SlideShare a Scribd company logo
1 of 169
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN VĂN ĐÁP
DI TÍCH CHÙA DẠM TRONG HỆ THỐNG
CÁC CHÙA THỜI LÝ
Ngành: KHẢO CỔ HỌC
Mã số: 9 22 90 17
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHẢO CỔ HỌC
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. TỐNG TRUNG TÍN
2. TS. TRỊNH HOÀNG HIỆP
HÀ NỘI - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình tổng hợp và nghiên cứu khoa học của riêng
tôi. Các tài liệu trích dẫn trong luận án là trung thực, có nguồn gốc và xuất xứ rõ ràng.
Các kết quả nghiên cứu của luận án chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình
nghiên cứu nào khác.
NGHIÊN CỨU SINH
Nguyễn Văn Đáp
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện luận án, tôi luôn nhận được sự quan tâm giúp đỡ,
động viên kịp thời về mọi mặt của những người thân trong gia đình. Tôi cũng nhận
được sự giúp đỡ nhiệt tình và trách nhiệm của giáo viên hướng dẫn: PGS.TS. Tống
Trung Tín và TS. Trịnh Hoàng Hiệp, đồng thời, tôi luôn nhận được sự quan tâm, giúp
đỡ từ phía Tỉnh ủy, UBND tỉnh Bắc Ninh, Sở Nội vụ, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch
tỉnh Bắc Ninh cơ quan tôi đang công tác.
Bên cạnh đó, tôi cũng nhận được sự chỉ bảo ân cần, có nhiều ý kiến đóng góp
quý báu từ các nhà khoa học, các thầy cô giáo đã đào tạo tôi; các cán bộ công chức,
viên chức Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Ninh, Ban Quản lý di tích tỉnh,
Bảo tàng tỉnh; Thành ủy, UBND thành phố Bắc Ninh, phòng Văn hóa và Thông tin
thành phố Bắc Ninh; Đảng ủy, UBND xã Nam Sơn. Đặc biệt là nhân dân thôn Tự, xã
Nam Sơn, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh đã dành cho tôi tình cảm cũng như sự
giúp đỡ nhiệt tình trong những năm nghiên cứu tại di tích chùa Dạm. Điều đó đã giúp
tôi hoàn thành luận án của mình và qua đây cho phép tôi gửi tới Quý vị, Quý cơ quan
niềm kính trọng và biết ơn sâu sắc.
Xin trân trọng cảm ơn!
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU................................. 7
1.1. Vị trí địa - văn hóa.......................................................................................... 7
1.1.1. Vị trí địa lý, môi trường cảnh quan............................................................. 7
1.1.2. Đặc điểm lịch sử, văn hóa........................................................................... 8
1.2. Tư liệu và vấn đề.......................................................................................... 13
1.2.1. Chùa Dạm qua tài liệu cổ sử ..................................................................... 13
1.2.2. Thám sát khảo cổ học năm 2009............................................................... 16
1.2.3. Nghiên cứu chùa Dạm............................................................................... 17
1.3. Tiểu kết chương 1......................................................................................... 21
Chương 2: DI TÍCH KIẾN TRÚC VÀ NIÊN ĐẠI........................................ 23
2.1. Chùa Dạm qua các dấu tích trên thực địa .................................................... 23
2.2. Địa tầng chung, mặt bằng tổng thể bốn cấp nền .......................................... 27
2.2.1. Địa tầng chung .......................................................................................... 27
2.2.2. Mặt bằng tổng thể bốn cấp nền ................................................................. 27
2.3. Kè đá, hố cột và hố gia cố chân tảng thời Lý............................................... 45
2.3.1. Kè đá thời Lý............................................................................................. 45
2.3.2. Hố gia cố chân cột..................................................................................... 47
2.3.3. Hố gia cố chân tảng................................................................................... 48
2.4. Tiểu kết Chương 2........................................................................................ 48
Chương 3: HIỆN VẬT VÀ NIÊN ĐẠI............................................................ 52
3.1. Di vật lộ thiên còn sót lại ............................................................................. 52
3.1.1. Bia đá......................................................................................................... 52
3.1.2. Chân tảng................................................................................................... 53
3.1.3. Cột đá ........................................................................................................ 53
3.1.4. Móng chân đế tháp.................................................................................... 54
3.2. Di vật được phát hiện trong quá trình khai quật khảo cổ học...................... 54
3.2.1. Vật liệu kiến trúc....................................................................................... 54
3.2.2. Đồ gốm men.............................................................................................. 84
3.2.3. Sành mịn.................................................................................................... 97
3.3. Tiểu kết Chương 3...................................................................................... 105
Chương 4: DI TÍCH CHÙA DẠM TRONG HỆ THỐNG CÁC CHÙA
THỜI LÝ.......................................................................................................... 107
4.1. Hệ thống chùa, tháp thời Lý....................................................................... 107
4.1.1. Địa điểm núi Ngô Xá .............................................................................. 107
4.1.2. Địa điểm tháp Tường Long..................................................................... 109
4.1.3. Địa điểm chùa Lạng ................................................................................ 110
4.1.4. Địa điểm đền Cầu Từ .............................................................................. 110
4.1.5. Địa điểm chùa Cao.................................................................................. 111
4.1.6. Địa điểm chùa Phật Tích......................................................................... 113
4.1.7. Địa điểm chùa Linh Xứng....................................................................... 115
4.1.8. Địa điểm chùa Long Đọi Sơn.................................................................. 115
4.1.9. Địa điểm chùa Bà Tấm............................................................................ 117
4.1.10. Tổng quan về kiến trúc thời Lý ở Thăng Long..................................... 120
4.2.1. Giá trị kiến trúc ....................................................................................... 122
4.2.2. Giá trị về hệ thống di vật......................................................................... 129
4.3. Chùa Dạm góp phần tìm hiểu lịch sử kiến trúc Phật giáo Việt Nam......... 129
4.4. Phương án bảo tồn khu di tích chùa Dạm.................................................. 139
4.4.1. Cấp nền 1, 2 và 3..................................................................................... 139
4.4.2. Cấp nền 4................................................................................................. 140
4.4.3. Gia cố bờ kè đá và lối lên - xuống trên 4 cấp nền................................... 140
4.4.4. Phương pháp xử lý chung cho phương án bảo tồn ................................. 141
4.4.5. Bảo tồn di sản dưới dạng số và làm mô hình giả định khu di tích chùa
Dạm.................................................................................................................... 142
4.5. Tiểu kết chương 4....................................................................................... 142
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 144
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ.......................... 151
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 152
BẢNG CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BTLSVN - Bảo tàng Lịch sử Việt Nam
CDKT - Chùa Dạm kiến trúc
CT - Chân tảng
DTH - Dân tộc học
ĐHTHHN - Đại học Tổng hợp Hà Nội
GĐVH - Giai đoạn văn hóa
GS - Giáo sư
HS - Hồ sơ
HV - Hiện vật
KCH - Khảo cổ học
KHKT - Khoa học kỹ thuật
KHXH - Khoa học xã hội
KHXH & NVQG - Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia
LA - Luận án
LV - Luận văn
HGCCT - Hố gia cố chân tảng
NCLS - Nghiên cứu lịch sử
NPHMVKCH - Những phát hiện mới về khảo cổ học
Nxb - Nhà xuất bản
PGS - Phó giáo sư
PTS - Phó tiến sĩ
TBKH - Thông báo khoa học
TLVKCH - Tư liệu Viện Khảo cổ học
TK - Thế kỷ
TL - Tư liệu
TS - Tiến sĩ
TT - Thứ tự
Tr - Trang
VHTT - Văn hóa thông tin
THUẬT NGỮ ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG LUẬN ÁN
Cho đến thời điểm hiện nay ngành Khảo cổ học Việt Nam chưa có một chuyên
khảo riêng về thuật ngữ Khảo cổ học. Do vậy, mỗi nhà nghiên cứu từ kinh nghiệm
nghiên cứu của mình đã đưa ra những thuật ngữ riêng với mục đích làm sao thuận lợi
cho việc miêu tả hiện vật, di tích... một cách dễ hiểu để đến được với người đọc và đó
cũng là lý do mà tôi gặp khó khăn khi trình bày những thuật ngữ này. Tôi tôn trọng
thuật ngữ mà những người đi trước đã sử dụng, nhưng bên cạnh đó với nguồn tư liệu
mới hiện nay tôi sẽ sử dụng một số thuật ngữ khác với trước đây, ví dụ:
Đấu củng: là một kết cấu gồm hai bộ phận là "đấu" (đóng vai trò là bệ đỡ) và
"củng" (giống hình khuỷu tay, đóng vai trò là tay đỡ), được dùng để đỡ một kết cấu
khác bên trên, ví dụ như mái hiên.
Bích ngõa: ngói men xanh.
Uyên ngõa: ngói uyên ương.
Ngói vảy và liên ngõa: ngói sen
Thủy ba: núi [35].
Hố gia cố chân tảng: thay cho thuật ngữ móng trụ, trụ sỏi, móng cột.
Rãnh thoát nước: không có nắp.
Cống: có nắp [42].
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Chùa Dạm có tên chữ “Đại Lãm tự” nằm trên núi Dạm thuộc thôn Tự, xã
Nam Sơn, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh. Chùa do Nguyên Phi Ỷ Lan cho xây
dựng, khuôn viên chùa có nhiều công trình nguy nga đồ sộ, xếp vào hàng đại danh lam
kiêm hành cung. Theo Đại Việt sử ký toàn thư: năm Bính Dần Quảng Hựu thứ 2 (1086)
“Làm chùa ở núi Đại Lãm”, năm Đinh Mão Quảng Hựu thứ 3 (1087) “Mùa đông tháng
10 vua ngự đến chùa Lãm Sơn. Đêm ban yến cho các quan, vua thân làm 2 bài thơ Lãm
Sơn dạ yến”, năm Mậu Thìn Quảng Hựu năm thứ 4 (1088) “Mùa đông, tháng 10 xây
tháp chùa Lãm Sơn”, năm Giáp Tuất Hội Phong thứ 3 (1094) “Mùa hạ, tháng 4 tháp
chùa Lãm Sơn xây xong”, năm Ất Dậu Long Phù thứ 5 (1105) “Mùa thu, tháng 9 làm
hai ngọn tháp chỏm trắng ở chùa Diên Hựu, 3 ngọn tháp chỏm đá ở chùa Lãm Sơn”.
Như vậy, chùa Dạm bắt đầu khởi đặt từ mùa đông năm 1086, đến mùa hạ năm
1094 mới hoàn thành. Công việc xây tháp cứ dần dần được bổ sung về sau. Vua Lý Nhân
Tông rất chăm lo đến công trình chùa Dạm. Nhà vua từng thân hành về thăm, đề thơ, viết
biển và đặt tên cho chùa. Trong thời gian dài, có sự đầu tư đặc biệt của triều đình, đã thấy
rõ quy mô to rộng của chùa Dạm trong lịch sử.
Thời Lý chùa được xây dựng quy mô lớn trên 4 lớp nền trườn theo sườn núi lên
cao dần ở lưng trừng núi và dựa hẳn vào sườn núi. Các nhà kiến trúc thời Lý đã tìm
thấy ở thiên nhiên và lợi dụng thiên nhiên để nhân cái đẹp của công trình. Mặt khác
chùa Dạm xưa là nơi tập trung trí tuệ của nhân dân Bắc Ninh - Kinh Bắc nói riêng và
của cả dân tộc nói chung đã xây dựng lên công trình tín ngưỡng, tôn giáo tiêu biểu
theo lối đại danh lam kiêm hành cung.
1.2. Thời Lý, Phật giáo phát triển mạnh, ảnh hưởng rộng lớn và sâu sắc trong
quần chúng nhân dân và giai cấp thống trị. Trong chừng mực nhất định, đạo Phật có
những mặt tích cực phù hợp với tư tưởng, nguyện vọng của nhân dân Đại Việt thời Lý.
Tư tưởng từ bi bác ái và ôn hòa của đạo Phật đã dễ dàng chinh phục được tấm lòng của
những con người vừa mới thoát khỏi sự đè nén của hơn nghìn năm Bắc thuộc, chống
Bắc thuộc. Nhờ vào địa vị quốc giáo của đạo Phật, hầu hết các chùa, tháp lớn thời này
đều do triều đình đứng ra xây dựng. Không những chỉ riêng ở kinh đô mà ngay ở Bắc
Ninh - quê hương nhà Lý, chùa, tháp được xây dựng ở khắp các làng xã.
Hiện tại, không còn một ngôi chùa tháp nào thời Lý ở Bắc Ninh tồn tại. Qua
khảo sát nghiên cứu dấu tích ở các di tích, như dấu tích nền móng kiến trúc, vật liệu
xây dựng: gạch, ngói, đá... còn lưu lại cùng với nguồn tư liệu khác như: bia ký, vật liệu
trang trí bằng đá, đất nung... và nhiều nguồn tài liệu khác như thư tịch; nhân dân các
2
làng xã có di tích cung cấp, cho thấy toàn tỉnh Bắc Ninh còn 23 dấu tích chùa tháp thời
Lý. Căn cứ tài liệu và những dấu tích chùa tháp thời Lý ở Bắc Ninh hiện nay, chúng
tôi có một số nhận xét sau đây:
Về địa bàn phân bố: Chùa tháp có mặt ở khắp các làng xã thuộc các huyện và
thành phố trong tỉnh, nhưng tập trung đậm đặc hơn cả là vùng quê hương nhà Lý thuộc
phường Đình Bảng, phường Tân Hồng, xã Tương Giang (thị xã Từ Sơn ngày nay) và
huyện Tiên Du với 12 di tích chùa tháp thuộc thời Lý. So với những ghi chép trong các tài
liệu thư tịch, cho thấy những di tích chùa tháp thời Lý còn lại ở tỉnh Bắc Ninh còn rất ít.
Bắc Ninh nổi tiếng là quê hương chùa tháp. Ngay từ những thế kỷ đầu Công
nguyên, Phật giáo từ Ấn Độ đã được truyền vào Việt Nam, qua trung tâm Luy Lâu -
Dâu hay Liên Lâu nay thuộc xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành và trung tâm Phật
Tích, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Hệ thống chùa tháp đã được dựng lên ở Luy Lâu,
Phật Tích, đáp ứng nhu cầu truyền bá đạo Phật của các tăng sĩ Ấn Độ, sau đó là các
tăng sĩ Trung Quốc, với hàng chục công trình chùa tháp như chùa Dâu, chùa tổ Mãn
Xá, các chùa thờ “Tứ pháp” ở Luy Lâu, các chùa Phúc Nghiêm, chùa Linh Quang,
chùa Phật Tích... ở vùng Phật Tích. Bắc Ninh trở thành tổ đình của Phật giáo Việt
Nam, quê hương của thiền phái Tì ni đa lưu chi, thiền phái Vô Ngôn Thông... trong
suốt nghìn năm Bắc thuộc với hệ thống chùa tháp dày đặc ở khắp các làng xã.
Trước thời Lý, vào thời Đinh - Lê, hệ thống chùa tháp ở châu Cổ Pháp đã được
xây cất ở nhiều làng xã, như chùa Kiến Sơ (Phù Đổng), chùa Cổ Pháp, chùa Tiêu Sơn,
chùa Lục Tổ, chùa Ứng Tâm... Đó là chốn tu hành của nhiều bậc cao tăng nổi tiếng đã
có công đối với việc dựng lập vương triều Lý, như thiền sư Khánh Văn, Vạn Hạnh…
Đặc biệt thời Lý, một triều đại vốn ngay từ đầu đã gắn bó với Phật giáo, sư
tăng, chùa tháp. Các vua Lý và hoàng tộc đều sùng đạo Phật, nên chùa tháp được xây
cất ở khắp các làng xã trong nước, đặc biệt là trên quê hương nhà Lý. Sử cũ cho biết,
ngay sau khi lên ngôi Lý Thái Tổ đã “xuống chiếu phát tiền kho 2 vạn quan, thuê thợ
làm chùa ở Phủ Thiên Đức tất cả 8 sở”, rồi “hạ lệnh cho các hương ấp, chỗ nào có
chùa quán đều phải sửa chữa lại”. Đến triều vua Lý Thái Tông năm 1031 “xuống
chiếu, phát tiền thuê thợ làm chùa ở các hương ấp, tất cả 150 chỗ”. Riêng thái hậu Ỷ
Lan “dựng chùa thờ Phật trước sau hơn trăm chùa”. Dưới triều Lý, nhà vua đã cho
xây các chùa tháp, đúc chuông, đúc tượng Phật ở nhiều nơi, đặc biệt là quê hương nhà
Lý, như chùa Phật Tích, chùa Đại Lãm, chùa Trùng Quang, chùa Bách Môn, chùa Phả
Lại... đồng thời tiến hành tu bổ, sửa chữa nhiều chùa lớn, như chùa Dâu (chùa Pháp
Vân)... Nhà nước còn phân các chùa trong nước làm ba hạng: đại, trung và tiểu danh
lam, cử quan lại quản lý ruộng đất và tài sản nhà chùa. Đó là chức đề cử.
3
Sử thần Lê Văn Hưu nhận xét: “... Lý Thái Tổ lên ngôi mới được 2 năm, đã
dựng 8 chùa ở phủ Thiên Đức, lại trùng tu chùa quán ở các lộ và độ cho làm tăng hơn
nghìn người ở kinh sư... dân chúng quá nửa làm sư sãi, trong nước chỗ nào cũng chùa
chiền” [123]. Những cứ liệu lịch sử trên cho thấy, chùa tháp thời Lý được dựng đặt
khắp các nơi, nhất là quê hương nhà Lý.
1.3. Khu di tích chùa Dạm thông qua nguồn sử liệu chữ viết và một vài tư liệu
khảo cổ học hiện còn ở di tích này như: trụ đá trang trí hoa văn, bờ kè đá ở các cấp
nền, bia đá... Ngoài nguồn tư liệu này hầu như chúng ta không biết gì về mặt bằng kiến
trúc, vật liệu gia cố kiến trúc, vật liệu xây dựng, vật liệu trang trí kiến trúc, vật dụng,
đồ thờ... ở khu di tích chùa Dạm.
Trước những yêu cầu trên, năm 2009 Ban quản lý di tích tỉnh Bắc Ninh tiến
hành khai quật thăm dò địa điểm chùa Dạm. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu này từ cuối
năm năm 2011 đến năm 2014, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Ninh phối
hợp với Viện Khảo cổ học khai quật khảo cổ học tổng thể địa điểm chùa Dạm. Kết quả
nghiên cứu cho thấy dấu tích một ngôi chùa, tháp của Hoàng gia thời Lý có mặt bằng
quy mô, cấu trúc khác lạ, kỹ thuật xây dựng cầu kỳ công phu, trang trí tinh xảo vào
bậc nhất so với tất cả các ngôi chùa ở Việt Nam hiện biết. Cùng với thư tịch cổ, các tài
liệu khảo cổ học đã mở ra nhận thức về kết cấu mặt bằng của toàn thể kiến trúc - tháp
trước, chùa sau của khu di tích chùa Dạm.
Về hệ thống di vật chùa Dạm cho dù đã bị thất lạc và mất mát về cơ bản, những
di vật thu được trong quá trình khai quật cũng khá phong phú. Các di vật kiến trúc
phản ánh đặc điểm của vật liệu và nghệ thuật trang trí chùa Dạm qua các thời, các di
vật gốm sứ, sành, đồ đất nung... phản ánh lịch sử lâu dài của di tích từ thời Lý qua thời
Trần cho đến ngày nay.
1.4. Là cán bộ làm việc tại Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Ninh, tôi hy
vọng thông qua luận án sẽ đóng góp trực tiếp vào mảng nghiên cứu, bảo tồn và phát huy
giá trị di tích trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh nói riêng và giá trị di sản văn hóa nói chung.
Ngoài ra, tác giả luận án có cơ may tham gia quản lý dự án và tham gia đào
thám sát khảo cổ học năm 2009; khai quật khảo cổ học tổng thể khu di tích chùa Dạm
từ năm 2011 đến năm 2014; điều tra, lập hồ sơ, nghiên cứu các di tích liên quan và
cũng đã có một số công trình nghiên cứu về khảo cổ học, Hán Nôm về các di tích thời
Lý trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Đó là những điều kiện thuận lợi để tác giả mạnh dạn
chọn đề tài "Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý" làm đề tài luận án
tiến sĩ Lịch sử, chuyên ngành Khảo cổ học.
4
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích
Tổng hợp, cung cấp kết quả nghiên cứu về cột đá và các tháp của các nhà
nghiên cứu đi trước; nhận định bước đầu về cột đá chùa Dạm qua kết quả thu được từ
đợt khai quật tổng thể khảo cổ đã thực hiện.
Xác định đặc điểm cơ bản của các tháp chùa Dạm và so sánh các đặc trưng để
làm rõ vị trí, vai trò của chùa Dạm trong hệ thống di tích chùa tháp thời Lý.
Đề tài luận án sẽ tập trung đưa ra những giải thích về di tích chùa Dạm: mặt
bằng kiến trúc, quy mô, kỹ thuật xây dựng, trang trí kiến trúc... Thông qua kết quả
khảo cổ học thu được, đề tài luận án sẽ đưa ra bằng chứng về những lần trung tu vào
thời Trần, thời Lê Trung Hưng và mặt bằng kiến trúc thời Nguyễn cũng như các loại
hình hiện vật được dùng trong di tích.
2.2. Nhiệm vụ
- Nhận thức và làm rõ cấu trúc mặt bằng chùa Dạm thời Lý, thời Trần và các
thời đại sau đó.
- Công năng của công trình trong quần thể kiến trúc chùa Dạm, đặc biệt là công
năng của các công trình chùa Dạm thời Lý qua phân tích các di tích và di vật khảo cổ
học kết hợp các nguồn tài liệu khác.
- Thông qua so sánh, phân tích giữa chùa Dạm, chùa Phật Tích (Bắc Ninh),
chùa Cao (Bắc Giang), di tích Ngô Xá, Long Đọi (Hà Nam), chùa Lạng (Hưng Yên),
chùa Bà Tấm (Hà Nội), chùa tháp Tường Long (Hải Phòng)... để tìm hiểu về lịch sử
kiến trúc Phật giáo Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá giá trị di sản văn hóa, cung cấp cơ sở khoa học và thực
tiễn cho các hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di tích khu di tích chùa Dạm.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các di tích, di vật khảo cổ học ở di tích
chùa Dạm và một số ngôi chùa thời Lý trên địa bàn các tỉnh: Bắc Ninh, Bắc Giang, Hà
Nội, Hưng Yên, Hà Nam, Hải Phòng...
Nguồn tư liệu sử dụng trong đề tài luận án gồm: các báo cáo điều tra, khai quật
khảo cổ học, các công trình nghiên cứu đã được công bố trên các sách, tạp chí chuyên
ngành về khảo cổ học, mỹ thuật, văn hóa... và một số sách khoa học có liên quan như
thư tịch cổ, bia ký và tài liệu dân tộc học...
Đề tài cũng tham khảo về tư liệu các ngôi chùa thời Trần, Lê... giai đoạn sau ở
Bắc Việt Nam có liên quan nhất định đến luận án.
5
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Tập trung chính vào việc trình bày về di tích chùa Dạm (mặt bằng
kiến trúc, vật liệu xây dựng, vật liệu trang trí kiến trúc, đồ gốm sứ, đồ sành...) để từ đó
rút ra những nhận định về vị trí, quy mô và vai trò của di tích chùa Dạm trong lịch sử.
Ngoài ra, luận án cũng trình bày khái quát về một số ngôi chùa thời Lý trên địa bàn các
tỉnh như: Bắc Ninh, Bắc Giang, Hà Nội, Hưng Yên, Hà Nam, Hải Phòng... để nhận thấy
vị trí, vai trò của di tích, cũng như sự giao thoa văn hóa trong các ngôi chùa thời Lý.
- Về không gian và thời gian: Do trọng tâm và khuôn khổ của luận án nên chỉ
tập trung trình bày về di tích chùa Dạm và mối quan hệ văn hóa với các ngôi chùa thời
Lý ở Bắc Việt Nam, các di tích có niên đại muộn hơn chỉ mang tính tham khảo.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
- Luận án sử dụng các phương pháp khảo cổ học truyền thống như: điều tra, điền
dã, thám sát, khai quật khảo cổ học các di tích thời Lý trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, Bắc
Giang, Hà Nội, Hưng Yên, Hà Nam, Hải Phòng... có liên quan đến đề tài; phân loại, đo,
vẽ, khảo tả, chụp ảnh dấu vết kiến trúc, hiện vật tiêu biểu, phân tích so sánh tổng hợp
các di tích và di vật khảo cổ học, nhằm xác định niên đại, tính chất của các di tích.
- Sử dụng các phương pháp liên ngành như: dân tộc học, thư tịch cổ, Hán Nôm,
địa chất học, các ứng dụng của khoa học tự nhiên như vật lý, hóa học, địa lý, văn học
dân gian, kiến trúc dân gian góp phần luận giải các vấn đề kỹ thuật xây dựng, nguồn
gốc, vai trò, chức năng các công trình.
- Sử dụng phương pháp phân tích so sánh loại hình giữa các di tích, di vật để thấy
được tính đồng đại và lịch đại của các di tích khảo cổ học trong vùng, hay trên toàn khu vực.
- Vận dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để tìm hiểu, lý
giải, phân tích so sánh các sự kiện lịch sử, văn hóa trong từng địa bàn cụ thể, từ đó rút
ra các mối quan hệ về kinh tế, văn hóa - xã hội của các cộng đồng cư dân thời Lý.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Đóng góp vào lịch sử nghiên cứu về di tích thời Lý nói chung, chùa Dạm nói
riêng từ góc độ kiến trúc, nghệ thuật và khảo cổ học thông qua việc phân tích thực
trạng khu di tích chùa Dạm hiện được khai quật khảo cổ học tổng thể và so sánh với
các chùa, tháp thời Lý khác đã được khai quật. Đồng thời, lý giải về hiện trạng, đặc
điểm, mô hình, chức năng và cấu trúc các di tích thời Lý.
- Thông qua nghiên cứu khảo cổ, luận án cung cấp những thông tin mới, đầy đủ
hơn về chùa Dạm so với những hiểu biết từ trước đến nay.
6
- Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho công
tác bảo vệ và phát huy giá trị di tích chùa Dạm nói riêng, các di tích thời Lý nói chung.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Căn cứ vào so sánh các đặc trưng di tích, di vật, thư tịch cổ, văn bia, truyền
thuyết dân gian... có thể xác định các dấu tích kiến trúc đã xuất lộ là thuộc thời Lý. Di
tích đã được tu bổ, sửa chữa trong thời Trần, thời Lê và thời Nguyễn. Đây là một di
tích có giá trị lịch sử - văn hóa lớn.
- Những di tích đã xuất lộ cho chúng ta thấy dấu tích một ngôi chùa, tháp của
Hoàng gia thời Lý có mặt bằng quy mô, cấu trúc khác lạ, kỹ thuật xây dựng cầu kỳ công
phu, trang trí tinh xảo vào bậc nhất so với tất cả các ngôi chùa ở Việt Nam hiện biết.
- Mặc dù hệ thống di vật chùa Dạm đã bị thất lạc và mất mát về cơ bản, những di
vật thu được trong quá trình khai quật cũng khá phong phú. Các di vật kiến trúc phản
ảnh đặc điểm của vật liệu và nghệ thuật trang trí chùa Dạm qua các thời, các di vật gốm
sứ phản ánh lịch sử lâu dài của di tích từ thời Lý qua thời Trần cho đến ngày nay.
- Tổng thể các di vật tìm thấy và phản ánh tính chất Hoàng gia hàng đầu của
chùa Dạm trong hệ thống chùa tháp Hoàng gia thời Lý ở Bắc Ninh. Bên cạnh đó, các
di vật này cũng cung cấp nguồn tài liệu mang tính xác thực cao phục vụ cho việc
nghiên cứu bảo tồn tôn tạo, phục dựng di tích và phát huy giá trị của di tích.
- Kết quả khai quật khảo cổ học tổng thể khu di tích chùa Dạm đã cung cấp
nhiều tư liệu khoa học quan trọng trong việc nghiên cứu hệ thống chùa tháp Hoàng gia
thời Lý ở Bắc Ninh nói riêng, Bắc Việt Nam nói chung cũng như bổ sung tư liệu cho
việc thiết kế xây dựng chùa Dạm (mới).
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, Luận án có cơ
cấu như sau:
- Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài (17 tr, từ tr.7 - tr.23)
- Chương 2: Di tích kiến trúc và niên đại (28 trang, từ tr.24 - tr.52)
- Chương 3: Hiện vật và niên đại (53 trang, từ tr.53 - tr.106)
- Chương 4: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý (37 trang, từ
tr.107 - tr.144)
7
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Vị trí địa - văn hóa
1.1.1. Vị trí địa lý, môi trường cảnh quan
Bắc Ninh có diện tích tự nhiên 822,71 km2
, dân số 1 triệu 120 nghìn người, với
8 đơn vị hành chính gồm: thành phố Bắc Ninh, thị xã Từ Sơn, các huyện: Gia Bình,
Lương Tài, Thuận Thành, Quế Võ, Tiên Du và Yên Phong; có 97 xã, 29 phường, thị
trấn; 570 thôn, làng, 161 khu phố [77] (Bản đồ 1).
Bắc Ninh nằm ở trung tâm châu thổ sông Hồng có tọa độ từ 1050
54’
06’’
đến
1060
18’
50’’
kinh độ Đông, 200
58’
30’’
đến 2100
16’
00’’
vĩ độ Bắc; Bắc giáp tỉnh Bắc Giang,
Đông giáp tỉnh Hải Dương, Nam giáp tỉnh Hưng Yên, Tây giáp thành phố Hà Nội.
Về kiến tạo địa chất, Bắc Ninh mang những đặc điểm của cấu tạo địa chất vùng
trũng sông Hồng và vòng cung Đông Triều vùng Đông Bắc. Cấu tạo đất đá chủ yếu có
tuổi từ Cambri đến kỷ Đệ Tứ. Địa hình tương đối bằng phẳng, có hướng dốc từ Tây
Bắc xuống Đông Nam, độ dốc không lớn, độ cao phổ biến từ 4m đến 5m so với mặt
nước biển. Diện tích đồng bằng chiếm tuyệt đại đa số, đồi núi chỉ chiếm 0,53% diện
tích (62,5km2
), nhưng hệ thống sông ngòi, ao hồ dày đặc, bình quân từ 1 - 1,2km sông
ngòi/km2
, trong đó có 3 sông lớn chảy qua là sông Cầu, sông Đuống và sông Lục Đầu
- Thái Bình, tạo nguồn nước phong phú cho sản xuất và sinh hoạt.
Tài nguyên Bắc Ninh không phong phú, chủ yếu là nguyên liệu phục vụ cho sản
xuất vật liệu xây dựng như đất sét làm gốm, sứ, gạch ngói; một ít vùng có than bùn, đá
cát kết và sa thạch. Rừng còn lại rất ít, chủ yếu là rừng trồng, trữ lượng gỗ khoảng
3.280m3
. Phần lớn đất tự nhiên là đất nông nghiệp, chiếm tới 66% diện tích đất tự nhiên.
Nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình của Bắc Ninh là 230
c,
lượng mưa trung bình 1400 - 1600mm/năm.
Đặc điểm vị trí, địa lý và môi trường cảnh quan cũng như nguồn tài nguyên đất
đai, cho thấy Bắc Ninh vốn có lợi thế về sản xuất nông nghiệp (cấy lúa nước, trồng rau
màu…) đồng thời có nhiều thuận lợi cho việc phát triển các nghề thủ công và giao
thương buôn bán với các vùng miền trong nước và các nước trong khu vực.
Chùa Dạm nằm ở sườn phía Nam của dãy núi Dạm, núi này đột khởi, nổi giữa
những cánh đồng, ao hồ, sông, ngòi, bờ bãi là một bức tranh thiên nhiên tuyệt mỹ. Nếu
nhìn từ trên cao, toàn cảnh núi Dạm là một bức tranh thủy mặc hữu tình, với cánh
đồng lúa trải rộng và kéo dài đến bờ Bắc của sông Đuống. Dòng sông Đuống cổ kính
như một dải lụa mềm, uốn lượn, bao quanh một vùng đồng bằng trù phú, quanh năm
tươi tốt. Các làng mạc nằm quanh chân núi Dạm được gọi là các “làng Dạm” gồm:
8
Triều Thôn, Sơn Trung, Thái Bảo, Sơn Đông, Sơn Nam, Đa Cấu, Tự Thôn, Môn Tự và
Đông Dương (Bản đồ 2).
Chùa được bao bọc bởi các ngọn núi Long lĩnh, Phượng hoàng, Kỳ lân, núi
Rùa, những ngọn núi này có độ cao trên - dưới 70m so với mặt nước biển, soi mình
trên dòng sông Thiên Đức. Các nhà phong thủy xưa đều cho rằng, chùa Dạm được tọa
lạc trên đất “Tứ linh”, có rừng thông thoai thoải, không khí trong lành, dưới chân núi
là những xóm làng bình yên, trù phú với những người dân chất phác thuần hậu.
Sách An Nam chí nguyên của Cao Hùng Trưng ghi chép về núi Dạm như sau:
“Ngọn núi lởm chởm, cao vút, có thể lên cao để nhìn ra xa. Trong núi có chùa Thần
Quang trông ra sông Thiên Đức, thông bách xum xuê xanh tốt, nhìn rất dịu mắt”.
Sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú nói về núi Dạm: “Núi
Lãm Sơn ở huyện Quế Dương, có 16 xã ở quanh núi, có rất nhiều chùa cổ, cảnh trí sông
núi rất âm u tịch mịch. Trên núi là chỗ tu hành của sư Không Lộ, dấu cũ nay vẫn còn”.
Vào thời Nguyễn, sách Bắc Ninh toàn tỉnh dư địa chí nói về chùa Dạm: “Suối
chảy vòng quanh núi. Cây cối rườm rà, trông cả vùng như một bức tranh vẽ. Từ xưa ở
đây có tiếng là cảnh danh thắng, thi nhân đề thơ rất nhiều”.
Có thể thấy, núi Dạm chạy dọc và nghiêng theo hướng Đông - Tây, nên tạo ra
các dòng chảy phụ thuộc theo hướng nghiêng của núi. Do vậy, cả triền núi này xưa kia
cũng là trục đường bộ nối liền vùng Đông Bắc, Lục Đầu với vùng châu thổ Kinh Bắc.
Trục đường bộ này đi qua các làng: Sơn Đông, Sơn Dương, Sơn Trung của tổng Lãm
Dương, qua khu vực núi ba huyện, khu vực Sơn thuộc huyện Tiên Du để về trung tâm
Phật giáo Phật Tích. Từ trung tâm Phật giáo Phật Tích, con đường bộ sẽ về trung tâm
Phật giáo Tiêu Sơn - Lục Tổ. Đây là tuyến giao thông đường bộ cổ xưa, tuyến đường
dựa theo triền núi để đi về được khắp cả vùng Quế Dương, Võ Giàng, Tiên Du. Tuyến
đường giao thông đường bộ này có lẽ được hình thành từ thời thuộc Hán, Đường và
duy trì đến thời Lý, Trần.
Ngoài tuyến đường giao thông bộ có từ lâu đời, vào thời Lý, sông Thiên Đức
(sông Đuống) và ngòi Con Tên là tuyến đường thủy quan trọng phục vụ cho việc đi lại
và các chuyến hành hương, thăng viếng của các vị hoàng đế, hoàng gia, giới quý tộc
và đông đảo tín đồ Phật tử về chùa Dạm lễ Phật.
1.1.2. Đặc điểm lịch sử, văn hóa
1.1.2.1. Tên gọi và địa giới tỉnh Bắc Ninh trong lịch sử
Trong lịch sử xây dựng và phát triển của dân tộc, tỉnh Bắc Ninh đã nhiều lần
thay đổi về tên gọi và địa giới, đơn vị hành chính. Căn cứ vào các nguồn tài liệu lịch
sử và địa chí, thấy được sự thay đổi như sau: thời Hùng Vương và An Dương Vương
là bộ Vũ Ninh của quốc gia Văn Lang - Âu Lạc, đồng thời là nơi đặt quốc đô của nhà
9
nước Âu Lạc là kinh thành Cổ Loa (huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội) (128). Bộ
Vũ Ninh thời kỳ này có địa vực rộng, gồm tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang ngày nay và
huyện Gia Lâm, Đông Anh (thành phố Hà Nội ngày nay). Thời thuộc Hán thuộc quận
Giao Chỉ với hai huyện Luy Lâu và Long Biên (hoặc Long Uyên), quận trị của quận
Giao Chỉ đóng ở Luy Lâu (xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành). Thời thuộc Ngô
thuộc quận Giao Châu. Thời thuộc Tấn thuộc quận Giao Chỉ với các huyện Long Biên,
Luy Lâu, Vũ Ninh và Khúc Dương. Đầu đời thuộc Đường, Bắc Ninh được gộp trong
địa phận Giao Châu, Đạo Châu, Long Châu thuộc Giao Châu đô hộ phủ, sau thuộc An
Nam đô hộ phủ.
Thời Lý, Bắc Ninh bao gồm cả phủ Phú Lương. Căn cứ vào các nguồn tài liệu,
thời Lý, vùng đất tỉnh Bắc Ninh ngày nay thuộc hai đơn vị hành chính của Lộ Bắc
Giang là: Phủ Thiên Đức (gồm Từ Sơn, Tiên Du, Yên Phong, Quế Võ…); Phủ Siêu
Loại (vùng Thuận Thành, Gia Bình, Lương Tài). Thời Trần, Bắc Ninh thuộc lộ Bắc
Giang, gồm: Lộ Bắc Giang (có huyện Siêu Loại, huyện Gia Lâm); Châu Gia Lâm (có
huyện Yên Định, huyện Tế Giang, huyện Thiện Tài); Châu Vũ Ninh (huyện Tiên Du,
huyện Vũ Ninh, huyện Đông Ngàn, huyện Từ Sơn, huyện Yên Phong). Thời Hồ, Bắc
Ninh thuộc lộ Bắc Giang như đơn vị hành chính thời Trần. Thời thuộc Minh, Bắc Ninh
thuộc phủ Bắc Giang. Thời Lê thuộc Bắc Đạo: Năm Thuận Thiên thứ nhất (1428) Lê
Thánh Tông đổi là đạo Bắc Giang. Năm Quang Thuận thứ 7 (1466) đến năm 1469 đổi
là Kinh Bắc. Năm Hồng Đức thứ 21 (1490) đổi là Kinh Bắc xứ. Triều Gia Long (1802
- 1840) đổi tên là trấn Bắc Ninh (1822) và tỉnh Bắc Ninh (1831). Xứ Kinh Bắc thời Lê,
trấn rồi tỉnh Bắc Ninh thời Nguyễn, về cơ bản không thay đổi về địa giới và đơn vị
hành chính. Các đơn vị hành chính bao gồm 4 phủ (Thuận An, Từ Sơn, Bắc Hà, Lạng
Giang) và 20 huyện. Cuối thời Lê, đầu Nguyễn, Bắc Ninh có hai phủ là phủ Thuận An
và phủ Từ Sơn, gồm các huyện sau: Đông Ngàn, Tiên Du, Quế Dương, Võ Giàng, Yên
Phong, Siêu Loại, Gia Bình, Lương Tài, Gia Lâm và Văn Giang (10 huyện). Thời
thuộc Pháp, vào ngày 10/10/1895, chính quyền thực dân chia tỉnh Bắc Ninh làm hai
tỉnh là Bắc Giang và Bắc Ninh. Tỉnh Bắc Ninh gồm các đơn vị hành chính ở phía Nam
sông Cầu. Các đơn vị hành chính thuộc phía Bắc sông Cầu thuộc tỉnh mới mang tên
tỉnh Bắc Giang.
Sau năm 1895, tỉnh Bắc Ninh gồm các huyện thuộc hai phủ Từ Sơn và Thuận
An. Từ năm 1925 đến 1945, các đơn vị hành chính của tỉnh Bắc Ninh gồm 2 phủ, 8
huyện (78 tổng, 559 xã) là: phủ Thuận Thành, phủ Từ Sơn và các huyện Gia Bình, Gia
Lâm, Lang Tài, Quế Dương, Tiên Du, Văn Giang, Võ Giàng, Yên Phong.
Sau cách mạng Tháng Tám năm 1945, các đơn vị hành chính của tỉnh Bắc Ninh
có một số thay đổi sau đây: bỏ các đơn vị phủ, tổng. Cấp xã được mở rộng, gồm một
10
số làng (hay thôn). Tháng 2 năm 1947, huyện Văn Giang nhập vào tỉnh Hưng Yên.
Tháng 8 năm 1950, hai huyện Lương Tài và Gia Bình sáp nhập thành huyện Gia
Lương. Năm 1962, hai huyện Quế Dương và Võ Giàng sáp nhập thành huyện Quế Võ;
huyện Tiên Du sáp nhập với huyện Từ Sơn thành huyện Tiên Sơn. Huyện Gia Lâm
tách và nhập vào thành phố Hà Nội cùng với 2 xã của huyện Thuận Thành, 2 xã của
huyện Tiên Du và 8 xã của huyện Từ Sơn.
Ngày 1/4/1963 hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang hợp nhất thành tỉnh Hà Bắc.
Đơn vị hành chính của tỉnh Bắc Ninh trong thời kỳ sáp nhập thành tỉnh Hà Bắc, gồm:
thị xã Bắc Ninh, các huyện Yên Phong, Thuận Thành, Tiên Sơn, Quế Võ, Gia Lương.
Ngày 6/11/1996, kỳ họp thứ X Quốc hội khóa IX nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam ra Nghị quyết chia tỉnh Hà Bắc làm hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang.
Tỉnh Bắc Ninh được tái lập gồm 1 thị xã Bắc Ninh, 5 huyện: Tiên Sơn, Quế Võ,
Yên Phong, Thuận Thành, Gia Lương. Ngày 11/8/1999, Chính phủ ra Nghị định số
68/1999/CP tách huyện Tiên Sơn thành hai huyện Tiên Du và Từ Sơn, tách huyện Gia
Lương thành hai huyện Gia Bình và Lương Tài. Ngày 25/1/2006, Chính phủ ra Nghị
định số 15/2006/NĐ-CP thành lập thành phố Bắc Ninh, trên cơ sở thị xã Bắc Ninh.
Ngày 24/9/2008, Chính phủ ra Nghị định số 01/2008/NĐ-CP thành lập thị xã Từ Sơn
trên cơ sở huyện Từ Sơn. Trước đó, Chính phủ đã ra Nghị định thành lập các đơn vị:
thị trấn Phố Mới thuộc huyện Quế Võ vào ngày 7/10/1995, thị trấn Hồ thuộc huyện
Thuận Thành vào ngày 18/2/1997, thị trấn Chờ thuộc huyện Yên Phong vào ngày
9/1/1998, thị trấn Thứa thuộc huyện Lương Tài vào ngày 19/6/1998, thị trấn Lim thuộc
huyện Tiên Sơn vào ngày 10/12/1998, thị trấn Gia Bình thuộc huyện Gia Bình vào
ngày 4/8/2002.
Qua bao thăng trầm lịch sử, vùng đất Bắc Ninh, địa bàn cốt lõi của quốc gia
Văn Lang - Âu Lạc, của nền văn hiến Kinh Bắc, của quốc gia Đại Việt - Việt Nam.
“Giời Nam Việt vững nền tỉnh Bắc,
Ở địa dư mái Bắc nhị hà…”
(Kinh Bắc phong thổ diễn ca)
1.1.2.2. Lịch sử vùng đất và dân cư
Các kết quả nghiên cứu khảo cổ, lịch sử và văn hóa ở Bắc Ninh trong những
năm qua cho thấy nơi đây là địa bàn cư trú chủ yếu của người Việt đồng thời là bộ
phận cốt lõi của quốc gia Văn Lang - Âu Lạc. Từ hàng ngàn năm trước Công nguyên,
người Việt cổ đã cư trú lập làng ở ven sông Cầu, sông Dâu, sông Đuống, sông Ngũ
Huyện Khê, sông Tiêu Tương... mà dấu ấn để lại là hệ thống các di chỉ khảo cổ học
thuộc văn hóa Phùng Nguyên - Đồng Đậu - Gò Mun - Đông Sơn, như di chỉ Bãi Tự,
Từ Sơn, Xuân Ổ, Đồng Bạch, Nội Gầm, Lãng Ngâm, Đại Lai, Đại Trạch... [129] Đó là
11
dấu tích những làng xóm của cư dân Việt cổ, sống chủ yếu bằng canh tác nông nghiệp
(trồng lúa nước, rau màu, trồng dâu chăn tằm…), đánh bắt tôm cá... ở sông, ngòi, đầm,
hồ và làm một số nghề thủ công. Một vùng đất với cư dân chủ yếu sống bằng nghề
trồng dâu, chăn tằm được mang tên vùng Dâu với các địa danh: làng Dâu, tổng Dâu,
chợ Dâu, chùa Dâu, hội Dâu, sông Dâu, cầu Dâu...
Cùng với làm nông nghiệp, cư dân Việt cổ ở Bắc Ninh đã biết kết hợp làm các
nghề thủ công. Những di tích di chỉ xưởng sản xuất đồ trang sức bằng đá ngọc ở Bãi
Tự, Xuân Ổ, có niên đại thuộc văn hóa Phùng Nguyên muộn - Đồng Đậu sớm. Đặc
biệt, trong thành cổ Luy Lâu là nơi các nhà khảo cổ đã phát hiện được mảnh khuôn
đúc trống đồng loại I Heger và các loại hình hiện vật khác như dao găm, rìu, dáo, tấm
che ngực... cho thấy, hàng nghìn năm trước người Việt cổ nơi đây đã thông thạo các
nghề thủ công, đồng thời có sự giao thương buôn bán, tiếp xúc và hội nhập kinh tế -
văn hóa với các vùng miền, các nước trong khu vực và thế giới.
Hơn nghìn năm chống xâm lược và đồng hóa của phong kiến phương Bắc. Bắc
Ninh là trung tâm của cuộc đấu tranh lâu dài và khốc liệt của dân tộc. Các tài liệu thư
tịch, lịch sử và khảo cổ học cho thấy khu di tích Luy Lâu là quận trị Giao Chỉ, sau là
thủ phủ Châu Giao, trung tâm bộ máy cai trị nước ta của phong kiến phương Bắc gần
một thiên niên kỷ sau Công nguyên. Rải rác khắp các làng quê của Bắc Ninh và đậm
đặc nhất ở Luy Lâu là các di tích thuộc thời Hán - Đường như di chỉ cư trú, mộ táng,
thành lũy, nhà cửa, dinh thự, đền đài, chùa tháp... Những chứng tích đó cho thấy Bắc
Ninh là địa bàn trọng điểm thi hành các chính sách cai trị và đồng hóa của phong kiến
phương Bắc, đồng thời là trung tâm diễn ra các cuộc đấu tranh kiên trì của nhân dân ta
nhằm chống lại sự đồng hóa, bảo tồn văn hóa truyền thống, tiến tới giành lại nền độc
lập vào đầu thế kỷ thứ X.
Qua đêm trường đấu tranh, các làng xã Bắc Ninh được củng cố và có mối liên
kết bền vững, trở thành pháo đài chống lại sự kìm kẹp, đồng hóa của kẻ thù xâm lược.
Mối quan hệ cộng đồng gia tộc, họ hàng làng nước ngày càng bền chặt tạo thành sức
mạnh cộng đồng trong cuộc đấu tranh bảo tồn truyền thống văn hóa bản địa, trở thành
nội lực mạnh mẽ để giành lại nền độc lập dân tộc. Bắc Ninh chính là trung tâm của quá
trình giao lưu và tiếp xúc trong suốt thời kỳ Bắc thuộc.
Trị sở Luy Lâu - trung tâm chính trị, đồng thời là trung tâm kinh tế, thương mại,
trung tâm văn hóa và tôn giáo của quân Giao Chỉ và Châu Giao. Các di tích khảo cổ
học tập trung đậm đặc và phong phú gồm thành lũy, nơi cư trú, khu đô thị như phố
chợ, dinh thự, đền đài, nhà cửa, bến bãi, kho tàng, khu sản xuất gạch ngói, gốm sứ... là
những chứng tích vật chất cho thấy đây là một trung tâm chính trị, quân sự, kinh tế,
thương mại và văn hóa của Giao Chỉ, Châu Giao thời thuộc Hán - Đường. Cùng với
12
các nguồn tài liệu thư tịch, các nhà nghiên cứu đã khẳng định: “Trên đất Giao Chỉ,
trong suốt thời kỳ dài từ cuối thế kỷ II, tới thế kỷ IX - X, Luy Lâu không nhường vai
trò một đô thị lớn nhất cho bất cứ nơi nào” [131]. Luy Lâu là đô thị cảng mang tính
chất quốc tế.
Có thể khẳng định, Bắc Ninh với trung tâm Luy Lâu là nơi đầu tiên có trường
dạy chữ và văn hóa Hán ở nước ta, ngay từ đầu Công nguyên. Trên xứ Bắc - Bắc Ninh,
tầng lớp nho sĩ người Việt được hình thành và ngày càng đông đảo. Đây là lực lượng
giữ vai trò quan trọng trong tiếp xúc, thâu nhận các thành tựu của nền văn minh Trung
Quốc và Ấn Độ cổ đại, góp phần tích cực vào công cuộc bảo tồn và phát triển văn hóa
dân tộc, hình thành và phát triển bản sắc văn hóa vùng quê Bắc Ninh - Kinh Bắc: hiếu
học, trọng nhân nghĩa, cuộc sống của cá nhân và cộng đồng được tổ chức quy củ, nề nếp...
Bước vào kỷ nguyên Đại Việt, Bắc Ninh - Kinh Bắc là đất phên dậu phía Bắc
của Thăng Long - Đông Đô, giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc khai mở vương
triều Lý và nền văn minh Đại Việt cũng như công cuộc bảo vệ đất nước, xây dựng và
phát triển văn hóa với nhiều thành tựu rực rỡ “Nơi đây vũ công lừng lẫy”. Đó là chiến
thắng Như Nguyệt bên bờ sông Cầu, vang vọng bài tuyên ngôn độc lập năm 1077
“Nam quốc sơn hà nam đế cư...”, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống xâm lược
nhà Tống thế kỷ XI. Đó là chiến thắng Vạn Kiếp - Phả Lại - Lục Đầu - Bình Than
trong cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên - Mông thế kỷ XIII, là “Xương Giang
- Bình Than máu trôi đỏ nước (Bình Ngô đại cáo) trong kháng chiến chống xâm lược
nhà Minh. Những vũ công trong đấu tranh chống xâm lược trên miền quê xứ Bắc đã
tạo nên phẩm chất anh hùng và quả cảm của con người Bắc Ninh - Kinh Bắc.
Xứ Bắc - Bắc Ninh là vùng quê trù phú, kinh tế phát triển vào bậc nhất trong
“tứ trấn”, trở thành miền đất hứa, vẫy gọi cư dân mọi miền tới làm ăn sinh sống:
“Ai lên xứ Bắc mà trông,
Đất lành, gạo trắng nước trong thay là”
Nơi đây là vựa lúa của đồng bằng châu thổ, mà câu ca dân gian còn truyền khắp
vùng Đông - Nam - Đoài - Bắc:
“Tỉnh Bắc giá thóc mười hai,
Tỉnh Đông mười tám, tỉnh Đoài hai mươi”
Người Bắc Ninh không chỉ giỏi làm ruộng, mà còn khéo tay thợ, giàu truyền
thống khoa bảng và sáng tạo văn hóa nghệ thuật, được dân gian ca ngợi:
“Tỉnh Bắc có lịch, có lề,
Có nghề buôn bán, có nghề cửi canh
Có nghề xe chỉ, học hành,
Có nghề tô vẽ tờ tranh bốn mùa”
13
Bắc Ninh là tổ đình Phật giáo Việt Nam; quê hương nhà Lý - một triều đại sùng
mộ đạo Phật. Vì vậy, Bắc Ninh trở thành quê hương chùa tháp với câu ca dân gian
“Cầu Nam, chùa Bắc, đình Đoài”.
Bắc Ninh từ ngàn xưa nổi tiếng với những trung tâm Phật giáo, nơi có những
danh lam cổ tự vào bậc nhất Việt Nam như Chùa Dâu, chùa Bút Tháp, chùa Phật Tích,
Chùa Dạm, chùa Tiêu Sơn, chùa Cổ Pháp... Đó là những nơi hành đạo của các Thiền
sư danh tiếng như Khâu Đà La, Tì ni đa lưu chi, Pháp Hiền, Vạn Hạnh, Huyền Quang,
Dương Không Lộ... Tại các trung tâm Phật giáo, các sư tăng không chỉ truyền bá Phật
giáo cho dân chúng, mà còn góp phần quan trọng vào đời sống xã hội, làm phong phú
đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc với lòng vị tha, bác ái, trở thành nét tiêu biểu
của tinh thần đạo lý Việt Nam. Di sản văn hóa Phật giáo với các công trình kiến trúc
quy mô, nghệ thuật tinh xảo được thể hiện tập trung ở các công trình chùa tháp vùng
Bắc Ninh - Kinh Bắc, cùng với lễ hội chùa và tinh thần giáo lý Phật giáo đã thấm sâu
vào đời sống vật chất và tinh thần của người dân, trở thành bộ phận quan trọng của
tinh thần Việt Nam và văn hóa Việt Nam.
1.2. Tư liệu và vấn đề
1.2.1. Chùa Dạm qua tài liệu cổ sử
Theo tài liệu ghi chép cho biết dưới triều Lý (1009 - 1225), nhà Lý cho xây dựng
và khánh thành 53 ngôi chùa lớn trong đó có chùa Dạm. Về những ngôi chùa được xây
dựng dưới vương triều Lý, ngôi chùa trên núi Đại Lãm hay Lãm Sơn được ghi chép
trong các bộ sử và qua tài liệu văn bia hiện còn về Chùa Dạm, hay Thần Quang tự.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: năm Bính Dần (1086), vua Lý Nhân Tông,
niên hiệu Quảng Hựu năm thứ 2 “Làm chùa ở núi Đại Lãm”. Năm sau (1087) “Mùa
đông, tháng 10, vua ngự đến chùa Lãm Sơn. Đêm ban yến cho các quan, vua thân làm
hai bài thơ Lãm Sơn dạ yến”. Niên hiệu Quảng Hựu năm thứ 4 (1088), “Mùa đông,
tháng 10, xây tháp chùa Lãm Sơn”. Năm 1094 (vua Lý Nhân Tông, niên hiệu Hội
Phong năm thứ 3) “mùa hạ, tháng 4, tháp chùa Lãm Sơn xây xong”. Đến năm 1105,
vua Lý “Mùa thu, tháng 9, làm ba ngọn tháp chỏm đá ở chùa Lãm Sơn” [123].
Sách Việt Sử lược chép: năm 1086, niên hiệu Quảng Hựu năm thứ 2: “Mùa
đông, tháng 11, xây chùa ở núi Đại Lãm”. Năm Đinh Mão (Quảng Hựu năm thứ 3 -
1087) “Mùa đông, tháng 10, vua ngự ra Lãm Sơn. Ban đêm, vua đãi yến quần thần ở
trên núi. Vua làm hai bài thơ Lãm Sơn dạ yến” (tiệc yến ban đêm ở Lãm Sơn) viết ở đó
để lưu lại”. Năm 1088, hiệu Quảng Hựu năm thứ tư “Mùa đông, tháng 10, xây tháp ở
Lãm Sơn”. Đến năm Giáp Tuất, hiệu Hội Phong năm thứ 3 (1094) “Mùa thu, tháng 9,
chùa Lãm Sơn làm xong. Vua ban tên chùa là Cảnh Long Đồng Khánh. Vua thân đề
biển bằng chữ triện” [132].
14
Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục chỉ ghi chép 1 sự kiện duy nhất
diễn ra vào năm Đinh Mão, hiệu Quảng Hựu năm thứ 3 (1087) “Tháng 10, mùa đông.
Mở yến tiệc thết các bầy tôi tại chùa Lãm Sơn. Năm Quảng Hựu thứ 2 (1086), làm
chùa này; đến đây ngự giá đến chơi, đêm mở yến tiệc thết quần thần. Nhà vua có làm
thơ “Lãm Sơn dạ yến” [72].
Sách Đại Nam nhất thống chí phần tỉnh Bắc Ninh, đề cập đến núi sông trong
tỉnh, sách viết: “Núi Lãm Sơn: ở địa phận tổng Lãm Sơn... trong núi có chùa Đại Lãm,
lại có chùa Thần Quang...”. Phần chùa quán, sách viết “Chùa Đại Lãm ở sơn phận
tổng Lãm Sơn huyện Quế Dương... năm Quảng Hựu thứ 2 (1086) vua Lý Nhân Tông
dựng chùa Đại Lãm. Năm thứ 3 nhà vua đến thăm, đêm thết yến bầy tôi, thân làm hai
bài thơ “Lãm Sơn dạ yến”. Năm Long Phù thứ 5 (1105) dựng 3 tháp đá ở chùa Đại
Lãm” [71].
Qua tài liệu thư tịch có thể nhận thấy, trên núi Đại Lãm, năm 1086 đã xây dựng
một ngôi chùa có tên là Lãm Sơn. Bên cạnh chùa, trong quần thể đó còn có tháp đá
xây dựng năm 1088, đến năm 1105 thấy ba chỏm tháp bằng đá. Sau 9 năm xây dựng,
đến năm 1094 thì hoàn thành, nhà vua đến dự và ban cho bốn chữ triện "Cảnh Long
Đồng Khánh".
Tuy nhiên, có một vấn đề là chùa Đại Lãm, hay Lãm Sơn với chùa Thần Quang
như ghi chép của Đại Nam nhất thống trí có phải là một?
Trong Văn thơ Lý - Trần, tập 2, đã đăng bài thơ của Trần Nhân Tông với tiêu
đề “Đại Lãm Thần Quang tự”. Chắc hẳn khi làm bài thơ này, vua Trần Nhân Tông đã
đến thăm chùa nhưng không được các tài liệu sử khi chép lại. Và các tài liệu cổ sử
không cho biết thời điểm ra đời tên gọi chùa Thần Quang, do vậy theo chúng tôi có hai
khả năng: thứ nhất, trước thời điểm ra đời bài thơ trên, đã có ngôi chùa có tên là Thần
Quang có thể được đổi tên vào đầu thời Trần, do chữ Cảnh trong "Cảnh Long Đồng
Khánh" trùng tên với vị vua đầu tiên của triều Trần là Trần Cảnh, vì kỵ húy nên mới
đổi là "Thần Quang"; thứ hai, khi đến đây, ngưỡng mộ trước phong cảnh thần tiên và
sự nguy nga của các công trình kiến trúc, vua Trần Nhân Tông đã đổi tên, gọi là chùa
Thần Quang sau đó làm bài thơ trên.
Ghi chép qua tài liệu văn bia: trong phạm vi chùa hiện nay còn 2 tấm bia đá,
tấm thứ nhất được đặt trên lưng rùa ở trên bề mặt của móng tháp đá ở cấp nền 2, tấm
thứ hai hiện được đưa bảo quản tại ngôi chùa tạm ở cấp nền 3. Trong Tổng tập thác
bản Hán - Nôm, tập 6, số thứ tự thác bản 5459 và 5460, có thêm hai thác bản của một
tấm bia nữa, khắc chữ hai mặt. Mặt trước ghi tiêu đề “大 覧 神 光 寺 重 修 碑 記 -
Đại Lãm Thần Quang tự trùng tu bi kí”, mặt sau không có tiêu đề, bia ghi về việc
15
trùng tu chùa Đại Lãm Thần Quang được khắc năm Chính Hòa thứ 14 (1694). Trán bia
được chạm khắc trang trí mô típ “Lưỡng long chầu nguyệt” ở cả mặt trước và mặt sau.
Kích thước bia 0,44 x 0,72m. Nội dung bia ghi: Chùa Thần Quang là một danh lam
thắng cảnh. Năm Quý Dậu (1693), các sãi vãi và thiện nam tín nữ thập phương đã
hưng công trùng tu chùa, đến năm Giáp Tuất (1694) thì hoàn thành (Bản dập...).
Như vậy, hai tấm bia ở cấp nền 3 đúng với nội dung bia số 5458 tìm được trong
thác bản, còn tấm bia ở cấp nền 2 không trùng với tấm bia còn lại tìm được trong thác
bản do chữ đã mờ không đọc được nội dung. Nhưng cả hai thác bản bia tìm được đều
ghi chép về chùa Thần Quang trên núi Đại Lãm, hoặc chùa Đại Lãm Thần Quang.
Qua tư liệu thư tịch cổ và văn bia chúng ta thấy có một số điểm lưu ý sau: Thư
tịch cổ trong thời Lý chỉ đề cập đến chùa Lãm Sơn hoặc Cảnh Long Đồng Khánh trên
núi Đại Lãm. Các tài liệu văn bia được khắc vào cuối thế kỷ XVII, niên hiệu Chính
Hòa đều thống nhất một tên gọi là chùa Thần Quang và trùng tên gọi trong nhan đề bài
thơ của vua Trần Nhân Tông. Như vậy, có thể thấy rằng sau khi ra đời bài thơ, tên gọi
của ngôi chùa được sử dụng liên tục cho đến ngày nay. Tam quan của chùa Thần
Quang có 2 pho tượng Hộ pháp ở 2 bên. Như thế có thể hiểu trên núi Đại Lãm có một
ngôi chùa Lãm Sơn, Cảnh Long Đồng Khánh, Thần Quang hay Đại Lãm Thần Quang.
Vậy các tên gọi trên có phải thống nhất dùng để chỉ đích danh ngôi chùa hiện nay?.
Căn cứ vào các dấu tích còn lại trên thực địa, các tài liệu thư tịch và văn bia, thì
“Đại Lãm Thần Quang tự” có thể hiểu là chùa Thần Quang ở núi Đại Lãm. Như vậy,
có thể hiểu năm 1086, vua Lý Nhân Tông cho xây chùa Lãm Sơn trên núi Đại Lãm,
đến năm 1094 khi khánh thành tên chùa được đặt là Cảnh Long Đồng Khánh, trong
khoảng thời gian từ đó đến đời vua Trần Nhân Tông, thời điểm ra đời bài thơ “Đại
Lãm Thần Quang tự”, chùa mang tên chữ là Thần Quang cho đến nay. Quy mô, kiến
trúc chùa Dạm như thế nào cho đến nay chưa có tài liệu nào đề cập đến, tài liệu chỉ
cho biết tại đây có 3 ngôi tháp chỏm bằng đá. Trong 3 cây tháp xây dựng tại chùa
Dạm, có tháp xây dựng khá lâu kéo dài 5 năm 6 tháng mới khánh thành: năm 1088
“Mùa đông tháng 10, xây tháp ở Lãm Sơn” - năm 1094 “Mùa hạ tháng 4, tháp chùa
Lãm Sơn xây xong”. Ngôi chùa xây trên núi Lãm Sơn khi hoàn thành được vua ban tên
là “Cảnh Long Đồng Khánh”. Ngôi chùa cũng phải xây trong 8 năm (1086 - 1094) mới
hoàn thành và chỉ sau 11 năm (năm 1105) chùa lại được tôn tạo thêm cho bề thế đẹp
đẽ với 3 ngọn tháp chỏm đá.
Chùa Dạm (Cảnh Long Đồng Khánh) là một trung tâm Phật giáo lớn thời Lý đến
thời Trần, đây vẫn là một Đại Danh Lam. Khi Trần Nhân Tông (1258 - 1308) đến thăm
chùa, chùa đó mang tên là Thần Quang. Các tên gọi khác trong dân gian như: Chùa Bà
16
Tấm, chùa Cao, chùa Trăm Gian, chùa Dạm thì đều là chỉ chùa Thần Quang được khởi
dựng từ thời Lý (1086) với các dấu tích vật chất còn tồn tại cho đến ngày nay.
Cùng với chùa Dạm theo thống kê sơ lược cho thấy trong 56 năm ở ngôi, vua
Lý Nhân Tông (1072 - 1127) cùng mẹ là Linh Nhân Hoàng Thái Hậu đã dựng hàng
trăm ngôi chùa thờ Phật, mà chùa Dạm là một trong những ngôi chùa lớn do đích thân
nhà vua đứng ra hưng công. Đây là ngôi chùa của Hoàng gia trên vùng đất phía Bắc,
cùng với chùa Phật Tích và nhiều chùa khác làm nên hệ thống chùa Phật giáo Hoàng
gia trên vùng đất tổ cố hương của vương triều Lý. Vua Lý Nhân Tông được coi là “vua
giỏi triều Lý” trị vị vào thời đại “dân được giàu đông, mình được thái bình”. Vua là
người “mộ đạo phật, thích điềm lành” do vậy trong thời kỳ trị vì của mình ông đã cho
xây dựng nhiều chùa mới với quy mô to lớn trên mọi miền đất nước cùng nhiều hoạt
động liên quan đến Phật giáo.
Mặc dù là ngôi chùa nổi tiếng, thuộc hàng Đại danh lam với các dấu tích vật chất
thể hiện sự đồ sộ, kiên cố của công trình trong lịch sử, nhưng các nghiên cứu cho đến
nay mới chỉ quan tâm đến nghệ thuật điêu khắc, trong đó tập trung vào việc phân tích,
đánh giá nghệ thuật của cột đá chạm rồng. Và công trình này trở thành đề tài phân tích
sôi nổi, là biểu tượng của nghệ thuật điêu khắc đá thời Lý. Ngoài ra còn có một số các
công trình nghiên cứu đề cập đến di tích nhưng mang tính giới thiệu khái quát chung,
như các sách: Mỹ thuật thời Lý, Địa chí Hà Bắc và một số bài nghiên cứu riêng lẻ. Đặc
biệt, mặc dù với quy mô, được sử sách ghi chép, bị thời gian tàn phá (yếu tố con người
và tự nhiên) trở thành phế tích nhưng cho đến nay chưa có một cuộc khai quật quy mô
nào nhằm tìm hiểu mặt bằng các công trình kiến trúc của thời kỳ khởi dựng.
Với việc đánh giá giá trị bước đầu của di tích, ngày 13/01/1964, Bộ Văn hóa -
Thông tin ra Quyết định số 29 QĐ/BT công nhận chùa Dạm là di tích Lịch sử - Văn
hóa. Đến ngày 25/04/1994, Bộ Trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin cấp bằng công nhận di
tích Lịch sử - Văn hóa “Khu vực chùa Đại Lãm (chùa Dạm), xã Nam Sơn, huyện Quế
Võ, tỉnh Hà Bắc”, nay thuộc thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh.
1.2.2. Thám sát khảo cổ học năm 2009
Để phục vụ công tác đầu tư, phục hồi khu di tích chùa Dạm và yêu cầu nghiên
cứu khoa học phục vụ cho công tác bảo vệ, trùng tu tôn tạo chùa Dạm, Bộ Trưởng Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch ký Quyết định số 4571/QĐ-BVHTTDL ngày 10/12/2009
cho phép Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Ninh tiến hành khai quật thăm dò
khảo cổ học tại khu vực Tam bảo chùa Dạm (cấp nền 3) với diện tích 20m2
. Kết quả
thu được như sau:
Hố H1: diện tích 15m2
, nằm cách chùa (mới) khoảng 2,75m về phía Đông.
17
Hố H2: được mở hình chữ L, cách bờ kè của cấp nền 3 khoảng 0,7m với diện
tích 10m2
. Đến độ sâu 0,40m đến 0,45m gặp lớp sinh thổ gồm đá gan gà lẫn đất đồi
laterite màu vàng, nâu vàng, hoặc vàng trắng, không tìm được di tích và di vật trong
hố thám sát.
Như vậy, mặc dù các dấu tích kiến trúc của ngôi chùa được khởi dựng năm
1086 chưa xuất lộ do phạm vi hố thám sát nhỏ, dấu tích kiến trúc tìm được có niên đại
muộn. Tuy nhiên, hệ thống các di vật hết sức phong phú với đầy đủ các loại hình từ
vật liệu xây dựng, vật liệu trang trí kiến trúc, đến đồ dùng sinh hoạt, đồ thờ cúng có
niên đại từ thời Lý đến thời Lê đã thể hiện tính chất của di tích là ngôi chùa có quy mô
lớn, quan trọng trong suốt các thời kỳ lịch sử.
1.2.3. Nghiên cứu chùa Dạm
Nghiên cứu chùa Dạm được chia thành hai giai đoạn: giai đoạn trước khi khai
quật khảo cổ học (từ năm 2009 trở về trước) và giai đoạn sau khi khai quật khảo cổ
học (từ năm 2009 đến nay).
+ Giai đoạn thứ nhất trước khi khai quật khảo cổ học di tích chùa Dạm:
Các nghiên cứu chủ yếu dựa vào những ghi chép về chùa Dạm trong lịch sử
cũng như căn cứ vào các phế tích hiện tồn của chùa Dạm. Ngoài một số bài nghiên cứu
về đối tượng chùa Dạm với tư cách là một ngôi quốc tự thời Lý thì giai đoạn này các
nghiên cứu chủ yếu tập trung vào việc tìm hiểu công năng và giải mã ý nghĩa biểu
tượng của cột đá chùa Dạm. Các nghiên cứu chính trong giai đoạn này gồm:
- Phan Cẩm Thượng, 1997, Điêu khắc cổ Việt Nam (Ancient Sculpture of
Vietnam), NXB Mỹ Thuật, Hà Nội, tr.71;
- Hà Văn Tấn, Nguyễn Văn Kự, Phạm Ngọc Long, 2010 (in lần thứ 4), Chùa
Việt Nam, NXB Thế giới, Hà Nội, tr.96;
- Trần Ngọc Thêm, 1996, Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB TP Hồ Chí
Minh, tr.265- 495;
- Chu Quang Trứ, 2000, tái bản 2012, Sáng giá chùa xưa, NXB Mỹ thuật, Hà
Nội, tr.160-161;
- Chu Quang Trứ, Để hiểu đầy đủ hơn về cột đá chùa Dạm, Tạp chí VHNT, số
11/1999;
- Chu Quang Trứ, Tái bản 2012, Trông về chùa Dạm (viết cùng Thanh Hương)
trong “Mỹ thuật Lý Trần- mỹ thuật Phật giáo”, NXB Mỹ thuật, Hà Nội, tr.368-387;
- Trần Lâm Biền, 2000, Một con đường tiếp cận lịch sử, NXB VHDT, Hà Nội,
tr.63;
- Tạ Chí Đại Trường, 2006, Thần - người và đất Việt, NXB Văn hóa Thông tin,
Hà Nội, tr.104-105;
18
- Ngô Văn Doanh, 1990, Hình tượng Quan Âm Nam Hải và cột đá chùa Dạm,
tạp chí Khảo cổ học số 1-2, tr.95-98;
- Nguyễn Hùng Vỹ, 2011, Tiếp tục quan sát cột đá chùa Dạm,
http://khoavanhoc-ussh.edu.vn;
- Nguyễn Hùng Vĩ, 2001, Quan sát cột đá Chùa Một Cột ở núi Dạm trong “45
năm khoa Văn học 1956-2001”, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội, tr.583-593;
- Trần Ngọc Thêm, 2011, tái bản lần 8, Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo
dục, Hà Nội, tr.128;
- Tạ Chí Đại Trường, Về cây cột đá chùa Dạm, tạp chí xưa và nay, số 400,
tháng 3/2012;
- Trần Trọng Dương, Chùa Một Cột không phải là chùa!, tạp chí Tia sáng, số
tháng 4/2012, tr.50-52;
- Trần Trọng Dương, 2012, Cột đá chùa Dạm có phải linga?, tiasang.com.vn;
- Trần Thị Kim Anh, 2012, Trao đổi thêm về cột đá chùa Dạm,
htpt://vanhoanghean.vn;
- Nguyên Khôi, 2012, Một cách đề xuất phục dựng chùa Diên Hựu,
tiasang.com.vn.
Liên quan đến việc giải mã ý nghĩa biểu tượng của cột đá chùa Dạm, có hai
thuyết chính được nêu ra là: Cột đá chùa Dạm thực chất là linga và cột đá chùa Dạm là
phế tích của một công trình kiến trúc.
Thuyết cột đá chùa Dạm là linga, gồm các nhà nghiên cứu như: Chu Quang
Trứ, Trần Lâm Biền, Phan Cẩm Thượng, Hà Văn Tấn, Trần Ngọc Thêm… Có thể thấy
rằng các nhà nghiên cứu kể trên khi tiếp cận với cột đá này đã không đi từ việc khảo
sát dấu vết kết cấu kiến trúc hiện còn mà cơ bản căn cứ vào hình dạng và bối cảnh lịch
sử: Đại Việt - Champa (thế kỷ XI) để đồng nhất quan điểm cho rằng cột đá chùa Dạm
là linga. Cách tiếp cận như vậy rất dễ sa đà vào những lập luận mang tính tư biện, dẫn
đến những kết luận võ đoán.
Thuyết cột đá chùa Dạm là phế tích của một công trình kiến trúc, thuyết này
được đưa ra sau khi các nhà nghiên cứu đã khảo tả, đo vẽ, phân tích kỹ lưỡng các số
liệu hiện còn của hiện vật. Kết luận đầu tiên sau khi tiến hành khảo sát các thông số
trên hiện vật khẳng định: cột đá chùa Dạm chỉ là phế tích còn sót lại của một loại công
trình kiến trúc vào thời Lý. Quan điểm trên được manh nha bởi các nhà nghiên cứu
Ngô Văn Doanh, Nguyễn Hùng Vỹ và trùng khớp với nhận định của các nhà nghiên
cứu đi trước như Nguyễn Bá Lăng, Nguyễn Du Chi, Nguyễn Đỗ Cung… Quan điểm
này được Trần Trọng Dương tán đồng và cụ thể hóa bằng những bài viết, chuyên luận
của mình. Trong bài viết Cột đá chùa Dạm có phải là linga?, tác giả đã lược thuật các
19
chủ thuyết liên quan đến việc giải mã ý nghĩa biểu tượng cột đá chùa Dạm rồi đưa ra
những ý kiến xác đáng của mình. Theo đó, Trần Trọng Dương khẳng định cột đá này
là phế tích còn sót của một công trình kiến trúc thời Lý, rất có thể đó là dạng thức kiến
trúc của một liên hoa đài tương tự như liên hoa đài (chùa Diên Hựu).
Cột đá chùa Dạm là hiện vật đặc biệt quan trọng đối với việc nghiên cứu về
chùa Dạm, ngoài ra nó còn có giá trị nghiên cứu tư tưởng mỹ thuật Phật giáo thời Lý.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu cột đá chùa Dạm mới chỉ là một phần nhỏ trong tổng thể
kiến trúc ngôi đại danh lam này. Những vấn đề về tổng thể mặt bằng kiến trúc chùa
Dạm nói riêng, mặt bằng kiến trúc chùa - tháp thời Lý nói chung vẫn chưa được sáng
tỏ. Để làm được điều này, cần có kết quả của những cuộc khai quật khảo cổ học quy
mô lớn đối với di tích này.
+ Giai đoạn thứ hai sau khi khai quật khảo cổ học di tích chùa Dạm:
Di tích chùa Dạm được tiến hành khai quật khảo cổ lần đầu tiên vào năm 2009,
do Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Ninh chủ trì. Những phát hiện ở cuộc
khai quật thám sát này đã tạo tiền đề cho những cuộc khai quật khảo cổ với qui mô
lớn, tổng thể về sau.
Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy và UBND tỉnh Bắc Ninh; Quyết định số
4322/QĐ-BVHTTDL ngày 29/12/2011; Quyết định số 3499/QĐ-BVHTTDL ngày
13/9/2012 gia hạn Quyết định số 4322/QĐ-BVHTTDL ngày 29/12/2011; Quyết định
số 1006/QĐ-BVHTTDL ngày 13/3/2013 gia hạn Quyết định số 4322/QĐ-BVHTTDL
ngày 29/12/2011 của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch về việc khai quật khảo cổ học
tổng thể khu di tích chùa Dạm.
Diện tích khai quật như sau: cấp nền 1: 1.000m2
; cấp nền 2: 1.734m2
; cấp nền
3: 2.066m2
; cấp nền 4: 1.200m2
. Tổng diện tích 6.000m2
.
Nghiên cứu về tổng thể mặt bằng di tích chùa Dạm sau khi khai quật khảo cổ
học có bài viết của Nguyễn Văn Đáp đăng trên tạp chí Khảo cổ học số (6) 2017, từ
trang 48 đến trang 62. Cùng với thư tịch cổ, các tài liệu khảo cổ học, tác giả đã mở ra
nhận thức về kết cấu mặt bằng của toàn thể kiến trúc - tháp trước, chùa sau của khu di
tích chùa Dạm:
- Cấp nền 1:
Khu vực lối lên cấp nền 2 ở cả hai phía Đông và Tây của cấp nền 1 đã xuất lộ
09 chân tảng hoa sen. Phía Đông xuất lộ 04 chân tảng và phía Tây xuất lộ 04 chân
tảng, các chân tảng này phân bố thành hai vì hai hàng chân cột và nằm trên cùng một
trục với những kiến trúc thời Lý đã xuất lộ ở các cấp nền 2, 3, 4. Ngoài chân tảng
chạm cánh sen còn xuất lộ 08 móng trụ sỏi về phía Nam, mỗi bên 04 móng, khoảng
20
cách giữa các móng trụ là 3,3 - 3,4m và một số móng trụ ở khu vực trung tâm. Kích
thước của các móng trụ khoảng 1,3 - 1,4m.
Theo nhận thức ban đầu đây là các công trình kiến trúc Tam quan và hai hành
lang Đông - Tây ở cấp nền 1 trước khi lên cấp nền 1. Lòng hành hành lang rộng
khoảng 5,7 - 5,75m. Khoảng cách giữa hai vì từ 1,93 - 1,95m.
- Cấp nền 2:
Xuất hiện rõ móng tháp thời Lý chạm sóng nước. Ở hai phía Đông và Tây đã xuất
lộ dấu vết của hai công trình kiến trúc chạy dài theo chiều Bắc - Nam, nằm trên cùng một
trục so với những kiến trúc thời Lý đã xuất lộ ở hai phía Đông Tây cấp nền 3, 4.
Bó nền lòng nhà ở cả 4 phía Bắc, Nam, Đông, Tây; 08 dấu vết móng trụ, 04
chân tảng đá hoa sen ở khu vực hiên phía Đông của công trình kiến trúc này. Chân
tảng phân bố thành 03 hàng theo chiều Bắc Nam, 02 hàng theo chiều Đông Tây.
Khoảng cách giữa tâm các chân tảng theo chiều Bắc - Nam 4,6 - 5,03m, theo chiều
Đông - Tây 2,7m.
Công trình kiến trúc phía Đông có diện tích khoảng 206,72m2
(chiều Bắc - Nam
16,15m, chiều Đông - Tây 12,8m). Phần lòng của kiến trúc này rộng 92,63m2
(chiều
Đông - Tây 7,85m, chiều Bắc - Nam 11,8m). Trong một vì khoảng cách giữa hai cột,
hai cột cái là 5,75 - 5,8m, giữa cột cái và cột quân là 2,9 - 3m. Khoảng cách giữa hai vì
trung tâm 5,2m. Khoảng cách giữa các vì còn lại 1,8 - 2,9m.
Công trình kiến trúc phía Tây có diện tích chừng 210,6m2
(chiều Bắc - Nam
16,2m, chiều Đông - Tây 13m). Phần lòng của kiến trúc rộng 102,58m2
(chiều Đông -
Tây 8,73m, chiều Bắc - Nam 11,75m).
Phần hiên bao quanh bốn phía của kiến trúc này rộng 2,1 - 2,2m. Đã xuất lộ bó
nền hiên ở các phía Đông, Tây, Nam. Phần hiên phía Đông, Bắc đã phát hiện được dấu
vết móng trụ sỏi và chân tảng hoa sen. Đầu phía Tây Nam xuất lộ dấu vết hàng gạch
mà có thể đây là phần còn lại của bó nền hành lang phía Nam nối với lối lên cấp nền 2.
- Cấp nền 3:
Hai phía Đông và Tây của cấp nền 3 đã xuất lộ dấu vết của hai công trình kiến
trúc chạy dài theo chiều Bắc - Nam, rộng theo chiều Đông - Tây (công trình kiến trúc
phía Đông và công trình kiến trúc phía Tây), diện tích khoảng 224,29m2
.
Hai công trình kiến trúc này đều có 04 móng cột ở vị trí trung tâm là móng trụ
kép. Do có cấu trúc như vậy, nên sẽ có 6 vì (04 vì 4 hàng chân cột, 02 vì 2 hàng chân
cột). Trong một vì khoảng cách giữa hai cột, hai cột cái là 5,75 - 5,8m, giữa cột cái và
cột quân là 2,9 - 3m. Khoảng cách giữa hai vì trung tâm 5,2m. Khoảng cách giữa các
vì còn lại là 1,8 - 2,9m. Các móng trụ đơn có kích thước trung bình, hình gần vuông,
kích thước một cạnh 1,35 - 1,5m.
21
Phần xuất lộ của hành lang phía Nam kiến trúc phía Tây còn lại 04 dấu vết
móng trụ. Khoảng cách tâm giữa các móng cột theo chiều Đông - Tây là 5,75 - 5,8m,
theo chiều Bắc - Nam là 2m. Khoảng cách tâm giữa hàng cột phía Nam của kiến trúc
phía Tây với hàng cột Bắc của hành lang phía Nam này là 2,7m.
- Cấp nền 4:
Xuất lộ các loại di tích: bó nền, sân nền, móng trụ, chân tảng... Các loại hình di
tích này cấu trúc thành hệ thống mặt bằng kiến trúc liên hoàn có niên đại thời Lý bao
gồm một kiến trúc chính ở trung tâm 5 gian, 2 chái và hai kiến trúc nhỏ hơn liên hoàn
với kiến trúc trung tâm ở hai phía Đông và Tây.
+ Kiến trúc trung tâm: Có diện tích khoảng 628,12m2
(chiều Bắc - Nam
19,15m, chiều Đông - Tây 32,8m). Mỗi vì của kiến trúc này có 6 hàng chân cột với hệ
thống cột hiên được đặt thấp hơn so với cột cái và cột quân khoảng 0,60m. Khoảng
cách giữa hai cột cái là 5,75 - 5,80m; giữa cột cái và cột quân, giữa cột quân với cột
hiên là 2,80 - 2,90m.
Phần lòng của kiến trúc rộng 386,42m2
(chiều Đông - Tây 27,8m, chiều Bắc -
Nam 13,9m) gồm 5 gian. Ba gian giữa rộng 5,75 - 5,80m. Hai gian bên rộng 4m. Phần
hiên bao quanh bốn phía của kiến trúc rộng 2,58m.
+ Hành lang Đông - Tây: Hai phía Đông và Tây của kiến trúc trung tâm đã xuất lộ
dấu vết của hai công trình kiến trúc có tính chất mở chạy dài theo chiều Đông - Tây. Hành
lang phía Tây dài 11,10m, rộng 7,50m; gồm 4 gian, mỗi vì rộng 5,80m với hai hàng chân
cột. Độ rộng của các gian theo chiều từ Tây sang Đông dài 1,95 - 1,96m, rộng 3,50 - 3,78m
(phần bậc đá từ cấp nền 3 lên cấp nền 4 dẫn trực tiếp vào gian này). Phía Bắc hành lang
phía Tây đã xuất lộ một nền đá gốc được đục tương đối bằng phẳng. Phần xuất lộ có diện
tích 51,6m2
(chiều Bắc - Nam 6m, chiều Đông - Tây 8,60m).
Rãnh thoát nước của toàn bộ công trình kiến trúc được đục trực tiếp xuống nền
đá gốc về phía Bắc.
Có thể nói, tính đến thời điểm hiện tại, đây là nghiên cứu toàn diện, đầy đủ nhất
về tổng thể mặt bằng chùa Dạm nói riêng, mặt bằng chùa - tháp thời Lý nói chung.
1.3. Tiểu kết chương 1
Chương 1 của luận án đã đề cập đến những vấn đề về vị trí địa – văn hóa; tư
liệu và vấn đề, đồng thời khái quát về chùa Dạm qua tài liệu cổ sử và nêu tóm lược
những cuộc nghiên cứu về chùa Dạm ở tại những cuộc thám sát khảo cổ năm 2009
và khai quật khảo cổ học tổng thể từ năm 2011 đến năm 2014, như sau:
Có thể thấy rằng, Bắc Ninh xưa là vùng đất cổ có vị trí đặc biệt trong lịch sử
dân tộc, là cái nôi hình thành lên nền văn hóa Việt Nam, nay là tỉnh thuộc vùng đồng
bằng sông Hồng, nằm ở vị trí cửa ngõ phía Đông Bắc thủ đô Hà Nội, nằm trong tam
22
giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, có
các tuyến thống giao thông quan trọng chạy qua như: quốc lộ 1A, quốc lộ 18, quốc lộ
38, tuyến đường sắt Hà Nội - Lạng Sơn và các tuyến đường thủy dọc sông Đuống,
sông Cầu, sông Thái Bình, gần cảng hàng không Quốc tế Nội Bài.
Trải qua hàng ngàn năm xây dựng và phát triển, vùng đất này đã tạo dựng kho
tàng di sản văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể đồ sộ. Nhiều di tích tiêu biểu gắn với
các sự kiện lịch sử quan trọng như: Tổ đình Phật giáo Việt Nam gắn liền với di tích
Chùa Dâu và hệ thống Tứ pháp, chùa Phật Tích, trung tâm Hán học sớm nhất của nước
ta với di tích Nam giao học tổ - nơi thờ Sĩ Nhiếp người truyền bá Nho giáo vào Việt
Nam, đền Đô nơi thờ 8 vị vua nhà Lý, triều đại khai mở nền văn minh Đại Việt…
Qua việc nghiên cứu, xem xét, điều tra tổng thể di tích và cảnh quan xung quanh có
thể thấy, chùa Dạm là khu di tích còn khá nguyên vẹn kể từ thời khởi dựng. Mặt bằng kiến
trúc hiện còn 4 cấp nền vươn cao theo sườn núi và được giữ nguyên trạng kể từ khi xây
dựng cho đến nay. Ngoài các cấp nền được kè đá hiện còn, dấu tích cảnh quan của các di
tích liên quan đến ngôi chùa còn khá rõ nét với các di tích như: ngòi Con Tên, Thùng Thối,
Đền Vua, Bãi Hội,... Hình thành nên một tổng thể khu di tích liên hoàn từ sông Thiên Đức
đến núi Đại Lãm, trong đó chùa Dạm giữ vai trò là vị trí trung tâm.
Chùa Dạm là một trung tâm Phật giáo có mặt sớm và hiện diện theo suốt chiều dài
lịch sử trên vùng đất xứ Bắc. Mở đầu được xây dựng bởi sự quan tâm của vương triều,
một đại danh lam nổi tiếng một thời và được duy trì, tồn tại bởi tinh thần Phật giáo của
người dân trong vùng theo suốt dặm dài lịch sử mặc sự thăng trầm, biến động của xã hội.
Cho đến nay, mặc dù kiến trúc chùa xưa không còn nữa, nhưng trong lòng đất nơi đây còn
ẩn dấu biết bao dấu tích thuở xa xưa. Những dấu tích kiến trúc, hiện vật tìm được là tín
hiệu cho biết về diện mạo ban đầu về một khu di tích trong quá khứ.
Chùa Dạm qua tài liệu cổ sử được ghi chép trong các bộ sử như: “Đại Việt sử
ký toàn thư”, “Việt Sử lược”, “Khâm định Việt sử thông giám cương mục”, “Đại Nam
nhất thống chí”, đều thống nhất chùa Dạm được xây dựng vào năm Bính Dần, niên
hiệu Quảng Hựu 2 (1086) đến năm Giáp Tuất, niên hiệu Hội Phong 3 (1094) chùa
được làm xong.
Qua tình hình tư liệu, kết quả nghiên cứu về chùa Dạm, được chia thành hai giai
đoạn: Giai đoạn trước khi thám sát khảo cổ học và giai đoạn sau khi được khai quật
khảo cổ học năm 2009. Có thể nói, đến thời điểm hiện tại việc nghiên cứu về chùa
Dạm là toàn diện và đầy đủ nhất từ trước cho đến nay.
Để tìm về một thời vàng son ấy và góp phần tìm hiểu về bản sắc văn hóa dân
tộc trong lịch sử nói chung, văn hóa Phật giáo nói riêng, cùng những đóng góp của
Phật giáo vào bản sắc văn hóa dân tộc, khu di tích chùa Dạm đã được tiến hành khai
23
quật khảo cổ học tổng thể để nghiên cứu toàn diện về chùa Dạm - một công trình kiến
trúc tôn giáo của Hoàng gia thời Lý.
Chương 2
DI TÍCH KIẾN TRÚC VÀ NIÊN ĐẠI
2.1. Chùa Dạm qua các dấu tích trên thực địa
Chùa Dạm sau khi bị tiêu thổ kháng chiến được người dân địa phương dựng
trên nền chùa cũ, đó là một ngôi chùa nhỏ ẩn mình dưới tán cây bên sườn núi. Hiện
trạng mặt bằng cho thấy, từ chân đồi đi lên chùa được tạo nên bốn cấp nền kiến trúc
khác nhau, chênh nhau vươn cao theo độ cao của núi. Mỗi cấp nền được xây xếp kè
bằng đá khối thẳng đứng khá vững chắc.
Trên cảnh quan tổng thể, xung quanh còn các ngọn núi với các tên gọi của bộ
“tứ linh”. Núi Rùa, nằm bên cạnh về phía Tây của ngòi Con Tên, núi Phượng nằm về
phía Tây Bắc, núi Long có chùa Dạm và chùa Hàm Long, núi Ly nằm về phía Đông
Bắc gần với thôn Thái Bảo. Đây là những hình ảnh địa điểm có niên đại muộn, mang
tư tưởng của Nho giáo.
Hiện nay, thuộc phạm vi di tích vẫn còn các dấu tích vật chất minh chứng cho
quy mô to lớn, đồ sộ, nghệ thuật điêu khắc tinh mỹ của một Đại danh lam thời Lý. Tuy
nhiên, trước nhịp sống hối hả, quá trình đô thị hóa diễn ra với tốc độ nhanh nên cảnh
quan chùa Dạm hiện nay đã có những đổi khác.
Bắt đầu từ ngòi Con Tên ở sát chân núi được đào vào thời Lý, nối với sông
Đuống. Lên khỏi ngòi Con Tên chúng ta sẽ bắt gặp một di tích gắn với chùa Dạm, đó
là đền Vua, người dân nơi đây còn lưu truyền lại cho nhau kể rằng, sau khi thuyền
rồng đến chân núi, đền Vua là nơi nhà vua nghỉ ngơi trước khi lên vãn cảnh chùa. Dấu
tích đền Vua hiện còn lại chỉ là một khoảng đất có mặt tiền khoảng 4m, hình ống sâu
vào bên trong, phần cuối thửa đất có một ban thờ do người dân xây dựng sau này. Dẫu
chỉ theo truyền miệng của dân gian, dẫu di tích hiện nay không còn quy mô đầy đủ,
nhưng chỉ thế thôi cũng có thể hình dung ra tính hợp lý trong tổng thể cảnh quan
chung ở phía trước của chùa, vẫn còn hiện ra đó cảnh “trên bến, dưới thuyền” tấp nập,
tôn nghiêm của một Đại danh lam bậc nhất trời Nam.
Qua khỏi đền Vua, lùi về phía chân núi khoảng 50m, là dấu tích của các trụ
biểu (có thể là Tam quan ngoài?). Năm 2006, khi xây dựng Trường Tiểu học và Trung
học cơ sở Nam Sơn, máy xúc đã san bạt và xúc đi toàn bộ các dấu tích vật chất ở đây.
Tuy nhiên, người già trong thôn vẫn còn có thể chỉ dẫn cho các nhà nghiên cứu vị trí
của các trụ biểu. Hơn nữa, khi xây dựng trường học, máy xúc đã san gạt đi toàn bộ
phạm vi bên trong của các trụ biểu, nơi trước đây là Bãi Hội, dấu tích gạch ngói và các
24
thành phần trang trí kiến trúc đều tìm được. Tuy nhiên, hiện nay trong dân không còn
ai lưu giữ các di vật liên quan đến chùa Dạm.
Từ Bãi Hội, trải qua các bậc dẫn lên cấp nền thứ nhất được kè bằng các tảng đá
lớn xếp giật thành 3 cấp. Trong khoảng từ phía dưới lên cấp nền 1, hai bên phía Đông
và phía Tây có hai ngôi chùa khác của thôn Môn Tự và Tự Thôn, do nằm ở phía bên
dưới nên các chùa này còn có tên gọi khác là chùa Thấp và chùa Dạm ở trên cao nên
còn có tên gọi khác là chùa Cao. Dọc theo chiều rộng của cấp nền, trong khoảng này,
phía Đông và phía Tây đặt hai hòn “đá cấm”. Ý nghĩa của hai hòn “đá cấm” là: trong
phạm vi khoảng rộng đó, không được phép đặt mồ mả. Do canh tác nên dấu tích của
hai hòn đá cấm không còn.
Hệ thống bậc dẫn lên các lớp nền khu di tích: đường lên chùa còn lại dấu vết
chạy quanh co gồm 58 bậc xây bằng gạch từ ven sườn khu nghĩa trang liệt sĩ xã Nam
Sơn đi lên. Các bậc uốn lượn thoai thoải theo độ dốc sườn núi với chiều rộng bậc 2,5 -
3,0m, mặt bậc rộng 1,0 - 1,2m. Độ chênh các bậc khoảng 0,3m tạo nên đường thoai
thoải. Điểm dừng mặt bậc tiếp giáp với mặt bằng cấp nền 1 của khu di tích.
Cấp nền 1: diện tích 1.408m2
, dài theo chiều Đông - Tây là 64m, rộng theo chiều
Bắc - Nam là 22m. Bờ kè của cấp nền 1 được xếp giật 3 cấp, chính giữa có lối lên xuống
xuống. Phần phía Đông của lối lên xuống xuống, bờ kè đã bị phá hủy mạnh. Hiện nay,
trên bờ kè có nhiều các tảng đá có kích cỡ nhỏ, hình dạng không đồng nhất có thể được
người thời sau xếp lên. Tuy nhiên, phần phía Tây, các cấp đá còn lại được xếp vuông
vức, quy chuẩn và còn đầy đủ cả 3 hàng giật cấp, cấp 1 và cấp 2 giật thu vào trung bình
1m, cấp 3 tương đương với bề mặt của cấp nền. Trong đó giật cấp 1 cao 2,73m, giật cấp
2 cao 2,30m, giật cấp 3 lên bề mặt của cấp nền cao 2,15m. Chân của bờ kè hơi choãi ra,
tạo thành góc chếch khoảng 700
làm tăng thêm độ vững chãi và kiên cố cho toàn bộ bờ
kè. Ngoài dấu tích của bờ kè, cấp nền 1 không còn dấu tích công trình kiến trúc nào còn
tồn tại trên mặt đất. Tuy nhiên, vật liệu xây dựng có mặt trên toàn bộ bề mặt của cấp nền
với mật độ dày đặc, đặc biệt là ở phần rìa cạnh phía Tây.
Từ cấp nền 1 nối lên cấp nền 2 bằng một đường đi chính giữa, đây là con đường
được xây dựng sau này, với 25 bậc được xây xếp bằng gạch và đá khối. Độ rộng bậc
2,50 - 3,00m, mặt bậc rộng 0,90 - 1,20m. Độ chênh bậc 0,30 - 0,40m. Bậc lên xuống
này xây chính giữa, chia đôi cấp nền 2 thành 2 bên khá bằng nhau.
Theo các nghiên cứu trước đây kết hợp với việc phát quang cây bụi đã làm lộ ra
lối đi hai bên, phía Đông và Tây, đó là hai đường lên được lát bằng đá, mỗi lối rộng
trung bình 2,40m. Đây có thể là lối lên xuống của ngôi chùa được xây dựng từ thời Lý.
Cấp nền 2: diện tích 2.176m2
, chiều dài Đông - Tây là 64m, chiều rộng Bắc -
Nam là 34m. Như vậy, diện tích của cấp nền này rộng hơn cấp nền 1 khoảng 768m2
.
25
Trong khoảng của hai lối lên xuống, bờ kè được giật 3 cấp. Theo hiện trạng, giật cấp 1
cao 1,95m, giật cấp 2 cao 1,65m thu vào so với giật cấp 1 khoảng 1,20m, giật cấp 3
cao 2,94m thu vào so với giật cấp 2 khoảng 1,60m. Chân bờ kè hơi choãi tương tự như
bờ kẽ của cấp nền 1.
Trên hiện trạng, bờ kè của cấp nền đã bị sạt lở mạnh, phần phía Đông còn
nguyên vẹn hơn. Một số vị trí được người thời sau dùng các tảng đá không thống nhất
xếp lại. Các tảng đá đều có hình vuông hoặc chữ nhật, được đẽo gọt vuông vức, không
chạm khắc hoa văn trang trí. Trên bề mặt của cấp nền 2 hiện nay còn hai di tích quan
trọng, đó là trụ cột đá chạm rồng cuốn ở phía Đông và chân móng tháp đá hình vuông
ở phía Tây. Hai di tích này nằm đăng đối thẳng hàng nhau theo trục Đông - Tây, có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau trên tổng thể khu di tích, trong đó đôi rồng ở cột đá
quay đầu chầu về hướng cửa tháp. Nằm thẳng với lối lên xuống từ cấp nền 1 lên cấp
nền 2 là lối bậc thang dẫn từ cấp nền 2 lên cấp nền 3.
Cấp nền 3: diện tích 2.370m2
, dài theo chiều Đông - Tây là 64m, rộng theo
chiều Bắc - Nam là 37,5m. So với các cấp nền của di tích, đây là cấp nền có diện tích
rộng nhất. Lối lên xuống được xếp bằng đá rộng trung bình 2,20m, lối phía Tây còn
nguyên vẹn với 27 bậc đá. Bờ kè cấp nền được xếp bằng đá, phạm vi giữa hai lối lên
xuống bờ kè đá cấp nền được giật 3 cấp. Trong đó, theo hiện trạng giật cấp 1 cao
1,63m, giật cấp 2 cao 2,50m thu vào so với giật cấp 1 khoảng 1,20m, giật cấp 3 cao
1,28m thu vào so với giật cấp 2 khoảng 1,20m. Chân hơi choãi tạo độ vững chãi cho
bờ kè. Trên cấp nền này có một số di tích: ở chính giữa cấp nền là ngôi chùa có mặt
bằng hình chữ “đinh” được nhân dân xây dựng năm 1986 với quy mô 3 gian, lợp ngói
lá, dài 7,4m, rộng cả phần hậu cung là 11m. Chùa có kết cấu khung chịu lực bằng gỗ,
tường được xây bằng gạch, ngoài cùng 2 bên là 2 trụ biểu, bên trên đắp hình chim
phượng. Chính giữa của bờ nóc là tấm biển đề hai chữ Hán “大 覧 - Đại Lãm”. Bên
ngoài và trong chùa còn một số câu đối được viết năm 1986 bằng chữ Hán. Hai câu
đối mặt ngoài của 2 trụ biểu:
Phiên âm: “Đại Lãm chung linh văn hiến địa
Thần Quang phổ chiếu thái bình thiên”.
Hai câu đối mặt bên của 2 trụ biểu:
Phiên âm: “Từ bi độ thế quang minh Phật
Bác ái an dân chính thiện tâm”.
Từ hai trụ biểu vào đến chùa được xây bịt kín bằng gạch, bên ngoài trát vôi vữa
và đề 2 chữ: bên phía Đông là chữ “慈 - Từ”, bên phía Tây là chữ “悲 - Bi”. Mặt chính
26
của chùa, gian giữa, phía trên có biển đề 3 chữ Hán “神 光 寺 - Thần Quang tự, nghĩa
là chùa Thần Quang”. Hai bên của gian chính có hai câu đối.
Phiên âm: “Hồng thủy khởi ba ninh cảnh vật tài điền địa hảo
Lãm Sơn chung đúc khí nhân dân phú thọ khang cường”
Bên trong gian chính có 1 đôi câu đối:
Phiên âm: “Nhất mộng môn sơn cơ thế hào hoa bằng thánh đức
Ức niên mão lĩnh di lưu phúc truyền ấn thần công”.
Gian bên phía Đông có bức đại tự “萬 古 英 寧 - Vạn cổ anh linh”.
Bên phía Đông là ngôi nhà lợp ngói, tường chịu lực bằng gạch có diện tích
34m2
, là nơi ở của các vãi. Ngoài cùng phía Đông là chiếc giếng vuông bằng đá, nằm
gần sát với bờ kè của cấp nền 4, kích thước chiều Bắc - Nam là 4,2m, chiều Đông -
Tây là 5,0m được xây dựng năm 1986 để lấy nước phục vụ sinh hoạt hàng ngày của
nhà chùa. Phía Tây là nhà bếp lợp ngói, tường xây bằng gạch và đá, có diện tích rộng
17,4m2
. Ở cấp nền này còn dấu tích móng xếp đá của ngôi chùa đã bị tiêu thổ kháng
chiến năm 1953. Phạm vi chùa xây dựng năm 1986 nằm đè lên trên móng xếp đá này.
Trên mặt bằng hiện trạng, còn có 15 chân tảng đá, nổi bật trong số đó là các
chân tảng được chế tác từ đá sa thạch chạm khắc hai lớp cánh sen trên bề mặt được
xếp ở rìa cạnh phía Tây của sân chùa chính. Các chân tảng hiện còn nằm rải rác trên bề
mặt của cấp nền.
Từ cấp nền 3 dẫn lên cấp nền 4 bằng hai lối lên xuống bằng đá, nằm thẳng với
lối lên xuống từ cấp nền 1 lên cấp nền 2 và từ cấp nền 2 lên cấp nền 3.
Cấp nền 4: có diện tích tương đương với cấp nền 1, rộng 1.446m2
, phía sau dựa
lưng vào núi. Lối lên xuống phía Đông đã bị phá hủy hoàn toàn, lối lên xuống phía
Tây cũng đã bị phá hủy, nhưng còn nhận diện được dấu tích của 23 bậc đá. Bờ kè cấp
nền bằng đá được xếp giật thu vào 3 cấp. Theo hiện trạng, giật cấp 1 cao 2,30m, giật
cấp 2 cao 2,40m thu vào so với giật cấp 1 khoảng 1,20m, giật cấp 3 cao 4,15m thu vào
so với giật cấp 2 khoảng 1,40m. Chân bờ kè hơi choãi tương tự như bờ kè của các cấp
nền khác.
Trên cấp nền 4 chỉ có duy nhất đền Bà Tấm nằm ở chính giữa. Đền Bà Tấm
nằm thẳng trục Bắc - Nam với ngôi chùa phía dưới. Trên bộ mái, phía trước có lan can
trang trí các ô đường diềm, chính giữa là tấm biển bằng xi - măng bên trong đắp nổi
“cuốn thư”. Chính giữa của tấm biển đề ba chữ Hán “李 王 母 - Lý vương mẫu”. Trên
bờ nóc của đền trang trí mô típ “Lưỡng long chầu nguyệt” bằng xi - măng cốt thép.
Ngoài ra còn có bờ móng được xếp bằng đá là dấu tích của ngôi đền đã bị tiêu thổ
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY
Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY

More Related Content

What's hot

Slide phản biện đề tài Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng tới lòng trung thành c...
Slide phản biện đề tài Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng tới lòng trung thành c...Slide phản biện đề tài Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng tới lòng trung thành c...
Slide phản biện đề tài Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng tới lòng trung thành c...Ngọc Hưng
 
Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả học tập của sinh viên Đại học Thư...
Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả học tập của sinh viên Đại học Thư...Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả học tập của sinh viên Đại học Thư...
Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả học tập của sinh viên Đại học Thư...Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
QUẢN TRỊ NGUỒN NHÂN LỰC Chương 2: PHÂN TÍCH THIẾT  KẾ CÔNG VIỆC. TS BÙI Q...
QUẢN TRỊ NGUỒN NHÂN LỰC Chương 2: PHÂN TÍCH THIẾT    KẾ CÔNG VIỆC.   TS BÙI Q...QUẢN TRỊ NGUỒN NHÂN LỰC Chương 2: PHÂN TÍCH THIẾT    KẾ CÔNG VIỆC.   TS BÙI Q...
QUẢN TRỊ NGUỒN NHÂN LỰC Chương 2: PHÂN TÍCH THIẾT  KẾ CÔNG VIỆC. TS BÙI Q...Minh Chanh
 
Kịch bản thuyết trình
Kịch bản thuyết trìnhKịch bản thuyết trình
Kịch bản thuyết trìnhĐức Lê Anh
 
Mẫu đề cương luận văn Thạc sỹ
Mẫu đề cương luận văn Thạc sỹMẫu đề cương luận văn Thạc sỹ
Mẫu đề cương luận văn Thạc sỹGiang Coffee
 
Đề cương ôn thi môn Phương pháp luận nghiên cứu khoa học
Đề cương ôn thi môn Phương pháp luận nghiên cứu khoa họcĐề cương ôn thi môn Phương pháp luận nghiên cứu khoa học
Đề cương ôn thi môn Phương pháp luận nghiên cứu khoa họcHo Chi Minh University of Pedagogy
 
Tài nguyên nước và hiện trạng sử dụng nước ở việt nam
Tài nguyên nước và hiện trạng sử dụng nước ở việt namTài nguyên nước và hiện trạng sử dụng nước ở việt nam
Tài nguyên nước và hiện trạng sử dụng nước ở việt namTuấn Nguyễn
 
Đề tài Tìm hiểu thực trạng và đề xuất giải pháp khai thác phát triển du lịch ...
Đề tài Tìm hiểu thực trạng và đề xuất giải pháp khai thác phát triển du lịch ...Đề tài Tìm hiểu thực trạng và đề xuất giải pháp khai thác phát triển du lịch ...
Đề tài Tìm hiểu thực trạng và đề xuất giải pháp khai thác phát triển du lịch ...Thư viện Tài liệu mẫu
 
Thep tien tien Slide thao luan
Thep tien tien Slide thao luanThep tien tien Slide thao luan
Thep tien tien Slide thao luanTtx Love
 
Luận văn: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định mua sắm trực tuyến
Luận văn: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định mua sắm trực tuyếnLuận văn: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định mua sắm trực tuyến
Luận văn: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định mua sắm trực tuyếnViết Thuê Khóa Luận _ ZALO 0917.193.864 default
 
Đề cương thông tin địa lý GIS
Đề cương thông tin địa lý GISĐề cương thông tin địa lý GIS
Đề cương thông tin địa lý GISNgô Doãn Tình
 

What's hot (20)

Đề tài: Phương pháp phần tử hữu hạn tính khung một nhịp, HAY
Đề tài: Phương pháp phần tử hữu hạn tính khung một nhịp, HAYĐề tài: Phương pháp phần tử hữu hạn tính khung một nhịp, HAY
Đề tài: Phương pháp phần tử hữu hạn tính khung một nhịp, HAY
 
TIỂU LUẬN: RA QUYẾT ĐỊNH QUẢN TRỊ (TẢI FREE ZALO 093 457 3149)
TIỂU LUẬN: RA QUYẾT ĐỊNH QUẢN TRỊ (TẢI FREE ZALO 093 457 3149)TIỂU LUẬN: RA QUYẾT ĐỊNH QUẢN TRỊ (TẢI FREE ZALO 093 457 3149)
TIỂU LUẬN: RA QUYẾT ĐỊNH QUẢN TRỊ (TẢI FREE ZALO 093 457 3149)
 
Slide phản biện đề tài Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng tới lòng trung thành c...
Slide phản biện đề tài Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng tới lòng trung thành c...Slide phản biện đề tài Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng tới lòng trung thành c...
Slide phản biện đề tài Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng tới lòng trung thành c...
 
Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả học tập của sinh viên Đại học Thư...
Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả học tập của sinh viên Đại học Thư...Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả học tập của sinh viên Đại học Thư...
Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả học tập của sinh viên Đại học Thư...
 
QUẢN TRỊ NGUỒN NHÂN LỰC Chương 2: PHÂN TÍCH THIẾT  KẾ CÔNG VIỆC. TS BÙI Q...
QUẢN TRỊ NGUỒN NHÂN LỰC Chương 2: PHÂN TÍCH THIẾT    KẾ CÔNG VIỆC.   TS BÙI Q...QUẢN TRỊ NGUỒN NHÂN LỰC Chương 2: PHÂN TÍCH THIẾT    KẾ CÔNG VIỆC.   TS BÙI Q...
QUẢN TRỊ NGUỒN NHÂN LỰC Chương 2: PHÂN TÍCH THIẾT  KẾ CÔNG VIỆC. TS BÙI Q...
 
Kịch bản thuyết trình
Kịch bản thuyết trìnhKịch bản thuyết trình
Kịch bản thuyết trình
 
Slide quan tri nguon nhan luc
Slide quan tri nguon nhan luc Slide quan tri nguon nhan luc
Slide quan tri nguon nhan luc
 
Mẫu đề cương luận văn Thạc sỹ
Mẫu đề cương luận văn Thạc sỹMẫu đề cương luận văn Thạc sỹ
Mẫu đề cương luận văn Thạc sỹ
 
Bài mẫu tiểu luận về du lịch Việt Nam, HAY
Bài mẫu tiểu luận về du lịch Việt Nam, HAYBài mẫu tiểu luận về du lịch Việt Nam, HAY
Bài mẫu tiểu luận về du lịch Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Phát triển du lịch bền vững tỉnh Đồng Tháp, HOT, 9đ
Luận văn: Phát triển du lịch bền vững tỉnh Đồng Tháp, HOT, 9đLuận văn: Phát triển du lịch bền vững tỉnh Đồng Tháp, HOT, 9đ
Luận văn: Phát triển du lịch bền vững tỉnh Đồng Tháp, HOT, 9đ
 
Đề cương ôn thi môn Phương pháp luận nghiên cứu khoa học
Đề cương ôn thi môn Phương pháp luận nghiên cứu khoa họcĐề cương ôn thi môn Phương pháp luận nghiên cứu khoa học
Đề cương ôn thi môn Phương pháp luận nghiên cứu khoa học
 
Tài nguyên nước và hiện trạng sử dụng nước ở việt nam
Tài nguyên nước và hiện trạng sử dụng nước ở việt namTài nguyên nước và hiện trạng sử dụng nước ở việt nam
Tài nguyên nước và hiện trạng sử dụng nước ở việt nam
 
Đề tài Tìm hiểu thực trạng và đề xuất giải pháp khai thác phát triển du lịch ...
Đề tài Tìm hiểu thực trạng và đề xuất giải pháp khai thác phát triển du lịch ...Đề tài Tìm hiểu thực trạng và đề xuất giải pháp khai thác phát triển du lịch ...
Đề tài Tìm hiểu thực trạng và đề xuất giải pháp khai thác phát triển du lịch ...
 
Thep tien tien Slide thao luan
Thep tien tien Slide thao luanThep tien tien Slide thao luan
Thep tien tien Slide thao luan
 
Luận văn: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định mua sắm trực tuyến
Luận văn: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định mua sắm trực tuyếnLuận văn: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định mua sắm trực tuyến
Luận văn: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định mua sắm trực tuyến
 
Luận văn: Lòng trung thành của Khách hàng đối với dịch vụ của FPT
Luận văn: Lòng trung thành của Khách hàng đối với dịch vụ của FPTLuận văn: Lòng trung thành của Khách hàng đối với dịch vụ của FPT
Luận văn: Lòng trung thành của Khách hàng đối với dịch vụ của FPT
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về phát triển du lịch bền vững, HOT
Luận văn: Quản lý nhà nước về phát triển du lịch bền vững, HOTLuận văn: Quản lý nhà nước về phát triển du lịch bền vững, HOT
Luận văn: Quản lý nhà nước về phát triển du lịch bền vững, HOT
 
Đề cương thông tin địa lý GIS
Đề cương thông tin địa lý GISĐề cương thông tin địa lý GIS
Đề cương thông tin địa lý GIS
 
Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của sinh viên
Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của sinh viênLuận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của sinh viên
Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của sinh viên
 
Luận văn: Đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả công tác...
Luận văn: Đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả công tác...Luận văn: Đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả công tác...
Luận văn: Đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả công tác...
 

Similar to Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY

Luận Văn Truyện Kể Dân Gian Vùng Biển Quảng Ninh.doc
Luận Văn Truyện Kể Dân Gian Vùng Biển Quảng Ninh.docLuận Văn Truyện Kể Dân Gian Vùng Biển Quảng Ninh.doc
Luận Văn Truyện Kể Dân Gian Vùng Biển Quảng Ninh.doctcoco3199
 
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdf
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdfGiao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdf
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdfMan_Ebook
 
Luận Văn Thạc Sĩ Khoa Học Lâm Nghiệp quản lý tài nguyên nước
Luận Văn Thạc Sĩ Khoa Học Lâm Nghiệp quản lý tài nguyên nướcLuận Văn Thạc Sĩ Khoa Học Lâm Nghiệp quản lý tài nguyên nước
Luận Văn Thạc Sĩ Khoa Học Lâm Nghiệp quản lý tài nguyên nướcDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 

Similar to Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY (20)

Đề tài: Di tích lịch sử lễ hội đền Nghè phục vụ phát triển du lịch
Đề tài: Di tích lịch sử lễ hội đền Nghè phục vụ phát triển du lịchĐề tài: Di tích lịch sử lễ hội đền Nghè phục vụ phát triển du lịch
Đề tài: Di tích lịch sử lễ hội đền Nghè phục vụ phát triển du lịch
 
Hình tượng biển trong trường ca Thu Bồn, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh
Hình tượng biển trong trường ca Thu Bồn, Thanh Thảo, Hữu ThỉnhHình tượng biển trong trường ca Thu Bồn, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh
Hình tượng biển trong trường ca Thu Bồn, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh
 
Luận án: Ba mô hình truyện lịch sử trong văn xuôi hiện đại Việt Nam
Luận án: Ba mô hình truyện lịch sử trong văn xuôi hiện đại Việt NamLuận án: Ba mô hình truyện lịch sử trong văn xuôi hiện đại Việt Nam
Luận án: Ba mô hình truyện lịch sử trong văn xuôi hiện đại Việt Nam
 
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
 
Đề tài: Quản lí về các di tích lịch sử - văn hóa tỉnh Thanh Hóa, HAY
Đề tài: Quản lí về các di tích lịch sử - văn hóa tỉnh Thanh Hóa, HAYĐề tài: Quản lí về các di tích lịch sử - văn hóa tỉnh Thanh Hóa, HAY
Đề tài: Quản lí về các di tích lịch sử - văn hóa tỉnh Thanh Hóa, HAY
 
Luận án: Đặc trưng thủy động lực học của dòng nối tiếp, HAY
Luận án: Đặc trưng thủy động lực học của dòng nối tiếp, HAYLuận án: Đặc trưng thủy động lực học của dòng nối tiếp, HAY
Luận án: Đặc trưng thủy động lực học của dòng nối tiếp, HAY
 
Luận Văn Truyện Kể Dân Gian Vùng Biển Quảng Ninh.doc
Luận Văn Truyện Kể Dân Gian Vùng Biển Quảng Ninh.docLuận Văn Truyện Kể Dân Gian Vùng Biển Quảng Ninh.doc
Luận Văn Truyện Kể Dân Gian Vùng Biển Quảng Ninh.doc
 
Luận án: Tiểu thuyết Việt Nam thập niên đầu thế kỷ XXI, HAY
Luận án: Tiểu thuyết Việt Nam thập niên đầu thế kỷ XXI, HAYLuận án: Tiểu thuyết Việt Nam thập niên đầu thế kỷ XXI, HAY
Luận án: Tiểu thuyết Việt Nam thập niên đầu thế kỷ XXI, HAY
 
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdf
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdfGiao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdf
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdf
 
Đề tài: Tính toán ổn định thanh tạo hình nguội theo tiêu chuẩn Úc
Đề tài: Tính toán ổn định thanh tạo hình nguội theo tiêu chuẩn ÚcĐề tài: Tính toán ổn định thanh tạo hình nguội theo tiêu chuẩn Úc
Đề tài: Tính toán ổn định thanh tạo hình nguội theo tiêu chuẩn Úc
 
Luận văn: Tính toán ổn định thanh tạo hình nguội, HAY, 9đ
Luận văn: Tính toán ổn định thanh tạo hình nguội, HAY, 9đLuận văn: Tính toán ổn định thanh tạo hình nguội, HAY, 9đ
Luận văn: Tính toán ổn định thanh tạo hình nguội, HAY, 9đ
 
Luận án: Những yếu tố triết học trong tín ngưỡng dân gian, HAY
Luận án: Những yếu tố triết học trong tín ngưỡng dân gian, HAYLuận án: Những yếu tố triết học trong tín ngưỡng dân gian, HAY
Luận án: Những yếu tố triết học trong tín ngưỡng dân gian, HAY
 
Luận án: Phật giáo Quảng Nam thế kỉ XVII – XIX, HAY
Luận án: Phật giáo Quảng Nam thế kỉ XVII – XIX, HAYLuận án: Phật giáo Quảng Nam thế kỉ XVII – XIX, HAY
Luận án: Phật giáo Quảng Nam thế kỉ XVII – XIX, HAY
 
Luận án: Cặp thoại hỏi - trả lời trong kịch Lưu Quang Vũ, HAY
Luận án: Cặp thoại hỏi - trả lời trong kịch Lưu Quang Vũ, HAYLuận án: Cặp thoại hỏi - trả lời trong kịch Lưu Quang Vũ, HAY
Luận án: Cặp thoại hỏi - trả lời trong kịch Lưu Quang Vũ, HAY
 
Đề tài: Quản lý khu di tích lưu niệm đồng chí Nguyễn Văn Cừ, HOT
Đề tài: Quản lý khu di tích lưu niệm đồng chí Nguyễn Văn Cừ, HOTĐề tài: Quản lý khu di tích lưu niệm đồng chí Nguyễn Văn Cừ, HOT
Đề tài: Quản lý khu di tích lưu niệm đồng chí Nguyễn Văn Cừ, HOT
 
Luận Văn Thạc Sĩ Khoa Học Lâm Nghiệp quản lý tài nguyên nước
Luận Văn Thạc Sĩ Khoa Học Lâm Nghiệp quản lý tài nguyên nướcLuận Văn Thạc Sĩ Khoa Học Lâm Nghiệp quản lý tài nguyên nước
Luận Văn Thạc Sĩ Khoa Học Lâm Nghiệp quản lý tài nguyên nước
 
Luận án: Biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam
Luận án: Biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt NamLuận án: Biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam
Luận án: Biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam
 
Luận văn: Đặc điểm và giá trị kiến trúc của That Luông Viêng Chăn
Luận văn: Đặc điểm và giá trị kiến trúc của That Luông Viêng ChănLuận văn: Đặc điểm và giá trị kiến trúc của That Luông Viêng Chăn
Luận văn: Đặc điểm và giá trị kiến trúc của That Luông Viêng Chăn
 
Luận văn: Bảo tồn tài nguyên du lịch nhân văn tỉnh Bình Dương
Luận văn: Bảo tồn tài nguyên du lịch nhân văn tỉnh Bình DươngLuận văn: Bảo tồn tài nguyên du lịch nhân văn tỉnh Bình Dương
Luận văn: Bảo tồn tài nguyên du lịch nhân văn tỉnh Bình Dương
 
Đặc trưng nghệ thuật Truyện truyền kỳ Việt Nam thời trung đại, HAY
Đặc trưng nghệ thuật Truyện truyền kỳ Việt Nam thời trung đại, HAYĐặc trưng nghệ thuật Truyện truyền kỳ Việt Nam thời trung đại, HAY
Đặc trưng nghệ thuật Truyện truyền kỳ Việt Nam thời trung đại, HAY
 

More from Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562

Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 

More from Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562 (20)

Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
 
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
 
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.docNghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
 
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.docXây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
 
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.docPhát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
 
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
 
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
 
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
 
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
 
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
 
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.docÁnh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
 
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
 
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
 
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
 
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
 
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
 
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.docDiễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
 

Recently uploaded

40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thụy Phương
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thụy PhươngLuận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thụy Phương
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thụy Phươnglamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Quản trị cơ sở Giáo dục nghề nghiệp
Quản trị cơ sở Giáo dục nghề nghiệpQuản trị cơ sở Giáo dục nghề nghiệp
Quản trị cơ sở Giáo dục nghề nghiệpaminh0502
 
NHững vấn đề chung về Thuế Tiêu thụ đặc biệt.ppt
NHững vấn đề chung về Thuế Tiêu thụ đặc biệt.pptNHững vấn đề chung về Thuế Tiêu thụ đặc biệt.ppt
NHững vấn đề chung về Thuế Tiêu thụ đặc biệt.pptphanai
 
Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...
Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...
Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...
Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...
Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
QUẢN LÝ TRUNG TÂM GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP – GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN HUYỆN LẬP THẠC...
QUẢN LÝ TRUNG TÂM GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP – GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN HUYỆN LẬP THẠC...QUẢN LÝ TRUNG TÂM GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP – GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN HUYỆN LẬP THẠC...
QUẢN LÝ TRUNG TÂM GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP – GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN HUYỆN LẬP THẠC...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Chương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa học
Chương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa họcChương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa học
Chương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa họchelenafalet
 
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptx
NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptxNGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptx
NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptxsongtoan982017
 
Hoàn thiện hoạt động kiểm soát rủi ro tín dụng trong cho vay doanh nghiệp tại...
Hoàn thiện hoạt động kiểm soát rủi ro tín dụng trong cho vay doanh nghiệp tại...Hoàn thiện hoạt động kiểm soát rủi ro tín dụng trong cho vay doanh nghiệp tại...
Hoàn thiện hoạt động kiểm soát rủi ro tín dụng trong cho vay doanh nghiệp tại...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
NHẬN XÉT LUẬN VĂN THẠC SĨ: Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của n...
NHẬN XÉT LUẬN VĂN THẠC SĨ: Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của n...NHẬN XÉT LUẬN VĂN THẠC SĨ: Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của n...
NHẬN XÉT LUẬN VĂN THẠC SĨ: Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của n...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1mskellyworkmail
 
ĐỀ SỐ 1 Của sở giáo dục đào tạo tỉnh NA.pdf
ĐỀ SỐ 1 Của sở giáo dục đào tạo tỉnh NA.pdfĐỀ SỐ 1 Của sở giáo dục đào tạo tỉnh NA.pdf
ĐỀ SỐ 1 Của sở giáo dục đào tạo tỉnh NA.pdflevanthu03031984
 
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 

Recently uploaded (20)

40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
 
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thụy Phương
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thụy PhươngLuận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thụy Phương
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thụy Phương
 
Quản trị cơ sở Giáo dục nghề nghiệp
Quản trị cơ sở Giáo dục nghề nghiệpQuản trị cơ sở Giáo dục nghề nghiệp
Quản trị cơ sở Giáo dục nghề nghiệp
 
NHững vấn đề chung về Thuế Tiêu thụ đặc biệt.ppt
NHững vấn đề chung về Thuế Tiêu thụ đặc biệt.pptNHững vấn đề chung về Thuế Tiêu thụ đặc biệt.ppt
NHững vấn đề chung về Thuế Tiêu thụ đặc biệt.ppt
 
Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...
Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...
Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
 
Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...
Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...
Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...
 
QUẢN LÝ TRUNG TÂM GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP – GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN HUYỆN LẬP THẠC...
QUẢN LÝ TRUNG TÂM GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP – GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN HUYỆN LẬP THẠC...QUẢN LÝ TRUNG TÂM GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP – GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN HUYỆN LẬP THẠC...
QUẢN LÝ TRUNG TÂM GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP – GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN HUYỆN LẬP THẠC...
 
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
 
Chương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa học
Chương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa họcChương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa học
Chương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa học
 
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
 
TIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌCTIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
 
NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptx
NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptxNGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptx
NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptx
 
Hoàn thiện hoạt động kiểm soát rủi ro tín dụng trong cho vay doanh nghiệp tại...
Hoàn thiện hoạt động kiểm soát rủi ro tín dụng trong cho vay doanh nghiệp tại...Hoàn thiện hoạt động kiểm soát rủi ro tín dụng trong cho vay doanh nghiệp tại...
Hoàn thiện hoạt động kiểm soát rủi ro tín dụng trong cho vay doanh nghiệp tại...
 
NHẬN XÉT LUẬN VĂN THẠC SĨ: Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của n...
NHẬN XÉT LUẬN VĂN THẠC SĨ: Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của n...NHẬN XÉT LUẬN VĂN THẠC SĨ: Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của n...
NHẬN XÉT LUẬN VĂN THẠC SĨ: Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của n...
 
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
 
ĐỀ SỐ 1 Của sở giáo dục đào tạo tỉnh NA.pdf
ĐỀ SỐ 1 Của sở giáo dục đào tạo tỉnh NA.pdfĐỀ SỐ 1 Của sở giáo dục đào tạo tỉnh NA.pdf
ĐỀ SỐ 1 Của sở giáo dục đào tạo tỉnh NA.pdf
 
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
 

Luận án: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý, HAY

  • 1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN VĂN ĐÁP DI TÍCH CHÙA DẠM TRONG HỆ THỐNG CÁC CHÙA THỜI LÝ Ngành: KHẢO CỔ HỌC Mã số: 9 22 90 17 LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHẢO CỔ HỌC Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. TỐNG TRUNG TÍN 2. TS. TRỊNH HOÀNG HIỆP HÀ NỘI - 2019
  • 2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình tổng hợp và nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các tài liệu trích dẫn trong luận án là trung thực, có nguồn gốc và xuất xứ rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu của luận án chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác. NGHIÊN CỨU SINH Nguyễn Văn Đáp
  • 3. LỜI CẢM ƠN Trong quá trình thực hiện luận án, tôi luôn nhận được sự quan tâm giúp đỡ, động viên kịp thời về mọi mặt của những người thân trong gia đình. Tôi cũng nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình và trách nhiệm của giáo viên hướng dẫn: PGS.TS. Tống Trung Tín và TS. Trịnh Hoàng Hiệp, đồng thời, tôi luôn nhận được sự quan tâm, giúp đỡ từ phía Tỉnh ủy, UBND tỉnh Bắc Ninh, Sở Nội vụ, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Ninh cơ quan tôi đang công tác. Bên cạnh đó, tôi cũng nhận được sự chỉ bảo ân cần, có nhiều ý kiến đóng góp quý báu từ các nhà khoa học, các thầy cô giáo đã đào tạo tôi; các cán bộ công chức, viên chức Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Ninh, Ban Quản lý di tích tỉnh, Bảo tàng tỉnh; Thành ủy, UBND thành phố Bắc Ninh, phòng Văn hóa và Thông tin thành phố Bắc Ninh; Đảng ủy, UBND xã Nam Sơn. Đặc biệt là nhân dân thôn Tự, xã Nam Sơn, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh đã dành cho tôi tình cảm cũng như sự giúp đỡ nhiệt tình trong những năm nghiên cứu tại di tích chùa Dạm. Điều đó đã giúp tôi hoàn thành luận án của mình và qua đây cho phép tôi gửi tới Quý vị, Quý cơ quan niềm kính trọng và biết ơn sâu sắc. Xin trân trọng cảm ơn!
  • 4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU................................. 7 1.1. Vị trí địa - văn hóa.......................................................................................... 7 1.1.1. Vị trí địa lý, môi trường cảnh quan............................................................. 7 1.1.2. Đặc điểm lịch sử, văn hóa........................................................................... 8 1.2. Tư liệu và vấn đề.......................................................................................... 13 1.2.1. Chùa Dạm qua tài liệu cổ sử ..................................................................... 13 1.2.2. Thám sát khảo cổ học năm 2009............................................................... 16 1.2.3. Nghiên cứu chùa Dạm............................................................................... 17 1.3. Tiểu kết chương 1......................................................................................... 21 Chương 2: DI TÍCH KIẾN TRÚC VÀ NIÊN ĐẠI........................................ 23 2.1. Chùa Dạm qua các dấu tích trên thực địa .................................................... 23 2.2. Địa tầng chung, mặt bằng tổng thể bốn cấp nền .......................................... 27 2.2.1. Địa tầng chung .......................................................................................... 27 2.2.2. Mặt bằng tổng thể bốn cấp nền ................................................................. 27 2.3. Kè đá, hố cột và hố gia cố chân tảng thời Lý............................................... 45 2.3.1. Kè đá thời Lý............................................................................................. 45 2.3.2. Hố gia cố chân cột..................................................................................... 47 2.3.3. Hố gia cố chân tảng................................................................................... 48 2.4. Tiểu kết Chương 2........................................................................................ 48 Chương 3: HIỆN VẬT VÀ NIÊN ĐẠI............................................................ 52 3.1. Di vật lộ thiên còn sót lại ............................................................................. 52 3.1.1. Bia đá......................................................................................................... 52 3.1.2. Chân tảng................................................................................................... 53 3.1.3. Cột đá ........................................................................................................ 53 3.1.4. Móng chân đế tháp.................................................................................... 54 3.2. Di vật được phát hiện trong quá trình khai quật khảo cổ học...................... 54 3.2.1. Vật liệu kiến trúc....................................................................................... 54 3.2.2. Đồ gốm men.............................................................................................. 84
  • 5. 3.2.3. Sành mịn.................................................................................................... 97 3.3. Tiểu kết Chương 3...................................................................................... 105 Chương 4: DI TÍCH CHÙA DẠM TRONG HỆ THỐNG CÁC CHÙA THỜI LÝ.......................................................................................................... 107 4.1. Hệ thống chùa, tháp thời Lý....................................................................... 107 4.1.1. Địa điểm núi Ngô Xá .............................................................................. 107 4.1.2. Địa điểm tháp Tường Long..................................................................... 109 4.1.3. Địa điểm chùa Lạng ................................................................................ 110 4.1.4. Địa điểm đền Cầu Từ .............................................................................. 110 4.1.5. Địa điểm chùa Cao.................................................................................. 111 4.1.6. Địa điểm chùa Phật Tích......................................................................... 113 4.1.7. Địa điểm chùa Linh Xứng....................................................................... 115 4.1.8. Địa điểm chùa Long Đọi Sơn.................................................................. 115 4.1.9. Địa điểm chùa Bà Tấm............................................................................ 117 4.1.10. Tổng quan về kiến trúc thời Lý ở Thăng Long..................................... 120 4.2.1. Giá trị kiến trúc ....................................................................................... 122 4.2.2. Giá trị về hệ thống di vật......................................................................... 129 4.3. Chùa Dạm góp phần tìm hiểu lịch sử kiến trúc Phật giáo Việt Nam......... 129 4.4. Phương án bảo tồn khu di tích chùa Dạm.................................................. 139 4.4.1. Cấp nền 1, 2 và 3..................................................................................... 139 4.4.2. Cấp nền 4................................................................................................. 140 4.4.3. Gia cố bờ kè đá và lối lên - xuống trên 4 cấp nền................................... 140 4.4.4. Phương pháp xử lý chung cho phương án bảo tồn ................................. 141 4.4.5. Bảo tồn di sản dưới dạng số và làm mô hình giả định khu di tích chùa Dạm.................................................................................................................... 142 4.5. Tiểu kết chương 4....................................................................................... 142 KẾT LUẬN ...................................................................................................... 144 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ.......................... 151 TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 152
  • 6. BẢNG CÁC CHỮ VIẾT TẮT BTLSVN - Bảo tàng Lịch sử Việt Nam CDKT - Chùa Dạm kiến trúc CT - Chân tảng DTH - Dân tộc học ĐHTHHN - Đại học Tổng hợp Hà Nội GĐVH - Giai đoạn văn hóa GS - Giáo sư HS - Hồ sơ HV - Hiện vật KCH - Khảo cổ học KHKT - Khoa học kỹ thuật KHXH - Khoa học xã hội KHXH & NVQG - Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia LA - Luận án LV - Luận văn HGCCT - Hố gia cố chân tảng NCLS - Nghiên cứu lịch sử NPHMVKCH - Những phát hiện mới về khảo cổ học Nxb - Nhà xuất bản PGS - Phó giáo sư PTS - Phó tiến sĩ TBKH - Thông báo khoa học TLVKCH - Tư liệu Viện Khảo cổ học TK - Thế kỷ TL - Tư liệu TS - Tiến sĩ TT - Thứ tự Tr - Trang VHTT - Văn hóa thông tin
  • 7. THUẬT NGỮ ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG LUẬN ÁN Cho đến thời điểm hiện nay ngành Khảo cổ học Việt Nam chưa có một chuyên khảo riêng về thuật ngữ Khảo cổ học. Do vậy, mỗi nhà nghiên cứu từ kinh nghiệm nghiên cứu của mình đã đưa ra những thuật ngữ riêng với mục đích làm sao thuận lợi cho việc miêu tả hiện vật, di tích... một cách dễ hiểu để đến được với người đọc và đó cũng là lý do mà tôi gặp khó khăn khi trình bày những thuật ngữ này. Tôi tôn trọng thuật ngữ mà những người đi trước đã sử dụng, nhưng bên cạnh đó với nguồn tư liệu mới hiện nay tôi sẽ sử dụng một số thuật ngữ khác với trước đây, ví dụ: Đấu củng: là một kết cấu gồm hai bộ phận là "đấu" (đóng vai trò là bệ đỡ) và "củng" (giống hình khuỷu tay, đóng vai trò là tay đỡ), được dùng để đỡ một kết cấu khác bên trên, ví dụ như mái hiên. Bích ngõa: ngói men xanh. Uyên ngõa: ngói uyên ương. Ngói vảy và liên ngõa: ngói sen Thủy ba: núi [35]. Hố gia cố chân tảng: thay cho thuật ngữ móng trụ, trụ sỏi, móng cột. Rãnh thoát nước: không có nắp. Cống: có nắp [42].
  • 8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài 1.1. Chùa Dạm có tên chữ “Đại Lãm tự” nằm trên núi Dạm thuộc thôn Tự, xã Nam Sơn, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh. Chùa do Nguyên Phi Ỷ Lan cho xây dựng, khuôn viên chùa có nhiều công trình nguy nga đồ sộ, xếp vào hàng đại danh lam kiêm hành cung. Theo Đại Việt sử ký toàn thư: năm Bính Dần Quảng Hựu thứ 2 (1086) “Làm chùa ở núi Đại Lãm”, năm Đinh Mão Quảng Hựu thứ 3 (1087) “Mùa đông tháng 10 vua ngự đến chùa Lãm Sơn. Đêm ban yến cho các quan, vua thân làm 2 bài thơ Lãm Sơn dạ yến”, năm Mậu Thìn Quảng Hựu năm thứ 4 (1088) “Mùa đông, tháng 10 xây tháp chùa Lãm Sơn”, năm Giáp Tuất Hội Phong thứ 3 (1094) “Mùa hạ, tháng 4 tháp chùa Lãm Sơn xây xong”, năm Ất Dậu Long Phù thứ 5 (1105) “Mùa thu, tháng 9 làm hai ngọn tháp chỏm trắng ở chùa Diên Hựu, 3 ngọn tháp chỏm đá ở chùa Lãm Sơn”. Như vậy, chùa Dạm bắt đầu khởi đặt từ mùa đông năm 1086, đến mùa hạ năm 1094 mới hoàn thành. Công việc xây tháp cứ dần dần được bổ sung về sau. Vua Lý Nhân Tông rất chăm lo đến công trình chùa Dạm. Nhà vua từng thân hành về thăm, đề thơ, viết biển và đặt tên cho chùa. Trong thời gian dài, có sự đầu tư đặc biệt của triều đình, đã thấy rõ quy mô to rộng của chùa Dạm trong lịch sử. Thời Lý chùa được xây dựng quy mô lớn trên 4 lớp nền trườn theo sườn núi lên cao dần ở lưng trừng núi và dựa hẳn vào sườn núi. Các nhà kiến trúc thời Lý đã tìm thấy ở thiên nhiên và lợi dụng thiên nhiên để nhân cái đẹp của công trình. Mặt khác chùa Dạm xưa là nơi tập trung trí tuệ của nhân dân Bắc Ninh - Kinh Bắc nói riêng và của cả dân tộc nói chung đã xây dựng lên công trình tín ngưỡng, tôn giáo tiêu biểu theo lối đại danh lam kiêm hành cung. 1.2. Thời Lý, Phật giáo phát triển mạnh, ảnh hưởng rộng lớn và sâu sắc trong quần chúng nhân dân và giai cấp thống trị. Trong chừng mực nhất định, đạo Phật có những mặt tích cực phù hợp với tư tưởng, nguyện vọng của nhân dân Đại Việt thời Lý. Tư tưởng từ bi bác ái và ôn hòa của đạo Phật đã dễ dàng chinh phục được tấm lòng của những con người vừa mới thoát khỏi sự đè nén của hơn nghìn năm Bắc thuộc, chống Bắc thuộc. Nhờ vào địa vị quốc giáo của đạo Phật, hầu hết các chùa, tháp lớn thời này đều do triều đình đứng ra xây dựng. Không những chỉ riêng ở kinh đô mà ngay ở Bắc Ninh - quê hương nhà Lý, chùa, tháp được xây dựng ở khắp các làng xã. Hiện tại, không còn một ngôi chùa tháp nào thời Lý ở Bắc Ninh tồn tại. Qua khảo sát nghiên cứu dấu tích ở các di tích, như dấu tích nền móng kiến trúc, vật liệu xây dựng: gạch, ngói, đá... còn lưu lại cùng với nguồn tư liệu khác như: bia ký, vật liệu trang trí bằng đá, đất nung... và nhiều nguồn tài liệu khác như thư tịch; nhân dân các
  • 9. 2 làng xã có di tích cung cấp, cho thấy toàn tỉnh Bắc Ninh còn 23 dấu tích chùa tháp thời Lý. Căn cứ tài liệu và những dấu tích chùa tháp thời Lý ở Bắc Ninh hiện nay, chúng tôi có một số nhận xét sau đây: Về địa bàn phân bố: Chùa tháp có mặt ở khắp các làng xã thuộc các huyện và thành phố trong tỉnh, nhưng tập trung đậm đặc hơn cả là vùng quê hương nhà Lý thuộc phường Đình Bảng, phường Tân Hồng, xã Tương Giang (thị xã Từ Sơn ngày nay) và huyện Tiên Du với 12 di tích chùa tháp thuộc thời Lý. So với những ghi chép trong các tài liệu thư tịch, cho thấy những di tích chùa tháp thời Lý còn lại ở tỉnh Bắc Ninh còn rất ít. Bắc Ninh nổi tiếng là quê hương chùa tháp. Ngay từ những thế kỷ đầu Công nguyên, Phật giáo từ Ấn Độ đã được truyền vào Việt Nam, qua trung tâm Luy Lâu - Dâu hay Liên Lâu nay thuộc xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành và trung tâm Phật Tích, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Hệ thống chùa tháp đã được dựng lên ở Luy Lâu, Phật Tích, đáp ứng nhu cầu truyền bá đạo Phật của các tăng sĩ Ấn Độ, sau đó là các tăng sĩ Trung Quốc, với hàng chục công trình chùa tháp như chùa Dâu, chùa tổ Mãn Xá, các chùa thờ “Tứ pháp” ở Luy Lâu, các chùa Phúc Nghiêm, chùa Linh Quang, chùa Phật Tích... ở vùng Phật Tích. Bắc Ninh trở thành tổ đình của Phật giáo Việt Nam, quê hương của thiền phái Tì ni đa lưu chi, thiền phái Vô Ngôn Thông... trong suốt nghìn năm Bắc thuộc với hệ thống chùa tháp dày đặc ở khắp các làng xã. Trước thời Lý, vào thời Đinh - Lê, hệ thống chùa tháp ở châu Cổ Pháp đã được xây cất ở nhiều làng xã, như chùa Kiến Sơ (Phù Đổng), chùa Cổ Pháp, chùa Tiêu Sơn, chùa Lục Tổ, chùa Ứng Tâm... Đó là chốn tu hành của nhiều bậc cao tăng nổi tiếng đã có công đối với việc dựng lập vương triều Lý, như thiền sư Khánh Văn, Vạn Hạnh… Đặc biệt thời Lý, một triều đại vốn ngay từ đầu đã gắn bó với Phật giáo, sư tăng, chùa tháp. Các vua Lý và hoàng tộc đều sùng đạo Phật, nên chùa tháp được xây cất ở khắp các làng xã trong nước, đặc biệt là trên quê hương nhà Lý. Sử cũ cho biết, ngay sau khi lên ngôi Lý Thái Tổ đã “xuống chiếu phát tiền kho 2 vạn quan, thuê thợ làm chùa ở Phủ Thiên Đức tất cả 8 sở”, rồi “hạ lệnh cho các hương ấp, chỗ nào có chùa quán đều phải sửa chữa lại”. Đến triều vua Lý Thái Tông năm 1031 “xuống chiếu, phát tiền thuê thợ làm chùa ở các hương ấp, tất cả 150 chỗ”. Riêng thái hậu Ỷ Lan “dựng chùa thờ Phật trước sau hơn trăm chùa”. Dưới triều Lý, nhà vua đã cho xây các chùa tháp, đúc chuông, đúc tượng Phật ở nhiều nơi, đặc biệt là quê hương nhà Lý, như chùa Phật Tích, chùa Đại Lãm, chùa Trùng Quang, chùa Bách Môn, chùa Phả Lại... đồng thời tiến hành tu bổ, sửa chữa nhiều chùa lớn, như chùa Dâu (chùa Pháp Vân)... Nhà nước còn phân các chùa trong nước làm ba hạng: đại, trung và tiểu danh lam, cử quan lại quản lý ruộng đất và tài sản nhà chùa. Đó là chức đề cử.
  • 10. 3 Sử thần Lê Văn Hưu nhận xét: “... Lý Thái Tổ lên ngôi mới được 2 năm, đã dựng 8 chùa ở phủ Thiên Đức, lại trùng tu chùa quán ở các lộ và độ cho làm tăng hơn nghìn người ở kinh sư... dân chúng quá nửa làm sư sãi, trong nước chỗ nào cũng chùa chiền” [123]. Những cứ liệu lịch sử trên cho thấy, chùa tháp thời Lý được dựng đặt khắp các nơi, nhất là quê hương nhà Lý. 1.3. Khu di tích chùa Dạm thông qua nguồn sử liệu chữ viết và một vài tư liệu khảo cổ học hiện còn ở di tích này như: trụ đá trang trí hoa văn, bờ kè đá ở các cấp nền, bia đá... Ngoài nguồn tư liệu này hầu như chúng ta không biết gì về mặt bằng kiến trúc, vật liệu gia cố kiến trúc, vật liệu xây dựng, vật liệu trang trí kiến trúc, vật dụng, đồ thờ... ở khu di tích chùa Dạm. Trước những yêu cầu trên, năm 2009 Ban quản lý di tích tỉnh Bắc Ninh tiến hành khai quật thăm dò địa điểm chùa Dạm. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu này từ cuối năm năm 2011 đến năm 2014, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Ninh phối hợp với Viện Khảo cổ học khai quật khảo cổ học tổng thể địa điểm chùa Dạm. Kết quả nghiên cứu cho thấy dấu tích một ngôi chùa, tháp của Hoàng gia thời Lý có mặt bằng quy mô, cấu trúc khác lạ, kỹ thuật xây dựng cầu kỳ công phu, trang trí tinh xảo vào bậc nhất so với tất cả các ngôi chùa ở Việt Nam hiện biết. Cùng với thư tịch cổ, các tài liệu khảo cổ học đã mở ra nhận thức về kết cấu mặt bằng của toàn thể kiến trúc - tháp trước, chùa sau của khu di tích chùa Dạm. Về hệ thống di vật chùa Dạm cho dù đã bị thất lạc và mất mát về cơ bản, những di vật thu được trong quá trình khai quật cũng khá phong phú. Các di vật kiến trúc phản ánh đặc điểm của vật liệu và nghệ thuật trang trí chùa Dạm qua các thời, các di vật gốm sứ, sành, đồ đất nung... phản ánh lịch sử lâu dài của di tích từ thời Lý qua thời Trần cho đến ngày nay. 1.4. Là cán bộ làm việc tại Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Ninh, tôi hy vọng thông qua luận án sẽ đóng góp trực tiếp vào mảng nghiên cứu, bảo tồn và phát huy giá trị di tích trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh nói riêng và giá trị di sản văn hóa nói chung. Ngoài ra, tác giả luận án có cơ may tham gia quản lý dự án và tham gia đào thám sát khảo cổ học năm 2009; khai quật khảo cổ học tổng thể khu di tích chùa Dạm từ năm 2011 đến năm 2014; điều tra, lập hồ sơ, nghiên cứu các di tích liên quan và cũng đã có một số công trình nghiên cứu về khảo cổ học, Hán Nôm về các di tích thời Lý trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Đó là những điều kiện thuận lợi để tác giả mạnh dạn chọn đề tài "Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý" làm đề tài luận án tiến sĩ Lịch sử, chuyên ngành Khảo cổ học.
  • 11. 4 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích Tổng hợp, cung cấp kết quả nghiên cứu về cột đá và các tháp của các nhà nghiên cứu đi trước; nhận định bước đầu về cột đá chùa Dạm qua kết quả thu được từ đợt khai quật tổng thể khảo cổ đã thực hiện. Xác định đặc điểm cơ bản của các tháp chùa Dạm và so sánh các đặc trưng để làm rõ vị trí, vai trò của chùa Dạm trong hệ thống di tích chùa tháp thời Lý. Đề tài luận án sẽ tập trung đưa ra những giải thích về di tích chùa Dạm: mặt bằng kiến trúc, quy mô, kỹ thuật xây dựng, trang trí kiến trúc... Thông qua kết quả khảo cổ học thu được, đề tài luận án sẽ đưa ra bằng chứng về những lần trung tu vào thời Trần, thời Lê Trung Hưng và mặt bằng kiến trúc thời Nguyễn cũng như các loại hình hiện vật được dùng trong di tích. 2.2. Nhiệm vụ - Nhận thức và làm rõ cấu trúc mặt bằng chùa Dạm thời Lý, thời Trần và các thời đại sau đó. - Công năng của công trình trong quần thể kiến trúc chùa Dạm, đặc biệt là công năng của các công trình chùa Dạm thời Lý qua phân tích các di tích và di vật khảo cổ học kết hợp các nguồn tài liệu khác. - Thông qua so sánh, phân tích giữa chùa Dạm, chùa Phật Tích (Bắc Ninh), chùa Cao (Bắc Giang), di tích Ngô Xá, Long Đọi (Hà Nam), chùa Lạng (Hưng Yên), chùa Bà Tấm (Hà Nội), chùa tháp Tường Long (Hải Phòng)... để tìm hiểu về lịch sử kiến trúc Phật giáo Việt Nam. - Phân tích, đánh giá giá trị di sản văn hóa, cung cấp cơ sở khoa học và thực tiễn cho các hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di tích khu di tích chùa Dạm. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là các di tích, di vật khảo cổ học ở di tích chùa Dạm và một số ngôi chùa thời Lý trên địa bàn các tỉnh: Bắc Ninh, Bắc Giang, Hà Nội, Hưng Yên, Hà Nam, Hải Phòng... Nguồn tư liệu sử dụng trong đề tài luận án gồm: các báo cáo điều tra, khai quật khảo cổ học, các công trình nghiên cứu đã được công bố trên các sách, tạp chí chuyên ngành về khảo cổ học, mỹ thuật, văn hóa... và một số sách khoa học có liên quan như thư tịch cổ, bia ký và tài liệu dân tộc học... Đề tài cũng tham khảo về tư liệu các ngôi chùa thời Trần, Lê... giai đoạn sau ở Bắc Việt Nam có liên quan nhất định đến luận án.
  • 12. 5 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Tập trung chính vào việc trình bày về di tích chùa Dạm (mặt bằng kiến trúc, vật liệu xây dựng, vật liệu trang trí kiến trúc, đồ gốm sứ, đồ sành...) để từ đó rút ra những nhận định về vị trí, quy mô và vai trò của di tích chùa Dạm trong lịch sử. Ngoài ra, luận án cũng trình bày khái quát về một số ngôi chùa thời Lý trên địa bàn các tỉnh như: Bắc Ninh, Bắc Giang, Hà Nội, Hưng Yên, Hà Nam, Hải Phòng... để nhận thấy vị trí, vai trò của di tích, cũng như sự giao thoa văn hóa trong các ngôi chùa thời Lý. - Về không gian và thời gian: Do trọng tâm và khuôn khổ của luận án nên chỉ tập trung trình bày về di tích chùa Dạm và mối quan hệ văn hóa với các ngôi chùa thời Lý ở Bắc Việt Nam, các di tích có niên đại muộn hơn chỉ mang tính tham khảo. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án - Luận án sử dụng các phương pháp khảo cổ học truyền thống như: điều tra, điền dã, thám sát, khai quật khảo cổ học các di tích thời Lý trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang, Hà Nội, Hưng Yên, Hà Nam, Hải Phòng... có liên quan đến đề tài; phân loại, đo, vẽ, khảo tả, chụp ảnh dấu vết kiến trúc, hiện vật tiêu biểu, phân tích so sánh tổng hợp các di tích và di vật khảo cổ học, nhằm xác định niên đại, tính chất của các di tích. - Sử dụng các phương pháp liên ngành như: dân tộc học, thư tịch cổ, Hán Nôm, địa chất học, các ứng dụng của khoa học tự nhiên như vật lý, hóa học, địa lý, văn học dân gian, kiến trúc dân gian góp phần luận giải các vấn đề kỹ thuật xây dựng, nguồn gốc, vai trò, chức năng các công trình. - Sử dụng phương pháp phân tích so sánh loại hình giữa các di tích, di vật để thấy được tính đồng đại và lịch đại của các di tích khảo cổ học trong vùng, hay trên toàn khu vực. - Vận dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để tìm hiểu, lý giải, phân tích so sánh các sự kiện lịch sử, văn hóa trong từng địa bàn cụ thể, từ đó rút ra các mối quan hệ về kinh tế, văn hóa - xã hội của các cộng đồng cư dân thời Lý. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án - Đóng góp vào lịch sử nghiên cứu về di tích thời Lý nói chung, chùa Dạm nói riêng từ góc độ kiến trúc, nghệ thuật và khảo cổ học thông qua việc phân tích thực trạng khu di tích chùa Dạm hiện được khai quật khảo cổ học tổng thể và so sánh với các chùa, tháp thời Lý khác đã được khai quật. Đồng thời, lý giải về hiện trạng, đặc điểm, mô hình, chức năng và cấu trúc các di tích thời Lý. - Thông qua nghiên cứu khảo cổ, luận án cung cấp những thông tin mới, đầy đủ hơn về chùa Dạm so với những hiểu biết từ trước đến nay.
  • 13. 6 - Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho công tác bảo vệ và phát huy giá trị di tích chùa Dạm nói riêng, các di tích thời Lý nói chung. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án - Căn cứ vào so sánh các đặc trưng di tích, di vật, thư tịch cổ, văn bia, truyền thuyết dân gian... có thể xác định các dấu tích kiến trúc đã xuất lộ là thuộc thời Lý. Di tích đã được tu bổ, sửa chữa trong thời Trần, thời Lê và thời Nguyễn. Đây là một di tích có giá trị lịch sử - văn hóa lớn. - Những di tích đã xuất lộ cho chúng ta thấy dấu tích một ngôi chùa, tháp của Hoàng gia thời Lý có mặt bằng quy mô, cấu trúc khác lạ, kỹ thuật xây dựng cầu kỳ công phu, trang trí tinh xảo vào bậc nhất so với tất cả các ngôi chùa ở Việt Nam hiện biết. - Mặc dù hệ thống di vật chùa Dạm đã bị thất lạc và mất mát về cơ bản, những di vật thu được trong quá trình khai quật cũng khá phong phú. Các di vật kiến trúc phản ảnh đặc điểm của vật liệu và nghệ thuật trang trí chùa Dạm qua các thời, các di vật gốm sứ phản ánh lịch sử lâu dài của di tích từ thời Lý qua thời Trần cho đến ngày nay. - Tổng thể các di vật tìm thấy và phản ánh tính chất Hoàng gia hàng đầu của chùa Dạm trong hệ thống chùa tháp Hoàng gia thời Lý ở Bắc Ninh. Bên cạnh đó, các di vật này cũng cung cấp nguồn tài liệu mang tính xác thực cao phục vụ cho việc nghiên cứu bảo tồn tôn tạo, phục dựng di tích và phát huy giá trị của di tích. - Kết quả khai quật khảo cổ học tổng thể khu di tích chùa Dạm đã cung cấp nhiều tư liệu khoa học quan trọng trong việc nghiên cứu hệ thống chùa tháp Hoàng gia thời Lý ở Bắc Ninh nói riêng, Bắc Việt Nam nói chung cũng như bổ sung tư liệu cho việc thiết kế xây dựng chùa Dạm (mới). 7. Cơ cấu của luận án Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, Luận án có cơ cấu như sau: - Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài (17 tr, từ tr.7 - tr.23) - Chương 2: Di tích kiến trúc và niên đại (28 trang, từ tr.24 - tr.52) - Chương 3: Hiện vật và niên đại (53 trang, từ tr.53 - tr.106) - Chương 4: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý (37 trang, từ tr.107 - tr.144)
  • 14. 7 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Vị trí địa - văn hóa 1.1.1. Vị trí địa lý, môi trường cảnh quan Bắc Ninh có diện tích tự nhiên 822,71 km2 , dân số 1 triệu 120 nghìn người, với 8 đơn vị hành chính gồm: thành phố Bắc Ninh, thị xã Từ Sơn, các huyện: Gia Bình, Lương Tài, Thuận Thành, Quế Võ, Tiên Du và Yên Phong; có 97 xã, 29 phường, thị trấn; 570 thôn, làng, 161 khu phố [77] (Bản đồ 1). Bắc Ninh nằm ở trung tâm châu thổ sông Hồng có tọa độ từ 1050 54’ 06’’ đến 1060 18’ 50’’ kinh độ Đông, 200 58’ 30’’ đến 2100 16’ 00’’ vĩ độ Bắc; Bắc giáp tỉnh Bắc Giang, Đông giáp tỉnh Hải Dương, Nam giáp tỉnh Hưng Yên, Tây giáp thành phố Hà Nội. Về kiến tạo địa chất, Bắc Ninh mang những đặc điểm của cấu tạo địa chất vùng trũng sông Hồng và vòng cung Đông Triều vùng Đông Bắc. Cấu tạo đất đá chủ yếu có tuổi từ Cambri đến kỷ Đệ Tứ. Địa hình tương đối bằng phẳng, có hướng dốc từ Tây Bắc xuống Đông Nam, độ dốc không lớn, độ cao phổ biến từ 4m đến 5m so với mặt nước biển. Diện tích đồng bằng chiếm tuyệt đại đa số, đồi núi chỉ chiếm 0,53% diện tích (62,5km2 ), nhưng hệ thống sông ngòi, ao hồ dày đặc, bình quân từ 1 - 1,2km sông ngòi/km2 , trong đó có 3 sông lớn chảy qua là sông Cầu, sông Đuống và sông Lục Đầu - Thái Bình, tạo nguồn nước phong phú cho sản xuất và sinh hoạt. Tài nguyên Bắc Ninh không phong phú, chủ yếu là nguyên liệu phục vụ cho sản xuất vật liệu xây dựng như đất sét làm gốm, sứ, gạch ngói; một ít vùng có than bùn, đá cát kết và sa thạch. Rừng còn lại rất ít, chủ yếu là rừng trồng, trữ lượng gỗ khoảng 3.280m3 . Phần lớn đất tự nhiên là đất nông nghiệp, chiếm tới 66% diện tích đất tự nhiên. Nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình của Bắc Ninh là 230 c, lượng mưa trung bình 1400 - 1600mm/năm. Đặc điểm vị trí, địa lý và môi trường cảnh quan cũng như nguồn tài nguyên đất đai, cho thấy Bắc Ninh vốn có lợi thế về sản xuất nông nghiệp (cấy lúa nước, trồng rau màu…) đồng thời có nhiều thuận lợi cho việc phát triển các nghề thủ công và giao thương buôn bán với các vùng miền trong nước và các nước trong khu vực. Chùa Dạm nằm ở sườn phía Nam của dãy núi Dạm, núi này đột khởi, nổi giữa những cánh đồng, ao hồ, sông, ngòi, bờ bãi là một bức tranh thiên nhiên tuyệt mỹ. Nếu nhìn từ trên cao, toàn cảnh núi Dạm là một bức tranh thủy mặc hữu tình, với cánh đồng lúa trải rộng và kéo dài đến bờ Bắc của sông Đuống. Dòng sông Đuống cổ kính như một dải lụa mềm, uốn lượn, bao quanh một vùng đồng bằng trù phú, quanh năm tươi tốt. Các làng mạc nằm quanh chân núi Dạm được gọi là các “làng Dạm” gồm:
  • 15. 8 Triều Thôn, Sơn Trung, Thái Bảo, Sơn Đông, Sơn Nam, Đa Cấu, Tự Thôn, Môn Tự và Đông Dương (Bản đồ 2). Chùa được bao bọc bởi các ngọn núi Long lĩnh, Phượng hoàng, Kỳ lân, núi Rùa, những ngọn núi này có độ cao trên - dưới 70m so với mặt nước biển, soi mình trên dòng sông Thiên Đức. Các nhà phong thủy xưa đều cho rằng, chùa Dạm được tọa lạc trên đất “Tứ linh”, có rừng thông thoai thoải, không khí trong lành, dưới chân núi là những xóm làng bình yên, trù phú với những người dân chất phác thuần hậu. Sách An Nam chí nguyên của Cao Hùng Trưng ghi chép về núi Dạm như sau: “Ngọn núi lởm chởm, cao vút, có thể lên cao để nhìn ra xa. Trong núi có chùa Thần Quang trông ra sông Thiên Đức, thông bách xum xuê xanh tốt, nhìn rất dịu mắt”. Sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú nói về núi Dạm: “Núi Lãm Sơn ở huyện Quế Dương, có 16 xã ở quanh núi, có rất nhiều chùa cổ, cảnh trí sông núi rất âm u tịch mịch. Trên núi là chỗ tu hành của sư Không Lộ, dấu cũ nay vẫn còn”. Vào thời Nguyễn, sách Bắc Ninh toàn tỉnh dư địa chí nói về chùa Dạm: “Suối chảy vòng quanh núi. Cây cối rườm rà, trông cả vùng như một bức tranh vẽ. Từ xưa ở đây có tiếng là cảnh danh thắng, thi nhân đề thơ rất nhiều”. Có thể thấy, núi Dạm chạy dọc và nghiêng theo hướng Đông - Tây, nên tạo ra các dòng chảy phụ thuộc theo hướng nghiêng của núi. Do vậy, cả triền núi này xưa kia cũng là trục đường bộ nối liền vùng Đông Bắc, Lục Đầu với vùng châu thổ Kinh Bắc. Trục đường bộ này đi qua các làng: Sơn Đông, Sơn Dương, Sơn Trung của tổng Lãm Dương, qua khu vực núi ba huyện, khu vực Sơn thuộc huyện Tiên Du để về trung tâm Phật giáo Phật Tích. Từ trung tâm Phật giáo Phật Tích, con đường bộ sẽ về trung tâm Phật giáo Tiêu Sơn - Lục Tổ. Đây là tuyến giao thông đường bộ cổ xưa, tuyến đường dựa theo triền núi để đi về được khắp cả vùng Quế Dương, Võ Giàng, Tiên Du. Tuyến đường giao thông đường bộ này có lẽ được hình thành từ thời thuộc Hán, Đường và duy trì đến thời Lý, Trần. Ngoài tuyến đường giao thông bộ có từ lâu đời, vào thời Lý, sông Thiên Đức (sông Đuống) và ngòi Con Tên là tuyến đường thủy quan trọng phục vụ cho việc đi lại và các chuyến hành hương, thăng viếng của các vị hoàng đế, hoàng gia, giới quý tộc và đông đảo tín đồ Phật tử về chùa Dạm lễ Phật. 1.1.2. Đặc điểm lịch sử, văn hóa 1.1.2.1. Tên gọi và địa giới tỉnh Bắc Ninh trong lịch sử Trong lịch sử xây dựng và phát triển của dân tộc, tỉnh Bắc Ninh đã nhiều lần thay đổi về tên gọi và địa giới, đơn vị hành chính. Căn cứ vào các nguồn tài liệu lịch sử và địa chí, thấy được sự thay đổi như sau: thời Hùng Vương và An Dương Vương là bộ Vũ Ninh của quốc gia Văn Lang - Âu Lạc, đồng thời là nơi đặt quốc đô của nhà
  • 16. 9 nước Âu Lạc là kinh thành Cổ Loa (huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội) (128). Bộ Vũ Ninh thời kỳ này có địa vực rộng, gồm tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang ngày nay và huyện Gia Lâm, Đông Anh (thành phố Hà Nội ngày nay). Thời thuộc Hán thuộc quận Giao Chỉ với hai huyện Luy Lâu và Long Biên (hoặc Long Uyên), quận trị của quận Giao Chỉ đóng ở Luy Lâu (xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành). Thời thuộc Ngô thuộc quận Giao Châu. Thời thuộc Tấn thuộc quận Giao Chỉ với các huyện Long Biên, Luy Lâu, Vũ Ninh và Khúc Dương. Đầu đời thuộc Đường, Bắc Ninh được gộp trong địa phận Giao Châu, Đạo Châu, Long Châu thuộc Giao Châu đô hộ phủ, sau thuộc An Nam đô hộ phủ. Thời Lý, Bắc Ninh bao gồm cả phủ Phú Lương. Căn cứ vào các nguồn tài liệu, thời Lý, vùng đất tỉnh Bắc Ninh ngày nay thuộc hai đơn vị hành chính của Lộ Bắc Giang là: Phủ Thiên Đức (gồm Từ Sơn, Tiên Du, Yên Phong, Quế Võ…); Phủ Siêu Loại (vùng Thuận Thành, Gia Bình, Lương Tài). Thời Trần, Bắc Ninh thuộc lộ Bắc Giang, gồm: Lộ Bắc Giang (có huyện Siêu Loại, huyện Gia Lâm); Châu Gia Lâm (có huyện Yên Định, huyện Tế Giang, huyện Thiện Tài); Châu Vũ Ninh (huyện Tiên Du, huyện Vũ Ninh, huyện Đông Ngàn, huyện Từ Sơn, huyện Yên Phong). Thời Hồ, Bắc Ninh thuộc lộ Bắc Giang như đơn vị hành chính thời Trần. Thời thuộc Minh, Bắc Ninh thuộc phủ Bắc Giang. Thời Lê thuộc Bắc Đạo: Năm Thuận Thiên thứ nhất (1428) Lê Thánh Tông đổi là đạo Bắc Giang. Năm Quang Thuận thứ 7 (1466) đến năm 1469 đổi là Kinh Bắc. Năm Hồng Đức thứ 21 (1490) đổi là Kinh Bắc xứ. Triều Gia Long (1802 - 1840) đổi tên là trấn Bắc Ninh (1822) và tỉnh Bắc Ninh (1831). Xứ Kinh Bắc thời Lê, trấn rồi tỉnh Bắc Ninh thời Nguyễn, về cơ bản không thay đổi về địa giới và đơn vị hành chính. Các đơn vị hành chính bao gồm 4 phủ (Thuận An, Từ Sơn, Bắc Hà, Lạng Giang) và 20 huyện. Cuối thời Lê, đầu Nguyễn, Bắc Ninh có hai phủ là phủ Thuận An và phủ Từ Sơn, gồm các huyện sau: Đông Ngàn, Tiên Du, Quế Dương, Võ Giàng, Yên Phong, Siêu Loại, Gia Bình, Lương Tài, Gia Lâm và Văn Giang (10 huyện). Thời thuộc Pháp, vào ngày 10/10/1895, chính quyền thực dân chia tỉnh Bắc Ninh làm hai tỉnh là Bắc Giang và Bắc Ninh. Tỉnh Bắc Ninh gồm các đơn vị hành chính ở phía Nam sông Cầu. Các đơn vị hành chính thuộc phía Bắc sông Cầu thuộc tỉnh mới mang tên tỉnh Bắc Giang. Sau năm 1895, tỉnh Bắc Ninh gồm các huyện thuộc hai phủ Từ Sơn và Thuận An. Từ năm 1925 đến 1945, các đơn vị hành chính của tỉnh Bắc Ninh gồm 2 phủ, 8 huyện (78 tổng, 559 xã) là: phủ Thuận Thành, phủ Từ Sơn và các huyện Gia Bình, Gia Lâm, Lang Tài, Quế Dương, Tiên Du, Văn Giang, Võ Giàng, Yên Phong. Sau cách mạng Tháng Tám năm 1945, các đơn vị hành chính của tỉnh Bắc Ninh có một số thay đổi sau đây: bỏ các đơn vị phủ, tổng. Cấp xã được mở rộng, gồm một
  • 17. 10 số làng (hay thôn). Tháng 2 năm 1947, huyện Văn Giang nhập vào tỉnh Hưng Yên. Tháng 8 năm 1950, hai huyện Lương Tài và Gia Bình sáp nhập thành huyện Gia Lương. Năm 1962, hai huyện Quế Dương và Võ Giàng sáp nhập thành huyện Quế Võ; huyện Tiên Du sáp nhập với huyện Từ Sơn thành huyện Tiên Sơn. Huyện Gia Lâm tách và nhập vào thành phố Hà Nội cùng với 2 xã của huyện Thuận Thành, 2 xã của huyện Tiên Du và 8 xã của huyện Từ Sơn. Ngày 1/4/1963 hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang hợp nhất thành tỉnh Hà Bắc. Đơn vị hành chính của tỉnh Bắc Ninh trong thời kỳ sáp nhập thành tỉnh Hà Bắc, gồm: thị xã Bắc Ninh, các huyện Yên Phong, Thuận Thành, Tiên Sơn, Quế Võ, Gia Lương. Ngày 6/11/1996, kỳ họp thứ X Quốc hội khóa IX nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra Nghị quyết chia tỉnh Hà Bắc làm hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang. Tỉnh Bắc Ninh được tái lập gồm 1 thị xã Bắc Ninh, 5 huyện: Tiên Sơn, Quế Võ, Yên Phong, Thuận Thành, Gia Lương. Ngày 11/8/1999, Chính phủ ra Nghị định số 68/1999/CP tách huyện Tiên Sơn thành hai huyện Tiên Du và Từ Sơn, tách huyện Gia Lương thành hai huyện Gia Bình và Lương Tài. Ngày 25/1/2006, Chính phủ ra Nghị định số 15/2006/NĐ-CP thành lập thành phố Bắc Ninh, trên cơ sở thị xã Bắc Ninh. Ngày 24/9/2008, Chính phủ ra Nghị định số 01/2008/NĐ-CP thành lập thị xã Từ Sơn trên cơ sở huyện Từ Sơn. Trước đó, Chính phủ đã ra Nghị định thành lập các đơn vị: thị trấn Phố Mới thuộc huyện Quế Võ vào ngày 7/10/1995, thị trấn Hồ thuộc huyện Thuận Thành vào ngày 18/2/1997, thị trấn Chờ thuộc huyện Yên Phong vào ngày 9/1/1998, thị trấn Thứa thuộc huyện Lương Tài vào ngày 19/6/1998, thị trấn Lim thuộc huyện Tiên Sơn vào ngày 10/12/1998, thị trấn Gia Bình thuộc huyện Gia Bình vào ngày 4/8/2002. Qua bao thăng trầm lịch sử, vùng đất Bắc Ninh, địa bàn cốt lõi của quốc gia Văn Lang - Âu Lạc, của nền văn hiến Kinh Bắc, của quốc gia Đại Việt - Việt Nam. “Giời Nam Việt vững nền tỉnh Bắc, Ở địa dư mái Bắc nhị hà…” (Kinh Bắc phong thổ diễn ca) 1.1.2.2. Lịch sử vùng đất và dân cư Các kết quả nghiên cứu khảo cổ, lịch sử và văn hóa ở Bắc Ninh trong những năm qua cho thấy nơi đây là địa bàn cư trú chủ yếu của người Việt đồng thời là bộ phận cốt lõi của quốc gia Văn Lang - Âu Lạc. Từ hàng ngàn năm trước Công nguyên, người Việt cổ đã cư trú lập làng ở ven sông Cầu, sông Dâu, sông Đuống, sông Ngũ Huyện Khê, sông Tiêu Tương... mà dấu ấn để lại là hệ thống các di chỉ khảo cổ học thuộc văn hóa Phùng Nguyên - Đồng Đậu - Gò Mun - Đông Sơn, như di chỉ Bãi Tự, Từ Sơn, Xuân Ổ, Đồng Bạch, Nội Gầm, Lãng Ngâm, Đại Lai, Đại Trạch... [129] Đó là
  • 18. 11 dấu tích những làng xóm của cư dân Việt cổ, sống chủ yếu bằng canh tác nông nghiệp (trồng lúa nước, rau màu, trồng dâu chăn tằm…), đánh bắt tôm cá... ở sông, ngòi, đầm, hồ và làm một số nghề thủ công. Một vùng đất với cư dân chủ yếu sống bằng nghề trồng dâu, chăn tằm được mang tên vùng Dâu với các địa danh: làng Dâu, tổng Dâu, chợ Dâu, chùa Dâu, hội Dâu, sông Dâu, cầu Dâu... Cùng với làm nông nghiệp, cư dân Việt cổ ở Bắc Ninh đã biết kết hợp làm các nghề thủ công. Những di tích di chỉ xưởng sản xuất đồ trang sức bằng đá ngọc ở Bãi Tự, Xuân Ổ, có niên đại thuộc văn hóa Phùng Nguyên muộn - Đồng Đậu sớm. Đặc biệt, trong thành cổ Luy Lâu là nơi các nhà khảo cổ đã phát hiện được mảnh khuôn đúc trống đồng loại I Heger và các loại hình hiện vật khác như dao găm, rìu, dáo, tấm che ngực... cho thấy, hàng nghìn năm trước người Việt cổ nơi đây đã thông thạo các nghề thủ công, đồng thời có sự giao thương buôn bán, tiếp xúc và hội nhập kinh tế - văn hóa với các vùng miền, các nước trong khu vực và thế giới. Hơn nghìn năm chống xâm lược và đồng hóa của phong kiến phương Bắc. Bắc Ninh là trung tâm của cuộc đấu tranh lâu dài và khốc liệt của dân tộc. Các tài liệu thư tịch, lịch sử và khảo cổ học cho thấy khu di tích Luy Lâu là quận trị Giao Chỉ, sau là thủ phủ Châu Giao, trung tâm bộ máy cai trị nước ta của phong kiến phương Bắc gần một thiên niên kỷ sau Công nguyên. Rải rác khắp các làng quê của Bắc Ninh và đậm đặc nhất ở Luy Lâu là các di tích thuộc thời Hán - Đường như di chỉ cư trú, mộ táng, thành lũy, nhà cửa, dinh thự, đền đài, chùa tháp... Những chứng tích đó cho thấy Bắc Ninh là địa bàn trọng điểm thi hành các chính sách cai trị và đồng hóa của phong kiến phương Bắc, đồng thời là trung tâm diễn ra các cuộc đấu tranh kiên trì của nhân dân ta nhằm chống lại sự đồng hóa, bảo tồn văn hóa truyền thống, tiến tới giành lại nền độc lập vào đầu thế kỷ thứ X. Qua đêm trường đấu tranh, các làng xã Bắc Ninh được củng cố và có mối liên kết bền vững, trở thành pháo đài chống lại sự kìm kẹp, đồng hóa của kẻ thù xâm lược. Mối quan hệ cộng đồng gia tộc, họ hàng làng nước ngày càng bền chặt tạo thành sức mạnh cộng đồng trong cuộc đấu tranh bảo tồn truyền thống văn hóa bản địa, trở thành nội lực mạnh mẽ để giành lại nền độc lập dân tộc. Bắc Ninh chính là trung tâm của quá trình giao lưu và tiếp xúc trong suốt thời kỳ Bắc thuộc. Trị sở Luy Lâu - trung tâm chính trị, đồng thời là trung tâm kinh tế, thương mại, trung tâm văn hóa và tôn giáo của quân Giao Chỉ và Châu Giao. Các di tích khảo cổ học tập trung đậm đặc và phong phú gồm thành lũy, nơi cư trú, khu đô thị như phố chợ, dinh thự, đền đài, nhà cửa, bến bãi, kho tàng, khu sản xuất gạch ngói, gốm sứ... là những chứng tích vật chất cho thấy đây là một trung tâm chính trị, quân sự, kinh tế, thương mại và văn hóa của Giao Chỉ, Châu Giao thời thuộc Hán - Đường. Cùng với
  • 19. 12 các nguồn tài liệu thư tịch, các nhà nghiên cứu đã khẳng định: “Trên đất Giao Chỉ, trong suốt thời kỳ dài từ cuối thế kỷ II, tới thế kỷ IX - X, Luy Lâu không nhường vai trò một đô thị lớn nhất cho bất cứ nơi nào” [131]. Luy Lâu là đô thị cảng mang tính chất quốc tế. Có thể khẳng định, Bắc Ninh với trung tâm Luy Lâu là nơi đầu tiên có trường dạy chữ và văn hóa Hán ở nước ta, ngay từ đầu Công nguyên. Trên xứ Bắc - Bắc Ninh, tầng lớp nho sĩ người Việt được hình thành và ngày càng đông đảo. Đây là lực lượng giữ vai trò quan trọng trong tiếp xúc, thâu nhận các thành tựu của nền văn minh Trung Quốc và Ấn Độ cổ đại, góp phần tích cực vào công cuộc bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc, hình thành và phát triển bản sắc văn hóa vùng quê Bắc Ninh - Kinh Bắc: hiếu học, trọng nhân nghĩa, cuộc sống của cá nhân và cộng đồng được tổ chức quy củ, nề nếp... Bước vào kỷ nguyên Đại Việt, Bắc Ninh - Kinh Bắc là đất phên dậu phía Bắc của Thăng Long - Đông Đô, giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc khai mở vương triều Lý và nền văn minh Đại Việt cũng như công cuộc bảo vệ đất nước, xây dựng và phát triển văn hóa với nhiều thành tựu rực rỡ “Nơi đây vũ công lừng lẫy”. Đó là chiến thắng Như Nguyệt bên bờ sông Cầu, vang vọng bài tuyên ngôn độc lập năm 1077 “Nam quốc sơn hà nam đế cư...”, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống xâm lược nhà Tống thế kỷ XI. Đó là chiến thắng Vạn Kiếp - Phả Lại - Lục Đầu - Bình Than trong cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên - Mông thế kỷ XIII, là “Xương Giang - Bình Than máu trôi đỏ nước (Bình Ngô đại cáo) trong kháng chiến chống xâm lược nhà Minh. Những vũ công trong đấu tranh chống xâm lược trên miền quê xứ Bắc đã tạo nên phẩm chất anh hùng và quả cảm của con người Bắc Ninh - Kinh Bắc. Xứ Bắc - Bắc Ninh là vùng quê trù phú, kinh tế phát triển vào bậc nhất trong “tứ trấn”, trở thành miền đất hứa, vẫy gọi cư dân mọi miền tới làm ăn sinh sống: “Ai lên xứ Bắc mà trông, Đất lành, gạo trắng nước trong thay là” Nơi đây là vựa lúa của đồng bằng châu thổ, mà câu ca dân gian còn truyền khắp vùng Đông - Nam - Đoài - Bắc: “Tỉnh Bắc giá thóc mười hai, Tỉnh Đông mười tám, tỉnh Đoài hai mươi” Người Bắc Ninh không chỉ giỏi làm ruộng, mà còn khéo tay thợ, giàu truyền thống khoa bảng và sáng tạo văn hóa nghệ thuật, được dân gian ca ngợi: “Tỉnh Bắc có lịch, có lề, Có nghề buôn bán, có nghề cửi canh Có nghề xe chỉ, học hành, Có nghề tô vẽ tờ tranh bốn mùa”
  • 20. 13 Bắc Ninh là tổ đình Phật giáo Việt Nam; quê hương nhà Lý - một triều đại sùng mộ đạo Phật. Vì vậy, Bắc Ninh trở thành quê hương chùa tháp với câu ca dân gian “Cầu Nam, chùa Bắc, đình Đoài”. Bắc Ninh từ ngàn xưa nổi tiếng với những trung tâm Phật giáo, nơi có những danh lam cổ tự vào bậc nhất Việt Nam như Chùa Dâu, chùa Bút Tháp, chùa Phật Tích, Chùa Dạm, chùa Tiêu Sơn, chùa Cổ Pháp... Đó là những nơi hành đạo của các Thiền sư danh tiếng như Khâu Đà La, Tì ni đa lưu chi, Pháp Hiền, Vạn Hạnh, Huyền Quang, Dương Không Lộ... Tại các trung tâm Phật giáo, các sư tăng không chỉ truyền bá Phật giáo cho dân chúng, mà còn góp phần quan trọng vào đời sống xã hội, làm phong phú đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc với lòng vị tha, bác ái, trở thành nét tiêu biểu của tinh thần đạo lý Việt Nam. Di sản văn hóa Phật giáo với các công trình kiến trúc quy mô, nghệ thuật tinh xảo được thể hiện tập trung ở các công trình chùa tháp vùng Bắc Ninh - Kinh Bắc, cùng với lễ hội chùa và tinh thần giáo lý Phật giáo đã thấm sâu vào đời sống vật chất và tinh thần của người dân, trở thành bộ phận quan trọng của tinh thần Việt Nam và văn hóa Việt Nam. 1.2. Tư liệu và vấn đề 1.2.1. Chùa Dạm qua tài liệu cổ sử Theo tài liệu ghi chép cho biết dưới triều Lý (1009 - 1225), nhà Lý cho xây dựng và khánh thành 53 ngôi chùa lớn trong đó có chùa Dạm. Về những ngôi chùa được xây dựng dưới vương triều Lý, ngôi chùa trên núi Đại Lãm hay Lãm Sơn được ghi chép trong các bộ sử và qua tài liệu văn bia hiện còn về Chùa Dạm, hay Thần Quang tự. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: năm Bính Dần (1086), vua Lý Nhân Tông, niên hiệu Quảng Hựu năm thứ 2 “Làm chùa ở núi Đại Lãm”. Năm sau (1087) “Mùa đông, tháng 10, vua ngự đến chùa Lãm Sơn. Đêm ban yến cho các quan, vua thân làm hai bài thơ Lãm Sơn dạ yến”. Niên hiệu Quảng Hựu năm thứ 4 (1088), “Mùa đông, tháng 10, xây tháp chùa Lãm Sơn”. Năm 1094 (vua Lý Nhân Tông, niên hiệu Hội Phong năm thứ 3) “mùa hạ, tháng 4, tháp chùa Lãm Sơn xây xong”. Đến năm 1105, vua Lý “Mùa thu, tháng 9, làm ba ngọn tháp chỏm đá ở chùa Lãm Sơn” [123]. Sách Việt Sử lược chép: năm 1086, niên hiệu Quảng Hựu năm thứ 2: “Mùa đông, tháng 11, xây chùa ở núi Đại Lãm”. Năm Đinh Mão (Quảng Hựu năm thứ 3 - 1087) “Mùa đông, tháng 10, vua ngự ra Lãm Sơn. Ban đêm, vua đãi yến quần thần ở trên núi. Vua làm hai bài thơ Lãm Sơn dạ yến” (tiệc yến ban đêm ở Lãm Sơn) viết ở đó để lưu lại”. Năm 1088, hiệu Quảng Hựu năm thứ tư “Mùa đông, tháng 10, xây tháp ở Lãm Sơn”. Đến năm Giáp Tuất, hiệu Hội Phong năm thứ 3 (1094) “Mùa thu, tháng 9, chùa Lãm Sơn làm xong. Vua ban tên chùa là Cảnh Long Đồng Khánh. Vua thân đề biển bằng chữ triện” [132].
  • 21. 14 Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục chỉ ghi chép 1 sự kiện duy nhất diễn ra vào năm Đinh Mão, hiệu Quảng Hựu năm thứ 3 (1087) “Tháng 10, mùa đông. Mở yến tiệc thết các bầy tôi tại chùa Lãm Sơn. Năm Quảng Hựu thứ 2 (1086), làm chùa này; đến đây ngự giá đến chơi, đêm mở yến tiệc thết quần thần. Nhà vua có làm thơ “Lãm Sơn dạ yến” [72]. Sách Đại Nam nhất thống chí phần tỉnh Bắc Ninh, đề cập đến núi sông trong tỉnh, sách viết: “Núi Lãm Sơn: ở địa phận tổng Lãm Sơn... trong núi có chùa Đại Lãm, lại có chùa Thần Quang...”. Phần chùa quán, sách viết “Chùa Đại Lãm ở sơn phận tổng Lãm Sơn huyện Quế Dương... năm Quảng Hựu thứ 2 (1086) vua Lý Nhân Tông dựng chùa Đại Lãm. Năm thứ 3 nhà vua đến thăm, đêm thết yến bầy tôi, thân làm hai bài thơ “Lãm Sơn dạ yến”. Năm Long Phù thứ 5 (1105) dựng 3 tháp đá ở chùa Đại Lãm” [71]. Qua tài liệu thư tịch có thể nhận thấy, trên núi Đại Lãm, năm 1086 đã xây dựng một ngôi chùa có tên là Lãm Sơn. Bên cạnh chùa, trong quần thể đó còn có tháp đá xây dựng năm 1088, đến năm 1105 thấy ba chỏm tháp bằng đá. Sau 9 năm xây dựng, đến năm 1094 thì hoàn thành, nhà vua đến dự và ban cho bốn chữ triện "Cảnh Long Đồng Khánh". Tuy nhiên, có một vấn đề là chùa Đại Lãm, hay Lãm Sơn với chùa Thần Quang như ghi chép của Đại Nam nhất thống trí có phải là một? Trong Văn thơ Lý - Trần, tập 2, đã đăng bài thơ của Trần Nhân Tông với tiêu đề “Đại Lãm Thần Quang tự”. Chắc hẳn khi làm bài thơ này, vua Trần Nhân Tông đã đến thăm chùa nhưng không được các tài liệu sử khi chép lại. Và các tài liệu cổ sử không cho biết thời điểm ra đời tên gọi chùa Thần Quang, do vậy theo chúng tôi có hai khả năng: thứ nhất, trước thời điểm ra đời bài thơ trên, đã có ngôi chùa có tên là Thần Quang có thể được đổi tên vào đầu thời Trần, do chữ Cảnh trong "Cảnh Long Đồng Khánh" trùng tên với vị vua đầu tiên của triều Trần là Trần Cảnh, vì kỵ húy nên mới đổi là "Thần Quang"; thứ hai, khi đến đây, ngưỡng mộ trước phong cảnh thần tiên và sự nguy nga của các công trình kiến trúc, vua Trần Nhân Tông đã đổi tên, gọi là chùa Thần Quang sau đó làm bài thơ trên. Ghi chép qua tài liệu văn bia: trong phạm vi chùa hiện nay còn 2 tấm bia đá, tấm thứ nhất được đặt trên lưng rùa ở trên bề mặt của móng tháp đá ở cấp nền 2, tấm thứ hai hiện được đưa bảo quản tại ngôi chùa tạm ở cấp nền 3. Trong Tổng tập thác bản Hán - Nôm, tập 6, số thứ tự thác bản 5459 và 5460, có thêm hai thác bản của một tấm bia nữa, khắc chữ hai mặt. Mặt trước ghi tiêu đề “大 覧 神 光 寺 重 修 碑 記 - Đại Lãm Thần Quang tự trùng tu bi kí”, mặt sau không có tiêu đề, bia ghi về việc
  • 22. 15 trùng tu chùa Đại Lãm Thần Quang được khắc năm Chính Hòa thứ 14 (1694). Trán bia được chạm khắc trang trí mô típ “Lưỡng long chầu nguyệt” ở cả mặt trước và mặt sau. Kích thước bia 0,44 x 0,72m. Nội dung bia ghi: Chùa Thần Quang là một danh lam thắng cảnh. Năm Quý Dậu (1693), các sãi vãi và thiện nam tín nữ thập phương đã hưng công trùng tu chùa, đến năm Giáp Tuất (1694) thì hoàn thành (Bản dập...). Như vậy, hai tấm bia ở cấp nền 3 đúng với nội dung bia số 5458 tìm được trong thác bản, còn tấm bia ở cấp nền 2 không trùng với tấm bia còn lại tìm được trong thác bản do chữ đã mờ không đọc được nội dung. Nhưng cả hai thác bản bia tìm được đều ghi chép về chùa Thần Quang trên núi Đại Lãm, hoặc chùa Đại Lãm Thần Quang. Qua tư liệu thư tịch cổ và văn bia chúng ta thấy có một số điểm lưu ý sau: Thư tịch cổ trong thời Lý chỉ đề cập đến chùa Lãm Sơn hoặc Cảnh Long Đồng Khánh trên núi Đại Lãm. Các tài liệu văn bia được khắc vào cuối thế kỷ XVII, niên hiệu Chính Hòa đều thống nhất một tên gọi là chùa Thần Quang và trùng tên gọi trong nhan đề bài thơ của vua Trần Nhân Tông. Như vậy, có thể thấy rằng sau khi ra đời bài thơ, tên gọi của ngôi chùa được sử dụng liên tục cho đến ngày nay. Tam quan của chùa Thần Quang có 2 pho tượng Hộ pháp ở 2 bên. Như thế có thể hiểu trên núi Đại Lãm có một ngôi chùa Lãm Sơn, Cảnh Long Đồng Khánh, Thần Quang hay Đại Lãm Thần Quang. Vậy các tên gọi trên có phải thống nhất dùng để chỉ đích danh ngôi chùa hiện nay?. Căn cứ vào các dấu tích còn lại trên thực địa, các tài liệu thư tịch và văn bia, thì “Đại Lãm Thần Quang tự” có thể hiểu là chùa Thần Quang ở núi Đại Lãm. Như vậy, có thể hiểu năm 1086, vua Lý Nhân Tông cho xây chùa Lãm Sơn trên núi Đại Lãm, đến năm 1094 khi khánh thành tên chùa được đặt là Cảnh Long Đồng Khánh, trong khoảng thời gian từ đó đến đời vua Trần Nhân Tông, thời điểm ra đời bài thơ “Đại Lãm Thần Quang tự”, chùa mang tên chữ là Thần Quang cho đến nay. Quy mô, kiến trúc chùa Dạm như thế nào cho đến nay chưa có tài liệu nào đề cập đến, tài liệu chỉ cho biết tại đây có 3 ngôi tháp chỏm bằng đá. Trong 3 cây tháp xây dựng tại chùa Dạm, có tháp xây dựng khá lâu kéo dài 5 năm 6 tháng mới khánh thành: năm 1088 “Mùa đông tháng 10, xây tháp ở Lãm Sơn” - năm 1094 “Mùa hạ tháng 4, tháp chùa Lãm Sơn xây xong”. Ngôi chùa xây trên núi Lãm Sơn khi hoàn thành được vua ban tên là “Cảnh Long Đồng Khánh”. Ngôi chùa cũng phải xây trong 8 năm (1086 - 1094) mới hoàn thành và chỉ sau 11 năm (năm 1105) chùa lại được tôn tạo thêm cho bề thế đẹp đẽ với 3 ngọn tháp chỏm đá. Chùa Dạm (Cảnh Long Đồng Khánh) là một trung tâm Phật giáo lớn thời Lý đến thời Trần, đây vẫn là một Đại Danh Lam. Khi Trần Nhân Tông (1258 - 1308) đến thăm chùa, chùa đó mang tên là Thần Quang. Các tên gọi khác trong dân gian như: Chùa Bà
  • 23. 16 Tấm, chùa Cao, chùa Trăm Gian, chùa Dạm thì đều là chỉ chùa Thần Quang được khởi dựng từ thời Lý (1086) với các dấu tích vật chất còn tồn tại cho đến ngày nay. Cùng với chùa Dạm theo thống kê sơ lược cho thấy trong 56 năm ở ngôi, vua Lý Nhân Tông (1072 - 1127) cùng mẹ là Linh Nhân Hoàng Thái Hậu đã dựng hàng trăm ngôi chùa thờ Phật, mà chùa Dạm là một trong những ngôi chùa lớn do đích thân nhà vua đứng ra hưng công. Đây là ngôi chùa của Hoàng gia trên vùng đất phía Bắc, cùng với chùa Phật Tích và nhiều chùa khác làm nên hệ thống chùa Phật giáo Hoàng gia trên vùng đất tổ cố hương của vương triều Lý. Vua Lý Nhân Tông được coi là “vua giỏi triều Lý” trị vị vào thời đại “dân được giàu đông, mình được thái bình”. Vua là người “mộ đạo phật, thích điềm lành” do vậy trong thời kỳ trị vì của mình ông đã cho xây dựng nhiều chùa mới với quy mô to lớn trên mọi miền đất nước cùng nhiều hoạt động liên quan đến Phật giáo. Mặc dù là ngôi chùa nổi tiếng, thuộc hàng Đại danh lam với các dấu tích vật chất thể hiện sự đồ sộ, kiên cố của công trình trong lịch sử, nhưng các nghiên cứu cho đến nay mới chỉ quan tâm đến nghệ thuật điêu khắc, trong đó tập trung vào việc phân tích, đánh giá nghệ thuật của cột đá chạm rồng. Và công trình này trở thành đề tài phân tích sôi nổi, là biểu tượng của nghệ thuật điêu khắc đá thời Lý. Ngoài ra còn có một số các công trình nghiên cứu đề cập đến di tích nhưng mang tính giới thiệu khái quát chung, như các sách: Mỹ thuật thời Lý, Địa chí Hà Bắc và một số bài nghiên cứu riêng lẻ. Đặc biệt, mặc dù với quy mô, được sử sách ghi chép, bị thời gian tàn phá (yếu tố con người và tự nhiên) trở thành phế tích nhưng cho đến nay chưa có một cuộc khai quật quy mô nào nhằm tìm hiểu mặt bằng các công trình kiến trúc của thời kỳ khởi dựng. Với việc đánh giá giá trị bước đầu của di tích, ngày 13/01/1964, Bộ Văn hóa - Thông tin ra Quyết định số 29 QĐ/BT công nhận chùa Dạm là di tích Lịch sử - Văn hóa. Đến ngày 25/04/1994, Bộ Trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin cấp bằng công nhận di tích Lịch sử - Văn hóa “Khu vực chùa Đại Lãm (chùa Dạm), xã Nam Sơn, huyện Quế Võ, tỉnh Hà Bắc”, nay thuộc thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh. 1.2.2. Thám sát khảo cổ học năm 2009 Để phục vụ công tác đầu tư, phục hồi khu di tích chùa Dạm và yêu cầu nghiên cứu khoa học phục vụ cho công tác bảo vệ, trùng tu tôn tạo chùa Dạm, Bộ Trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ký Quyết định số 4571/QĐ-BVHTTDL ngày 10/12/2009 cho phép Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Ninh tiến hành khai quật thăm dò khảo cổ học tại khu vực Tam bảo chùa Dạm (cấp nền 3) với diện tích 20m2 . Kết quả thu được như sau: Hố H1: diện tích 15m2 , nằm cách chùa (mới) khoảng 2,75m về phía Đông.
  • 24. 17 Hố H2: được mở hình chữ L, cách bờ kè của cấp nền 3 khoảng 0,7m với diện tích 10m2 . Đến độ sâu 0,40m đến 0,45m gặp lớp sinh thổ gồm đá gan gà lẫn đất đồi laterite màu vàng, nâu vàng, hoặc vàng trắng, không tìm được di tích và di vật trong hố thám sát. Như vậy, mặc dù các dấu tích kiến trúc của ngôi chùa được khởi dựng năm 1086 chưa xuất lộ do phạm vi hố thám sát nhỏ, dấu tích kiến trúc tìm được có niên đại muộn. Tuy nhiên, hệ thống các di vật hết sức phong phú với đầy đủ các loại hình từ vật liệu xây dựng, vật liệu trang trí kiến trúc, đến đồ dùng sinh hoạt, đồ thờ cúng có niên đại từ thời Lý đến thời Lê đã thể hiện tính chất của di tích là ngôi chùa có quy mô lớn, quan trọng trong suốt các thời kỳ lịch sử. 1.2.3. Nghiên cứu chùa Dạm Nghiên cứu chùa Dạm được chia thành hai giai đoạn: giai đoạn trước khi khai quật khảo cổ học (từ năm 2009 trở về trước) và giai đoạn sau khi khai quật khảo cổ học (từ năm 2009 đến nay). + Giai đoạn thứ nhất trước khi khai quật khảo cổ học di tích chùa Dạm: Các nghiên cứu chủ yếu dựa vào những ghi chép về chùa Dạm trong lịch sử cũng như căn cứ vào các phế tích hiện tồn của chùa Dạm. Ngoài một số bài nghiên cứu về đối tượng chùa Dạm với tư cách là một ngôi quốc tự thời Lý thì giai đoạn này các nghiên cứu chủ yếu tập trung vào việc tìm hiểu công năng và giải mã ý nghĩa biểu tượng của cột đá chùa Dạm. Các nghiên cứu chính trong giai đoạn này gồm: - Phan Cẩm Thượng, 1997, Điêu khắc cổ Việt Nam (Ancient Sculpture of Vietnam), NXB Mỹ Thuật, Hà Nội, tr.71; - Hà Văn Tấn, Nguyễn Văn Kự, Phạm Ngọc Long, 2010 (in lần thứ 4), Chùa Việt Nam, NXB Thế giới, Hà Nội, tr.96; - Trần Ngọc Thêm, 1996, Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB TP Hồ Chí Minh, tr.265- 495; - Chu Quang Trứ, 2000, tái bản 2012, Sáng giá chùa xưa, NXB Mỹ thuật, Hà Nội, tr.160-161; - Chu Quang Trứ, Để hiểu đầy đủ hơn về cột đá chùa Dạm, Tạp chí VHNT, số 11/1999; - Chu Quang Trứ, Tái bản 2012, Trông về chùa Dạm (viết cùng Thanh Hương) trong “Mỹ thuật Lý Trần- mỹ thuật Phật giáo”, NXB Mỹ thuật, Hà Nội, tr.368-387; - Trần Lâm Biền, 2000, Một con đường tiếp cận lịch sử, NXB VHDT, Hà Nội, tr.63; - Tạ Chí Đại Trường, 2006, Thần - người và đất Việt, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr.104-105;
  • 25. 18 - Ngô Văn Doanh, 1990, Hình tượng Quan Âm Nam Hải và cột đá chùa Dạm, tạp chí Khảo cổ học số 1-2, tr.95-98; - Nguyễn Hùng Vỹ, 2011, Tiếp tục quan sát cột đá chùa Dạm, http://khoavanhoc-ussh.edu.vn; - Nguyễn Hùng Vĩ, 2001, Quan sát cột đá Chùa Một Cột ở núi Dạm trong “45 năm khoa Văn học 1956-2001”, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội, tr.583-593; - Trần Ngọc Thêm, 2011, tái bản lần 8, Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội, tr.128; - Tạ Chí Đại Trường, Về cây cột đá chùa Dạm, tạp chí xưa và nay, số 400, tháng 3/2012; - Trần Trọng Dương, Chùa Một Cột không phải là chùa!, tạp chí Tia sáng, số tháng 4/2012, tr.50-52; - Trần Trọng Dương, 2012, Cột đá chùa Dạm có phải linga?, tiasang.com.vn; - Trần Thị Kim Anh, 2012, Trao đổi thêm về cột đá chùa Dạm, htpt://vanhoanghean.vn; - Nguyên Khôi, 2012, Một cách đề xuất phục dựng chùa Diên Hựu, tiasang.com.vn. Liên quan đến việc giải mã ý nghĩa biểu tượng của cột đá chùa Dạm, có hai thuyết chính được nêu ra là: Cột đá chùa Dạm thực chất là linga và cột đá chùa Dạm là phế tích của một công trình kiến trúc. Thuyết cột đá chùa Dạm là linga, gồm các nhà nghiên cứu như: Chu Quang Trứ, Trần Lâm Biền, Phan Cẩm Thượng, Hà Văn Tấn, Trần Ngọc Thêm… Có thể thấy rằng các nhà nghiên cứu kể trên khi tiếp cận với cột đá này đã không đi từ việc khảo sát dấu vết kết cấu kiến trúc hiện còn mà cơ bản căn cứ vào hình dạng và bối cảnh lịch sử: Đại Việt - Champa (thế kỷ XI) để đồng nhất quan điểm cho rằng cột đá chùa Dạm là linga. Cách tiếp cận như vậy rất dễ sa đà vào những lập luận mang tính tư biện, dẫn đến những kết luận võ đoán. Thuyết cột đá chùa Dạm là phế tích của một công trình kiến trúc, thuyết này được đưa ra sau khi các nhà nghiên cứu đã khảo tả, đo vẽ, phân tích kỹ lưỡng các số liệu hiện còn của hiện vật. Kết luận đầu tiên sau khi tiến hành khảo sát các thông số trên hiện vật khẳng định: cột đá chùa Dạm chỉ là phế tích còn sót lại của một loại công trình kiến trúc vào thời Lý. Quan điểm trên được manh nha bởi các nhà nghiên cứu Ngô Văn Doanh, Nguyễn Hùng Vỹ và trùng khớp với nhận định của các nhà nghiên cứu đi trước như Nguyễn Bá Lăng, Nguyễn Du Chi, Nguyễn Đỗ Cung… Quan điểm này được Trần Trọng Dương tán đồng và cụ thể hóa bằng những bài viết, chuyên luận của mình. Trong bài viết Cột đá chùa Dạm có phải là linga?, tác giả đã lược thuật các
  • 26. 19 chủ thuyết liên quan đến việc giải mã ý nghĩa biểu tượng cột đá chùa Dạm rồi đưa ra những ý kiến xác đáng của mình. Theo đó, Trần Trọng Dương khẳng định cột đá này là phế tích còn sót của một công trình kiến trúc thời Lý, rất có thể đó là dạng thức kiến trúc của một liên hoa đài tương tự như liên hoa đài (chùa Diên Hựu). Cột đá chùa Dạm là hiện vật đặc biệt quan trọng đối với việc nghiên cứu về chùa Dạm, ngoài ra nó còn có giá trị nghiên cứu tư tưởng mỹ thuật Phật giáo thời Lý. Tuy nhiên, việc nghiên cứu cột đá chùa Dạm mới chỉ là một phần nhỏ trong tổng thể kiến trúc ngôi đại danh lam này. Những vấn đề về tổng thể mặt bằng kiến trúc chùa Dạm nói riêng, mặt bằng kiến trúc chùa - tháp thời Lý nói chung vẫn chưa được sáng tỏ. Để làm được điều này, cần có kết quả của những cuộc khai quật khảo cổ học quy mô lớn đối với di tích này. + Giai đoạn thứ hai sau khi khai quật khảo cổ học di tích chùa Dạm: Di tích chùa Dạm được tiến hành khai quật khảo cổ lần đầu tiên vào năm 2009, do Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Ninh chủ trì. Những phát hiện ở cuộc khai quật thám sát này đã tạo tiền đề cho những cuộc khai quật khảo cổ với qui mô lớn, tổng thể về sau. Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy và UBND tỉnh Bắc Ninh; Quyết định số 4322/QĐ-BVHTTDL ngày 29/12/2011; Quyết định số 3499/QĐ-BVHTTDL ngày 13/9/2012 gia hạn Quyết định số 4322/QĐ-BVHTTDL ngày 29/12/2011; Quyết định số 1006/QĐ-BVHTTDL ngày 13/3/2013 gia hạn Quyết định số 4322/QĐ-BVHTTDL ngày 29/12/2011 của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch về việc khai quật khảo cổ học tổng thể khu di tích chùa Dạm. Diện tích khai quật như sau: cấp nền 1: 1.000m2 ; cấp nền 2: 1.734m2 ; cấp nền 3: 2.066m2 ; cấp nền 4: 1.200m2 . Tổng diện tích 6.000m2 . Nghiên cứu về tổng thể mặt bằng di tích chùa Dạm sau khi khai quật khảo cổ học có bài viết của Nguyễn Văn Đáp đăng trên tạp chí Khảo cổ học số (6) 2017, từ trang 48 đến trang 62. Cùng với thư tịch cổ, các tài liệu khảo cổ học, tác giả đã mở ra nhận thức về kết cấu mặt bằng của toàn thể kiến trúc - tháp trước, chùa sau của khu di tích chùa Dạm: - Cấp nền 1: Khu vực lối lên cấp nền 2 ở cả hai phía Đông và Tây của cấp nền 1 đã xuất lộ 09 chân tảng hoa sen. Phía Đông xuất lộ 04 chân tảng và phía Tây xuất lộ 04 chân tảng, các chân tảng này phân bố thành hai vì hai hàng chân cột và nằm trên cùng một trục với những kiến trúc thời Lý đã xuất lộ ở các cấp nền 2, 3, 4. Ngoài chân tảng chạm cánh sen còn xuất lộ 08 móng trụ sỏi về phía Nam, mỗi bên 04 móng, khoảng
  • 27. 20 cách giữa các móng trụ là 3,3 - 3,4m và một số móng trụ ở khu vực trung tâm. Kích thước của các móng trụ khoảng 1,3 - 1,4m. Theo nhận thức ban đầu đây là các công trình kiến trúc Tam quan và hai hành lang Đông - Tây ở cấp nền 1 trước khi lên cấp nền 1. Lòng hành hành lang rộng khoảng 5,7 - 5,75m. Khoảng cách giữa hai vì từ 1,93 - 1,95m. - Cấp nền 2: Xuất hiện rõ móng tháp thời Lý chạm sóng nước. Ở hai phía Đông và Tây đã xuất lộ dấu vết của hai công trình kiến trúc chạy dài theo chiều Bắc - Nam, nằm trên cùng một trục so với những kiến trúc thời Lý đã xuất lộ ở hai phía Đông Tây cấp nền 3, 4. Bó nền lòng nhà ở cả 4 phía Bắc, Nam, Đông, Tây; 08 dấu vết móng trụ, 04 chân tảng đá hoa sen ở khu vực hiên phía Đông của công trình kiến trúc này. Chân tảng phân bố thành 03 hàng theo chiều Bắc Nam, 02 hàng theo chiều Đông Tây. Khoảng cách giữa tâm các chân tảng theo chiều Bắc - Nam 4,6 - 5,03m, theo chiều Đông - Tây 2,7m. Công trình kiến trúc phía Đông có diện tích khoảng 206,72m2 (chiều Bắc - Nam 16,15m, chiều Đông - Tây 12,8m). Phần lòng của kiến trúc này rộng 92,63m2 (chiều Đông - Tây 7,85m, chiều Bắc - Nam 11,8m). Trong một vì khoảng cách giữa hai cột, hai cột cái là 5,75 - 5,8m, giữa cột cái và cột quân là 2,9 - 3m. Khoảng cách giữa hai vì trung tâm 5,2m. Khoảng cách giữa các vì còn lại 1,8 - 2,9m. Công trình kiến trúc phía Tây có diện tích chừng 210,6m2 (chiều Bắc - Nam 16,2m, chiều Đông - Tây 13m). Phần lòng của kiến trúc rộng 102,58m2 (chiều Đông - Tây 8,73m, chiều Bắc - Nam 11,75m). Phần hiên bao quanh bốn phía của kiến trúc này rộng 2,1 - 2,2m. Đã xuất lộ bó nền hiên ở các phía Đông, Tây, Nam. Phần hiên phía Đông, Bắc đã phát hiện được dấu vết móng trụ sỏi và chân tảng hoa sen. Đầu phía Tây Nam xuất lộ dấu vết hàng gạch mà có thể đây là phần còn lại của bó nền hành lang phía Nam nối với lối lên cấp nền 2. - Cấp nền 3: Hai phía Đông và Tây của cấp nền 3 đã xuất lộ dấu vết của hai công trình kiến trúc chạy dài theo chiều Bắc - Nam, rộng theo chiều Đông - Tây (công trình kiến trúc phía Đông và công trình kiến trúc phía Tây), diện tích khoảng 224,29m2 . Hai công trình kiến trúc này đều có 04 móng cột ở vị trí trung tâm là móng trụ kép. Do có cấu trúc như vậy, nên sẽ có 6 vì (04 vì 4 hàng chân cột, 02 vì 2 hàng chân cột). Trong một vì khoảng cách giữa hai cột, hai cột cái là 5,75 - 5,8m, giữa cột cái và cột quân là 2,9 - 3m. Khoảng cách giữa hai vì trung tâm 5,2m. Khoảng cách giữa các vì còn lại là 1,8 - 2,9m. Các móng trụ đơn có kích thước trung bình, hình gần vuông, kích thước một cạnh 1,35 - 1,5m.
  • 28. 21 Phần xuất lộ của hành lang phía Nam kiến trúc phía Tây còn lại 04 dấu vết móng trụ. Khoảng cách tâm giữa các móng cột theo chiều Đông - Tây là 5,75 - 5,8m, theo chiều Bắc - Nam là 2m. Khoảng cách tâm giữa hàng cột phía Nam của kiến trúc phía Tây với hàng cột Bắc của hành lang phía Nam này là 2,7m. - Cấp nền 4: Xuất lộ các loại di tích: bó nền, sân nền, móng trụ, chân tảng... Các loại hình di tích này cấu trúc thành hệ thống mặt bằng kiến trúc liên hoàn có niên đại thời Lý bao gồm một kiến trúc chính ở trung tâm 5 gian, 2 chái và hai kiến trúc nhỏ hơn liên hoàn với kiến trúc trung tâm ở hai phía Đông và Tây. + Kiến trúc trung tâm: Có diện tích khoảng 628,12m2 (chiều Bắc - Nam 19,15m, chiều Đông - Tây 32,8m). Mỗi vì của kiến trúc này có 6 hàng chân cột với hệ thống cột hiên được đặt thấp hơn so với cột cái và cột quân khoảng 0,60m. Khoảng cách giữa hai cột cái là 5,75 - 5,80m; giữa cột cái và cột quân, giữa cột quân với cột hiên là 2,80 - 2,90m. Phần lòng của kiến trúc rộng 386,42m2 (chiều Đông - Tây 27,8m, chiều Bắc - Nam 13,9m) gồm 5 gian. Ba gian giữa rộng 5,75 - 5,80m. Hai gian bên rộng 4m. Phần hiên bao quanh bốn phía của kiến trúc rộng 2,58m. + Hành lang Đông - Tây: Hai phía Đông và Tây của kiến trúc trung tâm đã xuất lộ dấu vết của hai công trình kiến trúc có tính chất mở chạy dài theo chiều Đông - Tây. Hành lang phía Tây dài 11,10m, rộng 7,50m; gồm 4 gian, mỗi vì rộng 5,80m với hai hàng chân cột. Độ rộng của các gian theo chiều từ Tây sang Đông dài 1,95 - 1,96m, rộng 3,50 - 3,78m (phần bậc đá từ cấp nền 3 lên cấp nền 4 dẫn trực tiếp vào gian này). Phía Bắc hành lang phía Tây đã xuất lộ một nền đá gốc được đục tương đối bằng phẳng. Phần xuất lộ có diện tích 51,6m2 (chiều Bắc - Nam 6m, chiều Đông - Tây 8,60m). Rãnh thoát nước của toàn bộ công trình kiến trúc được đục trực tiếp xuống nền đá gốc về phía Bắc. Có thể nói, tính đến thời điểm hiện tại, đây là nghiên cứu toàn diện, đầy đủ nhất về tổng thể mặt bằng chùa Dạm nói riêng, mặt bằng chùa - tháp thời Lý nói chung. 1.3. Tiểu kết chương 1 Chương 1 của luận án đã đề cập đến những vấn đề về vị trí địa – văn hóa; tư liệu và vấn đề, đồng thời khái quát về chùa Dạm qua tài liệu cổ sử và nêu tóm lược những cuộc nghiên cứu về chùa Dạm ở tại những cuộc thám sát khảo cổ năm 2009 và khai quật khảo cổ học tổng thể từ năm 2011 đến năm 2014, như sau: Có thể thấy rằng, Bắc Ninh xưa là vùng đất cổ có vị trí đặc biệt trong lịch sử dân tộc, là cái nôi hình thành lên nền văn hóa Việt Nam, nay là tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, nằm ở vị trí cửa ngõ phía Đông Bắc thủ đô Hà Nội, nằm trong tam
  • 29. 22 giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, có các tuyến thống giao thông quan trọng chạy qua như: quốc lộ 1A, quốc lộ 18, quốc lộ 38, tuyến đường sắt Hà Nội - Lạng Sơn và các tuyến đường thủy dọc sông Đuống, sông Cầu, sông Thái Bình, gần cảng hàng không Quốc tế Nội Bài. Trải qua hàng ngàn năm xây dựng và phát triển, vùng đất này đã tạo dựng kho tàng di sản văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể đồ sộ. Nhiều di tích tiêu biểu gắn với các sự kiện lịch sử quan trọng như: Tổ đình Phật giáo Việt Nam gắn liền với di tích Chùa Dâu và hệ thống Tứ pháp, chùa Phật Tích, trung tâm Hán học sớm nhất của nước ta với di tích Nam giao học tổ - nơi thờ Sĩ Nhiếp người truyền bá Nho giáo vào Việt Nam, đền Đô nơi thờ 8 vị vua nhà Lý, triều đại khai mở nền văn minh Đại Việt… Qua việc nghiên cứu, xem xét, điều tra tổng thể di tích và cảnh quan xung quanh có thể thấy, chùa Dạm là khu di tích còn khá nguyên vẹn kể từ thời khởi dựng. Mặt bằng kiến trúc hiện còn 4 cấp nền vươn cao theo sườn núi và được giữ nguyên trạng kể từ khi xây dựng cho đến nay. Ngoài các cấp nền được kè đá hiện còn, dấu tích cảnh quan của các di tích liên quan đến ngôi chùa còn khá rõ nét với các di tích như: ngòi Con Tên, Thùng Thối, Đền Vua, Bãi Hội,... Hình thành nên một tổng thể khu di tích liên hoàn từ sông Thiên Đức đến núi Đại Lãm, trong đó chùa Dạm giữ vai trò là vị trí trung tâm. Chùa Dạm là một trung tâm Phật giáo có mặt sớm và hiện diện theo suốt chiều dài lịch sử trên vùng đất xứ Bắc. Mở đầu được xây dựng bởi sự quan tâm của vương triều, một đại danh lam nổi tiếng một thời và được duy trì, tồn tại bởi tinh thần Phật giáo của người dân trong vùng theo suốt dặm dài lịch sử mặc sự thăng trầm, biến động của xã hội. Cho đến nay, mặc dù kiến trúc chùa xưa không còn nữa, nhưng trong lòng đất nơi đây còn ẩn dấu biết bao dấu tích thuở xa xưa. Những dấu tích kiến trúc, hiện vật tìm được là tín hiệu cho biết về diện mạo ban đầu về một khu di tích trong quá khứ. Chùa Dạm qua tài liệu cổ sử được ghi chép trong các bộ sử như: “Đại Việt sử ký toàn thư”, “Việt Sử lược”, “Khâm định Việt sử thông giám cương mục”, “Đại Nam nhất thống chí”, đều thống nhất chùa Dạm được xây dựng vào năm Bính Dần, niên hiệu Quảng Hựu 2 (1086) đến năm Giáp Tuất, niên hiệu Hội Phong 3 (1094) chùa được làm xong. Qua tình hình tư liệu, kết quả nghiên cứu về chùa Dạm, được chia thành hai giai đoạn: Giai đoạn trước khi thám sát khảo cổ học và giai đoạn sau khi được khai quật khảo cổ học năm 2009. Có thể nói, đến thời điểm hiện tại việc nghiên cứu về chùa Dạm là toàn diện và đầy đủ nhất từ trước cho đến nay. Để tìm về một thời vàng son ấy và góp phần tìm hiểu về bản sắc văn hóa dân tộc trong lịch sử nói chung, văn hóa Phật giáo nói riêng, cùng những đóng góp của Phật giáo vào bản sắc văn hóa dân tộc, khu di tích chùa Dạm đã được tiến hành khai
  • 30. 23 quật khảo cổ học tổng thể để nghiên cứu toàn diện về chùa Dạm - một công trình kiến trúc tôn giáo của Hoàng gia thời Lý. Chương 2 DI TÍCH KIẾN TRÚC VÀ NIÊN ĐẠI 2.1. Chùa Dạm qua các dấu tích trên thực địa Chùa Dạm sau khi bị tiêu thổ kháng chiến được người dân địa phương dựng trên nền chùa cũ, đó là một ngôi chùa nhỏ ẩn mình dưới tán cây bên sườn núi. Hiện trạng mặt bằng cho thấy, từ chân đồi đi lên chùa được tạo nên bốn cấp nền kiến trúc khác nhau, chênh nhau vươn cao theo độ cao của núi. Mỗi cấp nền được xây xếp kè bằng đá khối thẳng đứng khá vững chắc. Trên cảnh quan tổng thể, xung quanh còn các ngọn núi với các tên gọi của bộ “tứ linh”. Núi Rùa, nằm bên cạnh về phía Tây của ngòi Con Tên, núi Phượng nằm về phía Tây Bắc, núi Long có chùa Dạm và chùa Hàm Long, núi Ly nằm về phía Đông Bắc gần với thôn Thái Bảo. Đây là những hình ảnh địa điểm có niên đại muộn, mang tư tưởng của Nho giáo. Hiện nay, thuộc phạm vi di tích vẫn còn các dấu tích vật chất minh chứng cho quy mô to lớn, đồ sộ, nghệ thuật điêu khắc tinh mỹ của một Đại danh lam thời Lý. Tuy nhiên, trước nhịp sống hối hả, quá trình đô thị hóa diễn ra với tốc độ nhanh nên cảnh quan chùa Dạm hiện nay đã có những đổi khác. Bắt đầu từ ngòi Con Tên ở sát chân núi được đào vào thời Lý, nối với sông Đuống. Lên khỏi ngòi Con Tên chúng ta sẽ bắt gặp một di tích gắn với chùa Dạm, đó là đền Vua, người dân nơi đây còn lưu truyền lại cho nhau kể rằng, sau khi thuyền rồng đến chân núi, đền Vua là nơi nhà vua nghỉ ngơi trước khi lên vãn cảnh chùa. Dấu tích đền Vua hiện còn lại chỉ là một khoảng đất có mặt tiền khoảng 4m, hình ống sâu vào bên trong, phần cuối thửa đất có một ban thờ do người dân xây dựng sau này. Dẫu chỉ theo truyền miệng của dân gian, dẫu di tích hiện nay không còn quy mô đầy đủ, nhưng chỉ thế thôi cũng có thể hình dung ra tính hợp lý trong tổng thể cảnh quan chung ở phía trước của chùa, vẫn còn hiện ra đó cảnh “trên bến, dưới thuyền” tấp nập, tôn nghiêm của một Đại danh lam bậc nhất trời Nam. Qua khỏi đền Vua, lùi về phía chân núi khoảng 50m, là dấu tích của các trụ biểu (có thể là Tam quan ngoài?). Năm 2006, khi xây dựng Trường Tiểu học và Trung học cơ sở Nam Sơn, máy xúc đã san bạt và xúc đi toàn bộ các dấu tích vật chất ở đây. Tuy nhiên, người già trong thôn vẫn còn có thể chỉ dẫn cho các nhà nghiên cứu vị trí của các trụ biểu. Hơn nữa, khi xây dựng trường học, máy xúc đã san gạt đi toàn bộ phạm vi bên trong của các trụ biểu, nơi trước đây là Bãi Hội, dấu tích gạch ngói và các
  • 31. 24 thành phần trang trí kiến trúc đều tìm được. Tuy nhiên, hiện nay trong dân không còn ai lưu giữ các di vật liên quan đến chùa Dạm. Từ Bãi Hội, trải qua các bậc dẫn lên cấp nền thứ nhất được kè bằng các tảng đá lớn xếp giật thành 3 cấp. Trong khoảng từ phía dưới lên cấp nền 1, hai bên phía Đông và phía Tây có hai ngôi chùa khác của thôn Môn Tự và Tự Thôn, do nằm ở phía bên dưới nên các chùa này còn có tên gọi khác là chùa Thấp và chùa Dạm ở trên cao nên còn có tên gọi khác là chùa Cao. Dọc theo chiều rộng của cấp nền, trong khoảng này, phía Đông và phía Tây đặt hai hòn “đá cấm”. Ý nghĩa của hai hòn “đá cấm” là: trong phạm vi khoảng rộng đó, không được phép đặt mồ mả. Do canh tác nên dấu tích của hai hòn đá cấm không còn. Hệ thống bậc dẫn lên các lớp nền khu di tích: đường lên chùa còn lại dấu vết chạy quanh co gồm 58 bậc xây bằng gạch từ ven sườn khu nghĩa trang liệt sĩ xã Nam Sơn đi lên. Các bậc uốn lượn thoai thoải theo độ dốc sườn núi với chiều rộng bậc 2,5 - 3,0m, mặt bậc rộng 1,0 - 1,2m. Độ chênh các bậc khoảng 0,3m tạo nên đường thoai thoải. Điểm dừng mặt bậc tiếp giáp với mặt bằng cấp nền 1 của khu di tích. Cấp nền 1: diện tích 1.408m2 , dài theo chiều Đông - Tây là 64m, rộng theo chiều Bắc - Nam là 22m. Bờ kè của cấp nền 1 được xếp giật 3 cấp, chính giữa có lối lên xuống xuống. Phần phía Đông của lối lên xuống xuống, bờ kè đã bị phá hủy mạnh. Hiện nay, trên bờ kè có nhiều các tảng đá có kích cỡ nhỏ, hình dạng không đồng nhất có thể được người thời sau xếp lên. Tuy nhiên, phần phía Tây, các cấp đá còn lại được xếp vuông vức, quy chuẩn và còn đầy đủ cả 3 hàng giật cấp, cấp 1 và cấp 2 giật thu vào trung bình 1m, cấp 3 tương đương với bề mặt của cấp nền. Trong đó giật cấp 1 cao 2,73m, giật cấp 2 cao 2,30m, giật cấp 3 lên bề mặt của cấp nền cao 2,15m. Chân của bờ kè hơi choãi ra, tạo thành góc chếch khoảng 700 làm tăng thêm độ vững chãi và kiên cố cho toàn bộ bờ kè. Ngoài dấu tích của bờ kè, cấp nền 1 không còn dấu tích công trình kiến trúc nào còn tồn tại trên mặt đất. Tuy nhiên, vật liệu xây dựng có mặt trên toàn bộ bề mặt của cấp nền với mật độ dày đặc, đặc biệt là ở phần rìa cạnh phía Tây. Từ cấp nền 1 nối lên cấp nền 2 bằng một đường đi chính giữa, đây là con đường được xây dựng sau này, với 25 bậc được xây xếp bằng gạch và đá khối. Độ rộng bậc 2,50 - 3,00m, mặt bậc rộng 0,90 - 1,20m. Độ chênh bậc 0,30 - 0,40m. Bậc lên xuống này xây chính giữa, chia đôi cấp nền 2 thành 2 bên khá bằng nhau. Theo các nghiên cứu trước đây kết hợp với việc phát quang cây bụi đã làm lộ ra lối đi hai bên, phía Đông và Tây, đó là hai đường lên được lát bằng đá, mỗi lối rộng trung bình 2,40m. Đây có thể là lối lên xuống của ngôi chùa được xây dựng từ thời Lý. Cấp nền 2: diện tích 2.176m2 , chiều dài Đông - Tây là 64m, chiều rộng Bắc - Nam là 34m. Như vậy, diện tích của cấp nền này rộng hơn cấp nền 1 khoảng 768m2 .
  • 32. 25 Trong khoảng của hai lối lên xuống, bờ kè được giật 3 cấp. Theo hiện trạng, giật cấp 1 cao 1,95m, giật cấp 2 cao 1,65m thu vào so với giật cấp 1 khoảng 1,20m, giật cấp 3 cao 2,94m thu vào so với giật cấp 2 khoảng 1,60m. Chân bờ kè hơi choãi tương tự như bờ kẽ của cấp nền 1. Trên hiện trạng, bờ kè của cấp nền đã bị sạt lở mạnh, phần phía Đông còn nguyên vẹn hơn. Một số vị trí được người thời sau dùng các tảng đá không thống nhất xếp lại. Các tảng đá đều có hình vuông hoặc chữ nhật, được đẽo gọt vuông vức, không chạm khắc hoa văn trang trí. Trên bề mặt của cấp nền 2 hiện nay còn hai di tích quan trọng, đó là trụ cột đá chạm rồng cuốn ở phía Đông và chân móng tháp đá hình vuông ở phía Tây. Hai di tích này nằm đăng đối thẳng hàng nhau theo trục Đông - Tây, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trên tổng thể khu di tích, trong đó đôi rồng ở cột đá quay đầu chầu về hướng cửa tháp. Nằm thẳng với lối lên xuống từ cấp nền 1 lên cấp nền 2 là lối bậc thang dẫn từ cấp nền 2 lên cấp nền 3. Cấp nền 3: diện tích 2.370m2 , dài theo chiều Đông - Tây là 64m, rộng theo chiều Bắc - Nam là 37,5m. So với các cấp nền của di tích, đây là cấp nền có diện tích rộng nhất. Lối lên xuống được xếp bằng đá rộng trung bình 2,20m, lối phía Tây còn nguyên vẹn với 27 bậc đá. Bờ kè cấp nền được xếp bằng đá, phạm vi giữa hai lối lên xuống bờ kè đá cấp nền được giật 3 cấp. Trong đó, theo hiện trạng giật cấp 1 cao 1,63m, giật cấp 2 cao 2,50m thu vào so với giật cấp 1 khoảng 1,20m, giật cấp 3 cao 1,28m thu vào so với giật cấp 2 khoảng 1,20m. Chân hơi choãi tạo độ vững chãi cho bờ kè. Trên cấp nền này có một số di tích: ở chính giữa cấp nền là ngôi chùa có mặt bằng hình chữ “đinh” được nhân dân xây dựng năm 1986 với quy mô 3 gian, lợp ngói lá, dài 7,4m, rộng cả phần hậu cung là 11m. Chùa có kết cấu khung chịu lực bằng gỗ, tường được xây bằng gạch, ngoài cùng 2 bên là 2 trụ biểu, bên trên đắp hình chim phượng. Chính giữa của bờ nóc là tấm biển đề hai chữ Hán “大 覧 - Đại Lãm”. Bên ngoài và trong chùa còn một số câu đối được viết năm 1986 bằng chữ Hán. Hai câu đối mặt ngoài của 2 trụ biểu: Phiên âm: “Đại Lãm chung linh văn hiến địa Thần Quang phổ chiếu thái bình thiên”. Hai câu đối mặt bên của 2 trụ biểu: Phiên âm: “Từ bi độ thế quang minh Phật Bác ái an dân chính thiện tâm”. Từ hai trụ biểu vào đến chùa được xây bịt kín bằng gạch, bên ngoài trát vôi vữa và đề 2 chữ: bên phía Đông là chữ “慈 - Từ”, bên phía Tây là chữ “悲 - Bi”. Mặt chính
  • 33. 26 của chùa, gian giữa, phía trên có biển đề 3 chữ Hán “神 光 寺 - Thần Quang tự, nghĩa là chùa Thần Quang”. Hai bên của gian chính có hai câu đối. Phiên âm: “Hồng thủy khởi ba ninh cảnh vật tài điền địa hảo Lãm Sơn chung đúc khí nhân dân phú thọ khang cường” Bên trong gian chính có 1 đôi câu đối: Phiên âm: “Nhất mộng môn sơn cơ thế hào hoa bằng thánh đức Ức niên mão lĩnh di lưu phúc truyền ấn thần công”. Gian bên phía Đông có bức đại tự “萬 古 英 寧 - Vạn cổ anh linh”. Bên phía Đông là ngôi nhà lợp ngói, tường chịu lực bằng gạch có diện tích 34m2 , là nơi ở của các vãi. Ngoài cùng phía Đông là chiếc giếng vuông bằng đá, nằm gần sát với bờ kè của cấp nền 4, kích thước chiều Bắc - Nam là 4,2m, chiều Đông - Tây là 5,0m được xây dựng năm 1986 để lấy nước phục vụ sinh hoạt hàng ngày của nhà chùa. Phía Tây là nhà bếp lợp ngói, tường xây bằng gạch và đá, có diện tích rộng 17,4m2 . Ở cấp nền này còn dấu tích móng xếp đá của ngôi chùa đã bị tiêu thổ kháng chiến năm 1953. Phạm vi chùa xây dựng năm 1986 nằm đè lên trên móng xếp đá này. Trên mặt bằng hiện trạng, còn có 15 chân tảng đá, nổi bật trong số đó là các chân tảng được chế tác từ đá sa thạch chạm khắc hai lớp cánh sen trên bề mặt được xếp ở rìa cạnh phía Tây của sân chùa chính. Các chân tảng hiện còn nằm rải rác trên bề mặt của cấp nền. Từ cấp nền 3 dẫn lên cấp nền 4 bằng hai lối lên xuống bằng đá, nằm thẳng với lối lên xuống từ cấp nền 1 lên cấp nền 2 và từ cấp nền 2 lên cấp nền 3. Cấp nền 4: có diện tích tương đương với cấp nền 1, rộng 1.446m2 , phía sau dựa lưng vào núi. Lối lên xuống phía Đông đã bị phá hủy hoàn toàn, lối lên xuống phía Tây cũng đã bị phá hủy, nhưng còn nhận diện được dấu tích của 23 bậc đá. Bờ kè cấp nền bằng đá được xếp giật thu vào 3 cấp. Theo hiện trạng, giật cấp 1 cao 2,30m, giật cấp 2 cao 2,40m thu vào so với giật cấp 1 khoảng 1,20m, giật cấp 3 cao 4,15m thu vào so với giật cấp 2 khoảng 1,40m. Chân bờ kè hơi choãi tương tự như bờ kè của các cấp nền khác. Trên cấp nền 4 chỉ có duy nhất đền Bà Tấm nằm ở chính giữa. Đền Bà Tấm nằm thẳng trục Bắc - Nam với ngôi chùa phía dưới. Trên bộ mái, phía trước có lan can trang trí các ô đường diềm, chính giữa là tấm biển bằng xi - măng bên trong đắp nổi “cuốn thư”. Chính giữa của tấm biển đề ba chữ Hán “李 王 母 - Lý vương mẫu”. Trên bờ nóc của đền trang trí mô típ “Lưỡng long chầu nguyệt” bằng xi - măng cốt thép. Ngoài ra còn có bờ móng được xếp bằng đá là dấu tích của ngôi đền đã bị tiêu thổ