SlideShare a Scribd company logo
1 of 97
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN THỊ HỒNG THÁI
TỘI KHÔNG THI HÀNH ÁN
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN THỊ HỒNG THÁI
TỘI KHÔNG THI HÀNH ÁN
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN NGỌC CHÍ
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn về đề tài “Tội không thi hành án
theo Luật hình sự Việt Nam” là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính
chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn
học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Tôi viết Lời cam đoan này, đề nghị Khoa Luật xem xét, tạo
điều kiện để tôi được bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Ngƣời cam đoan
Trần Thị Hồng Thái
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI KHÔNG THI
HÀNH ÁN .......................................................................................... 8
1.1. KHÁI NIỆM TỘI KHÔNG THI HÀNH ÁN ...................................... 8
1.1.1. Tội không thi hành án là một trong các tội xâm phạm hoạt động
tƣ pháp.................................................................................................. 8
1.1.2. Một số đặc điểm của Tội không thi hành án......................................12
1.2. SỰ CẦN THIẾT VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC QUY ĐỊNH TỘI
KHÔNG THI HÀNH ÁN THEO LUẬT HÌNH SỰ .......................18
1.2.1. Sự cần thiết của việc quy định Tội không thi hành án theo Luật
hình sự ................................................................................................18
1.2.2. Ý nghĩa của việc quy định Tội không thi hành án theo Luật
hình sự................................................................................................19
1.3. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN TỘI KHÔNG THI HÀNH ÁN THEO
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ NĂM 1985 ĐẾN NAY ..............20
Chương 2: QUY ĐỊNH BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ TỘI
KHÔNG THI HÀNH ÁN ................................................................24
2.1. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƢỢNG TÁC ĐỘNG CỦA TỘI
KHÔNG THI HÀNH ÁN ..................................................................24
2.1.1. Khách thể............................................................................................24
2.1.2. Đối tƣợng tác động của tội không thi hành án...................................26
2.2. MẶT KHÁCH QUAN .......................................................................28
2.2.1. Dấu hiệu hành vi nguy hiểm ..............................................................29
2.2.2. Dấu hiệu hậu quả................................................................................33
2.2.3. Dấu hiệu mối quan hệ nhân quả.........................................................36
2.2.4. Dấu hiệu đã bị xử lý kỷ luật về hành vi không ra quyết định thi
hành án hoặc hành vi không thực hiện quyết định thi hành án
mà còn vi phạm .................................................................................40
2.3. CHỦ THỂ...........................................................................................41
2.4. MẶT CHỦ QUAN.............................................................................46
2.4.1. Dấu hiệu lỗi ........................................................................................47
2.4.2. Dấu hiệu mục đích, động cơ phạm tội ...............................................48
2.5. HÌNH PHẠT VÀ CÁC BIỆN PHÁP TƢ PHÁP...............................49
2.5.1. Hình phạt............................................................................................49
2.5.2. Các biện pháp tƣ pháp........................................................................52
2.6. PHÂN BIỆT TỘI KHÔNG THI HÀNH ÁN VỚI MỘT SỐ TỘI
PHẠM KHÁC CÓ LIÊN QUAN.......................................................53
Chương 3: THỰC TIỄN VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ XỬ LÝ TỘI KHÔNG THI HÀNH ÁN ................................59
3.1. THỰC TRẠNG XỬ LÝ TỘI KHÔNG THI HÀNH ÁN ..................59
3.2. CƠ SỞ CỦA CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ XỬ
LÝ TỘI KHÔNG THI HÀNH ÁN ....................................................65
3.2.1. Dựa trên cơ sở qui định của Hiến pháp 2013.....................................65
3.2.2. Những hạn chế, thiếu sót của pháp luật hiện hành.............................67
3.2.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong việc đấu tranh,
phòng ngừa tội phạm..........................................................................69
3.3. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ............................................................73
3.4. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA XỬ LÝ TỘI
KHÔNG THI HÀNH ÁN ..................................................................78
3.4.1. Đẩy mạnh công tác hƣớng dẫn và áp dụng pháp luật ........................78
3.4.2. Kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao chất lƣợng của đội ngũ cán
bộ thuộc các cơ quan tƣ pháp.............................................................79
3.4.3. Tăng cƣờng sự phối hợp giữa các cơ quan có liên quan đến việc
giải quyết các vụ án............................................................................80
3.4.4. Tăng cƣờng công tác kiểm tra, giám sát đối với các hoạt động tƣ
pháp, các cơ quan tƣ pháp và cán bộ thuộc cơ quan tƣ pháp.............81
KẾT LUẬN....................................................................................................84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................86
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS: Bộ luật hình sự
ĐHQGHN: Đại học Quốc gia Hà Nội
TAND: Tòa án nhân dân
VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng Tên bảng Trang
Bảng 2.1. Thống kê khung hình phạt tù có thời hạn Điều 305
BLHS 1999 52
Bảng 3.1. Số liệu tình hình xét xử tội phạm trên toàn quốc từ
năm 2010-2014 59
Bảng 3.2. Số liệu các vụ án xâm phạm hoạt động tƣ pháp đã bị
khởi tố trong 05 năm 2010 -2014 61
Bảng 3.3. Số liệu các vụ án Tội không thi hành án trong đã bị
khởi tố, xét xử 05 năm 2010 -2014 62
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong hệ thống các cơ quan nhà nƣớc, các cơ quan tƣ pháp nói chung
và tòa án nói riêng giữ vị trí quan trọng đặc biệt, là công cụ đắc lực để bảo
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ công lý, giữ gìn trật tự, kỷ cƣơng xã
hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Hoạt động bình
thƣờng của các cơ quan tƣ pháp là điều kiện cần thiết để đảm bảo duy trì
công lý nói chung cũng nhƣ để đảm bảo sự hoạt động bình thƣờng của các
cơ quan nhà nƣớc khác nói riêng.
Trong bối cảnh đất nƣớc ta đang thực hiện cải cách tƣ pháp toàn diện
để “xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo
vệ công lý, từng bước hiện đại có hiệu quả và hiệu lực cao” [21] thì các hành
vi xâm phạm hoạt động tƣ pháp, xâm hại đến hoạt động đúng đắn của các Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án và Cơ quan thi hành án trong việc bảo vệ
lợi ích Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân diễn ra
ngày càng phức tạp, với tính chất ngày càng nghiêm trọng. Tội không thi
hành án (Điều 305) nằm trong chƣơng các tội phạm xâm phạm hoạt động tƣ
pháp của Phần các tội phạm Bộ luật hình sự năm 1999 (đƣợc sửa đổi, bổ sung
năm 2009). Trên thực tế, tội phạm này đã gây tổn hại không nhỏ đến việc
thực hiện chức năng của các cơ quan tƣ pháp, gây tác hại đáng kể đến uy tín
của các cơ quan này.
Với tầm quan trọng đặc biệt của hoạt động tƣ pháp, Đảng và Nhà nƣớc
ta đã đề ra nhiều biện pháp nhằm đảm bảo cho hoạt động tƣ pháp luôn ở trạng
thái bình thƣờng và đúng đắn. Đó là các biện pháp về tổ chức, về cán bộ, về
bảo đảm cơ sở vật chất, về pháp luật cho hoạt động của các cơ quan tƣ pháp.
Trong số các biện pháp pháp luật thì các biện pháp pháp luật hình sự có vai
2
trò rất quan trọng đối với việc bảo vệ một nền tƣ pháp khỏi sự xâm hại của
các hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm.
Hiện nay, tình hình tội phạm nói chung và Tội không thi hành án nói
riêng đang ngày càng diễn biến phức tạp. Đặc biệt là Tội không thi hành án
do ngƣời là cán bộ, công chức của các cơ quan tƣ pháp thực hiện hành vi vi
phạm pháp luật và các tội phạm khác xâm phạm hoạt động đúng đắn của các
cơ quan tƣ pháp diễn ra ngày một nhiều và gây ra bức xúc trong dƣ luận.
Hàng loạt các vụ bức cung, nhục hình, ra bản án trái pháp luật, không thi hành
án … đã đƣợc điều tra, truy tố, xét xử trong giai đoạn vừa qua, cho thấy tội
phạm này gây ra những hậu quả hết sức nghiêm trọng, làm ảnh hƣởng tới
hình ảnh của cơ quan bảo vệ và thực thi pháp luật một cách công minh.
Bởi hành vi của ngƣời có thẩm quyền cố ý không ra quyết định thi hành
án hoặc cố ý không thi hành quyết định thi hành án trong trƣờng hợp gây hậu
quả nghiêm trọng hoặc ngƣời thực hiện đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này.
Việc quy định Tội không thi hành án, qua đó quy định khung hình phạt
tƣơng ứng với mức độ nguy hiểm của hành vi. Trong thực tiễn áp dụng luật
hình sự, các cơ quan có thẩm quyền dựa vào điều luật để xác định tội phạm
không thi hành án, trên cơ sở nhận thức đúng đắn và đầy đủ về bản chất cũng
nhƣ những đặc điểm của tội này để áp dụng Luật hình sự một cách nghiêm
minh qua việc xác định đúng tội danh, đánh giá đúng tính chất và mức độ
nguy hiểm của hành vi.
Tòa án nhân danh nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xét xử
các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thƣơng mại, lao
động, hành chính và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật;
xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện các tài liệu, chứng cứ đã đƣợc thu thập
trong quá trình tố tụng; căn cứ vào kết quả tranh tụng ra bản án, quyết định
việc có tội hoặc không có tội, áp dụng hoặc không áp dụng hình phạt, biện
pháp tƣ pháp, quyết định về quyền và nghĩa vụ về tài sản, quyền nhân thân.
3
Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu Tội không thi hành án trên cơ sở thực
tiễn để làm sáng tỏ về mặt khoa học và đƣa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật
là cần thiết, chính vì vậy mà tác giả lựa chọn đề tài “Tội không thi hành án
theo Luật hình sự Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian qua, việc nghiên cứu các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp
đã thu hút đƣợc sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu đã đƣợc công bố nhƣ:
- Trần Minh Hƣởng, Đặng Thu Hiền: "Tìm hiểu các tội xâm phạm hoạt
động tư pháp", Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc, năm 2002
- Phạm Thanh Bình, Nguyễn Vạn Nguyên: "Các tội xâm phạm hoạt
động tư pháp", Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, năm 1997
- Nguyễn Ngọc Điệp, Hồ Thị Nệ: "Tìm hiểu các tội hoạt động tư pháp:
Trong Bộ luật hình sự 1999", Nhà xuất bản Công an nhân dân, năm 2001
- Nguyễn Tất Viễn, Luận án Phó tiến sĩ Khoa học Luật học: "Các tội
xâm phạm hoạt động tư pháp trong luật hình sự Việt Nam", năm 1996
- Nguyễn Huy Hoàn, Luận án tiến sĩ Luật học: "Đảm bảo quyền con
người trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam hiện nay", năm 2005
- Đề tài nghiên cứu khoa học: "Thực trạng các tội xâm phạm hoạt động
tư pháp và trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân các cấp trong cuộc đấu
tranh chống các tội phạm này", Chủ nhiệm đề tài Bùi Đức Long, Cơ quan chủ
trì: Trƣờng Cao đẳng kiểm sát, năm 1998… Ngoài ra, các tội xâm phạm hoạt
động tƣ pháp đƣợc đề cập ở các mức độ khác nhau trong các tạp chí, sách,
báo khác nhƣ là Giáo trình Luật hình sự của trƣờng Đại học Luật Hà Nội,
Giáo trình của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. Các tác giả chủ yếu đề
cập tới trách nhiệm hình sự, tìm hiểu và bình luận về các tội xâm phạm hoạt
động tƣ pháp trong luật hình sự Việt Nam, đảm bảo quyền con ngƣời trong
hoạt động tƣ pháp ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay hoặc nghiên cứu các
4
tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp với tƣ cách là đối tƣợng của hoạt động điều
tra của Viện kiểm sát nhân dân. Chƣa có công trình khoa học nào nghiên cứu
sâu về từng tội danh trong các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp mà ngƣời
phạm tội là cán bộ, ngƣời có thẩm quyền thuộc các cơ quan tƣ pháp.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, khảo sát trên đây cho thấy, ở nƣớc ta đã
có một số công trình nghiên cứu cơ bản về các tội xâm phạm hoạt động tƣ
pháp nhƣng cho đến nay, nhìn một cách tổng quan có thể khẳng định chƣa có
công trình nào nghiên cứu toàn diện và đầy đủ về lý luận và thực tiễn của tội
không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam.
3. Đối tượng, mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn này nghiên cứu những yếu tố cơ bản của Tội không thi hành
án, qua đó thấy đƣợc những tồn tại, hạn chế và rút ra phƣơng pháp đúng đắn
thiết yếu trong đấu tranh phòng chống tội phạm không thi hành án. Đồng thời,
cho ta thấy đƣợc tình hình gia tăng của loại tội phạm này và có biện pháp
đúng đắn để ngăn chặn và đi đến đẩy lùi tội phạm. Qua đó, thấy đƣợc việc
đấu tranh phòng chống tội phạm không chỉ là trách nhiệm của riêng ai mà là
trách nhiệm của toàn xã hội, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Đảng, Nhà
nƣớc và toàn dân nhằm tạo sức mạnh tổng hợp để đẩy lùi tội phạm này góp
phần ổn định trật tự xã hội.
3.2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu trên cơ sở lý luận về Tội không
thi hành án đƣợc quy định tại Điều 305 Bộ luật hình sự năm 1999 và các bản
án xét xử Tội không thi hành án, để phân tích, chỉ ra những tồn tại, hạn chế,
bất cập trong việc áp dụng, thực thi điều luật trên phạm vi toàn quốc, từ đó
luận văn đƣa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện Tội không thi hành án trong
luật hình sự Việt Nam, cũng nhƣ đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả
xử lý Tội không thi hành án trong thực tiễn áp dụng.
5
3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Nghiên cứu các quan điểm của các tác giả về Tội không thi hành án,
luận văn nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề chung về Tội không thi hành
án: Khái niệm, đặc điểm các dấu hiệu pháp lý, hình phạt và các biện pháp tƣ
pháp, phân biệt tội không thi hành án với tội phạm khác có liên quan.
- Nghiên cứu Tội không thi hành án trong luật hình sự một số nƣớc và
sự phát triển của các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp nói chung và Tội không
thi hành án nói riêng trong lịch sử pháp luật hình sự của nƣớc ta từ năm 1985
đến nay, để rút ra những nhận xét, đánh giá;
- Nghiên cứu các quy định cụ thể về Tội không thi hành án trong Luật
hình sự hiện hành của Việt Nam, từ đó rút ra những nhận xét, đánh giá;
- Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn xét xử Tội không thi hành án, theo quy
định của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự và các quy định của pháp luật liên
quan và số liệu thu thập đƣợc trên phạm vi toàn quốc, đồng thời phân tích làm
rõ những tồn tại, hạn chế xung quanh việc xử lý Tội không thi hành án và
những nguyên nhân cơ bản của nó;
- Đề xuất những định hƣớng và giải pháp hoàn thiện Tội không thi
hành án trong Luật hình sự Việt Nam hiện hành, cũng nhƣ những giải pháp
nâng cao hiệu quả xét xử của tội này trong thực tiễn.
3.4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh Tội
không thi hành án trong luật hình sự Việt Nam. Kết hợp với việc nghiên cứu
đánh giá các bản án, quyết định về Tội không thi hành án của Tòa án nhân
dân trên phạm vi toàn quốc và những nguyên nhân tồn tại, hạn chế để kiến
nghị những giải pháp hoàn thiện luật thực định và nâng cao hiệu quả áp dụng
Tội không thi hành án trong thực tiễn.
6
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn xét xử Tội không thi hành
án trên phạm vi toàn quốc trong vòng 5 năm (2010 - 2014).
4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
Đề tài đƣợc thực hiện trên cơ sở phƣơng pháp luận chủ nghĩa duy vật
lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác-Xít, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về
Nhà nƣớc và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về xây dựng Nhà
nƣớc pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tƣ pháp đƣợc thể
hiện trong các Nghị quyết.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các
phƣơng pháp cụ thể và đặc thù của khoa học Luật hình sự nhƣ: phƣơng pháp
phân tích, tổng hợp; phƣơng pháp so sánh, đối chiếu; phƣơng pháp diễn dịch;
phƣơng pháp quy nạp; phƣơng pháp thống kê, điều tra xã hội học để tổng
hợp, luận chứng các vấn đề tƣơng ứng đƣợc nghiên cứu trong luận văn.
5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phƣơng
diện lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên và có hệ
thống ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về Tội không thi hành án (Điều
305 BLHS) mà trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực
tiễn của Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam. Những điểm mới
cơ bản của luận văn là:
- Tổng hợp các quan điểm khoa học về Tội không thi hành án để xây
dựng nên khái niệm Tội không thi hành án, bảo đảm tính chính xác, khoa học,
đồng thời chỉ ra các đặc điểm pháp lý của Tội không thi hành án theo quy
định của BLHS năm 1999 trong mối tƣơng quan so sánh, phân biệt với tội
phạm khác có liên quan;
- Nghiên cứu, đánh giá làm sáng tỏ bức tranh về tình hình, điều tra, truy
tố, xét xử Tội không thi hành án của trên phạm vi toàn quốc, những tồn tại,
7
hạn chế trên thực tiễn áp dụng tội này cũng nhƣ những nguyên nhân cơ bản
của các tồn tại, hạn chế đó;
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đã đề
xuất hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả xử lý Tội không
thi hành án trong giai đoạn xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền và cải cách tƣ
pháp hiện nay ở Việt Nam.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về Tội không thi hành án.
Chương 2: Đặc điểm pháp lý Tội không thi hành án theo quy định của
Bộ luật hình sự năm 1999.
Chương 3. Thực tiễn và các giải pháp nâng cao hiệu quả xử lý Tội
không thi hành án.
8
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI KHÔNG THI HÀNH ÁN
1.1. KHÁI NIỆM TỘI KHÔNG THI HÀNH ÁN
1.1.1. Tội không thi hành án là một trong các tội xâm phạm hoạt
động tư pháp
“Tội phạm là một chế định cơ bản, quan trọng nhất trong luật hình sự,
là cơ sở cho việc xác định một hành vi có phải là tội phạm hay không. Đã có
nhiều định nghĩa khoa học về tội phạm ở những các cách tiếp cận và quan
điểm khác nhau” [26]. Tuy nhiên, định nghĩa về tội phạm trong Bộ luật hình
sự Việt Nam có tính chất bắt buộc phải tuân thủ. Khái niệm tội phạm đƣợc
hình thành trong quá trình phát triển, hoàn thiện luật hình sự Việt Nam, khái
niệm này đƣợc ra đời lần đầu tiên trong Bộ luật đầu tiên của nƣớc Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam – Bộ luật hình sự năm 1985 (đƣợc thông qua kỳ
họp thứ 9 Quốc hội khóa VII, ngày 27/06/1985). Khái niệm này đã phản ánh
một cách khá đầy đủ các quy định về tội phạm và xác định cụ thể hành vi nào
là tội phạm. Đến ngày 21/12/1999 tại kỳ họp thứ 6 khóa X Quốc hội đã thông
qua Bộ luật hình sự mới sửa đổi, bổ sung một số điều Bộ luật hình sự năm
1985. Bộ luật này đã sửa đổi khái niệm về “Tội phạm” để phù hợp với hoàn
cảnh thực tế, Bộ luật hình sự 1999 đƣợc thông qua, trên cơ sở kế thừa và phát
huy những nguyên tắc, chế định hình sự pháp luật của nƣớc ta.
Trên cơ sở quy định về tội phạm, BLHS 1999 qui định các nhóm tội
phạm ở phần “Các tội phạm” trong đó có các tội xâm phạm hoạt động tƣ
pháp. Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: “Các tội xâm phạm hoạt động tư
pháp là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều
tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án trong việc bảo vệ quyền lợi của nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” [31, Điều 292].
9
Theo qui định này, thì các tội xâm xâm phạm hoạt động tƣ pháp, trƣớc
hết là những hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm đến hoạt động đúng
đắn trong lĩnh vực tƣ pháp. Tuy nhiên, phạm vi, tính chất của tƣ pháp lại có
sự tiếp cận khác nhau, do đó quan niệm về tƣ pháp không giống nhau trong hệ
thống pháp luật các quốc gia trên thế giới. Ở nƣớc ta, khái niệm tƣ pháp đƣợc
hiểu theo nghĩa rộng, là một hệ thống các thiết chế, các tổ chức bảo vệ pháp
luật, duy trì, bảo đảm công lý, công bằng xã hội, trong đó hoạt động xét xử
của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền là Tòa án giữ vai trò, vị trí quan trọng,
là khâu trung tâm.Vì vậy, khi nói tới Tòa án là nói tới biểu tƣợng điển hình
của việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, là nơi biểu hiện rực rỡ nhất bản chất
của pháp luật. Hoạt động xét xử của Tòa án, thông qua những thủ tục tố tụng
nhất định, đối với những vụ việc vi phạm pháp luật, tranh chấp của các chủ
thể trong đời sống xã hội, nhằm bảo vệ pháp luật, duy trì, bảo đảm công lý,
công bằng xã hội. Vì vậy, toàn bộ các hoạt động điều tra, truy tố và các hoạt
động bổ trợ tƣ pháp (Giám định, Luật sƣ, Công chứng, Hộ tịch, Tƣ vấn pháp
luật...) đều nhằm phục vụ cho quá trình làm sáng tỏ chân lý, tìm ra sự thật của
các vụ việc đã diễn ra trên thực tế, để trên cơ sở đó, Tòa án đƣa ra phán quyết
theo qui định của pháp luật. Kết thúc giai đoạn xét xử, Tòa án quyết định
những vấn đề thuộc về nội dung vụ án, xác định trách nhiệm pháp lý và chế
tài thích hợp cho từng đối tƣợng cụ thể, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp
của Nhà nƣớc, cơ quan, tổ chức và của công dân. Các bản án và quyết định xét
xử của Tòa án không những nhân danh Nhà nƣớc mà còn thể hiện quyền lực tối
cao của pháp quyền có hiệu lực thi hành, chính vì vậy, Điều 106 của Hiến pháp
2013 đã nêu rõ: "Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp
luật phải được cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ
chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành" [37, Điều 106]. Tuy
nhiên, các bản án và quyết định của Tòa án muốn trở thành hiện thực trong
cuộc sống thì phải thông qua hoạt động thi hành án.
10
Hoạt động tƣ pháp là hoạt động của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, Toà án và Cơ quan thi hành án trong việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
và thi hành án đối với các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, lao động và giải
quyết các quan hệ pháp luật khác đƣợc phát sinh theo quy định của pháp luật,
nhằm bảo vệ các quyền của Nhà nƣớc, của các tổ chức, của công dân. Hoạt
động tƣ pháp là hoạt động quyền lực Nhà nƣớc do các cơ quan tƣ pháp thực
hiện. Các hoạt động này do ngƣời đại diện của các cơ quan tƣ pháp nhân danh
Nhà nƣớc trực tiếp thực hiện từ theo chức danh đƣợc bổ nhiệm.
Nhƣ vậy, theo qui định của BLHS 1999, hoạt động tƣ pháp là hoạt
động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, do đó xâm phạm đến sự đúng đắn
của các hoạt động này đƣợc coi là hành vi nguy hiểm cho xã hội đến mức
phải xử lý bằng chế tài hình sự.
Thứ hai, Chủ thể của các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp chủ yếu là
cán bộ thuộc các cơ quan tƣ pháp. Hiện nay, chƣa có văn bản quy phạm pháp
luật nào hƣớng dẫn cụ thể thế nào là cơ quan tƣ pháp. Tuy nhiên, từ định
nghĩa về hoạt động tƣ pháp tại Điều 292 BLHS 1999 có thể hiểu cơ quan tƣ
pháp là các cơ quan Nhà nƣớc trực tiếp thực hiện quyền tƣ pháp trong quyền
lực nhà nƣớc bao gồm Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Cơ quan
điều tra, Cơ quan thi hành án. Trong cơ quan tƣ pháp có nhiều cán bộ, công
chức thực hiện các chức năng, nhiệm vụ nhất định nhƣ các cán bộ thực hiện
các hoạt động tƣ pháp, các cán bộ thực hiện chức năng quản lý, các công chức
giúp việc khác.Cán bộ thuộc các cơ quan tƣ pháp đƣợc bổ nhiệm theo điều
kiện và cách thức điều luật quy định.
Ngoài ra, chủ thể các tội phạm hoạt động tƣ pháp còn là những ngƣời
khác, trong một số trƣờng hợp nhất định mà hành vi phạm tội của họ liên quan
đến hoạt động tƣ pháp, nhƣ: Tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị
dẫn giải, đang bị xét xử (Điều 311), Tội che giấu tội phạm (Điều 313)…
11
Thứ ba, Các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp đƣợc thực hiện chủ yếu
bằng hình thức lỗi cố ý và bảo gồm cả hình thức hành động phạm tội cũng
nhƣ không hành động phạm tội.
Các hành vi nguy hiểm cho xã hội trong các tội xâm phạm
hoạt động tƣ pháp có thể biểu hiện dƣới dạng hành động nhƣ bức
cung, dùng nhục hình, ra bản án trái pháp luật, trốn khỏi nơi
giam…; hoặc dƣới dạng không hành động nhƣ: không truy cứu
trách nhiệm hình sự ngƣời có tội, thiếu trách nhiệm để ngƣời bị
giam, giữ trốn [27, tr.718]
Tội không thi hành án là một trong các tội xâm phạm hoạt động tƣ
pháp, cũng xâm hại đến khách thể loại của nhóm tội phạm này là sự đúng đắn
trong hoạt động tƣ pháp, bao gồm hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi
hành án. Tội không thi hành bản án có mối liên hệ lôgic với các tội phạm
khác trong chƣơng các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp, tạo thành một tổng
thể hoàn chỉnh trừng trị những hành vi xâm phạm đến tính đúng đắn trong quá
tình giải quyết vụ án.
Từ sự phân tích ở trên, có thể đƣa ra khái niệm thi hành án nhƣ sau: thi
hành án là hoạt động tư pháp do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền tiến
hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật qui định để đưa bản án, quyết định
của Tòa án hoặc các quyết định khác theo qui định của pháp luật, được thực
hiện trên thực tế, nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp
pháp của các công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở khái niệm thi hành án thì Thi hành án dân sự là giai đoạn kết
thúc của tố tụng dân sự mà trong đó cơ quan thi hành án đƣa các bản án,
quyết định đã có hiệu lực thi hành ra thi hành nhằm bảo vệ quyền lợi của cá
nhân, cơ quan, tổ chức. Bản chất của hoạt động thi hành án là thi hành các
12
quyết định của Tòa án tuyên trong bản án, quyết định, không giải quyết lại nội
dung vụ án; là giai đoạn bảo vệ quyền lợi cho các đƣơng sự về mặt thực tế.
Đối với hoạt động thi hành án hình sự về thực chất là việc tổ chức thi
hành các hình phạt, biện pháp tƣ pháp quy định trong các bản án, quyết định
có hiệu lực pháp luật trên thực tế. Đó chính là việc thực thi công lý trên cơ sở
chân lý đã đƣợc hoạt động tố tụng hình sự chứng minh.
Vì vậy theo quy định của pháp luật:
Ngƣời đƣợc thi hành án là cá nhân, cơ quan, tổ chức đƣợc hƣởng
quyền, lợi ích trong bản án, quyết định đƣợc thi hành.
Ngƣời phải thi hành án là cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thực hiện
nghĩa vụ trong bản án, quyết định đƣợc thi hành.
Nhƣ vậy, có thể đƣa ra khái niệm Tội không thi hành án: Tội không thi
hành án là hành vi của ngƣời có thẩm quyền cố ý không ra quyết định thi hành
án hoặc cố ý không thi hành quyết định thi hành án (trong trƣờng hợp gây hậu
quả nghiêm trọng hoặc ngƣời thực hiện đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này).
1.1.2. Một số đặc điểm của Tội không thi hành án
Trong khoa học pháp lý, những ngƣời theo chủ nghĩa duy vật biện
chứng đều cho rằng tội phạm là một thể thống nhất giữa các yếu tố khách
quan và chủ quan, nêu thiếu một trong các mặt khách quan hoặc chủ quan thì
đều không phải là tội phạm. Mặt khác, chủ nghĩa duy vật biện chứng cũng chỉ
ra rằng tội phạm là phạm trù lịch sử gắn liền với giai cấp, nhà nƣớc và pháp
luật, phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế, xã hội, pháp lý của một đất nƣớc
trong những thời kỳ khác nhau. Trên cơ sở phƣơng pháp luận này, BLHS
1999 đƣa ra định nghĩa về tội phạm nhƣ sau:
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội đƣợc quy định
trong Bộ luật hình sự, do ngƣời có năng lực trách nhiệm hình sự
thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị,
13
chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh trật tự, an toàn xã
hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp
pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa [31, Điều 8].
Trên cơ sở định nghĩa này thì Tội không thi hành án có những đặc
điểm sau:
- Thứ nhất, Tội không thi hành án là tội phạm mới đƣợc qui định trong
BLHS 1999, trƣớc đó, Bộ luật hình sự năm 1985 chƣa quy tội phạm này. Tuy
nhiên, do yêu cầu thực tiễn đặt ra có những bản án hoặc quyết định của Toà
án đã có hiệu lực pháp luật nhƣng vì những động cơ khác nhau nên ngƣời có
thẩm quyền không ra quyết định thi hành án hoặc đã có quyết định thi hành án
rồi nhƣng không tổ chức thi hành, gây thiệt hại cho cơ quan, tổ chức và công
dân. Nếu xét về tội danh thì đây là tội mới, nhƣng trƣớc khi có Bộ luật hình
sự năm 1999 hành vi cố ý không ra quyết định thi hành án hoặc không thi
hành quyết định thi hành bản án, quyết định của Toà án gây ra hậu quả
nghiêm trọng thì tùy trƣờng hợp mà ngƣời có hành vi cố ý không ra quyết
định thi hành án hoặc không thi hành quyết định thi hành bản án, quyết định
của Toà án có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lợi dụng chức vụ,
quyền hạn trong khi thi hành công vụ. Do hành vi cố ý không ra quyết định
thi hành án hoặc không thi hành quyết định thi hành bản án, quyết định của
Toà án xâm phạm đến hoạt động tƣ pháp, nên nhà làm luật tách hành vi lợi
dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành án của tội lợi dụng chức vụ,
quyền hạn trong khi thi hành công vụ thành tội phạm độc lập đó là Tội không
thi hành án. Điều 305, qui định Tội không thi hành án, thuộc Chƣơng XXII
các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp BLHS 1999 nhƣ sau:
14
1. Ngƣời nào có thẩm quyền mà cố ý không ra quyết định thi
hành án hoặc không thi hành quyết định thi hành bản án, quyết định
của Toà án gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử lý kỷ luật về
hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến
ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt
nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm [31, Điều 305].
Qui định tội phạm ở Điều 305, không những đã hình sự hóa hành vi nguy
hiểm cho xã hội trong lĩnh vực thi hành án, trừng trị răn đe ngƣời phạm tội mà
còn góp phần vào công cuộc đấu tranh chống, phòng ngừa tội phạm, khôi phục
lại những thiệt hại do các hành vi vi phạm và hành vi phạm tội gây ra.
- Thứ hai, Không thi hành án là hành vi nguy hiểm cho xã hội cần phải
đƣợc hình sự hóa. Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi là dấu hiệu cơ bản
nói lên bản chất chính trị, xã hội của tội phạm, dấu hiệu này đƣợc coi là dấu
hiệu nội dung quyết định những dấu hiệu khác của tội phạm. Một hành vi sở
dĩ bị quy định trong luật hình sự là tội phạm và phải chịu TNHS vì nó có tính
nguy hiểm cho xã hội do đã gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho
các quan hệ xã hội đƣợc luật hình sự bảo vệ. Tầm quan trọng của quan hệ xã
hội do tính chất của quan hệ đó trong các thang giá trị xã hội do giai cấp
thống trị thiết lập. Do đó, tính chất của quan hệ xã hội có thể bị thay đổi ở
những xã hội khác nhau hoặc ngay trong một chế độ xã hội nhƣng ở những
thời kỳ khác nhau thì tính chất của quan hệ xã hội cũng có thể thay đổi. Điều
đó đòi hỏi nhà làm luật khi xem xét tính chất quan trọng của quan hệ xã hội
để đánh giá tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phải dựa trên hoàn cảnh
lịch sử cụ thể, xuất phát từ lợi ích giai cấp, trên lập trƣờng giai cấp. Tuy
nhiên, tính chất quan trọng của quan hệ xã hội bị xâm hại không thể là yếu tố
duy nhất phản ánh mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà chỉ
15
khi đƣợc kết hợp với những yếu tố khác nó mới phản ánh hành vi là nguy
hiểm đã đến mức coi là tội phạm và cần phải xử lý bằng chế tài hình sự hay
không. Tính nguy hiểm cho xã hội đƣợc phản ánh ở hai đại lƣợng: tính chất
và mức độ nguy hiểm của hành vi. Tính chất của hành vi là đặc tính về "chất"
của thiệt hại, đƣợc xác định căn cứ vào tính chất của quan hệ xã hội bị thiệt
hại, quan hệ xã hội càng quan trọng thì tính chất của thiệt hại càng nghiêm
trọng. Mức độ của thiệt hại là đặc tính về "lƣợng" của thiệt hại, tùy theo từng
loại thiệt hại mà mức độ đó đƣợc biểu hiện khác nhau. Vì vậy, tính chất và
mức độ của thiệt hại là một căn cứ để đánh giá tính nguy hiểm cho xã hội của
hành vi, khi kết hợp với các căn cứ khác nó phản ánh một hành vi là nguy
hiểm "đáng kể" hay "không đáng kể" cho xã hội, tạo cơ sở để nhà làm luật tội
phạm hóa và phi tội phạm hóa.
Tội không thi hành đƣợc qui định tại Điều 305 BLHS 1999 với hai loại
hành vi: a. Hành vi không ra quyết định thi án của ngƣời có thẩm quyền; b,
Hành vi không thi hành quyết định thi hành án, quyết định của tòa án, của
ngƣời có trách nhiệm trong việc thi hành án. Những hành vi này tính nguy
hiểm cho xã hội của nó đƣợc thể hiện ở chỗ: Một là, Hành vi không thi hành
án đã xâm hại đến sự đúng đắn trong hoạt động thi hành án, một trong những
bộ phận của hoạt động tƣ pháp trong quá trình giải quyết vụ án. Tƣ pháp đƣợc
là một trong ba nhánh quyền lực của một nhà nƣớc, việc duy trì, củng cố, phát
triển quyền lập pháp, hành pháp, tƣ pháp là nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của
bất kỳ chính thể nào. Trong nhà nƣớc pháp quyền, tƣ pháp không những là
biểu tƣợng mà còn là thiết chế để bảo vệ công lý, tƣ pháp bảo đảm cho công
lý đƣợc thực thi. Vì vậy, tƣ pháp đòi hỏi phải có sự công tâm, vô tƣ, khách
quan nhất là sự chuẩn mực không thiên vị, mọi phán quyết cũng nhƣ thi hành
các phán quyết đó cần phải thực thi một cách đầy đủ, không phụ thuộc vào
bất kỳ một áp lực xã hội nào. Để bảo vệ những yêu cầu này của hoạt động tƣ
16
pháp, trong số các công cụ nhà nƣớc sử dụng thì pháp luật hình sự với chế tài
nghiêm khắc đƣợc coi là ngƣời gác cửa cuối cùng và quan trọng nhất. Trong
điều kiện cải cách tƣ pháp đƣợc tiến hành thì yêu cầu bảo đảm thực hiện
nghiêm chỉnh, đầy đủ phán quyết của tòa án lại cần phải đƣợc tăng cƣờng;
Hai là, hành vi không thi hành án không những chỉ xâm hại đến khách thể
loại của các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp mà còn xâm hại đến sự đúng đắn
trong hoạt động thi hành án với tƣ cách là khách thể trực tiếp của tội phạm,
cũng nhƣ xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, cơ quan, tổ
chức đƣợc thi hành án. Thi hành án là hoạt động tƣ pháp do cơ quan, tổ chức,
ngƣời có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật qui định để
đƣa bản án, quyết định của Tòa án hoặc các quyết định khác theo qui định của
pháp luật, đƣợc thực hiện trên thực tế, nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nƣớc,
quyền, lợi ích hợp pháp của các công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã
hội chủ nghĩa. Nhƣ vậy, thi hành án đƣợc hiểu là việc thực hiện bản án, quyết
định của Tòa án trên thực tế, đó là văn bản pháp lý của Tòa án nhân danh Nhà
nƣớc tuyên tại phiên tòa, giải quyết về các vấn đề trong vụ án hình sự, dân sự,
hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính. Việc thực hiện bản án,
quyết định của Tòa án có hiệu quả, một mặt bảo đảm thực hiện quyền tƣ pháp
của Nhà nƣớc, thể hiện sự tôn trọng của xã hội và công dân đối với phán
quyết của cơ quan nhân danh Nhà nƣớc là Tòa án, mặt khác nó là biện pháp
hữu hiệu để khôi phục các quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nƣớc, tổ chức và
công dân bị xâm hại. Vì vậy không thi hành án đã xâm hại đến những quan hệ
nói trên đƣợc pháp luật hình sự bảo vệ.
Từ những phân tích trên, có thể khẳng định không thi hành án là hành
vi nguy hiểm cho xã hội đến mức độ “đáng kể” và bị coi là tội phạm và cần
thiết phải bị trừng trị bằng chế tài hình sự.
- Tội không thi hành án đƣợc thực hiện bởi hành vi nguy hiểm cho hội
17
với các biểu hiện nhƣ: Không ra quyết định thi hành bản án, hoặc quyết định
có hiệu lực pháp luật của tòa án theo thẩm quyền, đồng thời hành vi này phải
gây ra hậu quả hoặc đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này. Trong khoa học pháp
lý, trƣờng hợp này đƣợc gọi là cấu thành vật chất, tức là chỉ cấu thành tội
phạm khi thỏa mãn cả hai dấu hiệu trong mặt khách quan của tội phạm là
hành vi và hậu quả của tội phạm. Tội không thi hành bản án, còn qui định
trƣờng hợp nếu không gây ra hậu quả thì đã bị xử lý kỷ luật về hành vi vi
phạm nhƣng vẫn vi phạm.
- Tội không thi hành án đƣợc thực hiện bởi lỗi cố ý, ngƣời phạm tội
biết đƣợc hành vi nguy hiểm và hậu quả của hành vi không thi án của mình
nhƣng vẫn thực hiện. Theo qui định của Điều 305 BLHS 1999, Tội không thi
hành án không có lỗi vô ý, do đó nếu thiếu trách nhiệm mà không ra quyết
định thi hành bản án hoặc quyết định của tòa án gây hậu quả sẽ cấu thành tội
phạm này, mà có thể cấu thành tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm
trọng tùy theo tính chất, mức độ vi phạm.
- Chủ thể của Tội không thi hành án là những ngƣời có chức vụ, quyền
hạn, trách nhiệm trong thi hành án.
Chủ thể tội không thi hành án là ngƣời có thẩm quyền đối với
việc thi hành án nhƣ: Chánh án Tòa án nhân dân đã xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự hay Chánh án Tòa án nhân dân dân đƣợc ủy thác thi hành
án hình sự; Thủ trƣởng cơ quan thi hành án dân sự; Chấp hành viên cơ
quan thi hành án dân sự; cán bộ, chiến sỹ công an; lãnh đạo Ủy ban
nhân dân xã, phƣờng, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi ngƣời bị kết
án hay các đƣơng sự cƣ trú, sinh sống hoặc làm việc [27, tr.747].
- Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm Tội
không thi hành án, Điều 305 qui định hình phạt cao nhất áp dụng cho tội
phạm này là 7 năm tù trong trƣờng hợp phạm tội gây hậu quả rất nghiêm
18
trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Ngoài ra, ngƣời phạm Tội không thi hành
án còn bị áp dụng hình phạt bổ sung hoặc các biện pháp tƣ pháp khác theo
qui định của pháp luật.
1.2. SỰ CẦN THIẾT VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC QUY ĐỊNH TỘI
KHÔNG THI HÀNH ÁN THEO LUẬT HÌNH SỰ
1.2.1. Sự cần thiết của việc quy định Tội không thi hành án theo
Luật hình sự
Tội không thi hành án là một trong các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp
đƣợc quy định trong chƣơng XXII Bộ luật hình sự, là những hành vi xâm
phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử và thi
hành án trong việc bảo vệ quyền lợi của Nhà nƣớc, quyền lợi ích hợp pháp
của tổ chức, công dân (Điều 292 Bộ luật hình sự).
Trong hệ thống các cơ quan nhà nƣớc, các Cơ quan tƣ pháp nói
chung và Tòa án nói riêng giữ vị trí quan trọng đặc biệt, là công cụ đắc lực
để bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ công lý, giữ gìn trật tự, kỷ cƣơng
xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Hoạt động bình
thƣờng của các cơ quan tƣ pháp là điều kiện cần thiết để đảm bảo duy trì
công lý nói chung cũng nhƣ để đảm bảo sự hoạt động bình thƣờng của các
cơ quan nhà nƣớc khác.
Với tính chất quan trọng nhƣ vậy, hoạt động bình thƣờng của các cơ
quan tƣ pháp cần thiết phải đƣợc bảo vệ bằng luật hình sự trong những trƣờng
hợp nhất định.
Tội không thi hành án đƣợc quy định tại Chƣơng XXII Bộ luật hình sự
năm 1999, do yêu cầu của việc lành mạnh hóa hoạt động tƣ pháp, bảo đảm
quyền lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và mọi cơ quan tổ chức và mọi
công dân, đề phòng những hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn của những
ngƣời tiến hành tố tụng trong các cơ quan tƣ pháp; công chức thi hành án
19
trong cơ quan thi hành án; cảnh sát bảo vệ, cảnh sát dẫn giải, các trại giam,
trại tạm giam và nhà tạm giữ để vi phạm pháp luật.
Quy định Tội không thi hành án là vấn đề hết sức quan trọng là một
trong các giai đoạn cơ bản để áp dụng pháp luật hình sự, tất cả những việc
làm trƣớc đó (từ khởi tố, điều tra, truy tố) suy cho cùng là nhằm phục vụ cho
việc định tội đƣợc chính xác. Từ đó, ngƣời áp dụng có thể áp dụng một hình
phạt đúng đắn cho tội phạm đó.Việc nghiên cứu vấn đề định tội có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn vô cùng quan trọng. Trƣớc hết, nghiên cứu vấn đề quan
trọng này là một đóng góp quan trọng cho việc hoàn thiện về lý luận pháp luật
hình sự; làm sáng tỏ cơ sở khoa học của định tội sẽ trang bị cho cán bộ làm
công tác pháp luật những kiến thức cần thiết, giúp họ nắm đƣợc cơ sở lý luận
quan trọng trong hoạt động điều tra, truy tố và xét xử.
Quy định Tội không thi hành án còn là cơ sở pháp lý để phân biệt hành
vi của tội phạm này với tội phạm khác đảm bảo thực hiện nguyên tắc pháp
chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực hình sự nhằm xử lý đúng ngƣời, đúng tội,
không kết tội oan, không bỏ lọt tội phạm. Nhƣ vậy, quy định Tội không thi
hành án có ý nghĩa thống nhất về mặt nhận thức trong nghiên cứu lý luận
cũng nhƣ trong thực tiễn xét xử.
Vì vậy, việc quy định Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt
Nam là rất cần thiết.
1.2.2. Ý nghĩa của việc quy định Tội không thi hành án theo Luật
hình sự
Theo quy định của pháp luật hình sự, mỗi loại tội phạm cụ thể đều có
những quy định riêng biệt về các yếu tố cấu thành nhƣ chủ thể của tội phạm,
khách thể của tội phạm, mặt chủ quan và mặt khách quan của tội phạm.
Tội không thi hành án đƣợc quy định trong nhóm các tội xâm phạm
hoạt động tƣ pháp, trong đó đặc trƣng của chúng là khách thể bị xâm phạm,
20
bao gồm các quan hệ xã hội đƣợc hình thành trong quá trình hoạt động nghiệp
vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng và một số cơ quan tƣ pháp nhƣ Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và Cơ quan thi hành án.
Việc quy định tội không thi hành án trong Bộ luật hình sự có những ý
nghĩa nhƣ sau:
- Bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc, của các tổ chức xã hội, bảo vệ sinh
mệnh chính trị, quyền tự do thân thể và các quyền lợi hợp pháp khác của công
dân, đề cao tính nghiêm minh và hiệu lực của pháp luật xã hội chủ nghĩa.
- Bảo đảm cho sự hoạt động đúng đắn của cơ quan tƣ pháp, tạo điều
kiện cho công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm đƣợc thực hiện một
cách có hiệu quả.
- Đề cao ý thức chấp hành pháp luật, tinh thần trách nhiệm của những
cán bộ thuộc cơ quan tƣ pháp.
- Giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật, đề cao tinh thần tự giác của công
dân trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.
- Hỗ trợ cho các biện pháp khác trong công cuộc xây dựng xã hội tiên
tiến văn minh, thiết lập kỷ cƣơng xã hội.
Việc quy định Tội không thi hành án theo Luật hình sự để phòng ngừa
tội phạm này xảy ra, mang lại nhiều ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực
tiễn, góp phần phát triển và hoàn thiện hệ thống Bộ luật hình sự, góp phần
làm rõ thực trạng cơ cấu, diễn biến của tình trạng phạm tội và dự đoán xu
hƣớng của nó trong tƣơng lai. Từ đó đề ra biện pháp phòng ngừa trong thực tế
đấu tranh phòng chống tội phạm.
1.3. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN TỘI KHÔNG THI HÀNH ÁN THEO
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ NĂM 1985 ĐẾN NAY
* Tội không thi hành trước năm 1999
Trƣớc khi có BLHS năm 1985, pháp luật hình sự Việt Nam chƣa pháp
điển hóa Tội không thi hành án.
21
- Hành vi không thi hành án theo Bộ luật hình sự năm 1985
Năm 1985, Bộ luật hình sự ra đời, nhóm tội xâm phạm hoạt động tƣ
pháp mới đƣợc quy định tập trung và đầy đủ thành một chƣơng riêng, mô tả
cụ thể, rõ ràng. Dấu hiệu pháp lý đặc trƣng của từng tội phạm mới đƣợc xác
lập làm cơ sở cho giải quyết các tội phạm này.
Trong Bộ luật hình sự năm 1985, các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp
quy định tại Chƣơng X, Phần các tội phạm với 19 điều luật trong đó có một
điều quy định cụ thể về khái niệm tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp, một điều
quy định về hình phạt bổ sung và 17 điều quy định về các tội phạm cụ thể.
Điều 230 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định: Các tội xâm phạm hoạt
động tƣ pháp là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ
quan điều tra, viện kiểm sát, xét xử và thi hành án trong việc bảo vệ quyền
lợi của nhà nƣớc của các tổ chức xã hội và công dân. Tuy nhiên, khi mới ban
hành, hành vi cố ý không ra quyết định thi hành án hoặc không thi hành
quyết định thi hành bản án, quyết định của Toà án gây ra hậu quả nghiêm
trọng chƣa đƣợc qui định thành một tội riêng trong chƣơng các tội xâm
phạm hoạt động tƣ pháp mà đƣợc xử lý ở những tội phạm khác. Theo qui
định của BLHS 1985, thì tùy trƣờng hợp mà ngƣời có hành vi cố ý không ra
quyết định thi hành án hoặc không thi hành quyết định thi hành bản án,
quyết định của Toà án có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội lợi dụng
chức vụ, quyền hạn hoặc lạm quyền trong khi thi hành công vụ (Điều 221
BLHS 1985). Việc xử lý hành vi không thi hành án theo Điều 221 đã bộc lộ
những hạn chế nhất định: a. Hành vi không thi hành án là hành vi của ngƣời
có chức vụ quyền hạn trong việc ra quyết định hoặc là ngƣời thực hiện thi
hành án xâm hại chủ yếu tới hoạt động tƣ pháp, nói cách khác là xâm hại tới
sự đúng đắn trong thi hành án, một lĩnh vực của hoạt động tƣ pháp nhƣng lại
đƣợc ghép vào chƣơng các tội phạm về chức vụ. Vì vậy, đã không xác định
22
chính xác khách thể bị xâm hại của hành phạm tội dẫn đến việc đấu tranh
với loại tôi phạm này kém hiệu quả; b. Do xác định không đúng tính chất
của khách thể bị xâm hại đến việc đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của
hành vi phạm tội không tƣơng xứng với tính chất của hành vi nên đã qui
định hình phạt nhẹ áp dụng cho hành vi này nên răn đe, phòng ngừa hạn chế;
c. Chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu đấu tranh, phòng ngừa tội phạm trong điều
kiện phát triển, xây dựng đất nƣớc và hội nhập quốc tế.
- Tội không thi hành án theo Bộ luật hình sự năm 1999
Bộ luật hình sự năm 1999 đƣợc Quốc hội nƣớc Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khoá X, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 21/12/1999, có hiệu lực
từ 01/07/2000. Ngày 19/06/2009, tại kỳ họp thứ 5 khoá 12 của Quốc hội đã
thông qua Luật số 37/2009/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều Bộ luật hình
sự năm 1999, có hiệu lực vào ngày 01/01/2010. Tội không thi hành án đƣợc
quy định trong chƣơng XXII các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp từ Điều 292
đến điều 314. Trong đó Điều 292 quy định về “Khái niệm tội xâm phạm hoạt
động tƣ pháp” và các điều còn lại quy định các tội phạm.
So với Bộ luật hình sự năm 1985 thì Bộ luật hình sự năm 1999 đã đƣợc
sửa đổi bổ sung thêm bốn tội, trong đó có tội không thi hành án. Cụ thể, Tội
không truy cứu trách nhiệm hình sự ngƣời có tội (Điều 294), Tội ra quyết
định trái pháp luật (Điều 296), Tội không thi hành án (Điều 305), Tội đánh
tháo ngƣời bị giam giữ, ngƣời đang bị dẫn giải, ngƣời đang bị xét xử (Điều
312). Tội không thi hành án là tội phạm mới, Bộ luật hình sự năm 1985 chƣa
quy tội phạm này, do yêu cầu thực tiễn đặt ra có những bản án hoặc quyết
định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật nhƣng vì những động cơ khác nhau
nên ngƣời có thẩm quyền không ra quyết định thi hành án hoặc đã có quyết
định thi hành án rồi nhƣng không tổ chức thi hành, gây thiệt hại cho cơ quan, tổ
chức và công dân. Nếu xét về tội danh thì đây là tội mới. Việc qui định Tội
23
không thi hành án tại Điều 305 BLHS 1999 đã đáp ứng đƣợc nhiệm vụ xây dựng
nền tƣ pháp trong sạch, vững mạnh theo các Nghị quyết của Đảng về xây dựng
các cơ quan tƣ pháp. “Trong bộ máy Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, các
cơ quan tư pháp (bao gồm Tòa án, cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, các cơ quan
và tổ chức bổ trợ tư pháp) giữ vị trí rất quan trọng, có nhiệm vụ thực thi quyền
lực tư pháp bên cạnh quyền lập pháp và quyền hành pháp” [26, tr.716]. Đồng
thời, với việc qui định Tội không thi hành án đã góp phần bảo đảm cho sự
đúng đắn của hoạt động tƣ pháp trong lĩnh vực thi hành án, thông qua việc
trừng trị ngƣời có hành vi phạm tội cũng nhƣ nâng cao hiệu quả răn đe, giáo
dục phòng ngừa tội phạm. Mặt khác, việc qui định thành một tội phạm riêng
trong chƣơng các tội phạm xâm phạm hoạt động tƣ pháp, hành vi phạm tội
không thi hành án đã thể hiện rõ tính chất của tội phạm, cung nhƣ mức độ
nguy hiểm của nó đối với xã hội, khắc phục đƣợc những hạn chế khi nó chỉ là
một trong những hành vi phạm tội của Tội lợi dụng chức vụ quyền hạn hoặc
lạm quyền trong thi hành công vụ Điều 221 BLHS 1985. Vì vậy, do xác định
chính xác hành vi cố ý không ra quyết định thi hành án hoặc không thi hành
quyết định thi hành bản án, quyết định của Toà án xâm phạm đến hoạt động
tƣ pháp, nên nhà làm luật tách hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi
thi hành án của tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ
thành tội phạm độc lập đó là Tội không thi hành án.
24
Chương 2
QUY ĐỊNH BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ
TỘI KHÔNG THI HÀNH ÁN
Tội không thi hành án đƣợc qui định tại Điều 305 BLHS 1999, theo đó
tội phạm này có các đặc điểm pháp lý sau:
2.1. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƢỢNG TÁC ĐỘNG CỦA TỘI KHÔNG
THI HÀNH ÁN
2.1.1. Khách thể
Theo Giáo trình luật hình sự phần chung của Khoa Luật ĐHQGHN thì
khách thể của tội phạm đƣợc định nghĩa nhƣ sau:
Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội đƣợc luật
hình sự bảo vệ bị tội phạm xâm hại bằng cách gây thiệt hại hoặc đe
dọa gây thiệt hại. Tội phạm nào cũng xâm hại đến khách thể bảo vệ
của luật hình sự, những quy phạm pháp luật thuộc Phần các tội
phạm BLHS thƣờng không trực tiếp nêu ra khách thể của tội phạm,
song có thể xác định khách thể bằng cách giải thích luật, phân tích
nội dung quy phạm cụ thể quy định tội phạm ta có thể biết đƣợc
khách thể của tội phạm đó [27, tr.128].
Trong xã hội có giai cấp, giai cấp thống trị bao giờ cũng thông qua Nhà
nƣớc, bằng pháp luật xác lập và củng cố hệ thống các quan hệ xã hội phù hợp
với lợi ích và nền thống trị của giai cấp đó, đồng thời sử dụng pháp luật với
những loại biện pháp tác động khác nhau nhằm bảo vệ các quan hệ này tồn tại
và phát triển, tránh khỏi sự xâm hại của những hành vi phạm tội.
Nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa ban hành luật hình sự nhằm bảo vệ những
quan hệ xã hội có ý nghĩa quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của chế
độ xã hội chủ nghĩa, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân và trật
25
tự xã hội. Những quan hệ xã hội đƣợc Nhà nƣớc xác định bảo vệ bằng các
quy phạm pháp luật hình sự là khách thể bảo vệ của luật hình sự.
Trong khoa học luật hình sự đã khẳng định một hành vi bị Nhà nƣớc
coi là tội phạm do chúng gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đáng kể cho
các quan hệ xã hội đƣợc luật hình sự bảo vệ. Nói cách khác, tính nguy hiểm
của hành vi do xâm phạm đến các quan hệ xã hội đƣợc luật hình sự bảo vệ là
dấu hiệu quan trọng nhất để xác định hành đó có phải là tội phạm hay
không. Vì vậy, khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội đƣợc luật
hình sự bảo vệ bị tội phạm xâm hại. Một quan hệ xã hội nào đó bị xâm hại
nhƣng không đƣợc Nhà nƣớc xác định bảo vệ bằng các quy phạm phạm
pháp luật hình sự thì không thể là khách thể của tội phạm và hành vi xâm hại
không bị coi là tội phạm.
Bộ luật hình sự Việt Nam quy định những quan hệ xã hội sau đây khi bị
hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đáng kể là khách thể của tội
phạm: độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, chế độ chính trị, chế
độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội, quyền và
lợi ích hợp pháp của tổ chức, tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm, tự do
sở hữu, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân và trật tự pháp luật
xã hội chủ nghĩa.
Khách thể của tội phạm là yếu tố không thể tách rời của tội phạm, tội
phạm bao giờ cũng xâm phạm đến một hoặc một số quan hệ xã hội đƣợc nhà
nƣớc xác định bảo vệ bằng luật hình sự. Khái niệm khách thể của tội phạm
chỉ rõ bản chất giai cấp của luật hình sự, Nhà nƣớc nào cũng sử dụng luật
hình sự để bảo vệ những quan hệ xã hội phù hợp với lợi ích và nền thống trị
của giai cấp cầm quyền. Những hành vi xâm hại đến các quan hệ ấy bị Nhà
nƣớc tuyên bố là tội phạm. Khách thể của tội phạm còn là một căn cứ phân
biệt tội phạm với những hành vi không phải là tội phạm. Nghiên cứu khái
26
niệm khách thể của tội phạm chúng ta nhận thức đầy đủ và sâu sắc nhiệm vụ
của luật hình sự và bản chất của tội phạm. Trong phần các tội phạm của
BLHS, khách thể của tội phạm là căn cứ quan trọng nhất để phân loại tội
phạm và hệ thống các quy phạm quy định các tội phạm hoàn thành.
Ngoài khách thể loại của chƣơng các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp,
Tội không thi hành án còn có khách thể trực tiếp, đó là sự hoạt động đúng đắn
của tƣ pháp trong lĩnh vực thi hành án.
Khách thể của Tội không thi hành án là những quan hệ xã hội trong
lĩnh vực thi hành án đƣợc pháp luật hình sự xác lập mọi xâm hại hoặc đe dọa
xâm hại bằng những hình thức khác nhau. Với việc xâm phạm hoạt động
đúng đắn của các cơ quan tƣ pháp trong lĩnh vực thi hành án, hành vi phạm
tội của tội không thi hành bản án đồng thời còn xâm phạm đến nhiều quan
hệ xã hội đƣợc pháp luật hình sự bảo vệ. Đó có thể là quan hệ nhân thân,
quan hệ sở hữu cũng nhƣ các quan hệ xã hội khác. Nhiều loại hành vi phạm
tội trong tội này còn có ảnh hƣởng xấu tới uy tín của các cơ quan bảo vệ
pháp luật, hạn chế hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm cũng nhƣ các vi
phạm pháp luật khác...
Tội không thi hành án cũng là tội xâm phạm trực tiếp đến hoạt động tƣ
pháp, đồng thời xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ
chức và ngƣời đƣợc thi hành án. Tuy nhiên, những quan hệ này chỉ đƣợc coi
là khách thể gián tiếp của Tội không thi hành án.
2.1.2. Đối tượng tác động của tội không thi hành án
Đối tƣợng tác động của tội phạm là bộ phận gắn liền với khách thể
của tội phạm, nên khi nghiên cứu khách thể tội phạm không thể tách rời
bộ phận này.
Đối tƣợng tác động của tội phạm là bộ phận của khách thể
của tội phạm mà khi tác động tới bộ phận này ngƣời phạm tội gây
27
thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quan hệ xã hội đƣợc luật hình
sự bảo vệ. Hành vi phạm tội tác động các bộ phận của quan hệ xã
hội là khách thể của tội phạm làm biến đổi trạng thái bình thƣờng
của các bộ phận đó, gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm. Với
quan điểm nhƣ vậy thì không thể tồn tại tội phạm mà không có đối
tƣợng tác động [27, tr.141].
Theo quan điểm chung của khoa học pháp lý hình sự, đối tƣợng tác
động của tội phạm là những bộ phận hình thành nên quan hệ xã hội, đó là: chủ
thể của quan hệ xã hội; khách thể của quan hệ xã hội (là vật thể và tất cả
những gì tồn tại trong thế giới khách quan) và nội dung quan hệ xã hội.
Trên cơ sở quan niệm này thì đối tƣợng tác động của Tội không thi
hành án là các bản án và quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật và
quyết định thi hành bản án, quyết định của Toà án. Đối với bản án và quyết
định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật cũng tƣơng tự nhƣ đối tƣợng tác
động của tội không chấp hành án quy định tại Điều 304 Bộ luật hình sự (Đối
tƣợng tác động của tội phạm này lại chính là các bản án và quyết định của
Toà án đã có hiệu lực pháp luật. Bản án của Toà án là một văn bản tố tụng do
Thẩm phán, Hội thẩm nhân danh nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
ban hành bao gồm: bản án hình sự, bản án dân sự, bản án hôn nhân và gia
đình, bản án kinh tế, bản án lao động và bản án hành chính; các quyết định
giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Tuy tên
văn bản là “quyết định” nhƣng toàn bộ nội dung của nó không khác gì bản án.
Quyết định của Toà án cũng là một văn bản tố tụng có thể Hội đồng xét xử
ban hành nhƣng cũng có thể chỉ do một Thẩm phán ban hành nhƣ: quyết định
hòa giải thành, quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, quyết định kê
biên tài sản, quyết định thi hành án phạt tù, quyết định bắt buộc chữa bệnh...)
Đối với quyết định thi hành bản án, quyết định của Toà án là một quyết
28
định do ngƣời có thẩm quyền ban hành. Ngƣời có thẩm quyền ban hành quyết
định này bao gồm: Chánh án Toà án hoặc phó chánh án đƣợc Chánh án uỷ
quyền; Chánh án Toà án đƣợc uỷ thác thi hành bản án, quyết định hình sự;
Thủ trƣởng cơ quan thi hành án dân sự; những ngƣời khác theo quy định của
pháp luật có thẩm quyền ra quyết định thi hành án. Về hình thức của các
quyết định này đƣợc ban hành theo mẫu nhất định nhƣng vấn đề quan trọng
không phải ở hình thức văn bản mà là nội dung các văn bản đó.
Ví dụ: Một quyết định thi hình phạt tù đối với ngƣời bị kết án không
chỉ bảo đảm đúng về hình thức mà còn phải đúng về nội dung, thủ tục và
thẩm quyền ban hành.
Nếu một quyết định đúng hình thức, đúng nội dung, đúng thủ tục
nhƣng không đúng thẩm quyền mà ngƣời có nghĩa vụ phải thi hành quyết
định cố ý không thi hành, thì không cấu thành tội phạm này.
2.2. MẶT KHÁCH QUAN
Tội phạm là hành vi của con ngƣời, là thể thống nhất giữa những diễn
biến tâm lý bên trong của ngƣời thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và
những biểu hiện diễn ra bên ngoài mà ta có thể nhận biết trực tiếp bằng các
giác quan. Những biểu hiện của tội phạm ra bên ngoài bao gồm: hành vi nguy
hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội và mối quan hệ nhân quả giữa
hành vi và hậu quả, các dấu hiệu biểu hiện sự thực hiện hành vi phạm tội và
gắn liền với hành vi nhƣ: công cụ, phƣơng tiện, phƣơng pháp, thủ đoạn, phạm
tội, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội. Tổng thể các biểu hiện trên đây
tạo thành mặt khách quan của tội phạm. Nhƣ vậy, mặt khách quan của tội
phạm là những biểu hiện ra bên ngoài trong thế giới khách quan. “Mặt khách
quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm bao gồm các dấu hiệu biểu
hiện tội phạm diễn ra trong thể giới khách quan” [27, tr.145]. Những biểu
hiện ra bên ngoài trong mặt khách quan của tội phạm bao gồm các dấu hiệu:
29
Hành vi nguy hiểm cho xã hội; hậu quả nguy hiểm cho xã hội; mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi và hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi; những
dấu hiệu bên ngoài khác, nhƣ: thời gian, phƣơng pháp, phƣơng tiện, thủ đoạn
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội…. Tuy nhiên, các biểu hiện khách
quan của tội phạm có vị trí và ý nghĩa không giống nhau trong các cấu thành
tội phạm. Hành vi nguy hiểm cho xã hội đƣợc quy định trong tất cả các cấu
thành tội phạm với ý nghĩa là dấu hiệu bắt buộc, không có hành vi nguy hiểm
cho xã hội thì không có cấu thành tội phạm. Các biểu hiện khác thuộc mặt
khách quan đƣợc quy định trong các cấu thành tội phạm có thể với ý nghĩa là
dấu hiệu định tội (dấu hiệu của cấu thành tội phạm cơ bản) hoặc là các dấu
hiệu định khung (dấu hiệu của cấu thành tội phạm tăng nặng hoặc cấu thành
tội phạm giảm nhẹ).
Mặt khách quan là một yếu tố cấu thành tội phạm, các dấu hiệu thuộc
mặt khách quan có ý nghĩa thực tiễn quan trọng, từ những biểu hiện khách
quan (mà đặc biệt là hành vi nguy hiểm cho xã hội) ngƣời ta xác định đƣợc tội
phạm đã xảy ra, làm rõ các yếu tố khác của cấu thành tội phạm nhƣ mặt chủ
quan, chủ thể và khách thể của tội phạm. Điều này hoàn toàn phù hợp với quá
trình biện chứng của nhận thức chân lý. Trong luật hình sự, nhà làm luật
thƣờng tập trung mô tả những dấu hiệu khách quan đặc trƣng, điển hình của
từng loại tội phạm vào nội dung cấu thành của chúng, tạo cơ sở để phân biệt
các tội phạm và định tội danh chính xác. Các dấu hiệu khách quan khác của
tội phạm khi đƣợc mô tả trong các cấu thành tội phạm tăng nặng hoặc giảm
nhẹ có ý nghĩa trong việc định khung hình phạt, xác định mức độ nguy hiểm
của tội phạm đã thực hiện.
2.2.1. Dấu hiệu hành vi nguy hiểm
Hành vi nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu khách quan bắt buộc của tất
cả các cấu thành tội phạm và là dấu hiệu trung tâm trong mặt khách quan
30
của tội phạm. Một ngƣời nếu chỉ có ý định, tƣ tƣởng phạm tội nhƣng không
biểu hiện ra thế giới khách quan bằng những hành vi cụ thể gây thiệt hại
hoặc đe dọa gây thiệt hại cho xã hội thì không thể bị coi là tội phạm. Tội
phạm trƣớc hết phải là hành vi của con ngƣời, không có hành vi thì không có
tội phạm. Việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và mức độ thực hiện
nó quyết định sự xuất hiện hậu quả nguy hiểm cho xã hội và mức độ của hậu
quả cũng nhƣ quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả. Chỉ khi hành vi
đƣợc thực hiện mới xuất hiện những biểu hiện khách quan đi liền với hành
vi nhƣ công cụ, phƣơng tiện, phƣơng pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm
phạm tội... Hành vi tác động vào đối tƣợng tác động của tội phạm là thay đổi
trạng thái bình thƣờng của đối tƣợng tác động qua đó gây thiệt hại cho khách
thể của tội phạm.
Hành vi nguy hiểm cho xã hội là xử sự cụ thể của con ngƣời đƣợc thể
hiện ra thế giới khách quan dƣới những hình thức nhất định, gây ra thiệt hại
hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho các quan hệ xã hội đƣợc luật hình sự bảo vệ.
Con ngƣời là chủ thể có ý thức của xã hội, các hành vi hay xử sự của
con ngƣời, xét theo quan điểm của luật hình sự phải có sự tham gia của lý trí
và ý chí tức là phải đƣợc chủ thể nhận thức và điều khiển. Những xử sự thể
hiện ra thế giới khách quan nhƣng không đƣợc chủ thể nhận thức và điều
khiển hoặc tuy nhận thức đƣợc nhƣng không điều khiển đƣợc thì không có ý
nghĩa trong luật hình sự, không phải là hành vi thuộc mặt khách quan của tội
phạm. Vì vậy, những xử sự của con ngƣời thể hiện ra thế giới bên ngoài đã
gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội đƣợc luật hình
sự bảo vệ nhƣng do cƣỡng bức thân thể, không phải là kết quả hoạt động ý
chí của chủ thể thì không phải là hành vi phạm tội. Xử sự trong trƣờng hợp
này là hậu quả của sự tác động trực tiếp của sức mạnh từ bên ngoài đƣa lại,
không đƣợc chủ thể nhận thức và điều khiển. Hành vi có tính chất nguy
31
hiểm cho xã hội đƣợc chủ thể nhận thức và điều khiển chỉ bị coi là hành vi
thuộc mặt khách quan của tội phạm nếu có đầy đủ những đặc điểm của một
hành vi phạm tội nào đó đã đƣợc quy định trong luật hình sự tức là trái với
luật hình sự.
Nhƣ vậy, với ý nghĩa là một biểu hiện hay dấu hiệu thuộc mặt khách
quan của tội phạm, hành vi nguy hiểm cho xã hội phải là hoạt động cụ thể
đƣợc chủ thể nhận thức và điều khiển, có nội dung trái với các yêu cầu và đòi
hỏi của pháp luật hình sự. Hành vi nguy hiểm cho xã hội đƣợc biểu hiện dƣới
hai hình thức: Hành động phạm tội và không hành động phạm tội.
Theo Điều 305 BLHS 1999 thì hành vi khách quan của Tội không thi
hành án bao gồm hai loại hành vi:
Thứ nhất, hành vi không ra quyết định thi hành án
Đây là hành vi của ngƣời có thẩm quyền, có trách nhiệm phải ra quyết
định thi hành án. Qui định của BLTTHS 2003 đối với bản án đƣợc mang ra
thi hành phải thỏa mãn hai điều kiện: a. Bản án, quyết định phải có hiệu lực
pháp luật; b. Phải có quyết định thi hành án của cơ quan có thẩm quyền. Vì
vậy, nếu không có quyết định thi hành bản án quyết định thì không có cơ sở
để thi hành không thể hiện thực hóa các phán quyết của tòa án trong đời sống.
Quyết định thi hành án là quyết định của ngƣời có thẩm quyền (theo quy định
của luật tố tụng hình sự: Chánh án, Phó Chánh án đƣợc uỷ quyền hoặc Chánh
án đƣợc uỷ thác ra quyết định thi hành, Thủ trƣởng cơ quan thi hành án dân
sự), đƣa bản án hoặc quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật ra thi
hành. Trong đó quy định rõ cơ quan, tổ chức phải thi hành; ngƣời, tổ chức
phải chấp hành bản án hoặc quyết định của tòa án...Bản án hoặc quyết định
của Tòa án có thể thuộc những lĩnh vực khác nhau nhƣ lĩnh vực hình sự, lĩnh
vực dân sự hay lĩnh vực hành chính...
Không ra quyết định thi hành án là hành vi của ngƣời có thẩm quyền
32
trong việc ra quyết định thi hành án nhƣng đã không ra quyết định thi hành và
do không ra quyết định thi hành án nên bản án hoặc quyết định của Toà án
không đƣợc thi hành.
Hành vi không ra quyết định thi hành án là dạng hành vi khách quan
thứ nhất của tội không thi hành án đƣợc thực hiện dƣới hình thức không phạm
tội, ngƣời có thẩm quyền đã không ra quyết định thi hành án thuộc trách
nhiệm của mình theo qui định của pháp luật. Ví dụ: Bùi Văn T bị Toà án nhân
dân quận H phạt 3 năm tù về tội chứa mại dâm; trong quá trình điều tra, truy
tố, xét xử, Bùi Văn T chỉ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “cấm đi khỏi nơi cƣ
trú”. Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, Bùi Văn T làm đơn gửi Cao Văn P,
Chánh án Toà án nhân dân quận H xin hoãn thi hành án với lý do hoàn cảnh
gia đình khó khăn, chƣa tìm đƣợc ngƣời quản lý khách sạn, các con còn nhỏ
không có ngƣời chăm sóc. Khi nhận đƣợc đơn xin hoãn thi hành án của Bùi
Văn T, Cao Văn P biết rõ là T không đủ điều kiện đƣợc hoãn thi hành án,
nhƣng do trƣớc đây, Bùi Văn T đã giúp đỡ gia đình P về kinh tế, nên P đã cố
ý không ra quyết định thi hành phạt tù đối với Bùi Văn T. Do Bùi Văn T chƣa
bị bắt thi hành án phạt tù nên T lại tiếp tục chứa mại dâm.
Thứ hai, hành vi không thi hành quyết định thi hành án
Hành vi không thi hành quyết định thi hành án là hành vi của ngƣời có
trách nhiệm phải thi hành án đƣợc ghi trong quyết định thi hành án, nhƣ:
Chánh án, Phó Chánh án, Chánh án nơi đƣợc ủy thác, Thủ trƣởng cơ quan thi
hành án, Chấp hành viên, cán bộ, chiến sỹ công án, lãnh đạo ủy ban xã
phƣờng, thi trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi ngƣời kết án hay có đƣơng sự sinh
sống, cƣ trú hoặc làm việc.
Không thi hành quyết định thi hành án là hành vi phạm tội đƣợc thực
hiện dƣới hình thức không hành động phạm tội, ngƣời có nhiệm vụ thi hành
quyết định thi hành án đã không thực hiện trách nhiệm của mình, do đó các
33
nôi dung của quyết định thi hành án không đƣợc thực thi trong đời sống. Ví
dụ: Mặc dù đã có quyết định thi hành án phạt tù đối với Nguyễn Hải T, nhƣng
Phùng Văn S, Trƣởng Công an huyện đã cố ý không tổ chức thi hành quyết
định của Chánh án Toà án tỉnh, nên Nguyễn Hải T không bị bắt thi hành án và
tiếp tục phạm tội mới.
2.2.2. Dấu hiệu hậu quả
“Hậu quả của tội phạm là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho
những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ” [26, tr.152]. Bất kỳ một tội
phạm nào cũng gây ra hoặc đe dọa gây ra những thiệt hại nhất định cho khách
thể của tội phạm. Tính chất và mức độ của thiệt hại do tội phạm gây ra chịu sự
quy định của tính chất, của quan hệ xã hội là khách thể của tội phạm và mức độ
biến đổi các bộ phận cấu thành quan hệ xã hội ấy. Trong số các hậu quả do
hành vi phạm tội gây ra chỉ hậu quả nào đƣợc nêu ra trực tiếp trong nội dung
điều luật quy định cấu thành tội phạm mới có ý nghĩa là dấu hiệu định tội hoặc
định khung hình phạt. Các hậu quả khác đƣợc xem xét khi giải quyết trách
nhiệm hình sự và quyết định hình phạt với tội phạm đã đƣợc thực hiện.
Trong luật hình sự, có những cấu thành tội phạm luật quy định dấu hiệu
hậu quả xảy ra thực tế là một dấu hiệu của cấu thành, đồng thời cũng có
những tội phạm luật chỉ quy định khả năng gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã
hội. Trong trƣờng hợp này khả năng gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội
phải là khả năng thực tế và cụ thể. Khả năng thực tế là một giai đoạn nhất
định của quá trình phát triển khách quan từ nguyên nhân đến hậu quả chứ
chƣa phải là hậu quả thực tế.
Hậu quả nguy hiểm cho xã hội là một biểu hiện thuộc mặt khách
quan của tội phạm có ý nghĩa không giống nhau trong các cấu thành tội
phạm khác nhau.
Những tội phạm có cấu thành tội phạm vật chất, luật hình sự quy định
34
hậu quả nguy hiểm cho xã hội là một dấu hiệu thuộc mặt khách quan của cấu
thành tội phạm. Nếu lỗi thuộc mặt chủ quan của cấu thành tội phạm này là cố
ý trực tiếp thì hậu quả nêu ra trong điều luật quy định tội phạm là căn cứ xác
định tội phạm hoàn thành, thời điểm xuất hiện hậu quả nguy hiểm cho xã hội
là thời điểm tội phạm hoàn thành, thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
nhƣng chƣa gây ra hậu quả đƣợc chỉ ra trong điều luật quy định tội phạm thì
tội phạm ở giai đoạn chƣa đạt. Nếu tội phạm đó có lỗi là vô ý thì xuất hiện
hậu quả nguy hiểm cho xã hội đƣợc nêu trong điều luật quy định tội phạm là
căn cứ xác định hành vi đã thực hiện là cấu thành tội phạm, khi hậu quả chƣa
xảy ra thì không coi là tội phạm.
Những tội phạm có cấu thành tội phạm hình thức, luật hình sự không
quy định hậu quả nguy hiểm cho xã hội là một dấu hiệu của cấu thành tội
phạm, vì vậy hậu quả nguy hiểm cho xã hội không phải là dấu hiệu định tội và
cũng không phải là căn cứ xác định tội phạm hoàn thành. Tuy nhiên, tính chất
và mức độ của thiệt hại cụ thể đã gây ra cho xã hội có ý nghĩa quan trọng khi
quyết định hình phạt.
Điều trình bày trên đây không có ý nghĩa là những tội phạm có cấu
thành hình thức không gây ra hậu quả quả nguy hiểm cho xã hội. Tính nguy
hiểm cho xã hội của tội phạm thể hiện ở chỗ hành vi phạm tội đã gây ra hoặc
đe dọa gây ra thiệt hại cho xã hội, nhƣng với những tội phạm có cấu thành
vật chất thì hậu quả nguy hiểm cho xã hội cụ thể đƣợc nhà làm luật quy định
là một căn cứ có ý nghĩa quyết định khi xác định một hành vi là tội phạm
hay xác định một tội phạm đã thực hiện là hoàn thành; còn trong các cấu
thành tội phạm hình thức, hành vi đƣợc nêu ra trong điều luật quy định tội
phạm đã thể hiện đầy đủ tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm đó, sự
thực hiện hành vi đó rõ ràng đã làm thay đổi tình trạng bình thƣờng của các
bộ phận cấu thành quan hệ xã hội là khách thể của tội phạm và gây thiệt hại
35
cho khách thể. Sự thực hiện hành vi đủ cho phép kết luận là phạm tội và tội
phạm hoàn thành.
Hậu quả của tội phạm thể hiện ở chỗ hành vi nguy hiểm cho xã hội đã
tác động làm thay đổi trạng thái bình thƣờng của đối tƣợng tác động của tội
phạm, sự thay đổi này có thể đƣợc nhà làm luật quy định cụ thể trong nội
dung cấu thành tội phạm hoặc có thể không đƣợc quy định cụ thể vào nội
dung cấu thành tội phạm cụ thể.
Theo qui định của Điều 305 BLHS, hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của
Tội không thi hành án, nếu không có hậu quả nghiêm trọng xảy ra sẽ không
cấu thành tội phạm này. Hậu quả nghiêm trọng đƣợc hiểu là:
- Do không ra quyết định thi hành án hoặc không chấp hành quyết định
thi hành án mà ngƣời bị kết án tù, trốn tránh ngoài xã hội nên đã thực hiện
hành vi phạm tội mới;
- Do không ra quyết định thi hành án dân sự, hoặc không thực hiện
quyết định thi hành án, việc tranh chấp không giải quyết dứt điểm gây nên
mâu thuẫn giữa ngƣời phải thi hành án và ngƣời đƣợc thi hành án phát sinh,
xảy ra xô sát gây thƣơng tích, gây rối trật tự công cộng hoặc chống ngƣời thi
hành công vụ;
- Do không ra quyết định thi hành án, hoặc không thực hiện quyết định
thi hành án nên ngƣời phải thi hành án đã tẩu tán tài sản phải thi hành, gây
thiệt hại cho lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức;
- Do không ra quyết định thi hành án, hoặc không thực hiện quyết định
thi hành án nên đã gây thiệt hại về tài sản hoặc ảnh hƣởng tới các quyền của
cá nhân, cơ quan tổ chức.
Hậu quả nghiêm trọng là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này nhƣng do
tính chất, mức độ nghiêm trọng của loại tội phạm này mà việc xác định hậu
quả nghiêm trọng do hành vi không ra quyết định thi hành án hoặc không thi
36
hành quyết định thi hành án không giống nhƣ đối với các tội phạm khác. Vì
vậy, khi xác định hậu quả nghiêm trọng do hành vi không thi hành án gây ra
cần phải căn cứ vào từng trƣờng hợp cụ thể chứ không thể có một hậu quả
chung cho tất cả các hành vi không thi hành án đƣợc.
Ví dụ: hậu quả do không thi hành án đối với ngƣời phạm tội bị phạt tù
giam gây ra khác với hậu quả do hành vi không thi hành án đối với ngƣời
phạm tội bị phạt cải tạo không giam giữ hoặc đƣợc hƣởng án treo; hậu quả
do không thi hành khoản tiền án phí gây ra sẽ khác so với hậu quả do hành
vi không thi hành án phải trả nhà cho ngƣời đƣợc Toà án công nhận quyền
sở hữu nhà.
Hiện nay, chƣa có hƣớng dẫn cụ thể nào là hậu quả nghiêm trọng do
hành vi không thi hành án gây ra. Tuy nhiên, qua thực tiễn xét xử, nghiên cứu
các quy định khác về hậu quả nghiêm trọng đã đƣợc hƣớng dẫn, chúng ta có
thể coi các thiệt hại sau đây do hành vi không thi hành án gây ra là hậu quả
nghiêm trọng:
- Gây thiệt hại về vật chất có giá trị từ 50 triệu đồng đến 150 triệu đồng;
- Do không bị vào trại giam thi hành hình phạt tù nên ngƣời bị kết án
tiếp tục phạm tội mới do cố ý hoặc tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm
trọng do vô ý;
- Do không thi hành án dân sự, kinh tế, hành chính, lao động nên dẫn
đến các đƣơng sự trong các vụ án này bức xúc gây ra những tội phạm khác
nhƣ: giết ngƣời, cố ý gây thƣơng tích, gây rối trật tự công cộng, chống ngƣời
thi hành công vụ… hoặc gây ra những hậu quả khác làm mất trật tự nghiêm
trọng đến an ninh quốc gia hoặc an toàn xã hội, gây mất ổn định cho tình hình
an ninh, trật tự ở địa phƣơng...
2.2.3. Dấu hiệu mối quan hệ nhân quả
Hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả nguy hiểm cho xã hội là
37
những dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm, vì vậy quan hệ nhân quả
giữa hành vi và hậu quả của hành vi gây ra cũng là một dấu hiệu thuộc mặt
khách quan của tội phạm. Xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu
quả của hành vi tức là thiệt hại gây ra cho quan hệ xã hội đƣợc luật hình sự
bảo vệ, là một nội dung bắt buộc để giải quyết đúng đắn vấn đề trách nhiệm
hình sự trong trƣờng hợp có hậu quả nguy hiểm cho xã hội đã xảy ra.
Những tội phạm mà luật hình sự quy định hậu quả cụ thể là một dấu
hiệu của cấu thành tội phạm (dấu hiệu bắt buộc) thì quan hệ nhân quả giữa
hành vi và hậu quả nguy hiểm cho xã hội cũng là một dấu hiệu bắt buộc trong
cấu thành tội phạm.
Với những tội phạm có cấu thành hình thức, hậu quả không đƣợc luật
quy định là một dấu hiệu của cấu thành tội phạm, nhƣng trong trƣờng hợp
hậu quả nguy hiểm cho xã hội đã xảy ra thì xác định mối quan hệ nhân quả
có ý nghĩa quan trọng đối với việc giải quyết trách nhiệm hình sự và quyết
định hình phạt.
Vấn đề quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả nguy hiểm cho xã
hội không đƣợc quy định trực tiếp trong luật hình sự. Khoa học luật hình sự
vận dụng lý luận về quan hệ nhân quả trong phép biện chứng duy vật vào lĩnh
vực hình sự nhằm để giải pháp cho vấn đề trách nhiệm hình sự đối với hậu
quả nguy hiểm cho xã hội.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng quan hệ nhân quả là một dạng
của những liên hệ khách quan phổ biến, sự tác động qua lại và phụ thuộc nhau
giữa các sự vật, hiện tƣợng của thế giới khách quan. Mối quan hệ nhân quả
thể hiện ở chỗ một hiện tƣợng trong những điều kiện nhất định sản sinh ra
hiện tƣợng khác nhƣ là quá trình tất yếu, mang tính quy luật. Hiện tƣợng thứ
nhất gọi là nguyên nhân và hiện tƣợng thứ hai gọi là kết quả. Quá trình vận
38
động và phát triển của nguyên nhân và kết quả là vô tận, vì thế cần giới hạn
những điều kiện và phạm vi cụ thể để nghiên cứu. Trong luật hình sự, nguyên
nhân là hành vi trái pháp luật, có tính nguy hiểm cho xã hội đƣợc chủ thể
nhận thức và điều khiển, kết quả là hậu quả nguy hiểm cho xã hội tức là các
dạng thiệt hại gây ra cho quan hệ xã hội đƣợc luật hình sự bảo vệ.
Điều 305 qui định, Tội không thi hành án có hậu quả là dấu hiệu bắt
buộc nên việc hƣớng mối quan hệ nhân quả giữa hành vi không ra quyết định
thi hành án hoặc không chấp hành quyết định thi hành án với hậu quả nghiệm
trọng đã xảy ra. Việc xác định mối quan hệ nhân quả này phải dựa trên các
căn cứ sau:
- Hành vi trái pháp luật phải xảy ra trƣớc hậu quả nguy hiểm cho xã hội
xét về thời gian. Nguyên nhân phải có trƣớc kết quả, hành vi trái pháp luật với
tính cách là nguyên nhân phải xuất hiện trƣớc hậu quả nguy hiểm cho xã hội.
Đây là căn cứ đầu tiên xác định quan hệ nhân quả.
- Hành vi trái pháp luật phải chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh
hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Khả năng chứa đựng hành vi có tính nguy
hiểm cho xã hội và trái pháp luật, trong những điều kiện nhất định sẽ sản sinh
ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Với tính cách là nguyên nhân, hành vi trái
pháp luật thông thƣờng trực tiếp là thay đổi tình hình bình thƣờng của đối
tƣợng tác động qua đó gây thiệt hại cho khách thể, ví dụ: hành vi đốt nhà dẫn
đến tài sản của chủ sở hữu bị hủy hoại, hành vi giết ngƣời bằng cách bắn đã
gây ra chết ngƣời. Nhƣng có hành vi trái pháp luật chỉ có vai trò “cộng
hƣởng” trong quá trình gây ra thiệt hại cho khách thể. Ví dụ một ngƣời ngã
xuống sông đang trong tình trạng sắp chết đuối, ngƣời khác trông thấy và có
khả năng cứu giúp đã không cứu, kết quả ngƣời gặp nạn bị chết. Hành vi cứu
giúp có vai trò “cộng hƣởng” làm cho tình trạng nguy hiểm mà nạn nhân đã
39
rơi vào trƣớc đó phát triển đến mức gây ra thiệt hại thực tế cho khách thể
đƣợc luật hình sự bảo vệ.
- Những hậu quả nguy hiểm cho xã hội đã xảy ra phải do chính hành vi
trái pháp luật đã đƣợc thực hiện gây ra, là sự phát triển của khả năng chứa
đựng những hành vi trái pháp luật thành thiệt hại trong thực tế. Quá trình
nguyên nhân sản sinh ra kết quả chịu ảnh hƣởng của nhiều yếu tố với tính
cách là điều kiện. Điều kiện ảnh hƣởng tới quá trình vận động của nguyên
nhân thành kết quả chứ chính nó không sản sinh ra kết quả. Những điều kiện
ảnh hƣởng đến quá trình phát sinh có thể là yếu tố tự nhiên, súc vật hoặc xử
sự của con ngƣời. Khả năng chứa đựng trong hành vi trái pháp luật vận động
thành hậu quả trong thực tế với mức độ, phạm vi và xảy ra với tốc độ nhƣ thế
nào chịu chi phối của các điều kiện cụ thể khi hành vi đó đƣợc thực hiện. Ví
dụ: hành vi đốt nhà nhằm hủy hoại tài sản của một công dân cụ thể do gặp gió
lớn làm cho quá trình cháy mạnh, lan rộng nhanh đã gây ra thiệt hại lớn cho
tài sản của nhiều ngƣời khác.
Thực tiễn thấy rằng, có trƣờng hợp hậu quả nguy hiểm cho xã hội xảy
ra về hình thức tƣơng ứng với khả năng gây thiệt hại chứa đựng trong hành vi
trái pháp luật, nhƣng thực tế không phải là kết quả của hành vi đó mà do hành
vi khác gây ra. Vì vậy, cơ quan có trách nhiệm chứng minh tội phạm phải
xem xét, đánh giá cụ thể và toàn diện các sự kiện thực tế khi xác định mối
quan hệ nhân quả để giải quyết trách nhiệm hình sự. Ví dụ: một ngƣời cố ý
gây thƣơng tích nặng đã đe dọa đến tính mạng của ngƣời khác nhƣng có khả
năng cứu chữa đƣợc, khi nằm điều trị trong bệnh viện do nhân viên y tế sử
dụng nhầm lẫn thuốc điều trị dẫn đến ngộ độc thuốc và chết. Trong trƣờng
hợp này hậu quả ngƣời bị chết không phải do chính hành vi cố ý gây thƣơng
tích nặng gây ra, tuy rằng hậu quả đó nhìn về hình thức có những biểu hiện
tƣơng tự với khả năng chứa đựng trong hành vi cố ý gây thƣơng tích nặng.
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT

More Related Content

What's hot

Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn p...
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn p...Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn p...
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn p...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG TRƯỚC PHÁP LUẬT THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌN...
NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG TRƯỚC PHÁP LUẬT THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌN...NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG TRƯỚC PHÁP LUẬT THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌN...
NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG TRƯỚC PHÁP LUẬT THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌN...KhoTi1
 
Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo luật hình sự...
Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo luật hình sự...Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo luật hình sự...
Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo luật hình sự...Vinh Quang
 

What's hot (20)

Luận văn: Thực hành quyền công tố đối với các tội xâm phạm sở hữu
Luận văn: Thực hành quyền công tố đối với các tội xâm phạm sở hữuLuận văn: Thực hành quyền công tố đối với các tội xâm phạm sở hữu
Luận văn: Thực hành quyền công tố đối với các tội xâm phạm sở hữu
 
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật Việt Nam, 9đ
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật Việt Nam, 9đLuận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật Việt Nam, 9đ
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật Việt Nam, 9đ
 
Đề tài: Nhiệm vụ bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát, HAY
Đề tài: Nhiệm vụ bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát, HAYĐề tài: Nhiệm vụ bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát, HAY
Đề tài: Nhiệm vụ bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát, HAY
 
Luận Văn Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam.doc
Luận Văn Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam.docLuận Văn Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam.doc
Luận Văn Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam.doc
 
Luận văn: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự
Luận văn: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sựLuận văn: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự
Luận văn: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự
 
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOTLuận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt, HOTLuận văn: Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt, HOT
 
Luận văn: Định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội theo luật
Luận văn: Định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội theo luậtLuận văn: Định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội theo luật
Luận văn: Định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội theo luật
 
Đề tài: Vai trò của Viện kiểm sát trong bảo vệ quyền công dân
Đề tài: Vai trò của Viện kiểm sát trong bảo vệ quyền công dânĐề tài: Vai trò của Viện kiểm sát trong bảo vệ quyền công dân
Đề tài: Vai trò của Viện kiểm sát trong bảo vệ quyền công dân
 
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn p...
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn p...Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn p...
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn p...
 
Luận văn: Bảo vệ quyền con người thông qua xét xử vụ án hình sự
Luận văn: Bảo vệ quyền con người thông qua xét xử vụ án hình sựLuận văn: Bảo vệ quyền con người thông qua xét xử vụ án hình sự
Luận văn: Bảo vệ quyền con người thông qua xét xử vụ án hình sự
 
Đề tài: Vai trò của Thẩm phán Toà án trong hoạt động xét xử, HAY
Đề tài: Vai trò của Thẩm phán Toà án trong hoạt động xét xử, HAYĐề tài: Vai trò của Thẩm phán Toà án trong hoạt động xét xử, HAY
Đề tài: Vai trò của Thẩm phán Toà án trong hoạt động xét xử, HAY
 
NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG TRƯỚC PHÁP LUẬT THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌN...
NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG TRƯỚC PHÁP LUẬT THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌN...NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG TRƯỚC PHÁP LUẬT THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌN...
NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG TRƯỚC PHÁP LUẬT THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌN...
 
Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo luật hình sự...
Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo luật hình sự...Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo luật hình sự...
Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo luật hình sự...
 
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luậtLuận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
 
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOTLuận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Nguyên nhân điều kiện tội trộm cắp tài sản tại TPHCM
Luận văn: Nguyên nhân điều kiện tội trộm cắp tài sản tại TPHCMLuận văn: Nguyên nhân điều kiện tội trộm cắp tài sản tại TPHCM
Luận văn: Nguyên nhân điều kiện tội trộm cắp tài sản tại TPHCM
 
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khácTội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
 

Similar to Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT

Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội của cơ quan điều tra
Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội của cơ quan điều traHoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội của cơ quan điều tra
Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội của cơ quan điều traDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

Similar to Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT (20)

Luận văn: Nhân thân người phạm tội xâm phạm hoạt động tư pháp
Luận văn: Nhân thân người phạm tội xâm phạm hoạt động tư phápLuận văn: Nhân thân người phạm tội xâm phạm hoạt động tư pháp
Luận văn: Nhân thân người phạm tội xâm phạm hoạt động tư pháp
 
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự, HAYLuận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người được thi hành án
Luận văn: Bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người được thi hành ánLuận văn: Bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người được thi hành án
Luận văn: Bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người được thi hành án
 
Luận văn: Quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án
Luận văn: Quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành ánLuận văn: Quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án
Luận văn: Quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án
 
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sựBảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
 
Luận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sựLuận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
 
Đề tài: Các tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAY
Đề tài: Các tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAYĐề tài: Các tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAY
Đề tài: Các tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAY
 
Luận văn: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, 9đ
Luận văn: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, 9đLuận văn: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, 9đ
Luận văn: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, 9đ
 
Luận văn: Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự, HAYLuận văn: Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự, HAY
 
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luậtNhững căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
 
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạmĐề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
 
Luận văn: Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội, HAY
Luận văn: Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội, HAYLuận văn: Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội, HAY
Luận văn: Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội, HAY
 
Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội của cơ quan điều tra
Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội của cơ quan điều traHoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội của cơ quan điều tra
Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội của cơ quan điều tra
 
Luận văn: Quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
Luận văn: Quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạmLuận văn: Quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
Luận văn: Quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
 
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOTLuận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
 
Luận văn: Trách nhiệm hình sự về tội phạm về chức vụ, HAY
Luận văn: Trách nhiệm hình sự về tội phạm về chức vụ, HAYLuận văn: Trách nhiệm hình sự về tội phạm về chức vụ, HAY
Luận văn: Trách nhiệm hình sự về tội phạm về chức vụ, HAY
 
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sựLuận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
 
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dân
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dânLuận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dân
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dân
 
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án, HAYLuận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án, HAY
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfVyTng986513
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxAnAn97022
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 

Recently uploaded (20)

TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 

Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN THỊ HỒNG THÁI TỘI KHÔNG THI HÀNH ÁN THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN THỊ HỒNG THÁI TỘI KHÔNG THI HÀNH ÁN THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN NGỌC CHÍ HÀ NỘI - 2015
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn về đề tài “Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam” là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Tôi viết Lời cam đoan này, đề nghị Khoa Luật xem xét, tạo điều kiện để tôi được bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Ngƣời cam đoan Trần Thị Hồng Thái
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI KHÔNG THI HÀNH ÁN .......................................................................................... 8 1.1. KHÁI NIỆM TỘI KHÔNG THI HÀNH ÁN ...................................... 8 1.1.1. Tội không thi hành án là một trong các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp.................................................................................................. 8 1.1.2. Một số đặc điểm của Tội không thi hành án......................................12 1.2. SỰ CẦN THIẾT VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC QUY ĐỊNH TỘI KHÔNG THI HÀNH ÁN THEO LUẬT HÌNH SỰ .......................18 1.2.1. Sự cần thiết của việc quy định Tội không thi hành án theo Luật hình sự ................................................................................................18 1.2.2. Ý nghĩa của việc quy định Tội không thi hành án theo Luật hình sự................................................................................................19 1.3. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN TỘI KHÔNG THI HÀNH ÁN THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ NĂM 1985 ĐẾN NAY ..............20 Chương 2: QUY ĐỊNH BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ TỘI KHÔNG THI HÀNH ÁN ................................................................24 2.1. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƢỢNG TÁC ĐỘNG CỦA TỘI KHÔNG THI HÀNH ÁN ..................................................................24
  • 5. 2.1.1. Khách thể............................................................................................24 2.1.2. Đối tƣợng tác động của tội không thi hành án...................................26 2.2. MẶT KHÁCH QUAN .......................................................................28 2.2.1. Dấu hiệu hành vi nguy hiểm ..............................................................29 2.2.2. Dấu hiệu hậu quả................................................................................33 2.2.3. Dấu hiệu mối quan hệ nhân quả.........................................................36 2.2.4. Dấu hiệu đã bị xử lý kỷ luật về hành vi không ra quyết định thi hành án hoặc hành vi không thực hiện quyết định thi hành án mà còn vi phạm .................................................................................40 2.3. CHỦ THỂ...........................................................................................41 2.4. MẶT CHỦ QUAN.............................................................................46 2.4.1. Dấu hiệu lỗi ........................................................................................47 2.4.2. Dấu hiệu mục đích, động cơ phạm tội ...............................................48 2.5. HÌNH PHẠT VÀ CÁC BIỆN PHÁP TƢ PHÁP...............................49 2.5.1. Hình phạt............................................................................................49 2.5.2. Các biện pháp tƣ pháp........................................................................52 2.6. PHÂN BIỆT TỘI KHÔNG THI HÀNH ÁN VỚI MỘT SỐ TỘI PHẠM KHÁC CÓ LIÊN QUAN.......................................................53 Chương 3: THỰC TIỄN VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ XỬ LÝ TỘI KHÔNG THI HÀNH ÁN ................................59 3.1. THỰC TRẠNG XỬ LÝ TỘI KHÔNG THI HÀNH ÁN ..................59 3.2. CƠ SỞ CỦA CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ XỬ LÝ TỘI KHÔNG THI HÀNH ÁN ....................................................65 3.2.1. Dựa trên cơ sở qui định của Hiến pháp 2013.....................................65 3.2.2. Những hạn chế, thiếu sót của pháp luật hiện hành.............................67 3.2.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong việc đấu tranh, phòng ngừa tội phạm..........................................................................69
  • 6. 3.3. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ............................................................73 3.4. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA XỬ LÝ TỘI KHÔNG THI HÀNH ÁN ..................................................................78 3.4.1. Đẩy mạnh công tác hƣớng dẫn và áp dụng pháp luật ........................78 3.4.2. Kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao chất lƣợng của đội ngũ cán bộ thuộc các cơ quan tƣ pháp.............................................................79 3.4.3. Tăng cƣờng sự phối hợp giữa các cơ quan có liên quan đến việc giải quyết các vụ án............................................................................80 3.4.4. Tăng cƣờng công tác kiểm tra, giám sát đối với các hoạt động tƣ pháp, các cơ quan tƣ pháp và cán bộ thuộc cơ quan tƣ pháp.............81 KẾT LUẬN....................................................................................................84 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................86
  • 7. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự ĐHQGHN: Đại học Quốc gia Hà Nội TAND: Tòa án nhân dân VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
  • 8. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1. Thống kê khung hình phạt tù có thời hạn Điều 305 BLHS 1999 52 Bảng 3.1. Số liệu tình hình xét xử tội phạm trên toàn quốc từ năm 2010-2014 59 Bảng 3.2. Số liệu các vụ án xâm phạm hoạt động tƣ pháp đã bị khởi tố trong 05 năm 2010 -2014 61 Bảng 3.3. Số liệu các vụ án Tội không thi hành án trong đã bị khởi tố, xét xử 05 năm 2010 -2014 62
  • 9. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong hệ thống các cơ quan nhà nƣớc, các cơ quan tƣ pháp nói chung và tòa án nói riêng giữ vị trí quan trọng đặc biệt, là công cụ đắc lực để bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ công lý, giữ gìn trật tự, kỷ cƣơng xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Hoạt động bình thƣờng của các cơ quan tƣ pháp là điều kiện cần thiết để đảm bảo duy trì công lý nói chung cũng nhƣ để đảm bảo sự hoạt động bình thƣờng của các cơ quan nhà nƣớc khác nói riêng. Trong bối cảnh đất nƣớc ta đang thực hiện cải cách tƣ pháp toàn diện để “xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại có hiệu quả và hiệu lực cao” [21] thì các hành vi xâm phạm hoạt động tƣ pháp, xâm hại đến hoạt động đúng đắn của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án và Cơ quan thi hành án trong việc bảo vệ lợi ích Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân diễn ra ngày càng phức tạp, với tính chất ngày càng nghiêm trọng. Tội không thi hành án (Điều 305) nằm trong chƣơng các tội phạm xâm phạm hoạt động tƣ pháp của Phần các tội phạm Bộ luật hình sự năm 1999 (đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 2009). Trên thực tế, tội phạm này đã gây tổn hại không nhỏ đến việc thực hiện chức năng của các cơ quan tƣ pháp, gây tác hại đáng kể đến uy tín của các cơ quan này. Với tầm quan trọng đặc biệt của hoạt động tƣ pháp, Đảng và Nhà nƣớc ta đã đề ra nhiều biện pháp nhằm đảm bảo cho hoạt động tƣ pháp luôn ở trạng thái bình thƣờng và đúng đắn. Đó là các biện pháp về tổ chức, về cán bộ, về bảo đảm cơ sở vật chất, về pháp luật cho hoạt động của các cơ quan tƣ pháp. Trong số các biện pháp pháp luật thì các biện pháp pháp luật hình sự có vai
  • 10. 2 trò rất quan trọng đối với việc bảo vệ một nền tƣ pháp khỏi sự xâm hại của các hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm. Hiện nay, tình hình tội phạm nói chung và Tội không thi hành án nói riêng đang ngày càng diễn biến phức tạp. Đặc biệt là Tội không thi hành án do ngƣời là cán bộ, công chức của các cơ quan tƣ pháp thực hiện hành vi vi phạm pháp luật và các tội phạm khác xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan tƣ pháp diễn ra ngày một nhiều và gây ra bức xúc trong dƣ luận. Hàng loạt các vụ bức cung, nhục hình, ra bản án trái pháp luật, không thi hành án … đã đƣợc điều tra, truy tố, xét xử trong giai đoạn vừa qua, cho thấy tội phạm này gây ra những hậu quả hết sức nghiêm trọng, làm ảnh hƣởng tới hình ảnh của cơ quan bảo vệ và thực thi pháp luật một cách công minh. Bởi hành vi của ngƣời có thẩm quyền cố ý không ra quyết định thi hành án hoặc cố ý không thi hành quyết định thi hành án trong trƣờng hợp gây hậu quả nghiêm trọng hoặc ngƣời thực hiện đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này. Việc quy định Tội không thi hành án, qua đó quy định khung hình phạt tƣơng ứng với mức độ nguy hiểm của hành vi. Trong thực tiễn áp dụng luật hình sự, các cơ quan có thẩm quyền dựa vào điều luật để xác định tội phạm không thi hành án, trên cơ sở nhận thức đúng đắn và đầy đủ về bản chất cũng nhƣ những đặc điểm của tội này để áp dụng Luật hình sự một cách nghiêm minh qua việc xác định đúng tội danh, đánh giá đúng tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi. Tòa án nhân danh nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thƣơng mại, lao động, hành chính và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật; xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện các tài liệu, chứng cứ đã đƣợc thu thập trong quá trình tố tụng; căn cứ vào kết quả tranh tụng ra bản án, quyết định việc có tội hoặc không có tội, áp dụng hoặc không áp dụng hình phạt, biện pháp tƣ pháp, quyết định về quyền và nghĩa vụ về tài sản, quyền nhân thân.
  • 11. 3 Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu Tội không thi hành án trên cơ sở thực tiễn để làm sáng tỏ về mặt khoa học và đƣa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật là cần thiết, chính vì vậy mà tác giả lựa chọn đề tài “Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu Trong thời gian qua, việc nghiên cứu các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp đã thu hút đƣợc sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu đã đƣợc công bố nhƣ: - Trần Minh Hƣởng, Đặng Thu Hiền: "Tìm hiểu các tội xâm phạm hoạt động tư pháp", Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc, năm 2002 - Phạm Thanh Bình, Nguyễn Vạn Nguyên: "Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp", Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, năm 1997 - Nguyễn Ngọc Điệp, Hồ Thị Nệ: "Tìm hiểu các tội hoạt động tư pháp: Trong Bộ luật hình sự 1999", Nhà xuất bản Công an nhân dân, năm 2001 - Nguyễn Tất Viễn, Luận án Phó tiến sĩ Khoa học Luật học: "Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong luật hình sự Việt Nam", năm 1996 - Nguyễn Huy Hoàn, Luận án tiến sĩ Luật học: "Đảm bảo quyền con người trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam hiện nay", năm 2005 - Đề tài nghiên cứu khoa học: "Thực trạng các tội xâm phạm hoạt động tư pháp và trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân các cấp trong cuộc đấu tranh chống các tội phạm này", Chủ nhiệm đề tài Bùi Đức Long, Cơ quan chủ trì: Trƣờng Cao đẳng kiểm sát, năm 1998… Ngoài ra, các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp đƣợc đề cập ở các mức độ khác nhau trong các tạp chí, sách, báo khác nhƣ là Giáo trình Luật hình sự của trƣờng Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. Các tác giả chủ yếu đề cập tới trách nhiệm hình sự, tìm hiểu và bình luận về các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp trong luật hình sự Việt Nam, đảm bảo quyền con ngƣời trong hoạt động tƣ pháp ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay hoặc nghiên cứu các
  • 12. 4 tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp với tƣ cách là đối tƣợng của hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân. Chƣa có công trình khoa học nào nghiên cứu sâu về từng tội danh trong các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp mà ngƣời phạm tội là cán bộ, ngƣời có thẩm quyền thuộc các cơ quan tƣ pháp. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, khảo sát trên đây cho thấy, ở nƣớc ta đã có một số công trình nghiên cứu cơ bản về các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp nhƣng cho đến nay, nhìn một cách tổng quan có thể khẳng định chƣa có công trình nào nghiên cứu toàn diện và đầy đủ về lý luận và thực tiễn của tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam. 3. Đối tượng, mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu: Luận văn này nghiên cứu những yếu tố cơ bản của Tội không thi hành án, qua đó thấy đƣợc những tồn tại, hạn chế và rút ra phƣơng pháp đúng đắn thiết yếu trong đấu tranh phòng chống tội phạm không thi hành án. Đồng thời, cho ta thấy đƣợc tình hình gia tăng của loại tội phạm này và có biện pháp đúng đắn để ngăn chặn và đi đến đẩy lùi tội phạm. Qua đó, thấy đƣợc việc đấu tranh phòng chống tội phạm không chỉ là trách nhiệm của riêng ai mà là trách nhiệm của toàn xã hội, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Đảng, Nhà nƣớc và toàn dân nhằm tạo sức mạnh tổng hợp để đẩy lùi tội phạm này góp phần ổn định trật tự xã hội. 3.2. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là nghiên cứu trên cơ sở lý luận về Tội không thi hành án đƣợc quy định tại Điều 305 Bộ luật hình sự năm 1999 và các bản án xét xử Tội không thi hành án, để phân tích, chỉ ra những tồn tại, hạn chế, bất cập trong việc áp dụng, thực thi điều luật trên phạm vi toàn quốc, từ đó luận văn đƣa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện Tội không thi hành án trong luật hình sự Việt Nam, cũng nhƣ đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả xử lý Tội không thi hành án trong thực tiễn áp dụng.
  • 13. 5 3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau: - Nghiên cứu các quan điểm của các tác giả về Tội không thi hành án, luận văn nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề chung về Tội không thi hành án: Khái niệm, đặc điểm các dấu hiệu pháp lý, hình phạt và các biện pháp tƣ pháp, phân biệt tội không thi hành án với tội phạm khác có liên quan. - Nghiên cứu Tội không thi hành án trong luật hình sự một số nƣớc và sự phát triển của các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp nói chung và Tội không thi hành án nói riêng trong lịch sử pháp luật hình sự của nƣớc ta từ năm 1985 đến nay, để rút ra những nhận xét, đánh giá; - Nghiên cứu các quy định cụ thể về Tội không thi hành án trong Luật hình sự hiện hành của Việt Nam, từ đó rút ra những nhận xét, đánh giá; - Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn xét xử Tội không thi hành án, theo quy định của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự và các quy định của pháp luật liên quan và số liệu thu thập đƣợc trên phạm vi toàn quốc, đồng thời phân tích làm rõ những tồn tại, hạn chế xung quanh việc xử lý Tội không thi hành án và những nguyên nhân cơ bản của nó; - Đề xuất những định hƣớng và giải pháp hoàn thiện Tội không thi hành án trong Luật hình sự Việt Nam hiện hành, cũng nhƣ những giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử của tội này trong thực tiễn. 3.4. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh Tội không thi hành án trong luật hình sự Việt Nam. Kết hợp với việc nghiên cứu đánh giá các bản án, quyết định về Tội không thi hành án của Tòa án nhân dân trên phạm vi toàn quốc và những nguyên nhân tồn tại, hạn chế để kiến nghị những giải pháp hoàn thiện luật thực định và nâng cao hiệu quả áp dụng Tội không thi hành án trong thực tiễn.
  • 14. 6 Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn xét xử Tội không thi hành án trên phạm vi toàn quốc trong vòng 5 năm (2010 - 2014). 4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu Đề tài đƣợc thực hiện trên cơ sở phƣơng pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác-Xít, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Nhà nƣớc và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tƣ pháp đƣợc thể hiện trong các Nghị quyết. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các phƣơng pháp cụ thể và đặc thù của khoa học Luật hình sự nhƣ: phƣơng pháp phân tích, tổng hợp; phƣơng pháp so sánh, đối chiếu; phƣơng pháp diễn dịch; phƣơng pháp quy nạp; phƣơng pháp thống kê, điều tra xã hội học để tổng hợp, luận chứng các vấn đề tƣơng ứng đƣợc nghiên cứu trong luận văn. 5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn - Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phƣơng diện lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên và có hệ thống ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về Tội không thi hành án (Điều 305 BLHS) mà trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn của Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam. Những điểm mới cơ bản của luận văn là: - Tổng hợp các quan điểm khoa học về Tội không thi hành án để xây dựng nên khái niệm Tội không thi hành án, bảo đảm tính chính xác, khoa học, đồng thời chỉ ra các đặc điểm pháp lý của Tội không thi hành án theo quy định của BLHS năm 1999 trong mối tƣơng quan so sánh, phân biệt với tội phạm khác có liên quan; - Nghiên cứu, đánh giá làm sáng tỏ bức tranh về tình hình, điều tra, truy tố, xét xử Tội không thi hành án của trên phạm vi toàn quốc, những tồn tại,
  • 15. 7 hạn chế trên thực tiễn áp dụng tội này cũng nhƣ những nguyên nhân cơ bản của các tồn tại, hạn chế đó; - Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đã đề xuất hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả xử lý Tội không thi hành án trong giai đoạn xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền và cải cách tƣ pháp hiện nay ở Việt Nam. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chƣơng: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về Tội không thi hành án. Chương 2: Đặc điểm pháp lý Tội không thi hành án theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999. Chương 3. Thực tiễn và các giải pháp nâng cao hiệu quả xử lý Tội không thi hành án.
  • 16. 8 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI KHÔNG THI HÀNH ÁN 1.1. KHÁI NIỆM TỘI KHÔNG THI HÀNH ÁN 1.1.1. Tội không thi hành án là một trong các tội xâm phạm hoạt động tư pháp “Tội phạm là một chế định cơ bản, quan trọng nhất trong luật hình sự, là cơ sở cho việc xác định một hành vi có phải là tội phạm hay không. Đã có nhiều định nghĩa khoa học về tội phạm ở những các cách tiếp cận và quan điểm khác nhau” [26]. Tuy nhiên, định nghĩa về tội phạm trong Bộ luật hình sự Việt Nam có tính chất bắt buộc phải tuân thủ. Khái niệm tội phạm đƣợc hình thành trong quá trình phát triển, hoàn thiện luật hình sự Việt Nam, khái niệm này đƣợc ra đời lần đầu tiên trong Bộ luật đầu tiên của nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam – Bộ luật hình sự năm 1985 (đƣợc thông qua kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa VII, ngày 27/06/1985). Khái niệm này đã phản ánh một cách khá đầy đủ các quy định về tội phạm và xác định cụ thể hành vi nào là tội phạm. Đến ngày 21/12/1999 tại kỳ họp thứ 6 khóa X Quốc hội đã thông qua Bộ luật hình sự mới sửa đổi, bổ sung một số điều Bộ luật hình sự năm 1985. Bộ luật này đã sửa đổi khái niệm về “Tội phạm” để phù hợp với hoàn cảnh thực tế, Bộ luật hình sự 1999 đƣợc thông qua, trên cơ sở kế thừa và phát huy những nguyên tắc, chế định hình sự pháp luật của nƣớc ta. Trên cơ sở quy định về tội phạm, BLHS 1999 qui định các nhóm tội phạm ở phần “Các tội phạm” trong đó có các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp. Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: “Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án trong việc bảo vệ quyền lợi của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” [31, Điều 292].
  • 17. 9 Theo qui định này, thì các tội xâm xâm phạm hoạt động tƣ pháp, trƣớc hết là những hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm đến hoạt động đúng đắn trong lĩnh vực tƣ pháp. Tuy nhiên, phạm vi, tính chất của tƣ pháp lại có sự tiếp cận khác nhau, do đó quan niệm về tƣ pháp không giống nhau trong hệ thống pháp luật các quốc gia trên thế giới. Ở nƣớc ta, khái niệm tƣ pháp đƣợc hiểu theo nghĩa rộng, là một hệ thống các thiết chế, các tổ chức bảo vệ pháp luật, duy trì, bảo đảm công lý, công bằng xã hội, trong đó hoạt động xét xử của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền là Tòa án giữ vai trò, vị trí quan trọng, là khâu trung tâm.Vì vậy, khi nói tới Tòa án là nói tới biểu tƣợng điển hình của việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, là nơi biểu hiện rực rỡ nhất bản chất của pháp luật. Hoạt động xét xử của Tòa án, thông qua những thủ tục tố tụng nhất định, đối với những vụ việc vi phạm pháp luật, tranh chấp của các chủ thể trong đời sống xã hội, nhằm bảo vệ pháp luật, duy trì, bảo đảm công lý, công bằng xã hội. Vì vậy, toàn bộ các hoạt động điều tra, truy tố và các hoạt động bổ trợ tƣ pháp (Giám định, Luật sƣ, Công chứng, Hộ tịch, Tƣ vấn pháp luật...) đều nhằm phục vụ cho quá trình làm sáng tỏ chân lý, tìm ra sự thật của các vụ việc đã diễn ra trên thực tế, để trên cơ sở đó, Tòa án đƣa ra phán quyết theo qui định của pháp luật. Kết thúc giai đoạn xét xử, Tòa án quyết định những vấn đề thuộc về nội dung vụ án, xác định trách nhiệm pháp lý và chế tài thích hợp cho từng đối tƣợng cụ thể, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nƣớc, cơ quan, tổ chức và của công dân. Các bản án và quyết định xét xử của Tòa án không những nhân danh Nhà nƣớc mà còn thể hiện quyền lực tối cao của pháp quyền có hiệu lực thi hành, chính vì vậy, Điều 106 của Hiến pháp 2013 đã nêu rõ: "Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành" [37, Điều 106]. Tuy nhiên, các bản án và quyết định của Tòa án muốn trở thành hiện thực trong cuộc sống thì phải thông qua hoạt động thi hành án.
  • 18. 10 Hoạt động tƣ pháp là hoạt động của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án và Cơ quan thi hành án trong việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đối với các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, lao động và giải quyết các quan hệ pháp luật khác đƣợc phát sinh theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ các quyền của Nhà nƣớc, của các tổ chức, của công dân. Hoạt động tƣ pháp là hoạt động quyền lực Nhà nƣớc do các cơ quan tƣ pháp thực hiện. Các hoạt động này do ngƣời đại diện của các cơ quan tƣ pháp nhân danh Nhà nƣớc trực tiếp thực hiện từ theo chức danh đƣợc bổ nhiệm. Nhƣ vậy, theo qui định của BLHS 1999, hoạt động tƣ pháp là hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, do đó xâm phạm đến sự đúng đắn của các hoạt động này đƣợc coi là hành vi nguy hiểm cho xã hội đến mức phải xử lý bằng chế tài hình sự. Thứ hai, Chủ thể của các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp chủ yếu là cán bộ thuộc các cơ quan tƣ pháp. Hiện nay, chƣa có văn bản quy phạm pháp luật nào hƣớng dẫn cụ thể thế nào là cơ quan tƣ pháp. Tuy nhiên, từ định nghĩa về hoạt động tƣ pháp tại Điều 292 BLHS 1999 có thể hiểu cơ quan tƣ pháp là các cơ quan Nhà nƣớc trực tiếp thực hiện quyền tƣ pháp trong quyền lực nhà nƣớc bao gồm Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Cơ quan điều tra, Cơ quan thi hành án. Trong cơ quan tƣ pháp có nhiều cán bộ, công chức thực hiện các chức năng, nhiệm vụ nhất định nhƣ các cán bộ thực hiện các hoạt động tƣ pháp, các cán bộ thực hiện chức năng quản lý, các công chức giúp việc khác.Cán bộ thuộc các cơ quan tƣ pháp đƣợc bổ nhiệm theo điều kiện và cách thức điều luật quy định. Ngoài ra, chủ thể các tội phạm hoạt động tƣ pháp còn là những ngƣời khác, trong một số trƣờng hợp nhất định mà hành vi phạm tội của họ liên quan đến hoạt động tƣ pháp, nhƣ: Tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử (Điều 311), Tội che giấu tội phạm (Điều 313)…
  • 19. 11 Thứ ba, Các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp đƣợc thực hiện chủ yếu bằng hình thức lỗi cố ý và bảo gồm cả hình thức hành động phạm tội cũng nhƣ không hành động phạm tội. Các hành vi nguy hiểm cho xã hội trong các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp có thể biểu hiện dƣới dạng hành động nhƣ bức cung, dùng nhục hình, ra bản án trái pháp luật, trốn khỏi nơi giam…; hoặc dƣới dạng không hành động nhƣ: không truy cứu trách nhiệm hình sự ngƣời có tội, thiếu trách nhiệm để ngƣời bị giam, giữ trốn [27, tr.718] Tội không thi hành án là một trong các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp, cũng xâm hại đến khách thể loại của nhóm tội phạm này là sự đúng đắn trong hoạt động tƣ pháp, bao gồm hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Tội không thi hành bản án có mối liên hệ lôgic với các tội phạm khác trong chƣơng các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp, tạo thành một tổng thể hoàn chỉnh trừng trị những hành vi xâm phạm đến tính đúng đắn trong quá tình giải quyết vụ án. Từ sự phân tích ở trên, có thể đƣa ra khái niệm thi hành án nhƣ sau: thi hành án là hoạt động tư pháp do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật qui định để đưa bản án, quyết định của Tòa án hoặc các quyết định khác theo qui định của pháp luật, được thực hiện trên thực tế, nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của các công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở khái niệm thi hành án thì Thi hành án dân sự là giai đoạn kết thúc của tố tụng dân sự mà trong đó cơ quan thi hành án đƣa các bản án, quyết định đã có hiệu lực thi hành ra thi hành nhằm bảo vệ quyền lợi của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Bản chất của hoạt động thi hành án là thi hành các
  • 20. 12 quyết định của Tòa án tuyên trong bản án, quyết định, không giải quyết lại nội dung vụ án; là giai đoạn bảo vệ quyền lợi cho các đƣơng sự về mặt thực tế. Đối với hoạt động thi hành án hình sự về thực chất là việc tổ chức thi hành các hình phạt, biện pháp tƣ pháp quy định trong các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật trên thực tế. Đó chính là việc thực thi công lý trên cơ sở chân lý đã đƣợc hoạt động tố tụng hình sự chứng minh. Vì vậy theo quy định của pháp luật: Ngƣời đƣợc thi hành án là cá nhân, cơ quan, tổ chức đƣợc hƣởng quyền, lợi ích trong bản án, quyết định đƣợc thi hành. Ngƣời phải thi hành án là cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết định đƣợc thi hành. Nhƣ vậy, có thể đƣa ra khái niệm Tội không thi hành án: Tội không thi hành án là hành vi của ngƣời có thẩm quyền cố ý không ra quyết định thi hành án hoặc cố ý không thi hành quyết định thi hành án (trong trƣờng hợp gây hậu quả nghiêm trọng hoặc ngƣời thực hiện đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này). 1.1.2. Một số đặc điểm của Tội không thi hành án Trong khoa học pháp lý, những ngƣời theo chủ nghĩa duy vật biện chứng đều cho rằng tội phạm là một thể thống nhất giữa các yếu tố khách quan và chủ quan, nêu thiếu một trong các mặt khách quan hoặc chủ quan thì đều không phải là tội phạm. Mặt khác, chủ nghĩa duy vật biện chứng cũng chỉ ra rằng tội phạm là phạm trù lịch sử gắn liền với giai cấp, nhà nƣớc và pháp luật, phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế, xã hội, pháp lý của một đất nƣớc trong những thời kỳ khác nhau. Trên cơ sở phƣơng pháp luận này, BLHS 1999 đƣa ra định nghĩa về tội phạm nhƣ sau: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự, do ngƣời có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị,
  • 21. 13 chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa [31, Điều 8]. Trên cơ sở định nghĩa này thì Tội không thi hành án có những đặc điểm sau: - Thứ nhất, Tội không thi hành án là tội phạm mới đƣợc qui định trong BLHS 1999, trƣớc đó, Bộ luật hình sự năm 1985 chƣa quy tội phạm này. Tuy nhiên, do yêu cầu thực tiễn đặt ra có những bản án hoặc quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật nhƣng vì những động cơ khác nhau nên ngƣời có thẩm quyền không ra quyết định thi hành án hoặc đã có quyết định thi hành án rồi nhƣng không tổ chức thi hành, gây thiệt hại cho cơ quan, tổ chức và công dân. Nếu xét về tội danh thì đây là tội mới, nhƣng trƣớc khi có Bộ luật hình sự năm 1999 hành vi cố ý không ra quyết định thi hành án hoặc không thi hành quyết định thi hành bản án, quyết định của Toà án gây ra hậu quả nghiêm trọng thì tùy trƣờng hợp mà ngƣời có hành vi cố ý không ra quyết định thi hành án hoặc không thi hành quyết định thi hành bản án, quyết định của Toà án có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ. Do hành vi cố ý không ra quyết định thi hành án hoặc không thi hành quyết định thi hành bản án, quyết định của Toà án xâm phạm đến hoạt động tƣ pháp, nên nhà làm luật tách hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành án của tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ thành tội phạm độc lập đó là Tội không thi hành án. Điều 305, qui định Tội không thi hành án, thuộc Chƣơng XXII các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp BLHS 1999 nhƣ sau:
  • 22. 14 1. Ngƣời nào có thẩm quyền mà cố ý không ra quyết định thi hành án hoặc không thi hành quyết định thi hành bản án, quyết định của Toà án gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. 2. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm [31, Điều 305]. Qui định tội phạm ở Điều 305, không những đã hình sự hóa hành vi nguy hiểm cho xã hội trong lĩnh vực thi hành án, trừng trị răn đe ngƣời phạm tội mà còn góp phần vào công cuộc đấu tranh chống, phòng ngừa tội phạm, khôi phục lại những thiệt hại do các hành vi vi phạm và hành vi phạm tội gây ra. - Thứ hai, Không thi hành án là hành vi nguy hiểm cho xã hội cần phải đƣợc hình sự hóa. Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi là dấu hiệu cơ bản nói lên bản chất chính trị, xã hội của tội phạm, dấu hiệu này đƣợc coi là dấu hiệu nội dung quyết định những dấu hiệu khác của tội phạm. Một hành vi sở dĩ bị quy định trong luật hình sự là tội phạm và phải chịu TNHS vì nó có tính nguy hiểm cho xã hội do đã gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho các quan hệ xã hội đƣợc luật hình sự bảo vệ. Tầm quan trọng của quan hệ xã hội do tính chất của quan hệ đó trong các thang giá trị xã hội do giai cấp thống trị thiết lập. Do đó, tính chất của quan hệ xã hội có thể bị thay đổi ở những xã hội khác nhau hoặc ngay trong một chế độ xã hội nhƣng ở những thời kỳ khác nhau thì tính chất của quan hệ xã hội cũng có thể thay đổi. Điều đó đòi hỏi nhà làm luật khi xem xét tính chất quan trọng của quan hệ xã hội để đánh giá tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phải dựa trên hoàn cảnh lịch sử cụ thể, xuất phát từ lợi ích giai cấp, trên lập trƣờng giai cấp. Tuy nhiên, tính chất quan trọng của quan hệ xã hội bị xâm hại không thể là yếu tố duy nhất phản ánh mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà chỉ
  • 23. 15 khi đƣợc kết hợp với những yếu tố khác nó mới phản ánh hành vi là nguy hiểm đã đến mức coi là tội phạm và cần phải xử lý bằng chế tài hình sự hay không. Tính nguy hiểm cho xã hội đƣợc phản ánh ở hai đại lƣợng: tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi. Tính chất của hành vi là đặc tính về "chất" của thiệt hại, đƣợc xác định căn cứ vào tính chất của quan hệ xã hội bị thiệt hại, quan hệ xã hội càng quan trọng thì tính chất của thiệt hại càng nghiêm trọng. Mức độ của thiệt hại là đặc tính về "lƣợng" của thiệt hại, tùy theo từng loại thiệt hại mà mức độ đó đƣợc biểu hiện khác nhau. Vì vậy, tính chất và mức độ của thiệt hại là một căn cứ để đánh giá tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi, khi kết hợp với các căn cứ khác nó phản ánh một hành vi là nguy hiểm "đáng kể" hay "không đáng kể" cho xã hội, tạo cơ sở để nhà làm luật tội phạm hóa và phi tội phạm hóa. Tội không thi hành đƣợc qui định tại Điều 305 BLHS 1999 với hai loại hành vi: a. Hành vi không ra quyết định thi án của ngƣời có thẩm quyền; b, Hành vi không thi hành quyết định thi hành án, quyết định của tòa án, của ngƣời có trách nhiệm trong việc thi hành án. Những hành vi này tính nguy hiểm cho xã hội của nó đƣợc thể hiện ở chỗ: Một là, Hành vi không thi hành án đã xâm hại đến sự đúng đắn trong hoạt động thi hành án, một trong những bộ phận của hoạt động tƣ pháp trong quá trình giải quyết vụ án. Tƣ pháp đƣợc là một trong ba nhánh quyền lực của một nhà nƣớc, việc duy trì, củng cố, phát triển quyền lập pháp, hành pháp, tƣ pháp là nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của bất kỳ chính thể nào. Trong nhà nƣớc pháp quyền, tƣ pháp không những là biểu tƣợng mà còn là thiết chế để bảo vệ công lý, tƣ pháp bảo đảm cho công lý đƣợc thực thi. Vì vậy, tƣ pháp đòi hỏi phải có sự công tâm, vô tƣ, khách quan nhất là sự chuẩn mực không thiên vị, mọi phán quyết cũng nhƣ thi hành các phán quyết đó cần phải thực thi một cách đầy đủ, không phụ thuộc vào bất kỳ một áp lực xã hội nào. Để bảo vệ những yêu cầu này của hoạt động tƣ
  • 24. 16 pháp, trong số các công cụ nhà nƣớc sử dụng thì pháp luật hình sự với chế tài nghiêm khắc đƣợc coi là ngƣời gác cửa cuối cùng và quan trọng nhất. Trong điều kiện cải cách tƣ pháp đƣợc tiến hành thì yêu cầu bảo đảm thực hiện nghiêm chỉnh, đầy đủ phán quyết của tòa án lại cần phải đƣợc tăng cƣờng; Hai là, hành vi không thi hành án không những chỉ xâm hại đến khách thể loại của các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp mà còn xâm hại đến sự đúng đắn trong hoạt động thi hành án với tƣ cách là khách thể trực tiếp của tội phạm, cũng nhƣ xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức đƣợc thi hành án. Thi hành án là hoạt động tƣ pháp do cơ quan, tổ chức, ngƣời có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật qui định để đƣa bản án, quyết định của Tòa án hoặc các quyết định khác theo qui định của pháp luật, đƣợc thực hiện trên thực tế, nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nƣớc, quyền, lợi ích hợp pháp của các công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Nhƣ vậy, thi hành án đƣợc hiểu là việc thực hiện bản án, quyết định của Tòa án trên thực tế, đó là văn bản pháp lý của Tòa án nhân danh Nhà nƣớc tuyên tại phiên tòa, giải quyết về các vấn đề trong vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính. Việc thực hiện bản án, quyết định của Tòa án có hiệu quả, một mặt bảo đảm thực hiện quyền tƣ pháp của Nhà nƣớc, thể hiện sự tôn trọng của xã hội và công dân đối với phán quyết của cơ quan nhân danh Nhà nƣớc là Tòa án, mặt khác nó là biện pháp hữu hiệu để khôi phục các quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nƣớc, tổ chức và công dân bị xâm hại. Vì vậy không thi hành án đã xâm hại đến những quan hệ nói trên đƣợc pháp luật hình sự bảo vệ. Từ những phân tích trên, có thể khẳng định không thi hành án là hành vi nguy hiểm cho xã hội đến mức độ “đáng kể” và bị coi là tội phạm và cần thiết phải bị trừng trị bằng chế tài hình sự. - Tội không thi hành án đƣợc thực hiện bởi hành vi nguy hiểm cho hội
  • 25. 17 với các biểu hiện nhƣ: Không ra quyết định thi hành bản án, hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật của tòa án theo thẩm quyền, đồng thời hành vi này phải gây ra hậu quả hoặc đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này. Trong khoa học pháp lý, trƣờng hợp này đƣợc gọi là cấu thành vật chất, tức là chỉ cấu thành tội phạm khi thỏa mãn cả hai dấu hiệu trong mặt khách quan của tội phạm là hành vi và hậu quả của tội phạm. Tội không thi hành bản án, còn qui định trƣờng hợp nếu không gây ra hậu quả thì đã bị xử lý kỷ luật về hành vi vi phạm nhƣng vẫn vi phạm. - Tội không thi hành án đƣợc thực hiện bởi lỗi cố ý, ngƣời phạm tội biết đƣợc hành vi nguy hiểm và hậu quả của hành vi không thi án của mình nhƣng vẫn thực hiện. Theo qui định của Điều 305 BLHS 1999, Tội không thi hành án không có lỗi vô ý, do đó nếu thiếu trách nhiệm mà không ra quyết định thi hành bản án hoặc quyết định của tòa án gây hậu quả sẽ cấu thành tội phạm này, mà có thể cấu thành tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng tùy theo tính chất, mức độ vi phạm. - Chủ thể của Tội không thi hành án là những ngƣời có chức vụ, quyền hạn, trách nhiệm trong thi hành án. Chủ thể tội không thi hành án là ngƣời có thẩm quyền đối với việc thi hành án nhƣ: Chánh án Tòa án nhân dân đã xét xử sơ thẩm vụ án hình sự hay Chánh án Tòa án nhân dân dân đƣợc ủy thác thi hành án hình sự; Thủ trƣởng cơ quan thi hành án dân sự; Chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự; cán bộ, chiến sỹ công an; lãnh đạo Ủy ban nhân dân xã, phƣờng, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi ngƣời bị kết án hay các đƣơng sự cƣ trú, sinh sống hoặc làm việc [27, tr.747]. - Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm Tội không thi hành án, Điều 305 qui định hình phạt cao nhất áp dụng cho tội phạm này là 7 năm tù trong trƣờng hợp phạm tội gây hậu quả rất nghiêm
  • 26. 18 trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Ngoài ra, ngƣời phạm Tội không thi hành án còn bị áp dụng hình phạt bổ sung hoặc các biện pháp tƣ pháp khác theo qui định của pháp luật. 1.2. SỰ CẦN THIẾT VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC QUY ĐỊNH TỘI KHÔNG THI HÀNH ÁN THEO LUẬT HÌNH SỰ 1.2.1. Sự cần thiết của việc quy định Tội không thi hành án theo Luật hình sự Tội không thi hành án là một trong các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp đƣợc quy định trong chƣơng XXII Bộ luật hình sự, là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án trong việc bảo vệ quyền lợi của Nhà nƣớc, quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân (Điều 292 Bộ luật hình sự). Trong hệ thống các cơ quan nhà nƣớc, các Cơ quan tƣ pháp nói chung và Tòa án nói riêng giữ vị trí quan trọng đặc biệt, là công cụ đắc lực để bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ công lý, giữ gìn trật tự, kỷ cƣơng xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Hoạt động bình thƣờng của các cơ quan tƣ pháp là điều kiện cần thiết để đảm bảo duy trì công lý nói chung cũng nhƣ để đảm bảo sự hoạt động bình thƣờng của các cơ quan nhà nƣớc khác. Với tính chất quan trọng nhƣ vậy, hoạt động bình thƣờng của các cơ quan tƣ pháp cần thiết phải đƣợc bảo vệ bằng luật hình sự trong những trƣờng hợp nhất định. Tội không thi hành án đƣợc quy định tại Chƣơng XXII Bộ luật hình sự năm 1999, do yêu cầu của việc lành mạnh hóa hoạt động tƣ pháp, bảo đảm quyền lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và mọi cơ quan tổ chức và mọi công dân, đề phòng những hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn của những ngƣời tiến hành tố tụng trong các cơ quan tƣ pháp; công chức thi hành án
  • 27. 19 trong cơ quan thi hành án; cảnh sát bảo vệ, cảnh sát dẫn giải, các trại giam, trại tạm giam và nhà tạm giữ để vi phạm pháp luật. Quy định Tội không thi hành án là vấn đề hết sức quan trọng là một trong các giai đoạn cơ bản để áp dụng pháp luật hình sự, tất cả những việc làm trƣớc đó (từ khởi tố, điều tra, truy tố) suy cho cùng là nhằm phục vụ cho việc định tội đƣợc chính xác. Từ đó, ngƣời áp dụng có thể áp dụng một hình phạt đúng đắn cho tội phạm đó.Việc nghiên cứu vấn đề định tội có ý nghĩa lý luận và thực tiễn vô cùng quan trọng. Trƣớc hết, nghiên cứu vấn đề quan trọng này là một đóng góp quan trọng cho việc hoàn thiện về lý luận pháp luật hình sự; làm sáng tỏ cơ sở khoa học của định tội sẽ trang bị cho cán bộ làm công tác pháp luật những kiến thức cần thiết, giúp họ nắm đƣợc cơ sở lý luận quan trọng trong hoạt động điều tra, truy tố và xét xử. Quy định Tội không thi hành án còn là cơ sở pháp lý để phân biệt hành vi của tội phạm này với tội phạm khác đảm bảo thực hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực hình sự nhằm xử lý đúng ngƣời, đúng tội, không kết tội oan, không bỏ lọt tội phạm. Nhƣ vậy, quy định Tội không thi hành án có ý nghĩa thống nhất về mặt nhận thức trong nghiên cứu lý luận cũng nhƣ trong thực tiễn xét xử. Vì vậy, việc quy định Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam là rất cần thiết. 1.2.2. Ý nghĩa của việc quy định Tội không thi hành án theo Luật hình sự Theo quy định của pháp luật hình sự, mỗi loại tội phạm cụ thể đều có những quy định riêng biệt về các yếu tố cấu thành nhƣ chủ thể của tội phạm, khách thể của tội phạm, mặt chủ quan và mặt khách quan của tội phạm. Tội không thi hành án đƣợc quy định trong nhóm các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp, trong đó đặc trƣng của chúng là khách thể bị xâm phạm,
  • 28. 20 bao gồm các quan hệ xã hội đƣợc hình thành trong quá trình hoạt động nghiệp vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng và một số cơ quan tƣ pháp nhƣ Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và Cơ quan thi hành án. Việc quy định tội không thi hành án trong Bộ luật hình sự có những ý nghĩa nhƣ sau: - Bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc, của các tổ chức xã hội, bảo vệ sinh mệnh chính trị, quyền tự do thân thể và các quyền lợi hợp pháp khác của công dân, đề cao tính nghiêm minh và hiệu lực của pháp luật xã hội chủ nghĩa. - Bảo đảm cho sự hoạt động đúng đắn của cơ quan tƣ pháp, tạo điều kiện cho công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm đƣợc thực hiện một cách có hiệu quả. - Đề cao ý thức chấp hành pháp luật, tinh thần trách nhiệm của những cán bộ thuộc cơ quan tƣ pháp. - Giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật, đề cao tinh thần tự giác của công dân trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. - Hỗ trợ cho các biện pháp khác trong công cuộc xây dựng xã hội tiên tiến văn minh, thiết lập kỷ cƣơng xã hội. Việc quy định Tội không thi hành án theo Luật hình sự để phòng ngừa tội phạm này xảy ra, mang lại nhiều ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn, góp phần phát triển và hoàn thiện hệ thống Bộ luật hình sự, góp phần làm rõ thực trạng cơ cấu, diễn biến của tình trạng phạm tội và dự đoán xu hƣớng của nó trong tƣơng lai. Từ đó đề ra biện pháp phòng ngừa trong thực tế đấu tranh phòng chống tội phạm. 1.3. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN TỘI KHÔNG THI HÀNH ÁN THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ NĂM 1985 ĐẾN NAY * Tội không thi hành trước năm 1999 Trƣớc khi có BLHS năm 1985, pháp luật hình sự Việt Nam chƣa pháp điển hóa Tội không thi hành án.
  • 29. 21 - Hành vi không thi hành án theo Bộ luật hình sự năm 1985 Năm 1985, Bộ luật hình sự ra đời, nhóm tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp mới đƣợc quy định tập trung và đầy đủ thành một chƣơng riêng, mô tả cụ thể, rõ ràng. Dấu hiệu pháp lý đặc trƣng của từng tội phạm mới đƣợc xác lập làm cơ sở cho giải quyết các tội phạm này. Trong Bộ luật hình sự năm 1985, các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp quy định tại Chƣơng X, Phần các tội phạm với 19 điều luật trong đó có một điều quy định cụ thể về khái niệm tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp, một điều quy định về hình phạt bổ sung và 17 điều quy định về các tội phạm cụ thể. Điều 230 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định: Các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra, viện kiểm sát, xét xử và thi hành án trong việc bảo vệ quyền lợi của nhà nƣớc của các tổ chức xã hội và công dân. Tuy nhiên, khi mới ban hành, hành vi cố ý không ra quyết định thi hành án hoặc không thi hành quyết định thi hành bản án, quyết định của Toà án gây ra hậu quả nghiêm trọng chƣa đƣợc qui định thành một tội riêng trong chƣơng các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp mà đƣợc xử lý ở những tội phạm khác. Theo qui định của BLHS 1985, thì tùy trƣờng hợp mà ngƣời có hành vi cố ý không ra quyết định thi hành án hoặc không thi hành quyết định thi hành bản án, quyết định của Toà án có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lạm quyền trong khi thi hành công vụ (Điều 221 BLHS 1985). Việc xử lý hành vi không thi hành án theo Điều 221 đã bộc lộ những hạn chế nhất định: a. Hành vi không thi hành án là hành vi của ngƣời có chức vụ quyền hạn trong việc ra quyết định hoặc là ngƣời thực hiện thi hành án xâm hại chủ yếu tới hoạt động tƣ pháp, nói cách khác là xâm hại tới sự đúng đắn trong thi hành án, một lĩnh vực của hoạt động tƣ pháp nhƣng lại đƣợc ghép vào chƣơng các tội phạm về chức vụ. Vì vậy, đã không xác định
  • 30. 22 chính xác khách thể bị xâm hại của hành phạm tội dẫn đến việc đấu tranh với loại tôi phạm này kém hiệu quả; b. Do xác định không đúng tính chất của khách thể bị xâm hại đến việc đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội không tƣơng xứng với tính chất của hành vi nên đã qui định hình phạt nhẹ áp dụng cho hành vi này nên răn đe, phòng ngừa hạn chế; c. Chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu đấu tranh, phòng ngừa tội phạm trong điều kiện phát triển, xây dựng đất nƣớc và hội nhập quốc tế. - Tội không thi hành án theo Bộ luật hình sự năm 1999 Bộ luật hình sự năm 1999 đƣợc Quốc hội nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 21/12/1999, có hiệu lực từ 01/07/2000. Ngày 19/06/2009, tại kỳ họp thứ 5 khoá 12 của Quốc hội đã thông qua Luật số 37/2009/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều Bộ luật hình sự năm 1999, có hiệu lực vào ngày 01/01/2010. Tội không thi hành án đƣợc quy định trong chƣơng XXII các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp từ Điều 292 đến điều 314. Trong đó Điều 292 quy định về “Khái niệm tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp” và các điều còn lại quy định các tội phạm. So với Bộ luật hình sự năm 1985 thì Bộ luật hình sự năm 1999 đã đƣợc sửa đổi bổ sung thêm bốn tội, trong đó có tội không thi hành án. Cụ thể, Tội không truy cứu trách nhiệm hình sự ngƣời có tội (Điều 294), Tội ra quyết định trái pháp luật (Điều 296), Tội không thi hành án (Điều 305), Tội đánh tháo ngƣời bị giam giữ, ngƣời đang bị dẫn giải, ngƣời đang bị xét xử (Điều 312). Tội không thi hành án là tội phạm mới, Bộ luật hình sự năm 1985 chƣa quy tội phạm này, do yêu cầu thực tiễn đặt ra có những bản án hoặc quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật nhƣng vì những động cơ khác nhau nên ngƣời có thẩm quyền không ra quyết định thi hành án hoặc đã có quyết định thi hành án rồi nhƣng không tổ chức thi hành, gây thiệt hại cho cơ quan, tổ chức và công dân. Nếu xét về tội danh thì đây là tội mới. Việc qui định Tội
  • 31. 23 không thi hành án tại Điều 305 BLHS 1999 đã đáp ứng đƣợc nhiệm vụ xây dựng nền tƣ pháp trong sạch, vững mạnh theo các Nghị quyết của Đảng về xây dựng các cơ quan tƣ pháp. “Trong bộ máy Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, các cơ quan tư pháp (bao gồm Tòa án, cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, các cơ quan và tổ chức bổ trợ tư pháp) giữ vị trí rất quan trọng, có nhiệm vụ thực thi quyền lực tư pháp bên cạnh quyền lập pháp và quyền hành pháp” [26, tr.716]. Đồng thời, với việc qui định Tội không thi hành án đã góp phần bảo đảm cho sự đúng đắn của hoạt động tƣ pháp trong lĩnh vực thi hành án, thông qua việc trừng trị ngƣời có hành vi phạm tội cũng nhƣ nâng cao hiệu quả răn đe, giáo dục phòng ngừa tội phạm. Mặt khác, việc qui định thành một tội phạm riêng trong chƣơng các tội phạm xâm phạm hoạt động tƣ pháp, hành vi phạm tội không thi hành án đã thể hiện rõ tính chất của tội phạm, cung nhƣ mức độ nguy hiểm của nó đối với xã hội, khắc phục đƣợc những hạn chế khi nó chỉ là một trong những hành vi phạm tội của Tội lợi dụng chức vụ quyền hạn hoặc lạm quyền trong thi hành công vụ Điều 221 BLHS 1985. Vì vậy, do xác định chính xác hành vi cố ý không ra quyết định thi hành án hoặc không thi hành quyết định thi hành bản án, quyết định của Toà án xâm phạm đến hoạt động tƣ pháp, nên nhà làm luật tách hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành án của tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ thành tội phạm độc lập đó là Tội không thi hành án.
  • 32. 24 Chương 2 QUY ĐỊNH BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ TỘI KHÔNG THI HÀNH ÁN Tội không thi hành án đƣợc qui định tại Điều 305 BLHS 1999, theo đó tội phạm này có các đặc điểm pháp lý sau: 2.1. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƢỢNG TÁC ĐỘNG CỦA TỘI KHÔNG THI HÀNH ÁN 2.1.1. Khách thể Theo Giáo trình luật hình sự phần chung của Khoa Luật ĐHQGHN thì khách thể của tội phạm đƣợc định nghĩa nhƣ sau: Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội đƣợc luật hình sự bảo vệ bị tội phạm xâm hại bằng cách gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại. Tội phạm nào cũng xâm hại đến khách thể bảo vệ của luật hình sự, những quy phạm pháp luật thuộc Phần các tội phạm BLHS thƣờng không trực tiếp nêu ra khách thể của tội phạm, song có thể xác định khách thể bằng cách giải thích luật, phân tích nội dung quy phạm cụ thể quy định tội phạm ta có thể biết đƣợc khách thể của tội phạm đó [27, tr.128]. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp thống trị bao giờ cũng thông qua Nhà nƣớc, bằng pháp luật xác lập và củng cố hệ thống các quan hệ xã hội phù hợp với lợi ích và nền thống trị của giai cấp đó, đồng thời sử dụng pháp luật với những loại biện pháp tác động khác nhau nhằm bảo vệ các quan hệ này tồn tại và phát triển, tránh khỏi sự xâm hại của những hành vi phạm tội. Nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa ban hành luật hình sự nhằm bảo vệ những quan hệ xã hội có ý nghĩa quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân và trật
  • 33. 25 tự xã hội. Những quan hệ xã hội đƣợc Nhà nƣớc xác định bảo vệ bằng các quy phạm pháp luật hình sự là khách thể bảo vệ của luật hình sự. Trong khoa học luật hình sự đã khẳng định một hành vi bị Nhà nƣớc coi là tội phạm do chúng gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đáng kể cho các quan hệ xã hội đƣợc luật hình sự bảo vệ. Nói cách khác, tính nguy hiểm của hành vi do xâm phạm đến các quan hệ xã hội đƣợc luật hình sự bảo vệ là dấu hiệu quan trọng nhất để xác định hành đó có phải là tội phạm hay không. Vì vậy, khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội đƣợc luật hình sự bảo vệ bị tội phạm xâm hại. Một quan hệ xã hội nào đó bị xâm hại nhƣng không đƣợc Nhà nƣớc xác định bảo vệ bằng các quy phạm phạm pháp luật hình sự thì không thể là khách thể của tội phạm và hành vi xâm hại không bị coi là tội phạm. Bộ luật hình sự Việt Nam quy định những quan hệ xã hội sau đây khi bị hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đáng kể là khách thể của tội phạm: độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm, tự do sở hữu, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Khách thể của tội phạm là yếu tố không thể tách rời của tội phạm, tội phạm bao giờ cũng xâm phạm đến một hoặc một số quan hệ xã hội đƣợc nhà nƣớc xác định bảo vệ bằng luật hình sự. Khái niệm khách thể của tội phạm chỉ rõ bản chất giai cấp của luật hình sự, Nhà nƣớc nào cũng sử dụng luật hình sự để bảo vệ những quan hệ xã hội phù hợp với lợi ích và nền thống trị của giai cấp cầm quyền. Những hành vi xâm hại đến các quan hệ ấy bị Nhà nƣớc tuyên bố là tội phạm. Khách thể của tội phạm còn là một căn cứ phân biệt tội phạm với những hành vi không phải là tội phạm. Nghiên cứu khái
  • 34. 26 niệm khách thể của tội phạm chúng ta nhận thức đầy đủ và sâu sắc nhiệm vụ của luật hình sự và bản chất của tội phạm. Trong phần các tội phạm của BLHS, khách thể của tội phạm là căn cứ quan trọng nhất để phân loại tội phạm và hệ thống các quy phạm quy định các tội phạm hoàn thành. Ngoài khách thể loại của chƣơng các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp, Tội không thi hành án còn có khách thể trực tiếp, đó là sự hoạt động đúng đắn của tƣ pháp trong lĩnh vực thi hành án. Khách thể của Tội không thi hành án là những quan hệ xã hội trong lĩnh vực thi hành án đƣợc pháp luật hình sự xác lập mọi xâm hại hoặc đe dọa xâm hại bằng những hình thức khác nhau. Với việc xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan tƣ pháp trong lĩnh vực thi hành án, hành vi phạm tội của tội không thi hành bản án đồng thời còn xâm phạm đến nhiều quan hệ xã hội đƣợc pháp luật hình sự bảo vệ. Đó có thể là quan hệ nhân thân, quan hệ sở hữu cũng nhƣ các quan hệ xã hội khác. Nhiều loại hành vi phạm tội trong tội này còn có ảnh hƣởng xấu tới uy tín của các cơ quan bảo vệ pháp luật, hạn chế hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm cũng nhƣ các vi phạm pháp luật khác... Tội không thi hành án cũng là tội xâm phạm trực tiếp đến hoạt động tƣ pháp, đồng thời xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và ngƣời đƣợc thi hành án. Tuy nhiên, những quan hệ này chỉ đƣợc coi là khách thể gián tiếp của Tội không thi hành án. 2.1.2. Đối tượng tác động của tội không thi hành án Đối tƣợng tác động của tội phạm là bộ phận gắn liền với khách thể của tội phạm, nên khi nghiên cứu khách thể tội phạm không thể tách rời bộ phận này. Đối tƣợng tác động của tội phạm là bộ phận của khách thể của tội phạm mà khi tác động tới bộ phận này ngƣời phạm tội gây
  • 35. 27 thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quan hệ xã hội đƣợc luật hình sự bảo vệ. Hành vi phạm tội tác động các bộ phận của quan hệ xã hội là khách thể của tội phạm làm biến đổi trạng thái bình thƣờng của các bộ phận đó, gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm. Với quan điểm nhƣ vậy thì không thể tồn tại tội phạm mà không có đối tƣợng tác động [27, tr.141]. Theo quan điểm chung của khoa học pháp lý hình sự, đối tƣợng tác động của tội phạm là những bộ phận hình thành nên quan hệ xã hội, đó là: chủ thể của quan hệ xã hội; khách thể của quan hệ xã hội (là vật thể và tất cả những gì tồn tại trong thế giới khách quan) và nội dung quan hệ xã hội. Trên cơ sở quan niệm này thì đối tƣợng tác động của Tội không thi hành án là các bản án và quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật và quyết định thi hành bản án, quyết định của Toà án. Đối với bản án và quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật cũng tƣơng tự nhƣ đối tƣợng tác động của tội không chấp hành án quy định tại Điều 304 Bộ luật hình sự (Đối tƣợng tác động của tội phạm này lại chính là các bản án và quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật. Bản án của Toà án là một văn bản tố tụng do Thẩm phán, Hội thẩm nhân danh nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành bao gồm: bản án hình sự, bản án dân sự, bản án hôn nhân và gia đình, bản án kinh tế, bản án lao động và bản án hành chính; các quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Tuy tên văn bản là “quyết định” nhƣng toàn bộ nội dung của nó không khác gì bản án. Quyết định của Toà án cũng là một văn bản tố tụng có thể Hội đồng xét xử ban hành nhƣng cũng có thể chỉ do một Thẩm phán ban hành nhƣ: quyết định hòa giải thành, quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, quyết định kê biên tài sản, quyết định thi hành án phạt tù, quyết định bắt buộc chữa bệnh...) Đối với quyết định thi hành bản án, quyết định của Toà án là một quyết
  • 36. 28 định do ngƣời có thẩm quyền ban hành. Ngƣời có thẩm quyền ban hành quyết định này bao gồm: Chánh án Toà án hoặc phó chánh án đƣợc Chánh án uỷ quyền; Chánh án Toà án đƣợc uỷ thác thi hành bản án, quyết định hình sự; Thủ trƣởng cơ quan thi hành án dân sự; những ngƣời khác theo quy định của pháp luật có thẩm quyền ra quyết định thi hành án. Về hình thức của các quyết định này đƣợc ban hành theo mẫu nhất định nhƣng vấn đề quan trọng không phải ở hình thức văn bản mà là nội dung các văn bản đó. Ví dụ: Một quyết định thi hình phạt tù đối với ngƣời bị kết án không chỉ bảo đảm đúng về hình thức mà còn phải đúng về nội dung, thủ tục và thẩm quyền ban hành. Nếu một quyết định đúng hình thức, đúng nội dung, đúng thủ tục nhƣng không đúng thẩm quyền mà ngƣời có nghĩa vụ phải thi hành quyết định cố ý không thi hành, thì không cấu thành tội phạm này. 2.2. MẶT KHÁCH QUAN Tội phạm là hành vi của con ngƣời, là thể thống nhất giữa những diễn biến tâm lý bên trong của ngƣời thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và những biểu hiện diễn ra bên ngoài mà ta có thể nhận biết trực tiếp bằng các giác quan. Những biểu hiện của tội phạm ra bên ngoài bao gồm: hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, các dấu hiệu biểu hiện sự thực hiện hành vi phạm tội và gắn liền với hành vi nhƣ: công cụ, phƣơng tiện, phƣơng pháp, thủ đoạn, phạm tội, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội. Tổng thể các biểu hiện trên đây tạo thành mặt khách quan của tội phạm. Nhƣ vậy, mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện ra bên ngoài trong thế giới khách quan. “Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm bao gồm các dấu hiệu biểu hiện tội phạm diễn ra trong thể giới khách quan” [27, tr.145]. Những biểu hiện ra bên ngoài trong mặt khách quan của tội phạm bao gồm các dấu hiệu:
  • 37. 29 Hành vi nguy hiểm cho xã hội; hậu quả nguy hiểm cho xã hội; mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi; những dấu hiệu bên ngoài khác, nhƣ: thời gian, phƣơng pháp, phƣơng tiện, thủ đoạn thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội…. Tuy nhiên, các biểu hiện khách quan của tội phạm có vị trí và ý nghĩa không giống nhau trong các cấu thành tội phạm. Hành vi nguy hiểm cho xã hội đƣợc quy định trong tất cả các cấu thành tội phạm với ý nghĩa là dấu hiệu bắt buộc, không có hành vi nguy hiểm cho xã hội thì không có cấu thành tội phạm. Các biểu hiện khác thuộc mặt khách quan đƣợc quy định trong các cấu thành tội phạm có thể với ý nghĩa là dấu hiệu định tội (dấu hiệu của cấu thành tội phạm cơ bản) hoặc là các dấu hiệu định khung (dấu hiệu của cấu thành tội phạm tăng nặng hoặc cấu thành tội phạm giảm nhẹ). Mặt khách quan là một yếu tố cấu thành tội phạm, các dấu hiệu thuộc mặt khách quan có ý nghĩa thực tiễn quan trọng, từ những biểu hiện khách quan (mà đặc biệt là hành vi nguy hiểm cho xã hội) ngƣời ta xác định đƣợc tội phạm đã xảy ra, làm rõ các yếu tố khác của cấu thành tội phạm nhƣ mặt chủ quan, chủ thể và khách thể của tội phạm. Điều này hoàn toàn phù hợp với quá trình biện chứng của nhận thức chân lý. Trong luật hình sự, nhà làm luật thƣờng tập trung mô tả những dấu hiệu khách quan đặc trƣng, điển hình của từng loại tội phạm vào nội dung cấu thành của chúng, tạo cơ sở để phân biệt các tội phạm và định tội danh chính xác. Các dấu hiệu khách quan khác của tội phạm khi đƣợc mô tả trong các cấu thành tội phạm tăng nặng hoặc giảm nhẹ có ý nghĩa trong việc định khung hình phạt, xác định mức độ nguy hiểm của tội phạm đã thực hiện. 2.2.1. Dấu hiệu hành vi nguy hiểm Hành vi nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu khách quan bắt buộc của tất cả các cấu thành tội phạm và là dấu hiệu trung tâm trong mặt khách quan
  • 38. 30 của tội phạm. Một ngƣời nếu chỉ có ý định, tƣ tƣởng phạm tội nhƣng không biểu hiện ra thế giới khách quan bằng những hành vi cụ thể gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho xã hội thì không thể bị coi là tội phạm. Tội phạm trƣớc hết phải là hành vi của con ngƣời, không có hành vi thì không có tội phạm. Việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và mức độ thực hiện nó quyết định sự xuất hiện hậu quả nguy hiểm cho xã hội và mức độ của hậu quả cũng nhƣ quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả. Chỉ khi hành vi đƣợc thực hiện mới xuất hiện những biểu hiện khách quan đi liền với hành vi nhƣ công cụ, phƣơng tiện, phƣơng pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm phạm tội... Hành vi tác động vào đối tƣợng tác động của tội phạm là thay đổi trạng thái bình thƣờng của đối tƣợng tác động qua đó gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm. Hành vi nguy hiểm cho xã hội là xử sự cụ thể của con ngƣời đƣợc thể hiện ra thế giới khách quan dƣới những hình thức nhất định, gây ra thiệt hại hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho các quan hệ xã hội đƣợc luật hình sự bảo vệ. Con ngƣời là chủ thể có ý thức của xã hội, các hành vi hay xử sự của con ngƣời, xét theo quan điểm của luật hình sự phải có sự tham gia của lý trí và ý chí tức là phải đƣợc chủ thể nhận thức và điều khiển. Những xử sự thể hiện ra thế giới khách quan nhƣng không đƣợc chủ thể nhận thức và điều khiển hoặc tuy nhận thức đƣợc nhƣng không điều khiển đƣợc thì không có ý nghĩa trong luật hình sự, không phải là hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm. Vì vậy, những xử sự của con ngƣời thể hiện ra thế giới bên ngoài đã gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội đƣợc luật hình sự bảo vệ nhƣng do cƣỡng bức thân thể, không phải là kết quả hoạt động ý chí của chủ thể thì không phải là hành vi phạm tội. Xử sự trong trƣờng hợp này là hậu quả của sự tác động trực tiếp của sức mạnh từ bên ngoài đƣa lại, không đƣợc chủ thể nhận thức và điều khiển. Hành vi có tính chất nguy
  • 39. 31 hiểm cho xã hội đƣợc chủ thể nhận thức và điều khiển chỉ bị coi là hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm nếu có đầy đủ những đặc điểm của một hành vi phạm tội nào đó đã đƣợc quy định trong luật hình sự tức là trái với luật hình sự. Nhƣ vậy, với ý nghĩa là một biểu hiện hay dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm, hành vi nguy hiểm cho xã hội phải là hoạt động cụ thể đƣợc chủ thể nhận thức và điều khiển, có nội dung trái với các yêu cầu và đòi hỏi của pháp luật hình sự. Hành vi nguy hiểm cho xã hội đƣợc biểu hiện dƣới hai hình thức: Hành động phạm tội và không hành động phạm tội. Theo Điều 305 BLHS 1999 thì hành vi khách quan của Tội không thi hành án bao gồm hai loại hành vi: Thứ nhất, hành vi không ra quyết định thi hành án Đây là hành vi của ngƣời có thẩm quyền, có trách nhiệm phải ra quyết định thi hành án. Qui định của BLTTHS 2003 đối với bản án đƣợc mang ra thi hành phải thỏa mãn hai điều kiện: a. Bản án, quyết định phải có hiệu lực pháp luật; b. Phải có quyết định thi hành án của cơ quan có thẩm quyền. Vì vậy, nếu không có quyết định thi hành bản án quyết định thì không có cơ sở để thi hành không thể hiện thực hóa các phán quyết của tòa án trong đời sống. Quyết định thi hành án là quyết định của ngƣời có thẩm quyền (theo quy định của luật tố tụng hình sự: Chánh án, Phó Chánh án đƣợc uỷ quyền hoặc Chánh án đƣợc uỷ thác ra quyết định thi hành, Thủ trƣởng cơ quan thi hành án dân sự), đƣa bản án hoặc quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật ra thi hành. Trong đó quy định rõ cơ quan, tổ chức phải thi hành; ngƣời, tổ chức phải chấp hành bản án hoặc quyết định của tòa án...Bản án hoặc quyết định của Tòa án có thể thuộc những lĩnh vực khác nhau nhƣ lĩnh vực hình sự, lĩnh vực dân sự hay lĩnh vực hành chính... Không ra quyết định thi hành án là hành vi của ngƣời có thẩm quyền
  • 40. 32 trong việc ra quyết định thi hành án nhƣng đã không ra quyết định thi hành và do không ra quyết định thi hành án nên bản án hoặc quyết định của Toà án không đƣợc thi hành. Hành vi không ra quyết định thi hành án là dạng hành vi khách quan thứ nhất của tội không thi hành án đƣợc thực hiện dƣới hình thức không phạm tội, ngƣời có thẩm quyền đã không ra quyết định thi hành án thuộc trách nhiệm của mình theo qui định của pháp luật. Ví dụ: Bùi Văn T bị Toà án nhân dân quận H phạt 3 năm tù về tội chứa mại dâm; trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, Bùi Văn T chỉ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “cấm đi khỏi nơi cƣ trú”. Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, Bùi Văn T làm đơn gửi Cao Văn P, Chánh án Toà án nhân dân quận H xin hoãn thi hành án với lý do hoàn cảnh gia đình khó khăn, chƣa tìm đƣợc ngƣời quản lý khách sạn, các con còn nhỏ không có ngƣời chăm sóc. Khi nhận đƣợc đơn xin hoãn thi hành án của Bùi Văn T, Cao Văn P biết rõ là T không đủ điều kiện đƣợc hoãn thi hành án, nhƣng do trƣớc đây, Bùi Văn T đã giúp đỡ gia đình P về kinh tế, nên P đã cố ý không ra quyết định thi hành phạt tù đối với Bùi Văn T. Do Bùi Văn T chƣa bị bắt thi hành án phạt tù nên T lại tiếp tục chứa mại dâm. Thứ hai, hành vi không thi hành quyết định thi hành án Hành vi không thi hành quyết định thi hành án là hành vi của ngƣời có trách nhiệm phải thi hành án đƣợc ghi trong quyết định thi hành án, nhƣ: Chánh án, Phó Chánh án, Chánh án nơi đƣợc ủy thác, Thủ trƣởng cơ quan thi hành án, Chấp hành viên, cán bộ, chiến sỹ công án, lãnh đạo ủy ban xã phƣờng, thi trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi ngƣời kết án hay có đƣơng sự sinh sống, cƣ trú hoặc làm việc. Không thi hành quyết định thi hành án là hành vi phạm tội đƣợc thực hiện dƣới hình thức không hành động phạm tội, ngƣời có nhiệm vụ thi hành quyết định thi hành án đã không thực hiện trách nhiệm của mình, do đó các
  • 41. 33 nôi dung của quyết định thi hành án không đƣợc thực thi trong đời sống. Ví dụ: Mặc dù đã có quyết định thi hành án phạt tù đối với Nguyễn Hải T, nhƣng Phùng Văn S, Trƣởng Công an huyện đã cố ý không tổ chức thi hành quyết định của Chánh án Toà án tỉnh, nên Nguyễn Hải T không bị bắt thi hành án và tiếp tục phạm tội mới. 2.2.2. Dấu hiệu hậu quả “Hậu quả của tội phạm là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ” [26, tr.152]. Bất kỳ một tội phạm nào cũng gây ra hoặc đe dọa gây ra những thiệt hại nhất định cho khách thể của tội phạm. Tính chất và mức độ của thiệt hại do tội phạm gây ra chịu sự quy định của tính chất, của quan hệ xã hội là khách thể của tội phạm và mức độ biến đổi các bộ phận cấu thành quan hệ xã hội ấy. Trong số các hậu quả do hành vi phạm tội gây ra chỉ hậu quả nào đƣợc nêu ra trực tiếp trong nội dung điều luật quy định cấu thành tội phạm mới có ý nghĩa là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt. Các hậu quả khác đƣợc xem xét khi giải quyết trách nhiệm hình sự và quyết định hình phạt với tội phạm đã đƣợc thực hiện. Trong luật hình sự, có những cấu thành tội phạm luật quy định dấu hiệu hậu quả xảy ra thực tế là một dấu hiệu của cấu thành, đồng thời cũng có những tội phạm luật chỉ quy định khả năng gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Trong trƣờng hợp này khả năng gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội phải là khả năng thực tế và cụ thể. Khả năng thực tế là một giai đoạn nhất định của quá trình phát triển khách quan từ nguyên nhân đến hậu quả chứ chƣa phải là hậu quả thực tế. Hậu quả nguy hiểm cho xã hội là một biểu hiện thuộc mặt khách quan của tội phạm có ý nghĩa không giống nhau trong các cấu thành tội phạm khác nhau. Những tội phạm có cấu thành tội phạm vật chất, luật hình sự quy định
  • 42. 34 hậu quả nguy hiểm cho xã hội là một dấu hiệu thuộc mặt khách quan của cấu thành tội phạm. Nếu lỗi thuộc mặt chủ quan của cấu thành tội phạm này là cố ý trực tiếp thì hậu quả nêu ra trong điều luật quy định tội phạm là căn cứ xác định tội phạm hoàn thành, thời điểm xuất hiện hậu quả nguy hiểm cho xã hội là thời điểm tội phạm hoàn thành, thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhƣng chƣa gây ra hậu quả đƣợc chỉ ra trong điều luật quy định tội phạm thì tội phạm ở giai đoạn chƣa đạt. Nếu tội phạm đó có lỗi là vô ý thì xuất hiện hậu quả nguy hiểm cho xã hội đƣợc nêu trong điều luật quy định tội phạm là căn cứ xác định hành vi đã thực hiện là cấu thành tội phạm, khi hậu quả chƣa xảy ra thì không coi là tội phạm. Những tội phạm có cấu thành tội phạm hình thức, luật hình sự không quy định hậu quả nguy hiểm cho xã hội là một dấu hiệu của cấu thành tội phạm, vì vậy hậu quả nguy hiểm cho xã hội không phải là dấu hiệu định tội và cũng không phải là căn cứ xác định tội phạm hoàn thành. Tuy nhiên, tính chất và mức độ của thiệt hại cụ thể đã gây ra cho xã hội có ý nghĩa quan trọng khi quyết định hình phạt. Điều trình bày trên đây không có ý nghĩa là những tội phạm có cấu thành hình thức không gây ra hậu quả quả nguy hiểm cho xã hội. Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm thể hiện ở chỗ hành vi phạm tội đã gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho xã hội, nhƣng với những tội phạm có cấu thành vật chất thì hậu quả nguy hiểm cho xã hội cụ thể đƣợc nhà làm luật quy định là một căn cứ có ý nghĩa quyết định khi xác định một hành vi là tội phạm hay xác định một tội phạm đã thực hiện là hoàn thành; còn trong các cấu thành tội phạm hình thức, hành vi đƣợc nêu ra trong điều luật quy định tội phạm đã thể hiện đầy đủ tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm đó, sự thực hiện hành vi đó rõ ràng đã làm thay đổi tình trạng bình thƣờng của các bộ phận cấu thành quan hệ xã hội là khách thể của tội phạm và gây thiệt hại
  • 43. 35 cho khách thể. Sự thực hiện hành vi đủ cho phép kết luận là phạm tội và tội phạm hoàn thành. Hậu quả của tội phạm thể hiện ở chỗ hành vi nguy hiểm cho xã hội đã tác động làm thay đổi trạng thái bình thƣờng của đối tƣợng tác động của tội phạm, sự thay đổi này có thể đƣợc nhà làm luật quy định cụ thể trong nội dung cấu thành tội phạm hoặc có thể không đƣợc quy định cụ thể vào nội dung cấu thành tội phạm cụ thể. Theo qui định của Điều 305 BLHS, hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của Tội không thi hành án, nếu không có hậu quả nghiêm trọng xảy ra sẽ không cấu thành tội phạm này. Hậu quả nghiêm trọng đƣợc hiểu là: - Do không ra quyết định thi hành án hoặc không chấp hành quyết định thi hành án mà ngƣời bị kết án tù, trốn tránh ngoài xã hội nên đã thực hiện hành vi phạm tội mới; - Do không ra quyết định thi hành án dân sự, hoặc không thực hiện quyết định thi hành án, việc tranh chấp không giải quyết dứt điểm gây nên mâu thuẫn giữa ngƣời phải thi hành án và ngƣời đƣợc thi hành án phát sinh, xảy ra xô sát gây thƣơng tích, gây rối trật tự công cộng hoặc chống ngƣời thi hành công vụ; - Do không ra quyết định thi hành án, hoặc không thực hiện quyết định thi hành án nên ngƣời phải thi hành án đã tẩu tán tài sản phải thi hành, gây thiệt hại cho lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức; - Do không ra quyết định thi hành án, hoặc không thực hiện quyết định thi hành án nên đã gây thiệt hại về tài sản hoặc ảnh hƣởng tới các quyền của cá nhân, cơ quan tổ chức. Hậu quả nghiêm trọng là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này nhƣng do tính chất, mức độ nghiêm trọng của loại tội phạm này mà việc xác định hậu quả nghiêm trọng do hành vi không ra quyết định thi hành án hoặc không thi
  • 44. 36 hành quyết định thi hành án không giống nhƣ đối với các tội phạm khác. Vì vậy, khi xác định hậu quả nghiêm trọng do hành vi không thi hành án gây ra cần phải căn cứ vào từng trƣờng hợp cụ thể chứ không thể có một hậu quả chung cho tất cả các hành vi không thi hành án đƣợc. Ví dụ: hậu quả do không thi hành án đối với ngƣời phạm tội bị phạt tù giam gây ra khác với hậu quả do hành vi không thi hành án đối với ngƣời phạm tội bị phạt cải tạo không giam giữ hoặc đƣợc hƣởng án treo; hậu quả do không thi hành khoản tiền án phí gây ra sẽ khác so với hậu quả do hành vi không thi hành án phải trả nhà cho ngƣời đƣợc Toà án công nhận quyền sở hữu nhà. Hiện nay, chƣa có hƣớng dẫn cụ thể nào là hậu quả nghiêm trọng do hành vi không thi hành án gây ra. Tuy nhiên, qua thực tiễn xét xử, nghiên cứu các quy định khác về hậu quả nghiêm trọng đã đƣợc hƣớng dẫn, chúng ta có thể coi các thiệt hại sau đây do hành vi không thi hành án gây ra là hậu quả nghiêm trọng: - Gây thiệt hại về vật chất có giá trị từ 50 triệu đồng đến 150 triệu đồng; - Do không bị vào trại giam thi hành hình phạt tù nên ngƣời bị kết án tiếp tục phạm tội mới do cố ý hoặc tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng do vô ý; - Do không thi hành án dân sự, kinh tế, hành chính, lao động nên dẫn đến các đƣơng sự trong các vụ án này bức xúc gây ra những tội phạm khác nhƣ: giết ngƣời, cố ý gây thƣơng tích, gây rối trật tự công cộng, chống ngƣời thi hành công vụ… hoặc gây ra những hậu quả khác làm mất trật tự nghiêm trọng đến an ninh quốc gia hoặc an toàn xã hội, gây mất ổn định cho tình hình an ninh, trật tự ở địa phƣơng... 2.2.3. Dấu hiệu mối quan hệ nhân quả Hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả nguy hiểm cho xã hội là
  • 45. 37 những dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm, vì vậy quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của hành vi gây ra cũng là một dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm. Xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của hành vi tức là thiệt hại gây ra cho quan hệ xã hội đƣợc luật hình sự bảo vệ, là một nội dung bắt buộc để giải quyết đúng đắn vấn đề trách nhiệm hình sự trong trƣờng hợp có hậu quả nguy hiểm cho xã hội đã xảy ra. Những tội phạm mà luật hình sự quy định hậu quả cụ thể là một dấu hiệu của cấu thành tội phạm (dấu hiệu bắt buộc) thì quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả nguy hiểm cho xã hội cũng là một dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm. Với những tội phạm có cấu thành hình thức, hậu quả không đƣợc luật quy định là một dấu hiệu của cấu thành tội phạm, nhƣng trong trƣờng hợp hậu quả nguy hiểm cho xã hội đã xảy ra thì xác định mối quan hệ nhân quả có ý nghĩa quan trọng đối với việc giải quyết trách nhiệm hình sự và quyết định hình phạt. Vấn đề quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả nguy hiểm cho xã hội không đƣợc quy định trực tiếp trong luật hình sự. Khoa học luật hình sự vận dụng lý luận về quan hệ nhân quả trong phép biện chứng duy vật vào lĩnh vực hình sự nhằm để giải pháp cho vấn đề trách nhiệm hình sự đối với hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng quan hệ nhân quả là một dạng của những liên hệ khách quan phổ biến, sự tác động qua lại và phụ thuộc nhau giữa các sự vật, hiện tƣợng của thế giới khách quan. Mối quan hệ nhân quả thể hiện ở chỗ một hiện tƣợng trong những điều kiện nhất định sản sinh ra hiện tƣợng khác nhƣ là quá trình tất yếu, mang tính quy luật. Hiện tƣợng thứ nhất gọi là nguyên nhân và hiện tƣợng thứ hai gọi là kết quả. Quá trình vận
  • 46. 38 động và phát triển của nguyên nhân và kết quả là vô tận, vì thế cần giới hạn những điều kiện và phạm vi cụ thể để nghiên cứu. Trong luật hình sự, nguyên nhân là hành vi trái pháp luật, có tính nguy hiểm cho xã hội đƣợc chủ thể nhận thức và điều khiển, kết quả là hậu quả nguy hiểm cho xã hội tức là các dạng thiệt hại gây ra cho quan hệ xã hội đƣợc luật hình sự bảo vệ. Điều 305 qui định, Tội không thi hành án có hậu quả là dấu hiệu bắt buộc nên việc hƣớng mối quan hệ nhân quả giữa hành vi không ra quyết định thi hành án hoặc không chấp hành quyết định thi hành án với hậu quả nghiệm trọng đã xảy ra. Việc xác định mối quan hệ nhân quả này phải dựa trên các căn cứ sau: - Hành vi trái pháp luật phải xảy ra trƣớc hậu quả nguy hiểm cho xã hội xét về thời gian. Nguyên nhân phải có trƣớc kết quả, hành vi trái pháp luật với tính cách là nguyên nhân phải xuất hiện trƣớc hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Đây là căn cứ đầu tiên xác định quan hệ nhân quả. - Hành vi trái pháp luật phải chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Khả năng chứa đựng hành vi có tính nguy hiểm cho xã hội và trái pháp luật, trong những điều kiện nhất định sẽ sản sinh ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Với tính cách là nguyên nhân, hành vi trái pháp luật thông thƣờng trực tiếp là thay đổi tình hình bình thƣờng của đối tƣợng tác động qua đó gây thiệt hại cho khách thể, ví dụ: hành vi đốt nhà dẫn đến tài sản của chủ sở hữu bị hủy hoại, hành vi giết ngƣời bằng cách bắn đã gây ra chết ngƣời. Nhƣng có hành vi trái pháp luật chỉ có vai trò “cộng hƣởng” trong quá trình gây ra thiệt hại cho khách thể. Ví dụ một ngƣời ngã xuống sông đang trong tình trạng sắp chết đuối, ngƣời khác trông thấy và có khả năng cứu giúp đã không cứu, kết quả ngƣời gặp nạn bị chết. Hành vi cứu giúp có vai trò “cộng hƣởng” làm cho tình trạng nguy hiểm mà nạn nhân đã
  • 47. 39 rơi vào trƣớc đó phát triển đến mức gây ra thiệt hại thực tế cho khách thể đƣợc luật hình sự bảo vệ. - Những hậu quả nguy hiểm cho xã hội đã xảy ra phải do chính hành vi trái pháp luật đã đƣợc thực hiện gây ra, là sự phát triển của khả năng chứa đựng những hành vi trái pháp luật thành thiệt hại trong thực tế. Quá trình nguyên nhân sản sinh ra kết quả chịu ảnh hƣởng của nhiều yếu tố với tính cách là điều kiện. Điều kiện ảnh hƣởng tới quá trình vận động của nguyên nhân thành kết quả chứ chính nó không sản sinh ra kết quả. Những điều kiện ảnh hƣởng đến quá trình phát sinh có thể là yếu tố tự nhiên, súc vật hoặc xử sự của con ngƣời. Khả năng chứa đựng trong hành vi trái pháp luật vận động thành hậu quả trong thực tế với mức độ, phạm vi và xảy ra với tốc độ nhƣ thế nào chịu chi phối của các điều kiện cụ thể khi hành vi đó đƣợc thực hiện. Ví dụ: hành vi đốt nhà nhằm hủy hoại tài sản của một công dân cụ thể do gặp gió lớn làm cho quá trình cháy mạnh, lan rộng nhanh đã gây ra thiệt hại lớn cho tài sản của nhiều ngƣời khác. Thực tiễn thấy rằng, có trƣờng hợp hậu quả nguy hiểm cho xã hội xảy ra về hình thức tƣơng ứng với khả năng gây thiệt hại chứa đựng trong hành vi trái pháp luật, nhƣng thực tế không phải là kết quả của hành vi đó mà do hành vi khác gây ra. Vì vậy, cơ quan có trách nhiệm chứng minh tội phạm phải xem xét, đánh giá cụ thể và toàn diện các sự kiện thực tế khi xác định mối quan hệ nhân quả để giải quyết trách nhiệm hình sự. Ví dụ: một ngƣời cố ý gây thƣơng tích nặng đã đe dọa đến tính mạng của ngƣời khác nhƣng có khả năng cứu chữa đƣợc, khi nằm điều trị trong bệnh viện do nhân viên y tế sử dụng nhầm lẫn thuốc điều trị dẫn đến ngộ độc thuốc và chết. Trong trƣờng hợp này hậu quả ngƣời bị chết không phải do chính hành vi cố ý gây thƣơng tích nặng gây ra, tuy rằng hậu quả đó nhìn về hình thức có những biểu hiện tƣơng tự với khả năng chứa đựng trong hành vi cố ý gây thƣơng tích nặng.