SlideShare a Scribd company logo
1 of 237
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
HUỲNH THỊ ANH VÂN
CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945):
SỰ HÌNH THÀNH VÀ NGHI THỨC TẾ TỰ
LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC
HUẾ - NĂM 2016
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
HUỲNH THỊ ANH VÂN
CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945):
SỰ HÌNH THÀNH VÀ NGHI THỨC TẾ TỰ
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 62.22.03.13
LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
1. PGS. TS. ĐỖ BANG
2. TS. PHAN THANH HẢI
HUẾ - NĂM 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được
ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Huế, ngày tháng năm 2016
Tác giả
Huỳnh Thị Anh Vân
Lời Cảm Ơn
Lời đầu tiên, tôi xin chân thành cám ơn quý thầy cô giáo khoa Lịch sử,
trường Đại học Khoa học Huế và tập thể lãnh đạo, các đồng nghiệp tại Trung
tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế và bạn bè đã tạo mọi điều kiện giúp tôi hoàn
thành luận án này.
Lời cảm ơn sâu sắc nhất xin được gửi đến PGS.TS. Đỗ Bang, người đã
giúp đỡ tôi tận tình trong suốt quá trình thực hiện luận án, cho tôi nhiều lời
khuyên và kinh nghiệm quý báu để tôi hoàn tất chương trình theo đúng yêu cầu
đặt ra.
Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn TS. Phan Thanh Hải, Giám đốc
Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế, cũng là cán bộ đồng hướng dẫn với tinh
thần trách nhiệm, giúp tôi nhiều ý kiến bổ ích trong quá trình học tập, nghiên
cứu để hoàn thành luận án.
Xin tỏ lời tri ân đến GS. TS. Nguyễn Quang Ngọc, PGS.TS. Nguyễn Minh
Tường, PGS. TS. Vũ Văn Quân, PGS.TS. Trần Thị Mai, PGS.TS. Nguyễn Văn
Đăng, PGS.TS. PGS. TS. Bùi Thị Tân, TS. Phan Tiến Dũng đã tận tình đóng góp
nhiều ý kiến xác đáng trong quá trình tôi thực hiện luận án.
Trên hành trình ấy, tôi đã may mắn có được sự giúp đỡ không mệt mỏi của
nhiều thầy cô giáo và bạn bè về mặt tư liệu. Tôi xin tỏ lòng biết ơn đến NNC Vĩnh
Cao với sự giúp đỡ to lớn về mặt văn bản Hán tự, xin chân thành cảm ơn TS.
Nguyễn Văn Hoa đã cho phép tôi tiếp cận các tài liệu gốc có giá trị liên quan đến
đề tài. Xin chân thành cảm ơn NCS. Trần Văn Quyến đã luôn hào hiệp giúp tôi tiếp
cận các tài liệu một cách nhanh chóng và hiệu quả.
Đặc biệt, tôi không thể đặt bút hoàn thành luận án này nếu thiếu sự động viên
tinh thần to lớn và kiên nhẫn của GS. Chayan Vaddhanaphuti, người khơi nguồn đam
mê nhiệt huyết cho tôi mạnh dạn bước tiếp trên con đường khoa học.
Tôi sẽ không thể thực hiện được luận án nếu không có sự cảm thông, giúp
đỡ vô điều kiện cả về vật chất lẫn tinh thần của chồng và các con tôi, những
người luôn sát cánh bên tôi, tiếp thêm cho tôi sức mạnh vượt qua mọi khó khăn
để hoàn thành luận án.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng song luận án không thể tránh khỏi những
hạn chế và thiếu sót. Kính mong Quý thầy cô giáo, bạn bè và đồng nghiệp tiếp
tục góp ý để luận án ngày càng hoàn thiện hơn.
Một lần nữa tôi xin chân thành cám ơn!
MỤC LỤC
1. Lý do lựa chọn đề tài.................................................................................... 1
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu................................................................ 4
3.1 Mục đích nghiên cứu................................................................................... 4
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu.................................................................................. 5
4. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu................................................... 5
4.1. Nguồn tƣ liệu.............................................................................................. 5
4.2 Phƣơng pháp nghiên cứu............................................................................. 7
5. Đóng góp của luận án.................................................................................... 8
6. Bố cục của luận án ...................................................................................... 10
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU........................... 11
1.1 Tình hình nghiên cứu ................................................................................ 11
1.1.1 Các công trình nghiên cứu trƣớc năm 1975........................................... 11
1.1.2 Các công trình nghiên cứu từ năm 1975 đến nay .................................. 14
1.2 Kết quả nghiên cứu và những vấn đề đặt ra.............................................. 25
CHƢƠNG 2: SỰ HÌNH THÀNH CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU
NGUYỄN Ở HUẾ........................................................................................... 28
2.1 Khái niệm, nguồn gốc của đàn miếu đại tự và nghi lễ cúng tế................. 28
2.1.1 Về khái niệm .......................................................................................... 28
2.1.2 Về nguồn gốc ......................................................................................... 29
2.2 Cơ sở của việc hình thành các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế ............... 31
2.2.1 Các đàn miếu đại tự của các triều đại trƣớc triều Nguyễn ở Việt Nam. 31
2.2.2 Bối cảnh ra đời của các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế ............... 41
2.2.3 Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế từ khi xây dựng đến trƣớc năm
1885................................................................................................................. 46
2.2.4 Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế từ năm 1885 đến 1945 ......... 60
Tiểu kết chƣơng 2............................................................................................ 65
CHƢƠNG 3: NGHI LỄ ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ........................ 67
3.1 Các cơ quan tham gia trực tiếp vào quá trình chuẩn bị và thực hiện nghi lễ
tế đại tự............................................................................................................ 67
3.1.1 Phủ Tôn Nhân ........................................................................................ 67
3.1.2 Bộ Lễ...................................................................................................... 68
3.1.3 Bộ Binh .................................................................................................. 68
3.1.4 Bộ Công................................................................................................. 71
3.1.5 Viện Tập Hiền........................................................................................ 71
3.1.6 Thái Thƣờng Tự ..................................................................................... 71
3.1.7 Quang Lộc Tự ........................................................................................ 71
3.1.8 Phủ Nội Vụ............................................................................................. 72
3.1.9 Khâm Thiên Giám.................................................................................. 72
3.1.10 Chủ tế và các bồi tự, phân hiến, chấp sự.............................................. 72
3.2 Những vấn đề chung về các nghi lễ đại tự..................................................... 76
3.2.1 Công việc chuẩn bị................................................................................. 76
3.2.2 Âm nhạc và múa..................................................................................... 84
a. Âm nhạc....................................................................................................... 84
3.2.3 Trang phục.............................................................................................. 86
3.2.4 Văn tế ..................................................................................................... 88
3.3 Nghi lễ đại tự triều Nguyễn ở Huế từ 1802 đến trƣớc năm 1885 ............. 89
3.3.1 Nghi lễ tế Giao ....................................................................................... 90
3.3.2 Nghi lễ tế tông miếu............................................................................... 93
3.3.3 Nghi lễ tế Xã Tắc ................................................................................... 95
3.4 Hoạt động tế đại tự triều Nguyễn ở Huế giai đoạn 1885 - 1945.............. 95
Tiểu kết chƣơng 3............................................................................................ 99
CHƢƠNG 4: ĐÀN MIẾU VÀ NGHI LỄ ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ:
NHỮNG ĐẶC TRƢNG VÀ VẤN ĐỀ BẢO TỒN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ101
4.1 Những đặc trƣng của đàn miếu và nghi lễ đại tự triều Nguyễn ở Huế........... 101
4.1.1 Đặc trƣng về quy hoạch ....................................................................... 101
4.1.2 Đặc trƣng về kiến trúc.......................................................................... 103
4.1.3 Đặc trƣng về trang trí mỹ thuật............................................................ 106
4.1.4 Tính điển chế trong nghi lễ đại tự........................................................ 107
4.1.5 Tính chính danh trong nghi lễ đại tự.................................................... 110
4.1.6 Triết lý Nho giáo trong việc xây dựng đàn miếu và nghi lễ đại tự...... 112
4.2 Vấn đề bảo tồn, phát huy giá trị đàn miếu và nghi lễ đại tự triều Nguyễn ở
Huế ................................................................................................................ 117
4.2.1 Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị các đàn miếu đại tự triều Nguyễn
ở Huế từ năm 1945 đến nay .......................................................................... 118
4.2.2 Đề xuất hƣớng bảo tồn và phát huy giá trị đàn miếu và nghi lễ đại tự
triều Nguyễn ở Huế....................................................................................... 128
Tiểu kết chƣơng 4.......................................................................................... 132
KẾT LUẬN................................................................................................... 134
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ
CÔNG BỐ..................................................................................................... 138
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................. 139
BẢNG CHÚ GIẢI MỘT SỐ TỪ VỰNG ..................................................... 153
PHỤ LỤC
DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
DÙNG TRONG LUẬN ÁN
ÂL Âm lịch
BAVH Bulletin des Amis du Vieux Hué (Những ngƣời bạn Cố đô Huế)
BBT Ban biên tập
GS. Giáo sƣ
HĐND Hội đồng Nhân dân
Loại chí Lịch triều hiến chƣơng loại chí
Nxb. Nhà xuất bản
PL. Phụ lục
Sđd Sách đã dẫn
Toàn thƣ Đại Việt sử ký toàn thƣ
TCN. Trƣớc Công nguyên
ThS. Thạc sĩ
Tp. Thành phố
Tr. Trang
TS. Tiến sĩ
TƢ Trung ƣơng
UBND Ủy ban Nhân dân
UNESCO Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc
XHCN Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC PHỤ LỤC
STT NỘI DUNG
2.1 Sơ đồ vị trí các đàn miếu trong quần thể di tích cố đô Huế
2.2 Sơ đồ đàn Nam Giao và các công trình phối thuộc (1915)
2.3 Sơ đồ vị trí quy hoạch các miếu thờ trong Hoàng thành Huế
2.4 Bản vẽ kiến trúc Triệu Miếu (mặt đứng, mặt cắt)
2.5 Nội dung văn bia Thái Miếu
2.6 Nội dung văn bia Hoàng Khảo Miếu
2.7 Nội dung văn bia Hƣng Miếu
2.8 Bản vẽ kiến trúc Thế Miếu
2.9 Sơ đồ kiến trúc đàn Xã Tắc
3.1 Châu bản thời Minh Mạng năm thứ 22 (1841): Phủ Tôn Nhân khải về
điển lễ cúng tế
3.2 Châu bản thời Minh Mạng năm thứ 7 (1826) về việc định ngày tế Giao
3.3 Nhật kỳ dâng lễ tại các miếu trong Hoàng thành Huế
3.4 Nhật kỳ tế đại tự ở Huế dƣới triều Nguyễn
3.5 Các loại vật đựng chính trong lễ tế đại tự triều Nguyễn
3.6 Các loại lụa tế trong lễ đại tự triều Nguyễn ở Huế
3.7 Các lễ vật chính trong tế đại tự triều Nguyễn
3.8 Sơ đồ vị trí các án thờ tại lễ tế Giao (1915)
3.9 Sơ đồ quy hoạch Thế Miếu và vị trí các án thờ hiện nay
3.10 Sơ đồ thế thứ các vua Nguyễn (1802-1945)
3.11 Bảng so sánh trình tự nghi thức các lễ đại tự triều Nguyễn
4.1 Sơ đồ đàn Xã Tắc đƣợc tô màu mặt nền (giả định theo sử liệu)
4.2 Một số vật đựng dùng trong nghi lễ đại tự triều Nguyễn
DANH MỤC ẢNH MINH HỌA
STT NỘI DUNG
2.1 Bia Nam Giao điện bi ký (Bảo tàng Lịch sử quốc gia, Hà Nội)
2.2 Di tích đàn Nam Giao nhà Hồ ở Thanh Hóa
2.3 Đàn tế Trời của nhà Tây Sơn ở Bình Định (đƣợc phục dựng năm
2011-2012)
2.4 Núi Bân
2.5 Dấu vết gạch và nền móng cũ ở núi Bân (Huế)
2.6 Đền Lý Bát Đế ở Bắc Ninh (xây dựng lại năm 1989).
2.7 Đền thờ các vua thời Lê Trung Hƣng ở Thanh Hóa (xây dựng năm
2011)
2.8 Ô thơ trên điện Thái Hòa
2.9 Đàn Nam Giao triều Nguyễn ở Huế
2.10 Thẻ bằng đồng treo cây thông ở đàn Nam Giao
2.11 Triệu Miếu
2.12 Thái Miếu hiện nay
2.13 Hƣng Miếu
2.14 Bia Thái Miếu
2.15 Hai tấm bia ở Hƣng Miếu
2.16 Thế Miếu (khoảng 1919-1926)
2.17 Một góc Thế Miếu và nhà thờ Thổ Công nhìn từ Cửu đỉnh (khoảng
đầu thế kỷ 20)
2.18 Vị trí đàn Xã Tắc ở góc Tây Bắc trong Kinh thành Huế
2.19 Đàn Xã Tắc Huế năm 1914
3.1 Phủ Tôn nhân và Hội đồng Tôn Nhân Phủ cùng các quan chức Pháp
(1929)
3.2 Lễ Bộ đƣờng
3.3 Đoàn ngự đạo rƣớc vua đi tế Giao năm 1915
3.4 Tƣợng đồng nhân (phục chế)
3.5 Một nhóm nhạc công trong lễ tế Giao 1924
3.6 Múa Bát dật trong lễ tế Giao, 1915
3.7 Vua Khải Định trong trang phục tế Giao (1924)
3.8 Một bộ trang phục tế Giao đầy đủ của vua Nguyễn (1915)
3.9 Lễ tế Giao năm 1924
3.10 Sân Thế Miếu -Hiển Lâm Các trƣớc kỳ lễ, khoảng đầu thế kỷ XX
3.11 Một gian thờ ở Thế Miếu
4.1 Thái Miếu Trung Quốc
4.2 Tông Miếu triều Joseon Hàn Quốc
4.3 Đàn Xã Tắc Trung Quốc
4.4 Hoàng khung vũ đàn Nam Giao triều Joseon, Hàn Quốc
4.5 Trống đá ở đàn Nam Giao triều Joseon, Hàn Quốc
4.6 Đàn Xã Tắc triều Joseon, Hàn Quốc
4.7 Trang trí hồ lô trên nóc Thế Miếu
4.8 Trang trí thơ văn trên kiến trúc Thế Miếu
4.9 Trang trí đầu máng xối trên nóc Thế Miếu
4.10 Thế Miếu nhìn từ thềm Hiển Lâm Các và Cửu đỉnh
4.11 Khai quật khảo cổ đàn Xã Tắc ở Huế
4.12 Bia Thái Xã Chi Thần
4.13 Đàn Xã Tắc triều Nguyễn ở Huế sau khi phục hồi
4.14 Lễ tế Giao 2008
4.15 Lễ vật tam sinh tại lễ tế Giao 2014
4.16 Lễ tế Xã Tắc năm 2014
4.17 Một số bài vị đặt ở Viên đàn trong lễ tế Giao 2014
4.18 Sự quan tâm của cộng đồng và vai trò của lãnh đạo tỉnh Thừa Thiên
Huế trong lễ tế Giao
4.19 Ngƣời dân dâng hƣơng tại lễ tế Giao 2014
4.20 Ngƣời dân làm lễ ở Phƣơng đàn trong lễ tế Giao ngày 17/4/2014
4.21 Một lễ kỵ ở Thế Miếu do Nguyễn Phúc Tộc tổ chức (năm 2006)
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Triều Nguyễn (1802-1945), triều đại quân chủ cuối cùng ở Việt Nam, đƣợc
đánh giá là “đã xây dựng một cơ chế quân chủ tập quyền mạnh mẽ với một bộ máy
hành chính và một thiết chế vận hành qui củ, chặt chẽ…” [65; tr. 19]. Với việc chọn
Huế làm kinh đô, triều đại này đã để lại một di sản vật thể đồ sộ gồm nhiều kiến
trúc cung đình, trong đó các công trình phục vụ cho hoạt động nghi lễ của triều đình
chiếm một số lƣợng lớn và là những công trình chính trong các cụm kiến trúc phục
vụ đời sống vật chất và tinh thần của triều đại.
Bên cạnh đó, các vua Nguyễn cũng đặt ra nhiều quy chế, điển lệ cho việc tế
tự trong dân gian cũng nhƣ trong cung đình. Chỉ riêng những quy định dành cho
việc nghi lễ, tế tự của triều đình đã chiếm 68 quyển trong tổng số 263 quyển của bộ
Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ do Nội các triều Nguyễn tập hợp và biên soạn.
Điều này cho thấy vấn đề nghi lễ, tế tự chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống
văn hóa và chính trị của triều đại này.
Trong hệ thống lễ nghi thời Nguyễn, việc tế tự có ba bậc: đại tự, quần tự và
trung tự, trong đó các lễ đại tự quan trọng nhất, bao gồm tế Giao, tế các miếu thờ tổ
tiên của nhà vua (tế tông miếu1
) và tế đàn Xã Tắc.
Các hình thức đàn miếu2
và nghi lễ đại tự có vai trò quan trọng trong đời
sống tâm linh của các triều đại quân chủ ở Việt Nam, đặc biệt là triều Nguyễn-triều
đại để lại một kho tàng di sản văn hóa đồ sộ và độc đáo đƣợc ghi nhận ở tầm quốc
gia và quốc tế, góp phần hình thành bản sắc văn hóa Huế ngày nay.
Sự hình thành của các công trình này cũng nhƣ các nghi thức tế tự đều có
ảnh hƣởng của tƣ tƣởng Nho giáo Trung Quốc ở một mức độ nhất định và đƣợc
triều Nguyễn, nhất là các vị vua đầu triều, đặc biệt chú trọng. Việc quy hoạch vị trí,
1
Dƣới thời Nguyễn, bắt đầu từ thời vua Thiệu Trị (1841-1847), đổi đọc là “tôn miếu” vì kỵ húy tên của vua Thiệu Trị (Nguyễn
Phúc Miên Tông) [83, VI, tr. 77].
2
Trong luận án này, tác giả dùng cụm từ “đàn miếu” theo hình thức từ ghép đẳng lập gộp nghĩa (thuộc mô hình ngữ nghĩa
AB=A+B), trong đó nghĩa của từng thành tố (đàn, miếu) cùng gộp lại để biểu thị ý nghĩa khái quát chung về một hình thức đại
tự cùng có những đặc điểm chung về điển chế và ý nghĩa triết lý, trong ý nghĩa chung đó có ý nghĩa riêng của từng thành tố, sẽ
đƣợc giải thích ngữ nghĩa từng hình thức tại chƣơng 2.
2
xây dựng kiến trúc và thực hành nghi lễ đƣợc điển chế hóa bằng nhiều quy định
chặt chẽ. Vì thế, có thể nói các đàn miếu và nghi lễ đại tự triều Nguyễn ở Huế là
những hình thức tiêu biểu và hoàn thiện nhất trong các đàn miếu thời kỳ quân chủ ở
Việt Nam.
Sau khi triều Nguyễn cáo chung vào năm 1945, dƣới nhiều tác động của bối
cảnh chính trị, xã hội khác nhau, các đàn miếu và nghi lễ đại tự cũng mất đi chủ thể
của nghi lễ. Duy chỉ có lễ kỵ ở các miếu thờ hoàng gia tuy không còn đƣợc tổ chức
thƣờng xuyên theo nhật kỳ tế tự thời quân chủ, thậm chí có thời gian bị gián đoạn
và cũng không còn đƣợc tổ chức ở tầm quốc gia nhƣng vẫn đƣợc các thành viên
trong dòng tộc duy trì cho đến ngày nay, trở thành một hoạt động văn hóa mang
đậm bản sắc của nghi lễ cung đình Huế.
Từ Festival Huế 2004, lễ tế Nam Giao đƣợc tái hiện và kể từ đó đến nay, đây
là một trong những hoạt động chính của các kỳ Festival Huế. Cũng từ năm 2009,
sau khi kiến trúc đàn Xã Tắc đƣợc phục dựng, lễ tế đàn Xã Tắc cũng đƣợc tổ chức
thƣờng niên tại công trình này. Trong sự nghiệp bảo tồn và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc, các công trình nhƣ đàn Nam Giao, đàn Xã Tắc và các miếu thờ hoàng
gia triều Nguyễn là những di sản văn hóa không thể tách rời của văn hóa cung đình
Huế. Đây cũng là những di tích góp phần hình thành nên quần thể di tích cố đô
Huế-Di sản Văn hóa Thế giới, có tầm quan trọng đặc biệt cấp quốc gia và mang giá
trị nổi bật toàn cầu. Vì vậy, các đàn miếu và nghi lễ đại tự cần đƣợc nghiên cứu đầy
đủ, toàn diện để có sự nhìn nhận, đánh giá đúng vai trò của những di sản văn hóa
này trong sự hình thành của văn hóa cung đình nói riêng và văn hóa Huế nói chung,
đồng thời có chiến lƣợc bảo tồn nhằm giữ gìn và phát huy giá trị di sản văn hóa
truyền thống, xây dựng Thừa Thiên Huế thành một trung tâm văn hóa đậm đà bản
sắc dân tộc và bản sắc văn hóa Huế, nhƣ Kết luận của Bộ Chính trị về Xây dựng,
phát triển tỉnh Thừa Thiên-Huế và đô thị Huế đến năm 2020 đã đặt ra [8; tr. 4].
Tuy nhiên, các hình thức đàn miếu và nghi lễ đại tự triều Nguyễn ở Huế mới
chỉ đƣợc đề cập đến trong các bài viết, công trình nghiên cứu trƣớc đây theo từng
khía cạnh của vấn đề hoặc từng đối tƣợng riêng biệt trong khi sự tồn tại của các
công trình kiến trúc đàn miếu đại tự, các hoạt động nghi lễ và các thiết chế văn hóa
3
liên quan đều có quan hệ chặt chẽ với nhau và đều mang những nét đặc trƣng của
triều đại. Vì vậy, việc nghiên cứu các đàn miếu và nghi lễ đại tự trong mối liên hệ
tổng thể giữa công trình kiến trúc và nghi lễ tế tự thực sự có ý nghĩa khoa học và
thực tiễn.
Về ý nghĩa khoa học, việc nghiên cứu các công trình đàn miếu và nghi lễ
đại tự trong mối liên hệ thống nhất về ý nghĩa triết lý và vai trò của các công trình
này đối với các triều đại quân chủ ở Việt Nam, đặc biệt dƣới triều Nguyễn, là một
việc cần thiết nhằm cung cấp thêm cơ sở khoa học cho các hoạt động bảo tồn và
phát huy giá trị di sản văn hóa Huế hiện nay. Đây cũng sẽ là công trình đầu tiên
tập trung đánh giá đầy đủ, khách quan và hệ thống về quá trình hình thành và phát
triển của các đàn miếu đại tự triều Nguyễn tại Huế và nghi thức tế tự.
Mặt khác, phần lớn các bài viết, công trình nghiên cứu về các đàn miếu và
nghi thức tế đại tự đều chỉ dừng lại ở việc mô tả về lịch sử, quy mô kiến trúc hoặc
sự kiện chứ chƣa đi sâu phân tích vai trò và ý nghĩa về mặt xã hội của các đàn miếu
và nghi thức tế đại tự trong những hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội cụ thể. Việc
nghiên cứu các đàn miếu và nghi thức tế đại tự trong mối tƣơng quan với những
hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội cụ thể sẽ giúp đƣa ra những đánh giá toàn diện
và khách quan đối với các hoạt động này trong lịch sử cũng nhƣ trong giai đoạn
hiện nay.
Về ý nghĩa thực tiễn, luận án sẽ hỗ trợ việc nghiên cứu và giảng dạy về triều
Nguyễn ở những khía cạnh có liên quan trong nhà trƣờng và cho công tác bảo tồn,
phục dựng, đáp ứng nhu cầu du lịch văn hóa, đặc biệt là văn hóa tâm linh vùng Huế.
Đồng thời, dựa trên những kết quả nghiên cứu về đặc điểm của các đàn miếu và nghi
lễ đại tự triều Nguyễn ở Huế, luận án sẽ đƣa ra một số đề xuất hƣớng bảo tồn và phát
huy giá trị các đàn miếu đại tự trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt là khi các nghi
thức tế đại tự của triều Nguyễn hiện đang đƣợc phục dựng ở những quy mô khác
nhau và có nhiều ý kiến khác nhau về việc phục dựng này.
Từ những ý nghĩa trên, tác giả chọn vấn đề “Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn
ở Huế (1802-1945): sự hình thành và nghi thức tế tự” làm đề tài luận án Tiến sĩ
chuyên ngành Lịch sử Việt Nam.
4
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế,
bao gồm: đàn Nam Giao, các miếu thờ tổ tiên của họ Nguyễn trong khu vực
Hoàng thành Huế (Triệu Tổ Miếu, Thái Tổ Miếu, Thế Tổ Miếu và Hƣng Tổ Miếu)
và đàn Xã Tắc, cùng các nghi lễ tế tự tƣơng ứng, bao gồm lễ tế Giao, lễ tế miếu và
lễ tế Xã Tắc.
Không gian nghiên cứu của đề tài là tại Huế, tập trung chủ yếu ở khu vực đàn Nam
Giao, đàn Xã Tắc và các miếu thờ của triều Nguyễn trong Hoàng thành Huế.
Phạm vi nghiên cứu về mặt thời gian của đề tài là quá trình hình thành và
phát triển của các đàn miếu đại tự triều Nguyễn tại Huế từ khi mới lập nên triều đại
cho đến khi kết thúc (1802-1945). Tuy nhiên, sự hình thành của các đàn miếu đại tự
của triều Nguyễn có sự kế thừa từ các hình thức đàn miếu đại tự cùng loại của các
triều đại trƣớc nên luận án sẽ có phần sơ khảo về lịch sử hình thành và phát triển
của các hình thức đàn miếu đại tự dƣới các triều đại trƣớc Nguyễn ở Việt Nam. Mặt
khác, các đàn miếu đại tự hiện vẫn đang đƣợc bảo tồn và phát huy giá trị cùng với
những hoạt động văn hóa đặc sắc. Vì vậy, luận án cũng sẽ tìm hiểu về các đàn miếu
đại tự và hoạt động nghi lễ trong thời gian từ sau 1945 đến thời điểm hoàn tất luận
án (cuối năm 2015) để có thêm cơ sở cho những đề xuất hƣớng nghiên cứu trong
tƣơng lai.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Nhìn chung, đến nay đã có một số công trình nghiên cứu về các đàn miếu
đại tự và những nghi lễ liên quan dƣới triều Nguyễn. Tuy nhiên, các công trình
này chỉ dừng lại ở việc mô tả từng đối tƣợng riêng lẻ hoặc đề cập đến đối tƣợng ở
những khía cạnh và mức độ nhất định. Trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu của
những ngƣời đi trƣớc, luận án sẽ tiếp tục đi sâu tìm hiểu cơ sở của sự ra đời, quá
trình hình thành và phát triển qua các thời kỳ trong lich sử cũng nhƣ các đặc điểm
của các đàn miếu và nghi lễ đại tự triều Nguyễn ở Huế, từ đó làm rõ ý nghĩa và vai
trò của các công trình đàn miếu và nghi lễ đại tự đối với triều đại này trong lịch sử
Việt Nam.
5
Dƣới nhiều tác động của bối cảnh chính trị, xã hội khác nhau, các đàn miếu
và nghi lễ đại tự triều Nguyễn ở Huế hiện đã và đang đƣợc bảo tồn, phát huy giá trị
tích cực trong bối cảnh mới. Quy mô và nhiều yếu tố gắn liền với chúng nhƣ trình
tự nghi thức, trang phục, đồ tự khí và lễ vật cúng tế cũng có nhiều thay đổi nhằm
thích nghi với hoàn cảnh hiện nay. Kết quả nghiên cứu của luận án cũng nhằm góp
thêm cơ sở khoa học để đảm bảo sự cân bằng giữa mục tiêu bảo tồn tính chân xác
của di sản với việc phát huy giá trị di sản văn hóa phục vụ phát triển du lịch một
cách bền vững.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt đƣợc những mục đích nêu trên, luận án cần tập hợp thành hệ thống
những thông tin liên quan đến lịch sử hình thành, việc quy hoạch và xây dựng
đàn miếu đại tự thời Nguyễn tại Huế, tìm hiểu các cơ quan tham gia vào quá
trình chuẩn bị, tổ chức nghi lễ đại tự, âm nhạc và múa, trang phục, văn tế, trình
tự nghi thức... để qua đó phân tích, đánh giá những đặc điểm của các đàn miếu
và nghi lễ đại tự triều Nguyễn, ý nghĩa cũng nhƣ vai trò của chúng đối với đời
sống văn hóa tinh thần của triều đại này từ 1802-1945.
Luận án cũng cần có sự tham khảo để so sánh, đối chiếu với những hình
thức tƣơng tự ở một số nƣớc đồng văn khác trong khu vực, rút ra những nét đặc
trƣng của triều Nguyễn nhìn từ các đàn miếu và nghi lễ đại tự ở Huế.
Bên cạnh đó, luận án cũng cần tiếp tục khảo sát tình hình bảo tồn đàn miếu
và thực hành nghi lễ sau khi triều Nguyễn cáo chung năm 1945 cũng nhƣ những
biến đổi trong cách tổ chức, thực hành văn hóa và tác động tâm lý xã hội từ việc
tham gia nghi lễ để tìm hiểu ý nghĩa, bản chất của những nghi lễ phục dựng hiện
nay nhằm đƣa ra những đề xuất định hƣớng cho việc bảo tồn và phục dựng các nghi
lễ đại tự trong bối cảnh mới dựa trên sự tôn trọng lịch sử và thể hiện nét đặc trƣng
văn hóa đặc sắc của địa phƣơng.
4. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu
Nguồn tƣ liệu có tính quyết định đến sự thành công của đề tài này bao gồm
các loại thƣ tịch của triều Nguyễn và các công trình nghiên cứu về văn hóa, lịch
6
sử, địa lý...Ngoài ra còn có các luận văn, các loại tạp chí, các bài viết của các tác
giả trong và ngoài nƣớc về tôn giáo và nghi lễ và các tài liệu thu đƣợc từ khảo sát
thực địa.
Trƣớc hết, có thể kể đến nguồn tƣ liệu phong phú, gồm các bộ sử đồ sộ của
Quốc sử quán và Nội Các triều Nguyễn mang tính biên niên, ghi chép các sự kiện
liên quan đến chính sự, chế độ, điển chế,.. v.v..nhƣ: Đại Nam thực lục, Khâm định
Đại Nam hội điển sự lệ, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên, Đại Nam
thực lục chính biên đệ lục kỷ phụ biên, Đại Nam thực lục Chính biên đệ thất kỷ,
Đồng Khánh Khải Định chính yếu và các châu bản triều Nguyễn có liên quan đến
đề tài; hoặc các loại tƣ liệu về địa chí nhƣ bộ Đại Nam nhất thống chí (một bộ
biên soạn đời Tự Đức năm 1865-1882; ngoài ra còn có bộ Đại Nam nhất thống chí
do Quốc sử quán đời Duy Tân biên soạn, chỉ có các tỉnh Trung kỳ và đƣợc khắc in
năm 1909. Các bản này đƣợc dịch sang tiếng Việt và tái bản vào các năm 1960,
1969, 2006….)
Ngoài ra còn có một số công trình khảo cứu trực tiếp về nghi lễ đại tự
triều Nguyễn trƣớc và sau khi triều Nguyễn cáo chung, nhƣ tạp chí Bulletin des
Amis du Vieux Hué (BAVH / Những ngƣời bạn cố đô Huế) của Hội đô thành hiếu
cổ (1914-1944) hoặc tác phẩm của những ngƣời trực tiếp chứng kiến nghi lễ đại tự
thời Nguyễn nhƣ Lễ tế Nam Giao của Hồng Hoài Lê Văn Hoàng (1972) hoặc luận
án Sự tích đàn Nam Giao và các cuộc lễ tế Giao tại Huế (1973) của tác giả Lê
Văn Phƣớc.
Bên cạnh đó còn có nhiều tác phẩm khác viết về nguồn gốc tƣ tƣởng, phong
tục, tập quán, âm nhạc, nghi thức, sự ảnh hƣởng của Nho giáo Trung Quốc v..v..liên
quan đến vấn đề đƣợc bàn đến trong nội dung đề tài, tiêu biểu có Những đại lễ và vũ
khúc của vua chúa Việt Nam của Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề (in lần đầu năm
1968), Việt Nam phong tục của Phan Kế Bính (xuất bản lần đầu tiên năm 1915, tái
bản năm 2005), Nho giáo của Trần Trọng Kim (in lần đầu vào những năm 1929-
1933, tái bản năm 1992), Lịch sử tư tưởng phương Đông và Việt Nam của Nguyễn
Minh Tƣờng (2012).
7
Ngoài ra còn có các bài viết của nhiều tác giả trên các Tạp chí Văn hóa Nghệ
thuật, Nghiên cứu Lịch sử, Nghiên cứu Huế, Huế Xưa & Nay, Nghiên cứu và Phát
triển, các kỷ yếu Hội thảo về triều Nguyễn,v.v.. viết về những khía cạnh liên quan
đến đề tài nghiên cứu của luận án.
Luận án cũng tham khảo các công trình nghiên cứu, luận văn, luận án của
các nhà nghiên cứu nƣớc ngoài nhƣ Li Tana, Yu Insun…; các kỷ yếu hội thảo, hội
nghị hoặc các bài viết đã đƣợc đăng tải trên các Tạp chí uy tín hay đã đƣợc xuất bản
của một số tác giả trong và ngoài nƣớc. Đặc biệt, có một số bài viết phân tích khá
sâu về tôn giáo và nghi lễ của các triều đình ở Việt Nam, nhƣ: “Religion and Ritual
in the Royal Courts of Đại Việt” của John K. Whitmore đăng trong Asia Research
Institute Working Paper Series No. 128 (Loạt bài viết của Viện Nghiên cứu châu Á,
Đại học Quốc gia Singapore, tháng 12/2009) hoặc những mô tả của các nhân chứng
là ngƣời nƣớc ngoài có dịp tiếp xúc hoặc chứng kiến các hoạt động tế tự của triều
đình Nguyễn. Những bài viết này cung cấp một cách nhìn nhận và đánh giá tính
chất đặc trƣng các Nhà nƣớc phong kiến ở Việt Nam dƣới nhiều góc độ khác nhau,
trong đó có nhiều khía cạnh liên quan đến đề tài.
Các nguồn tƣ liệu thu đƣợc từ khảo sát thực địa tại một số di tích có liên
quan (đàn Nam Giao, đàn Xã Tắc, các miếu thờ hoàng gia) ở trong và ngoài nƣớc,
tƣ liệu khảo cổ, các sƣu tập hiện vật bảo tàng và thông tin từ phỏng vấn nhân chứng
trong quá trình khảo sát, điền dã cũng đem lại những cơ sở khoa học đáng tin cậy
cho đề tài.
Ngoài những tài liệu trong và ngoài nƣớc có liên quan đến đề tài nêu trên,
chúng tôi cũng tiếp cận, khai thác một số tài liệu đăng tải trên internet. Có thể nói
những tài liệu này hết sức phong phú, đa dạng và mức độ đề cập cũng rất khác
nhau. Do đó chúng tôi sẽ phân loại và thẩm định kỹ lƣỡng trƣớc khi sử dụng để
nghiên cứu đề tài.
4.2 Phương pháp nghiên cứu
Để đáp ứng yêu cầu thực hiện đề tài thuộc lĩnh vực khoa học xã hội, phƣơng
pháp chuyên ngành khoa học lịch sử là phƣơng pháp chủ yếu đƣợc áp dụng trong
luận án, kết hợp với phƣơng pháp logic để trình bày một cách hệ thống quá trình
hình thành, phát triển, suy tàn và đƣợc phục hồi của các đàn miếu và nghi lễ đại tự
8
triều Nguyễn ở Huế, đồng thời làm rõ tính kế thừa từ các triều đại trƣớc trong lịch
sử Việt Nam. Đồng thời, kết quả nghiên cứu bằng các phƣơng pháp này cũng giúp
đánh giá sự ảnh hƣởng của tƣ tƣởng Nho giáo trong việc xây dựng và củng cố
quyền lực của triều Nguyễn thông qua hình thức các đàn miếu và nghi lễ đại tự ở
Huế và vai trò của chúng đối với sự tồn tại và phát triển của vƣơng triều Nguyễn.
Trong quá trình phân tích và đánh giá, luận án cũng chú ý vận dụng các
phƣơng pháp liên ngành, nhƣ các phƣơng pháp phân tích thƣ tịch, nghiên cứu kết
quả khảo cổ học, phƣơng pháp thống kê - phân loại và so sánh, đối chiếu các loại
bảng biểu, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ, ảnh chụp, v..v..để tìm hiểu những thông tin chi
tiết về những đặc điểm của các đàn miếu đại tự và thực hành nghi lễ liên quan
dƣới triều Nguyễn tại Huế. Đặc biệt, những phƣơng pháp này đƣợc kết hợp với
phƣơng pháp so sánh lịch sử đồng đại và lịch đại để tìm ra những nét đặc trƣng
của các đàn miếu và nghi lễ đại tự triều Nguyễn so với các hình thức tƣơng tự
của Trung Quốc và Hàn Quốc, thể hiện bản sắc và tinh thần tự tôn dân tộc trong
quá trình tiếp thu những ảnh hƣởng văn hóa từ bên ngoài một cách chủ định và
có chọn lọc, làm rõ tính mục đích của việc thiết lập các đàn miếu đại tự triều
Nguyễn ở Huế.
Phƣơng pháp hệ thống-cấu trúc kết hợp với phƣơng pháp nghiên cứu liên
ngành bao gồm điền dã dân tộc học, phỏng vấn nhân chứng, quan sát và quan sát
tham dự trong nhân học văn hóa cho phép tác giả luận án tìm hiểu những tác động
của bối cảnh chính trị, xã hội đối với quá trình hình thành đàn miếu và nghi lễ
đại tự. Mặc khác, kết quả nghiên cứu cũng giúp tác giả tìm hiểu vai trò của các
đàn miếu và nghi lễ phục dựng hiện nay đối với cộng đồng trong sự thích ứng
với bối cảnh văn hóa, chính trị, xã hội ở Việt Nam giai đoạn hiện nay.
Trong việc xử lý tƣ liệu, tác giả sẽ cố gắng bám vào tƣ liệu gốc và các tƣ liệu
dịch thuật bởi các cơ quan chuyên môn có uy tín. Tuy nhiên, trong trƣờng hợp tác
giả không thể tiếp cận tƣ liệu gốc mà phải trích dẫn lại, tác giả đều nói rõ nguồn.
5. Đóng góp của luận án
5.1 Về mặt thực tiễn, luận án sẽ cung cấp một cách đánh giá tổng quan về đề
tài thông qua việc hệ thống hóa các thông tin thu thập đƣợc trong quá trình nghiên
cứu tƣ liệu và điền dã, góp phần phục vụ cho công tác nghiên cứu trong lĩnh vực
9
văn hóa vật thể và phi vật thể liên quan đến các đàn miếu và nghi lễ đại tự. Việc
hiểu đúng và hiểu sâu về các đàn miếu và nghi thức đại tự triều Nguyễn sẽ góp phần
đƣa ra định hƣớng và phƣơng pháp đúng đắn trong việc bảo tồn và phát huy các giá
trị di sản đã đƣợc công nhận là di sản văn hóa quốc gia cấp đặc biệt và là di sản văn
hóa thế giới.
5.2 Về mặt lý thuyết, kế thừa các kết quả của các nhà nghiên cứu đi trƣớc,
khắc phục những điểm còn hạn chế và kết hợp với cách kiến giải dựa trên sự phân
tích, tổng hợp các thông tin thu đƣợc từ quá trình nghiên cứu tƣ liệu, luận án sẽ đƣa
ra cách nhìn mới về các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế. Mặc dù đề tài và đối
tƣợng nghiên cứu không mới và đã đƣợc nhiều tác giả đề cập tới từ đầu thế kỷ,
nhƣng việc vận dụng cách tiếp cận liên ngành kết hợp với kỹ năng lập luận, phân
tích, luận án sẽ góp phần chứng minh các đàn miếu và nghi lễ đại tự triều Nguyễn ở
Huế cũng là hình thức thể hiện tính chính thống của quyền lực nhà vua dƣới thời
quân chủ. Nói cách khác, nghi lễ đại tự cũng chính là nghi lễ của quyền lực. Mọi chi
tiết về quy hoạch và xây dựng, trang trí kiến trúc hay những thủ tục trình tự nghi
thức, nhạc, múa, trang phục, lễ phẩm v..v...của các đàn miếu và nghi lễ đại tự đều
nhằm mục đích thể hiện quân quyền, cùng với đó là thần quyền trong một ý nghĩa
tâm linh huyền bí mà nghi lễ đem lại.
5.3 Bên cạnh đó, luận án cũng sử dụng những thông tin tƣ liệu để so sánh và
khảo sát thực tế để xác định đâu là những nét bản sắc của triều Nguyễn thể hiện bản
lĩnh và sự sáng tạo trong cách vận dụng tƣ tƣởng Nho giáo Trung Quốc vào điều
kiện thực tế của Việt Nam và kế thừa các triều đại trƣớc. Đó chính là những nét đặc
trƣng thể hiện tinh thần tự tôn dân tộc của các vua Nguyễn, đặc biệt là vào buổi đầu
của triều đại. Điều này thể hiện qua việc quy hoạch và xây dựng đàn miếu có phần
khác với Trung Quốc và Hàn Quốc, cũng nhƣ việc thực hành nghi lễ tế tự một cách
quy củ. Mặt khác, kết quả điền dã thực địa cho thấy trong số các nghi lễ đại tự của
triều Nguyễn, chỉ có lễ tế miếu - hay nói đúng hơn là lễ kỵ giỗ của Nguyễn Phúc
Tộc, đã và vẫn đang đƣợc dòng họ tổ chức trong gia đình và ở các tông miếu hoàng
gia tại hoàng cung, thể hiện truyền thống thờ cúng tổ tiên, mang đậm nét địa
phƣơng và bản sắc của một triều đại. Nghi lễ này cho dù có nhiều thay đổi nhƣng
10
vẫn tồn tại nhƣ một cách thích ứng trƣớc áp lực của sự toàn cầu hóa và hiện đại hóa
trong bối cảnh hiện nay và vẫn giữ nguyên những giá trị văn hóa và tinh thần.
6. Bố cục của luận án
Ngoài phần Mở đầu (10 trang), Kết luận (4 trang), Danh mục các công trình
khoa học liên quan đã công bố (3 trang), Tài liệu tham khảo (14 trang), Bảng Chú giải
một số từ vựng (5 trang), Phụ lục (70 trang), nội dung chính của luận án đƣợc chia làm
4 chƣơng:
Chƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu (17 trang)
Chƣơng 2: Sự hình thành các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
(39 trang)
Chƣơng 3. Nghi lễ đại tự triều Nguyễn ở Huế (33 trang)
Chƣơng 4. Đàn miếu và nghi lễ đại tự triều Nguyễn ở Huế: những đặc trƣng
và vấn đề bảo tồn, phát huy giá trị (32 trang)
11
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1 Tình hình nghiên cứu
1.1.1 Các công trình nghiên cứu trước năm 1975
Trƣớc hết, liên quan trực tiếp đến đề tài của luận án có các công trình nghiên
cứu đã đƣợc thực hiện và ấn hành từ những năm triều Nguyễn chƣa chấm dứt, tiêu
biểu là bộ Bulletin des Amis du Vieux Hué (BAVH/Những ngƣời bạn cố đô Huế)
của Hội đô thành hiếu cổ với nhiều bài viết của L. Cadière [147]; [148]; [149];
Nguyễn Đình Hoè [151], R. Orband [153]; [154]; [155]; [156], H. De Pirey [157],
A. Sallet [158]...cung cấp nhiều thông tin tƣ liệu đáng quý về các đối tƣợng của đề
tài, trong đó có nhiều bài viết mô tả cụ thể về đàn Nam Giao và nghi thức tế Giao
hoặc đàn Xã Tắc thời Nguyễn kèm theo bản vẽ hoặc ảnh chụp, đƣợc xem là cơ sở
cho việc phục dựng các lễ tế Giao hiện nay.
Mặc dù các kết quả nghiên cứu khác ở giai đoạn trƣớc 1975 chỉ mang tính
chất hồi ký, mô tả, nhƣng cũng rất có giá trị tham khảo bởi phần lớn các tác giả là
những trí thức, những nhân chứng lịch sử hoặc những ngƣời có nhiều cơ hội để tiếp
cận và kiểm chứng thực tế về những nội dung liên quan đến đề tài. Nổi bật trong số
đó có Những đại lễ và vũ khúc của vua chúa Việt Nam của Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ
Trọng Huề [37]. Có thể nói đây là tác phẩm tập hợp đƣợc khá đầy đủ những thông
tin từ các nguồn tài liệu khác nhau về các đại lễ quan trọng nhất dƣới thời các triều
đại quân chủ ở Việt Nam cùng những chi tiết về nghi thức, âm nhạc, kèm theo một
số hình ảnh minh họa. Tuy nhiên, tác phẩm này chỉ đề cập đến việc lập đàn Xã Tắc
(vào đời Trần) đúng một câu trong mục “Lễ Tịch điền qua các triều đại”, ngoài ra
không có thông tin gì thêm về lễ tế đàn Xã Tắc dƣới thời Trần và các triều đại khác,
kể cả triều Nguyễn. Thông tin về lễ tế miếu trong tác phẩm này cũng khá sơ sài và
hoàn toàn không mô tả vị trí hay đặc điểm kiến trúc của các công trình. Các tác giả
chỉ nhắc đến lễ tế kỵ Thái Miếu nhà Lê và so sánh với lễ tế kỵ Thái Miếu chúa
Trịnh: lễ vật tế ở Thái Miếu vua Lê đơn giản trong khi lễ vật tế ở Thái Miếu chúa
12
Trịnh quá to tát. Riêng đối với lễ tế miếu thời Nguyễn, tác phẩm đƣa ra những
thông tin khá chi tiết về lễ vật tế, trình tự tổ chức và các nghi thức, kèm theo nội
dung nhạc tế nhƣng chỉ đề cập đến lễ tế kỵ ở Thế Miếu nhà Nguyễn. Trong tác
phẩm này, các tác giả đã cho rằng lễ tế kỵ ở Thế Miếu nhà Nguyễn có múa nhạc,
nhƣng theo quy chế triều Nguyễn, chỉ có lễ tế hƣởng (tế theo mùa) ở miếu mới có
múa Bát dật.
Bên cạnh đó, thông tin về các lễ tế đƣợc tổ chức sau khi triều Nguyễn đã
cáo chung cũng rất cần thiết để giúp tác giả luận án hiểu thêm vai trò của các đàn
miếu và những nghi thức tế đại tự triều Nguyễn đối với đời sống văn hóa tinh thần
vùng Huế, đặc biệt là sau khi triều đại quân chủ đã chấm dứt. Các tác phẩm viết về
hoạt động này có Lễ tế Nam Giao của Hồng Hoài Lê Văn Hoàng [48] hoăc Sự tích
đàn Nam Giao và các cuộc lễ tế Giao tại Huế của Lê Văn Phƣớc [75] với nhiều
thông tin chi tiết mô tả kiến trúc và cách thức tổ chức nghi lễ tế Giao. Bản thân tác
giả Lê Văn Hoàng từng là Tùng sự tại Ngự tiền Văn phòng của chính phủ Bảo Đại
từ năm 1932 đến năm 1945 với công việc chính là chuyên lo về nghi lễ. Vì thế,
ông không chỉ có cơ hội lƣu giữ nhiều tài liệu mà còn đƣợc mắt thấy tai nghe,
chứng kiến các lễ tế Giao trong những năm còn tại chức.
Tác giả Lê Văn Phƣớc tuy không phải là một nhân chứng lịch sử của lễ tế
Giao dƣới triều Nguyễn nhƣ ông Lê Văn Hoàng nhƣng lại là chứng nhân trƣớc sự
suy tàn của di tích triều Nguyễn, trong đó có đàn Nam Giao, đồng thời cũng là
ngƣời có may mắn đƣợc tiếp cận với các nhân chứng và với nhiều nguồn tƣ liệu
phong phú từ những ngƣời trong hoàng tộc, những linh mục ở các dòng tu có
nhiều tƣ liệu quý và các quản thủ bảo tàng. Tác giả này cũng đƣợc chứng kiến và
mô tả trong luận văn khá chi tiết về lễ tế tại đàn Nam Giao năm 1972 do Nguyễn
Phúc Tộc (đứng đầu là bà Từ Cung1
mẹ vua Bảo Đại) tổ chức với mục đích “tế
cáo Trời Đất, cầu quốc thái dân an và tạ ơn Trời Đất về việc họ đã trùng tu được
một phần Đại nội sau những đổ nát vì thời gian và vì biến cố Mậu Thân” [75; tr.
175]. Trong nội dung chính ở luận văn của Lê Văn Phƣớc, hầu hết những mô tả
1
Bà tên thật là Hoàng Thị Cúc, đƣợc phong là Đoan Huy Hoàng thái hậu dƣới thời vua Bảo Đại, dân gian còn gọi bà là “Đức
Từ” hoặc “Đức Từ Cung”.
13
chi tiết về cách thức tổ chức nghi lễ, các loại lễ phẩm và đồ thờ cùng vị trí sắp xếp
các án thờ, các nghi tiết về đạo ngự, tế phục và vũ nhạc đều đƣợc tổng hợp từ các
nguồn sử liệu và mô tả trong Bulletin des Amis du Vieux Hué (1914 và 1936).
Điểm giá trị của luận văn này là phần ghi chép của tác giả về đàn Nam Giao từ sau
năm 1945, cung cấp những thông tin cụ thể về sự hủy hoại, xuống cấp của các
công trình kiến trúc, vài hoạt động trùng tu và hiện trạng của công trình này vào
thời điểm 1972. Quan trọng hơn, tác giả luận văn đã có những phân tích, nhận
định bƣớc đầu về vai trò của lễ tế Giao trong việc cai trị của các vua nhà Nguyễn.
Tác giả cũng đã phân kỳ hoạt động tế Giao dƣới triều Nguyễn làm hai giai đoạn:
việc tế Giao dƣới các vua đầu triều Nguyễn (tính cho đến hết thời kỳ của vua Tự
Đức) và việc tế Giao dƣới thời Pháp đô hộ. Từ những nhận xét về tình hình ở triều
đình Huế trong bối cảnh chính trị sau thời Tự Đức, sự mất chủ quyền toàn diện
của triều Nguyễn, số phận của nhà vua với thuyết Thiên mệnh và tầm quan trọng
của lễ tế Giao, tác giả đã đi đến kết luận: “quan niệm Thiên mệnh không còn có
chỗ đứng trong môi trường mà chính các vị vua cũng không thể định đoạt được số
phận của mình” và “khi các vị vua đã đánh mất Thiên mệnh của mình, thì tế Giao
chỉ còn là hình thức mà thôi” [75; tr. 162]. Từ đó, tác giả đi đến một nhận xét
khác: “Người Pháp muốn lợi dụng lễ tế Giao như là một thứ lợi khí để giúp họ dễ
dàng cai trị xứ sở nầy hơn” [75; tr. 164] và việc vua Thành Thái cho giảm bớt, chỉ
cử hành lễ tế Giao 3 năm một lần là vì “vua Thành Thái không muốn cho người
Pháp lợi dụng một cuộc lễ cổ truyền Việt Nam để làm lợi khí cho họ trong việc cai
trị?” [75; tr. 164].
Vấn đề mà Lê Văn Phƣớc nêu trong luận văn cũng chính là vấn đề mà tác
giả luận án cũng đề cập đến trong quá trình phân tích vai trò, ý nghĩa của các đàn
miếu và nghi lễ đại tự (trong đó có đàn Nam Giao và lễ tế Giao) đối với triều
Nguyễn. Tuy nhiên, cách đặt vấn đề của Lê Văn Phƣớc chƣa thật làm rõ mối quan
hệ biện chứng giữa việc tế Giao và chủ trƣơng của các vua triều Nguyễn, đặc biệt
là các vua đầu triều, trong việc củng cố và khẳng định quyền lực cũng nhƣ tính
chính thống của mình thông qua việc xây dựng đàn miếu và thực hiện các nghi lễ
theo tƣ tƣởng Thiên mệnh một cách có chủ ý. Tác giả Lê Văn Phƣớc mới chỉ tập
14
trung phân tích mối quan hệ giữa nguồn gốc của lễ tế Giao (liên quan đến Nho
giáo và tƣ tƣởng Thiên mệnh) và sự suy giảm vai trò của các vua cuối triều
Nguyễn thời thuộc Pháp chứ chƣa có sự đánh giá tổng quan về mọi khía cạnh để
cho thấy tính mục đích trong quá trình xây dựng và củng cố quyền lực một cách
chủ động của các vua triều Nguyễn thông qua việc hoàn thiện các đàn miếu và
nghi lễ đại tự.
Mặt khác, tác giả Lê Văn Phƣớc đặc biệt ghi nhận sự ảnh hƣởng của tƣ
tƣởng Nho giáo Trung Quốc dƣới thời Nguyễn nhìn từ hoạt động tế Giao nhƣng
không nêu đƣợc sự tiếp thu tích cực, có chọn lọc của các vua Nguyễn. Điều này đã
đƣợc tác giả luận án chú trọng phân tích và chứng minh trong nội dung luận án, từ
đó tìm ra những đặc trƣng của triều đại này trong sự hình thành các đàn miếu đại
tự ở Huế và thực hành nghi lễ. Ngoài ra còn có một số bài viết trên các tập san
chuyên đề nhƣ Sử Địa (Sài Gòn), Đại học (Huế) và một số công trình của các tác
giả nhƣ “Bàn về tế Giao” của tác giả Chƣơng Dân [26], “Mấy lời bàn về sự thờ Trời
tế Giao ở nƣớc Nam ta” của tác giả Nguyễn Cƣ [25], “Trai Cung” của tác giả Từ
Lâm [63], “Lƣợc khảo về tế Nam Giao” của tác giả Tiên Đàm [32], “Lễ tế Giao”
của Bửu Kế [57]..v..v…Có thể thấy hầu hết các bài viết đều chỉ tập trung nói về đàn
Nam Giao và lễ tế Giao chứ chƣa có công trình nào nghiên cứu riêng về các tông
miếu triều Nguyễn hoặc đàn Xã Tắc. Mặt khác, những bài viết trên đây cũng chỉ
cung cấp thông tin sơ lƣợc về đàn Nam Giao và lễ tế Giao, chƣa có những phân
tích, đánh giá về vai trò và ý nghĩa của chúng đối với triều Nguyễn nhìn từ góc độ
chính trị, xã hội và văn hóa. Tuy nhiên, các bài viết này cũng có một vài thông tin
đáng chú ý ghi đƣợc vào thời điểm 1942 về Trai cung và những chứng tích còn sót
lại nhƣ: dấu tích kiến trúc, thẻ bằng đá treo trên cây thông..v..v..
1.1.2 Các công trình nghiên cứu từ năm 1975 đến nay
Sau năm 1975- thời kỳ Việt Nam vừa thống nhất đất nƣớc, tình hình chính trị
- xã hội còn chƣa ổn định, liên tục phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức. Đặc
biệt là từ 1975-1995, Việt Nam trải qua nhiều giai đoạn: khắc phục hậu quả chiến
tranh, khôi phục kinh tế, bƣớc đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội (1975-1986), bắt đầu
thực hiện đổi mới (1986-1990) và tiếp tục đổi mới, đƣa đất nƣớc ra khỏi tình trạng
15
khủng hoảng kinh tế - xã hội (1991-1995). Trong bối cảnh ấy, việc nhìn nhận hoặc
đánh giá về triều Nguyễn nói chung và các vấn đề văn hóa, xã hội dƣới triều
Nguyễn cũng có những ảnh hƣởng nhất định. Căn cứ vào sự thay đổi về cơ bản
trong cách nhìn nhận, đánh giá về triều Nguyễn sau thời kỳ đổi mới (1986), có thể
tạm chia thời kỳ sau năm 1975 đến nay ra làm 2 giai đoạn.
a. Giai đoạn từ năm 1975-1986
Ở giai đoạn này, mặc dù việc tế tự không bị chính thức cấm đoán, nhƣng với
quan điểm coi triều Nguyễn là “thối nát”, “phản động” [76; tr. 31, 308, 311] và chủ
trƣơng bài trừ mê tín dị đoan, nhiều hình thức sinh hoạt tín ngƣỡng bị đình trệ trong
khoảng thời gian từ 1975-1985 mà "đỉnh cao là việc rỡ bỏ các am miếu thờ tự trong
dân gian vùng Huế diễn ra vào năm 1985" [136; tr.236].Trƣớc tình hình đó, việc
nghiên cứu về triều Nguyễn nói chung và về các đàn miếu hay nghi thức tế đại tự ở
Huế giai đoạn này gần nhƣ không có gì tiến triển.
b. Giai đoạn từ năm 1986 đến nay
Đây là giai đoạn có nhiều chuyển biến lớn về mặt chủ trƣơng, chính sách
của Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam, đặc biệt là trong lĩnh vực văn hóa. Điều này
mở ra nhiều hƣớng phát triển cả về hoạt động thực tiễn lẫn hoạt động nghiên
cứu, học thuật.
Tháng 11 năm 1987, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết về đổi mới văn hóa, tuy
nhiên, phải đến năm 1989 khi Bộ Văn hóa (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch)
ban hành Quy chế mở hội truyền thống, thiết lập một cơ sở pháp lý cho việc mở lại
các lễ hội truyền thống, các lễ tế (nghi thức chủ yếu trong lễ hội) mới thực sự đƣợc
phục hồi [15; tr.10-15]
Năm 1990, việc làm vàng mã vốn bị cấm đoán đã đƣợc phục hồi trên cả
nƣớc [24; tr.7]. Năm 1992, Việt Nam tham gia chƣơng trình Thập kỷ thế giới phát
triển văn hóa do Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc phát động từ năm 1986. Điều này
phù hợp với chiến lƣợc phát triển văn hóa ở Việt Nam trong quá trình đổi mới, đem
lại cơ hội cho việc bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống của dân tộc, khôi phục
lại các nếp sống, phong tục lành mạnh truyền thống [122; tr.72-76]. Đồng thời,
16
nhiều chƣơng trình nghiên cứu, hội nghị, hội thảo đã đƣợc tổ chức nhằm đánh giá
lại triều Nguyễn. Bắt đầu từ giai đoạn này, việc nghiên cứu về triều Nguyễn có phần
đi vào chiều sâu nhƣng vẫn chƣa có một công trình đánh giá tổng thể về kiến trúc
và nghi lễ tế đại tự của triều Nguyễn ở Huế. Có thể điểm lại một số kết quả nghiên
cứu liên quan trực tiếp đến đề tài chủ yếu thuộc những nhóm tài liệu sau đây:
* Nhóm công trình nghiên cứu về triều Nguyễn và di sản kiến trúc đàn
miếu ở Huế
Năm 1994, Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trƣờng đã chọn chủ đề Khảo
cứu kinh tế và tổ chức bộ máy nhà nước triều Nguyễn, những vấn đề đặt ra trong
thực tiễn đổi mới đất nước hiện nay làm đề tài khoa học độc lập cấp Nhà nƣớc (mã
số KX-ĐL: 94-16), do Đỗ Bang làm chủ nhiệm đề tài đã đánh dấu sự vào cuộc
chính thức về mặt Nhà nƣớc trong việc nghiên cứu khách quan và toàn diện hơn về
triều Nguyễn [12].
Cùng chung mối quan tâm về triều Nguyễn giai đoạn này còn có nhiều nhà
nghiên cứu với những công trình quy mô khác nhau, trong đó có thể kể đến: Tín
ngưỡng dân gian Huế của Trần Đại Vinh năm 1995 [134], Kinh thành Huế của
Phan Thuận An năm 1999 [1], Phú Xuân - Huế từ đô thị cổ đến hiện đại (1999), bao
gồm nhiều bài viết của các tác giả do UBND thành phố Huế tập hợp [119], Những
vấn đề lịch sử về triều đại cuối cùng ở Việt Nam của nhiều tác giả do Trung tâm
Bảo tồn Di tích Cố đô Huế và Tạp chí Huế - Xưa & Nay xuất bản năm 2002 [73],
Tuyển tập những bài nghiên cứu về triều Nguyễn của nhiều tác giả do Sở Khoa học,
Công nghệ và Môi trƣờng Thừa Thiên Huế phối hợp với Trung tâm Bảo tồn Di tích
Cố đô Huế xuất bản năm 2002 [92]. Tuy nhiên, hầu hết các tài liệu này đều ít đề cập
đến những đối tƣợng nghiên cứu của đề tài.
Đáng lƣu ý có tác phẩm Dấu ấn Nguyễn trong văn hóa Phú Xuân của Phan
Thanh Hải, xuất bản năm 2002 [43]. Đây là tập hợp nhiều bài khảo cứu về triều
Nguyễn và văn hóa Huế, trong đó có những bài viết liên quan trực tiếp đến đề tài với
nhiều thông tin có giá trị.Với kết quả khảo sát thực tế tại Trung Quốc, tác giả là ngƣời
đầu tiên đƣa ra những nhận xét so sánh giữa đàn tế Trời thời Minh-Thanh ở Bắc Kinh
và đàn tế của triều Nguyễn ở Huế. Theo tác giả, Thiên Đàn của Bắc Kinh nằm bên
17
trong kinh đô còn đàn Nam Giao của Huế nằm ở bên ngoài Kinh thành. Ở Bắc Kinh,
Thái Miếu và đàn Xã Tắc nằm đối xứng với nhau ở bên trong Hoàng thành theo
nguyên tắc “Tả tổ, hữu xã”. Còn ở Huế, tại vị trí tƣơng tự hoàn toàn là nơi thờ tổ, đàn
Xã Tắc nằm ở bên ngoài Hoàng thành [43; tr. 343-344].
Tác giả mô tả Thiên Đàn Bắc Kinh - một trong 4 đàn tế (Thiên Đàn, Địa
Đàn, Nhật Đàn, Nguyệt Đàn) thời Minh - Thanh ở Trung Quốc- đƣợc xây dựng ở
phía đông nam, bên trong Kinh thành Bắc Kinh. Đàn này có hai phần Nội Đàn và
Ngoại Đàn với 3 kiến trúc chính: điện Kỳ Niên (nơi các hoàng đế cúng thần ngũ
cốc), điện Hoàng Khung (nơi đặt bài vị của Ngọc Hoàng thƣợng đế) và đàn Viên
Khâu (nơi tổ chức lễ tế Trời của hoàng đế). Khu vực Trai cung của Thiên Đàn là
một tổng thể kiến trúc khép kín gồm hơn 60 gian, gian chính giữa đặt bức tƣợng vua
Càn Long. Có lẽ đây là công trình khảo cứu đầu tiên có sự so sánh giữa đàn tế Trời
triều Nguyễn ở Huế và đàn tế Trời triều Minh-Thanh ở Bắc Kinh. Những thông tin
mà tác giả cung cấp cho thấy đàn tế Trời của triều Minh-Thanh quy mô hơn đàn tế
của triều Nguyễn ở Việt Nam rất nhiều.
Dựa trên mô tả về đàn Nam Giao triều Nguyễn ở Huế với 3 tầng (một tầng
tƣợng trƣng cho Trời, một tầng tƣợng trƣng cho Đất, một tầng tƣợng trƣng cho Con
ngƣời), tác giả đã có lý khi cho rằng lối kiến trúc này “thể hiện mối quan hệ vừa có tính
cách biệt tương đối, vừa thống nhất trong mối liên kết có tính tuyệt đối” [43; tr. 358].
Theo nhận xét của tác giả, ở Trung Quốc, tế Giao đƣợc tổ chức riêng rẽ, trong đó yếu
tố Trời, Đất và các vị thần linh luôn đóng vai trò quan trọng và bao trùm lên tất cả:
“Trên thực tế ở Trung Quốc, giai cấp thống trị luôn luôn tìm cách đẩy xa khoảng cách
giữa thần linh và con người” [43; tr.358].
Liên quan đến việc quy hoạch kiến trúc và mối tƣơng quan giữa vị trí các công
trình với những yếu tố tự nhiên mang ý nghĩa triết lý phong thủy, tác phẩm Kinh thành
Huế của Phan Thuận An là một tác phẩm cung cấp những thông tin đầy đủ nhất về quá
trình hình thành Kinh thành Huế. Tác giả nhận xét: “...Với cách đưa kiến trúc Kinh
thành vào giữa các thực thể địa lý ở ngoại cảnh thiên nhiên.., chúng ta thấy việc quy
hoạch và xây dựng công trình kiến trúc này đã và đang tiểm ẩn một nội dung triết lý
thật sâu sắc” [1; tr. 123].
18
Trong bài khảo cứu của mình về “Tƣ tƣởng quy hoạch Kinh thành Huế dƣới
triều Gia Long” trong Huế-triều Nguyễn, một cái nhìn (2004), tác giả Trần Đức Anh
Sơn tiến thêm một bƣớc trong việc nghiên cứu về khía cạnh này và kết luận: “Việc
quy hoạch và kiến thiết Kinh thành Huế dưới triều Gia Long là một sự kết hợp tài
tình, khéo léo các yếu tố: lịch sử, Dịch lý và thuật phong thủy và tri thức khoa học...”
[93; tr. 63].
Cùng chung mối quan tâm đến đặc điểm quy hoạch của các di tích triều Nguyễn
ở Huế, tác giả Phan Thanh Hải cũng nhận định: “Ở Kinh đô Huế, ngoài trục (thần đạo)
của kinh đô chạy theo hướng Tây Bắc-Đông Nam, bên ngoài Kinh thành còn có một trục
chạy theo hướng Bắc-Nam, nối từ Kỳ Đài đến đàn Nam Giao. Chính trục thứ hai này
cùng với dòng sông Hương đã tạo nên sự liên kết rất chặt chẽ, hài hòa giữa kinh đô với
các công trình kiến trúc bên ngoài Kinh thành, nhất là miền lăng tẩm của hoàng gia ở
phía Tây và Tây-Nam” [43; tr. 344].
Các kết quả nghiên cứu trên đây là một trong những cơ sở giúp tác giả luận
án xem xét mối quan hệ giữa các đàn miếu đại tự triều Nguyễn với toàn bộ quần thể
di tích cố đô Huế và đặc điểm của các đàn miếu đại tự nhìn từ ý nghĩa triết lý trong
quy hoạch.
Riêng bài viết “Quy hoạch khu di tích đàn Xã Tắc-thực trạng và giải pháp”
của Nguyễn Việt Dũng [30] cung cấp thêm một số thông tin khá chi tiết về việc
quy hoạch đàn Xã Tắc để trùng tu, phục hồi sau một thời gian dài bị xuống cấp
nghiêm trọng.
Bên cạnh đó còn có nhiều công trình nghiên cứu là những Luận văn, Luận
án Tiến sĩ liên quan đến một số khía cạnh trong đối tƣợng nghiên cứu của đề tài.
Nổi bật trong số đó có Luận án Tiến sĩ về Quan xưởng ở Kinh đô Huế từ 1802 đến
1884 của Nguyễn Văn Đăng năm 2002 [36] đem lại nhiều thông tin bổ ích về các cơ
quan sản xuất, cung cấp các vật dụng của triều đình. Luận án Tiến sĩ về Vai trò của
bộ Công trong việc xây dựng kinh đô Huế dưới triều Nguyễn (giai đoạn 1802-1884)
của Phan Tiến Dũng năm 2005 [29] với những thông tin về việc xây dựng các công
trình đàn miếu dƣới triều Nguyễn, cung cấp những kết quả thống kê khoa học về số
lƣợng và hình thức các loại gạch, ngói xây dựng kiến trúc cung đình Nguyễn. Ngoài
19
ra còn có nhiều kết quả nghiên cứu đƣợc công bố tại các hội nghị, hội thảo khoa
học bàn về triều Nguyễn và đƣợc in thành kỷ yếu. Đó là kỷ yếu của các Hội thảo
về Những vấn đề văn hóa - xã hội thời Nguyễn (Viện Khoa học Xã hội tại thành
phố Hồ Chí Minh, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh tổ chức,
lần thứ nhất năm 1992, lần thứ hai năm 1995) [130]; [131], hội thảo khoa học
quốc gia về Nghiên cứu và giảng dạy lịch sử thời Nguyễn ở đại học, cao đẳng sư
phạm và phổ thông do trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội và Bộ Giáo dục Đào tạo tổ
chức năm 2002 [14], Hội nghị chuyên gia Đánh giá quỹ kiến trúc đô thị Huế do
UBND thành phố Huế tổ chức năm 2003 [120], Hội thảo khoa học về Chúa
Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ
XIX do UBND tỉnh Thanh Hóa và Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam tổ chức năm
2008 [121], Hội thảo về Thuận Hóa-Phú Xuân Thừa Thiên Huế-700 năm hình
thành và phát triển do Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Thừa Thiên Huế tổ chức năm
2010 [53], các Hội thảo Việt Nam học lần thứ nhất (1998), lần thứ hai (2004), lần
thứ 3 (2008), lần thứ 4 (2012), Hội thảo Văn hóa Huế, đặc điểm lịch sử và vấn đề
bảo tồn, phát triển do Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Thừa Thiên Huế tổ chức năm
2014 [54], Hội thảo Bảo tồn và phát huy giá trị hệ thống thơ văn trên kiến trúc
cung đình Huế do Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế tổ chức năm 2015 [111]
cùng nhiều hội thảo, hội nghị chuyên đề khác ở cấp quốc gia và quốc tế trên nhiều
lĩnh lực khác có liên quan ít nhiều. Hầu hết các hội thảo đều đề cập đến những
mảng đề tài rộng và mang tính tổng quan nhiều hơn là đi vào chi tiết hoặc đề cập
đến những trƣờng hợp cụ thể nhƣ đối tƣợng nghiên cứu của luận án. Đặc biệt, Hội
thảo Bảo tồn và phát huy giá trị hệ thống thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế do
Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế tổ chức đã công bố nhiều kết quả nghiên
cứu có giá trị về những giá trị độc đáo và quý hiếm của hệ thống thơ văn trên kiến
trúc cung đình Huế. Đây cũng là những cứ liệu chân xác và nguyên gốc đặc biệt
quý hiếm phản ánh tƣ tƣởng trị nƣớc an dân của các vua Nguyễn dựa trên nền tảng
của Nho học, tinh thần tự tôn dân tộc hoặc vị thế cảnh quan đặc biệt của Kinh đô
Huế.
20
Trong những công trình nghiên cứu của ngƣời nƣớc ngoài viết về Việt
Nam, đặc biệt là về triều Nguyễn, tác giả Hoàng Lan Tƣờng là ngƣời đầu tiên đƣa
ra cái nhìn so sánh giữa quy hoạch kiến trúc các miếu thờ hoàng gia triều Nguyễn
và tông miếu triều Minh - Thanh Trung Quốc trong bài viết “Lƣợc khảo quy
hoạch thành thị Huế, quốc đô Việt Nam thế kỷ XIX” năm 2003 [117]. Theo tác
giả, Thái Miếu của Trung Quốc thời Minh-Thanh cũng đƣợc đặt vị trí ở phía
Đông Nam Tử Cấm Thành theo nguyên tắc Tả tổ, hữu xã, hƣớng về phía Nam,
là một cụm kiến trúc trong đó có 3 điện chính thờ các vị vua và hoàng hậu
nhiều đời, cùng nhiều công trình phụ khác. Trong ba điện này, điện sau cùng là
Triệu Miếu, thờ các vị cao tổ của triều đại. Từ những so sánh về vị trí của các
công trình có cùng chức năng giữa hai kinh đô Huế và Bắc Kinh, ông đi đến
nhận xét: “Hoàng thành Huế Việt Nam có cách phối trí đặc trưng, thể hiện việc coi
trọng thờ cúng tổ tiên” [117; tr.54]. Đây là một trong những nhận xét khá hiếm hoi
của ngƣời nƣớc ngoài đề cập trực tiếp đến nét đặc trƣng trong quy hoạch các miếu
thờ tổ tiên của triều Nguyễn ở Huế. Nhận xét này của tác giả khá xác đáng, tuy
nhiên vẫn chƣa lý giải đƣợc ý nghĩa của sự khác biệt này cũng nhƣ mối liên hệ về
mặt tổng thể trong việc triều Nguyễn tiếp thu có chọn lọc những ảnh hƣởng của tƣ
tƣởng Nho giáo Trung Quốc để xây dựng các công trình đàn miếu đại tự ở Huế.
* Nhóm các công trình nghiên cứu về nguồn gốc tư tưởng và nghi lễ
Về khía cạnh này, nhiều công trình khảo cứu công phu của các tác giả với
những phân tích sâu về đời sống chính trị, kinh tế, xã hội Việt Nam, đặc biệt là vai
trò của vua theo cách nhìn của Nho giáo và sự vận dụng tƣ tƣởng Nho giáo Trung
Quốc vào Việt Nam dƣới triều Nguyễn một cách có chọn lọc cũng đƣợc tác giả
luận án quan tâm tìm hiểu. Trong số các tác phẩm viết về Nho giáo và văn hóa
Trung Quốc có Nho giáo của Trần Trọng Kim xuất bản năm 1992 [60], Kinh điển
văn hóa 5000 năm Trung Hoa của Dƣơng Lực xuất bản năm 2002 [68], Tìm hiểu
tư tưởng chính trị Nho giáo Việt Nam từ Lê Thánh Tông đến Minh Mệnh của
Nguyễn Hoài Văn xuất bản năm 2002 [123], Nho giáo Trung Quốc của Nguyễn
Tôn Nhan xuất bản năm 2005 [72]. Những công trình này đã cung cấp nhiều thông
tin cơ bản cho việc đánh giá, so sánh và xác định những nét đặc trƣng của triều
21
Nguyễn trong quá trình tiếp thu và vận dụng tƣ tƣởng Nho giáo Trung Quốc vào
việc xây dựng đàn miếu và tiến hành nghi lễ đại tự ở Huế.
Trong số các nghi lễ đại tự, lễ tế miếu có nguồn gốc từ truyền thống thờ
cúng tổ tiên của ngƣời Việt. Về vấn đề này có một số công trình nhƣ: Những khía
cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt ở đồng bằng Bắc
bộ hiện nay của Trần Đăng Sinh xuất bản năm 2002 [91], Một số phong tục nghi
lễ dân gian truyền thống Việt Nam của Quảng Tuệ xuất bản năm năm 2002 [112],
cùng các bài viết của nhiều tác giả trên các Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Nghiên
cứu Lịch sử, Nghiên cứu Huế, Huế Xưa & Nay, Nghiên cứu và Phát triển, v.v.. đã
giúp tác giả có thêm nhiều thông tin bổ ích về những khía cạnh liên quan đến đề
tài nghiên cứu của luận án nhƣng vẫn chƣa xác định đƣợc truyền thống thờ cúng
tổ tiên của ngƣời Việt ra đời từ khi nào.
Một số tác phẩm không đề cập trực tiếp đến các đối tƣợng nghiên cứu của
đề tài nhƣng giúp tác giả luận án hiểu thêm về ý nghĩa của những địa điểm xây
dựng các đàn miếu nhìn từ khía cạnh phong thủy hoặc những bối cảnh kinh tế-xã
hội của Việt Nam ở giai đoạn chính quyền quân chủ Nguyễn dần đánh mất quyền
lực, chuyển tiếp sang chế độ thuộc địa.
Kể từ sau năm 1986, vấn đề về triều Nguyễn đƣợc giới học thuật trong
nƣớc quan tâm nhiều hơn, mở ra một giai đoạn mới trong lịch sử nghiên cứu về
triều Nguyễn ở Việt Nam với những bài viết, công trình khảo cứu ở nhiều mức
độ khác nhau, trong đó có nhiều bài viết cung cấp những thông tin khá chi tiết
liên quan đến đối tƣợng nghiên cứu của đề tài.
Ở một góc độ nghiên cứu về những tác động của bối cảnh chính trị, xã hội
đối với văn hóa, tác giả Trần Đại Vinh trong công trình nghiên cứu về Tín ngưỡng
dân gian Huế năm 1995 [134] xác nhận sự gián đoạn của hoạt động cúng tế trong
dân gian thời kỳ 1985. Điều này khá hữu ích cho tác giả luận án, giúp thêm cơ sở
cho việc tìm hiểu về sự tác động của những bối cảnh chính trị, xã hội khác nhau đối
với các đối tƣợng nghiên cứu của đề tài.
Liên quan đến hoạt động nghi lễ cung đình ở Huế còn có nhiều công trình
nghiên cứu khác nhƣ: “Lễ hội ở Huế dƣới thời Nguyễn” của Lê Văn Thuyên năm
22
2003 [103], “Vài nét về lễ tết trong cung đình Huế” của Nguyễn Văn Đăng năm
2002 [35], “Một số lễ nghi liên quan đến nông nghiệp dƣới triều Nguyễn” của
Phƣơng Hà năm 2012 [42], “Lễ hội cung đình Nguyễn-giải pháp bảo tồn và phát
huy giá trị phục vụ nhu cầu tâm linh của nhân dân và phát triển du lịch bền vững
trong bối cảnh hiện nay ở tỉnh Thừa Thiên Huế” của Lê Thị An Hòa năm 2012
[47], “Phụng Tiên-điện thờ của hoàng tộc Nguyễn” của Thúy Vân-Tiến Đặng năm
2012 [127], “Các đàn tế thời Nguyễn ở Huế: đàn Xã Tắc, đàn Tiên Nông, đàn Sơn
Xuyên” của Phan Thuận An năm 2013 [4], v..v..Phần lớn những bài viết này đều
có liên quan ít nhiều đến đề tài luận án nhƣng không có sự đánh giá toàn diện về
vai trò và ý nghĩa của hoạt động tế đại tự dƣới triều Nguyễn ở Huế.
Trải qua thời gian, những công trình nghiên cứu về triều Nguyễn ngày càng
dày dặn và có chiều sâu. Nhiều ấn phẩm đã tập hợp các bài viết, các công trình
nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực và mang tính tổng kết với nhiều cách tiếp cận ở các
góc độ khác nhau, thể hiện những nội dung phong phú và đa dạng về những vấn
đề lịch sử, văn hóa, xã hội thời Nguyễn, trong đó có một vài bài liên quan đến các
đối tƣợng nghiên cứu của luận án một cách riêng lẻ. Trong các bài khảo cứu của
mình, tác giả Trần Đức Anh Sơn cung cấp thêm nhiều thông tin liên quan đến một
số thay đổi ở đàn Nam Giao thời kỳ sau năm 1975 và hoạt động tu sửa đàn Nam
Giao năm 1994. Riêng đối với nội dung liên quan đến miếu thờ các vua Nguyễn ở
Huế, tác giả cho rằng việc sắp xếp các án thờ trong Thế Tổ Miếu cần có sự thay đổi
nhỏ về vị trí các án thờ 3 vị vua Hàm Nghi, Thành Thái và Duy Tân để phù hợp với
thế thứ trong phả hệ của dòng họ. Mặt khác, tác giả cũng cho rằng các vua Dục
Đức, Hiệp Hòa, Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân là “phế đế” (vua bị phế truất) và
“xuất đế” (vua bị đi đày) và nên không đƣợc thờ trong Thế Tổ Miếu [93; tr. 67]. Về
điểm này, tác giả luận án sẽ có cách giải thích khác trong nội dung luận án.
Về chủ đề "Lễ hội cung đình Huế và vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị để
phục vụ nhân dân và phát triển du lịch Huế", tác giả Trần Đức Anh Sơn cũng cung
cấp những thông tin một cách hệ thống về các hình thức lễ hội cung đình Huế và
những đề xuất giải pháp cho việc phát triển du lịch dựa trên việc tổ chức, phục dựng
một số lễ hội cung đình nhƣ lễ tế Giao, trình bày tại Hội thảo khoa học do Hội Văn
23
nghệ Dân gian Thừa Thiên Huế tổ chức ngày 26 tháng 6 năm 2011 tại Huế [94].
Tuy nhiên, tác giả cũng mới chỉ dừng lại ở những khái niệm về “lễ”, về “hội” và
những nội dung bàn về hình thức tổ chức phục dựng chứ chƣa xem xét các đàn
miếu và nghi lễ đại tự triều Nguyễn trong cái nhìn tổng thể về kiến trúc, hoạt động
nghi lễ và những ý nghĩa văn hóa, xã hội liên quan.
Trong số ít công trình nghiên cứu cụ thể về văn hóa cung đình Huế, tác
phẩm Văn hóa Huế xưa-Đời sống văn hóa cung đình của Lê Nguyễn Lƣu năm
2006 [69] là công trình nghiên cứu khá toàn diện về đối tƣợng mà luận án đề cập
với tiểu mục “Đàn miếu” mô tả lịch sử hình thành đàn Nam Giao, đàn Xã Tắc và
các miếu thờ hoàng gia triều Nguyễn ở hoàng cung Huế. Nội dung liên quan đến
nghi thức tế tự đƣợc tác giả đƣa vào chƣơng “Văn hóa phi vật thể cung đình Huế”
với tiểu mục chung mô tả việc tổ chức tiến hành cuộc lễ bao gồm: Trình tự, Ca
nhạc và Vũ khúc. Trong một số lễ tiết cụ thể đƣợc nêu làm ví dụ, lễ tế Giao đƣợc
tác giả liệt vào hàng “Lễ thuộc triều đình” chứ không liệt kê theo cách phân loại
của triều Nguyễn nhƣ: lễ đại tự, trung tự và quần tự; cũng không mô tả lễ tế Xã
Tắc hoặc lễ tế miếu. Ngoài ra, bài viết “Thành phố ngày hội: Lễ Nam Giao” của
A.De Rotalier đƣợc tác giả đƣa vào phần Phụ lục, cung cấp nhiều thông tin mô tả
sinh động về một lễ tế Giao vào cuối thời Nguyễn. Tuy nhiên, điều đáng tiếc là tác
giả không ghi rõ bài viết này đƣợc trích từ sách nào, dịch từ nguyên bản tiếng
Pháp hay tiếng Anh, v..v..nên ngƣời đọc không có điều kiện kiểm chứng, và vì
vậy ảnh hƣởng đến độ tin cậy và tính xác thực của tài liệu.
Trong một số luận văn tại trƣờng Đại học Khoa học Huế có các Luận văn
Thạc sĩ năm 2003 của các tác giả Đặng Đức Diệu Hạnh về Lễ tế Nam Giao tại Huế
dưới triều Nguyễn [45], Lê Thị An Hòa với đề tài Một số lễ nghi liên quan đến nông
nghiệp dưới triều Nguyễn tại kinh đô Huế năm 2003 [46] và gần đây là luận văn của
tác giả Huỳnh Thị Anh Vân về Hệ thống miếu thờ vua Nguyễn và nghi lễ tế Miếu
tại Huế (1802-1945) năm 2010 [125]. Những luận văn này đều đề cập đến các đàn
miếu đại tự của triều Nguyễn (Giao, Miếu, Xã Tắc) và nghi thức tế lễ ở những mức độ
khác nhau nhƣng ở phạm vi hẹp, riêng lẻ từng đối tƣợng liên quan đến đề tài chứ chƣa
có cái nhìn tổng thể về các đàn miếu và nghi lễ đại tự triều Nguyễn nói chung cũng nhƣ
24
vai trò, ý nghĩa và tác động của chúng về mặt xã hội ở những hoàn cảnh khác nhau
trong lịch sử.
Về các tài liệu xuất bản ở nƣớc ngoài viết về Việt Nam hoặc đƣa ra cách
nhìn nhận mối quan hệ giữa nghi lễ, chính trị và quyền lực có các tác phẩm tiêu
biểu nhƣ: các bản nhật ký hành trình của các thƣơng nhân, các nhà truyền giáo nƣớc
ngoài đã có dịp đến Việt Nam vào thế kỷ XIX và trƣớc đó, nhƣ Voyage from
France to Cochin-China (Chuyến du hành từ Pháp đến xứ Đàng Trong) của thuyền
trƣởng Le Rey (nguyên bản tiếng Anh năm 1821) [140], Xứ Đàng Trong, Lịch sử
kinh tế-xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18 của Li Tana (1999) [95], Southeast Asia-an
introduction history (Giới thiệu lịch sử Đông Nam Á) của Milton Osborne (nguyên
bản tiếng Anh năm 1997) [138]... cho biết thêm những thông tin mang tính chất
tham khảo trong quá trình tìm hiểu bối cảnh chính trị, xã hội đƣơng thời ở góc độ
nhìn từ bên ngoài.
Đặc biệt, trong tác phẩm Vietnam and the Chinese Model: A Comparative
Study of Vietnamese and Chinese Government in the First Half of the Nineteenth
Century (Việt Nam và mô hình của Trung Quốc: một nghiên cứu đối sánh về
chính quyền Việt Nam và Trung Quốc vào nửa đầu thế kỷ 19, nguyên bản tiếng
Anh năm 1971), tác giả Alexander Barton Woodside cho rằng ở Việt Nam, hình
thức trung ƣơng tập quyền của tƣ tƣởng “Thiên tử” Trung Quốc đƣợc kết hợp với
vai trò của thủ lĩnh làng xã trong truyền thống bản địa và vì thế, “Một vị vua Việt
Nam thành công, như một thủ lĩnh tối cao của làng xã, có thể yêu cầu thần linh trợ
giúp một cách oai phong hơn mà những vị vua Trung Quốc không thể làm được (A
successful Vietnamese emperor, as a supreme communal chief, could command
genuine popular support in a way more august Chinese emperors could not) [144,
Lời nói đầu]. Trong luận án của mình, tác giả cũng chứng minh rằng tính chủ động
trong việc vận dụng tƣ tƣởng Nho giáo của Trung Quốc dƣới thời Nguyễn đƣợc thể
hiện rõ qua sự hình thành các đàn miếu đại tự ở Huế. Điều này đã làm nên những
đặc trƣng của triều đại và góp phần khẳng định bản sắc văn hóa cung đình Huế.
Tác phẩm Jongmyo Royal Ancestral Shrine-Jongmyo Royal Ancestral Rite
(Tông miếu hoàng gia-Nghi lễ tế tông miếu) của The Preservation Society of the
25
Jongmyo Royal Ancestral Rite (Hội Bảo tồn Nghi lễ Tông miếu hoàng gia, Seoul,
2005) [141] là một tài liệu hữu ích khác đối với tác giả luận án ở góc độ đối chiếu
trƣờng hợp tƣơng tự ở Hàn Quốc-một nƣớc đồng văn trong khu vực, góp phần
hoàn thiện những nhận xét của tác giả luận án sau khi khảo sát thực địa đàn Nam
Giao, đàn Xã Tắc triều Joseon tại Seoul. Việc nghiên cứu những tác phẩm này
giúp tác giả có đƣợc những nhận xét tổng hợp và khách quan về Việt Nam thời
cận đại và so sánh với hình thức tƣơng đồng ở một số nƣớc đồng văn trong khu
vực. Đặc biệt, những vấn đề mang tính lý luận trong tác phẩm Ritual, Politics &
Power (Nghi lễ, Chính trị & Quyền lực) của David I. Kertzer (nguyên bản tiếng
Anh năm 1988, Anh) [135] giúp tác giả luận án củng cố thêm những nhận định
của mình trong việc nghiên cứu đề tài luận án.
Ngoài những tài liệu trong và ngoài nƣớc có liên quan đến đề tài nêu trên,
chúng tôi cũng tiếp cận, khai thác một số tài liệu đăng tải trên internet. Có thể nói
những tài liệu này hết sức phong phú, đa dạng và mức độ đề cập cũng rất khác
nhau. Do đó chúng tôi sẽ phân loại và thẩm định kỹ lƣỡng trƣớc khi sử dụng để
nghiên cứu đề tài.
1.2 Kết quả nghiên cứu và những vấn đề đặt ra
Trƣớc hết, đó là những vấn đề mang tính lý luận trong việc nhìn nhận, đánh giá
dựa trên các thông tin đƣợc tổng hợp từ các nguồn tƣ liệu và kết quả nghiên cứu liên
ngành về lịch sử, khảo cổ, văn hóa... để đƣa ra những luận điểm đảm bảo tính khách
quan về bản chất của vấn đề đang đƣợc tác giả nghiên cứu.
Thứ hai, luận án cũng kế thừa đƣợc những thông tin đã đƣợc các tác giả đi
trƣớc tập hợp, kết hợp với những kết quả nghiên cứu tƣ liệu và điền dã trong quá
trình thực hiện đề tài để tổng hợp và so sánh, phân tích, đánh giá toàn diện cả ba loại
hình đại tự triều Nguyễn (Giao, miếu, Xã Tắc) dƣới sự chi phối chung của hoàn cảnh
chính trị-xã hội đƣơng thời và trong mối tƣơng quan với một số loại hình đồng đại ở
một số nƣớc đồng văn trong khu vực nhƣ Trung Quốc, Hàn Quốc.
Liên quan đến đề tài của luận án có nhiều nguồn tƣ liệu, thƣ tịch phong phú,
đa dạng. Quan trọng nhất trong số này có nguồn sử liệu của triều Nguyễn với nhiều
dạng: biên niên, hội điển, cƣơng mục, loại chí..., phản ánh quá trình hình thành và
26
phát triển, lịch sử xây dựng, tu bổ công trình đàn miếu đại tự, các điển chế về lễ
nghi tế tự và quan niệm của các vua Nguyễn về nghi lễ. Đây là những cơ sở quan
trọng nhất để tác giả luận án tìm hiểu, nghiên cứu trong quá trình thực hiện đề tài.
Tuy nhiên, sử liệu của triều Nguyễn không để lại một bản vẽ kiến trúc nào của các
cung điện hay đàn miếu, cũng không có những ghi chép chi tiết về kỹ thuật xây
dựng công trình hay chế tạo vật dụng. Trong lễ nhạc cũng không để lại những ghi
chép về việc chế tác nhạc cụ, âm luật hay kỹ thuật trình tấu các bài bản âm nhạc
dùng trong nghi lễ cung đình. Điều này gây không ít khó khăn cho những ngƣời làm
công tác nghiên cứu, bảo tồn di sản văn hóa vật thể và phi vật thể triều Nguyễn
ở Huế.
Bên cạnh khối sử liệu đồ sộ của triều Nguyễn, các công trình nghiên cứu đầu
thế kỷ XX, tiêu biểu là bộ sách Bulletin des Amis du Vieux Hué (BAVH) của Hội
Đô thành hiếu cổ cũng là nguồn tƣ liệu có giá trị với những mô tả chân thực về một
số nghi lễ tế tự thời cuối Nguyễn ở Huế. Tuy những mô tả này chỉ tập trung vào lễ
tế Giao nhƣng cũng góp phần làm rõ thông tin về đối tƣợng nghiên cứu của đề tài
trong bối cảnh lịch sử, văn hóa, xã hội giai đoạn đầu thế kỷ XX. Ngoài ra, những
ghi chép của một số tác giả khác nhƣ Hồng Hoài Lê Văn Hoàng hoặc Lê Văn
Phƣớc cũng là những tƣ liệu có giá trị tham khảo, góp phần bổ khuyết một số thông
tin về đàn miếu đại tự, đặc biệt là đàn Nam Giao giai đoạn sau khi triều Nguyễn
chấm dứt.
Trong số các nguồn tƣ liệu liên quan đến đề tài nghiên cứu của luận án, công
trình nghiên cứu về các lễ tế miếu và tế Xã Tắc không nhiều. Vì thế, nội dung luận
án dựa vào các bộ sử của triều Nguyễn là chủ yếu, kết hợp với kết quả nghiên cứu,
điền dã của chính tác giả trong thời gian hơn 10 năm trở lại đây. Bên cạnh đó, tác
giả cũng tham khảo các công trình nghiên cứu khác có liên quan trực tiếp hoặc gián
tiếp đến đề tài nhƣ những bài viết của một số tác giả trên các tạp chí, các bài nghiên
cứu công bố tại các Hội thảo, Hội nghị, các luận văn, luận án Tiến sĩ, các công trình
nghiên cứu ở nƣớc ngoài viết về Việt Nam hoặc những tác phẩm mang tính lý
luận... Tất cả đều đƣợc tác giả luận án kế thừa để tổng hợp, phân tích, tập trung làm
rõ những vấn đề liên quan đến đàn miếu và nghi lễ đại tự triều Nguyễn ở Huế dƣới
27
sự chi phối chung của hoàn cảnh chính trị, xã hội đƣơng thời và trong mối tƣơng
quan với một số loại hình đồng đại ở một số nƣớc đồng văn trong khu vực.
Trong số các nghi lễ đại tự thời quân chủ, lễ tế Xã Tắc là hình thức nghi lễ
đƣợc thực hiện sớm nhất (từ năm 1048, thời Lý) và thời điểm ra đời của đàn Xã
Tắc trƣớc đàn Nam Giao cho thấy việc lập đàn Xã Tắc thể hiện mối quan hệ gắn
bó thiêng liêng giữa sự sinh tồn của một quốc gia, dân tộc có nền kinh tế chủ yếu
dựa vào nông nghiệp. Mục đích “bốn mùa cầu đảo cho mùa màng” [67; I, tr.102]
là mục đích đầu tiên của nghi lễ này, hoàn toàn không vì mục đích chính trị. Tuy
nhiên, thông tin về đàn Xã Tắc và lễ tế Xã Tắc không nhiều, những công trình
nghiên cứu sâu về đề tài này, đặc biệt là về đàn Xã Tắc các triều đại trƣớc
Nguyễn còn nhiều hạn chế. Trong bối cảnh Việt Nam là một nƣớc nông nghiệp
lâu đời, câu hỏi đặt ra là đàn Xã Tắc và lễ tế Xã Tắc trong lịch sử Việt Nam, đặc
biệt là trƣớc triều Nguyễn ra sao, hình thức và vai trò của đàn Xã Tắc cùng lễ tế
Xã Tắc của các triều đại trƣớc Nguyễn đối với Nhà nƣớc và cƣ dân nông nghiệp
ở Việt Nam buổi đƣơng thời nhƣ thế nào?
Theo quan điểm của Nho giáo: “Vạn vật bản hồ thiên, nhân bản hồ tổ”
(Muôn vật gốc ở Trời, ngƣời gốc ở tổ), nên có tác giả đã nhận xét: “Xem thế thì
biết rằng người đời xưa lấy việc tế tự làm quan trọng lắm, mà trong sự tế tự của
người Tàu có cái đặc sắc là việc thờ cúng tổ tiên.” [60; tr.41]. Điều này liên quan
đến việc chứng minh rằng lễ tế miếu có nguồn gốc Nho giáo. Mặt khác, việc thờ
cúng tổ tiên cũng luôn đƣợc coi là truyền thống văn hóa của ngƣời Việt. Vậy
ngƣời Việt bắt đầu có tục thờ cúng tổ tiên từ khi nào? Cách thức thờ cúng ra sao?
Có chứng cứ khảo cổ học nào cho thấy trƣớc khi Nho giáo thâm nhập vào Việt
Nam (tức là khoảng cuối thế kỷ thứ II trở về trƣớc), ngƣời Việt cổ có thờ cúng tổ
tiên không? Việc tìm đƣợc lời giải cho câu hỏi này sẽ góp thêm cơ sở xác đáng để
giải thích vì sao việc tế tông miếu hoàng gia triều Nguyễn lại đƣợc đặc biệt chú
trọng nhƣ vậy. Điều này cũng sẽ góp phần chứng minh thêm một biểu hiện đặc
trƣng khác của triều Nguyễn trong quá trình khẳng định mình trƣớc sự tiếp thu có
chọn lọc những tƣ tƣởng Nho giáo của các triều đại phƣơng Bắc.
28
CHƢƠNG 2
SỰ HÌNH THÀNH CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ
TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ
2.1 Khái niệm, nguồn gốc của đàn miếu đại tự và nghi lễ cúng tế
2.1.1 Về khái niệm
Về mặt khái niệm, trƣớc hết, cách gọi “các đàn miếu và nghi lễ đại tự” ở đây
chỉ dùng cho những đối tƣợng đƣợc nghiên cứu của luận án, bao gồm đàn Nam
Giao, các miếu thờ của hoàng gia (tông/tôn miếu), đàn Xã Tắc và các nghi lễ liên
quan vào thời Nguyễn (1802-1945) tại Huế. Theo quy định của triều Nguyễn, tế tự
có 3 bậc: đại tự, trung tự và quần tự. Đại tự gồm tế Giao, tế các tông miếu, tế Xã
Tắc; Trung tự gồm tế đế vƣơng các đời, tế tiên sƣ Khổng Tử, tế Tiên Nông; Quần tự
gồm tế các thần gió, mƣa, Nam hải, Long vƣơng, thần lửa, thần súng ống, thần
sông, thần núi, thần hồ, thần các đảo, thần coi việc thợ thuyền, Khải thánh, tổ nghề
thuốc, vua nƣớc Chiêm Thành, vua nƣớc Chân Lạp, các công thần của triều đình và
các vị thần thánh khác...[74, IV; tr. 222-223]. Theo cách sắp xếp này, quan trọng
hàng đầu trong các lễ đại tự (tế lớn của nhà nƣớc) là lễ tế Giao, thứ hai là lễ tế tông
miếu và thứ ba là tế Xã Tắc. Luận án sẽ lần lƣợt trình bày những nội dung liên quan
đến các đàn miếu và nghi lễ theo thứ tự này.
Đàn (壇) có nghĩa là “Đàn tế (thời xƣa)” (ví dụ nhƣ 天壇: Thiên đàn, Đàn tế
Trời) [22; tr.140, 141].
Miếu (廟): Theo từ điển Từ Hải, “miếu” (廟) là nơi thờ cúng tổ tông, thần phật
hoặc những vị hiền triết của đời trƣớc nhƣ tông miếu, Thổ địa miếu, Khổng miếu,
Quan Đế miếu; hoặc miếu đƣờng, tiền điện của Vƣơng cung; hoặc là cách gọi thay
thế của các vị hoàng đế đã mất [115; tr.960]. Mặt khác, theo cách phân biệt của chính
các sử gia thời Nguyễn khi tham khảo điển lễ của Trung Quốc, công trình thực sự
theo quy chế “miếu” phải là nơi có thờ “thần chủ”1
: “…tôn trọng là cách làm thần
1
“Thần chủ” (神主) tức là “Mộc chủ, lập ở tông miếu để thần (hồn) nƣơng tựa” [113, tr.210]. Thần chủ chỉ đƣợc làm khi
ngƣời vừa mất mới an táng xong. Thần chủ làm bằng gỗ, kích thƣớc ấn định theo ngày, tháng, giờ, lấy đồng tiền nhà Chu
29
chủ. Khi mới chết làm nơi tôn trọng, để thần có chỗ nương tựa… Còn như thần vị,
tức là bài vị, đời xưa kính viết danh hiệu, thờ ở đền riêng, điện riêng, đặt ra tế lễ,
lòng kính cha mẹ, tôn tổ tiên đâu đâu cũng thấy, không như trong miếu chỉ thờ có một
chủ thôi” [82, IX; tr.428]. Theo đó, “miếu” mà đề tài đề cập tới ở đây chính là những
miếu thờ hoàng gia triều Nguyễn trong khu vực Hoàng thành Huế. Nói đúng hơn,
theo quy chế “miếu thờ thần chủ” thì chỉ có Thế Tổ Miếu, nhƣng còn có một số công
trình khác có cùng chức năng thờ cúng tổ tiên của triều Nguyễn nhƣng không có thần
chủ vẫn đƣợc triều Nguyễn gọi là “miếu” (theo tên gọi chính thức trên hoành phi của
công trình) nhƣ: Triệu Tổ Miếu, Thái Tổ Miếu, Hƣng Tổ Miếu. Những miếu này là
nơi thờ các vị tổ tiên của triều Nguyễn - những ngƣời đƣợc vua Gia Long dâng tôn
hiệu là “hoàng đế”, “hoàng hậu” ngay từ những năm đầu của triều đại.
Đại tự (大祀): Về ngữ nghĩa, “đại tự” là lễ tế lớn. Theo cách định nghĩa của
triều Nguyễn, “đại tự” còn mang tính đại diện của quốc gia, dân tộc (tế lớn của nhà
nƣớc) [74, IV; tr. 252]. Nhƣ trên đã nói, các lễ đại tự của triều Nguyễn bao gồm các
lễ tế Giao (còn gọi là tế Giao), tế tông miếu (của dòng họ nhà vua, còn gọi là tế
miếu) và tế đàn Xã Tắc (còn gọi là tế Xã), đƣợc xếp lần lƣợt theo thứ tự mà triều
Nguyễn đã quy định.
2.1.2 Về nguồn gốc
Về nguồn gốc của tế Giao, Tiên Đàm giải thích:
“Nam là phương Nam. Giao có nghĩa là tế Trời,.... Nam Giao là
khoảng đất dùng để tế Trời về phương Nam. Ngày xưa, ở Trung Quốc
vào ngày Đông chí tổ chức tế Trời về phía Nam kinh đô tại một cái gò
tròn nên gọi là Nam Giao. Qua ngày Hạ chí thì lại tổ chức tế Đất ở một
cái chầm hình vuông phía Bắc Kinh thành và gọi là Bắc Giao. Ở Trung
Quốc, vốn từ đời Võ Hoài, Phục Hy1
có lễ Phong, nhà vua sai đắp đàn ở
núi Thái Sơn để tế Trời. Đến nhà Chu2
tiết Đông Chí thì thờ Trời ở Nam
làm 1 tấc. Mặt trƣớc là tấm gỗ dày 4 phân dọc phấn trắng để viết tự hiệu cùng phẩm tƣớc ngƣời mất, gọi là Phấn diện.
Phần sau khắc lõm xuống rộng 10 phân, dài 60 phân, sâu 4 phân gọi là Hãm trung. Phần này viết tên húy, quán của ngƣời
đã mất [84, V; tr. 129, phần chú thích]
1
Khoảng năm 2800 năm TCN.
2
Khoảng năm 1122 TCN-249 TCN.
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)

More Related Content

What's hot

Câu hỏi ôn tập thi kết thúc môn quản trị văn phòng 2
Câu hỏi ôn tập thi kết thúc môn quản trị văn phòng 2Câu hỏi ôn tập thi kết thúc môn quản trị văn phòng 2
Câu hỏi ôn tập thi kết thúc môn quản trị văn phòng 2
Học Huỳnh Bá
 
Bìa báo cáo thực tập
Bìa báo cáo thực tậpBìa báo cáo thực tập
Bìa báo cáo thực tập
tramn79
 
Bài giảng quản trị nhân lực
Bài giảng quản trị nhân lựcBài giảng quản trị nhân lực
Bài giảng quản trị nhân lực
MrCoc
 
SỰ KHÁC BIỆT TRONG VĂN HÓA PHƯƠNG ĐÔNG VÀ VĂN HÓA PHƯƠNG TÂY VÀ ẢNH H...
SỰ KHÁC BIỆT TRONG VĂN HÓA PHƯƠNG ĐÔNG VÀ VĂN HÓA PHƯƠNG TÂY VÀ ẢNH H...SỰ KHÁC BIỆT TRONG VĂN HÓA PHƯƠNG ĐÔNG VÀ VĂN HÓA PHƯƠNG TÂY VÀ ẢNH H...
SỰ KHÁC BIỆT TRONG VĂN HÓA PHƯƠNG ĐÔNG VÀ VĂN HÓA PHƯƠNG TÂY VÀ ẢNH H...
Sam Phuong
 
Triết lý và Đạo đức kinh doanh
Triết lý và Đạo đức kinh doanhTriết lý và Đạo đức kinh doanh
Triết lý và Đạo đức kinh doanh
Ngọc Yến Lê Thị
 

What's hot (20)

Chương 2: HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG ARENA
Chương 2: HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG ARENAChương 2: HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG ARENA
Chương 2: HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG ARENA
 
Tài liệu tham khảo quản trị chiến lược
Tài liệu tham khảo quản trị chiến lượcTài liệu tham khảo quản trị chiến lược
Tài liệu tham khảo quản trị chiến lược
 
Câu hỏi ôn tập thi kết thúc môn quản trị văn phòng 2
Câu hỏi ôn tập thi kết thúc môn quản trị văn phòng 2Câu hỏi ôn tập thi kết thúc môn quản trị văn phòng 2
Câu hỏi ôn tập thi kết thúc môn quản trị văn phòng 2
 
Luận văn: Phương pháp nghiên cứu khoa học lịch sử, HAY
Luận văn: Phương pháp nghiên cứu khoa học lịch sử, HAY Luận văn: Phương pháp nghiên cứu khoa học lịch sử, HAY
Luận văn: Phương pháp nghiên cứu khoa học lịch sử, HAY
 
Bìa báo cáo thực tập
Bìa báo cáo thực tậpBìa báo cáo thực tập
Bìa báo cáo thực tập
 
Bài giảng quản trị nhân lực
Bài giảng quản trị nhân lựcBài giảng quản trị nhân lực
Bài giảng quản trị nhân lực
 
Đề tài: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực tại công ty...
Đề tài: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực tại công ty...Đề tài: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực tại công ty...
Đề tài: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực tại công ty...
 
SỰ KHÁC BIỆT TRONG VĂN HÓA PHƯƠNG ĐÔNG VÀ VĂN HÓA PHƯƠNG TÂY VÀ ẢNH H...
SỰ KHÁC BIỆT TRONG VĂN HÓA PHƯƠNG ĐÔNG VÀ VĂN HÓA PHƯƠNG TÂY VÀ ẢNH H...SỰ KHÁC BIỆT TRONG VĂN HÓA PHƯƠNG ĐÔNG VÀ VĂN HÓA PHƯƠNG TÂY VÀ ẢNH H...
SỰ KHÁC BIỆT TRONG VĂN HÓA PHƯƠNG ĐÔNG VÀ VĂN HÓA PHƯƠNG TÂY VÀ ẢNH H...
 
Môi trường nội bộ
Môi trường nội bộMôi trường nội bộ
Môi trường nội bộ
 
Triết lý và Đạo đức kinh doanh
Triết lý và Đạo đức kinh doanhTriết lý và Đạo đức kinh doanh
Triết lý và Đạo đức kinh doanh
 
Nghiên cứu công nghệ sản xuất chả cá và cá viên đóng hộp.pdf
Nghiên cứu công nghệ sản xuất chả cá và cá viên đóng hộp.pdfNghiên cứu công nghệ sản xuất chả cá và cá viên đóng hộp.pdf
Nghiên cứu công nghệ sản xuất chả cá và cá viên đóng hộp.pdf
 
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động quản trị nguồn nhân lực, HAY!
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động quản trị nguồn nhân lực, HAY!Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động quản trị nguồn nhân lực, HAY!
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động quản trị nguồn nhân lực, HAY!
 
Học Phần Quản Trị Tác Nghiệp Thương Mại Điện Tử B2C
Học Phần Quản Trị Tác Nghiệp Thương Mại Điện Tử B2C Học Phần Quản Trị Tác Nghiệp Thương Mại Điện Tử B2C
Học Phần Quản Trị Tác Nghiệp Thương Mại Điện Tử B2C
 
Giáo trình quản lý chất lượng
Giáo trình quản lý chất lượngGiáo trình quản lý chất lượng
Giáo trình quản lý chất lượng
 
Luận văn: Sự hài lòng trong công việc của nhân viên FPT, HAY
Luận văn: Sự hài lòng trong công việc của nhân viên FPT, HAYLuận văn: Sự hài lòng trong công việc của nhân viên FPT, HAY
Luận văn: Sự hài lòng trong công việc của nhân viên FPT, HAY
 
BÀI MẪU khóa luận tốt nghiệp ngành triết học, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU khóa luận tốt nghiệp ngành triết học, 9 ĐIỂMBÀI MẪU khóa luận tốt nghiệp ngành triết học, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU khóa luận tốt nghiệp ngành triết học, 9 ĐIỂM
 
Đề tài: Ảnh hưởng môi trường làm việc đến kết quả công việc, HOT
Đề tài: Ảnh hưởng môi trường làm việc đến kết quả công việc, HOTĐề tài: Ảnh hưởng môi trường làm việc đến kết quả công việc, HOT
Đề tài: Ảnh hưởng môi trường làm việc đến kết quả công việc, HOT
 
Đề tài: Hoàn thiện hoạt động Marketing Mix trà tại cty Trà, 9Đ, HAY
Đề tài: Hoàn thiện hoạt động Marketing Mix trà tại cty Trà, 9Đ, HAYĐề tài: Hoàn thiện hoạt động Marketing Mix trà tại cty Trà, 9Đ, HAY
Đề tài: Hoàn thiện hoạt động Marketing Mix trà tại cty Trà, 9Đ, HAY
 
Nhóm 3 LSVMTG
Nhóm 3 LSVMTGNhóm 3 LSVMTG
Nhóm 3 LSVMTG
 
sống thử
sống thử sống thử
sống thử
 

Similar to Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)

1805vdla053_phan_thi_theu_kltn_theu_phan_4863.pdf
1805vdla053_phan_thi_theu_kltn_theu_phan_4863.pdf1805vdla053_phan_thi_theu_kltn_theu_phan_4863.pdf
1805vdla053_phan_thi_theu_kltn_theu_phan_4863.pdf
ntk2692005
 

Similar to Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945) (20)

Luận án: Phong trào chấn hưng Phật giáo ở miền Trung Việt Nam
Luận án: Phong trào chấn hưng Phật giáo ở miền Trung Việt NamLuận án: Phong trào chấn hưng Phật giáo ở miền Trung Việt Nam
Luận án: Phong trào chấn hưng Phật giáo ở miền Trung Việt Nam
 
Luận án: Biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam
Luận án: Biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt NamLuận án: Biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam
Luận án: Biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam
 
Luận án: Phật giáo Quảng Nam thế kỉ XVII – XIX, HAY
Luận án: Phật giáo Quảng Nam thế kỉ XVII – XIX, HAYLuận án: Phật giáo Quảng Nam thế kỉ XVII – XIX, HAY
Luận án: Phật giáo Quảng Nam thế kỉ XVII – XIX, HAY
 
Phòng thủ và bảo vệ vùng biển miền Trung dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Phòng thủ và bảo vệ vùng biển miền Trung dưới triều Nguyễn (1802-1885)Phòng thủ và bảo vệ vùng biển miền Trung dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Phòng thủ và bảo vệ vùng biển miền Trung dưới triều Nguyễn (1802-1885)
 
1805vdla053_phan_thi_theu_kltn_theu_phan_4863.pdf
1805vdla053_phan_thi_theu_kltn_theu_phan_4863.pdf1805vdla053_phan_thi_theu_kltn_theu_phan_4863.pdf
1805vdla053_phan_thi_theu_kltn_theu_phan_4863.pdf
 
Luận án: Những yếu tố triết học trong tín ngưỡng dân gian, HAY
Luận án: Những yếu tố triết học trong tín ngưỡng dân gian, HAYLuận án: Những yếu tố triết học trong tín ngưỡng dân gian, HAY
Luận án: Những yếu tố triết học trong tín ngưỡng dân gian, HAY
 
Luận án: Đặc điểm du kí Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX, HAY
Luận án: Đặc điểm du kí Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX, HAYLuận án: Đặc điểm du kí Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX, HAY
Luận án: Đặc điểm du kí Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX, HAY
 
Luận án: Nghiên cứu tư liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ An - Gửi miễn phí ...
Luận án: Nghiên cứu tư liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ An - Gửi miễn phí ...Luận án: Nghiên cứu tư liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ An - Gửi miễn phí ...
Luận án: Nghiên cứu tư liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ An - Gửi miễn phí ...
 
ĐỀ TÀI : Luận án Nghiên cứu tư liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ An
ĐỀ TÀI : Luận án Nghiên cứu tư liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ AnĐỀ TÀI : Luận án Nghiên cứu tư liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ An
ĐỀ TÀI : Luận án Nghiên cứu tư liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ An
 
Luận án: Ảnh hưởng văn học dân gian trong truyện thiếu nhi, HAY
Luận án: Ảnh hưởng văn học dân gian trong truyện thiếu nhi, HAYLuận án: Ảnh hưởng văn học dân gian trong truyện thiếu nhi, HAY
Luận án: Ảnh hưởng văn học dân gian trong truyện thiếu nhi, HAY
 
Hoạt động thương mại - truyền giáo của Bồ Đào Nha và Pháp ở Việt Nam
Hoạt động thương mại - truyền giáo của Bồ Đào Nha và Pháp ở Việt NamHoạt động thương mại - truyền giáo của Bồ Đào Nha và Pháp ở Việt Nam
Hoạt động thương mại - truyền giáo của Bồ Đào Nha và Pháp ở Việt Nam
 
Luận án: Kỹ thuật nhân giống in vitro và trồng hoa chuông ở Huế
Luận án: Kỹ thuật nhân giống in vitro và trồng hoa chuông ở HuếLuận án: Kỹ thuật nhân giống in vitro và trồng hoa chuông ở Huế
Luận án: Kỹ thuật nhân giống in vitro và trồng hoa chuông ở Huế
 
Luận văn Vành đai diệt Mĩ Sơn - An - Nguyên ở Phong Điền, Thừa Thiên Huế (196...
Luận văn Vành đai diệt Mĩ Sơn - An - Nguyên ở Phong Điền, Thừa Thiên Huế (196...Luận văn Vành đai diệt Mĩ Sơn - An - Nguyên ở Phong Điền, Thừa Thiên Huế (196...
Luận văn Vành đai diệt Mĩ Sơn - An - Nguyên ở Phong Điền, Thừa Thiên Huế (196...
 
Đấu tranh chính trị ở Khánh Hòa trong kháng chiến chống Mỹ, HAY
Đấu tranh chính trị ở Khánh Hòa trong kháng chiến chống Mỹ, HAYĐấu tranh chính trị ở Khánh Hòa trong kháng chiến chống Mỹ, HAY
Đấu tranh chính trị ở Khánh Hòa trong kháng chiến chống Mỹ, HAY
 
Chuyển biến kinh tế Nhật Bản thời kỳ Tokugawa (1600-1868)
Chuyển biến kinh tế Nhật Bản thời kỳ Tokugawa (1600-1868)Chuyển biến kinh tế Nhật Bản thời kỳ Tokugawa (1600-1868)
Chuyển biến kinh tế Nhật Bản thời kỳ Tokugawa (1600-1868)
 
Chuyển biến kinh tế Nhật Bản thời kỳ Tokugawa (1600-1868)
 Chuyển biến kinh tế Nhật Bản thời kỳ Tokugawa (1600-1868) Chuyển biến kinh tế Nhật Bản thời kỳ Tokugawa (1600-1868)
Chuyển biến kinh tế Nhật Bản thời kỳ Tokugawa (1600-1868)
 
PHÊ BÌNH VĂN HỌC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 – 2016.pdf
PHÊ BÌNH VĂN HỌC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 – 2016.pdfPHÊ BÌNH VĂN HỌC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 – 2016.pdf
PHÊ BÌNH VĂN HỌC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 – 2016.pdf
 
[123doc] - phe-binh-van-hoc-viet-nam-giai-doan-1986-2016.pdf
[123doc] - phe-binh-van-hoc-viet-nam-giai-doan-1986-2016.pdf[123doc] - phe-binh-van-hoc-viet-nam-giai-doan-1986-2016.pdf
[123doc] - phe-binh-van-hoc-viet-nam-giai-doan-1986-2016.pdf
 
Luận văn: Phê bình văn học Việt Nam giai đoạn 1986-2016, HAY
Luận văn: Phê bình văn học Việt Nam giai đoạn 1986-2016, HAYLuận văn: Phê bình văn học Việt Nam giai đoạn 1986-2016, HAY
Luận văn: Phê bình văn học Việt Nam giai đoạn 1986-2016, HAY
 
ĐỀ TÀI KHOA HỌC PHÊ BÌNH VĂN HỌC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 – 2016
ĐỀ TÀI KHOA HỌC PHÊ BÌNH VĂN HỌC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 – 2016 ĐỀ TÀI KHOA HỌC PHÊ BÌNH VĂN HỌC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 – 2016
ĐỀ TÀI KHOA HỌC PHÊ BÌNH VĂN HỌC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 – 2016
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
Xem Số Mệnh
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
dnghia2002
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
DungxPeach
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
ltbdieu
 

Recently uploaded (20)

Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
 
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàBài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
 
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net VietKiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 

Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)

  • 1. ĐẠI HỌC HUẾ TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUỲNH THỊ ANH VÂN CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945): SỰ HÌNH THÀNH VÀ NGHI THỨC TẾ TỰ LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC HUẾ - NĂM 2016
  • 2. ĐẠI HỌC HUẾ TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUỲNH THỊ ANH VÂN CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945): SỰ HÌNH THÀNH VÀ NGHI THỨC TẾ TỰ Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam Mã số: 62.22.03.13 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: 1. PGS. TS. ĐỖ BANG 2. TS. PHAN THANH HẢI HUẾ - NĂM 2016
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Huế, ngày tháng năm 2016 Tác giả Huỳnh Thị Anh Vân
  • 4. Lời Cảm Ơn Lời đầu tiên, tôi xin chân thành cám ơn quý thầy cô giáo khoa Lịch sử, trường Đại học Khoa học Huế và tập thể lãnh đạo, các đồng nghiệp tại Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế và bạn bè đã tạo mọi điều kiện giúp tôi hoàn thành luận án này. Lời cảm ơn sâu sắc nhất xin được gửi đến PGS.TS. Đỗ Bang, người đã giúp đỡ tôi tận tình trong suốt quá trình thực hiện luận án, cho tôi nhiều lời khuyên và kinh nghiệm quý báu để tôi hoàn tất chương trình theo đúng yêu cầu đặt ra. Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn TS. Phan Thanh Hải, Giám đốc Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế, cũng là cán bộ đồng hướng dẫn với tinh thần trách nhiệm, giúp tôi nhiều ý kiến bổ ích trong quá trình học tập, nghiên cứu để hoàn thành luận án. Xin tỏ lời tri ân đến GS. TS. Nguyễn Quang Ngọc, PGS.TS. Nguyễn Minh Tường, PGS. TS. Vũ Văn Quân, PGS.TS. Trần Thị Mai, PGS.TS. Nguyễn Văn Đăng, PGS.TS. PGS. TS. Bùi Thị Tân, TS. Phan Tiến Dũng đã tận tình đóng góp nhiều ý kiến xác đáng trong quá trình tôi thực hiện luận án. Trên hành trình ấy, tôi đã may mắn có được sự giúp đỡ không mệt mỏi của nhiều thầy cô giáo và bạn bè về mặt tư liệu. Tôi xin tỏ lòng biết ơn đến NNC Vĩnh Cao với sự giúp đỡ to lớn về mặt văn bản Hán tự, xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Văn Hoa đã cho phép tôi tiếp cận các tài liệu gốc có giá trị liên quan đến đề tài. Xin chân thành cảm ơn NCS. Trần Văn Quyến đã luôn hào hiệp giúp tôi tiếp cận các tài liệu một cách nhanh chóng và hiệu quả. Đặc biệt, tôi không thể đặt bút hoàn thành luận án này nếu thiếu sự động viên tinh thần to lớn và kiên nhẫn của GS. Chayan Vaddhanaphuti, người khơi nguồn đam mê nhiệt huyết cho tôi mạnh dạn bước tiếp trên con đường khoa học. Tôi sẽ không thể thực hiện được luận án nếu không có sự cảm thông, giúp đỡ vô điều kiện cả về vật chất lẫn tinh thần của chồng và các con tôi, những người luôn sát cánh bên tôi, tiếp thêm cho tôi sức mạnh vượt qua mọi khó khăn để hoàn thành luận án. Mặc dù đã có nhiều cố gắng song luận án không thể tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Kính mong Quý thầy cô giáo, bạn bè và đồng nghiệp tiếp tục góp ý để luận án ngày càng hoàn thiện hơn. Một lần nữa tôi xin chân thành cám ơn!
  • 5. MỤC LỤC 1. Lý do lựa chọn đề tài.................................................................................... 1 2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 4 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu................................................................ 4 3.1 Mục đích nghiên cứu................................................................................... 4 3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu.................................................................................. 5 4. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu................................................... 5 4.1. Nguồn tƣ liệu.............................................................................................. 5 4.2 Phƣơng pháp nghiên cứu............................................................................. 7 5. Đóng góp của luận án.................................................................................... 8 6. Bố cục của luận án ...................................................................................... 10 CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU........................... 11 1.1 Tình hình nghiên cứu ................................................................................ 11 1.1.1 Các công trình nghiên cứu trƣớc năm 1975........................................... 11 1.1.2 Các công trình nghiên cứu từ năm 1975 đến nay .................................. 14 1.2 Kết quả nghiên cứu và những vấn đề đặt ra.............................................. 25 CHƢƠNG 2: SỰ HÌNH THÀNH CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ........................................................................................... 28 2.1 Khái niệm, nguồn gốc của đàn miếu đại tự và nghi lễ cúng tế................. 28 2.1.1 Về khái niệm .......................................................................................... 28 2.1.2 Về nguồn gốc ......................................................................................... 29 2.2 Cơ sở của việc hình thành các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế ............... 31 2.2.1 Các đàn miếu đại tự của các triều đại trƣớc triều Nguyễn ở Việt Nam. 31 2.2.2 Bối cảnh ra đời của các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế ............... 41 2.2.3 Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế từ khi xây dựng đến trƣớc năm 1885................................................................................................................. 46
  • 6. 2.2.4 Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế từ năm 1885 đến 1945 ......... 60 Tiểu kết chƣơng 2............................................................................................ 65 CHƢƠNG 3: NGHI LỄ ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ........................ 67 3.1 Các cơ quan tham gia trực tiếp vào quá trình chuẩn bị và thực hiện nghi lễ tế đại tự............................................................................................................ 67 3.1.1 Phủ Tôn Nhân ........................................................................................ 67 3.1.2 Bộ Lễ...................................................................................................... 68 3.1.3 Bộ Binh .................................................................................................. 68 3.1.4 Bộ Công................................................................................................. 71 3.1.5 Viện Tập Hiền........................................................................................ 71 3.1.6 Thái Thƣờng Tự ..................................................................................... 71 3.1.7 Quang Lộc Tự ........................................................................................ 71 3.1.8 Phủ Nội Vụ............................................................................................. 72 3.1.9 Khâm Thiên Giám.................................................................................. 72 3.1.10 Chủ tế và các bồi tự, phân hiến, chấp sự.............................................. 72 3.2 Những vấn đề chung về các nghi lễ đại tự..................................................... 76 3.2.1 Công việc chuẩn bị................................................................................. 76 3.2.2 Âm nhạc và múa..................................................................................... 84 a. Âm nhạc....................................................................................................... 84 3.2.3 Trang phục.............................................................................................. 86 3.2.4 Văn tế ..................................................................................................... 88 3.3 Nghi lễ đại tự triều Nguyễn ở Huế từ 1802 đến trƣớc năm 1885 ............. 89 3.3.1 Nghi lễ tế Giao ....................................................................................... 90 3.3.2 Nghi lễ tế tông miếu............................................................................... 93 3.3.3 Nghi lễ tế Xã Tắc ................................................................................... 95 3.4 Hoạt động tế đại tự triều Nguyễn ở Huế giai đoạn 1885 - 1945.............. 95 Tiểu kết chƣơng 3............................................................................................ 99
  • 7. CHƢƠNG 4: ĐÀN MIẾU VÀ NGHI LỄ ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ: NHỮNG ĐẶC TRƢNG VÀ VẤN ĐỀ BẢO TỒN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ101 4.1 Những đặc trƣng của đàn miếu và nghi lễ đại tự triều Nguyễn ở Huế........... 101 4.1.1 Đặc trƣng về quy hoạch ....................................................................... 101 4.1.2 Đặc trƣng về kiến trúc.......................................................................... 103 4.1.3 Đặc trƣng về trang trí mỹ thuật............................................................ 106 4.1.4 Tính điển chế trong nghi lễ đại tự........................................................ 107 4.1.5 Tính chính danh trong nghi lễ đại tự.................................................... 110 4.1.6 Triết lý Nho giáo trong việc xây dựng đàn miếu và nghi lễ đại tự...... 112 4.2 Vấn đề bảo tồn, phát huy giá trị đàn miếu và nghi lễ đại tự triều Nguyễn ở Huế ................................................................................................................ 117 4.2.1 Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế từ năm 1945 đến nay .......................................................................... 118 4.2.2 Đề xuất hƣớng bảo tồn và phát huy giá trị đàn miếu và nghi lễ đại tự triều Nguyễn ở Huế....................................................................................... 128 Tiểu kết chƣơng 4.......................................................................................... 132 KẾT LUẬN................................................................................................... 134 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ..................................................................................................... 138 TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................. 139 BẢNG CHÚ GIẢI MỘT SỐ TỪ VỰNG ..................................................... 153 PHỤ LỤC
  • 8. DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT DÙNG TRONG LUẬN ÁN ÂL Âm lịch BAVH Bulletin des Amis du Vieux Hué (Những ngƣời bạn Cố đô Huế) BBT Ban biên tập GS. Giáo sƣ HĐND Hội đồng Nhân dân Loại chí Lịch triều hiến chƣơng loại chí Nxb. Nhà xuất bản PL. Phụ lục Sđd Sách đã dẫn Toàn thƣ Đại Việt sử ký toàn thƣ TCN. Trƣớc Công nguyên ThS. Thạc sĩ Tp. Thành phố Tr. Trang TS. Tiến sĩ TƢ Trung ƣơng UBND Ủy ban Nhân dân UNESCO Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc XHCN Xã hội chủ nghĩa
  • 9. DANH MỤC PHỤ LỤC STT NỘI DUNG 2.1 Sơ đồ vị trí các đàn miếu trong quần thể di tích cố đô Huế 2.2 Sơ đồ đàn Nam Giao và các công trình phối thuộc (1915) 2.3 Sơ đồ vị trí quy hoạch các miếu thờ trong Hoàng thành Huế 2.4 Bản vẽ kiến trúc Triệu Miếu (mặt đứng, mặt cắt) 2.5 Nội dung văn bia Thái Miếu 2.6 Nội dung văn bia Hoàng Khảo Miếu 2.7 Nội dung văn bia Hƣng Miếu 2.8 Bản vẽ kiến trúc Thế Miếu 2.9 Sơ đồ kiến trúc đàn Xã Tắc 3.1 Châu bản thời Minh Mạng năm thứ 22 (1841): Phủ Tôn Nhân khải về điển lễ cúng tế 3.2 Châu bản thời Minh Mạng năm thứ 7 (1826) về việc định ngày tế Giao 3.3 Nhật kỳ dâng lễ tại các miếu trong Hoàng thành Huế 3.4 Nhật kỳ tế đại tự ở Huế dƣới triều Nguyễn 3.5 Các loại vật đựng chính trong lễ tế đại tự triều Nguyễn 3.6 Các loại lụa tế trong lễ đại tự triều Nguyễn ở Huế 3.7 Các lễ vật chính trong tế đại tự triều Nguyễn 3.8 Sơ đồ vị trí các án thờ tại lễ tế Giao (1915) 3.9 Sơ đồ quy hoạch Thế Miếu và vị trí các án thờ hiện nay 3.10 Sơ đồ thế thứ các vua Nguyễn (1802-1945) 3.11 Bảng so sánh trình tự nghi thức các lễ đại tự triều Nguyễn 4.1 Sơ đồ đàn Xã Tắc đƣợc tô màu mặt nền (giả định theo sử liệu) 4.2 Một số vật đựng dùng trong nghi lễ đại tự triều Nguyễn
  • 10. DANH MỤC ẢNH MINH HỌA STT NỘI DUNG 2.1 Bia Nam Giao điện bi ký (Bảo tàng Lịch sử quốc gia, Hà Nội) 2.2 Di tích đàn Nam Giao nhà Hồ ở Thanh Hóa 2.3 Đàn tế Trời của nhà Tây Sơn ở Bình Định (đƣợc phục dựng năm 2011-2012) 2.4 Núi Bân 2.5 Dấu vết gạch và nền móng cũ ở núi Bân (Huế) 2.6 Đền Lý Bát Đế ở Bắc Ninh (xây dựng lại năm 1989). 2.7 Đền thờ các vua thời Lê Trung Hƣng ở Thanh Hóa (xây dựng năm 2011) 2.8 Ô thơ trên điện Thái Hòa 2.9 Đàn Nam Giao triều Nguyễn ở Huế 2.10 Thẻ bằng đồng treo cây thông ở đàn Nam Giao 2.11 Triệu Miếu 2.12 Thái Miếu hiện nay 2.13 Hƣng Miếu 2.14 Bia Thái Miếu 2.15 Hai tấm bia ở Hƣng Miếu 2.16 Thế Miếu (khoảng 1919-1926) 2.17 Một góc Thế Miếu và nhà thờ Thổ Công nhìn từ Cửu đỉnh (khoảng đầu thế kỷ 20) 2.18 Vị trí đàn Xã Tắc ở góc Tây Bắc trong Kinh thành Huế 2.19 Đàn Xã Tắc Huế năm 1914 3.1 Phủ Tôn nhân và Hội đồng Tôn Nhân Phủ cùng các quan chức Pháp (1929) 3.2 Lễ Bộ đƣờng 3.3 Đoàn ngự đạo rƣớc vua đi tế Giao năm 1915
  • 11. 3.4 Tƣợng đồng nhân (phục chế) 3.5 Một nhóm nhạc công trong lễ tế Giao 1924 3.6 Múa Bát dật trong lễ tế Giao, 1915 3.7 Vua Khải Định trong trang phục tế Giao (1924) 3.8 Một bộ trang phục tế Giao đầy đủ của vua Nguyễn (1915) 3.9 Lễ tế Giao năm 1924 3.10 Sân Thế Miếu -Hiển Lâm Các trƣớc kỳ lễ, khoảng đầu thế kỷ XX 3.11 Một gian thờ ở Thế Miếu 4.1 Thái Miếu Trung Quốc 4.2 Tông Miếu triều Joseon Hàn Quốc 4.3 Đàn Xã Tắc Trung Quốc 4.4 Hoàng khung vũ đàn Nam Giao triều Joseon, Hàn Quốc 4.5 Trống đá ở đàn Nam Giao triều Joseon, Hàn Quốc 4.6 Đàn Xã Tắc triều Joseon, Hàn Quốc 4.7 Trang trí hồ lô trên nóc Thế Miếu 4.8 Trang trí thơ văn trên kiến trúc Thế Miếu 4.9 Trang trí đầu máng xối trên nóc Thế Miếu 4.10 Thế Miếu nhìn từ thềm Hiển Lâm Các và Cửu đỉnh 4.11 Khai quật khảo cổ đàn Xã Tắc ở Huế 4.12 Bia Thái Xã Chi Thần 4.13 Đàn Xã Tắc triều Nguyễn ở Huế sau khi phục hồi 4.14 Lễ tế Giao 2008 4.15 Lễ vật tam sinh tại lễ tế Giao 2014 4.16 Lễ tế Xã Tắc năm 2014 4.17 Một số bài vị đặt ở Viên đàn trong lễ tế Giao 2014 4.18 Sự quan tâm của cộng đồng và vai trò của lãnh đạo tỉnh Thừa Thiên Huế trong lễ tế Giao 4.19 Ngƣời dân dâng hƣơng tại lễ tế Giao 2014 4.20 Ngƣời dân làm lễ ở Phƣơng đàn trong lễ tế Giao ngày 17/4/2014 4.21 Một lễ kỵ ở Thế Miếu do Nguyễn Phúc Tộc tổ chức (năm 2006)
  • 12. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài Triều Nguyễn (1802-1945), triều đại quân chủ cuối cùng ở Việt Nam, đƣợc đánh giá là “đã xây dựng một cơ chế quân chủ tập quyền mạnh mẽ với một bộ máy hành chính và một thiết chế vận hành qui củ, chặt chẽ…” [65; tr. 19]. Với việc chọn Huế làm kinh đô, triều đại này đã để lại một di sản vật thể đồ sộ gồm nhiều kiến trúc cung đình, trong đó các công trình phục vụ cho hoạt động nghi lễ của triều đình chiếm một số lƣợng lớn và là những công trình chính trong các cụm kiến trúc phục vụ đời sống vật chất và tinh thần của triều đại. Bên cạnh đó, các vua Nguyễn cũng đặt ra nhiều quy chế, điển lệ cho việc tế tự trong dân gian cũng nhƣ trong cung đình. Chỉ riêng những quy định dành cho việc nghi lễ, tế tự của triều đình đã chiếm 68 quyển trong tổng số 263 quyển của bộ Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ do Nội các triều Nguyễn tập hợp và biên soạn. Điều này cho thấy vấn đề nghi lễ, tế tự chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa và chính trị của triều đại này. Trong hệ thống lễ nghi thời Nguyễn, việc tế tự có ba bậc: đại tự, quần tự và trung tự, trong đó các lễ đại tự quan trọng nhất, bao gồm tế Giao, tế các miếu thờ tổ tiên của nhà vua (tế tông miếu1 ) và tế đàn Xã Tắc. Các hình thức đàn miếu2 và nghi lễ đại tự có vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh của các triều đại quân chủ ở Việt Nam, đặc biệt là triều Nguyễn-triều đại để lại một kho tàng di sản văn hóa đồ sộ và độc đáo đƣợc ghi nhận ở tầm quốc gia và quốc tế, góp phần hình thành bản sắc văn hóa Huế ngày nay. Sự hình thành của các công trình này cũng nhƣ các nghi thức tế tự đều có ảnh hƣởng của tƣ tƣởng Nho giáo Trung Quốc ở một mức độ nhất định và đƣợc triều Nguyễn, nhất là các vị vua đầu triều, đặc biệt chú trọng. Việc quy hoạch vị trí, 1 Dƣới thời Nguyễn, bắt đầu từ thời vua Thiệu Trị (1841-1847), đổi đọc là “tôn miếu” vì kỵ húy tên của vua Thiệu Trị (Nguyễn Phúc Miên Tông) [83, VI, tr. 77]. 2 Trong luận án này, tác giả dùng cụm từ “đàn miếu” theo hình thức từ ghép đẳng lập gộp nghĩa (thuộc mô hình ngữ nghĩa AB=A+B), trong đó nghĩa của từng thành tố (đàn, miếu) cùng gộp lại để biểu thị ý nghĩa khái quát chung về một hình thức đại tự cùng có những đặc điểm chung về điển chế và ý nghĩa triết lý, trong ý nghĩa chung đó có ý nghĩa riêng của từng thành tố, sẽ đƣợc giải thích ngữ nghĩa từng hình thức tại chƣơng 2.
  • 13. 2 xây dựng kiến trúc và thực hành nghi lễ đƣợc điển chế hóa bằng nhiều quy định chặt chẽ. Vì thế, có thể nói các đàn miếu và nghi lễ đại tự triều Nguyễn ở Huế là những hình thức tiêu biểu và hoàn thiện nhất trong các đàn miếu thời kỳ quân chủ ở Việt Nam. Sau khi triều Nguyễn cáo chung vào năm 1945, dƣới nhiều tác động của bối cảnh chính trị, xã hội khác nhau, các đàn miếu và nghi lễ đại tự cũng mất đi chủ thể của nghi lễ. Duy chỉ có lễ kỵ ở các miếu thờ hoàng gia tuy không còn đƣợc tổ chức thƣờng xuyên theo nhật kỳ tế tự thời quân chủ, thậm chí có thời gian bị gián đoạn và cũng không còn đƣợc tổ chức ở tầm quốc gia nhƣng vẫn đƣợc các thành viên trong dòng tộc duy trì cho đến ngày nay, trở thành một hoạt động văn hóa mang đậm bản sắc của nghi lễ cung đình Huế. Từ Festival Huế 2004, lễ tế Nam Giao đƣợc tái hiện và kể từ đó đến nay, đây là một trong những hoạt động chính của các kỳ Festival Huế. Cũng từ năm 2009, sau khi kiến trúc đàn Xã Tắc đƣợc phục dựng, lễ tế đàn Xã Tắc cũng đƣợc tổ chức thƣờng niên tại công trình này. Trong sự nghiệp bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, các công trình nhƣ đàn Nam Giao, đàn Xã Tắc và các miếu thờ hoàng gia triều Nguyễn là những di sản văn hóa không thể tách rời của văn hóa cung đình Huế. Đây cũng là những di tích góp phần hình thành nên quần thể di tích cố đô Huế-Di sản Văn hóa Thế giới, có tầm quan trọng đặc biệt cấp quốc gia và mang giá trị nổi bật toàn cầu. Vì vậy, các đàn miếu và nghi lễ đại tự cần đƣợc nghiên cứu đầy đủ, toàn diện để có sự nhìn nhận, đánh giá đúng vai trò của những di sản văn hóa này trong sự hình thành của văn hóa cung đình nói riêng và văn hóa Huế nói chung, đồng thời có chiến lƣợc bảo tồn nhằm giữ gìn và phát huy giá trị di sản văn hóa truyền thống, xây dựng Thừa Thiên Huế thành một trung tâm văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc và bản sắc văn hóa Huế, nhƣ Kết luận của Bộ Chính trị về Xây dựng, phát triển tỉnh Thừa Thiên-Huế và đô thị Huế đến năm 2020 đã đặt ra [8; tr. 4]. Tuy nhiên, các hình thức đàn miếu và nghi lễ đại tự triều Nguyễn ở Huế mới chỉ đƣợc đề cập đến trong các bài viết, công trình nghiên cứu trƣớc đây theo từng khía cạnh của vấn đề hoặc từng đối tƣợng riêng biệt trong khi sự tồn tại của các công trình kiến trúc đàn miếu đại tự, các hoạt động nghi lễ và các thiết chế văn hóa
  • 14. 3 liên quan đều có quan hệ chặt chẽ với nhau và đều mang những nét đặc trƣng của triều đại. Vì vậy, việc nghiên cứu các đàn miếu và nghi lễ đại tự trong mối liên hệ tổng thể giữa công trình kiến trúc và nghi lễ tế tự thực sự có ý nghĩa khoa học và thực tiễn. Về ý nghĩa khoa học, việc nghiên cứu các công trình đàn miếu và nghi lễ đại tự trong mối liên hệ thống nhất về ý nghĩa triết lý và vai trò của các công trình này đối với các triều đại quân chủ ở Việt Nam, đặc biệt dƣới triều Nguyễn, là một việc cần thiết nhằm cung cấp thêm cơ sở khoa học cho các hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa Huế hiện nay. Đây cũng sẽ là công trình đầu tiên tập trung đánh giá đầy đủ, khách quan và hệ thống về quá trình hình thành và phát triển của các đàn miếu đại tự triều Nguyễn tại Huế và nghi thức tế tự. Mặt khác, phần lớn các bài viết, công trình nghiên cứu về các đàn miếu và nghi thức tế đại tự đều chỉ dừng lại ở việc mô tả về lịch sử, quy mô kiến trúc hoặc sự kiện chứ chƣa đi sâu phân tích vai trò và ý nghĩa về mặt xã hội của các đàn miếu và nghi thức tế đại tự trong những hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội cụ thể. Việc nghiên cứu các đàn miếu và nghi thức tế đại tự trong mối tƣơng quan với những hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội cụ thể sẽ giúp đƣa ra những đánh giá toàn diện và khách quan đối với các hoạt động này trong lịch sử cũng nhƣ trong giai đoạn hiện nay. Về ý nghĩa thực tiễn, luận án sẽ hỗ trợ việc nghiên cứu và giảng dạy về triều Nguyễn ở những khía cạnh có liên quan trong nhà trƣờng và cho công tác bảo tồn, phục dựng, đáp ứng nhu cầu du lịch văn hóa, đặc biệt là văn hóa tâm linh vùng Huế. Đồng thời, dựa trên những kết quả nghiên cứu về đặc điểm của các đàn miếu và nghi lễ đại tự triều Nguyễn ở Huế, luận án sẽ đƣa ra một số đề xuất hƣớng bảo tồn và phát huy giá trị các đàn miếu đại tự trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt là khi các nghi thức tế đại tự của triều Nguyễn hiện đang đƣợc phục dựng ở những quy mô khác nhau và có nhiều ý kiến khác nhau về việc phục dựng này. Từ những ý nghĩa trên, tác giả chọn vấn đề “Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945): sự hình thành và nghi thức tế tự” làm đề tài luận án Tiến sĩ chuyên ngành Lịch sử Việt Nam.
  • 15. 4 2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế, bao gồm: đàn Nam Giao, các miếu thờ tổ tiên của họ Nguyễn trong khu vực Hoàng thành Huế (Triệu Tổ Miếu, Thái Tổ Miếu, Thế Tổ Miếu và Hƣng Tổ Miếu) và đàn Xã Tắc, cùng các nghi lễ tế tự tƣơng ứng, bao gồm lễ tế Giao, lễ tế miếu và lễ tế Xã Tắc. Không gian nghiên cứu của đề tài là tại Huế, tập trung chủ yếu ở khu vực đàn Nam Giao, đàn Xã Tắc và các miếu thờ của triều Nguyễn trong Hoàng thành Huế. Phạm vi nghiên cứu về mặt thời gian của đề tài là quá trình hình thành và phát triển của các đàn miếu đại tự triều Nguyễn tại Huế từ khi mới lập nên triều đại cho đến khi kết thúc (1802-1945). Tuy nhiên, sự hình thành của các đàn miếu đại tự của triều Nguyễn có sự kế thừa từ các hình thức đàn miếu đại tự cùng loại của các triều đại trƣớc nên luận án sẽ có phần sơ khảo về lịch sử hình thành và phát triển của các hình thức đàn miếu đại tự dƣới các triều đại trƣớc Nguyễn ở Việt Nam. Mặt khác, các đàn miếu đại tự hiện vẫn đang đƣợc bảo tồn và phát huy giá trị cùng với những hoạt động văn hóa đặc sắc. Vì vậy, luận án cũng sẽ tìm hiểu về các đàn miếu đại tự và hoạt động nghi lễ trong thời gian từ sau 1945 đến thời điểm hoàn tất luận án (cuối năm 2015) để có thêm cơ sở cho những đề xuất hƣớng nghiên cứu trong tƣơng lai. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1 Mục đích nghiên cứu Nhìn chung, đến nay đã có một số công trình nghiên cứu về các đàn miếu đại tự và những nghi lễ liên quan dƣới triều Nguyễn. Tuy nhiên, các công trình này chỉ dừng lại ở việc mô tả từng đối tƣợng riêng lẻ hoặc đề cập đến đối tƣợng ở những khía cạnh và mức độ nhất định. Trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu của những ngƣời đi trƣớc, luận án sẽ tiếp tục đi sâu tìm hiểu cơ sở của sự ra đời, quá trình hình thành và phát triển qua các thời kỳ trong lich sử cũng nhƣ các đặc điểm của các đàn miếu và nghi lễ đại tự triều Nguyễn ở Huế, từ đó làm rõ ý nghĩa và vai trò của các công trình đàn miếu và nghi lễ đại tự đối với triều đại này trong lịch sử Việt Nam.
  • 16. 5 Dƣới nhiều tác động của bối cảnh chính trị, xã hội khác nhau, các đàn miếu và nghi lễ đại tự triều Nguyễn ở Huế hiện đã và đang đƣợc bảo tồn, phát huy giá trị tích cực trong bối cảnh mới. Quy mô và nhiều yếu tố gắn liền với chúng nhƣ trình tự nghi thức, trang phục, đồ tự khí và lễ vật cúng tế cũng có nhiều thay đổi nhằm thích nghi với hoàn cảnh hiện nay. Kết quả nghiên cứu của luận án cũng nhằm góp thêm cơ sở khoa học để đảm bảo sự cân bằng giữa mục tiêu bảo tồn tính chân xác của di sản với việc phát huy giá trị di sản văn hóa phục vụ phát triển du lịch một cách bền vững. 3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt đƣợc những mục đích nêu trên, luận án cần tập hợp thành hệ thống những thông tin liên quan đến lịch sử hình thành, việc quy hoạch và xây dựng đàn miếu đại tự thời Nguyễn tại Huế, tìm hiểu các cơ quan tham gia vào quá trình chuẩn bị, tổ chức nghi lễ đại tự, âm nhạc và múa, trang phục, văn tế, trình tự nghi thức... để qua đó phân tích, đánh giá những đặc điểm của các đàn miếu và nghi lễ đại tự triều Nguyễn, ý nghĩa cũng nhƣ vai trò của chúng đối với đời sống văn hóa tinh thần của triều đại này từ 1802-1945. Luận án cũng cần có sự tham khảo để so sánh, đối chiếu với những hình thức tƣơng tự ở một số nƣớc đồng văn khác trong khu vực, rút ra những nét đặc trƣng của triều Nguyễn nhìn từ các đàn miếu và nghi lễ đại tự ở Huế. Bên cạnh đó, luận án cũng cần tiếp tục khảo sát tình hình bảo tồn đàn miếu và thực hành nghi lễ sau khi triều Nguyễn cáo chung năm 1945 cũng nhƣ những biến đổi trong cách tổ chức, thực hành văn hóa và tác động tâm lý xã hội từ việc tham gia nghi lễ để tìm hiểu ý nghĩa, bản chất của những nghi lễ phục dựng hiện nay nhằm đƣa ra những đề xuất định hƣớng cho việc bảo tồn và phục dựng các nghi lễ đại tự trong bối cảnh mới dựa trên sự tôn trọng lịch sử và thể hiện nét đặc trƣng văn hóa đặc sắc của địa phƣơng. 4. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Nguồn tư liệu Nguồn tƣ liệu có tính quyết định đến sự thành công của đề tài này bao gồm các loại thƣ tịch của triều Nguyễn và các công trình nghiên cứu về văn hóa, lịch
  • 17. 6 sử, địa lý...Ngoài ra còn có các luận văn, các loại tạp chí, các bài viết của các tác giả trong và ngoài nƣớc về tôn giáo và nghi lễ và các tài liệu thu đƣợc từ khảo sát thực địa. Trƣớc hết, có thể kể đến nguồn tƣ liệu phong phú, gồm các bộ sử đồ sộ của Quốc sử quán và Nội Các triều Nguyễn mang tính biên niên, ghi chép các sự kiện liên quan đến chính sự, chế độ, điển chế,.. v.v..nhƣ: Đại Nam thực lục, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên, Đại Nam thực lục chính biên đệ lục kỷ phụ biên, Đại Nam thực lục Chính biên đệ thất kỷ, Đồng Khánh Khải Định chính yếu và các châu bản triều Nguyễn có liên quan đến đề tài; hoặc các loại tƣ liệu về địa chí nhƣ bộ Đại Nam nhất thống chí (một bộ biên soạn đời Tự Đức năm 1865-1882; ngoài ra còn có bộ Đại Nam nhất thống chí do Quốc sử quán đời Duy Tân biên soạn, chỉ có các tỉnh Trung kỳ và đƣợc khắc in năm 1909. Các bản này đƣợc dịch sang tiếng Việt và tái bản vào các năm 1960, 1969, 2006….) Ngoài ra còn có một số công trình khảo cứu trực tiếp về nghi lễ đại tự triều Nguyễn trƣớc và sau khi triều Nguyễn cáo chung, nhƣ tạp chí Bulletin des Amis du Vieux Hué (BAVH / Những ngƣời bạn cố đô Huế) của Hội đô thành hiếu cổ (1914-1944) hoặc tác phẩm của những ngƣời trực tiếp chứng kiến nghi lễ đại tự thời Nguyễn nhƣ Lễ tế Nam Giao của Hồng Hoài Lê Văn Hoàng (1972) hoặc luận án Sự tích đàn Nam Giao và các cuộc lễ tế Giao tại Huế (1973) của tác giả Lê Văn Phƣớc. Bên cạnh đó còn có nhiều tác phẩm khác viết về nguồn gốc tƣ tƣởng, phong tục, tập quán, âm nhạc, nghi thức, sự ảnh hƣởng của Nho giáo Trung Quốc v..v..liên quan đến vấn đề đƣợc bàn đến trong nội dung đề tài, tiêu biểu có Những đại lễ và vũ khúc của vua chúa Việt Nam của Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề (in lần đầu năm 1968), Việt Nam phong tục của Phan Kế Bính (xuất bản lần đầu tiên năm 1915, tái bản năm 2005), Nho giáo của Trần Trọng Kim (in lần đầu vào những năm 1929- 1933, tái bản năm 1992), Lịch sử tư tưởng phương Đông và Việt Nam của Nguyễn Minh Tƣờng (2012).
  • 18. 7 Ngoài ra còn có các bài viết của nhiều tác giả trên các Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Nghiên cứu Lịch sử, Nghiên cứu Huế, Huế Xưa & Nay, Nghiên cứu và Phát triển, các kỷ yếu Hội thảo về triều Nguyễn,v.v.. viết về những khía cạnh liên quan đến đề tài nghiên cứu của luận án. Luận án cũng tham khảo các công trình nghiên cứu, luận văn, luận án của các nhà nghiên cứu nƣớc ngoài nhƣ Li Tana, Yu Insun…; các kỷ yếu hội thảo, hội nghị hoặc các bài viết đã đƣợc đăng tải trên các Tạp chí uy tín hay đã đƣợc xuất bản của một số tác giả trong và ngoài nƣớc. Đặc biệt, có một số bài viết phân tích khá sâu về tôn giáo và nghi lễ của các triều đình ở Việt Nam, nhƣ: “Religion and Ritual in the Royal Courts of Đại Việt” của John K. Whitmore đăng trong Asia Research Institute Working Paper Series No. 128 (Loạt bài viết của Viện Nghiên cứu châu Á, Đại học Quốc gia Singapore, tháng 12/2009) hoặc những mô tả của các nhân chứng là ngƣời nƣớc ngoài có dịp tiếp xúc hoặc chứng kiến các hoạt động tế tự của triều đình Nguyễn. Những bài viết này cung cấp một cách nhìn nhận và đánh giá tính chất đặc trƣng các Nhà nƣớc phong kiến ở Việt Nam dƣới nhiều góc độ khác nhau, trong đó có nhiều khía cạnh liên quan đến đề tài. Các nguồn tƣ liệu thu đƣợc từ khảo sát thực địa tại một số di tích có liên quan (đàn Nam Giao, đàn Xã Tắc, các miếu thờ hoàng gia) ở trong và ngoài nƣớc, tƣ liệu khảo cổ, các sƣu tập hiện vật bảo tàng và thông tin từ phỏng vấn nhân chứng trong quá trình khảo sát, điền dã cũng đem lại những cơ sở khoa học đáng tin cậy cho đề tài. Ngoài những tài liệu trong và ngoài nƣớc có liên quan đến đề tài nêu trên, chúng tôi cũng tiếp cận, khai thác một số tài liệu đăng tải trên internet. Có thể nói những tài liệu này hết sức phong phú, đa dạng và mức độ đề cập cũng rất khác nhau. Do đó chúng tôi sẽ phân loại và thẩm định kỹ lƣỡng trƣớc khi sử dụng để nghiên cứu đề tài. 4.2 Phương pháp nghiên cứu Để đáp ứng yêu cầu thực hiện đề tài thuộc lĩnh vực khoa học xã hội, phƣơng pháp chuyên ngành khoa học lịch sử là phƣơng pháp chủ yếu đƣợc áp dụng trong luận án, kết hợp với phƣơng pháp logic để trình bày một cách hệ thống quá trình hình thành, phát triển, suy tàn và đƣợc phục hồi của các đàn miếu và nghi lễ đại tự
  • 19. 8 triều Nguyễn ở Huế, đồng thời làm rõ tính kế thừa từ các triều đại trƣớc trong lịch sử Việt Nam. Đồng thời, kết quả nghiên cứu bằng các phƣơng pháp này cũng giúp đánh giá sự ảnh hƣởng của tƣ tƣởng Nho giáo trong việc xây dựng và củng cố quyền lực của triều Nguyễn thông qua hình thức các đàn miếu và nghi lễ đại tự ở Huế và vai trò của chúng đối với sự tồn tại và phát triển của vƣơng triều Nguyễn. Trong quá trình phân tích và đánh giá, luận án cũng chú ý vận dụng các phƣơng pháp liên ngành, nhƣ các phƣơng pháp phân tích thƣ tịch, nghiên cứu kết quả khảo cổ học, phƣơng pháp thống kê - phân loại và so sánh, đối chiếu các loại bảng biểu, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ, ảnh chụp, v..v..để tìm hiểu những thông tin chi tiết về những đặc điểm của các đàn miếu đại tự và thực hành nghi lễ liên quan dƣới triều Nguyễn tại Huế. Đặc biệt, những phƣơng pháp này đƣợc kết hợp với phƣơng pháp so sánh lịch sử đồng đại và lịch đại để tìm ra những nét đặc trƣng của các đàn miếu và nghi lễ đại tự triều Nguyễn so với các hình thức tƣơng tự của Trung Quốc và Hàn Quốc, thể hiện bản sắc và tinh thần tự tôn dân tộc trong quá trình tiếp thu những ảnh hƣởng văn hóa từ bên ngoài một cách chủ định và có chọn lọc, làm rõ tính mục đích của việc thiết lập các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế. Phƣơng pháp hệ thống-cấu trúc kết hợp với phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành bao gồm điền dã dân tộc học, phỏng vấn nhân chứng, quan sát và quan sát tham dự trong nhân học văn hóa cho phép tác giả luận án tìm hiểu những tác động của bối cảnh chính trị, xã hội đối với quá trình hình thành đàn miếu và nghi lễ đại tự. Mặc khác, kết quả nghiên cứu cũng giúp tác giả tìm hiểu vai trò của các đàn miếu và nghi lễ phục dựng hiện nay đối với cộng đồng trong sự thích ứng với bối cảnh văn hóa, chính trị, xã hội ở Việt Nam giai đoạn hiện nay. Trong việc xử lý tƣ liệu, tác giả sẽ cố gắng bám vào tƣ liệu gốc và các tƣ liệu dịch thuật bởi các cơ quan chuyên môn có uy tín. Tuy nhiên, trong trƣờng hợp tác giả không thể tiếp cận tƣ liệu gốc mà phải trích dẫn lại, tác giả đều nói rõ nguồn. 5. Đóng góp của luận án 5.1 Về mặt thực tiễn, luận án sẽ cung cấp một cách đánh giá tổng quan về đề tài thông qua việc hệ thống hóa các thông tin thu thập đƣợc trong quá trình nghiên cứu tƣ liệu và điền dã, góp phần phục vụ cho công tác nghiên cứu trong lĩnh vực
  • 20. 9 văn hóa vật thể và phi vật thể liên quan đến các đàn miếu và nghi lễ đại tự. Việc hiểu đúng và hiểu sâu về các đàn miếu và nghi thức đại tự triều Nguyễn sẽ góp phần đƣa ra định hƣớng và phƣơng pháp đúng đắn trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị di sản đã đƣợc công nhận là di sản văn hóa quốc gia cấp đặc biệt và là di sản văn hóa thế giới. 5.2 Về mặt lý thuyết, kế thừa các kết quả của các nhà nghiên cứu đi trƣớc, khắc phục những điểm còn hạn chế và kết hợp với cách kiến giải dựa trên sự phân tích, tổng hợp các thông tin thu đƣợc từ quá trình nghiên cứu tƣ liệu, luận án sẽ đƣa ra cách nhìn mới về các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế. Mặc dù đề tài và đối tƣợng nghiên cứu không mới và đã đƣợc nhiều tác giả đề cập tới từ đầu thế kỷ, nhƣng việc vận dụng cách tiếp cận liên ngành kết hợp với kỹ năng lập luận, phân tích, luận án sẽ góp phần chứng minh các đàn miếu và nghi lễ đại tự triều Nguyễn ở Huế cũng là hình thức thể hiện tính chính thống của quyền lực nhà vua dƣới thời quân chủ. Nói cách khác, nghi lễ đại tự cũng chính là nghi lễ của quyền lực. Mọi chi tiết về quy hoạch và xây dựng, trang trí kiến trúc hay những thủ tục trình tự nghi thức, nhạc, múa, trang phục, lễ phẩm v..v...của các đàn miếu và nghi lễ đại tự đều nhằm mục đích thể hiện quân quyền, cùng với đó là thần quyền trong một ý nghĩa tâm linh huyền bí mà nghi lễ đem lại. 5.3 Bên cạnh đó, luận án cũng sử dụng những thông tin tƣ liệu để so sánh và khảo sát thực tế để xác định đâu là những nét bản sắc của triều Nguyễn thể hiện bản lĩnh và sự sáng tạo trong cách vận dụng tƣ tƣởng Nho giáo Trung Quốc vào điều kiện thực tế của Việt Nam và kế thừa các triều đại trƣớc. Đó chính là những nét đặc trƣng thể hiện tinh thần tự tôn dân tộc của các vua Nguyễn, đặc biệt là vào buổi đầu của triều đại. Điều này thể hiện qua việc quy hoạch và xây dựng đàn miếu có phần khác với Trung Quốc và Hàn Quốc, cũng nhƣ việc thực hành nghi lễ tế tự một cách quy củ. Mặt khác, kết quả điền dã thực địa cho thấy trong số các nghi lễ đại tự của triều Nguyễn, chỉ có lễ tế miếu - hay nói đúng hơn là lễ kỵ giỗ của Nguyễn Phúc Tộc, đã và vẫn đang đƣợc dòng họ tổ chức trong gia đình và ở các tông miếu hoàng gia tại hoàng cung, thể hiện truyền thống thờ cúng tổ tiên, mang đậm nét địa phƣơng và bản sắc của một triều đại. Nghi lễ này cho dù có nhiều thay đổi nhƣng
  • 21. 10 vẫn tồn tại nhƣ một cách thích ứng trƣớc áp lực của sự toàn cầu hóa và hiện đại hóa trong bối cảnh hiện nay và vẫn giữ nguyên những giá trị văn hóa và tinh thần. 6. Bố cục của luận án Ngoài phần Mở đầu (10 trang), Kết luận (4 trang), Danh mục các công trình khoa học liên quan đã công bố (3 trang), Tài liệu tham khảo (14 trang), Bảng Chú giải một số từ vựng (5 trang), Phụ lục (70 trang), nội dung chính của luận án đƣợc chia làm 4 chƣơng: Chƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu (17 trang) Chƣơng 2: Sự hình thành các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945) (39 trang) Chƣơng 3. Nghi lễ đại tự triều Nguyễn ở Huế (33 trang) Chƣơng 4. Đàn miếu và nghi lễ đại tự triều Nguyễn ở Huế: những đặc trƣng và vấn đề bảo tồn, phát huy giá trị (32 trang)
  • 22. 11 CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1 Tình hình nghiên cứu 1.1.1 Các công trình nghiên cứu trước năm 1975 Trƣớc hết, liên quan trực tiếp đến đề tài của luận án có các công trình nghiên cứu đã đƣợc thực hiện và ấn hành từ những năm triều Nguyễn chƣa chấm dứt, tiêu biểu là bộ Bulletin des Amis du Vieux Hué (BAVH/Những ngƣời bạn cố đô Huế) của Hội đô thành hiếu cổ với nhiều bài viết của L. Cadière [147]; [148]; [149]; Nguyễn Đình Hoè [151], R. Orband [153]; [154]; [155]; [156], H. De Pirey [157], A. Sallet [158]...cung cấp nhiều thông tin tƣ liệu đáng quý về các đối tƣợng của đề tài, trong đó có nhiều bài viết mô tả cụ thể về đàn Nam Giao và nghi thức tế Giao hoặc đàn Xã Tắc thời Nguyễn kèm theo bản vẽ hoặc ảnh chụp, đƣợc xem là cơ sở cho việc phục dựng các lễ tế Giao hiện nay. Mặc dù các kết quả nghiên cứu khác ở giai đoạn trƣớc 1975 chỉ mang tính chất hồi ký, mô tả, nhƣng cũng rất có giá trị tham khảo bởi phần lớn các tác giả là những trí thức, những nhân chứng lịch sử hoặc những ngƣời có nhiều cơ hội để tiếp cận và kiểm chứng thực tế về những nội dung liên quan đến đề tài. Nổi bật trong số đó có Những đại lễ và vũ khúc của vua chúa Việt Nam của Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề [37]. Có thể nói đây là tác phẩm tập hợp đƣợc khá đầy đủ những thông tin từ các nguồn tài liệu khác nhau về các đại lễ quan trọng nhất dƣới thời các triều đại quân chủ ở Việt Nam cùng những chi tiết về nghi thức, âm nhạc, kèm theo một số hình ảnh minh họa. Tuy nhiên, tác phẩm này chỉ đề cập đến việc lập đàn Xã Tắc (vào đời Trần) đúng một câu trong mục “Lễ Tịch điền qua các triều đại”, ngoài ra không có thông tin gì thêm về lễ tế đàn Xã Tắc dƣới thời Trần và các triều đại khác, kể cả triều Nguyễn. Thông tin về lễ tế miếu trong tác phẩm này cũng khá sơ sài và hoàn toàn không mô tả vị trí hay đặc điểm kiến trúc của các công trình. Các tác giả chỉ nhắc đến lễ tế kỵ Thái Miếu nhà Lê và so sánh với lễ tế kỵ Thái Miếu chúa Trịnh: lễ vật tế ở Thái Miếu vua Lê đơn giản trong khi lễ vật tế ở Thái Miếu chúa
  • 23. 12 Trịnh quá to tát. Riêng đối với lễ tế miếu thời Nguyễn, tác phẩm đƣa ra những thông tin khá chi tiết về lễ vật tế, trình tự tổ chức và các nghi thức, kèm theo nội dung nhạc tế nhƣng chỉ đề cập đến lễ tế kỵ ở Thế Miếu nhà Nguyễn. Trong tác phẩm này, các tác giả đã cho rằng lễ tế kỵ ở Thế Miếu nhà Nguyễn có múa nhạc, nhƣng theo quy chế triều Nguyễn, chỉ có lễ tế hƣởng (tế theo mùa) ở miếu mới có múa Bát dật. Bên cạnh đó, thông tin về các lễ tế đƣợc tổ chức sau khi triều Nguyễn đã cáo chung cũng rất cần thiết để giúp tác giả luận án hiểu thêm vai trò của các đàn miếu và những nghi thức tế đại tự triều Nguyễn đối với đời sống văn hóa tinh thần vùng Huế, đặc biệt là sau khi triều đại quân chủ đã chấm dứt. Các tác phẩm viết về hoạt động này có Lễ tế Nam Giao của Hồng Hoài Lê Văn Hoàng [48] hoăc Sự tích đàn Nam Giao và các cuộc lễ tế Giao tại Huế của Lê Văn Phƣớc [75] với nhiều thông tin chi tiết mô tả kiến trúc và cách thức tổ chức nghi lễ tế Giao. Bản thân tác giả Lê Văn Hoàng từng là Tùng sự tại Ngự tiền Văn phòng của chính phủ Bảo Đại từ năm 1932 đến năm 1945 với công việc chính là chuyên lo về nghi lễ. Vì thế, ông không chỉ có cơ hội lƣu giữ nhiều tài liệu mà còn đƣợc mắt thấy tai nghe, chứng kiến các lễ tế Giao trong những năm còn tại chức. Tác giả Lê Văn Phƣớc tuy không phải là một nhân chứng lịch sử của lễ tế Giao dƣới triều Nguyễn nhƣ ông Lê Văn Hoàng nhƣng lại là chứng nhân trƣớc sự suy tàn của di tích triều Nguyễn, trong đó có đàn Nam Giao, đồng thời cũng là ngƣời có may mắn đƣợc tiếp cận với các nhân chứng và với nhiều nguồn tƣ liệu phong phú từ những ngƣời trong hoàng tộc, những linh mục ở các dòng tu có nhiều tƣ liệu quý và các quản thủ bảo tàng. Tác giả này cũng đƣợc chứng kiến và mô tả trong luận văn khá chi tiết về lễ tế tại đàn Nam Giao năm 1972 do Nguyễn Phúc Tộc (đứng đầu là bà Từ Cung1 mẹ vua Bảo Đại) tổ chức với mục đích “tế cáo Trời Đất, cầu quốc thái dân an và tạ ơn Trời Đất về việc họ đã trùng tu được một phần Đại nội sau những đổ nát vì thời gian và vì biến cố Mậu Thân” [75; tr. 175]. Trong nội dung chính ở luận văn của Lê Văn Phƣớc, hầu hết những mô tả 1 Bà tên thật là Hoàng Thị Cúc, đƣợc phong là Đoan Huy Hoàng thái hậu dƣới thời vua Bảo Đại, dân gian còn gọi bà là “Đức Từ” hoặc “Đức Từ Cung”.
  • 24. 13 chi tiết về cách thức tổ chức nghi lễ, các loại lễ phẩm và đồ thờ cùng vị trí sắp xếp các án thờ, các nghi tiết về đạo ngự, tế phục và vũ nhạc đều đƣợc tổng hợp từ các nguồn sử liệu và mô tả trong Bulletin des Amis du Vieux Hué (1914 và 1936). Điểm giá trị của luận văn này là phần ghi chép của tác giả về đàn Nam Giao từ sau năm 1945, cung cấp những thông tin cụ thể về sự hủy hoại, xuống cấp của các công trình kiến trúc, vài hoạt động trùng tu và hiện trạng của công trình này vào thời điểm 1972. Quan trọng hơn, tác giả luận văn đã có những phân tích, nhận định bƣớc đầu về vai trò của lễ tế Giao trong việc cai trị của các vua nhà Nguyễn. Tác giả cũng đã phân kỳ hoạt động tế Giao dƣới triều Nguyễn làm hai giai đoạn: việc tế Giao dƣới các vua đầu triều Nguyễn (tính cho đến hết thời kỳ của vua Tự Đức) và việc tế Giao dƣới thời Pháp đô hộ. Từ những nhận xét về tình hình ở triều đình Huế trong bối cảnh chính trị sau thời Tự Đức, sự mất chủ quyền toàn diện của triều Nguyễn, số phận của nhà vua với thuyết Thiên mệnh và tầm quan trọng của lễ tế Giao, tác giả đã đi đến kết luận: “quan niệm Thiên mệnh không còn có chỗ đứng trong môi trường mà chính các vị vua cũng không thể định đoạt được số phận của mình” và “khi các vị vua đã đánh mất Thiên mệnh của mình, thì tế Giao chỉ còn là hình thức mà thôi” [75; tr. 162]. Từ đó, tác giả đi đến một nhận xét khác: “Người Pháp muốn lợi dụng lễ tế Giao như là một thứ lợi khí để giúp họ dễ dàng cai trị xứ sở nầy hơn” [75; tr. 164] và việc vua Thành Thái cho giảm bớt, chỉ cử hành lễ tế Giao 3 năm một lần là vì “vua Thành Thái không muốn cho người Pháp lợi dụng một cuộc lễ cổ truyền Việt Nam để làm lợi khí cho họ trong việc cai trị?” [75; tr. 164]. Vấn đề mà Lê Văn Phƣớc nêu trong luận văn cũng chính là vấn đề mà tác giả luận án cũng đề cập đến trong quá trình phân tích vai trò, ý nghĩa của các đàn miếu và nghi lễ đại tự (trong đó có đàn Nam Giao và lễ tế Giao) đối với triều Nguyễn. Tuy nhiên, cách đặt vấn đề của Lê Văn Phƣớc chƣa thật làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa việc tế Giao và chủ trƣơng của các vua triều Nguyễn, đặc biệt là các vua đầu triều, trong việc củng cố và khẳng định quyền lực cũng nhƣ tính chính thống của mình thông qua việc xây dựng đàn miếu và thực hiện các nghi lễ theo tƣ tƣởng Thiên mệnh một cách có chủ ý. Tác giả Lê Văn Phƣớc mới chỉ tập
  • 25. 14 trung phân tích mối quan hệ giữa nguồn gốc của lễ tế Giao (liên quan đến Nho giáo và tƣ tƣởng Thiên mệnh) và sự suy giảm vai trò của các vua cuối triều Nguyễn thời thuộc Pháp chứ chƣa có sự đánh giá tổng quan về mọi khía cạnh để cho thấy tính mục đích trong quá trình xây dựng và củng cố quyền lực một cách chủ động của các vua triều Nguyễn thông qua việc hoàn thiện các đàn miếu và nghi lễ đại tự. Mặt khác, tác giả Lê Văn Phƣớc đặc biệt ghi nhận sự ảnh hƣởng của tƣ tƣởng Nho giáo Trung Quốc dƣới thời Nguyễn nhìn từ hoạt động tế Giao nhƣng không nêu đƣợc sự tiếp thu tích cực, có chọn lọc của các vua Nguyễn. Điều này đã đƣợc tác giả luận án chú trọng phân tích và chứng minh trong nội dung luận án, từ đó tìm ra những đặc trƣng của triều đại này trong sự hình thành các đàn miếu đại tự ở Huế và thực hành nghi lễ. Ngoài ra còn có một số bài viết trên các tập san chuyên đề nhƣ Sử Địa (Sài Gòn), Đại học (Huế) và một số công trình của các tác giả nhƣ “Bàn về tế Giao” của tác giả Chƣơng Dân [26], “Mấy lời bàn về sự thờ Trời tế Giao ở nƣớc Nam ta” của tác giả Nguyễn Cƣ [25], “Trai Cung” của tác giả Từ Lâm [63], “Lƣợc khảo về tế Nam Giao” của tác giả Tiên Đàm [32], “Lễ tế Giao” của Bửu Kế [57]..v..v…Có thể thấy hầu hết các bài viết đều chỉ tập trung nói về đàn Nam Giao và lễ tế Giao chứ chƣa có công trình nào nghiên cứu riêng về các tông miếu triều Nguyễn hoặc đàn Xã Tắc. Mặt khác, những bài viết trên đây cũng chỉ cung cấp thông tin sơ lƣợc về đàn Nam Giao và lễ tế Giao, chƣa có những phân tích, đánh giá về vai trò và ý nghĩa của chúng đối với triều Nguyễn nhìn từ góc độ chính trị, xã hội và văn hóa. Tuy nhiên, các bài viết này cũng có một vài thông tin đáng chú ý ghi đƣợc vào thời điểm 1942 về Trai cung và những chứng tích còn sót lại nhƣ: dấu tích kiến trúc, thẻ bằng đá treo trên cây thông..v..v.. 1.1.2 Các công trình nghiên cứu từ năm 1975 đến nay Sau năm 1975- thời kỳ Việt Nam vừa thống nhất đất nƣớc, tình hình chính trị - xã hội còn chƣa ổn định, liên tục phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức. Đặc biệt là từ 1975-1995, Việt Nam trải qua nhiều giai đoạn: khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế, bƣớc đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội (1975-1986), bắt đầu thực hiện đổi mới (1986-1990) và tiếp tục đổi mới, đƣa đất nƣớc ra khỏi tình trạng
  • 26. 15 khủng hoảng kinh tế - xã hội (1991-1995). Trong bối cảnh ấy, việc nhìn nhận hoặc đánh giá về triều Nguyễn nói chung và các vấn đề văn hóa, xã hội dƣới triều Nguyễn cũng có những ảnh hƣởng nhất định. Căn cứ vào sự thay đổi về cơ bản trong cách nhìn nhận, đánh giá về triều Nguyễn sau thời kỳ đổi mới (1986), có thể tạm chia thời kỳ sau năm 1975 đến nay ra làm 2 giai đoạn. a. Giai đoạn từ năm 1975-1986 Ở giai đoạn này, mặc dù việc tế tự không bị chính thức cấm đoán, nhƣng với quan điểm coi triều Nguyễn là “thối nát”, “phản động” [76; tr. 31, 308, 311] và chủ trƣơng bài trừ mê tín dị đoan, nhiều hình thức sinh hoạt tín ngƣỡng bị đình trệ trong khoảng thời gian từ 1975-1985 mà "đỉnh cao là việc rỡ bỏ các am miếu thờ tự trong dân gian vùng Huế diễn ra vào năm 1985" [136; tr.236].Trƣớc tình hình đó, việc nghiên cứu về triều Nguyễn nói chung và về các đàn miếu hay nghi thức tế đại tự ở Huế giai đoạn này gần nhƣ không có gì tiến triển. b. Giai đoạn từ năm 1986 đến nay Đây là giai đoạn có nhiều chuyển biến lớn về mặt chủ trƣơng, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam, đặc biệt là trong lĩnh vực văn hóa. Điều này mở ra nhiều hƣớng phát triển cả về hoạt động thực tiễn lẫn hoạt động nghiên cứu, học thuật. Tháng 11 năm 1987, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết về đổi mới văn hóa, tuy nhiên, phải đến năm 1989 khi Bộ Văn hóa (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) ban hành Quy chế mở hội truyền thống, thiết lập một cơ sở pháp lý cho việc mở lại các lễ hội truyền thống, các lễ tế (nghi thức chủ yếu trong lễ hội) mới thực sự đƣợc phục hồi [15; tr.10-15] Năm 1990, việc làm vàng mã vốn bị cấm đoán đã đƣợc phục hồi trên cả nƣớc [24; tr.7]. Năm 1992, Việt Nam tham gia chƣơng trình Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa do Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc phát động từ năm 1986. Điều này phù hợp với chiến lƣợc phát triển văn hóa ở Việt Nam trong quá trình đổi mới, đem lại cơ hội cho việc bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống của dân tộc, khôi phục lại các nếp sống, phong tục lành mạnh truyền thống [122; tr.72-76]. Đồng thời,
  • 27. 16 nhiều chƣơng trình nghiên cứu, hội nghị, hội thảo đã đƣợc tổ chức nhằm đánh giá lại triều Nguyễn. Bắt đầu từ giai đoạn này, việc nghiên cứu về triều Nguyễn có phần đi vào chiều sâu nhƣng vẫn chƣa có một công trình đánh giá tổng thể về kiến trúc và nghi lễ tế đại tự của triều Nguyễn ở Huế. Có thể điểm lại một số kết quả nghiên cứu liên quan trực tiếp đến đề tài chủ yếu thuộc những nhóm tài liệu sau đây: * Nhóm công trình nghiên cứu về triều Nguyễn và di sản kiến trúc đàn miếu ở Huế Năm 1994, Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trƣờng đã chọn chủ đề Khảo cứu kinh tế và tổ chức bộ máy nhà nước triều Nguyễn, những vấn đề đặt ra trong thực tiễn đổi mới đất nước hiện nay làm đề tài khoa học độc lập cấp Nhà nƣớc (mã số KX-ĐL: 94-16), do Đỗ Bang làm chủ nhiệm đề tài đã đánh dấu sự vào cuộc chính thức về mặt Nhà nƣớc trong việc nghiên cứu khách quan và toàn diện hơn về triều Nguyễn [12]. Cùng chung mối quan tâm về triều Nguyễn giai đoạn này còn có nhiều nhà nghiên cứu với những công trình quy mô khác nhau, trong đó có thể kể đến: Tín ngưỡng dân gian Huế của Trần Đại Vinh năm 1995 [134], Kinh thành Huế của Phan Thuận An năm 1999 [1], Phú Xuân - Huế từ đô thị cổ đến hiện đại (1999), bao gồm nhiều bài viết của các tác giả do UBND thành phố Huế tập hợp [119], Những vấn đề lịch sử về triều đại cuối cùng ở Việt Nam của nhiều tác giả do Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế và Tạp chí Huế - Xưa & Nay xuất bản năm 2002 [73], Tuyển tập những bài nghiên cứu về triều Nguyễn của nhiều tác giả do Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trƣờng Thừa Thiên Huế phối hợp với Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế xuất bản năm 2002 [92]. Tuy nhiên, hầu hết các tài liệu này đều ít đề cập đến những đối tƣợng nghiên cứu của đề tài. Đáng lƣu ý có tác phẩm Dấu ấn Nguyễn trong văn hóa Phú Xuân của Phan Thanh Hải, xuất bản năm 2002 [43]. Đây là tập hợp nhiều bài khảo cứu về triều Nguyễn và văn hóa Huế, trong đó có những bài viết liên quan trực tiếp đến đề tài với nhiều thông tin có giá trị.Với kết quả khảo sát thực tế tại Trung Quốc, tác giả là ngƣời đầu tiên đƣa ra những nhận xét so sánh giữa đàn tế Trời thời Minh-Thanh ở Bắc Kinh và đàn tế của triều Nguyễn ở Huế. Theo tác giả, Thiên Đàn của Bắc Kinh nằm bên
  • 28. 17 trong kinh đô còn đàn Nam Giao của Huế nằm ở bên ngoài Kinh thành. Ở Bắc Kinh, Thái Miếu và đàn Xã Tắc nằm đối xứng với nhau ở bên trong Hoàng thành theo nguyên tắc “Tả tổ, hữu xã”. Còn ở Huế, tại vị trí tƣơng tự hoàn toàn là nơi thờ tổ, đàn Xã Tắc nằm ở bên ngoài Hoàng thành [43; tr. 343-344]. Tác giả mô tả Thiên Đàn Bắc Kinh - một trong 4 đàn tế (Thiên Đàn, Địa Đàn, Nhật Đàn, Nguyệt Đàn) thời Minh - Thanh ở Trung Quốc- đƣợc xây dựng ở phía đông nam, bên trong Kinh thành Bắc Kinh. Đàn này có hai phần Nội Đàn và Ngoại Đàn với 3 kiến trúc chính: điện Kỳ Niên (nơi các hoàng đế cúng thần ngũ cốc), điện Hoàng Khung (nơi đặt bài vị của Ngọc Hoàng thƣợng đế) và đàn Viên Khâu (nơi tổ chức lễ tế Trời của hoàng đế). Khu vực Trai cung của Thiên Đàn là một tổng thể kiến trúc khép kín gồm hơn 60 gian, gian chính giữa đặt bức tƣợng vua Càn Long. Có lẽ đây là công trình khảo cứu đầu tiên có sự so sánh giữa đàn tế Trời triều Nguyễn ở Huế và đàn tế Trời triều Minh-Thanh ở Bắc Kinh. Những thông tin mà tác giả cung cấp cho thấy đàn tế Trời của triều Minh-Thanh quy mô hơn đàn tế của triều Nguyễn ở Việt Nam rất nhiều. Dựa trên mô tả về đàn Nam Giao triều Nguyễn ở Huế với 3 tầng (một tầng tƣợng trƣng cho Trời, một tầng tƣợng trƣng cho Đất, một tầng tƣợng trƣng cho Con ngƣời), tác giả đã có lý khi cho rằng lối kiến trúc này “thể hiện mối quan hệ vừa có tính cách biệt tương đối, vừa thống nhất trong mối liên kết có tính tuyệt đối” [43; tr. 358]. Theo nhận xét của tác giả, ở Trung Quốc, tế Giao đƣợc tổ chức riêng rẽ, trong đó yếu tố Trời, Đất và các vị thần linh luôn đóng vai trò quan trọng và bao trùm lên tất cả: “Trên thực tế ở Trung Quốc, giai cấp thống trị luôn luôn tìm cách đẩy xa khoảng cách giữa thần linh và con người” [43; tr.358]. Liên quan đến việc quy hoạch kiến trúc và mối tƣơng quan giữa vị trí các công trình với những yếu tố tự nhiên mang ý nghĩa triết lý phong thủy, tác phẩm Kinh thành Huế của Phan Thuận An là một tác phẩm cung cấp những thông tin đầy đủ nhất về quá trình hình thành Kinh thành Huế. Tác giả nhận xét: “...Với cách đưa kiến trúc Kinh thành vào giữa các thực thể địa lý ở ngoại cảnh thiên nhiên.., chúng ta thấy việc quy hoạch và xây dựng công trình kiến trúc này đã và đang tiểm ẩn một nội dung triết lý thật sâu sắc” [1; tr. 123].
  • 29. 18 Trong bài khảo cứu của mình về “Tƣ tƣởng quy hoạch Kinh thành Huế dƣới triều Gia Long” trong Huế-triều Nguyễn, một cái nhìn (2004), tác giả Trần Đức Anh Sơn tiến thêm một bƣớc trong việc nghiên cứu về khía cạnh này và kết luận: “Việc quy hoạch và kiến thiết Kinh thành Huế dưới triều Gia Long là một sự kết hợp tài tình, khéo léo các yếu tố: lịch sử, Dịch lý và thuật phong thủy và tri thức khoa học...” [93; tr. 63]. Cùng chung mối quan tâm đến đặc điểm quy hoạch của các di tích triều Nguyễn ở Huế, tác giả Phan Thanh Hải cũng nhận định: “Ở Kinh đô Huế, ngoài trục (thần đạo) của kinh đô chạy theo hướng Tây Bắc-Đông Nam, bên ngoài Kinh thành còn có một trục chạy theo hướng Bắc-Nam, nối từ Kỳ Đài đến đàn Nam Giao. Chính trục thứ hai này cùng với dòng sông Hương đã tạo nên sự liên kết rất chặt chẽ, hài hòa giữa kinh đô với các công trình kiến trúc bên ngoài Kinh thành, nhất là miền lăng tẩm của hoàng gia ở phía Tây và Tây-Nam” [43; tr. 344]. Các kết quả nghiên cứu trên đây là một trong những cơ sở giúp tác giả luận án xem xét mối quan hệ giữa các đàn miếu đại tự triều Nguyễn với toàn bộ quần thể di tích cố đô Huế và đặc điểm của các đàn miếu đại tự nhìn từ ý nghĩa triết lý trong quy hoạch. Riêng bài viết “Quy hoạch khu di tích đàn Xã Tắc-thực trạng và giải pháp” của Nguyễn Việt Dũng [30] cung cấp thêm một số thông tin khá chi tiết về việc quy hoạch đàn Xã Tắc để trùng tu, phục hồi sau một thời gian dài bị xuống cấp nghiêm trọng. Bên cạnh đó còn có nhiều công trình nghiên cứu là những Luận văn, Luận án Tiến sĩ liên quan đến một số khía cạnh trong đối tƣợng nghiên cứu của đề tài. Nổi bật trong số đó có Luận án Tiến sĩ về Quan xưởng ở Kinh đô Huế từ 1802 đến 1884 của Nguyễn Văn Đăng năm 2002 [36] đem lại nhiều thông tin bổ ích về các cơ quan sản xuất, cung cấp các vật dụng của triều đình. Luận án Tiến sĩ về Vai trò của bộ Công trong việc xây dựng kinh đô Huế dưới triều Nguyễn (giai đoạn 1802-1884) của Phan Tiến Dũng năm 2005 [29] với những thông tin về việc xây dựng các công trình đàn miếu dƣới triều Nguyễn, cung cấp những kết quả thống kê khoa học về số lƣợng và hình thức các loại gạch, ngói xây dựng kiến trúc cung đình Nguyễn. Ngoài
  • 30. 19 ra còn có nhiều kết quả nghiên cứu đƣợc công bố tại các hội nghị, hội thảo khoa học bàn về triều Nguyễn và đƣợc in thành kỷ yếu. Đó là kỷ yếu của các Hội thảo về Những vấn đề văn hóa - xã hội thời Nguyễn (Viện Khoa học Xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh tổ chức, lần thứ nhất năm 1992, lần thứ hai năm 1995) [130]; [131], hội thảo khoa học quốc gia về Nghiên cứu và giảng dạy lịch sử thời Nguyễn ở đại học, cao đẳng sư phạm và phổ thông do trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội và Bộ Giáo dục Đào tạo tổ chức năm 2002 [14], Hội nghị chuyên gia Đánh giá quỹ kiến trúc đô thị Huế do UBND thành phố Huế tổ chức năm 2003 [120], Hội thảo khoa học về Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX do UBND tỉnh Thanh Hóa và Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam tổ chức năm 2008 [121], Hội thảo về Thuận Hóa-Phú Xuân Thừa Thiên Huế-700 năm hình thành và phát triển do Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Thừa Thiên Huế tổ chức năm 2010 [53], các Hội thảo Việt Nam học lần thứ nhất (1998), lần thứ hai (2004), lần thứ 3 (2008), lần thứ 4 (2012), Hội thảo Văn hóa Huế, đặc điểm lịch sử và vấn đề bảo tồn, phát triển do Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Thừa Thiên Huế tổ chức năm 2014 [54], Hội thảo Bảo tồn và phát huy giá trị hệ thống thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế do Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế tổ chức năm 2015 [111] cùng nhiều hội thảo, hội nghị chuyên đề khác ở cấp quốc gia và quốc tế trên nhiều lĩnh lực khác có liên quan ít nhiều. Hầu hết các hội thảo đều đề cập đến những mảng đề tài rộng và mang tính tổng quan nhiều hơn là đi vào chi tiết hoặc đề cập đến những trƣờng hợp cụ thể nhƣ đối tƣợng nghiên cứu của luận án. Đặc biệt, Hội thảo Bảo tồn và phát huy giá trị hệ thống thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế do Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế tổ chức đã công bố nhiều kết quả nghiên cứu có giá trị về những giá trị độc đáo và quý hiếm của hệ thống thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế. Đây cũng là những cứ liệu chân xác và nguyên gốc đặc biệt quý hiếm phản ánh tƣ tƣởng trị nƣớc an dân của các vua Nguyễn dựa trên nền tảng của Nho học, tinh thần tự tôn dân tộc hoặc vị thế cảnh quan đặc biệt của Kinh đô Huế.
  • 31. 20 Trong những công trình nghiên cứu của ngƣời nƣớc ngoài viết về Việt Nam, đặc biệt là về triều Nguyễn, tác giả Hoàng Lan Tƣờng là ngƣời đầu tiên đƣa ra cái nhìn so sánh giữa quy hoạch kiến trúc các miếu thờ hoàng gia triều Nguyễn và tông miếu triều Minh - Thanh Trung Quốc trong bài viết “Lƣợc khảo quy hoạch thành thị Huế, quốc đô Việt Nam thế kỷ XIX” năm 2003 [117]. Theo tác giả, Thái Miếu của Trung Quốc thời Minh-Thanh cũng đƣợc đặt vị trí ở phía Đông Nam Tử Cấm Thành theo nguyên tắc Tả tổ, hữu xã, hƣớng về phía Nam, là một cụm kiến trúc trong đó có 3 điện chính thờ các vị vua và hoàng hậu nhiều đời, cùng nhiều công trình phụ khác. Trong ba điện này, điện sau cùng là Triệu Miếu, thờ các vị cao tổ của triều đại. Từ những so sánh về vị trí của các công trình có cùng chức năng giữa hai kinh đô Huế và Bắc Kinh, ông đi đến nhận xét: “Hoàng thành Huế Việt Nam có cách phối trí đặc trưng, thể hiện việc coi trọng thờ cúng tổ tiên” [117; tr.54]. Đây là một trong những nhận xét khá hiếm hoi của ngƣời nƣớc ngoài đề cập trực tiếp đến nét đặc trƣng trong quy hoạch các miếu thờ tổ tiên của triều Nguyễn ở Huế. Nhận xét này của tác giả khá xác đáng, tuy nhiên vẫn chƣa lý giải đƣợc ý nghĩa của sự khác biệt này cũng nhƣ mối liên hệ về mặt tổng thể trong việc triều Nguyễn tiếp thu có chọn lọc những ảnh hƣởng của tƣ tƣởng Nho giáo Trung Quốc để xây dựng các công trình đàn miếu đại tự ở Huế. * Nhóm các công trình nghiên cứu về nguồn gốc tư tưởng và nghi lễ Về khía cạnh này, nhiều công trình khảo cứu công phu của các tác giả với những phân tích sâu về đời sống chính trị, kinh tế, xã hội Việt Nam, đặc biệt là vai trò của vua theo cách nhìn của Nho giáo và sự vận dụng tƣ tƣởng Nho giáo Trung Quốc vào Việt Nam dƣới triều Nguyễn một cách có chọn lọc cũng đƣợc tác giả luận án quan tâm tìm hiểu. Trong số các tác phẩm viết về Nho giáo và văn hóa Trung Quốc có Nho giáo của Trần Trọng Kim xuất bản năm 1992 [60], Kinh điển văn hóa 5000 năm Trung Hoa của Dƣơng Lực xuất bản năm 2002 [68], Tìm hiểu tư tưởng chính trị Nho giáo Việt Nam từ Lê Thánh Tông đến Minh Mệnh của Nguyễn Hoài Văn xuất bản năm 2002 [123], Nho giáo Trung Quốc của Nguyễn Tôn Nhan xuất bản năm 2005 [72]. Những công trình này đã cung cấp nhiều thông tin cơ bản cho việc đánh giá, so sánh và xác định những nét đặc trƣng của triều
  • 32. 21 Nguyễn trong quá trình tiếp thu và vận dụng tƣ tƣởng Nho giáo Trung Quốc vào việc xây dựng đàn miếu và tiến hành nghi lễ đại tự ở Huế. Trong số các nghi lễ đại tự, lễ tế miếu có nguồn gốc từ truyền thống thờ cúng tổ tiên của ngƣời Việt. Về vấn đề này có một số công trình nhƣ: Những khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt ở đồng bằng Bắc bộ hiện nay của Trần Đăng Sinh xuất bản năm 2002 [91], Một số phong tục nghi lễ dân gian truyền thống Việt Nam của Quảng Tuệ xuất bản năm năm 2002 [112], cùng các bài viết của nhiều tác giả trên các Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Nghiên cứu Lịch sử, Nghiên cứu Huế, Huế Xưa & Nay, Nghiên cứu và Phát triển, v.v.. đã giúp tác giả có thêm nhiều thông tin bổ ích về những khía cạnh liên quan đến đề tài nghiên cứu của luận án nhƣng vẫn chƣa xác định đƣợc truyền thống thờ cúng tổ tiên của ngƣời Việt ra đời từ khi nào. Một số tác phẩm không đề cập trực tiếp đến các đối tƣợng nghiên cứu của đề tài nhƣng giúp tác giả luận án hiểu thêm về ý nghĩa của những địa điểm xây dựng các đàn miếu nhìn từ khía cạnh phong thủy hoặc những bối cảnh kinh tế-xã hội của Việt Nam ở giai đoạn chính quyền quân chủ Nguyễn dần đánh mất quyền lực, chuyển tiếp sang chế độ thuộc địa. Kể từ sau năm 1986, vấn đề về triều Nguyễn đƣợc giới học thuật trong nƣớc quan tâm nhiều hơn, mở ra một giai đoạn mới trong lịch sử nghiên cứu về triều Nguyễn ở Việt Nam với những bài viết, công trình khảo cứu ở nhiều mức độ khác nhau, trong đó có nhiều bài viết cung cấp những thông tin khá chi tiết liên quan đến đối tƣợng nghiên cứu của đề tài. Ở một góc độ nghiên cứu về những tác động của bối cảnh chính trị, xã hội đối với văn hóa, tác giả Trần Đại Vinh trong công trình nghiên cứu về Tín ngưỡng dân gian Huế năm 1995 [134] xác nhận sự gián đoạn của hoạt động cúng tế trong dân gian thời kỳ 1985. Điều này khá hữu ích cho tác giả luận án, giúp thêm cơ sở cho việc tìm hiểu về sự tác động của những bối cảnh chính trị, xã hội khác nhau đối với các đối tƣợng nghiên cứu của đề tài. Liên quan đến hoạt động nghi lễ cung đình ở Huế còn có nhiều công trình nghiên cứu khác nhƣ: “Lễ hội ở Huế dƣới thời Nguyễn” của Lê Văn Thuyên năm
  • 33. 22 2003 [103], “Vài nét về lễ tết trong cung đình Huế” của Nguyễn Văn Đăng năm 2002 [35], “Một số lễ nghi liên quan đến nông nghiệp dƣới triều Nguyễn” của Phƣơng Hà năm 2012 [42], “Lễ hội cung đình Nguyễn-giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị phục vụ nhu cầu tâm linh của nhân dân và phát triển du lịch bền vững trong bối cảnh hiện nay ở tỉnh Thừa Thiên Huế” của Lê Thị An Hòa năm 2012 [47], “Phụng Tiên-điện thờ của hoàng tộc Nguyễn” của Thúy Vân-Tiến Đặng năm 2012 [127], “Các đàn tế thời Nguyễn ở Huế: đàn Xã Tắc, đàn Tiên Nông, đàn Sơn Xuyên” của Phan Thuận An năm 2013 [4], v..v..Phần lớn những bài viết này đều có liên quan ít nhiều đến đề tài luận án nhƣng không có sự đánh giá toàn diện về vai trò và ý nghĩa của hoạt động tế đại tự dƣới triều Nguyễn ở Huế. Trải qua thời gian, những công trình nghiên cứu về triều Nguyễn ngày càng dày dặn và có chiều sâu. Nhiều ấn phẩm đã tập hợp các bài viết, các công trình nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực và mang tính tổng kết với nhiều cách tiếp cận ở các góc độ khác nhau, thể hiện những nội dung phong phú và đa dạng về những vấn đề lịch sử, văn hóa, xã hội thời Nguyễn, trong đó có một vài bài liên quan đến các đối tƣợng nghiên cứu của luận án một cách riêng lẻ. Trong các bài khảo cứu của mình, tác giả Trần Đức Anh Sơn cung cấp thêm nhiều thông tin liên quan đến một số thay đổi ở đàn Nam Giao thời kỳ sau năm 1975 và hoạt động tu sửa đàn Nam Giao năm 1994. Riêng đối với nội dung liên quan đến miếu thờ các vua Nguyễn ở Huế, tác giả cho rằng việc sắp xếp các án thờ trong Thế Tổ Miếu cần có sự thay đổi nhỏ về vị trí các án thờ 3 vị vua Hàm Nghi, Thành Thái và Duy Tân để phù hợp với thế thứ trong phả hệ của dòng họ. Mặt khác, tác giả cũng cho rằng các vua Dục Đức, Hiệp Hòa, Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân là “phế đế” (vua bị phế truất) và “xuất đế” (vua bị đi đày) và nên không đƣợc thờ trong Thế Tổ Miếu [93; tr. 67]. Về điểm này, tác giả luận án sẽ có cách giải thích khác trong nội dung luận án. Về chủ đề "Lễ hội cung đình Huế và vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị để phục vụ nhân dân và phát triển du lịch Huế", tác giả Trần Đức Anh Sơn cũng cung cấp những thông tin một cách hệ thống về các hình thức lễ hội cung đình Huế và những đề xuất giải pháp cho việc phát triển du lịch dựa trên việc tổ chức, phục dựng một số lễ hội cung đình nhƣ lễ tế Giao, trình bày tại Hội thảo khoa học do Hội Văn
  • 34. 23 nghệ Dân gian Thừa Thiên Huế tổ chức ngày 26 tháng 6 năm 2011 tại Huế [94]. Tuy nhiên, tác giả cũng mới chỉ dừng lại ở những khái niệm về “lễ”, về “hội” và những nội dung bàn về hình thức tổ chức phục dựng chứ chƣa xem xét các đàn miếu và nghi lễ đại tự triều Nguyễn trong cái nhìn tổng thể về kiến trúc, hoạt động nghi lễ và những ý nghĩa văn hóa, xã hội liên quan. Trong số ít công trình nghiên cứu cụ thể về văn hóa cung đình Huế, tác phẩm Văn hóa Huế xưa-Đời sống văn hóa cung đình của Lê Nguyễn Lƣu năm 2006 [69] là công trình nghiên cứu khá toàn diện về đối tƣợng mà luận án đề cập với tiểu mục “Đàn miếu” mô tả lịch sử hình thành đàn Nam Giao, đàn Xã Tắc và các miếu thờ hoàng gia triều Nguyễn ở hoàng cung Huế. Nội dung liên quan đến nghi thức tế tự đƣợc tác giả đƣa vào chƣơng “Văn hóa phi vật thể cung đình Huế” với tiểu mục chung mô tả việc tổ chức tiến hành cuộc lễ bao gồm: Trình tự, Ca nhạc và Vũ khúc. Trong một số lễ tiết cụ thể đƣợc nêu làm ví dụ, lễ tế Giao đƣợc tác giả liệt vào hàng “Lễ thuộc triều đình” chứ không liệt kê theo cách phân loại của triều Nguyễn nhƣ: lễ đại tự, trung tự và quần tự; cũng không mô tả lễ tế Xã Tắc hoặc lễ tế miếu. Ngoài ra, bài viết “Thành phố ngày hội: Lễ Nam Giao” của A.De Rotalier đƣợc tác giả đƣa vào phần Phụ lục, cung cấp nhiều thông tin mô tả sinh động về một lễ tế Giao vào cuối thời Nguyễn. Tuy nhiên, điều đáng tiếc là tác giả không ghi rõ bài viết này đƣợc trích từ sách nào, dịch từ nguyên bản tiếng Pháp hay tiếng Anh, v..v..nên ngƣời đọc không có điều kiện kiểm chứng, và vì vậy ảnh hƣởng đến độ tin cậy và tính xác thực của tài liệu. Trong một số luận văn tại trƣờng Đại học Khoa học Huế có các Luận văn Thạc sĩ năm 2003 của các tác giả Đặng Đức Diệu Hạnh về Lễ tế Nam Giao tại Huế dưới triều Nguyễn [45], Lê Thị An Hòa với đề tài Một số lễ nghi liên quan đến nông nghiệp dưới triều Nguyễn tại kinh đô Huế năm 2003 [46] và gần đây là luận văn của tác giả Huỳnh Thị Anh Vân về Hệ thống miếu thờ vua Nguyễn và nghi lễ tế Miếu tại Huế (1802-1945) năm 2010 [125]. Những luận văn này đều đề cập đến các đàn miếu đại tự của triều Nguyễn (Giao, Miếu, Xã Tắc) và nghi thức tế lễ ở những mức độ khác nhau nhƣng ở phạm vi hẹp, riêng lẻ từng đối tƣợng liên quan đến đề tài chứ chƣa có cái nhìn tổng thể về các đàn miếu và nghi lễ đại tự triều Nguyễn nói chung cũng nhƣ
  • 35. 24 vai trò, ý nghĩa và tác động của chúng về mặt xã hội ở những hoàn cảnh khác nhau trong lịch sử. Về các tài liệu xuất bản ở nƣớc ngoài viết về Việt Nam hoặc đƣa ra cách nhìn nhận mối quan hệ giữa nghi lễ, chính trị và quyền lực có các tác phẩm tiêu biểu nhƣ: các bản nhật ký hành trình của các thƣơng nhân, các nhà truyền giáo nƣớc ngoài đã có dịp đến Việt Nam vào thế kỷ XIX và trƣớc đó, nhƣ Voyage from France to Cochin-China (Chuyến du hành từ Pháp đến xứ Đàng Trong) của thuyền trƣởng Le Rey (nguyên bản tiếng Anh năm 1821) [140], Xứ Đàng Trong, Lịch sử kinh tế-xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18 của Li Tana (1999) [95], Southeast Asia-an introduction history (Giới thiệu lịch sử Đông Nam Á) của Milton Osborne (nguyên bản tiếng Anh năm 1997) [138]... cho biết thêm những thông tin mang tính chất tham khảo trong quá trình tìm hiểu bối cảnh chính trị, xã hội đƣơng thời ở góc độ nhìn từ bên ngoài. Đặc biệt, trong tác phẩm Vietnam and the Chinese Model: A Comparative Study of Vietnamese and Chinese Government in the First Half of the Nineteenth Century (Việt Nam và mô hình của Trung Quốc: một nghiên cứu đối sánh về chính quyền Việt Nam và Trung Quốc vào nửa đầu thế kỷ 19, nguyên bản tiếng Anh năm 1971), tác giả Alexander Barton Woodside cho rằng ở Việt Nam, hình thức trung ƣơng tập quyền của tƣ tƣởng “Thiên tử” Trung Quốc đƣợc kết hợp với vai trò của thủ lĩnh làng xã trong truyền thống bản địa và vì thế, “Một vị vua Việt Nam thành công, như một thủ lĩnh tối cao của làng xã, có thể yêu cầu thần linh trợ giúp một cách oai phong hơn mà những vị vua Trung Quốc không thể làm được (A successful Vietnamese emperor, as a supreme communal chief, could command genuine popular support in a way more august Chinese emperors could not) [144, Lời nói đầu]. Trong luận án của mình, tác giả cũng chứng minh rằng tính chủ động trong việc vận dụng tƣ tƣởng Nho giáo của Trung Quốc dƣới thời Nguyễn đƣợc thể hiện rõ qua sự hình thành các đàn miếu đại tự ở Huế. Điều này đã làm nên những đặc trƣng của triều đại và góp phần khẳng định bản sắc văn hóa cung đình Huế. Tác phẩm Jongmyo Royal Ancestral Shrine-Jongmyo Royal Ancestral Rite (Tông miếu hoàng gia-Nghi lễ tế tông miếu) của The Preservation Society of the
  • 36. 25 Jongmyo Royal Ancestral Rite (Hội Bảo tồn Nghi lễ Tông miếu hoàng gia, Seoul, 2005) [141] là một tài liệu hữu ích khác đối với tác giả luận án ở góc độ đối chiếu trƣờng hợp tƣơng tự ở Hàn Quốc-một nƣớc đồng văn trong khu vực, góp phần hoàn thiện những nhận xét của tác giả luận án sau khi khảo sát thực địa đàn Nam Giao, đàn Xã Tắc triều Joseon tại Seoul. Việc nghiên cứu những tác phẩm này giúp tác giả có đƣợc những nhận xét tổng hợp và khách quan về Việt Nam thời cận đại và so sánh với hình thức tƣơng đồng ở một số nƣớc đồng văn trong khu vực. Đặc biệt, những vấn đề mang tính lý luận trong tác phẩm Ritual, Politics & Power (Nghi lễ, Chính trị & Quyền lực) của David I. Kertzer (nguyên bản tiếng Anh năm 1988, Anh) [135] giúp tác giả luận án củng cố thêm những nhận định của mình trong việc nghiên cứu đề tài luận án. Ngoài những tài liệu trong và ngoài nƣớc có liên quan đến đề tài nêu trên, chúng tôi cũng tiếp cận, khai thác một số tài liệu đăng tải trên internet. Có thể nói những tài liệu này hết sức phong phú, đa dạng và mức độ đề cập cũng rất khác nhau. Do đó chúng tôi sẽ phân loại và thẩm định kỹ lƣỡng trƣớc khi sử dụng để nghiên cứu đề tài. 1.2 Kết quả nghiên cứu và những vấn đề đặt ra Trƣớc hết, đó là những vấn đề mang tính lý luận trong việc nhìn nhận, đánh giá dựa trên các thông tin đƣợc tổng hợp từ các nguồn tƣ liệu và kết quả nghiên cứu liên ngành về lịch sử, khảo cổ, văn hóa... để đƣa ra những luận điểm đảm bảo tính khách quan về bản chất của vấn đề đang đƣợc tác giả nghiên cứu. Thứ hai, luận án cũng kế thừa đƣợc những thông tin đã đƣợc các tác giả đi trƣớc tập hợp, kết hợp với những kết quả nghiên cứu tƣ liệu và điền dã trong quá trình thực hiện đề tài để tổng hợp và so sánh, phân tích, đánh giá toàn diện cả ba loại hình đại tự triều Nguyễn (Giao, miếu, Xã Tắc) dƣới sự chi phối chung của hoàn cảnh chính trị-xã hội đƣơng thời và trong mối tƣơng quan với một số loại hình đồng đại ở một số nƣớc đồng văn trong khu vực nhƣ Trung Quốc, Hàn Quốc. Liên quan đến đề tài của luận án có nhiều nguồn tƣ liệu, thƣ tịch phong phú, đa dạng. Quan trọng nhất trong số này có nguồn sử liệu của triều Nguyễn với nhiều dạng: biên niên, hội điển, cƣơng mục, loại chí..., phản ánh quá trình hình thành và
  • 37. 26 phát triển, lịch sử xây dựng, tu bổ công trình đàn miếu đại tự, các điển chế về lễ nghi tế tự và quan niệm của các vua Nguyễn về nghi lễ. Đây là những cơ sở quan trọng nhất để tác giả luận án tìm hiểu, nghiên cứu trong quá trình thực hiện đề tài. Tuy nhiên, sử liệu của triều Nguyễn không để lại một bản vẽ kiến trúc nào của các cung điện hay đàn miếu, cũng không có những ghi chép chi tiết về kỹ thuật xây dựng công trình hay chế tạo vật dụng. Trong lễ nhạc cũng không để lại những ghi chép về việc chế tác nhạc cụ, âm luật hay kỹ thuật trình tấu các bài bản âm nhạc dùng trong nghi lễ cung đình. Điều này gây không ít khó khăn cho những ngƣời làm công tác nghiên cứu, bảo tồn di sản văn hóa vật thể và phi vật thể triều Nguyễn ở Huế. Bên cạnh khối sử liệu đồ sộ của triều Nguyễn, các công trình nghiên cứu đầu thế kỷ XX, tiêu biểu là bộ sách Bulletin des Amis du Vieux Hué (BAVH) của Hội Đô thành hiếu cổ cũng là nguồn tƣ liệu có giá trị với những mô tả chân thực về một số nghi lễ tế tự thời cuối Nguyễn ở Huế. Tuy những mô tả này chỉ tập trung vào lễ tế Giao nhƣng cũng góp phần làm rõ thông tin về đối tƣợng nghiên cứu của đề tài trong bối cảnh lịch sử, văn hóa, xã hội giai đoạn đầu thế kỷ XX. Ngoài ra, những ghi chép của một số tác giả khác nhƣ Hồng Hoài Lê Văn Hoàng hoặc Lê Văn Phƣớc cũng là những tƣ liệu có giá trị tham khảo, góp phần bổ khuyết một số thông tin về đàn miếu đại tự, đặc biệt là đàn Nam Giao giai đoạn sau khi triều Nguyễn chấm dứt. Trong số các nguồn tƣ liệu liên quan đến đề tài nghiên cứu của luận án, công trình nghiên cứu về các lễ tế miếu và tế Xã Tắc không nhiều. Vì thế, nội dung luận án dựa vào các bộ sử của triều Nguyễn là chủ yếu, kết hợp với kết quả nghiên cứu, điền dã của chính tác giả trong thời gian hơn 10 năm trở lại đây. Bên cạnh đó, tác giả cũng tham khảo các công trình nghiên cứu khác có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến đề tài nhƣ những bài viết của một số tác giả trên các tạp chí, các bài nghiên cứu công bố tại các Hội thảo, Hội nghị, các luận văn, luận án Tiến sĩ, các công trình nghiên cứu ở nƣớc ngoài viết về Việt Nam hoặc những tác phẩm mang tính lý luận... Tất cả đều đƣợc tác giả luận án kế thừa để tổng hợp, phân tích, tập trung làm rõ những vấn đề liên quan đến đàn miếu và nghi lễ đại tự triều Nguyễn ở Huế dƣới
  • 38. 27 sự chi phối chung của hoàn cảnh chính trị, xã hội đƣơng thời và trong mối tƣơng quan với một số loại hình đồng đại ở một số nƣớc đồng văn trong khu vực. Trong số các nghi lễ đại tự thời quân chủ, lễ tế Xã Tắc là hình thức nghi lễ đƣợc thực hiện sớm nhất (từ năm 1048, thời Lý) và thời điểm ra đời của đàn Xã Tắc trƣớc đàn Nam Giao cho thấy việc lập đàn Xã Tắc thể hiện mối quan hệ gắn bó thiêng liêng giữa sự sinh tồn của một quốc gia, dân tộc có nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Mục đích “bốn mùa cầu đảo cho mùa màng” [67; I, tr.102] là mục đích đầu tiên của nghi lễ này, hoàn toàn không vì mục đích chính trị. Tuy nhiên, thông tin về đàn Xã Tắc và lễ tế Xã Tắc không nhiều, những công trình nghiên cứu sâu về đề tài này, đặc biệt là về đàn Xã Tắc các triều đại trƣớc Nguyễn còn nhiều hạn chế. Trong bối cảnh Việt Nam là một nƣớc nông nghiệp lâu đời, câu hỏi đặt ra là đàn Xã Tắc và lễ tế Xã Tắc trong lịch sử Việt Nam, đặc biệt là trƣớc triều Nguyễn ra sao, hình thức và vai trò của đàn Xã Tắc cùng lễ tế Xã Tắc của các triều đại trƣớc Nguyễn đối với Nhà nƣớc và cƣ dân nông nghiệp ở Việt Nam buổi đƣơng thời nhƣ thế nào? Theo quan điểm của Nho giáo: “Vạn vật bản hồ thiên, nhân bản hồ tổ” (Muôn vật gốc ở Trời, ngƣời gốc ở tổ), nên có tác giả đã nhận xét: “Xem thế thì biết rằng người đời xưa lấy việc tế tự làm quan trọng lắm, mà trong sự tế tự của người Tàu có cái đặc sắc là việc thờ cúng tổ tiên.” [60; tr.41]. Điều này liên quan đến việc chứng minh rằng lễ tế miếu có nguồn gốc Nho giáo. Mặt khác, việc thờ cúng tổ tiên cũng luôn đƣợc coi là truyền thống văn hóa của ngƣời Việt. Vậy ngƣời Việt bắt đầu có tục thờ cúng tổ tiên từ khi nào? Cách thức thờ cúng ra sao? Có chứng cứ khảo cổ học nào cho thấy trƣớc khi Nho giáo thâm nhập vào Việt Nam (tức là khoảng cuối thế kỷ thứ II trở về trƣớc), ngƣời Việt cổ có thờ cúng tổ tiên không? Việc tìm đƣợc lời giải cho câu hỏi này sẽ góp thêm cơ sở xác đáng để giải thích vì sao việc tế tông miếu hoàng gia triều Nguyễn lại đƣợc đặc biệt chú trọng nhƣ vậy. Điều này cũng sẽ góp phần chứng minh thêm một biểu hiện đặc trƣng khác của triều Nguyễn trong quá trình khẳng định mình trƣớc sự tiếp thu có chọn lọc những tƣ tƣởng Nho giáo của các triều đại phƣơng Bắc.
  • 39. 28 CHƢƠNG 2 SỰ HÌNH THÀNH CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ 2.1 Khái niệm, nguồn gốc của đàn miếu đại tự và nghi lễ cúng tế 2.1.1 Về khái niệm Về mặt khái niệm, trƣớc hết, cách gọi “các đàn miếu và nghi lễ đại tự” ở đây chỉ dùng cho những đối tƣợng đƣợc nghiên cứu của luận án, bao gồm đàn Nam Giao, các miếu thờ của hoàng gia (tông/tôn miếu), đàn Xã Tắc và các nghi lễ liên quan vào thời Nguyễn (1802-1945) tại Huế. Theo quy định của triều Nguyễn, tế tự có 3 bậc: đại tự, trung tự và quần tự. Đại tự gồm tế Giao, tế các tông miếu, tế Xã Tắc; Trung tự gồm tế đế vƣơng các đời, tế tiên sƣ Khổng Tử, tế Tiên Nông; Quần tự gồm tế các thần gió, mƣa, Nam hải, Long vƣơng, thần lửa, thần súng ống, thần sông, thần núi, thần hồ, thần các đảo, thần coi việc thợ thuyền, Khải thánh, tổ nghề thuốc, vua nƣớc Chiêm Thành, vua nƣớc Chân Lạp, các công thần của triều đình và các vị thần thánh khác...[74, IV; tr. 222-223]. Theo cách sắp xếp này, quan trọng hàng đầu trong các lễ đại tự (tế lớn của nhà nƣớc) là lễ tế Giao, thứ hai là lễ tế tông miếu và thứ ba là tế Xã Tắc. Luận án sẽ lần lƣợt trình bày những nội dung liên quan đến các đàn miếu và nghi lễ theo thứ tự này. Đàn (壇) có nghĩa là “Đàn tế (thời xƣa)” (ví dụ nhƣ 天壇: Thiên đàn, Đàn tế Trời) [22; tr.140, 141]. Miếu (廟): Theo từ điển Từ Hải, “miếu” (廟) là nơi thờ cúng tổ tông, thần phật hoặc những vị hiền triết của đời trƣớc nhƣ tông miếu, Thổ địa miếu, Khổng miếu, Quan Đế miếu; hoặc miếu đƣờng, tiền điện của Vƣơng cung; hoặc là cách gọi thay thế của các vị hoàng đế đã mất [115; tr.960]. Mặt khác, theo cách phân biệt của chính các sử gia thời Nguyễn khi tham khảo điển lễ của Trung Quốc, công trình thực sự theo quy chế “miếu” phải là nơi có thờ “thần chủ”1 : “…tôn trọng là cách làm thần 1 “Thần chủ” (神主) tức là “Mộc chủ, lập ở tông miếu để thần (hồn) nƣơng tựa” [113, tr.210]. Thần chủ chỉ đƣợc làm khi ngƣời vừa mất mới an táng xong. Thần chủ làm bằng gỗ, kích thƣớc ấn định theo ngày, tháng, giờ, lấy đồng tiền nhà Chu
  • 40. 29 chủ. Khi mới chết làm nơi tôn trọng, để thần có chỗ nương tựa… Còn như thần vị, tức là bài vị, đời xưa kính viết danh hiệu, thờ ở đền riêng, điện riêng, đặt ra tế lễ, lòng kính cha mẹ, tôn tổ tiên đâu đâu cũng thấy, không như trong miếu chỉ thờ có một chủ thôi” [82, IX; tr.428]. Theo đó, “miếu” mà đề tài đề cập tới ở đây chính là những miếu thờ hoàng gia triều Nguyễn trong khu vực Hoàng thành Huế. Nói đúng hơn, theo quy chế “miếu thờ thần chủ” thì chỉ có Thế Tổ Miếu, nhƣng còn có một số công trình khác có cùng chức năng thờ cúng tổ tiên của triều Nguyễn nhƣng không có thần chủ vẫn đƣợc triều Nguyễn gọi là “miếu” (theo tên gọi chính thức trên hoành phi của công trình) nhƣ: Triệu Tổ Miếu, Thái Tổ Miếu, Hƣng Tổ Miếu. Những miếu này là nơi thờ các vị tổ tiên của triều Nguyễn - những ngƣời đƣợc vua Gia Long dâng tôn hiệu là “hoàng đế”, “hoàng hậu” ngay từ những năm đầu của triều đại. Đại tự (大祀): Về ngữ nghĩa, “đại tự” là lễ tế lớn. Theo cách định nghĩa của triều Nguyễn, “đại tự” còn mang tính đại diện của quốc gia, dân tộc (tế lớn của nhà nƣớc) [74, IV; tr. 252]. Nhƣ trên đã nói, các lễ đại tự của triều Nguyễn bao gồm các lễ tế Giao (còn gọi là tế Giao), tế tông miếu (của dòng họ nhà vua, còn gọi là tế miếu) và tế đàn Xã Tắc (còn gọi là tế Xã), đƣợc xếp lần lƣợt theo thứ tự mà triều Nguyễn đã quy định. 2.1.2 Về nguồn gốc Về nguồn gốc của tế Giao, Tiên Đàm giải thích: “Nam là phương Nam. Giao có nghĩa là tế Trời,.... Nam Giao là khoảng đất dùng để tế Trời về phương Nam. Ngày xưa, ở Trung Quốc vào ngày Đông chí tổ chức tế Trời về phía Nam kinh đô tại một cái gò tròn nên gọi là Nam Giao. Qua ngày Hạ chí thì lại tổ chức tế Đất ở một cái chầm hình vuông phía Bắc Kinh thành và gọi là Bắc Giao. Ở Trung Quốc, vốn từ đời Võ Hoài, Phục Hy1 có lễ Phong, nhà vua sai đắp đàn ở núi Thái Sơn để tế Trời. Đến nhà Chu2 tiết Đông Chí thì thờ Trời ở Nam làm 1 tấc. Mặt trƣớc là tấm gỗ dày 4 phân dọc phấn trắng để viết tự hiệu cùng phẩm tƣớc ngƣời mất, gọi là Phấn diện. Phần sau khắc lõm xuống rộng 10 phân, dài 60 phân, sâu 4 phân gọi là Hãm trung. Phần này viết tên húy, quán của ngƣời đã mất [84, V; tr. 129, phần chú thích] 1 Khoảng năm 2800 năm TCN. 2 Khoảng năm 1122 TCN-249 TCN.