SlideShare a Scribd company logo
1 of 84
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRƯƠNG THỊ NGỌC HUỆ
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG VỤ ÁN
CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI
CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC
TỪ THỰC TIỄN QUẬN 9, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HÀ NỘI, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRƯƠNG THỊ NGỌC HUỆ
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG VỤ ÁN
CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI
CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC
TỪ THỰC TIỄN QUẬN 9, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. TRẦN HƯNG BÌNH
HÀ NỘI, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học độc
lập của riêng tôi. Các tài liệu, tư liệu được sử dụng trong luận văn có nguồn
dẫn rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn có được là do quá trình
lao động
trung thực của tôi.
Hà Nội, ngày tháng 8 năm 2019
NGƯỜI CAM ĐOAN
TRƯƠNG THỊ NGỌC HUỆ
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1 : MỘT SỐ VÁN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỰC
HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI CÁC VỤ ÁN CỐ Ý GÂY
THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA
NGƯỜI KHÁC................................................................................................ 9
1.1. Khái niệm - Phạm vi - Đặc điểm của thực hành quyền công tố ............ 9
1.1.1. Khái niệm - Phạm vi........................................................................ 9
1.1.2. Đặc điểm và nội dung hực hành quyền công tố............................14
1.1.3. Mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố với kiểm sát hoạt động
tư pháp.....................................................................................................16
1.2. Khái niệm- Đặc điểm tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác......................................................................19
1.2.1. Khái niệm ......................................................................................19
1.2.2. Đặc điểm .......................................................................................19
1.3. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về thực hành quyền
công tố trong các giai đoạn tố tụng.............................................................22
1.3.1. Giai đoạn thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố ..........................22
1.3.2. Giai đoạn điều tra vụ án ...............................................................26
1.3.3. Giai đoạn truy tố...........................................................................28
Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI
CÁC VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO
SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 9, THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH....................................................................................32
2.1. Tình hình tội phạm Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác trên địa bàn Quận 9 thời gian từ năm 2014 đến năm
2018.............................................................................................................32
2.1.1. Khái quát về đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội Quận 9 .............32
2.1.2. Cơ cấu tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân Quận 9 Thành phố Hồ
Chí Minh…………………………………………………………………….34
2.1.3. Tình hình của tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác trên địa bàn Quận 9 .......................................35
2.2. Kết quả thực hành quyền công tố đối với các vụ án cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn Quận 9
Thành phố Hồ Chí Minh .............................................................................38
2.3. Những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân...............................................47
2.3.1. Những hạn chế, tồn tại..................................................................47
2.3.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế .....................................56
Chương 3:YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ CÔNG TÁC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI
CÁC VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO
SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 9, THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH....................................................................................60
3.1. Yêu cầu và phương hướng...................................................................60
3.1.1. Yêu cầu..........................................................................................60
3.1.2. Phương hướng...............................................................................62
3.2. Một số giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố đối với
các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người
khác trên địa bàn Quận 9 thành phố Hồ Chí Minh .....................................62
3.2.1. Nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của
Viện kiểm sát nhân dân trong công tác thực hành quyền công tố đối với
các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người
khác .........................................................................................................62
3.2.2. Nâng cao chất lượng quản lý, chỉ đạo, điều hành trong công tác
thực hành quyền công tố đối với các vụ án về tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ......................................63
3.2.3. Nâng cao chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên làm công tác thực
hành quyền công tố .................................................................................64
3.2.4. Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện phục vụ
công tác chuyên môn, nghiệp vụ của Viện kiểm sát nhân dân................66
3.3. Kiến nghị..............................................................................................67
3.3.1. Kịp thời ban hành văn bản hướng dẫn giải đáp một số vấn đề
vướng mắc trên thực tế và sửa đổi nội dung quy định không phù hợp...67
3.3.2. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phối hợp giữa Viện kiểm
sát, Cơ quan điều tra và các cơ quan hữu quan.....................................69
KẾT LUẬN....................................................................................................71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS : Bộ luật Hình sự
BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự
CQĐT : Cơ quan điều tra
KSV : Kiểm sát viên
TTHS : Tố tụng hình sự
VKS : Viện kiểm sát
VKSND : Viện kiểm sát nhân dân
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Số vụ, số bị can về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác bị khởi tố từ năm 2014 đến năm 2018 trên địa bàn
Quận 9 .............................................................................................................35
Bảng 2.2. Số vụ án và bị can bị đình chỉ, tạm đình chỉ về tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong các năm từ 2014 -
2018 trên địa bàn Quận 9 ................................................................................40
Bảng 2.3. Số vụ án và bị can về tội tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác kết thúc điều tra được VKS truy tố trong các
năm từ 2014-2018 trên địa bàn Quận 9...........................................................45
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tình hình kinh tế - xã hội đất nước ngày càng phát triển kéo theo hệ lụy
là tội phạm ngày càng gia tăng và phức tạp hơn. Điều này đặt ra yêu cầu nặng
nề hơn cho công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Nghị quyết số
63/2013/QH13 ngày 27 tháng 11 năm 2013 của Quốc hội về tăng cường các
biện pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm đã nhấn mạnh yêu cầu cụ thể về
các biện pháp đấu tranh phòng chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay. Để
cụ thể hóa các chủ trương, biện pháp đó, các văn bản pháp luật hình sự, đặc
biệt là quy định của Bộ luật hình sự, BLTTHS ngày càng được hoàn thiện
hơn. Trách nhiệm đấu tranh phòng chống tội phạm thuộc về nhân dân và cả
hệ thống chính trị, trong đó, trách nhiệm của các cơ quan tư pháp, trong đó có
VKS. Trách nhiệm đó được VKS thực hiện thông qua công tác thực hiện chức
năng của mình, nhất là công tác THQCT. Trước yêu cầu cải cách tư pháp,
trách nhiệm của VKS càng được đặt ra nặng nề hơn. Nghị quyết số 08/NQ-
TN ngày 02/01/2002 “Về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp
trong thời gian tới” và Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/06/2005 “Về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020” của Bộ Chính trị đã khẳng định
“VKSND tiếp tục thực hiện chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong hoạt động tư pháp … tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt
động điều tra…”. Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định VKSND có chức
năng THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp nhằm thực hiện “nhiệm vụ bảo
vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và
thống nhất”[15, tr.27]. Điều này đòi hỏi hoạt động của VKSND nói chung,
hoạt động THQCT nói riêng cần được nhận thức đầy đủ, đúng đắn, thực hiện
2
một cách triệt để, có hiệu quả. Trên cơ sở đó, Ngành kiểm sát cũng đã xác
định rõ nhiệm vụ và đặt ra yêu cầu cụ thể để thực hiện những nhiệm vụ đó
thông qua nhiều văn bản như Chỉ thị số 06/CT-VKSTC ngày 06/12/2013 về
tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt
động điều tra đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, Chỉ thị số
04/CT-VKSTC ngày 10 tháng 7 năm 2015 về tăng cường các biện pháp
phòng chống oan, sai và nâng cao trách nhiệm trong giải quyết bồi thường
thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự.
Quận 9 Thành phố Hồ Chí Minh là đô thị nằm ở vị trí cửa ngõ Đông
Bắc của thành phố, nối liền địa bàn kinh tế trọng điểm của khu vực. Quận 9
có diện tích 113,896.200 km2
, có 13 phường với dân số 235.268 người [5].
Với địa bàn rộng, dân cư tương đối đông và hàng năm đều gia tăng, kinh tế
ngày càng phát triển đưa đến hệ lụy là tình hình tội phạm cũng ngày càng gia
tăng. Vì vậy, bên cạnh giữ vững ổn định, phát triển kinh tế, Quận 9 còn đối
mặt với không ít những khó khăn về vấn đề đấu tranh phòng chống tội phạm,
trong đó có tội phạm cố ý gây thương tích và gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác. So với các địa phương khác, Quận 9 là khu vực luôn chiếm tỷ lệ
tương đối lớn về loại tội phạm này và hiện nay đang có chiều hướng gia tăng
về số lượng cũng như mức độ nguy hiểm. Công tác THQCT đối với các tội cố
ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn
Quận 9 trong những năm gần đây có nhiều chuyển biến tích cực, vai trò của
Viện kiểm sát ngày càng được khẳng định. Hầu hết các vụ án cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác xảy ra trên địa bàn quận
được phát hiện, điều tra, truy tố và xét xử nhanh chóng, kịp thời, đảm bảo sự
nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật đã góp phần quan trọng
vào việc giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Tuy nhiên, qua
thực tiễn công tác của Viện kiểm sát cho thấy, công tác thực hành quyền công
3
tố đối với các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trên địa bàn Quận 9 cũng có những hạn chế, bất cập do nhiều
nguyên nhân khác nhau cần được khắc phục kịp thời.
Trước thực trạng nêu trên, việc làm rõ những vấn đề lý luận và thực
tiễn về hoạt động thực hành công tố đối với các vụ án về tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn Quận 9, thành
phố Hồ Chí Minh là hết sức cần thiết.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài: Thực hành quyền
công tố trong vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
ngườì khác từ thực tiễn Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh” làm Luận văn
thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
THQCT nói chung và THQCT đối với các vụ án cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng hiện nay đang là chủ
đề được khá nhiều học giả cũng như người làm công tác thực tiễn quan tâm,
nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Đưa ra quan điểm nghiên cứu dưới
dạng sách tham khảo có thể kể đến một số tác phẩm điển hình như cuốn
“THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra” của TS. Lê
Hữu Thể, TS Đỗ Văn Đương và CN Nông Xuân Trường. Cuốn sách này tác
giả chủ yếu đưa ra và phân tích các vấn đề lý luận chung về thực hành quyền
công tố và thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra. Bên cạnh đó còn
có cuốn “Một số vấn đề về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động
điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp”
của TS. Nguyễn Hải Phong (chủ biên). Cuốn sách này tác giả chủ yếu đưa ra
và phân tích các vấn đề lý luận chung về thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra, chủ trương định hướng của Đảng và đưa ra giải pháp nhằm tăng
cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra mà không gắn công tác
4
này với tội phạm cụ thể. Bên cạnh đó, những cuốn bình luận khoa học Bộ luật
Tố tụng Hình sự của các trường như Đại học Luật Hà Nội, Đại học Luật thành
phố Hồ Chí Minh hoặc các cuốn bình luận của các tác giả như GS.TS Nguyễn
Ngọc Anh – LS.TS. Phan Trung Hoài, TS. Phạm Mạnh Hùng và các đồng tác
giả, TS. Trần Văn Biên – TS. Đinh Thế Hưng, … cũng nghiên cứu về công
tác thực hành quyền công tố nhưng chỉ đề cập với thời lượng ít và mang tính
chất chung đối với quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự về chức năng nhiệm
vụ của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự mà không đi sâu nghiên
cứu công tác này cũng như không gắn công tác này với tội phạm cụ thể.
Nghiên cứu dưới góc độ luận văn có tác giả Trịnh Duy Tám với luận
văn thạc sỹ luật học "Áp dụng pháp luật trong THQCT trong giai đoạn điều
tra của VKSND ở Việt Nam hiện nay”; tác giả Nguyễn Mạnh Tùng với luận
văn thạc sỹ luật học “THQCT và kiểm sát hoạt động điều tra các vụ án về ma
túy ở Thành phố Hà Nội”; tác giả Phạm Anh Đức với luận văn thạc sỹ
“Nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
và kiến nghị khởi tố”; tác giả Nguyễn Ngọc Ánh với luận văn thạc sỹ luật học
“THQCT và kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu trên địa bàn thành
phố Hà Nội”; tác giả Phan Thị Sa với luận văn thạc sỹ luật học “THQCT
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn huyện Mộ Đức,
tỉnh Quảng Ngãi”, tác giả Lê Thị Tuyết Hoa với luận án tiến sỹ luật học
“Quyền công tố ở Việt Nam”, ... Các công trình này nghiên cứu về công tác
thực hành quyền công tố nói chung, công tác thực hành quyền công tố và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật ở giai đoạn điều tra hoặc giai đoạn xét xử
gắn với một loại tội phạm cụ thể như tội phạm về ma túy, tội xâm phạm sở
hữu.
Ngoài ra, có nhiều tác giả thể hiện quan điểm nghiên cứu về vấn đề này
dưới dạng các bài viết khoa học được đăng trên các báo, tạp chí như: bài viết
5
“Tổ chức bộ máy và chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong tiến trình
cải cách tư pháp” của tác giả Lê Hữu Thể đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 14 –
16/2008; “Bàn về mô hình viện kiểm sát theo yêu cầu cải cách tư pháp” của
tác giả Lại Hợp Việt, tạp chí kiểm sát số 14-16/ 2008; bài viết “Tăng cường
trách nhiệm của công tố trong giai đoạn điều tra trong BLTTHS” của tác giả
Nguyễn Tiến Sơn đăng tạp chí kiểm sát số 09/2015; bài viết “Một số vấn đề
đặt ra từ thực tiễn thực hiện chức năng THQCT và kiểm sát hoạt động tư
pháp của VKS theo yêu cầu cải cách tư pháp” của tác giả Nguyễn Duy Giảng
đăng trên Trang thông tin điện tử của VKS ND tối cao; bài viết “Một số vấn
đề về quyền công tố” của tác giả Trần Văn Độ đăng trên Tạp chí Luật học số
3/2001, bài viết “thực trạng công tác THQCT ,kiểm sát điều tra, kiểm sát xét
xử các vụ án hình sự tại Viện kiểm sát 02 cấp tỉnh Bình Dương và giải pháp,
kiến nghị” của tác giả Nguyễn Phước Trung đăng trên Trang thông tin điện tử
của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương, …
Các công trình nghiên cứu, các bài viết nêu trên đã đề cập các góc độ
khác nhau khi bàn về hoạt động THQCT dưới góc độ lý luận và thực tiễn.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có tác giả nào đưa ra công trình khoa học nghiên
cứu một cách hệ thống, toàn diện, sâu sắc và đầy đủ về công tác THQCT đối
với các vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác, nhất là gắn với địa bàn cụ thể là Quận 9 thành phố Hồ Chí Minh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận
về THQCT đối với các vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác, phân tích thực trạng áp dụng pháp luật để trên cơ sở
đó tác giả đưa ra một số đề xuất, kiến nghị góp phần nâng cao chất lượng
công tác THQCT đối với các vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác nói riêng và các vụ án hình sự nói chung.
6
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện mục đích nghiên cứu, luận văn
đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ:
+ Làm rõ lý luận về THQCT đối với các vụ án cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
+ Làm rõ quy định của BLTTHS năm 2015 và các văn bản pháp luật có
liên quan về THQCT trong các giai đoạn tố tụng.
+ Phân tích, đánh giá thực trạng công tác THQCT đối với các vụ án về
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên
địa bàn Quận 9 thành phố Hồ Chí Minh và những khó khăn, vướng mắc trong
quá trình thực hiện công tác này.
+ Đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm góp phần nâng cao hiệu quả
công tác THQCT đối với các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác trên địa bàn Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu:
Công tác THQCT đối với các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn Quận 9, thành phố Hồ Chí
Minh.
- Phạm vi nghiên cứu
+ Phạm vi về thời gian: luận văn tập trung khảo sát công tác THQCT
đối với các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trên địa bàn Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2014 đến
năm 2018;
+ Phạm vi về không gian: luận văn khảo sát tình hình thực hiện công
tác THQCT đối với các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác chỉ trên địa bàn Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh.
7
+ Phạm vi về nội dung: Công tác THQCT và kiểm sát hoạt động tư
pháp đối với các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác được Viện kiểm sát thực hiện trong cả giai đoạn điều tra, truy
tố, xét xử. Tuy nhiên, với thời gian ngắn và khả năng nghiên cứu có hạn, luận
văn chỉ tập trung nghiên cứu, khảo sát thực trạng công tác này ở hai giai đoạn
là điều tra và truy tố.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
- Cơ sở phương pháp luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương
pháp luận là phép duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và hệ thống các quan điểm của Đảng, Nhà nước về đấu tranh
phòng, chống tội phạm, cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay.
- Phương pháp nghiên cứu: tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp
nghiên cứu khác nhau, cụ thể là các phương pháp: phân tích, tổng hợp, thống
kê, so sánh, nghiên cứu án điển hình nhằm làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và
thực tiễn của đề tài.
6. Đóng góp mới và ý nghĩa của đề tài
Việc nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận và
thực tiễn.
Về mặt lý luận: Luận văn là công trình nghiên cứu đi sâu vào phân tích
một cách tương đối đầy đủ, toàn diện, có hệ thống quy định về hoạt động của
Viện kiểm sát khi THQCT đối với các vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và việc áp dụng những quy định đó
trên thực tế. Với kết quả nghiên cứu đạt được, luận văn có thể góp phần bổ
sung và làm phong phú thêm lý luận về hoạt động THQCT đối với các vụ án
về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
dưới góc độ pháp lý hình sự, tố tụng hình sự và đưa ra cơ sở khoa học của
hoạt động hoàn thiện pháp luật về hoạt động này.
8
Về mặt thực tiễn: Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo
đối với những người làm công tác thực tiễn để nâng cao hiệu quả áp dụng
pháp luật hình sự, tố tụng hình sự và những người học tập, giảng dạy, nghiên
cứu lập pháp về công tác THQCT đối với các vụ án về tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham
khảo, nội dung của luận văn được chia thành 3 chương:
Chương 1 : Một số vấn đề lí luận và pháp luật về THQCT đối với các
vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Chương 2: Thực trạng THQCT các vụ án cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn quận 9, Thành phố Hồ
Chí Minh
Chương 3: Yêu cầu và một số giải pháp nâng cao hiệu quả THQCT
đối với các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trên địa bàn quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh
9
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỰC
HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI CÁC VỤ ÁN CỐ Ý GÂY
THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA
NGƯỜI KHÁC
1.1. Khái niệm - Phạm vi - Đặc điểm của thực hành quyền công tố
1.1.1. Khái niệm - Phạm vi
Khái niệm về quyền công tố:
Chế định VKS được quy định trong pháp luật Việt Nam đã từ rất lâu
nhưng cho đến Hiến pháp năm 1980 thì thuật ngữ “thực hành quyền công tố”
với tư cách là chức năng của Viện kiểm sát mới được chính thức ghi nhận. Từ
thời điểm đó, khái niệm quyền công tố và THQCT đã được nghiên cứu, đề
cập khá nhiều trong khoa học pháp lí nước ta dưới các góc độ khác nhau.
Song, cho đến nay, chúng ta vẫn chưa đạt được sự thống nhất cao về nhận
thức đối với vấn đề này, chưa có một quan điểm thống nhất khi bàn về quyền
công tố. Theo Đại từ điển tiếng Việt của tác giả Nguyễn Như Ý, công tố có
nghĩa là "điều tra, truy tố và buộc tội kẻ phạm pháp trước Tòa án" [34, tr.204].
Theo đó, công tố bao gồm cả hoạt động điều tra và truy tố, buộc tội kẻ phạm
tội trước Tòa án. Theo Từ điển Luật học, công tố “là quyền của Nhà nước
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội”[26, tr.188]. Ở Việt Nam
hiện nay, quyền công tố được Nhà nước giao cho VKS thực hiện. Trên cơ sở
đó có thể hiểu, “quyền công tố là quyền buộc tội nhân danh Nhà nước đối với
người phạm tội”[26, tr.188]. Trong giới nghiên cứu khoa học, khái niệm
quyền công tố được đưa ra tương đối nhiều nhưng có thể kể đến một số quan
điểm chính sau:
Quan điểm thứ nhất: “Quyền công tố là quyền của nhà nước giao cho
VKS truy tố kẻ phạm tội ra Tòa án, thực hiện sự buộc tội tại phiên tòa (thực
hiện quyền công tố)” [21, tr.24]. Như vậy, theo quan điểm này, quyền công tố
10
chỉ tồn tại trong lĩnh vực hình sự, đó là quyền của Nhà nước truy tố kẻ phạm
tội ra trước Tòa án để xét xử và bảo vệ sự buộc tội đó tại phiên tòa hình sự
(duy trì quyền công tố). Và ở Việt Nam, quyền này được giao cho chủ thể duy
nhất là VKSND. Điều này đồng nghĩa với việc công tác thực hiện quyền công
tố chỉ diễn ra ở một lĩnh vực duy nhất là TTHS và công tác này cũng chỉ tồn
tại ở một giai đoạn duy nhất của TTHS là giai đoạn xét xử sơ thẩm. Quan
điểm này chưa phản ánh đầy đủ bản chất của quyền công tố. Bởi lẽ, truy tố và
buộc tội chỉ là một trong số các quyền năng, hoạt động của VKS ở giai đoạn
xét xử sơ thẩm trong TTHS. Ngoài hai quyền năng đó, VKS còn có nhiều
quyền năng khác khi THQCT ở giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự và ở các giai
đoạn khác trong TTHS.
Quan điểm thứ hai: “Quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho
các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự và áp
dụng các chế tài hình sự đối với người phạm tội”[21, tr.26]. Theo quan điểm
này, chủ thể THQCT không chỉ có VKS mà còn có các cơ quan tiến hành tố
tụng khác như CQĐT, Tòa án, Thi hành án. Như vậy, quyền công tố có trong
tất cả các giai đoạn tố tụng từ khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đến thi hành án
đối với các vụ án hình sự. Quan điểm này đã đồng nhất khái niệm quyền công
tố với nguyên tắc TTHS, dẫn đến nhầm lẫn giữa các chức năng cơ bản trong
TTHS (buộc tội, gỡ tội, xét xử …).
Quan điểm thứ ba: “Quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực
hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền này
thuộc về nhà nước, được Nhà nước giao cho một cơ quan thực hiện (ở nước ta
là VKS ) để phát hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người
phạm tội” [21, tr.40]. Cụ thể, cơ quan có chức năng THQCT có trách nhiệm
bảo đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để có thể xác định một cách
chính xác tội phạm, người phạm tội và trên cơ sở đó quyết định truy tố bị can
11
ra trước Tòa án cũng như bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tòa. Bên cạnh đó,
theo quan điểm này thì cơ quan có quyền công tố được phép nhân danh Nhà
nước để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội và quyền này
chỉ có trong lĩnh vực duy nhất là trong TTHS. Ở Việt Nam, VKS ND là cơ
quan duy nhất được Nhà nước giao quyền công tố mà không có bất kỳ cơ
quan nào có thể thay thế được.
Có thể nói rằng, cho đến nay, khi đưa ra khái niệm quyền công tố có rất
nhiều quan điểm khác nhau. Mỗi quan điểm đều có những yếu tố hợp lý
nhưng cũng đều thể hiện những bất cập nhất định. Với nhận thức của mình
khi nghiên cứu về vấn đề này, tác giả ủng hộ khái niệm quyền công tố được
đưa ra tại quan điểm thứ năm nêu trên, bởi một số lý do sau:
Một là, quan điểm này phù hợp với quan điểm truyền thống ở Việt
Nam khi nghiên cứu lịch sử nhà nước - pháp luật về quyền công tố. Theo đó,
quyền công tố là quyền của Nhà nước buộc tội đối với người có hành vi vi
phạm pháp luật hình sự.
Hai là, quan điểm này cũng phù hợp với các quy định pháp luật của
Nhà nước ta qua các thời kỳ về quyền công tố. Cụ thể, Hiến pháp, Luật tổ
chức VKS ND và pháp luật tố tụng hình sự của nước ta qua các thời kỳ đều
khẳng định VKSND có chức năng THQCT. Bên cạnh đó, Nghị quyết số 08-
NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị cũng đã nêu rõ: "VKS các cấp
thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
hoạt động tư pháp [1, tr. 8]. Bên cạnh đó, quan điểm của ngành Kiểm sát cũng
đã thể hiện một cách thống nhất từ trước đến nay: "Việc THQCT chỉ có trong
lĩnh vực hình sự và chỉ trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử" [23, tr. 2].
Phạm vi quyền công tố
Về phạm vi không gian: dựa trên quan điểm chính thống về khái niệm
quyền công tố được đưa ra ở trên có thể khẳng định rằng quyền công tố chỉ có
12
trong lĩnh vực TTHS mà không thể có trong lĩnh vực tố tụng khác. Theo đó,
quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc buộc tội đối với
người phạm tội. Việc buộc tội thì chỉ có trong lĩnh vực TTHS, cho nên quyền
công tố không thể tồn tại trong các lĩnh vực khác không liên quan đến sự buộc
tội như trong tố tụng hành chính, dân sự, kinh tế, ... Vì lẽ đó, quyền công tố
chỉ tồn tại trong lĩnh vực duy nhất có liên quan đến tội phạm và sự buộc tội là
lĩnh vực TTHS.
Về phạm vi thời gian: theo quan điểm khoa học được thừa nhận phổ
biến hiện nay, “phạm vi quyền công tố bắt đầu có từ khi tội phạm được thực
hiện và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị” [21,
tr.50-51]. Tác giả cho rằng quan điểm này rất đúng đắn. Bởi lẽ, từ khi tội
phạm được thực hiện, trách nhiệm của cơ quan được giao quyền công tố là
tiến hành các hoạt động tố tụng theo quy định của pháp luật nhằm phát hiện
tội phạm và người phạm tội cũng như xác định căn cứ để buộc tội họ. Tuy
nhiên, không phải trong mọi trường hợp THQCT đều kéo dài đến khi bản án,
quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật, mà có thể chấm dứt ở giai đoạn
tố tụng sớm hơn theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Bởi vì, không
phải tất cả các vụ án hình sự đều được đưa ra xét xử trước Tòa án mà ở giai
đoạn tố tụng nào đó khi quyền công tố chấm dứt thì quyền THQCT cũng
không còn. Như vậy, phạm vi quyền công tố kết thúc khi bản án có hiệu lực
pháp luật hoặc trong trường hợp đặc biệt, nó sẽ kết thúc khi có quyết định
đình chỉ vụ án.
Khái niệm về thực hành quyền công tố
Trên cơ sở khái niệm quyền công tố, khái niệm thực hành quyền công
tố cũng được đưa ra tương đối nhiều. Theo Từ điển tiếng Việt, “thực hành” có
nghĩa là “làm để áp dụng lý thuyết vào thực tế, thực hành đồng nghĩa với
“thực hiện”” [33, tr.1245]. Như vậy, THQCT có thể được hiểu là áp dụng
13
quyền công tố vào thực tế. THQCT cũng được hiểu là “hoạt động của VKS
trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội và buộc tội họ trước
Tòa án” [8, tr.12]. Từ điển Luật học đưa ra khái niệm, “THQCT là việc sử
dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra,
truy tố và xét xử” [26, tr.188]. Như vậy, để đảm bảo thực hiện quyền công tố
trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm thì Nhà nước ta ban hành các văn
bản pháp luật, trong đó quy định cụ thể các quyền năng pháp lý thuộc nội
dung quyền công tố. Các quyền năng này được giao cho cơ quan có trách
nhiệm THQCT thực hiện để phát hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình
sự đối với người phạm tội. Từ năm 1960 đến nay, VKSND là cơ quan duy
nhất được giao chức năng THQCT. Để thực hiện chức năng này, VKSND
phải sử dụng tất cả quyền năng pháp lý về TTHS nhằm phát hiện kịp thời, xử
lý nghiêm minh mọi hành vi phạm tội, đảm bảo không bỏ lọt tội phạm và
người phạm tội cũng như không làm oan người vô tội. Luật Tổ chức VKSND
năm 2014 cũng đã có quy định về bản chất của chức năng này, theo đó,
THQCT “là hoạt động của VKSND trong tố tụng hình sự để thực hiện việc
buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá
trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự” [18, tr. 8].
Phạm vi THQCT là vấn đề hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm
khác nhau trong thực tiễn. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật hiện hành,
phạm vi THQCT chỉ có trong lĩnh vực TTHS. Công tác này được “bắt đầu từ
khi vụ việc phạm tội xảy ra và trong suốt quá trình điều tra đến khi kết thúc
việc buộc tội” [8, tr 13]. Việc buộc tội kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp
luật, không bị kháng nghị hoặc khi vụ án bị đình chỉ theo quy định của pháp
luật TTHS. Như vậy, phạm vi của công tác THQCT bắt đầu từ khi vụ việc
14
phạm tội xảy ra và kết thúc khi có bản án có hiệu lực pháp luật, không bị
kháng nghị hoặc khi vụ án bị đình chỉ. Cụ thể, VKSND THQCT ở các giai
đoạn và lĩnh vực sau: THQCT trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố; THQCT trong giai đoạn điều tra; THQCT trong
giai đoạn truy tố; THQCT trong giai đoạn xét xử.
1.1.2. Đặc điểm và nội dung THQCT
Đặc điểm của THQCT
Khác với hoạt động của VKSND trong các lĩnh vực tố tụng khác như tố
tụng hành chính, tố tụng dân sự, ... hoạt động THQCT chỉ tồn tại duy nhất
trong lĩnh vực TTHS.
Về chủ thể THQCT: dưới góc độ chức năng của chủ thể được giao
quyền tiến hành tố tụng, THQCT là chức năng mà Nhà nước chỉ giao cho cơ
quan tiến hành tố tụng duy nhất đó là VKS . Các cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng khác không có chức năng này.
Hoạt động THQCT mang tính công khai và được thực hiện theo trình
tự, thủ tục tố tụng do pháp luật quy định. Vì vậy, hoạt động của VKS mang
tính độc lập, chỉ tuân theo pháp luật và được giám sát bởi nhiều chủ thể khác
nhau.
Dưới góc độ chức năng của cơ quan tiến hành tố tụng, THQCT là thực
hiện chức năng buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội nhằm bảo đảm
không bỏ lọt tội phạm, người phạm tội và không làm oan người vô tội, …
Mục đích của THQCT là nhằm bảo đảm mọi hành vi và người phạm tội
được phát hiện, xử lý một cách kịp thời, nghiêm minh, đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người
phạm tội; Không để người nào bị khởi tố, bị bắt, bị hạn chế quyền con người,
quyền công dân một cách trái luật. Mục đích của hoạt động THQCT tuy vẫn
phải bao hàm cả việc xem xét, đánh giá nhằm gỡ tội nhưng thực hiện quyền
15
buộc tội đối với người phạm tội vẫn là chủ yếu.
Nội dung của THQCT
Luật tổ chức VKSND năm 2014 và BLTTHS đã quy định rõ, nội dung
của công tác THQCT bao gồm:
Quyết định phát động quyền công tố để mở cuộc điều tra hình sự đối
với sự kiện phạm tội, người phạm tội: Yêu cầu khởi tố, hủy bỏ quyết định
khởi tố hoặc không khởi tố vụ án trái pháp luật; phê chuẩn, không phê chuẩn
quyết định khởi tố bị can; trực tiếp khởi tố vụ án, khởi tố bị can trong một số
trường hợp.
Quyết định việc có hạn chế hay không quyền tự do, dân chủ của cá
nhân người phạm tội: Quyết định, phê chuẩn việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ
các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân. trong việc giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố,
điều tra, truy tố.
Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện; Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá
nhân hữu quan cung cấp tài liệu để làm rõ tội phạm, người phạm tội;
Quyết định việc thay đổi hoặc chấm dứt hoạt động tố tụng (đình chỉ
điều tra, đình chỉ vụ án, quyết định truy tố bị can ra tòa).
Hủy bỏ các quyết định tố tụng trái pháp luật khác trong việc giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra.
Trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; tiến
hành một số hoạt động điều tra để làm rõ căn cứ quyết định việc buộc tội đối
với người phạm tội; Điều tra các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, các
tội phạm về tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp.
Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp phát hiện
oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội;
16
1.1.3. Mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố với kiểm sát hoạt
động tư pháp
THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp tuy là hai chức năng độc lập của
VKS, có đối tượng và nội dung khác nhau nhưng chúng có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau.
Như đã phân tích ở trên, THQCT là hoạt động của VKSND trong
TTHS để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội. Công
tác này được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố và trong toàn bộ quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
vụ án hình sự. Chức năng của THQCT là truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội, truy tố người phạm tội và bảo vệ sự buộc tội đó. Như vậy,
đối tượng hướng tới của THQCT là vạch tội người phạm tội ra trước Tòa án,
nó chỉ tồn tại duy nhất trong lĩnh vực TTHS. VKSND THQCT nhằm bảo đảm
mọi hành vi phạm tội, người phạm tội phải được phát hiện, xử lý kịp thời,
nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và
người phạm tội nhưng cũng không để xảy ra oan, sai.
Còn “kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của VKS ND để kiểm sát
tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong
hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án
hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và
gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo
quy định của pháp luật” [18, tr.10-11]. Kiểm sát hoạt động tư pháp là nhằm
mục đích kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của các cơ quan,
tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp: phát hiện vi phạm pháp luật, kiến
nghị, yêu cầu khắc phục vi phạm, đảm bảo quá trình tiến hành tố tụng tuân
17
thủ các nguyên tắc, trình tự thủ tục, thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Kiểm sát hoạt động tư pháp được thực hiện trong lĩnh vực TTHS và trong quá
trình tiến hành tố tụng đối với vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và
gia đình, kinh doanh thương mại, lao động.
Như vậy, mối quan hệ giữa hai chức năng này chỉ tồn tại trong lĩnh vực
TTHS. Trong đó, tuy là hai chức năng độc lập nhưng THQCT và kiểm sát các
hoạt động tư pháp lại có mối quan hệ mật thiết với nhau. Trong đó, chỉ có một
số hoạt động mang tính độc lập tương đối, còn lại đa số các hoạt động của
chúng đan xen và hỗ trợ, tác động qua lại lẫn nhau. Nếu xét ở từng giai đoạn
tố tụng thì các chức năng này thể hiện ở những mức độ và phạm vi khác nhau
với các nội dung cụ thể khác nhau. Nhưng xét một cách tổng thể thì dù ở giai
đoạn tố tụng nào chúng cũng thể hiện mối quan hệ gắn bó hữu cơ, đan xen,
tác động qua lại và bổ sung một cách tích cực cho nhau, điều này được thể
hiện ở một số khía cạnh sau:
Kết quả của hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp là cơ sở cho việc
THQCT có hiệu quả và ngược lại việc THQCT đảm bảo sự tuân thủ pháp
luật. Khi có cơ sở xác định tội phạm từ tố giác của người dân, tin báo của cơ
quan, tổ chức hoặc thông qua hoạt động điều tra phát hiện dấu hiệu của tội
phạm thì CQĐT sẽ phải thực hiện một số hoạt động điều tra ban đầu để xác
định có dấu hiệu của tội phạm hay không? Nếu đủ căn cứ xác định có dấu
hiệu của tội phạm thì sẽ ra quyết định khởi tố vụ án để tiến hành điều tra đồng
thời phải thông báo cho VKS cùng cấp biết. Lúc này VKS với chức năng,
nhiệm vụ của mình sẽ tiến hành kiểm sát việc tuân theo các quy định của pháp
luật về khởi tố vụ án của CQĐT. Trong quá trình kiểm sát điều tra nếu phát
hiện thấy quyết định khởi tố của CQĐT là không có căn cứ hoặc có dấu hiệu
trái pháp luật thì VKS sẽ THQCT của mình bằng cách ra quyết định hủy bỏ
quyết định khởi tố của CQĐT. Nếu trong trường hợp phát hiện có dấu hiệu
18
của tội phạm nhưng CQĐT đã ra quyết định không khởi tố thì VKS sẽ hủy bỏ
quyết định đó của CQĐT và ra quyết định khởi tố. Khi vụ án đã được khởi tố
cũng đồng nghĩa với quyền kiểm sát hoạt động điều tra của VKS được phát
động, VKS sẽ thực hiện quyền kiểm sát của mình trong suốt quá trình điều tra
của CQĐT để bảo đảm nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Như vậy, có
thể thấy, nếu VKS làm tốt chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của mình thì
chức năng THQCT của VKS cũng sẽ được bảo đảm đúng pháp luật. Ngược
lại, nếu làm không tốt chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp thì việc THQCT
của VKS có thể sẽ vi phạm pháp luật (và có thể dẫn đên hậu quả là: quyết
định của VKS cấp dưới vi phạm pháp luật sẽ bị VKS cấp trên hủy bỏ) và đối
với những trường hợp đó thì vụ án sẽ bị đình chỉ, VKS có thể sẽ phải bồi
thường thiệt hại cho bị can, bị cáo nếu có thiệt hại xảy ra, đồng thời sẽ làm
giảm sự tin tưởng của nhân dân vào năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức
trong ngành tư pháp.
Trong quá trình tiến hành tố tụng đối với vụ án hình sự, VKS không
tách rời các hoạt động thực hiện chức năng THQCT với các hoạt động thực
hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật để thực hiện độc lập mà luôn
gắn kết một cách chặt chẽ. Có như thế, VKS mới có thể thực hiện chủ trương
của Ngành là “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn
công tố với hoạt động điều tra” đem lại kết quả tốt, bảo đảm mọi hành vi và
người phạm tội được phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án
kịp thời, bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội
phạm và người phạm tội, không gây ra oan, sai
Mối quan hệ chặt chẽ này được thể hiện trong suốt quá trình tố tụng
hình sự từ khi khởi tố vụ án hình sự cho đến giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử
và thi hành án.
Như vậy, có thể thấy THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật là
19
hai chức năng cơ bản và quan trọng nhất của VKS mà giữa chúng có mối
quan hệ hỗ trợ cho nhau, không thể tách rời nhau trong suốt quá trình giải
quyết vụ án, nếu vi phạm chức năng này sẽ ảnh hưởng chức năng khác và
ngược lại.
1.2. Khái niệm- Đặc điểm tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác
1.2.1. Khái niệm
Theo Từ điển Luật học, “Cố ý gây thương tích là hành vi cố ý xâm
phạm thân thể, gây tổn hại cho sức khỏe người khác dưới dạng thương tích cụ
thể” [26, tr.172]. “Gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi mà
người phạm tội dùng sức mạnh vật chất hoặc các thủ đoạn khác tác động lên
thân thể người khác làm cho sức khỏe của nạn nhân yếu đi, không còn nguyên
vẹn như trước mặc dù không để lại dấu vết trên thân thể họ” [6, tr.11]. Như
vậy có thể hiểu, “Tội cố ý gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác là hành vi tác động trái pháp luật đến thân thể của người khác gây
thiệt hại về sức khỏe cho người khác dưới dạng thương tích hoặc tổn hại về
sức khỏe trong các trường hợp luật định [25, tr.96-97]. Tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được quy định tại Điều
134, nằm trong nhóm các tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân
phẩm, danh dự của con người của BLHS hiện hành. Cũng như các tội phạm
khác thuộc chương này, Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể và
quyền được bảo vệ về sức khỏe của con người. Tội này lần đầu tiên được quy
định tại Sắc luật số 03/SL ngày 15/3/1976 của Hội đồng Chánh phủ cách
mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam.
1.2.2. Đặc điểm
Giống như tất cả các tội phạm khác, tội cố ý gây thương tích hoặc gây
20
tổn hại cho sức khỏe của người khác có đầy đủ 04 yếu tố cấu thành tội phạm:
Thứ nhất, khách thể của tội phạm cố ý gây thương tích là một trong
những khách thể quan trọng nhất được Luật hình sự bảo vệ. Khách thể của tội
phạm này là quyền được tôn trọng và bảo vệ về sức khỏe của công dân, khách
thể trực tiếp của tội phạm này là sức khỏe của người khác, là người đang
sống, đang tồn tại độc lập trong thế giới khách quan với tư cách là một thực
thể tự nhiên và xã hội. Một người đang sống, đang tồn tại được xác lập bắt
đầu kể từ khi sinh ra cho đến khi ngừng thở, tim ngừng hoạt động (cái chết về
mặt sinh học) chứ không phải cái chết về mặt pháp lý. Một người nào đó nếu
đã bị Tòa án tuyên bố là đã chết nhưng thực tế họ vẫn còn sống thì hành vi
nào xâm phạm đến sức khỏe của người này vẫn coi là tội phạm, vì nó đã xâm
phạm đến quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ thuộc khách thể của tội
này. Đối tượng tác động của tội phạm này là một con người cụ thể, có quyền
được pháp luật tôn trọng và bảo vệ về sức khỏe khỏi sự xâm hại của tội phạm.
Thứ hai, hành vi khách quan. Hành vi khách quan của tội này là những
hành vi có khả năng gây ra thương tích nhất định làm tổn hại cho sức khỏe
của người khác bằng cách tác động vào cơ thể họ. Hành vi phạm tội có thể
được thực hiện dưới dạng hành động phạm tội, nghĩa là người phạm tội làm
một việc bị pháp luật nghiêm cấm không được làm nhằm làm biến đổi tình
trạng bình thường cho sức khỏe của người khác như đấm, đá bằng tay, chân
hoặc dùng các loại hung khí như dao, gậy, … để gây ra thương tích.
Hậu quả của tội phạm này đòi hỏi là thương tích do hành vi phạm tội
gây ra, bởi vì hành vi của con người là có ý thức và có ý chí cho nên nó luôn
luôn là phương tiện để đạt tới một kết quả nhất định. Hậu quả chính là sự thiệt
hại gây ra cho khách thể và chỉ những thiệt hại quan trọng nhất do tội phạm
trực tiếp gây ra đặc trưng của tội phạm ấy mới là hậu quả thuộc mặt khách
quan của tội phạm, ví dụ như gây tổn thương cho một số bộ phận hoặc toàn
21
bộ cơ thể, hoặc gây tổn hại hay làm mất chức năng của một bộ phận nào đó
trong cơ thể con người như: Gây mù mắt, điếc tai, mất một phần chân tay, …
Dấu hiệu bắt buộc về mặt hậu quả của tội phạm này là hành vi phạm tội đã để
lại thương tích cho nạn nhân với tỷ lệ % thương tật theo luật định. Cơ sở để
xác định nạn nhân bị thương tích cũng như tỷ lệ thương tích cụ thể là kết luận
của Hội đồng giám định pháp y do cơ quan tiến hành tố tụng trưng cầu. Hành
vi gây thương tích cho người khác bao giờ cũng được thực hiện trong một
khoảng thời gian, địa điểm, hoàn cảnh nhất định và bằng những thủ đoạn,
phương tiện, công cụ nhất định.
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội với hậu quả
nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi đó: Hậu quả nguy hiểm cho xã hội chỉ
xảy ra khi có hành vi nguy hiểm cho xã hội, do chính hành vi đó gây ra. Hậu
quả nguy hiểm phải là sự tất yếu của hành vi nguy hiểm cho xã hội gây ra.
Hành vi nguy hiểm cho xã hội buộc phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu
quả.
Thứ ba, về mặt chủ quan. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác được người phạm tội thực hiện với lỗi cố ý, có
thể là cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp. Người thực hiện hành vi phạm tội ý
thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà mình thực hiện, biết
được hậu quả do hành vi của mình thực hiện có thể gây thương tích hoặc gây
tổn hại sức khỏe cho người khác. Người phạm tội mong muốn hoặc tuy không
mong muốn nhưng đã để mặc cho hậu quả xảy ra (người bị tác động bị
thương tích hoặc tổn hại sức khỏe). Động cơ và mục đích phạm tội không
phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm này. Tuy nhiên, trong một
số trường hợp, việc chứng minh động cơ, mục đích của người phạm tội có ý
nghĩa trong việc định khung hình phạt như vì lý do công vụ của nạn nhân, ...
22
Thứ tư, chủ thể của tội phạm. Chủ thể của tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là con người cụ thể. Người này phải
thỏa mãn đầy đủ 02 điều kiện là có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ
tuổi luật định. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự đối với tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là từ đủ 14 tuổi trở lên.
1.3. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về thực hành
quyền công tố trong các giai đoạn tố tụng
1.3.1. Giai đoạn thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
THQCT trong giai đoạn tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố là hoạt động của VKS ND nhằm mục đích xác định
dấu hiệu tội phạm để xem xét việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự.
Điều 12 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 quy định nhiệm vụ quyền hạn của
VKS khi THQCT trong giai đoạn tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố như sau:
“Phê chuẩn, không phê chuẩn việc giữ người trong trường hợp khẩn
cấp, gia hạn tạm giữ và các biện pháp khác hạn chế quyền con người, quyền
công dân trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi
tố” [18, tr.18-19].
CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra được áp dụng các biện pháp ngăn chặn bắt người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp, gia hạn tạm giữ và các biện pháp cưỡng chế khác như khám người,
khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm; thu giữ thư tín, điện tín, .. nhằm giúp cho
việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của
CQĐT được thực hiện hiệu quả khi phát hiện các dấu hiệu tội phạm và người
phạm tội. Khi THQCT trong giai đoạn này, VKS có các nhiệm vụ quyền hạn
sau:
23
Một là, phê chuẩn, không phê chuẩn việc giữ người trong trường hợp
khẩn cấp. Việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp phải có lệnh của thủ
trưởng, phó thủ trưởng CQĐT các cấp hoặc người có thẩm quyền của các cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Trong mọi
trường hợp, việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp phải được báo ngay
cho VKS cùng cấp bằng văn bản kèm theo tài liệu liên quan để VKS xét phê
chuẩn. “Trường hợp cần thiết, Kiểm sát viên phải trực tiếp gặp, hỏi người bị
giữ trong trường hợp khẩn cấp trước khi xem xét quyết định phê chuẩn hoặc
quyết định không phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp”
[14, 104]. Thời hạn để VKS ra quyết định phê chuẩn hay không phê chuẩn là
12 giờ kể từ khi nhận được đề nghị xét phê chuẩn và tài liệu liên quan đến
việc bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp. “Trường hợp VKS quyết
định không phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thì
người đã ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, CQĐT đã nhận người
bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải trả tự do ngay cho người bị giữ” [14,
tr.105].
Hai là, VKS phê chuẩn hoặc không phê chuẩn gia hạn tạm giữ và các
biện pháp khác hạn chế quyền con người, quyền công dân trong việc giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
Nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi THQCT trong việc gia hạn tạm giữ
được quy định cụ thể tại khoản 2 Điều 118 BLTTHS. Theo đó, “trong trường
hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ nhưng không
quá 03 ngày. Trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn
tạm giữ lần thứ hai nhưng không quá 03 ngày. Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ
đều phải được VKS cùng cấp hoặc VKS có thẩm quyền phê chuẩn. Trong thời
hạn 12 giờ, kể từ khi nhận hồ sơ đề nghị gia hạn tạm giữ, VKS phải ra quyết
định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn” [14, tr.111].
24
Việc áp dụng các biện pháp khác hạn chế quyền con người, quyền công
dân như việc khám người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm chỉ được tiến hành
khi có căn cứ để nhận định trong người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm của
một người có công cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật, tài sản do phạm tội mà
có hoặc đồ vật, tài liệu khác có liên quan đến vụ án; việc khám chỗ ở, chỗ làm
việc, địa điểm cũng được tiến hành khi cần phát hiện người đang bị truy nã;
khi cần phải thu thập tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án thì có thể khám thư
tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm phải có Lệnh khám xét, thu giữ của thủ
trưởng, phó thủ trưởng CQĐT các cấp và phải được VKS cùng cấp phê chuẩn
trước khi thi hành. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 2 Điều 193 BLTTHS
thì trong trường hợp khẩn cấp, những người được quy định tại Khoản 2 Điều
110 BLTTHS có quyền ra lệnh khám xét. Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi
khám xét xong, người ra lệnh khám xét phải thông báo bằng văn bản cho
VKS cùng cấp hoặc VKS có thẩm quyền THQCT và kiểm sát điều tra.
“Hủy bỏ quyết định tạm giữ, các quyết định tố tụng khác trái pháp luật
của cơ quan có thẩm quyền trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
và kiến nghị khởi tố” [18, tr.19].
Những người có quyền ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp
quy định tại Khoản 2 Điều 110 BLTTHS năm 2015 có quyền ra quyết định
tạm giữ. “Người thi hành quyết định tạm giữ phải thông báo, giải thích quyền
và nghĩa vụ của người bị tạm giữ quy định tại Điều 59 của BLTTHS” [14, tr.
110]. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi ra quyết định tạm giữ, người ra quyết
định tạm giữ phải gửi quyết định đó kèm theo tài liệu liên quan cho VKS
cùng cấp hoặc VKS có thẩm quyền. VKS có trách nhiệm nghiên cứu quyết
định và hồ sơ, nếu xét thấy việc tạm giữ không có căn cứ hoặc không cần thiết
thì phải ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ. Trên cơ sở quyết định đó,
người đã ra quyết định tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.
25
Theo quy định tại Thông tư liên tịch của VKSND tối cao, Bộ công an
và Bộ quốc phòng số 05/2005/TTLT - VKS TC -BCA - BQP ngày 07/9/2005
về quan hệ phối hợp giữa CQĐT và VKS trong việc thực hiện một số quy
định của BLTTHS năm 2003 thì đối với các quyết định của Phó Thủ trưởng
CQĐT, BLTTHS quy định phải có sự phê chuẩn của VKS nhưng chưa gửi
sang VKS mà phát hiện không có căn cứ và trái pháp luật thì Thủ trưởng
CQĐT ra quyết định thay đổi hoặc huỷ bỏ. Nếu các quyết định này đã gửi
sang VKS , nhưng VKS chưa quyết định việc phê chuẩn thì thủ trưởng CQĐT
có văn bản đề nghị VKS để rút các quyết định này và ra quyết định thay đổi
hoặc huỷ bỏ; nếu không đồng ý thì VKS quyết định việc thay đổi hoặc huỷ bỏ
theo quy định tại khoản 4 Điều 165 BLTTHS. Đối với các quyết định của Phó
Thủ trưởng CQĐT sau khi được VKS phê chuẩn mới phát hiện là không có
căn cứ và trái pháp luật thì Thủ trưởng CQĐT kiến nghị Viện trưởng VKS
cùng cấp hoặc VKS cấp trên trực tiếp ra quyết định thay đổi hoặc huỷ bỏ.
Ngay sau khi ra quyết định thay đổi hoặc huỷ bỏ các quyết định của Phó thủ
trưởng CQĐT thì VKS phải gửi cho CQĐT để thực hiện.
Trong quá trình THQCT trong giai đoạn này, khi cần thiết, VKS có
quyền “đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thực hiện” [18,
tr.19].
Trong hoạt động thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khi THQCT trong
việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, khi thấy cần
thiết, VKS có thể đề ra những yêu cầu xác minh để làm sáng tỏ vụ việc và
yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố, kiểm tra, xác minh kịp thời, đúng quy định của pháp luật. Thông
tư liên tịch số 06/2013/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKS NDTC
ngày 02 tháng 8 năm 2013 hướng dẫn thi hành quy định của BLTTHS về tiếp
26
nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố đã quy định
cụ thể về trách nhiệm và chế độ thông tin, báo cáo việc tiếp nhận, giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của VKS các cấp.
VKS có quyền “trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố trong trường hợp phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng
hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà VKSND đã yêu cầu nhưng không được
khắc phục” [18, tr.19].
VKS trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố
trong trường hợp phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc
có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà VKS đã yêu cầu, kiến nghị nhưng không được
khắc phục nhằm hạn chế tình trạng vi phạm của các cơ quan có thẩm quyền
điều tra như bức cung, mớm cung, nhục hình dẫn đến có dấu hiệu oan sai, dễ
bị bỏ lọt tội phạm. Trong những trường hợp này, VKS thực hiện việc trực tiếp
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố nhằm xem xét việc
khởi tố vụ án có đúng với quy định của pháp luật hay không. Qua kiếm sát
việc khởi tố vụ án hình sự, nếu phát hiện việc khởi tố vụ án không có căn cứ
thì VKS ra các quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án của CQĐT hoặc
yêu cầu CQĐT khởi tố vụ án nếu thấy có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm; nếu CQĐT
không khởi tố, VKS có thể chủ động khởi tố vụ án hình sự đó.
Ngoài ra, VKS có quyền “thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác để
THQCT theo quy định của BLTTHS nhằm chống bỏ lọt tội phạm, chống làm
oan người vô tội” [18, tr.19].
1.3.2. Giai đoạn điều tra vụ án
Hoạt động của VKS trong vụ án hình sự có mục đích đảm bảo mọi
hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra và xử lý kịp thời, không để
lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, việc truy cứu
trách nhiệm hình sự người phạm tội phải có căn cứ và đúng pháp luật. Nhiệm
27
vụ, quyền hạn của VKS ND khi THQCT trong giai đoạn điều tra đối với vụ
án hình sự được quy định tại Điều 14 Luật tổ chức VKS ND và cụ thể hóa tại
Điều 165 BLTTHS. Bao gồm:
-“Yêu cầu CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra khởi tố hoặc thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự,
khởi tố bị can; Phê chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố, quyết định thay đổi
hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can không có căn cứ và trái pháp luật;
Khởi tố, thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can
trong các trường hợp do Bộ luật TTHS quy định; Phê chuẩn, không phê chuẩn
lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ, việc tạm
giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, khám xét, thu giữ, tạm giữ đồ vật, thư tín,
điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Phê
chuẩn, không phê chuẩn các quyết định tố tụng khác không có căn cứ và trái
pháp luật của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra theo quy định của Bộ luật TTHS. Hủy bỏ các quyết định tố tụng
không có căn cứ và trái pháp luật của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra. Trường hợp không phê chuẩn hoặc hủy
bỏ thì trong quyết định không phê chuẩn hoặc hủy bỏ phải nêu rõ lý do; Quyết
định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế
theo quy định của Bộ luật này; Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT, cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra tiến hành điều
tra để làm rõ tội phạm, người phạm tội. Yêu cầu CQĐT truy nã bị can, áp
dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt; Trực tiếp tiến hành một số hoạt động
điều tra trong trường hợp để kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ khi xét phê
chuẩn lệnh, quyết định của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra hoặc trường hợp phát hiện có dấu hiệu oan, sai, bỏ lọt
tội phạm, vi phạm pháp luật mà VKS đã yêu cầu bằng văn bản nhưng không
28
được khắc phục hoặc trường hợp để kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ khi
quyết định việc truy tố; Khởi tố vụ án hình sự khi phát hiện hành vi của người
có thẩm quyền trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra có dấu hiệu tội phạm; yêu cầu CQĐT
khởi tố vụ án hình sự khi phát hiện hành vi của người có thẩm quyền trong
việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc
khởi tố, điều tra có dấu hiệu tội phạm; Quyết định việc gia hạn thời hạn điều
tra, thời hạn tạm giam. Quyết định chuyển vụ án, áp dụng thủ tục rút gọn, áp
dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh, ban hành quyết định hủy bỏ quyết định
tách, nhập vụ án. Ngoài ra, VKS còn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác
trong việc THQCT theo quy định của BLTTHS” [14, tr.156-158].
1.3.3. Giai đoạn truy tố
BLTTHS năm 2015 không có điều luật riêng biệt quy định về công tác
THQCT trong giai đoạn truy tố. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 16 Luật Tổ
chức VKS ND năm 2014 thì nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi THQCT
trong giai đoạn truy tố bao gồm:
“Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm
giam, các biện pháp khác hạn chế quyền con người, quyền công dân theo quy
định của luật; yêu cầu CQĐT truy nã bị can” [18, tr.24-25]. Điều này được
hiểu là, khi có căn cứ và xét thấy cần thiết, VKS có quyền quyết định áp dụng
một trong số các biện pháp ngăn chặn như bắt bị can để tạm giam, cấm đi
khỏi nơi cư trú, bảo lãnh, đặt tiền để bảo đảm… VKS có nhiệm vụ, quyền hạn
phê chuẩn các quyết định của CQĐT trong việc áp dụng các biện pháp ngăn
chặn như bắt khẩn cấp, gia hạn tạm giữ, bắt bị can để tạm giam, tạm giam, đặt
tiền hoặc tài sản có giá trị để đảm bảo. Đối với những biện pháp ngăn chặn do
VKS quyết định áp dụng hoặc phê chuẩn thì VKS có quyền hủy bỏ hoặc thay
29
đổi khi xét thấy không cần thiết hoặc có khả năng thay thế bằng một biện
pháp ngăn chặn khác.
“Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu liên quan đến vụ
án trong trường hợp cần thiết” [18, tr. 25].
Trong trường hợp cần thiết, VKS có quyền trực tiếp tiến hành một số
hoạt động điều tra nhằm mụ đích kiểm tra tính xác thực, bổ sung tài liệu,
chứng cứ để cân nhắc, quyết định việc truy tố. VKS cũng trực tiếp tiến hành
một số hoạt động điều tra khi Tòa án yêu cầu điều tra bổ sung mà VKS xét
thấy không cần phải trả hồ sơ cho CQĐT.
VKS có quyền “quyết định khởi tố, thay đổi, bổ sung quyết định khởi
tố vụ án, khởi tố bị can trong trường hợp phát hiện vụ án còn có hành vi phạm
tội, người phạm tội khác chưa được khởi tố, điều tra và trả hồ sơ cho CQĐT
để điều tra bổ sung” [18, tr.25].Việc khởi tố vụ án hình sự được thực hiện khi
phát hiện có dấu hiệu tội phạm. VKS chỉ ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố
bị can trong một số trường hợp cần thiết theo luật định. Ví dụ như trường hợp
sau khi nhận hồ sơ và bản kết luận điều tra mà VKS phát hiện có người khác
đã thực hiện hành vi phạm tội trong vụ án nhưng chưa bị khởi tố thì VKS có
thể ra quyết định khởi tố bị can và trả hồ sơ cho CQĐT để điều tra bổ sung.
Bên cạnh quyền tự thực hiện, VKS cũng có quyền yêu cầu CQĐT ra quyết
định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án, nếu có căn cứ xác định
tội phạm đã khởi tố không đúng với hành vi phạm tội xảy ra hoặc còn một số
tội phạm khác chưa bị khởi tố. Nếu CQĐT không thực hiện thì VKS sẽ có
quyền trực tiếp ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án
và trả hồ sơ cho CQĐT để tiến hành điều tra. VKS có quyền yêu cầu CQĐT
ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can, nếu có căn cứ
xác định hành vi phạm tội của bị can không phạm vào tội đã bị khởi tố hoặc
còn có hành vi phạm tội khác chưa bị khởi tố. trường hợp đã yêu cầu mà
30
CQĐT không thực hiện thì VKS trực tiếp ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung
quyết định khởi tố bị can và gửi cho CQĐT để tiếp tục tiến hành điều tra.
“Quyết định việc tách, nhập vụ án, chuyển vụ án để truy tố theo thẩm
quyền, áp dụng thủ tục rút gọn, áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.
Quyết định gia hạn, không gia hạn thời hạn truy tố, thời hạn áp dụng
các biện pháp ngăn chặn.
Quyết định truy tố, không truy tố bị can.” [18, tr.25]. Khi việc điều tra
vụ án kết thúc, CQĐT chuyển bản kết luận điều tra đề nghị truy tố cùng hồ sơ
vụ án cho VKS . Sau khi nghiên cứu, nếu xác định có đủ căn cứ để truy cứu
trách nhiệm hình sự người đã thực hiện hành vi phạm tội thì VKS quyết định
truy tố bị can ra trước Tòa án bằng bản cáo trạng (hoặc quyết định truy tố nếu
vụ án được tiến hành theo thủ tục rút gọn), đồng thời chuyển toàn bộ hồ sơ vụ
án cùng bản cáo trạng sang Tòa án để thực hiện việc xét xử.
VKS có quyền ra quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án, quyết định
đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án đối với bị can và quyết định phục hồi vụ án, bị
can. Trường hợp xác định được có một trong những căn cứ quy định tại
Khoản 1 Điều 247 BLTTHS thì VKS ra quyết định tạm đình chỉ vụ án; trường
hợp xác định được có một trong những căn cứ quy định tại Khoản 2 Điều 155
và Điều 157 BLTTHS thì VKS ra quyết định đình chỉ vụ án; Khi có căn cứ
quy định tại Điều 249 BLTTHS thì VKS ra quyết định phục hồi vụ án.
VKS còn có quyền thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn khác để quyết
định việc truy tố theo quy định của BLTTHS.
Tiểu kết chương 1
Trong chương này, luận văn đã nghiên cứu và phân tích về khái niệm,
phạm vi, đặc điểm của THQCT, làm rõ mối quan hệ giữa THQCT với kiểm
sát hoạt động tư pháp. Qua đó có thể hiểu THQCT là hoạt động của VKS ND
trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người
31
phạm tội. Hoạt động này được thực hiện ngay từ giai đoạn tiếp nhận, giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Bên cạnh đó, luận văn cũng đã
làm rõ khái niệm và các đặc điểm của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác trên cơ sở quy định của BLHS hiện hành.
Trong phạm vi chương này, luận văn cũng đã nêu và phân tích quy định của
BLTTHS 2015 về THQCT trong các giai đoạn tố tụng bao gồm: Giai đoạn
tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm; giai đoạn điều tra; giai đoạn
truy tố và giai đoạn xét xử sơ thẩm.
Các khái niệm cũng như quy định của pháp luật được phân tích ở
chương 1 là cơ sở để đánh giá thực trạng công tác THQCT đối với các vụ án
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa
bàn quận 9 thành phố Hồ Chí Minh được nêu ở chương 2.
32
Chương 2:
THỰC TRẠNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI CÁC VỤ
ÁN CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC
KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 9,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1. Tình hình tội phạm Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác trên địa bàn Quận 9 thời gian từ năm 2014 đến
năm 2018
2.1.1. Khái quát về đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội Quận 9
Quận 9 Thành phố Hồ Chí Minh là đô thị nằm ở vị trí cửa ngõ Đông
Bắc của thành phố, có diện tích 113,896.200 km2
, với dân số 235.268 nhân
khẩu. Quận 9 được thành lập ngày 01 tháng 4 năm 1997, với địa giới hành
chính được chia thành 13 phường, bao gồm: Phước Long A, Phước Long B,
Phước Bình, Phú Hữu, Long Trường, Long Thạnh Mỹ, Trường Thạnh, Long
Bình, Tân Phú, Long Phước, Tăng Nhơn Phú A, Tăng Nhơn Phú B, Hiệp Phú
[5]. Vị trí địa lý của Quận tương đối phức tạp, giáp nhiều địa phương khác
nhau: Phía Đông giáp huyện Long Thành và thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng
Nai, ranh giới tự nhiên là sông Đồng Nai; phía Tây giáp quận Thủ Đức; phía
Tây Nam giáp quận 2; phía Nam giáp huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai; phía
Bắc giáp thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.
Tuy là một quận mới được thành lập nhưng dân số của Quận 9 tương
đối đông và tăng nhanh hơn so với 23 quận còn lại của thành phố Hồ Chí
Minh. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân tốc
độ đô thị hóa và việc di dân hàng năm. Các tiện ích xã hội hoàn hảo của khu
Đông, các khu chức năng quan trọng tại Quận 9 đều đã và đang hình thành
một cách bài bản là nhân tố tích cực hỗ trợ quận 9 trở thành điểm đến của
nhiều nhà đầu tư cũng như nơi an cư phù hợp. Là một quận thuộc vùng ngoại
33
ô thành phố, giáp nhiều địa phương khác, có hệ thống đường giao thông thuận
lợi cho việc di chuyển giữa các vùng, các địa phương và là cửa ngõ của thành
phố với diện tích đất còn tương đối rộng, Quận 9 là nơi thuận lợi cho việc
phát triển kinh tế cũng như địa bàn thuận lợi để dân cư sinh sống. Người dân
cư trú ở quận 9 để làm việc ở các quận trung tâm thành phố tương đối đông.
Bên cạnh đó, vì là quận mới được thành lập, kinh tế đang từng bước được
phát triển nên tốc độ đô thị hóa tương đối nhanh dưới sự đầu tư của thành phố
cũng như các nhà đầu tư từ bên ngoài với nhiều điều kiện thuận lợi để phát
triển kinh tế. Quận 9 có khu công nghệ cao Thành phố Hồ Chí Minh đã được
xây dựng và đi vào hoạt động với quy mô ngày càng được mở rộng thu hút
nhiều lao động ở các địa phương khác đến làm việc, sinh sống. Ngoài ra, các
doanh nghiệp, nhà máy trên địa bàn quận cũng tương đối nhiều với nhu cầu
lao động lớn. Lượng sinh viên lớn của các trường đại học, cao đẳng đóng trên
địa bàn quận như Trường Đại học Giao thông vận tải, Trường Đại học Tài
chính – marketing, Trường Đại học Kiến trúc, Trường Cao đẳng Công
thương, … cũng góp phần làm cho lượng dân cư nói chung của Quận 9 trở
nên đông đúc hơn. Song song với đó, lực lượng lao động tự do ở khu vực này
cũng tương đối nhiều. Hàng năm, nhu cầu lao động tăng do kinh tế phát triển
hơn nên lượng dân cư đến và sinh sống tại địa bàn quận cũng vì thế mà tăng
lên.
Bên cạnh số lượng dân cư đông, tăng nhanh, đối tượng dân cư trên địa
bàn quận cũng tương đối nhiều, phức tạp: học sinh, sinh viên, công nhân, cán
bộ công chức, lao động tự do,… Nhiều đối tượng dân cư với trình độ văn hóa,
học vấn, quan điểm sống khác nhau làm cho tình hình xã hội tương đối phức
tạp, dễ nảy sinh mâu thuẫn. Việc giải quyết mâu thuẫn bằng vũ lực diễn ra
ngày càng nhiều. Vì vậy, thời gian vừa qua, tình hình tội phạm trên địa bàn
Quận 9 đang có chiều hướng gia tăng và diễn biến phức tạp, trong đó, tội
34
phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
chiếm tỷ lệ cao gây tâm lý hoang mang trong nhân dân, làm ảnh hưởng đến an
ninh trật tự.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân Quận 9 Thành phố
Hồ Chí Minh
Tuy là một đơn vị mới được thành lập nhưng Viện kiểm sát nhân dân
Quận 9 Thành phố Hồ Chí Minh đã được hoàn thiện cơ bản về cơ cấu tổ chức
và đi vào hoạt động một cách có hiệu quả. Hiện nay đơn vị được biên chế 21
công chức, bao gồm: Viện trưởng phụ trách công tác chung; 02 Phó Viện
trưởng, trong đó, 01 Phó Viện trưởng phụ trách về hình sự, 01 Phó Viện
trưởng phụ trách về dân sự; 10 Kiểm sát viên, trong đó có 06 kiểm sát viên
được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong lĩnh vực hình sự; 03 chuyên viên; 01 kế toán và 2 nhân viên. Như vậy,
số lượng kiểm sát viên được phân công làm công tác trong lĩnh vực hình sự
tương đối nhiều so với lĩnh vực khác. Theo quy định của Luật tổ chức
VKSND, đơn vị được tổ chức 02 bộ phận chức năng, gồm:
- Bộ phận thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, xét xử, kiểm sát
tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự và văn phòng tổng hợp, thống kê tội
phạm.
- Bộ phận kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình,
lao động, hành chính, kinh doanh thương mại, phá sản doanh nghiệp và những
việc khác theo quy định của pháp luật; Kiểm sát thi hành án dân sự, tiếp công
dân và kiểm sát giải quyết khiếu nại tố cáo về tư pháp.
Được sự quan tâm của Viện kiểm sát nhân dân cấp trên, đơn vị đã có
nhiều đổi mới toàn diện, thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ và xây
dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh, có phương thức tổ chức và hoạt động khoa
35
học, hiệu quả phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp, góp phần phòng chống
tội phạm, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, tăng cường hiệu lực và hiệu quả của
bộ máy nhà nước ở địa phương.
2.1.3. Tình hình của tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác trên địa bàn Quận 9
Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của Quận 9 trong những năm gần
đây đã ảnh hưởng đến tình hình tội phạm nói chung và tội phạm cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng ở Quận 9.
Các loại tội phạm nói chung và tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác nói riêng ở Quận 9 có dấu hiệu gia tăng,
hoạt động của tội phạm ngày càng đa dạng, phức tạp, có tính chất manh động,
liều lĩnh và ngày càng trẻ hóa về độ tuổi thực hiện. Từ năm 2014 đến năm
2018, tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác trên
địa bàn quận xảy ra với số lượng tổng cộng là 136 vụ/181 bị can.
Bảng 2.1. Số vụ, số bị can về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác bị khởi tố từ năm 2014 đến năm 2018
trên địa bàn Quận 9
Năm
Số vụ
án
Số bị can
So sánh số vụ án
trong kỳ (%)
So sánh số bị can
trong kỳ (%)
2014 31 38 100 100
2015 19 29 61,3 76,3
2016 32 60 103,2 157,9
2017 24 22 77,4 57,9
2018 32 34 103,2 89,5
Nguồn: Báo cáo thống kê của VKS ND Quận 9
Qua số liệu trên cho thấy, tình hình tội phạm cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ năm 2014 đến năm 2018 trên địa
36
bàn Quận 9 cơ bản tăng giảm không đáng kể nhưng tính chất của vụ án
nghiêm trọng, phức tạp. Năm 2015 so với năm 2014 số vụ án giảm 12 vụ;
năm 2016 so với năm 2015 tăng 13 vụ; năm 2017 so với năm 2016 giảm 08
vụ và năm 2018 so với năm 2017 tăng 08 vụ. Số vụ án cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tăng giảm không đều qua các
năm phản ánh tình hình tội phạm nói chung, tình hình tội phạm cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng diễn biến
khá phức tạp, chịu ảnh hưởng từ sự phát trển kinh tế xã hội và tâm lý dân cư
trên địa bàn quận qua từng năm. Tổng số vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác bị khởi tố trong 5 năm từ năm 2014 đến
năm 2018 trên địa bàn Quận 9 là 138 vụ án với 183 bị can, như vậy mỗi năm
trung bình có 27,6 vụ án về tội này bị khởi tố. Số lượng bị cáo trung bình qua
5 năm là 1,33 bị cáo/1 vụ án. Điều này cho thấy đặc trưng của tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác xảy ra trên địa bàn
Quận 9 là là số lượng người tham gia mỗi vụ án không đông, quy mô vụ án
không lớn.
Nếu lấy số vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác bị khởi tố năm 2014 là 100% thì số vụ án của năm 2015 so
với năm 2014 giảm 38,7%, số bị can giảm 23,7%; năm 2016 số vụ án tăng
3,2%, số bị can tăng lên 57,9%. Nhưng đến năm 2017, số vụ án lại giảm
22,6%, số bị can giảm 42,1% và năm 2018 số vụ án tăng 3,2%, số bị can lại
giảm 10,5%.
Tuy nhiên, những số liệu này chưa phản ánh trọn vẹn về tình hình tội
phạm cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác thực tế
xảy ra trên địa bàn quận. Điều này xuất phát từ nguyên nhân: tội cố ý gây
thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác có 04 khoản với 04
khung hình phạt, trong đó, hành vi có dấu hiệu thỏa mãn một trong 03 khoản
37
thuộc loại tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng và rất nghiêm trọng có thể thuộc
thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện (quận) thì sẽ thuộc thẩm
quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn quận và được thống kê ở
luận văn này. Tuy nhiên, những vụ án cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho
sức khỏe của người khác mà hành vi có dấu hiệu thuộc khoản 4 tức là thuộc
loại tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc những vụ án có bị cáo, bị hại, đương sự ở
nước ngoài, hoặc vụ án đó có nhiều tình tiết phức tạp khó đánh giá, thống
nhất về tính chất vụ án, liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành,… thì theo quy
định về thẩm quyền xét xử, những vụ án đó sẽ thuộc thẩm quyền của các cơ
quan tiến hành tố tụng cấp tỉnh. Điều này đồng nghĩa với việc các cơ quan
tiến hành tố tụng của thành phố Hồ Chí Minh sẽ có thẩm quyền tiến hành tố
tụng đối với các vụ án cố ý gây thương tích và gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác nói trên. Như vậy, số liệu về các vụ án này sẽ không phản ánh
trong luận văn này vì không có trong theo dõi, thống kê của cơ quan tiến hành
tố tụng ở Quận 9. Theo ý kiến đánh giá của một số cán bộ, kiểm sát viên, số
vụ án cố ý gây thương tích và gây tổn hại cho sức khỏe của người khác xảy ra
trên địa bàn Quận 9 được chuyển lên tiến hành tố tụng ở cấp thành phố tương
đối nhiều.
Các hành vi cố ý gây thương tích và gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trong thời gian vừa qua xuất phát từ những nguyên nhân như:
Mâu thuẫn phát sinh không được giải quyết một cách triệt để lâu ngày tích tụ,
kéo dài; tranh giành lợi ích trong làm ăn, trong cuộc sống dẫn đến mâu thuẫn,
thù tức và giải quyết bằng cách xâm hại sức khỏe, tính mạng lẫn nhau; va
chạm giao thông thiếu kiềm chế dẫn đến xô xát, gây thương tích; sự lạm dụng
các chất kích thích như rượu, bia ở các cuộc nhậu hoặc trong các đám cưới,
đặc biệt là tình trạng sử dụng các chất ma túy tổng hợp. Người sử dụng bia
rượu, các chất ma túy không kiềm chế được hành vi, dùng bạo lực để giải
38
quyết các mâu thuẫn, thậm chí gọi thêm đồng bọn đem theo vũ khí thô sơ như
dao găm, kiếm, gậy, búa, súng tự chế gây hậu quả và thiệt hại nghiêm trọng
cho người bị hại.
2.2. Kết quả thực hành quyền công tố đối với các vụ án cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn
Quận 9 Thành phố Hồ Chí Minh
Thực hành quyền công tố trong giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm và kiến nghị khởi tố
Đối với việc tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến
nghị khởi tố của CQĐT, VKS ND Quận 9 xác định đây là khâu quan trọng
hàng đầu, là cơ sở để ra các quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án, là
tiền đề mở đầu cho các hoạt động tố tụng giải quyết, kết thúc một vụ án hình
sự. Do đó VKS Quận 9 đã chủ động phối hợp chặt chẽ với CQĐT Quận 9
nhằm đảm bảo mọi thông tin về tin báo, tố giác về tội phạm đều được VKS
nắm bắt, tham gia giải quyết kịp thời ngay từ khi xảy ra. Trong đó VKS Quận
9 luôn quan tâm đặc biệt đến hoạt động phân loại tin báo, tố giác về tội phạm,
đây là cơ sở để ra quyết định việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự,
đồng thời là biện pháp để nâng cao trách nhiệm của VKS trong việc phê
chuẩn bắt, tạm giữ, tạm giam. Công tác THQCT được VKS ND Quận 9
nghiêm túc thực hiện từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố đối với các vụ án VKS nắm bắt được. Các tin báo, tố giác về tội
phạm, kiến nghị khởi tố do VKS ND Quận 9 tiếp nhận tương đối ít. Trong 5
năm từ 2014 đến 2018 chỉ có 13 tin báo tố giác về hành vi cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được VKS ND Quận 9
trực tiếp tiếp nhận. Trong đó, tất cả các tin báo này đều được VKS chuyển
sang cho CQĐT Công an Quận 9 giải quyết. Không có trường hợp nào VKS
ND Quận 9 trực tiếp giải quyết tin báo, tố giác, kiến nghị khởi tố. VKS ND
Luận văn: Quyền công tố trong vụ án cố ý gây thương tích tại Quận 9
Luận văn: Quyền công tố trong vụ án cố ý gây thương tích tại Quận 9
Luận văn: Quyền công tố trong vụ án cố ý gây thương tích tại Quận 9
Luận văn: Quyền công tố trong vụ án cố ý gây thương tích tại Quận 9
Luận văn: Quyền công tố trong vụ án cố ý gây thương tích tại Quận 9
Luận văn: Quyền công tố trong vụ án cố ý gây thương tích tại Quận 9
Luận văn: Quyền công tố trong vụ án cố ý gây thương tích tại Quận 9
Luận văn: Quyền công tố trong vụ án cố ý gây thương tích tại Quận 9
Luận văn: Quyền công tố trong vụ án cố ý gây thương tích tại Quận 9
Luận văn: Quyền công tố trong vụ án cố ý gây thương tích tại Quận 9
Luận văn: Quyền công tố trong vụ án cố ý gây thương tích tại Quận 9
Luận văn: Quyền công tố trong vụ án cố ý gây thương tích tại Quận 9
Luận văn: Quyền công tố trong vụ án cố ý gây thương tích tại Quận 9
Luận văn: Quyền công tố trong vụ án cố ý gây thương tích tại Quận 9
Luận văn: Quyền công tố trong vụ án cố ý gây thương tích tại Quận 9
Luận văn: Quyền công tố trong vụ án cố ý gây thương tích tại Quận 9
Luận văn: Quyền công tố trong vụ án cố ý gây thương tích tại Quận 9
Luận văn: Quyền công tố trong vụ án cố ý gây thương tích tại Quận 9
Luận văn: Quyền công tố trong vụ án cố ý gây thương tích tại Quận 9
Luận văn: Quyền công tố trong vụ án cố ý gây thương tích tại Quận 9
Luận văn: Quyền công tố trong vụ án cố ý gây thương tích tại Quận 9
Luận văn: Quyền công tố trong vụ án cố ý gây thương tích tại Quận 9
Luận văn: Quyền công tố trong vụ án cố ý gây thương tích tại Quận 9
Luận văn: Quyền công tố trong vụ án cố ý gây thương tích tại Quận 9
Luận văn: Quyền công tố trong vụ án cố ý gây thương tích tại Quận 9
Luận văn: Quyền công tố trong vụ án cố ý gây thương tích tại Quận 9
Luận văn: Quyền công tố trong vụ án cố ý gây thương tích tại Quận 9
Luận văn: Quyền công tố trong vụ án cố ý gây thương tích tại Quận 9
Luận văn: Quyền công tố trong vụ án cố ý gây thương tích tại Quận 9
Luận văn: Quyền công tố trong vụ án cố ý gây thương tích tại Quận 9
Luận văn: Quyền công tố trong vụ án cố ý gây thương tích tại Quận 9
Luận văn: Quyền công tố trong vụ án cố ý gây thương tích tại Quận 9
Luận văn: Quyền công tố trong vụ án cố ý gây thương tích tại Quận 9
Luận văn: Quyền công tố trong vụ án cố ý gây thương tích tại Quận 9
Luận văn: Quyền công tố trong vụ án cố ý gây thương tích tại Quận 9
Luận văn: Quyền công tố trong vụ án cố ý gây thương tích tại Quận 9
Luận văn: Quyền công tố trong vụ án cố ý gây thương tích tại Quận 9
Luận văn: Quyền công tố trong vụ án cố ý gây thương tích tại Quận 9

More Related Content

What's hot

What's hot (19)

Luận văn: Sự độc lập của hoạt động xét xử, HOT
Luận văn: Sự độc lập của hoạt động xét xử, HOTLuận văn: Sự độc lập của hoạt động xét xử, HOT
Luận văn: Sự độc lập của hoạt động xét xử, HOT
 
Luận văn: Vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp, HAY
Luận văn: Vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp, HAYLuận văn: Vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp, HAY
Luận văn: Vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp, HAY
 
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luậtNhững căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
 
Bài viết về nghề luật sư
Bài viết về nghề luật sưBài viết về nghề luật sư
Bài viết về nghề luật sư
 
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOTLuận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOTLuận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
 
Đề tài: Vai trò của Viện kiểm sát trong bảo vệ quyền công dân
Đề tài: Vai trò của Viện kiểm sát trong bảo vệ quyền công dânĐề tài: Vai trò của Viện kiểm sát trong bảo vệ quyền công dân
Đề tài: Vai trò của Viện kiểm sát trong bảo vệ quyền công dân
 
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOTLuận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
 
Luận văn: Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự
Luận văn: Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sựLuận văn: Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự
Luận văn: Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự
 
Luận văn: Cơ quan Cảnh sát điều tra trong tố tụng hình sự
Luận văn: Cơ quan Cảnh sát điều tra trong tố tụng hình sự Luận văn: Cơ quan Cảnh sát điều tra trong tố tụng hình sự
Luận văn: Cơ quan Cảnh sát điều tra trong tố tụng hình sự
 
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oanQuyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
 
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnhLuận văn: Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh
 
Luận văn: Cấp, thông báo, tống đạt văn bản tố tụng, HAY, 9đ
Luận văn: Cấp, thông báo, tống đạt văn bản tố tụng, HAY, 9đLuận văn: Cấp, thông báo, tống đạt văn bản tố tụng, HAY, 9đ
Luận văn: Cấp, thông báo, tống đạt văn bản tố tụng, HAY, 9đ
 
Nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm con người, HAY
Nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm con người, HAYNhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm con người, HAY
Nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm con người, HAY
 
Đề tài: Bảo đảm quyền con người của phạm nhân theo pháp luật
Đề tài: Bảo đảm quyền con người của phạm nhân theo pháp luậtĐề tài: Bảo đảm quyền con người của phạm nhân theo pháp luật
Đề tài: Bảo đảm quyền con người của phạm nhân theo pháp luật
 
Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người
Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con ngườiLuận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người
Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người
 
Bảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạt
Bảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạtBảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạt
Bảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạt
 
Đề tài: Thẩm quyền điều tra của Cơ quan Điều tra trong Quân đội
Đề tài: Thẩm quyền điều tra của Cơ quan Điều tra trong Quân độiĐề tài: Thẩm quyền điều tra của Cơ quan Điều tra trong Quân đội
Đề tài: Thẩm quyền điều tra của Cơ quan Điều tra trong Quân đội
 
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sựBảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
 

Similar to Luận văn: Quyền công tố trong vụ án cố ý gây thương tích tại Quận 9

Similar to Luận văn: Quyền công tố trong vụ án cố ý gây thương tích tại Quận 9 (20)

Đề tài: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Đề tài: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ ánĐề tài: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Đề tài: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
 
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ ánLuận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
 
Luận án: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HAY
Luận án: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HAYLuận án: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HAY
Luận án: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HOTLuận văn: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
Luận văn: Căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nướcLuận văn: Căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
Luận văn: Căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
 
Luận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
Luận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nướcLuận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
Luận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
 
Đề tài: Các tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAY
Đề tài: Các tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAYĐề tài: Các tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAY
Đề tài: Các tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAY
 
Luận văn: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, 9đ
Luận văn: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, 9đLuận văn: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, 9đ
Luận văn: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, 9đ
 
Luận văn: Quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án, HOT
Luận văn: Quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án, HOTLuận văn: Quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án, HOT
Luận văn: Quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án, HOT
 
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HAYLuận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự, HOTLuận văn: Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự, HOT
Luận văn: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự, HOTLuận văn: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự, HOT
Luận văn: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự, HOT
 
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAYLuận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
 
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Xử lý vi phạm trong lĩnh vực an toàn thực phẩm, HOT
Luận văn: Xử lý vi phạm trong lĩnh vực an toàn thực phẩm, HOTLuận văn: Xử lý vi phạm trong lĩnh vực an toàn thực phẩm, HOT
Luận văn: Xử lý vi phạm trong lĩnh vực an toàn thực phẩm, HOT
 
Luận văn: Pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực an toàn thực phẩm
Luận văn: Pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực an toàn thực phẩmLuận văn: Pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực an toàn thực phẩm
Luận văn: Pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực an toàn thực phẩm
 
Luận văn: Bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người được thi hành án
Luận văn: Bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người được thi hành ánLuận văn: Bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người được thi hành án
Luận văn: Bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người được thi hành án
 
Luận văn: Quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án
Luận văn: Quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành ánLuận văn: Quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án
Luận văn: Quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án
 
Luận văn: Pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự, HOTLuận văn: Pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự, HOT
 

More from Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562

More from Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562 (20)

Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
 
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
 
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.docNghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
 
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.docXây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
 
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.docPhát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
 
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
 
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
 
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
 
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
 
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
 
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.docÁnh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
 
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
 
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
 
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
 
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
 
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
 
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.docDiễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
 

Recently uploaded

bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
dangdinhkien2k4
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
Xem Số Mệnh
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
hoangtuansinh1
 

Recently uploaded (20)

GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 

Luận văn: Quyền công tố trong vụ án cố ý gây thương tích tại Quận 9

  • 1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRƯƠNG THỊ NGỌC HUỆ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TỪ THỰC TIỄN QUẬN 9, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ HÀ NỘI, năm 2019
  • 2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRƯƠNG THỊ NGỌC HUỆ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TỪ THỰC TIỄN QUẬN 9, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. TRẦN HƯNG BÌNH HÀ NỘI, năm 2019
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi. Các tài liệu, tư liệu được sử dụng trong luận văn có nguồn dẫn rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn có được là do quá trình lao động trung thực của tôi. Hà Nội, ngày tháng 8 năm 2019 NGƯỜI CAM ĐOAN TRƯƠNG THỊ NGỌC HUỆ
  • 4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1 : MỘT SỐ VÁN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI CÁC VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC................................................................................................ 9 1.1. Khái niệm - Phạm vi - Đặc điểm của thực hành quyền công tố ............ 9 1.1.1. Khái niệm - Phạm vi........................................................................ 9 1.1.2. Đặc điểm và nội dung hực hành quyền công tố............................14 1.1.3. Mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố với kiểm sát hoạt động tư pháp.....................................................................................................16 1.2. Khái niệm- Đặc điểm tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác......................................................................19 1.2.1. Khái niệm ......................................................................................19 1.2.2. Đặc điểm .......................................................................................19 1.3. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về thực hành quyền công tố trong các giai đoạn tố tụng.............................................................22 1.3.1. Giai đoạn thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố ..........................22 1.3.2. Giai đoạn điều tra vụ án ...............................................................26 1.3.3. Giai đoạn truy tố...........................................................................28 Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI CÁC VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 9, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH....................................................................................32
  • 5. 2.1. Tình hình tội phạm Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn Quận 9 thời gian từ năm 2014 đến năm 2018.............................................................................................................32 2.1.1. Khái quát về đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội Quận 9 .............32 2.1.2. Cơ cấu tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân Quận 9 Thành phố Hồ Chí Minh…………………………………………………………………….34 2.1.3. Tình hình của tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn Quận 9 .......................................35 2.2. Kết quả thực hành quyền công tố đối với các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn Quận 9 Thành phố Hồ Chí Minh .............................................................................38 2.3. Những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân...............................................47 2.3.1. Những hạn chế, tồn tại..................................................................47 2.3.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế .....................................56 Chương 3:YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI CÁC VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 9, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH....................................................................................60 3.1. Yêu cầu và phương hướng...................................................................60 3.1.1. Yêu cầu..........................................................................................60 3.1.2. Phương hướng...............................................................................62 3.2. Một số giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố đối với các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trên địa bàn Quận 9 thành phố Hồ Chí Minh .....................................62 3.2.1. Nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân trong công tác thực hành quyền công tố đối với
  • 6. các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác .........................................................................................................62 3.2.2. Nâng cao chất lượng quản lý, chỉ đạo, điều hành trong công tác thực hành quyền công tố đối với các vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ......................................63 3.2.3. Nâng cao chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên làm công tác thực hành quyền công tố .................................................................................64 3.2.4. Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện phục vụ công tác chuyên môn, nghiệp vụ của Viện kiểm sát nhân dân................66 3.3. Kiến nghị..............................................................................................67 3.3.1. Kịp thời ban hành văn bản hướng dẫn giải đáp một số vấn đề vướng mắc trên thực tế và sửa đổi nội dung quy định không phù hợp...67 3.3.2. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phối hợp giữa Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra và các cơ quan hữu quan.....................................69 KẾT LUẬN....................................................................................................71 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
  • 7. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật Hình sự BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự CQĐT : Cơ quan điều tra KSV : Kiểm sát viên TTHS : Tố tụng hình sự VKS : Viện kiểm sát VKSND : Viện kiểm sát nhân dân
  • 8. DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.1. Số vụ, số bị can về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác bị khởi tố từ năm 2014 đến năm 2018 trên địa bàn Quận 9 .............................................................................................................35 Bảng 2.2. Số vụ án và bị can bị đình chỉ, tạm đình chỉ về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong các năm từ 2014 - 2018 trên địa bàn Quận 9 ................................................................................40 Bảng 2.3. Số vụ án và bị can về tội tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác kết thúc điều tra được VKS truy tố trong các năm từ 2014-2018 trên địa bàn Quận 9...........................................................45
  • 9. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tình hình kinh tế - xã hội đất nước ngày càng phát triển kéo theo hệ lụy là tội phạm ngày càng gia tăng và phức tạp hơn. Điều này đặt ra yêu cầu nặng nề hơn cho công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Nghị quyết số 63/2013/QH13 ngày 27 tháng 11 năm 2013 của Quốc hội về tăng cường các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm đã nhấn mạnh yêu cầu cụ thể về các biện pháp đấu tranh phòng chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay. Để cụ thể hóa các chủ trương, biện pháp đó, các văn bản pháp luật hình sự, đặc biệt là quy định của Bộ luật hình sự, BLTTHS ngày càng được hoàn thiện hơn. Trách nhiệm đấu tranh phòng chống tội phạm thuộc về nhân dân và cả hệ thống chính trị, trong đó, trách nhiệm của các cơ quan tư pháp, trong đó có VKS. Trách nhiệm đó được VKS thực hiện thông qua công tác thực hiện chức năng của mình, nhất là công tác THQCT. Trước yêu cầu cải cách tư pháp, trách nhiệm của VKS càng được đặt ra nặng nề hơn. Nghị quyết số 08/NQ- TN ngày 02/01/2002 “Về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới” và Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/06/2005 “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” của Bộ Chính trị đã khẳng định “VKSND tiếp tục thực hiện chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp … tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra…”. Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định VKSND có chức năng THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp nhằm thực hiện “nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”[15, tr.27]. Điều này đòi hỏi hoạt động của VKSND nói chung, hoạt động THQCT nói riêng cần được nhận thức đầy đủ, đúng đắn, thực hiện
  • 10. 2 một cách triệt để, có hiệu quả. Trên cơ sở đó, Ngành kiểm sát cũng đã xác định rõ nhiệm vụ và đặt ra yêu cầu cụ thể để thực hiện những nhiệm vụ đó thông qua nhiều văn bản như Chỉ thị số 06/CT-VKSTC ngày 06/12/2013 về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, Chỉ thị số 04/CT-VKSTC ngày 10 tháng 7 năm 2015 về tăng cường các biện pháp phòng chống oan, sai và nâng cao trách nhiệm trong giải quyết bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự. Quận 9 Thành phố Hồ Chí Minh là đô thị nằm ở vị trí cửa ngõ Đông Bắc của thành phố, nối liền địa bàn kinh tế trọng điểm của khu vực. Quận 9 có diện tích 113,896.200 km2 , có 13 phường với dân số 235.268 người [5]. Với địa bàn rộng, dân cư tương đối đông và hàng năm đều gia tăng, kinh tế ngày càng phát triển đưa đến hệ lụy là tình hình tội phạm cũng ngày càng gia tăng. Vì vậy, bên cạnh giữ vững ổn định, phát triển kinh tế, Quận 9 còn đối mặt với không ít những khó khăn về vấn đề đấu tranh phòng chống tội phạm, trong đó có tội phạm cố ý gây thương tích và gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. So với các địa phương khác, Quận 9 là khu vực luôn chiếm tỷ lệ tương đối lớn về loại tội phạm này và hiện nay đang có chiều hướng gia tăng về số lượng cũng như mức độ nguy hiểm. Công tác THQCT đối với các tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn Quận 9 trong những năm gần đây có nhiều chuyển biến tích cực, vai trò của Viện kiểm sát ngày càng được khẳng định. Hầu hết các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác xảy ra trên địa bàn quận được phát hiện, điều tra, truy tố và xét xử nhanh chóng, kịp thời, đảm bảo sự nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật đã góp phần quan trọng vào việc giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Tuy nhiên, qua thực tiễn công tác của Viện kiểm sát cho thấy, công tác thực hành quyền công
  • 11. 3 tố đối với các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn Quận 9 cũng có những hạn chế, bất cập do nhiều nguyên nhân khác nhau cần được khắc phục kịp thời. Trước thực trạng nêu trên, việc làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động thực hành công tố đối với các vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh là hết sức cần thiết. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài: Thực hành quyền công tố trong vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngườì khác từ thực tiễn Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh” làm Luận văn thạc sỹ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu THQCT nói chung và THQCT đối với các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng hiện nay đang là chủ đề được khá nhiều học giả cũng như người làm công tác thực tiễn quan tâm, nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Đưa ra quan điểm nghiên cứu dưới dạng sách tham khảo có thể kể đến một số tác phẩm điển hình như cuốn “THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra” của TS. Lê Hữu Thể, TS Đỗ Văn Đương và CN Nông Xuân Trường. Cuốn sách này tác giả chủ yếu đưa ra và phân tích các vấn đề lý luận chung về thực hành quyền công tố và thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra. Bên cạnh đó còn có cuốn “Một số vấn đề về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp” của TS. Nguyễn Hải Phong (chủ biên). Cuốn sách này tác giả chủ yếu đưa ra và phân tích các vấn đề lý luận chung về thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, chủ trương định hướng của Đảng và đưa ra giải pháp nhằm tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra mà không gắn công tác
  • 12. 4 này với tội phạm cụ thể. Bên cạnh đó, những cuốn bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng Hình sự của các trường như Đại học Luật Hà Nội, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh hoặc các cuốn bình luận của các tác giả như GS.TS Nguyễn Ngọc Anh – LS.TS. Phan Trung Hoài, TS. Phạm Mạnh Hùng và các đồng tác giả, TS. Trần Văn Biên – TS. Đinh Thế Hưng, … cũng nghiên cứu về công tác thực hành quyền công tố nhưng chỉ đề cập với thời lượng ít và mang tính chất chung đối với quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự về chức năng nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự mà không đi sâu nghiên cứu công tác này cũng như không gắn công tác này với tội phạm cụ thể. Nghiên cứu dưới góc độ luận văn có tác giả Trịnh Duy Tám với luận văn thạc sỹ luật học "Áp dụng pháp luật trong THQCT trong giai đoạn điều tra của VKSND ở Việt Nam hiện nay”; tác giả Nguyễn Mạnh Tùng với luận văn thạc sỹ luật học “THQCT và kiểm sát hoạt động điều tra các vụ án về ma túy ở Thành phố Hà Nội”; tác giả Phạm Anh Đức với luận văn thạc sỹ “Nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố”; tác giả Nguyễn Ngọc Ánh với luận văn thạc sỹ luật học “THQCT và kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu trên địa bàn thành phố Hà Nội”; tác giả Phan Thị Sa với luận văn thạc sỹ luật học “THQCT trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi”, tác giả Lê Thị Tuyết Hoa với luận án tiến sỹ luật học “Quyền công tố ở Việt Nam”, ... Các công trình này nghiên cứu về công tác thực hành quyền công tố nói chung, công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật ở giai đoạn điều tra hoặc giai đoạn xét xử gắn với một loại tội phạm cụ thể như tội phạm về ma túy, tội xâm phạm sở hữu. Ngoài ra, có nhiều tác giả thể hiện quan điểm nghiên cứu về vấn đề này dưới dạng các bài viết khoa học được đăng trên các báo, tạp chí như: bài viết
  • 13. 5 “Tổ chức bộ máy và chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong tiến trình cải cách tư pháp” của tác giả Lê Hữu Thể đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 14 – 16/2008; “Bàn về mô hình viện kiểm sát theo yêu cầu cải cách tư pháp” của tác giả Lại Hợp Việt, tạp chí kiểm sát số 14-16/ 2008; bài viết “Tăng cường trách nhiệm của công tố trong giai đoạn điều tra trong BLTTHS” của tác giả Nguyễn Tiến Sơn đăng tạp chí kiểm sát số 09/2015; bài viết “Một số vấn đề đặt ra từ thực tiễn thực hiện chức năng THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS theo yêu cầu cải cách tư pháp” của tác giả Nguyễn Duy Giảng đăng trên Trang thông tin điện tử của VKS ND tối cao; bài viết “Một số vấn đề về quyền công tố” của tác giả Trần Văn Độ đăng trên Tạp chí Luật học số 3/2001, bài viết “thực trạng công tác THQCT ,kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử các vụ án hình sự tại Viện kiểm sát 02 cấp tỉnh Bình Dương và giải pháp, kiến nghị” của tác giả Nguyễn Phước Trung đăng trên Trang thông tin điện tử của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương, … Các công trình nghiên cứu, các bài viết nêu trên đã đề cập các góc độ khác nhau khi bàn về hoạt động THQCT dưới góc độ lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có tác giả nào đưa ra công trình khoa học nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện, sâu sắc và đầy đủ về công tác THQCT đối với các vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, nhất là gắn với địa bàn cụ thể là Quận 9 thành phố Hồ Chí Minh. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài - Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về THQCT đối với các vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, phân tích thực trạng áp dụng pháp luật để trên cơ sở đó tác giả đưa ra một số đề xuất, kiến nghị góp phần nâng cao chất lượng công tác THQCT đối với các vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng và các vụ án hình sự nói chung.
  • 14. 6 - Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện mục đích nghiên cứu, luận văn đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ: + Làm rõ lý luận về THQCT đối với các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. + Làm rõ quy định của BLTTHS năm 2015 và các văn bản pháp luật có liên quan về THQCT trong các giai đoạn tố tụng. + Phân tích, đánh giá thực trạng công tác THQCT đối với các vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn Quận 9 thành phố Hồ Chí Minh và những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện công tác này. + Đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác THQCT đối với các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài - Đối tượng nghiên cứu: Công tác THQCT đối với các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh. - Phạm vi nghiên cứu + Phạm vi về thời gian: luận văn tập trung khảo sát công tác THQCT đối với các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2014 đến năm 2018; + Phạm vi về không gian: luận văn khảo sát tình hình thực hiện công tác THQCT đối với các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác chỉ trên địa bàn Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh.
  • 15. 7 + Phạm vi về nội dung: Công tác THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp đối với các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được Viện kiểm sát thực hiện trong cả giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Tuy nhiên, với thời gian ngắn và khả năng nghiên cứu có hạn, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu, khảo sát thực trạng công tác này ở hai giai đoạn là điều tra và truy tố. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài - Cơ sở phương pháp luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận là phép duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và hệ thống các quan điểm của Đảng, Nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm, cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay. - Phương pháp nghiên cứu: tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khác nhau, cụ thể là các phương pháp: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, nghiên cứu án điển hình nhằm làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và thực tiễn của đề tài. 6. Đóng góp mới và ý nghĩa của đề tài Việc nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn. Về mặt lý luận: Luận văn là công trình nghiên cứu đi sâu vào phân tích một cách tương đối đầy đủ, toàn diện, có hệ thống quy định về hoạt động của Viện kiểm sát khi THQCT đối với các vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và việc áp dụng những quy định đó trên thực tế. Với kết quả nghiên cứu đạt được, luận văn có thể góp phần bổ sung và làm phong phú thêm lý luận về hoạt động THQCT đối với các vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác dưới góc độ pháp lý hình sự, tố tụng hình sự và đưa ra cơ sở khoa học của hoạt động hoàn thiện pháp luật về hoạt động này.
  • 16. 8 Về mặt thực tiễn: Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo đối với những người làm công tác thực tiễn để nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự, tố tụng hình sự và những người học tập, giảng dạy, nghiên cứu lập pháp về công tác THQCT đối với các vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được chia thành 3 chương: Chương 1 : Một số vấn đề lí luận và pháp luật về THQCT đối với các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Chương 2: Thực trạng THQCT các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh Chương 3: Yêu cầu và một số giải pháp nâng cao hiệu quả THQCT đối với các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh
  • 17. 9 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI CÁC VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC 1.1. Khái niệm - Phạm vi - Đặc điểm của thực hành quyền công tố 1.1.1. Khái niệm - Phạm vi Khái niệm về quyền công tố: Chế định VKS được quy định trong pháp luật Việt Nam đã từ rất lâu nhưng cho đến Hiến pháp năm 1980 thì thuật ngữ “thực hành quyền công tố” với tư cách là chức năng của Viện kiểm sát mới được chính thức ghi nhận. Từ thời điểm đó, khái niệm quyền công tố và THQCT đã được nghiên cứu, đề cập khá nhiều trong khoa học pháp lí nước ta dưới các góc độ khác nhau. Song, cho đến nay, chúng ta vẫn chưa đạt được sự thống nhất cao về nhận thức đối với vấn đề này, chưa có một quan điểm thống nhất khi bàn về quyền công tố. Theo Đại từ điển tiếng Việt của tác giả Nguyễn Như Ý, công tố có nghĩa là "điều tra, truy tố và buộc tội kẻ phạm pháp trước Tòa án" [34, tr.204]. Theo đó, công tố bao gồm cả hoạt động điều tra và truy tố, buộc tội kẻ phạm tội trước Tòa án. Theo Từ điển Luật học, công tố “là quyền của Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội”[26, tr.188]. Ở Việt Nam hiện nay, quyền công tố được Nhà nước giao cho VKS thực hiện. Trên cơ sở đó có thể hiểu, “quyền công tố là quyền buộc tội nhân danh Nhà nước đối với người phạm tội”[26, tr.188]. Trong giới nghiên cứu khoa học, khái niệm quyền công tố được đưa ra tương đối nhiều nhưng có thể kể đến một số quan điểm chính sau: Quan điểm thứ nhất: “Quyền công tố là quyền của nhà nước giao cho VKS truy tố kẻ phạm tội ra Tòa án, thực hiện sự buộc tội tại phiên tòa (thực hiện quyền công tố)” [21, tr.24]. Như vậy, theo quan điểm này, quyền công tố
  • 18. 10 chỉ tồn tại trong lĩnh vực hình sự, đó là quyền của Nhà nước truy tố kẻ phạm tội ra trước Tòa án để xét xử và bảo vệ sự buộc tội đó tại phiên tòa hình sự (duy trì quyền công tố). Và ở Việt Nam, quyền này được giao cho chủ thể duy nhất là VKSND. Điều này đồng nghĩa với việc công tác thực hiện quyền công tố chỉ diễn ra ở một lĩnh vực duy nhất là TTHS và công tác này cũng chỉ tồn tại ở một giai đoạn duy nhất của TTHS là giai đoạn xét xử sơ thẩm. Quan điểm này chưa phản ánh đầy đủ bản chất của quyền công tố. Bởi lẽ, truy tố và buộc tội chỉ là một trong số các quyền năng, hoạt động của VKS ở giai đoạn xét xử sơ thẩm trong TTHS. Ngoài hai quyền năng đó, VKS còn có nhiều quyền năng khác khi THQCT ở giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự và ở các giai đoạn khác trong TTHS. Quan điểm thứ hai: “Quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng các chế tài hình sự đối với người phạm tội”[21, tr.26]. Theo quan điểm này, chủ thể THQCT không chỉ có VKS mà còn có các cơ quan tiến hành tố tụng khác như CQĐT, Tòa án, Thi hành án. Như vậy, quyền công tố có trong tất cả các giai đoạn tố tụng từ khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đến thi hành án đối với các vụ án hình sự. Quan điểm này đã đồng nhất khái niệm quyền công tố với nguyên tắc TTHS, dẫn đến nhầm lẫn giữa các chức năng cơ bản trong TTHS (buộc tội, gỡ tội, xét xử …). Quan điểm thứ ba: “Quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền này thuộc về nhà nước, được Nhà nước giao cho một cơ quan thực hiện (ở nước ta là VKS ) để phát hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội” [21, tr.40]. Cụ thể, cơ quan có chức năng THQCT có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để có thể xác định một cách chính xác tội phạm, người phạm tội và trên cơ sở đó quyết định truy tố bị can
  • 19. 11 ra trước Tòa án cũng như bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tòa. Bên cạnh đó, theo quan điểm này thì cơ quan có quyền công tố được phép nhân danh Nhà nước để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội và quyền này chỉ có trong lĩnh vực duy nhất là trong TTHS. Ở Việt Nam, VKS ND là cơ quan duy nhất được Nhà nước giao quyền công tố mà không có bất kỳ cơ quan nào có thể thay thế được. Có thể nói rằng, cho đến nay, khi đưa ra khái niệm quyền công tố có rất nhiều quan điểm khác nhau. Mỗi quan điểm đều có những yếu tố hợp lý nhưng cũng đều thể hiện những bất cập nhất định. Với nhận thức của mình khi nghiên cứu về vấn đề này, tác giả ủng hộ khái niệm quyền công tố được đưa ra tại quan điểm thứ năm nêu trên, bởi một số lý do sau: Một là, quan điểm này phù hợp với quan điểm truyền thống ở Việt Nam khi nghiên cứu lịch sử nhà nước - pháp luật về quyền công tố. Theo đó, quyền công tố là quyền của Nhà nước buộc tội đối với người có hành vi vi phạm pháp luật hình sự. Hai là, quan điểm này cũng phù hợp với các quy định pháp luật của Nhà nước ta qua các thời kỳ về quyền công tố. Cụ thể, Hiến pháp, Luật tổ chức VKS ND và pháp luật tố tụng hình sự của nước ta qua các thời kỳ đều khẳng định VKSND có chức năng THQCT. Bên cạnh đó, Nghị quyết số 08- NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị cũng đã nêu rõ: "VKS các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp [1, tr. 8]. Bên cạnh đó, quan điểm của ngành Kiểm sát cũng đã thể hiện một cách thống nhất từ trước đến nay: "Việc THQCT chỉ có trong lĩnh vực hình sự và chỉ trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử" [23, tr. 2]. Phạm vi quyền công tố Về phạm vi không gian: dựa trên quan điểm chính thống về khái niệm quyền công tố được đưa ra ở trên có thể khẳng định rằng quyền công tố chỉ có
  • 20. 12 trong lĩnh vực TTHS mà không thể có trong lĩnh vực tố tụng khác. Theo đó, quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc buộc tội đối với người phạm tội. Việc buộc tội thì chỉ có trong lĩnh vực TTHS, cho nên quyền công tố không thể tồn tại trong các lĩnh vực khác không liên quan đến sự buộc tội như trong tố tụng hành chính, dân sự, kinh tế, ... Vì lẽ đó, quyền công tố chỉ tồn tại trong lĩnh vực duy nhất có liên quan đến tội phạm và sự buộc tội là lĩnh vực TTHS. Về phạm vi thời gian: theo quan điểm khoa học được thừa nhận phổ biến hiện nay, “phạm vi quyền công tố bắt đầu có từ khi tội phạm được thực hiện và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị” [21, tr.50-51]. Tác giả cho rằng quan điểm này rất đúng đắn. Bởi lẽ, từ khi tội phạm được thực hiện, trách nhiệm của cơ quan được giao quyền công tố là tiến hành các hoạt động tố tụng theo quy định của pháp luật nhằm phát hiện tội phạm và người phạm tội cũng như xác định căn cứ để buộc tội họ. Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp THQCT đều kéo dài đến khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật, mà có thể chấm dứt ở giai đoạn tố tụng sớm hơn theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Bởi vì, không phải tất cả các vụ án hình sự đều được đưa ra xét xử trước Tòa án mà ở giai đoạn tố tụng nào đó khi quyền công tố chấm dứt thì quyền THQCT cũng không còn. Như vậy, phạm vi quyền công tố kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật hoặc trong trường hợp đặc biệt, nó sẽ kết thúc khi có quyết định đình chỉ vụ án. Khái niệm về thực hành quyền công tố Trên cơ sở khái niệm quyền công tố, khái niệm thực hành quyền công tố cũng được đưa ra tương đối nhiều. Theo Từ điển tiếng Việt, “thực hành” có nghĩa là “làm để áp dụng lý thuyết vào thực tế, thực hành đồng nghĩa với “thực hiện”” [33, tr.1245]. Như vậy, THQCT có thể được hiểu là áp dụng
  • 21. 13 quyền công tố vào thực tế. THQCT cũng được hiểu là “hoạt động của VKS trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội và buộc tội họ trước Tòa án” [8, tr.12]. Từ điển Luật học đưa ra khái niệm, “THQCT là việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử” [26, tr.188]. Như vậy, để đảm bảo thực hiện quyền công tố trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm thì Nhà nước ta ban hành các văn bản pháp luật, trong đó quy định cụ thể các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố. Các quyền năng này được giao cho cơ quan có trách nhiệm THQCT thực hiện để phát hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Từ năm 1960 đến nay, VKSND là cơ quan duy nhất được giao chức năng THQCT. Để thực hiện chức năng này, VKSND phải sử dụng tất cả quyền năng pháp lý về TTHS nhằm phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh mọi hành vi phạm tội, đảm bảo không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội cũng như không làm oan người vô tội. Luật Tổ chức VKSND năm 2014 cũng đã có quy định về bản chất của chức năng này, theo đó, THQCT “là hoạt động của VKSND trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự” [18, tr. 8]. Phạm vi THQCT là vấn đề hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau trong thực tiễn. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật hiện hành, phạm vi THQCT chỉ có trong lĩnh vực TTHS. Công tác này được “bắt đầu từ khi vụ việc phạm tội xảy ra và trong suốt quá trình điều tra đến khi kết thúc việc buộc tội” [8, tr 13]. Việc buộc tội kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị hoặc khi vụ án bị đình chỉ theo quy định của pháp luật TTHS. Như vậy, phạm vi của công tác THQCT bắt đầu từ khi vụ việc
  • 22. 14 phạm tội xảy ra và kết thúc khi có bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị hoặc khi vụ án bị đình chỉ. Cụ thể, VKSND THQCT ở các giai đoạn và lĩnh vực sau: THQCT trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; THQCT trong giai đoạn điều tra; THQCT trong giai đoạn truy tố; THQCT trong giai đoạn xét xử. 1.1.2. Đặc điểm và nội dung THQCT Đặc điểm của THQCT Khác với hoạt động của VKSND trong các lĩnh vực tố tụng khác như tố tụng hành chính, tố tụng dân sự, ... hoạt động THQCT chỉ tồn tại duy nhất trong lĩnh vực TTHS. Về chủ thể THQCT: dưới góc độ chức năng của chủ thể được giao quyền tiến hành tố tụng, THQCT là chức năng mà Nhà nước chỉ giao cho cơ quan tiến hành tố tụng duy nhất đó là VKS . Các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng khác không có chức năng này. Hoạt động THQCT mang tính công khai và được thực hiện theo trình tự, thủ tục tố tụng do pháp luật quy định. Vì vậy, hoạt động của VKS mang tính độc lập, chỉ tuân theo pháp luật và được giám sát bởi nhiều chủ thể khác nhau. Dưới góc độ chức năng của cơ quan tiến hành tố tụng, THQCT là thực hiện chức năng buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm, người phạm tội và không làm oan người vô tội, … Mục đích của THQCT là nhằm bảo đảm mọi hành vi và người phạm tội được phát hiện, xử lý một cách kịp thời, nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội; Không để người nào bị khởi tố, bị bắt, bị hạn chế quyền con người, quyền công dân một cách trái luật. Mục đích của hoạt động THQCT tuy vẫn phải bao hàm cả việc xem xét, đánh giá nhằm gỡ tội nhưng thực hiện quyền
  • 23. 15 buộc tội đối với người phạm tội vẫn là chủ yếu. Nội dung của THQCT Luật tổ chức VKSND năm 2014 và BLTTHS đã quy định rõ, nội dung của công tác THQCT bao gồm: Quyết định phát động quyền công tố để mở cuộc điều tra hình sự đối với sự kiện phạm tội, người phạm tội: Yêu cầu khởi tố, hủy bỏ quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án trái pháp luật; phê chuẩn, không phê chuẩn quyết định khởi tố bị can; trực tiếp khởi tố vụ án, khởi tố bị can trong một số trường hợp. Quyết định việc có hạn chế hay không quyền tự do, dân chủ của cá nhân người phạm tội: Quyết định, phê chuẩn việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân. trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra, truy tố. Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện; Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan cung cấp tài liệu để làm rõ tội phạm, người phạm tội; Quyết định việc thay đổi hoặc chấm dứt hoạt động tố tụng (đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án, quyết định truy tố bị can ra tòa). Hủy bỏ các quyết định tố tụng trái pháp luật khác trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra. Trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; tiến hành một số hoạt động điều tra để làm rõ căn cứ quyết định việc buộc tội đối với người phạm tội; Điều tra các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, các tội phạm về tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp. Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp phát hiện oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội;
  • 24. 16 1.1.3. Mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố với kiểm sát hoạt động tư pháp THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp tuy là hai chức năng độc lập của VKS, có đối tượng và nội dung khác nhau nhưng chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Như đã phân tích ở trên, THQCT là hoạt động của VKSND trong TTHS để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội. Công tác này được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong toàn bộ quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Chức năng của THQCT là truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, truy tố người phạm tội và bảo vệ sự buộc tội đó. Như vậy, đối tượng hướng tới của THQCT là vạch tội người phạm tội ra trước Tòa án, nó chỉ tồn tại duy nhất trong lĩnh vực TTHS. VKSND THQCT nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội phải được phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội nhưng cũng không để xảy ra oan, sai. Còn “kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của VKS ND để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật” [18, tr.10-11]. Kiểm sát hoạt động tư pháp là nhằm mục đích kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp: phát hiện vi phạm pháp luật, kiến nghị, yêu cầu khắc phục vi phạm, đảm bảo quá trình tiến hành tố tụng tuân
  • 25. 17 thủ các nguyên tắc, trình tự thủ tục, thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Kiểm sát hoạt động tư pháp được thực hiện trong lĩnh vực TTHS và trong quá trình tiến hành tố tụng đối với vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động. Như vậy, mối quan hệ giữa hai chức năng này chỉ tồn tại trong lĩnh vực TTHS. Trong đó, tuy là hai chức năng độc lập nhưng THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp lại có mối quan hệ mật thiết với nhau. Trong đó, chỉ có một số hoạt động mang tính độc lập tương đối, còn lại đa số các hoạt động của chúng đan xen và hỗ trợ, tác động qua lại lẫn nhau. Nếu xét ở từng giai đoạn tố tụng thì các chức năng này thể hiện ở những mức độ và phạm vi khác nhau với các nội dung cụ thể khác nhau. Nhưng xét một cách tổng thể thì dù ở giai đoạn tố tụng nào chúng cũng thể hiện mối quan hệ gắn bó hữu cơ, đan xen, tác động qua lại và bổ sung một cách tích cực cho nhau, điều này được thể hiện ở một số khía cạnh sau: Kết quả của hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp là cơ sở cho việc THQCT có hiệu quả và ngược lại việc THQCT đảm bảo sự tuân thủ pháp luật. Khi có cơ sở xác định tội phạm từ tố giác của người dân, tin báo của cơ quan, tổ chức hoặc thông qua hoạt động điều tra phát hiện dấu hiệu của tội phạm thì CQĐT sẽ phải thực hiện một số hoạt động điều tra ban đầu để xác định có dấu hiệu của tội phạm hay không? Nếu đủ căn cứ xác định có dấu hiệu của tội phạm thì sẽ ra quyết định khởi tố vụ án để tiến hành điều tra đồng thời phải thông báo cho VKS cùng cấp biết. Lúc này VKS với chức năng, nhiệm vụ của mình sẽ tiến hành kiểm sát việc tuân theo các quy định của pháp luật về khởi tố vụ án của CQĐT. Trong quá trình kiểm sát điều tra nếu phát hiện thấy quyết định khởi tố của CQĐT là không có căn cứ hoặc có dấu hiệu trái pháp luật thì VKS sẽ THQCT của mình bằng cách ra quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố của CQĐT. Nếu trong trường hợp phát hiện có dấu hiệu
  • 26. 18 của tội phạm nhưng CQĐT đã ra quyết định không khởi tố thì VKS sẽ hủy bỏ quyết định đó của CQĐT và ra quyết định khởi tố. Khi vụ án đã được khởi tố cũng đồng nghĩa với quyền kiểm sát hoạt động điều tra của VKS được phát động, VKS sẽ thực hiện quyền kiểm sát của mình trong suốt quá trình điều tra của CQĐT để bảo đảm nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Như vậy, có thể thấy, nếu VKS làm tốt chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của mình thì chức năng THQCT của VKS cũng sẽ được bảo đảm đúng pháp luật. Ngược lại, nếu làm không tốt chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp thì việc THQCT của VKS có thể sẽ vi phạm pháp luật (và có thể dẫn đên hậu quả là: quyết định của VKS cấp dưới vi phạm pháp luật sẽ bị VKS cấp trên hủy bỏ) và đối với những trường hợp đó thì vụ án sẽ bị đình chỉ, VKS có thể sẽ phải bồi thường thiệt hại cho bị can, bị cáo nếu có thiệt hại xảy ra, đồng thời sẽ làm giảm sự tin tưởng của nhân dân vào năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức trong ngành tư pháp. Trong quá trình tiến hành tố tụng đối với vụ án hình sự, VKS không tách rời các hoạt động thực hiện chức năng THQCT với các hoạt động thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật để thực hiện độc lập mà luôn gắn kết một cách chặt chẽ. Có như thế, VKS mới có thể thực hiện chủ trương của Ngành là “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra” đem lại kết quả tốt, bảo đảm mọi hành vi và người phạm tội được phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án kịp thời, bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không gây ra oan, sai Mối quan hệ chặt chẽ này được thể hiện trong suốt quá trình tố tụng hình sự từ khi khởi tố vụ án hình sự cho đến giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Như vậy, có thể thấy THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật là
  • 27. 19 hai chức năng cơ bản và quan trọng nhất của VKS mà giữa chúng có mối quan hệ hỗ trợ cho nhau, không thể tách rời nhau trong suốt quá trình giải quyết vụ án, nếu vi phạm chức năng này sẽ ảnh hưởng chức năng khác và ngược lại. 1.2. Khái niệm- Đặc điểm tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác 1.2.1. Khái niệm Theo Từ điển Luật học, “Cố ý gây thương tích là hành vi cố ý xâm phạm thân thể, gây tổn hại cho sức khỏe người khác dưới dạng thương tích cụ thể” [26, tr.172]. “Gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi mà người phạm tội dùng sức mạnh vật chất hoặc các thủ đoạn khác tác động lên thân thể người khác làm cho sức khỏe của nạn nhân yếu đi, không còn nguyên vẹn như trước mặc dù không để lại dấu vết trên thân thể họ” [6, tr.11]. Như vậy có thể hiểu, “Tội cố ý gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi tác động trái pháp luật đến thân thể của người khác gây thiệt hại về sức khỏe cho người khác dưới dạng thương tích hoặc tổn hại về sức khỏe trong các trường hợp luật định [25, tr.96-97]. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được quy định tại Điều 134, nằm trong nhóm các tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người của BLHS hiện hành. Cũng như các tội phạm khác thuộc chương này, Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể và quyền được bảo vệ về sức khỏe của con người. Tội này lần đầu tiên được quy định tại Sắc luật số 03/SL ngày 15/3/1976 của Hội đồng Chánh phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam. 1.2.2. Đặc điểm Giống như tất cả các tội phạm khác, tội cố ý gây thương tích hoặc gây
  • 28. 20 tổn hại cho sức khỏe của người khác có đầy đủ 04 yếu tố cấu thành tội phạm: Thứ nhất, khách thể của tội phạm cố ý gây thương tích là một trong những khách thể quan trọng nhất được Luật hình sự bảo vệ. Khách thể của tội phạm này là quyền được tôn trọng và bảo vệ về sức khỏe của công dân, khách thể trực tiếp của tội phạm này là sức khỏe của người khác, là người đang sống, đang tồn tại độc lập trong thế giới khách quan với tư cách là một thực thể tự nhiên và xã hội. Một người đang sống, đang tồn tại được xác lập bắt đầu kể từ khi sinh ra cho đến khi ngừng thở, tim ngừng hoạt động (cái chết về mặt sinh học) chứ không phải cái chết về mặt pháp lý. Một người nào đó nếu đã bị Tòa án tuyên bố là đã chết nhưng thực tế họ vẫn còn sống thì hành vi nào xâm phạm đến sức khỏe của người này vẫn coi là tội phạm, vì nó đã xâm phạm đến quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ thuộc khách thể của tội này. Đối tượng tác động của tội phạm này là một con người cụ thể, có quyền được pháp luật tôn trọng và bảo vệ về sức khỏe khỏi sự xâm hại của tội phạm. Thứ hai, hành vi khách quan. Hành vi khách quan của tội này là những hành vi có khả năng gây ra thương tích nhất định làm tổn hại cho sức khỏe của người khác bằng cách tác động vào cơ thể họ. Hành vi phạm tội có thể được thực hiện dưới dạng hành động phạm tội, nghĩa là người phạm tội làm một việc bị pháp luật nghiêm cấm không được làm nhằm làm biến đổi tình trạng bình thường cho sức khỏe của người khác như đấm, đá bằng tay, chân hoặc dùng các loại hung khí như dao, gậy, … để gây ra thương tích. Hậu quả của tội phạm này đòi hỏi là thương tích do hành vi phạm tội gây ra, bởi vì hành vi của con người là có ý thức và có ý chí cho nên nó luôn luôn là phương tiện để đạt tới một kết quả nhất định. Hậu quả chính là sự thiệt hại gây ra cho khách thể và chỉ những thiệt hại quan trọng nhất do tội phạm trực tiếp gây ra đặc trưng của tội phạm ấy mới là hậu quả thuộc mặt khách quan của tội phạm, ví dụ như gây tổn thương cho một số bộ phận hoặc toàn
  • 29. 21 bộ cơ thể, hoặc gây tổn hại hay làm mất chức năng của một bộ phận nào đó trong cơ thể con người như: Gây mù mắt, điếc tai, mất một phần chân tay, … Dấu hiệu bắt buộc về mặt hậu quả của tội phạm này là hành vi phạm tội đã để lại thương tích cho nạn nhân với tỷ lệ % thương tật theo luật định. Cơ sở để xác định nạn nhân bị thương tích cũng như tỷ lệ thương tích cụ thể là kết luận của Hội đồng giám định pháp y do cơ quan tiến hành tố tụng trưng cầu. Hành vi gây thương tích cho người khác bao giờ cũng được thực hiện trong một khoảng thời gian, địa điểm, hoàn cảnh nhất định và bằng những thủ đoạn, phương tiện, công cụ nhất định. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội với hậu quả nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi đó: Hậu quả nguy hiểm cho xã hội chỉ xảy ra khi có hành vi nguy hiểm cho xã hội, do chính hành vi đó gây ra. Hậu quả nguy hiểm phải là sự tất yếu của hành vi nguy hiểm cho xã hội gây ra. Hành vi nguy hiểm cho xã hội buộc phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả. Thứ ba, về mặt chủ quan. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được người phạm tội thực hiện với lỗi cố ý, có thể là cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp. Người thực hiện hành vi phạm tội ý thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà mình thực hiện, biết được hậu quả do hành vi của mình thực hiện có thể gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác. Người phạm tội mong muốn hoặc tuy không mong muốn nhưng đã để mặc cho hậu quả xảy ra (người bị tác động bị thương tích hoặc tổn hại sức khỏe). Động cơ và mục đích phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm này. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, việc chứng minh động cơ, mục đích của người phạm tội có ý nghĩa trong việc định khung hình phạt như vì lý do công vụ của nạn nhân, ...
  • 30. 22 Thứ tư, chủ thể của tội phạm. Chủ thể của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là con người cụ thể. Người này phải thỏa mãn đầy đủ 02 điều kiện là có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là từ đủ 14 tuổi trở lên. 1.3. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về thực hành quyền công tố trong các giai đoạn tố tụng 1.3.1. Giai đoạn thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố THQCT trong giai đoạn tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố là hoạt động của VKS ND nhằm mục đích xác định dấu hiệu tội phạm để xem xét việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự. Điều 12 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 quy định nhiệm vụ quyền hạn của VKS khi THQCT trong giai đoạn tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố như sau: “Phê chuẩn, không phê chuẩn việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ và các biện pháp khác hạn chế quyền con người, quyền công dân trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố” [18, tr.18-19]. CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra được áp dụng các biện pháp ngăn chặn bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ và các biện pháp cưỡng chế khác như khám người, khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm; thu giữ thư tín, điện tín, .. nhằm giúp cho việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của CQĐT được thực hiện hiệu quả khi phát hiện các dấu hiệu tội phạm và người phạm tội. Khi THQCT trong giai đoạn này, VKS có các nhiệm vụ quyền hạn sau:
  • 31. 23 Một là, phê chuẩn, không phê chuẩn việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp. Việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp phải có lệnh của thủ trưởng, phó thủ trưởng CQĐT các cấp hoặc người có thẩm quyền của các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Trong mọi trường hợp, việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp phải được báo ngay cho VKS cùng cấp bằng văn bản kèm theo tài liệu liên quan để VKS xét phê chuẩn. “Trường hợp cần thiết, Kiểm sát viên phải trực tiếp gặp, hỏi người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp trước khi xem xét quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp” [14, 104]. Thời hạn để VKS ra quyết định phê chuẩn hay không phê chuẩn là 12 giờ kể từ khi nhận được đề nghị xét phê chuẩn và tài liệu liên quan đến việc bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp. “Trường hợp VKS quyết định không phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thì người đã ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, CQĐT đã nhận người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải trả tự do ngay cho người bị giữ” [14, tr.105]. Hai là, VKS phê chuẩn hoặc không phê chuẩn gia hạn tạm giữ và các biện pháp khác hạn chế quyền con người, quyền công dân trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi THQCT trong việc gia hạn tạm giữ được quy định cụ thể tại khoản 2 Điều 118 BLTTHS. Theo đó, “trong trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ nhưng không quá 03 ngày. Trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần thứ hai nhưng không quá 03 ngày. Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ đều phải được VKS cùng cấp hoặc VKS có thẩm quyền phê chuẩn. Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi nhận hồ sơ đề nghị gia hạn tạm giữ, VKS phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn” [14, tr.111].
  • 32. 24 Việc áp dụng các biện pháp khác hạn chế quyền con người, quyền công dân như việc khám người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm chỉ được tiến hành khi có căn cứ để nhận định trong người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm của một người có công cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có hoặc đồ vật, tài liệu khác có liên quan đến vụ án; việc khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm cũng được tiến hành khi cần phát hiện người đang bị truy nã; khi cần phải thu thập tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án thì có thể khám thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm phải có Lệnh khám xét, thu giữ của thủ trưởng, phó thủ trưởng CQĐT các cấp và phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 2 Điều 193 BLTTHS thì trong trường hợp khẩn cấp, những người được quy định tại Khoản 2 Điều 110 BLTTHS có quyền ra lệnh khám xét. Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi khám xét xong, người ra lệnh khám xét phải thông báo bằng văn bản cho VKS cùng cấp hoặc VKS có thẩm quyền THQCT và kiểm sát điều tra. “Hủy bỏ quyết định tạm giữ, các quyết định tố tụng khác trái pháp luật của cơ quan có thẩm quyền trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố” [18, tr.19]. Những người có quyền ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp quy định tại Khoản 2 Điều 110 BLTTHS năm 2015 có quyền ra quyết định tạm giữ. “Người thi hành quyết định tạm giữ phải thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ quy định tại Điều 59 của BLTTHS” [14, tr. 110]. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi ra quyết định tạm giữ, người ra quyết định tạm giữ phải gửi quyết định đó kèm theo tài liệu liên quan cho VKS cùng cấp hoặc VKS có thẩm quyền. VKS có trách nhiệm nghiên cứu quyết định và hồ sơ, nếu xét thấy việc tạm giữ không có căn cứ hoặc không cần thiết thì phải ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ. Trên cơ sở quyết định đó, người đã ra quyết định tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.
  • 33. 25 Theo quy định tại Thông tư liên tịch của VKSND tối cao, Bộ công an và Bộ quốc phòng số 05/2005/TTLT - VKS TC -BCA - BQP ngày 07/9/2005 về quan hệ phối hợp giữa CQĐT và VKS trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS năm 2003 thì đối với các quyết định của Phó Thủ trưởng CQĐT, BLTTHS quy định phải có sự phê chuẩn của VKS nhưng chưa gửi sang VKS mà phát hiện không có căn cứ và trái pháp luật thì Thủ trưởng CQĐT ra quyết định thay đổi hoặc huỷ bỏ. Nếu các quyết định này đã gửi sang VKS , nhưng VKS chưa quyết định việc phê chuẩn thì thủ trưởng CQĐT có văn bản đề nghị VKS để rút các quyết định này và ra quyết định thay đổi hoặc huỷ bỏ; nếu không đồng ý thì VKS quyết định việc thay đổi hoặc huỷ bỏ theo quy định tại khoản 4 Điều 165 BLTTHS. Đối với các quyết định của Phó Thủ trưởng CQĐT sau khi được VKS phê chuẩn mới phát hiện là không có căn cứ và trái pháp luật thì Thủ trưởng CQĐT kiến nghị Viện trưởng VKS cùng cấp hoặc VKS cấp trên trực tiếp ra quyết định thay đổi hoặc huỷ bỏ. Ngay sau khi ra quyết định thay đổi hoặc huỷ bỏ các quyết định của Phó thủ trưởng CQĐT thì VKS phải gửi cho CQĐT để thực hiện. Trong quá trình THQCT trong giai đoạn này, khi cần thiết, VKS có quyền “đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thực hiện” [18, tr.19]. Trong hoạt động thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khi THQCT trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, khi thấy cần thiết, VKS có thể đề ra những yêu cầu xác minh để làm sáng tỏ vụ việc và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, kiểm tra, xác minh kịp thời, đúng quy định của pháp luật. Thông tư liên tịch số 06/2013/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKS NDTC ngày 02 tháng 8 năm 2013 hướng dẫn thi hành quy định của BLTTHS về tiếp
  • 34. 26 nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố đã quy định cụ thể về trách nhiệm và chế độ thông tin, báo cáo việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của VKS các cấp. VKS có quyền “trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố trong trường hợp phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà VKSND đã yêu cầu nhưng không được khắc phục” [18, tr.19]. VKS trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố trong trường hợp phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà VKS đã yêu cầu, kiến nghị nhưng không được khắc phục nhằm hạn chế tình trạng vi phạm của các cơ quan có thẩm quyền điều tra như bức cung, mớm cung, nhục hình dẫn đến có dấu hiệu oan sai, dễ bị bỏ lọt tội phạm. Trong những trường hợp này, VKS thực hiện việc trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố nhằm xem xét việc khởi tố vụ án có đúng với quy định của pháp luật hay không. Qua kiếm sát việc khởi tố vụ án hình sự, nếu phát hiện việc khởi tố vụ án không có căn cứ thì VKS ra các quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án của CQĐT hoặc yêu cầu CQĐT khởi tố vụ án nếu thấy có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm; nếu CQĐT không khởi tố, VKS có thể chủ động khởi tố vụ án hình sự đó. Ngoài ra, VKS có quyền “thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác để THQCT theo quy định của BLTTHS nhằm chống bỏ lọt tội phạm, chống làm oan người vô tội” [18, tr.19]. 1.3.2. Giai đoạn điều tra vụ án Hoạt động của VKS trong vụ án hình sự có mục đích đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra và xử lý kịp thời, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, việc truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội phải có căn cứ và đúng pháp luật. Nhiệm
  • 35. 27 vụ, quyền hạn của VKS ND khi THQCT trong giai đoạn điều tra đối với vụ án hình sự được quy định tại Điều 14 Luật tổ chức VKS ND và cụ thể hóa tại Điều 165 BLTTHS. Bao gồm: -“Yêu cầu CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra khởi tố hoặc thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; Phê chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can không có căn cứ và trái pháp luật; Khởi tố, thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can trong các trường hợp do Bộ luật TTHS quy định; Phê chuẩn, không phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ, việc tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, khám xét, thu giữ, tạm giữ đồ vật, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định tố tụng khác không có căn cứ và trái pháp luật của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của Bộ luật TTHS. Hủy bỏ các quyết định tố tụng không có căn cứ và trái pháp luật của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Trường hợp không phê chuẩn hoặc hủy bỏ thì trong quyết định không phê chuẩn hoặc hủy bỏ phải nêu rõ lý do; Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế theo quy định của Bộ luật này; Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra tiến hành điều tra để làm rõ tội phạm, người phạm tội. Yêu cầu CQĐT truy nã bị can, áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt; Trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra trong trường hợp để kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ khi xét phê chuẩn lệnh, quyết định của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc trường hợp phát hiện có dấu hiệu oan, sai, bỏ lọt tội phạm, vi phạm pháp luật mà VKS đã yêu cầu bằng văn bản nhưng không
  • 36. 28 được khắc phục hoặc trường hợp để kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ khi quyết định việc truy tố; Khởi tố vụ án hình sự khi phát hiện hành vi của người có thẩm quyền trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra có dấu hiệu tội phạm; yêu cầu CQĐT khởi tố vụ án hình sự khi phát hiện hành vi của người có thẩm quyền trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra có dấu hiệu tội phạm; Quyết định việc gia hạn thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam. Quyết định chuyển vụ án, áp dụng thủ tục rút gọn, áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh, ban hành quyết định hủy bỏ quyết định tách, nhập vụ án. Ngoài ra, VKS còn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc THQCT theo quy định của BLTTHS” [14, tr.156-158]. 1.3.3. Giai đoạn truy tố BLTTHS năm 2015 không có điều luật riêng biệt quy định về công tác THQCT trong giai đoạn truy tố. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 16 Luật Tổ chức VKS ND năm 2014 thì nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi THQCT trong giai đoạn truy tố bao gồm: “Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam, các biện pháp khác hạn chế quyền con người, quyền công dân theo quy định của luật; yêu cầu CQĐT truy nã bị can” [18, tr.24-25]. Điều này được hiểu là, khi có căn cứ và xét thấy cần thiết, VKS có quyền quyết định áp dụng một trong số các biện pháp ngăn chặn như bắt bị can để tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lãnh, đặt tiền để bảo đảm… VKS có nhiệm vụ, quyền hạn phê chuẩn các quyết định của CQĐT trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn như bắt khẩn cấp, gia hạn tạm giữ, bắt bị can để tạm giam, tạm giam, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để đảm bảo. Đối với những biện pháp ngăn chặn do VKS quyết định áp dụng hoặc phê chuẩn thì VKS có quyền hủy bỏ hoặc thay
  • 37. 29 đổi khi xét thấy không cần thiết hoặc có khả năng thay thế bằng một biện pháp ngăn chặn khác. “Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu liên quan đến vụ án trong trường hợp cần thiết” [18, tr. 25]. Trong trường hợp cần thiết, VKS có quyền trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra nhằm mụ đích kiểm tra tính xác thực, bổ sung tài liệu, chứng cứ để cân nhắc, quyết định việc truy tố. VKS cũng trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra khi Tòa án yêu cầu điều tra bổ sung mà VKS xét thấy không cần phải trả hồ sơ cho CQĐT. VKS có quyền “quyết định khởi tố, thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can trong trường hợp phát hiện vụ án còn có hành vi phạm tội, người phạm tội khác chưa được khởi tố, điều tra và trả hồ sơ cho CQĐT để điều tra bổ sung” [18, tr.25].Việc khởi tố vụ án hình sự được thực hiện khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm. VKS chỉ ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can trong một số trường hợp cần thiết theo luật định. Ví dụ như trường hợp sau khi nhận hồ sơ và bản kết luận điều tra mà VKS phát hiện có người khác đã thực hiện hành vi phạm tội trong vụ án nhưng chưa bị khởi tố thì VKS có thể ra quyết định khởi tố bị can và trả hồ sơ cho CQĐT để điều tra bổ sung. Bên cạnh quyền tự thực hiện, VKS cũng có quyền yêu cầu CQĐT ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án, nếu có căn cứ xác định tội phạm đã khởi tố không đúng với hành vi phạm tội xảy ra hoặc còn một số tội phạm khác chưa bị khởi tố. Nếu CQĐT không thực hiện thì VKS sẽ có quyền trực tiếp ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án và trả hồ sơ cho CQĐT để tiến hành điều tra. VKS có quyền yêu cầu CQĐT ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can, nếu có căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị can không phạm vào tội đã bị khởi tố hoặc còn có hành vi phạm tội khác chưa bị khởi tố. trường hợp đã yêu cầu mà
  • 38. 30 CQĐT không thực hiện thì VKS trực tiếp ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can và gửi cho CQĐT để tiếp tục tiến hành điều tra. “Quyết định việc tách, nhập vụ án, chuyển vụ án để truy tố theo thẩm quyền, áp dụng thủ tục rút gọn, áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh. Quyết định gia hạn, không gia hạn thời hạn truy tố, thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Quyết định truy tố, không truy tố bị can.” [18, tr.25]. Khi việc điều tra vụ án kết thúc, CQĐT chuyển bản kết luận điều tra đề nghị truy tố cùng hồ sơ vụ án cho VKS . Sau khi nghiên cứu, nếu xác định có đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự người đã thực hiện hành vi phạm tội thì VKS quyết định truy tố bị can ra trước Tòa án bằng bản cáo trạng (hoặc quyết định truy tố nếu vụ án được tiến hành theo thủ tục rút gọn), đồng thời chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án cùng bản cáo trạng sang Tòa án để thực hiện việc xét xử. VKS có quyền ra quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án, quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án đối với bị can và quyết định phục hồi vụ án, bị can. Trường hợp xác định được có một trong những căn cứ quy định tại Khoản 1 Điều 247 BLTTHS thì VKS ra quyết định tạm đình chỉ vụ án; trường hợp xác định được có một trong những căn cứ quy định tại Khoản 2 Điều 155 và Điều 157 BLTTHS thì VKS ra quyết định đình chỉ vụ án; Khi có căn cứ quy định tại Điều 249 BLTTHS thì VKS ra quyết định phục hồi vụ án. VKS còn có quyền thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn khác để quyết định việc truy tố theo quy định của BLTTHS. Tiểu kết chương 1 Trong chương này, luận văn đã nghiên cứu và phân tích về khái niệm, phạm vi, đặc điểm của THQCT, làm rõ mối quan hệ giữa THQCT với kiểm sát hoạt động tư pháp. Qua đó có thể hiểu THQCT là hoạt động của VKS ND trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người
  • 39. 31 phạm tội. Hoạt động này được thực hiện ngay từ giai đoạn tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Bên cạnh đó, luận văn cũng đã làm rõ khái niệm và các đặc điểm của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên cơ sở quy định của BLHS hiện hành. Trong phạm vi chương này, luận văn cũng đã nêu và phân tích quy định của BLTTHS 2015 về THQCT trong các giai đoạn tố tụng bao gồm: Giai đoạn tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm; giai đoạn điều tra; giai đoạn truy tố và giai đoạn xét xử sơ thẩm. Các khái niệm cũng như quy định của pháp luật được phân tích ở chương 1 là cơ sở để đánh giá thực trạng công tác THQCT đối với các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn quận 9 thành phố Hồ Chí Minh được nêu ở chương 2.
  • 40. 32 Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI CÁC VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 9, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 2.1. Tình hình tội phạm Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn Quận 9 thời gian từ năm 2014 đến năm 2018 2.1.1. Khái quát về đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội Quận 9 Quận 9 Thành phố Hồ Chí Minh là đô thị nằm ở vị trí cửa ngõ Đông Bắc của thành phố, có diện tích 113,896.200 km2 , với dân số 235.268 nhân khẩu. Quận 9 được thành lập ngày 01 tháng 4 năm 1997, với địa giới hành chính được chia thành 13 phường, bao gồm: Phước Long A, Phước Long B, Phước Bình, Phú Hữu, Long Trường, Long Thạnh Mỹ, Trường Thạnh, Long Bình, Tân Phú, Long Phước, Tăng Nhơn Phú A, Tăng Nhơn Phú B, Hiệp Phú [5]. Vị trí địa lý của Quận tương đối phức tạp, giáp nhiều địa phương khác nhau: Phía Đông giáp huyện Long Thành và thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, ranh giới tự nhiên là sông Đồng Nai; phía Tây giáp quận Thủ Đức; phía Tây Nam giáp quận 2; phía Nam giáp huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai; phía Bắc giáp thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Tuy là một quận mới được thành lập nhưng dân số của Quận 9 tương đối đông và tăng nhanh hơn so với 23 quận còn lại của thành phố Hồ Chí Minh. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân tốc độ đô thị hóa và việc di dân hàng năm. Các tiện ích xã hội hoàn hảo của khu Đông, các khu chức năng quan trọng tại Quận 9 đều đã và đang hình thành một cách bài bản là nhân tố tích cực hỗ trợ quận 9 trở thành điểm đến của nhiều nhà đầu tư cũng như nơi an cư phù hợp. Là một quận thuộc vùng ngoại
  • 41. 33 ô thành phố, giáp nhiều địa phương khác, có hệ thống đường giao thông thuận lợi cho việc di chuyển giữa các vùng, các địa phương và là cửa ngõ của thành phố với diện tích đất còn tương đối rộng, Quận 9 là nơi thuận lợi cho việc phát triển kinh tế cũng như địa bàn thuận lợi để dân cư sinh sống. Người dân cư trú ở quận 9 để làm việc ở các quận trung tâm thành phố tương đối đông. Bên cạnh đó, vì là quận mới được thành lập, kinh tế đang từng bước được phát triển nên tốc độ đô thị hóa tương đối nhanh dưới sự đầu tư của thành phố cũng như các nhà đầu tư từ bên ngoài với nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế. Quận 9 có khu công nghệ cao Thành phố Hồ Chí Minh đã được xây dựng và đi vào hoạt động với quy mô ngày càng được mở rộng thu hút nhiều lao động ở các địa phương khác đến làm việc, sinh sống. Ngoài ra, các doanh nghiệp, nhà máy trên địa bàn quận cũng tương đối nhiều với nhu cầu lao động lớn. Lượng sinh viên lớn của các trường đại học, cao đẳng đóng trên địa bàn quận như Trường Đại học Giao thông vận tải, Trường Đại học Tài chính – marketing, Trường Đại học Kiến trúc, Trường Cao đẳng Công thương, … cũng góp phần làm cho lượng dân cư nói chung của Quận 9 trở nên đông đúc hơn. Song song với đó, lực lượng lao động tự do ở khu vực này cũng tương đối nhiều. Hàng năm, nhu cầu lao động tăng do kinh tế phát triển hơn nên lượng dân cư đến và sinh sống tại địa bàn quận cũng vì thế mà tăng lên. Bên cạnh số lượng dân cư đông, tăng nhanh, đối tượng dân cư trên địa bàn quận cũng tương đối nhiều, phức tạp: học sinh, sinh viên, công nhân, cán bộ công chức, lao động tự do,… Nhiều đối tượng dân cư với trình độ văn hóa, học vấn, quan điểm sống khác nhau làm cho tình hình xã hội tương đối phức tạp, dễ nảy sinh mâu thuẫn. Việc giải quyết mâu thuẫn bằng vũ lực diễn ra ngày càng nhiều. Vì vậy, thời gian vừa qua, tình hình tội phạm trên địa bàn Quận 9 đang có chiều hướng gia tăng và diễn biến phức tạp, trong đó, tội
  • 42. 34 phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác chiếm tỷ lệ cao gây tâm lý hoang mang trong nhân dân, làm ảnh hưởng đến an ninh trật tự. 2.1.2. Cơ cấu tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân Quận 9 Thành phố Hồ Chí Minh Tuy là một đơn vị mới được thành lập nhưng Viện kiểm sát nhân dân Quận 9 Thành phố Hồ Chí Minh đã được hoàn thiện cơ bản về cơ cấu tổ chức và đi vào hoạt động một cách có hiệu quả. Hiện nay đơn vị được biên chế 21 công chức, bao gồm: Viện trưởng phụ trách công tác chung; 02 Phó Viện trưởng, trong đó, 01 Phó Viện trưởng phụ trách về hình sự, 01 Phó Viện trưởng phụ trách về dân sự; 10 Kiểm sát viên, trong đó có 06 kiểm sát viên được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hình sự; 03 chuyên viên; 01 kế toán và 2 nhân viên. Như vậy, số lượng kiểm sát viên được phân công làm công tác trong lĩnh vực hình sự tương đối nhiều so với lĩnh vực khác. Theo quy định của Luật tổ chức VKSND, đơn vị được tổ chức 02 bộ phận chức năng, gồm: - Bộ phận thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, xét xử, kiểm sát tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự và văn phòng tổng hợp, thống kê tội phạm. - Bộ phận kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình, lao động, hành chính, kinh doanh thương mại, phá sản doanh nghiệp và những việc khác theo quy định của pháp luật; Kiểm sát thi hành án dân sự, tiếp công dân và kiểm sát giải quyết khiếu nại tố cáo về tư pháp. Được sự quan tâm của Viện kiểm sát nhân dân cấp trên, đơn vị đã có nhiều đổi mới toàn diện, thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ và xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh, có phương thức tổ chức và hoạt động khoa
  • 43. 35 học, hiệu quả phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp, góp phần phòng chống tội phạm, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, tăng cường hiệu lực và hiệu quả của bộ máy nhà nước ở địa phương. 2.1.3. Tình hình của tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn Quận 9 Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của Quận 9 trong những năm gần đây đã ảnh hưởng đến tình hình tội phạm nói chung và tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng ở Quận 9. Các loại tội phạm nói chung và tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng ở Quận 9 có dấu hiệu gia tăng, hoạt động của tội phạm ngày càng đa dạng, phức tạp, có tính chất manh động, liều lĩnh và ngày càng trẻ hóa về độ tuổi thực hiện. Từ năm 2014 đến năm 2018, tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn quận xảy ra với số lượng tổng cộng là 136 vụ/181 bị can. Bảng 2.1. Số vụ, số bị can về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác bị khởi tố từ năm 2014 đến năm 2018 trên địa bàn Quận 9 Năm Số vụ án Số bị can So sánh số vụ án trong kỳ (%) So sánh số bị can trong kỳ (%) 2014 31 38 100 100 2015 19 29 61,3 76,3 2016 32 60 103,2 157,9 2017 24 22 77,4 57,9 2018 32 34 103,2 89,5 Nguồn: Báo cáo thống kê của VKS ND Quận 9 Qua số liệu trên cho thấy, tình hình tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ năm 2014 đến năm 2018 trên địa
  • 44. 36 bàn Quận 9 cơ bản tăng giảm không đáng kể nhưng tính chất của vụ án nghiêm trọng, phức tạp. Năm 2015 so với năm 2014 số vụ án giảm 12 vụ; năm 2016 so với năm 2015 tăng 13 vụ; năm 2017 so với năm 2016 giảm 08 vụ và năm 2018 so với năm 2017 tăng 08 vụ. Số vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tăng giảm không đều qua các năm phản ánh tình hình tội phạm nói chung, tình hình tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng diễn biến khá phức tạp, chịu ảnh hưởng từ sự phát trển kinh tế xã hội và tâm lý dân cư trên địa bàn quận qua từng năm. Tổng số vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác bị khởi tố trong 5 năm từ năm 2014 đến năm 2018 trên địa bàn Quận 9 là 138 vụ án với 183 bị can, như vậy mỗi năm trung bình có 27,6 vụ án về tội này bị khởi tố. Số lượng bị cáo trung bình qua 5 năm là 1,33 bị cáo/1 vụ án. Điều này cho thấy đặc trưng của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác xảy ra trên địa bàn Quận 9 là là số lượng người tham gia mỗi vụ án không đông, quy mô vụ án không lớn. Nếu lấy số vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác bị khởi tố năm 2014 là 100% thì số vụ án của năm 2015 so với năm 2014 giảm 38,7%, số bị can giảm 23,7%; năm 2016 số vụ án tăng 3,2%, số bị can tăng lên 57,9%. Nhưng đến năm 2017, số vụ án lại giảm 22,6%, số bị can giảm 42,1% và năm 2018 số vụ án tăng 3,2%, số bị can lại giảm 10,5%. Tuy nhiên, những số liệu này chưa phản ánh trọn vẹn về tình hình tội phạm cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác thực tế xảy ra trên địa bàn quận. Điều này xuất phát từ nguyên nhân: tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác có 04 khoản với 04 khung hình phạt, trong đó, hành vi có dấu hiệu thỏa mãn một trong 03 khoản
  • 45. 37 thuộc loại tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng và rất nghiêm trọng có thể thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện (quận) thì sẽ thuộc thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn quận và được thống kê ở luận văn này. Tuy nhiên, những vụ án cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác mà hành vi có dấu hiệu thuộc khoản 4 tức là thuộc loại tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc những vụ án có bị cáo, bị hại, đương sự ở nước ngoài, hoặc vụ án đó có nhiều tình tiết phức tạp khó đánh giá, thống nhất về tính chất vụ án, liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành,… thì theo quy định về thẩm quyền xét xử, những vụ án đó sẽ thuộc thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng cấp tỉnh. Điều này đồng nghĩa với việc các cơ quan tiến hành tố tụng của thành phố Hồ Chí Minh sẽ có thẩm quyền tiến hành tố tụng đối với các vụ án cố ý gây thương tích và gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói trên. Như vậy, số liệu về các vụ án này sẽ không phản ánh trong luận văn này vì không có trong theo dõi, thống kê của cơ quan tiến hành tố tụng ở Quận 9. Theo ý kiến đánh giá của một số cán bộ, kiểm sát viên, số vụ án cố ý gây thương tích và gây tổn hại cho sức khỏe của người khác xảy ra trên địa bàn Quận 9 được chuyển lên tiến hành tố tụng ở cấp thành phố tương đối nhiều. Các hành vi cố ý gây thương tích và gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong thời gian vừa qua xuất phát từ những nguyên nhân như: Mâu thuẫn phát sinh không được giải quyết một cách triệt để lâu ngày tích tụ, kéo dài; tranh giành lợi ích trong làm ăn, trong cuộc sống dẫn đến mâu thuẫn, thù tức và giải quyết bằng cách xâm hại sức khỏe, tính mạng lẫn nhau; va chạm giao thông thiếu kiềm chế dẫn đến xô xát, gây thương tích; sự lạm dụng các chất kích thích như rượu, bia ở các cuộc nhậu hoặc trong các đám cưới, đặc biệt là tình trạng sử dụng các chất ma túy tổng hợp. Người sử dụng bia rượu, các chất ma túy không kiềm chế được hành vi, dùng bạo lực để giải
  • 46. 38 quyết các mâu thuẫn, thậm chí gọi thêm đồng bọn đem theo vũ khí thô sơ như dao găm, kiếm, gậy, búa, súng tự chế gây hậu quả và thiệt hại nghiêm trọng cho người bị hại. 2.2. Kết quả thực hành quyền công tố đối với các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn Quận 9 Thành phố Hồ Chí Minh Thực hành quyền công tố trong giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố Đối với việc tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố của CQĐT, VKS ND Quận 9 xác định đây là khâu quan trọng hàng đầu, là cơ sở để ra các quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án, là tiền đề mở đầu cho các hoạt động tố tụng giải quyết, kết thúc một vụ án hình sự. Do đó VKS Quận 9 đã chủ động phối hợp chặt chẽ với CQĐT Quận 9 nhằm đảm bảo mọi thông tin về tin báo, tố giác về tội phạm đều được VKS nắm bắt, tham gia giải quyết kịp thời ngay từ khi xảy ra. Trong đó VKS Quận 9 luôn quan tâm đặc biệt đến hoạt động phân loại tin báo, tố giác về tội phạm, đây là cơ sở để ra quyết định việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự, đồng thời là biện pháp để nâng cao trách nhiệm của VKS trong việc phê chuẩn bắt, tạm giữ, tạm giam. Công tác THQCT được VKS ND Quận 9 nghiêm túc thực hiện từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố đối với các vụ án VKS nắm bắt được. Các tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố do VKS ND Quận 9 tiếp nhận tương đối ít. Trong 5 năm từ 2014 đến 2018 chỉ có 13 tin báo tố giác về hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được VKS ND Quận 9 trực tiếp tiếp nhận. Trong đó, tất cả các tin báo này đều được VKS chuyển sang cho CQĐT Công an Quận 9 giải quyết. Không có trường hợp nào VKS ND Quận 9 trực tiếp giải quyết tin báo, tố giác, kiến nghị khởi tố. VKS ND