vệ trẻ em Việt Nam [90, tr.63]; hoặc bài viết của tiến sĩ Nguyễn Hải Hữu, Thấy gì từ hệ thống bảo vệ trẻ em trên thế giới [36, tr.12] khẳng định về sự cần thiết phải có những qui định“về quyền giáo dục/học tập của trẻ em có HCĐB và chỉ ra trách nhiệm của các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc tiếp nhận trẻ em có HCĐB tham gia giáo dục hòa nhập”. Đây được coi là một quyền quan trọng của trẻ em có HCĐB, tuy nhiên trong thực tế ở một số địa phương ngay cả ở Thủ đô Hà Nội cũng đã có những cơ sở giáo dục không tiếp nhận trẻ em có HCĐB vào môi trường giáo dục hòa nhập nhất là đối với nhóm trẻ em khuyết tật, trẻ em có HIV/AIDS do nhiều nguyên nhân khác nhau trong đó có nguyên nhân cơ bản là từ sự phản ứng của phụ huynh học sinh. Có thể nói rằng sự cản trở trong việc thực hiện quyền được giáo dục/học tập của trẻ em có HCĐB không phải từ chính bản thân các em gây ra hoặc cũng không phải từ chính những trẻ em bình thường khác mà nó là do chính người lớn trong đó có cả những người có chức trách, có thẩm quyền trong các cơ sở giáo dục. Mặc dù Pháp luật Việt Nam hiện nay đã có chế tài xử lý về hành chính đối với những cá nhân và cơ quan chuyên môn trong việc không tiếp nhận trẻ em có HCĐB tham gia giáo dục hòa nhập, trên cơ sở đó luận án sẽ kế thừa để có những phân tích và kiến nghị bổ sung thêm về vấn đề này trên cơ sở chế tài hình sự nhằm phòng ngừa, răn đe và tiến tới xóa bỏ tình trạng cản trở trẻ em có HCĐB thực hiện quyền học tập của mình. Như vậy, ở các nghiên cứu trên đã đề ra hàng loạt các giải pháp khác nhau về việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em và trẻ em có HCĐB, trên cơ sở đó, luận án sẽ kế thừa và tiếp tục đề xuất các giải pháp mà các nghiên cứu đưa ra trên cơ sở bổ sung, phân tích và có những luận giải mang tính thuyết phục hơn nữa về các giải pháp. Ngoài ra, luận án phân tích và đề xuất thêm các giải pháp đối với trẻ em có HCĐB dựa trên cơ sở chính sách, pháp luật của nhà nước về việc bảo đảm các quyền học tập, quyền tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc y tế, sức khỏe và các dịch vụ xã hội khác như tư vấn học nghề, việc làm, hỗ trợ vay vốn… dành cho trẻ em
  • 20. 14 có HCĐB hoặc các biện pháp liên quan đến hoàn thiện cơ cấu tổ chức, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, viên chức làm việc với trẻ em có HCĐB, đặc biệt đề xuất về cơ chế phối hợp giữa các ban ngành, các tổ chức xã hội, gia đình… trong việc bảo đảm các quyền trẻ em và trẻ em có HCĐB. Ngoài những công trình được liệt kê ở cả ba nội dung trên thì còn nhiều công trình nghiên cứu khác ở cả trong nước và quốc tế nghiên cứu trực tiếp hoặc có liên quan đến vấn đề quyền trẻ em và trẻ em có HCĐB theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành. NCS sẽ cố gắng đọc, tìm tòi, học hỏi, tiếp thu và đưa vào luận án nhằm làm sâu sắc hơn những vấn đề nghiên cứu, phục vụ mục tiêu nghiên cứu, NCS cũng sẽ tập trung và đi sâu vào ở góc nhìn của luật học theo chuyên ngành Lý luận và Lịch sử Nhà nước và Pháp luật trong mối quan hệ tổng thể với các ngành luật khác cũng như trong mối quan hệ với các ngành khoa học khác nhằm phục vụ mục tiêu nghiên cứu trong tình hình mới. 1.1.2. Tình hình nghiên cứu của đề tài ở một số nước trên thế giới - Nhóm các công trình nghiên cứu về trẻ em, quyền trẻ em và trẻ em có HCĐB Cuốn tài liệu Children’s Rights Under the law, tác giả Samuel Davis, dài 474 trang, 2011, cuốn tài liệu có nội dung nghiên cứu về quyền trẻ em theo luật, xem xét cách thức qui định của pháp luật về các quyền của trẻ em trong cả hai lĩnh vực luật Công và luật Tư gồm các quyền của trẻ em ở trường học, quyền về tài sản, lao động trẻ em, kỷ luật nhà trường, giáo dục pháp luật... Đồng thời cũng nghiên cứu về các quyết định của Tòa án tối cao liên quan đến mối quan hệ cha-con-nhà nước. Trong nội dung cuốn sách còn mô tả các chế độ về y tế đối với trẻ em, các quyền tự do cá nhân của trẻ em, các quyền lợi tài sản của trẻ em và giải quyết các vấn đề xã hội liên quan đến trẻ em phát sinh trong môi trường giáo dục. Tuyển tập công trình với tiêu đề “Bảo vệ gia đình, bảo vệ trẻ em-giữ gìn tương lai của chúng ta” được xuất bản dưới sự bảo trợ của Quĩ “Quyền trẻ em” Chủ biên S.Pronina, 2012. Trong công trình này, tác giả công bố rất nhiều nghiên cứu liên quan đến bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em và các quyền trẻ em, các nhóm quyền trẻ em thường bị vi phạm và các giải pháp phòng ngừa. Sách chuyên khảo của nhóm tác giả Ziurina A.I và Indeikina T.L “Removing brutal treatment of children in the family-Loại bỏ đối xử tàn bạo với trẻ em trong gia đình, 2009”, nhóm tác giả đã chỉ ra các loại bạo lực phổ biến trong gia đình trong đó có hành vi sao nhãng-không đoái hoài đến trẻ được coi là một loại bạo lực. The children's rights in the field of education-Các quyền trẻ em trong lĩnh vực giáo dục, 2007, của tác giả Sinkareva E.Yu. Trong công trình này, tác giả đi sâu
  • 21. 15 vào phân tích các quyền đặc thù của những trẻ em đặc thù trong hoạt động giáo dục như: quyền giáo dục của trẻ em hạn chế về năng lực (trẻ em khiếm khuyết) hay quyền trẻ em ở tuổi mẫu giáo… - Nhóm các công trình nghiên cứu về thực trạng quyền trẻ em có HCĐB “Street Children and child labor- Trẻ em đường phố và trẻ em lao động”, sách tham khảo của Judit Ennew, 1996. Cuốn sách này hoạch định chương trình cho trẻ em đường phố và trẻ em lao động ở đô thị các nước đang phát triển, đặc biệt cuốn sách này còn nghiên cứu về thực trạng trẻ em đường phố và trẻ em lao động, từ đó đưa ra khung sườn của chương trình hoạt động, khai thác các nguồn lực bảo vệ trẻ em đường phố và trẻ em lao động. Liên quan đến các nghiên cứu về trẻ em và quyền trẻ em có HCĐB, Quĩ Bảo trợ trẻ em có hoàn cảnh khó khăn Liên Bang Nga vào năm 2012, xuất bản nghiên cứu về “Trẻ em trong các hoàn cảnh khó khăn: loại trừ những sự khác biệt xã hội đối với trẻ em mồ côi”, ở công trình nghiên cứu này, đánh giá thực trạng trẻ em bị bỏ rơi, bị phân biệt theo số liệu ở các khu vực, bên cạnh đó, các tác giả còn đưa ra những đánh giá của các nghiên cứu khác về tình trạng trẻ em này của các nhà nghiên cứu, các trung tâm nghiên cứu của Nga, từ đó đưa ra những lập luận về tính khả thi của các biện pháp bảo vệ quyền của nhóm trẻ em mồ côi, bị cha mẹ bỏ rơi nhưng bị phân biệt đối xử. Công trình nghiên cứu Children’s Rights; Policy and Practice, tác giả Jean A. Pardeck, 2012, nội dung công trình này nghiên cứu về thực trạng thực hiện quyền trẻ em, thực trạng việc chăm sóc trẻ em tại gia đình, trường học và các cơ sở tư nhân; nghiên cứu những nguyên nhân lạm dụng, xao nhãng đối với trẻ em cũng như cung cấp các yếu tố được coi là gia đình có nguy cơ trẻ em bị xâm hại, lạm dụng. Child Labor Today-Trẻ em lao động ngày nay: A human Rights Issue, tác giả Wendy Herumin, 2012, trình bày khái quát về lao động trẻ em, tình hình trẻ em lao động trên toàn thế giới, mô tả các công việc trẻ em đang bị bắt buộc phải làm và chỉ ra hậu quả mà trẻ em lao động phải gánh chịu. - Nhóm nghiên cứu về bảo đảm quyền trẻ em có HCĐB “Social work with children” Marian Brandon, Gillian Schofield, Liz Trinder. Người dịch Nguyễn Thị Nhẫn “Công tác xã hội với trẻ em”. Sách tham khảo, cuốn sách nêu lên các phương pháp làm việc với trẻ em có HCĐB, trong đó có nói đến trẻ em trong các vụ kiện về con nuôi và được bảo vệ ở tòa án, chính quyền địa phương... đặc biệt nói đến vai trò của nhân viên công tác xã hội trong việc bảo vệ các nhóm trẻ em này.
  • 22. 16 Implementing children’s right, 2006, Sandy Ruxton, cuốn sách có nội dung về vấn đề thi hành, thực hiện quyền trẻ em kinh nghiệm của quốc tế từ khi có Công ước Quốc tế Quyền trẻ em năm 1989. Making Reality of the Right of the child, Thomas Hammarberg, cuốn sách đề cập tới vấn đề các quyền trẻ em được triển khai trên thực tế dựa trên cơ sở có sự tham gia của các tổ chức xã hội, thiết chế xã hội, đặc biệt sự tham gia của gia đình và nhà trường trong việc bảo đảm quyền trẻ em đường phố và trẻ em nhiễm HIV/AIDS. Đặc biệt trong cuốn Save the Children Sweden [73, tr.82] phân tích về tình trạng trẻ em làm thuê giúp việc gia đình tại Hà Nội, trong đó đưa ra kiến nghị về việc hoàn thiện Bộ luật Lao động về những vấn đề có liên quan đến lao động trẻ em, với những dẫn chứng minh họa cụ thể. Ngoài các công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài nêu trên, NCS cũng tìm hiểu thêm thông tin về quyền trẻ em có HCĐB ở một số quốc gia khác qua nguồn thông tin của Cục Bảo vệ trẻ em thuộc Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội. Pháp luật nhiều nước không chỉ quy định quyền của trẻ em, trách nhiệm của các cơ quan tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện mà còn quy định rất cụ thể về các biện pháp thúc đẩy thực hiện quyền được bảo vệ, quyền sinh tồn của trẻ em. Điển hình như Australia quy định rất cụ thể về trách nhiệm của nhân viên công tác xã hội trong việc phát hiện trẻ em bị xâm hại, bạo lực hay sao nhãng và được phép áp dụng các biện pháp can thiệp. Một nội dung khác cũng được hệ thống luật pháp, chính sách quy định rất cụ thể đó là tư pháp thân thiện với trẻ em, ví dụ như khi trẻ em vi phạm pháp luật thì áp dụng các hình thức điều tra, xét hỏi, xử lí tại tòa án như thế nào để không gây tổn hại cho trẻ em hay trong trường hợp trẻ em là nạn nhân của các hành vi bạo lực, xâm hại. Một số nước có phòng điều tra xét hỏi riêng, toà án gia hành và trẻ em riêng để chuyên điều tra, xét hỏi và phán quyết đối với trẻ em phạm tội hoặc trẻ em là nạn nhân của các hành vi xâm hại, bạo lực. Các nước như Phần Lan, Thụy Điển, Australia rất chú trọng đến việc phát triển nguồn nhân lực thực hành công tác xã hội với trẻ em. Hầu hết các nước phát triển và đang phát triển đã công nhận công tác xã hội là một nghề chuyên nghiệp giống như các nghề luật sư, bác sỹ, giáo viên. Tại Hồng Kông, Thụy Điển, Australia… đều đã thành lập Hiệp hội công tác xã hội, Hiệp hội các trường đào tạo cán bộ xã hội. Đồng thời hình thành mạng lưới các Trung tâm công tác xã hội trẻ em - một loại hình dịch vụ trong mạng lưới bảo vệ trẻ em. Hầu hết các quốc gia đều
  • 23. 17 chú trọng phát triển hệ thống Trung tâm công tác xã hội với trẻ em ở cấp huyện hoặc ở cụm xã để thực hành cung cấp dịch vụ bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Cộng hòa Liên Bang Nga, Thụy Điển là những quốc gia có nhiều trung tâm công tác xã hội trẻ em nhất thế giới. 1.1.3. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu Như đề cập ở trên, những công trình, bài nghiên cứu trong và ngoài nước về quyền của trẻ em và quyền trẻ em có HCĐB cũng chỉ mới tập trung nghiên cứu về mặt lý luận trên phương diện xem xét đó là một quyền cơ bản của con người. Cho đến thời điểm hiện nay, chưa có một công trình nghiên cứu nào mang tính toàn diện về các qui định của pháp luật và việc thực hiện các qui định của pháp luật về quyền trẻ em có HCĐB, tiếp cận dưới góc độ lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật. Qua nghiên cứu, các công trình có liên quan đến đề tài “Quyền trẻ em có HCĐB ở Việt Nam hiện nay” mà NCS tiếp cận được, xin đưa ra một số đánh giá bước đầu như sau: - Các công trình nghiên cứu về quyền trẻ em và trẻ em có HCĐB ở nước ngoài mà NCS tiếp cận được phần lớn mới chỉ giải quyết được một số nội dung thiên về cơ sở lý luận của các nhóm quyền được sống còn, được bảo vệ, được phát triển và được tham gia như sự ra đời, hành trình lịch sử của quyền trẻ em, những nội hàm và vấn đề cơ bản của quyền trẻ em, sự ghi nhận của Luật quốc tế về quyền trẻ em, xác định những vi phạm về quyền trẻ em. Việc nghiên cứu vấn đề thực tiễn thực hiện quyền trẻ em và trẻ em có HCĐB trên bình diện quốc tế hoặc quốc gia ít được quan tâm hơn hoặc chỉ được đề cập lác đác ở các bài viết, các công trình nghiên cứu khác nhau. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu mà NCS tiếp cận được là sẽ là những tư liệu rất quan trọng, trực tiếp giúp NCS giải quyết được các nhiệm vụ về lý luận quyền trẻ em và trẻ em có HCĐB mà luận án cần phải làm sáng tỏ. - Những công trình nghiên cứu về quyền trẻ em và quyền trẻ em có HCĐB ở trong nước đa phần là những nghiên cứu một cách chung chung lồng ghép và là một nội dung nghiên cứu về quyền trẻ em trong các nhóm quyền sống còn, bảo vệ, phát triển và tham gia của trẻ em, có rất ít tư liệu nghiên cứu về quyền trẻ em có HCĐB; phần lớn các tư liệu là công trình, bài viết về thực tiễn tổ chức thực hiện công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục đối với trẻ em và trẻ em có HCĐB chứ không phải nghiên cứu dưới góc độ vấn đề lý luận về quyền, cơ chế bảo đảm quyền, vấn đề thụ hưởng quyền và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quyền…
  • 24. 18 Trong điều kiện nguồn tài liệu khoa học phục vụ nghiên cứu đề tài quyền trẻ em có HCĐB ở Việt Nam còn quá ít ỏi. Trên cơ sở tham khảo các tư liệu mà luận án thu thập được, kết hợp với việc giảng dạy, tập huấn, viết giáo trình và tổ chức khảo sát thực tế tại các tỉnh, thành nơi tập trung đông trẻ em có HCĐB, NCS sẽ có được những hiểu biết về thực tiễn việc thụ hưởng quyền trẻ em có HCĐB ở Việt Nam cũng như tác động của những cơ chế pháp lý về ghi nhận và bảo đảm thực hiện quyền của trẻ em và trẻ em có HCĐB ở Việt Nam, từ đó đề xuất giải pháp bảo đảm thực hiện quyền trẻ em có HCĐB ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay. 1.1.4. Những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc kết quả các công trình đã nghiên cứu, luận án cần tiếp tục nghiên cứu các nội dung sau: - Thứ nhất, mở rộng thêm, phân tích và làm rõ các khái niệm về trẻ em, trẻ em có HCĐB và phân loại quyền trẻ em cũng như phân loại các nhóm trẻ em có HCĐB. Vì các khái niệm trên về mặt lý luận vẫn chưa thực sự được thừa nhận một cách rộng rãi, vấn đề này mới chỉ được thảo luận một cách dè dặt, rải rác ở một số ít bài báo, tài liệu mang tính chất chấm phá. - Thứ hai, tiếp tục phân tích, đánh giá thực trạng các qui định và việc thực hiện các qui định của pháp luật Việt Nam về quyền trẻ em có HCĐB trên cơ sở các văn bản qui phạm pháp luật khác nhau. Qua tìm hiểu, các tài liệu, công trình nghiên cứu thường chỉ tiếp cận vấn đề ở mức độ chung chung, chỉ dừng lại ở mức độ điểm mặt chỉ tên. Trong khi đó, để có thể luật hóa về vấn đề quyền trẻ em có HCĐB cần có những nghiên cứu thấu đáo, toàn diện để nêu bật lên được tính nghiêm trọng, phức tạp của vấn đề và sự cần thiết phải điều chỉnh bằng một hệ thống pháp luật. - Thứ ba, tiếp tục đề xuất và luận chứng các quan điểm và giải pháp có tính khả thi nhằm bảo đảm quyền trẻ em có HCĐB vì có một số tác giả đề xuất các giải pháp nhưng mới chỉ dừng lại ở mức độ đề xuất chung chung, vừa không xuất phát từ góc độ bảo đảm tính hệ thống vừa chưa đi sâu vào cụ thể từng giải pháp để xem xét, cân nhắc cần thực hiện giải pháp nào trước, giải pháp nào sau, mục đích cần đạt được của giải pháp là gì. 1.2. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 1.2.1. Cơ sở lý luận Luận án được thực hiện trên cơ sở học thuyết chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nước ta; về vấn đề bảo vệ
  • 25. 19 các quyền trẻ em và quyền trẻ em có HCĐB. Đây là phương pháp luận khoa học được vận dụng nghiên cứu trong toàn bộ luận án để đánh giá khách quan sự thể hiện trong các quy định của pháp luật về quyền trẻ em có HCĐB. Luận án cũng được thực hiện dựa trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc một số học thuyết: học thuyết về “quyền tự nhiên của con người” vào thế kỷ thứ XVI, XVII của các tác giả tiêu biểu như Jonh locke, B. Spinoza, E.kant, S. Montesque, J.J.Rousseau; học thuyết về “Quyền pháp lý của con người” của Emund Burke (1729-1797) và Jeremy Bentham (1748-1832); học thuyết về “nhà nước pháo quyền”. Theo đó quyền trẻ em chính là quyền con người cần được bảo đảm thực hiện bằng nhiều phương thức khác nhau. Câu hỏi nghiên cứu Để đạt được mục tiêu nghiên cứu đề ra, trên cơ sở tình hình nghiên cứu đề tài, luận án đặt ra một số câu hỏi nghiên cứu trọng tâm sau: Thứ nhất, Ở nước ta hiện nay, quyền trẻ em có HCĐB được pháp luật quy định đã đầy đủ chưa? mức độ đầy đủ như thế nào? Thứ hai, Thực tiễn thực hiện quyền trẻ em có HCĐB ra sao? Những yếu tố nào ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền trẻ em có HCĐB? Thứ ba, Những giải pháp nào để bảo đảm quyền trẻ em có HCĐB được thực thi hiệu quả trong điều kiện nước ta hiện nay? Giả thuyết nghiên cứu Trên cơ sở nền tảng các nghiên cứu về quyền trẻ em, trẻ em có HCĐB. NCS bước đầu xác định các giả thuyết nghiên cứu cho luận án như sau: Thứ nhất, các quy định của pháp luật Việt Nam về quyền trẻ em và trẻ em có HCĐB được quy định tản mạn trong Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, việc qui định chưa có tính hệ thống, đã, đang bộc lộ những hạn chế và bất cập khi áp dụng với điều kiện kinh tế - xã hội trong nước, đồng thời cũng không tương thích với các cam kết quốc tế mà Nhà nước ta đã tham gia và ký kết. Thứ hai, việc thực thi các quyền trẻ em có HCĐB ở nước ta hiện nay phải phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như đặc điểm kinh tế - xã hội, văn hóa, tập quán, … nên trẻ em có HCĐB khó có cơ hội thực hiện các quyền của mình hơn so với những trẻ em bình thường khác. Thứ ba, để quyền trẻ em có HCĐB được thực thi hiệu quả trong điều kiện nước ta hiện nay phụ thuộc vào điều kiện kinh tế-xã hội, cơ chế, chính sách và pháp luật, các thiết chế xã hội… đặc biệt, muốn bảo đảm quyền trẻ em có HCĐB ở Việt
  • 26. 20 Nam thì cần phải có giải pháp mang tính toàn diện từ chủ trương, chính sách cho đến cơ chế pháp lý ghi nhận việc bảo đảm quyền trẻ em có HCĐB ở Việt Nam. 1.2.2. Phương pháp nghiên cứu Ngoài phương pháp luận, trong quá trình nghiên cứu, NCS còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể khác nhau như: - Phương pháp thu thập tài liệu và số liệu: Kế thừa tất cả thông tin, số liệu về vấn đề quyền trẻ em có HCĐB và việc thực hiện pháp luật về quyền trẻ em có HCĐB trong các vùng miền ở Việt Nam. Dựa vào các văn bản qui phạm pháp luật, các báo cáo về thực hiện quyền trẻ em có HCĐB, các công trình nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước, các sách chuyên khảo, các tạp chí... đều được chọn lọc, chỉ rõ nguồn trích dẫn giúp cho việc phân tích và xử lý số liệu. Phương pháp này được sử dụng hầu hết trong các chương của luận án. - Phương pháp lôgic – lịch sử: Đề tài sử dụng phương pháp này để làm rõ các qui định của pháp luật và quá trình thực hiện pháp luật về một số quyền của một số nhóm trẻ em có HCĐB qua các giai đoạn, thời kỳ khác nhau ở Việt Nam, đồng thời chỉ ra các yếu tố khách quan và chủ quan ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền trẻ em có HCĐB. Từ đó đánh giá bản chất và những ưu điểm, hạn chế trong việc bảo đảm các quyền trẻ em có HCĐB. Phương pháp này chủ yếu được sử dụng trong chương 3 của luận án. - Phương pháp phân tích – tổng hợp: Đề tài sử dụng phương pháp này để phân tích và tổng hợp các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về bảo đảm quyền trẻ em và trẻ em có HCĐB, phân tích và tổng hợp các số liệu minh chứng cho tình hình trẻ em có HCĐB, phân tích nguyên nhân của những kết quả đạt được hay những tồn tại của quá trình thực hiện pháp luật bảo vệ quyền trẻ em có HCĐB, từ đó bước đầu rút ra những kinh nghiệm của quá trình này. Phương pháp này được sử dụng hầu hết trong các chương của luận án. - Phương pháp thống kê: Đề tài sử dụng phương pháp này trước hết để chỉ ra mặt lượng về trẻ em có HCĐB: số lượng, qui mô trẻ em có HCĐB, các văn bản pháp luật quốc tế và Việt Nam điều chỉnh quyền trẻ em và trẻ em có HCĐB...; qua đó khẳng định quyền trẻ em có HCĐB cần được bảo vệ như thế nào và việc bảo đảm các quyền trẻ em có HCĐB ra sao. Phương pháp này chủ yếu được sử dụng trong chương 3 của luận án. - Phương pháp so sánh: Đề tài sử dụng phương pháp này để làm rõ tác dụng chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta về bảo vệ quyền trẻ em có HCĐB trong phạm vi cả nước, tìm ra kết quả thực hiện giống và khác nhau giữa các văn bản qui phạm pháp luật và việc thực hiện quyền trẻ em ở các vùng, miền, các ban ngành,
  • 27. 21 tổ chức xã hội; từ đó là cơ sở để phát triển, bổ sung, thay đổi cho phù hợp với thực tiễn. Bên cạnh đó, đề tài sử dụng phương pháp này còn nhằm so sánh pháp luật bảo vệ quyền giữa các nhóm trẻ em có HCĐB. Phương pháp này được sử dụng hầu hết trong các chương của luận án. - Phương pháp xử lý thông tin, số liệu: Đề tài dùng phần mềm Exel trong máy tính để xử lý thông tin và bằng thống kê toán học. Phương pháp này chủ yếu được sử dụng trong chương 3 của luận án. Bên cạnh đó, đề tài còn sử dụng các phương pháp khác như: phương pháp chuyên gia; phương pháp quan sát; phương pháp phỏng vấn sâu; phương pháp thực nghiệm. Để hoàn thành mục đích nghiên cứu, NCS sử dụng kết hợp giữa các phương pháp trong từng phần, từng chương của luận án, trong đó phương pháp phân tích và tổng hợp được sử dụng nhiều nhất. 1.3. Hướng tiếp cận của đề tài Luận án kế thừa (có chọn lọc, phân tích và bình luận) các kết quả nghiên cứu đã được công bố trước đây trên cơ sở tập hợp, hệ thống ở mức đầy đủ nhất có thể đối với các công trình khoa học có liên quan đến quyền trẻ em có HCĐB ở Việt Nam hiện nay. Bên cạnh việc nghiên cứu trực tiếp về quyền trẻ em có HCĐB ở Việt Nam, luận án sẽ tập trung hướng nghiên cứu vào thực tiễn qui định và thực hiện pháp luật về quyền trẻ em có HCĐB ở nước ta trong khoảng thời gian 5 năm trở lại đây, đánh giá những thuận lợi, khó khăn cùng với những ưu điểm, hạn chế trong lĩnh vực này, từ đó rút ra các kiến nghị khả thi nhằm phát huy hơn nữa những ưu điểm, khắc phục tối đa những hạn chế đó. Trên cơ sở rút ra những đặc điểm chung về quyền trẻ em có HCĐB và tập hợp, tổng hợp kinh nghiệm của các nước, luận án sẽ đưa ra những giải pháp nhằm tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm phù hợp của các nước góp phần hoàn thiện vào việc bảo đảm quyền trẻ em có HCĐB ở nước ta. TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 Trong chương tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài, NCS đã đề cập những nét cơ bản của việc nghiên cứu đề tài ở trong và ngoài nước dưới góc độ thống kê một cách tương đối số lượng các công trình nghiên cứu sau đó đánh giá theo nội dung đề cập trong đề cương nghiên cứu.
  • 28. 22 Về tình hình nghiên cứu ở nước ngoài, NCS đã đề cập đến các vấn đề cơ sở lý luận, thực trạng và các giải pháp bảo đảm quyền trẻ em có HCĐB ở một số quốc gia khác nhau như Liên bang Nga, Australia, Thụy Điển vv… Trong số đó, tiêu biểu là các công trình nghiên cứu khoa học, các giáo trình, bài viết được dịch từ nước ngoài của các tổ chức phi chính phủ như Plan, Unicef… Hầu hết các tác giả đều luận giải vấn đề về quyền trẻ em, trẻ em có HCĐB, bên cạnh đó là trách nhiệm của các cơ quan tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện các quyền trẻ em có HCĐB, hơn nữa các công trình nghiên cứu trên còn quy định rất cụ thể về các biện pháp thúc đẩy thực hiện quyền trẻ em và trẻ em có HCĐB. Về tình hình nghiên cứu ở trong nước, NCS nghiên cứu theo ba hướng cơ bản là phân tích các công trình nghiên cứu về cơ sở lý luận, thực trạng và các giải pháp ở nhiều công trình chuyên khảo, các bài tạp chí khoa học chuyên ngành, bài tạp chí trong nước nghiên cứu về quyền trẻ em, các luận văn, luận án… mỗi tài liệu tiếp cận quyền trẻ em có HCĐB ở những góc độ khác nhau. Qua nghiên cứu các công trình trong nước và nước ngoài cho thấy các công trình này mới chỉ tập trung nghiên cứu về các quyền trẻ em nói chung và một vài nghiên cứu về quyền của một số nhóm trẻ em có HCĐB, chưa có một công trình nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện và sâu sắc về quyền trẻ em có HCĐB ở Việt Nam hiện nay. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, NCS sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác nhau như: phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp hệ thống, phương pháp luật học so sánh về thực tiễn tình hình nghiên cứu trong nước và nước ngoài về quyền trẻ em có HCĐB đã chỉ ra rằng Việt Nam cần phải tiếp thu có chọn lọc các quan điểm, các kinh nghiệm về bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em có HCĐB của các nước trên thế giới, từ đó vận dụng một cách phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
  • 29. 23 CHƯƠNG 2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TRẺ EM CÓ HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1. Trẻ em và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt 2.1.1. Khái niệm trẻ em Từ xưa đến nay, trẻ em được coi là một thành phần quan trọng, không thể thiếu trong mỗi gia đình, là biểu tượng của tương lai, là “mầm non”, là “tiềm năng” của mọi xã hội. Trẻ em không phải là người lớn thu nhỏ, mà chúng vận động và phát triển theo những quy luật khác với người lớn, có cách nhìn nhận, cách suy nghĩ và cách cảm nhận riêng và đặc biệt, trẻ em là những người phát triển chưa đầy đủ về thể chất, tinh thần, trí tuệ, đạo đức và xã hội. Hay nói cách khác, trẻ em là những người còn rất non nớt cả về thể lực lẫn trí lực. Chính vì vậy, trẻ em chưa thể có khả năng tự chăm sóc, bảo vệ mình nên đòi hỏi có sự quan tâm, chăm sóc một cách đặc biệt từ phía người lớn. Nghiên cứu về khái niệm trẻ em có thể nhìn nhận một cách đa chiều, có thể dưới góc độ triết học, xã hội học, tâm lý học hay luật học..., tuy nhiên, tùy theo sự tiếp cận khác nhau về trẻ em mà có thể đưa ra những định nghĩa khác nhau. Dưới góc độ triết học, trẻ em được xem xét trong mối quan hệ biện chứng với sự phát triển xã hội. Con người sáng tạo ra lịch sử và trẻ em là con đẻ của thời đại, của xã hội. Trong mọi thời đại, tương lai của một quốc gia, dân tộc đều tùy thuộc vào việc chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em. Dưới góc độ xã hội học, xác định trẻ em là người có vị thế, vai trò xã hội khác với người lớn. Điều này thể hiện ở chỗ trẻ em được xã hội quan tâm tạo điều kiện sinh thành, bảo vệ, nuôi dưỡng, chăm sóc để phát triển thành người lớn. Trẻ em là người chưa đạt tới sự trưởng thành về thể chất cũng như về tinh thần để được coi là người lớn. Dưới góc độ tâm lý học, khái niệm “trẻ em” được dùng để chỉ giai đoạn đầu của sự phát triển tâm lý-nhân cách con người. Các nhà tâm lý học rất quan tâm nghiên cứu sự phát triển tâm lý của con người nói chung và trẻ em nói riêng trong độ tuổi từ lúc lọt lòng đến tuổi dậy thì [5, tr.3]. Dưới góc độ khoa học pháp lý, khái niệm trẻ em thường được tiếp cận theo “độ tuổi”. Điều đó có nghĩa là một cá nhân có thể được coi là người lớn hay trẻ em phụ thuộc vào năm sinh của người đó tại thời điểm xác định. Độ tuổi của trẻ em được xác định tùy theo mỗi quốc gia, mỗi nền văn hóa-xã hội cụ thể, thậm chí mỗi
  • 30. 24 quốc gia ở phương diện pháp lý thì tùy vào đối tượng và mục đích điều chỉnh mà ở một số ngành luật, văn bản qui phạm pháp luật có sự qui định độ tuổi của trẻ em là khác nhau. Như vậy, dưới góc độ pháp lý, có thể xem xét khái niệm trẻ em theo hai lĩnh vực, đó là lĩnh vực pháp luật quốc tế và lĩnh vực pháp luật quốc gia. 2.1.1.1. Khái niệm trẻ em theo Công ước về Quyền trẻ em năm 1989 và pháp luật nước ngoài Theo Tuyên bố về Quyền trẻ em của Liên Hợp Quốc năm 1959 “Trẻ em, do chưa trưởng thành về tinh thần và thể lực cần có sự bảo vệ và chăm sóc đặc biệt, bao gồm sự bảo vệ về mặt pháp lý thích hợp, trước cũng như sau khi sinh”. Điều 1, Công ước về Quyền trẻ em năm 1989 đã ghi nhận“Trẻ em là bất kỳ người nào dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật có thể được áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn”. Như vậy, khái niệm trẻ em được đề cập trong Công ước chủ yếu dựa vào độ tuổi của trẻ em để xác định, không như trong triết học, xã hội học, tâm lý học,…Theo tinh thần Công ước, có thể ngầm hiểu rằng khái niệm trẻ em bao gồm cả người chưa thành niên hay cũng có thể hiểu rằng người chưa thành niên bao gồm cả trẻ em và đều là những người ở độ tuổi dưới 18. Trên cơ sở Công ước về Quyền trẻ em năm 1989 mà các quốc gia thành viên tham gia công ước thừa nhận độ tuổi trong khái niệm về trẻ em là dưới 18, mỗi quốc gia, mỗi nền văn hóa-xã hội, mỗi tổ chức cụ thể có thể xem xét trẻ em ở nhiều độ tuổi khác nhau, chẳng hạn, các tổ chức của Liên hợp quốc, như Quỹ Dân số (UNFPA), Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa (UNESCO) đều xác định khái niệm trẻ em dựa vào độ tuổi và khẳng định rằng trẻ em là người dưới 18 tuổi hay pháp luật của một số nước trong khu vực và trên thế giới có qui định như sau: Theo pháp luật Trung Quốc: Điều 2, Luật bảo vệ người chưa thành niên quy định, trẻ em còn được gọi là trẻ chưa thành niên, là công dân dưới 18 tuổi, được hưởng quyền sống, quyền phát triển, quyền được bảo vệ và quyền tham gia. Nhà nước phải bảo vệ và chăm sóc đặc biệt cho sự phát triển thể chất và tinh thần của trẻ chưa thành niên, bảo đảm các quyền bất khả xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên. Theo pháp luật Nhật Bản: Điều 4, luật Phúc lợi trẻ em năm 1947 và pháp luật hiện hành cũng quy định trẻ em là người dưới 18 tuổi. Pháp luật tôn trọng và thực thi toàn bộ những quy định để bảo đảm mọi phúc lợi cho trẻ em.
  • 31. 25 Theo điều luật Liên bang Nga số 124 - FZ ngày 21/7/1998 (sửa đổi), thì trẻ em được hiểu là người ở độ tuổi dưới 18. Tại điều 6 Luật này quy định việc bảo đảm các quyền của trẻ em ở Liên bang Nga từ khi sinh ra và được Nhà nước bảo đảm các quyền và tự do của con người và công dân phù hợp với Hiến pháp của Liên bang Nga, phù hợp với nguyên tắc pháp luật phổ quát được công nhận chung và các quy phạm pháp luật quốc tế, các điều ước quốc tế của Liên bang Nga và của luật này, phù hợp với Bộ luật Hôn nhân và Gia đình và các văn bản quy phạm pháp luật khác của Liên bang Nga. Như vậy, việc bảo vệ các quyền của trẻ em tại Liên bang Nga đã được định chế trong pháp luật và phù hợp với pháp luật quốc tế về quyền trẻ em. Điều đó đã được khẳng định trong Hiến pháp năm 1992 của Liên bang Nga. Theo đó Hiến pháp năm 1992 của Liên bang Nga quy định rằng: các nguyên tắc và các quy phạm được công nhận chung của luật quốc tế là một bộ phận cấu thành của hệ thống pháp luật Liên bang Nga (khoản 4, điều 15); Liên bang Nga công nhận và bảo đảm các quyền tự do của con người và công dân phù hợp với các nguyên tắc và các quy phạm được công nhận chung của luật quốc tế và với Hiến pháp (khoản 1, điều 17); Liên bang Nga bảo đảm các quyền của các dân tộc phù hợp với các nguyên tắc chung và các quy phạm pháp luật quốc tế với các điều ước quốc tế mà Liên bang Nga đã ký kết hoặc gia nhập (Điều 69). Theo pháp luật Liên bang của Hoa Kỳ thì “trẻ em là người dưới 18 tuổi” [40, tr.14]. Như vậy, hầu hết các nước đều nhìn nhận khái niệm trẻ em dựa trên cơ sở độ tuổi, tuy nhiên, mỗi nước có qui định khác nhau về độ tuổi để được coi là trẻ em. Việc qui định độ tuổi ở mỗi quốc gia phụ thuộc vào sự phát triển về thể chất, tâm sinh lý của trẻ em ở mỗi quốc gia, điều kiện lịch sử, văn hóa và kinh tế của mỗi đất nước. Do đó, có những quốc gia qui định độ tuổi thành niên sớm hơn hoặc trễ hơn 18 tuổi như được xác định trong Công ước về quyền trẻ em. Tuy độ tuổi được coi là trẻ em ở mỗi quốc gia, mỗi tổ chức có sự khác nhau nhưng nhìn chung trẻ em ở tất cả các quốc gia đều có các đặc điểm sau: Thể chất và trí tuệ chưa trưởng thành. Cần có sự chăm sóc, giáo dục đặc của gia đình, nhà trường, xã hội cả về mặt đạo đức và pháp lý. 2.1.1.2. Khái niệm trẻ em theo pháp luật Việt Nam Với tư cách là thành viên của Liên Hợp quốc, Việt Nam là nước đầu tiên ở châu Á và nước thứ hai trên thế giới tham gia Công ước quyền trẻ em năm 1990.
  • 32. 26 Trên cơ sở các qui định của Công ước quyền trẻ em, Việt Nam nội luật hóa các qui định của công ước trong lĩnh vực pháp luật Việt Nam về quyền trẻ em, trong đó có đề cập đến khái niệm về trẻ em. Dưới góc độ khoa học pháp lý Việt Nam, hầu như chưa có một định nghĩa đầy đủ về trẻ em cũng như sự điều chỉnh pháp luật đối với trẻ em mà chỉ có một số ngành luật nhắc đến các khái niệm trẻ em, người chưa thành niên và các qui định này không thống nhất trong từng ngành luật cụ thể. Theo điều 1, Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 1991, sửa đổi, bổ sung năm 2004 quy định “Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”. Như vậy, căn cứ để xác định trẻ em Việt Nam phải là người có quốc tịch Việt Nam và ở trong độ tuổi từ 0 đến dưới 16 tuổi. Trong khi đó, Luật Hôn nhân và Gia đình sửa đổi, bổ sung năm 2013 xác định tuổi con nuôi là từ 15 tuổi trở xuống (điều 34). Bộ luật Dân sự 2005, tại điều 18 qui định: Người từ đủ 18 tuổi trở lên là người thành niên, người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên. Bộ luật Hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009, tại điều 14 qui định người chưa thành niên phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi. Bộ luật Lao động 1994 (sửa đổi bổ sung năm 2001, 2006, 2007, 2013) quy định người lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi (điều 119), khái niệm trẻ em được hiểu là người chưa đủ 15 tuổi (điều 120). Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2013 quy định tuổi chịu trách nhiệm hành chính “Là người từ đủ 14 tuổi trở lên có thể bị xử phạt vi phạm hành chính”. Như vậy, theo pháp luật Việt Nam khái niệm trẻ em có sự khác nhau về độ tuổi song trẻ em trước hết là một con người được hưởng mọi quyền và mọi tự do đã được nêu ra trong các Công ước quốc tế về quyền con người mà không bị bất cứ một sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến hoặc quan điểm khác, địa vị, nguồn gốc dân tộc và xã hội, tài sản, dòng dõi hoặc mối tương quan khác. Nhưng trẻ em lại là người chưa trưởng thành nên có quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng, bảo vệ và bày tỏ quan điểm, chính kiến của mình về mọi vấn đề liên quan đến bản thân mình. Bên cạnh đó, ta có thể ngầm hiểu rằng khái niệm trẻ em trong pháp luật Việt Nam hẹp hơn khái niệm người chưa thành niên, bởi người chưa thành niên bao gồm cả trẻ em và những người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi. Từ những phân tích ở trên về khái niệm trẻ em, NCS có thể xây dựng một khái niệm theo quan điểm của riêng mình đó là: trẻ em là công dân Việt Nam dưới
  • 33. 27 18 tuổi, còn non nớt về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, có đầy đủ các quyền của con người về dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa, đồng thời các em cũng có những quyền đặc thù theo lứa tuổi của mình. 2.1.2. Khái niệm và phân loại trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt 2.1.2.1. Khái niệm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt Theo Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 2004, trẻ em có HCĐB là khái niệm dùng để chỉ những trẻ em có hoàn cảnh không bình thường về thể chất hoặc tinh thần, không đủ điều kiện để thực hiện quyền cơ bản và hòa nhập với gia đình, cộng đồng [47, tr.3]. Theo tổ chức UNICEF, trẻ em có HCĐB là một khái niệm dùng cho các em sống trong một hoàn cảnh, vì một lý do nào đó mà việc đáp ứng các nhu cầu cơ bản của các em bị hạn chế. Từ định nghĩa trên ta có thể thấy trẻ em có HCĐB có những đặc điểm sau: - Thể chất và tinh thần không bình thường (đó là đối với các trẻ em có khuyết tật về thể chất, tinh thần) - Không đủ điều kiện thực hiện quyền cơ bản và hòa nhập với gia đình và cộng đồng. 2.1.2.2. Phân loại trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt Có nhiều tiêu chí khác nhau để phân loại nhóm trẻ em có HCĐB, nhưng theo quan điểm chung nhất hiện nay là căn cứ vào hoàn cảnh của trẻ em ở Việt Nam nên tại điều 40, Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 2004 qui định về các nhóm trẻ em có HCĐB đó là: trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi; trẻ em khuyết tật, tàn tật; trẻ em là nạn nhân của chất độc hóa học; trẻ em nhiễm HIV/AIDS; trẻ em phải làm việc nặng nhọc, nguy hiểm, tiếp xúc với chất độc hại; trẻ em phải làm việc xa gia đình; trẻ em lang thang; trẻ em bị xâm hại tình dục; trẻ em nghiện ma túy; trẻ em vi phạm pháp luật. [47, tr.12]. a) Trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi Việc xếp trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, bị bỏ rơi vào một nhóm là vì các nhóm trẻ em này có chung một số đặc điểm như không có bố mẹ hoặc vì lý do nào đó không được sống cùng bố mẹ như: bố mẹ phải chấp hành hình phạt tù trong một khoảng thời gian dài, bố mẹ đi nước ngoài không có thông tin liên lạc, bố mẹ chết trong tai nạn, bệnh tật, chết trong thiên tai, chiến tranh hay mất tích trong các vụ thiên tai, lũ lụt, hay bố mẹ vì lý do nào đó không nuôi dưỡng chúng, vứt bỏ chúng, hoặc bị thất lạc….
  • 34. 28 Vậy, trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi là gì? Là trẻ em mồ côi cả cha và mẹ, trẻ em bị bỏ rơi, mất nguồn nuôi dưỡng; trẻ em mồ côi cha hoặc mẹ nhưng người còn lại là mẹ hoặc cha mất tích theo quy định tại điều 78 của Bộ luật Dân sự hoặc không đủ năng lực, khả năng để nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật. Trẻ em có cha và mẹ hoặc cha hoặc mẹ đang trong thời gian chấp hành hình phạt tù tại trại giam, không còn người nuôi dưỡng (Theo Nghị định số 67/2007/NĐ-CP ngày 13/4/2007). Hoặc tại Điều 3, Luật nuôi con nuôi hiện hành có giải thích khái niệm trẻ mồ côi và khái niệm trẻ em bị bỏ rơi như sau: Trẻ em mồ côi là trẻ em mà cả cha mẹ đẻ đã chết hoặc một trong hai người đã chết và người kia không xác định được. Trẻ em bị bỏ rơi là trẻ em không xác định được cha mẹ đẻ. Tại điều 7, Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em qui định về các hành vi bị nghiêm cấm trong đó có hành vi cha mẹ bỏ rơi con; người giám hộ bỏ rơi trẻ em mình được giám hộ. Nghị định số 71/2011/NĐ-CP đã xác định cụ thể những hành vi được coi là cha, mẹ bỏ rơi con, người giám hộ bỏ rơi trẻ em được mình giám hộ bao gồm: Sau khi sinh con, cha, mẹ bỏ con, không chăm sóc nuôi dưỡng; Cha, mẹ, người giám hộ không thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng, cắt đứt quan hệ tình cảm và vật chất với trẻ em, trừ trường hợp trẻ em làm con nuôi hoặc bị buộc phải cách ly trẻ em theo quy định của pháp luật; cha, mẹ, người giám hộ cố ý bỏ rơi trẻ em ở nơi công cộng, bỏ mặc hoặc ép buộc trẻ em không sống cùng gia đình, bỏ mặc trẻ em tự sinh sống, không quan tâm, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ em để trẻ em rơi vào HCĐB. Như vậy, pháp luật chỉ liệt kê các hành vi được coi là bỏ rơi con. Hành vi này là của cha mẹ đứa trẻ hoặc hành vi của người giám hộ cho đứa trẻ: Bỏ con, không chăm sóc, nuôi dưỡng con, không thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng con, cắt đứt quan hệ tình cảm, vật chất với đứa trẻ, bỏ con ở nơi công cộng, bỏ mặc hoặc ép buộc trẻ em không sống cùng gia đình, bỏ mặc trẻ em tự sinh sống, không quan tâm, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ em. Việc qui định như vậy là quá rộng và không hoàn toàn chính xác. Vì vậy, cần xác định một cách cụ thể và khoa học về khái niệm trẻ em bị bỏ rơi như trốn tránh nghĩa vụ chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng trẻ em của cha mẹ, gia đình. Việc xác định một đứa trẻ được coi là bị bỏ rơi cần phải dựa vào những căn cứ sau: Mối quan hệ giữa trẻ em đó với người đã rời bỏ trẻ em; Hành vi trực tiếp của người đã rời bỏ trẻ em.
  • 35. 29 Theo Điều 7, Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em và Điều 3, Nghị định 70/2011/NĐ-CP thì chủ thể thực hiện hành vi rời bỏ trẻ em phải là cha mẹ đẻ của trẻ em đó hoặc người giám hộ của trẻ em đó. Hay nói một cách cụ thể hơn, chủ thể đó là cha mẹ đẻ của trẻ em đó và người thân thích của trẻ em đó. Từ những qui định ở các văn bản trên, chúng tôi đưa ra khái niệm trẻ em bị bỏ rơi như sau: trẻ em bị bỏ rơi là những đứa trẻ bị tước đi quyền biết nguồn gốc, huyết thống hoặc quyền được sống chung với cha mẹ và gia đình do hành vi trái pháp luật của cha mẹ và người giám hộ. Như vậy, giữa Luật nuôi con nuôi với Nghị định 67 và Nghị định 70 thì khái niệm về trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi chưa có sự đồng nhất với nhau, bởi khi nói đến trẻ mồ côi thì có hai trường hợp xảy ra, một là mồ côi cả cha và mẹ hoặc mồ côi cha hay mẹ, nhưng cha mẹ có thể chết hoặc vẫn còn sống do mất tích, đang chấp hành hình phạt tù… do đó Luật nuôi con nuôi chỉ xác định trẻ mồ côi là trẻ có cha và mẹ, cha hoặc mẹ đã chết, vì thế mà phạm vi khái niệm trẻ em mồ côi không nơi nương tựa và trẻ em bị bỏ rơi được đề cập trong Luật nuôi con nuôi hẹp hơn so với khái niệm được đề cập tại nghị định 67 và Nghị định 70. b) Trẻ em khuyết tật Tại khoản 1, Điều 2, Luật Người Khuyết tật khẳng định khái niệm người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn. Như vậy, trên cơ sở khái niệm về người khuyết tật nói chung thì có thể thấy trẻ em khuyết tật cũng được coi là người khuyết tật nhưng hẹp hơn khái niệm về người khuyết tật vì bị giới hạn ở độ tuổi dưới 16 và được coi là đối tượng thiệt thòi nhất trong số những trẻ em có HCĐB. Nguyên nhân dẫn đến trẻ khuyết tật có thể do bẩm sinh, do ốm đau bệnh tật, do tai nạn, do mìn/vật gây nổ hoặc nhiễm các chất hóa học… Trẻ khuyết tật thường được phân thành các nhóm sau: trẻ khiếm thính, trẻ khiếm thị, trẻ khó khăn về học, trẻ khó khăn về vận động, trẻ khó khăn về ngôn ngữ, trẻ đa tật và trẻ có các dạng khuyết tật khác. c) Trẻ em là nạn nhân của chất độc hóa học Là trẻ em bị khuyết tật, dị tật bẩm sinh do di chứng di truyền từ bố mẹ bị nhiễm chất độc hóa học hoặc bị tiếp xúc với chất độc hóa học gây ra những tổn hại nặng nề về sức khỏe, tinh thần.